GIÁO KHOA PHẬT HỌC
Nguyên tác Hán ngữ của PHƯƠNG LUÂN cư sĩ
Cư sĩ HẠNH CƠ dịch và biên soạn bổ túc
CẤP HAI
Bài 34
TÔNG THÀNH THẬT (phần 1)
I. SỰ TRUYỀN DỊCH BỘ LUẬN THÀNH THẬT
Khoảng 900 năm sau ngày Phật nhập diệt, tôn giả Ha Lê Bạt Ma(1) đã trước tác bộ luận Thành Thật. Chữ “thành” nghĩa là thành lập, chữ “thật” nghĩa là chân thật, “Thành Thật Luận” tức là bộ luận được biên soạn nhằm thành lập sự chân thật; có ý nói thành lập nghĩa lí chân thật trong tu-đa-la1. Ngài Cưu Ma La Thập2, vào khoảng niên hiệu Hoằng-thỉ thời Diêu-Tần3, đã dịch bộ luận này ra Hán văn; các đệ tử của ngài như Tăng Duệ(2) v.v… ra sức giảng thuyết xiển dương, lập thành tông Thành Thật(3). Tông này rất thịnh hành ở thời đại Lục-triều(4), đến thời đại nhà Đường, vì các tông phái đại thừa phát triển rực rỡ nên tông này dần bị mai một. Tuy vậy, đối với phép quán sát “ngã pháp hai không” của nó thì quả thật có nét độc đáo riêng, được coi là có cái nhìn sáng suốt nhất trong các giáo thuyết tiểu thừa.
II. ĐỀ RA PHÉP QUÁN “NGÃ PHÁP HAI KHÔNG”
Tông này lập nên hai phép quán để làm tỏ rõ hai pháp KHÔNG: Một, quán chiếu trong năm uẩn, không có gì là nhân ngã, không thấy có tướng chúng sinh, đó là phép quán “nhân không”. Hai, quán chiếu các pháp năm uẩn chỉ có giả danh, hoàn toàn không có thật thể, không thấy có tướng pháp, đó là phép quán “pháp không”. Nhân và pháp đã không thì vạn hữu trong thế gian tất qui về cảnh giới niết bàn tịch tịnh. Đây là giáo nghĩa thù thắng nhất trong giáo pháp tiểu thừa.
III. DÙNG PHÉP QUÁN HAI KHÔNG để ĐOẠN TRỪ HAI CHưỚNG
Hai chướng là phiền não chướng và sở tri chướng. Phiền não chướng là chỉ chung cho kiến tư hoặc; nếu kiến tư hoặc chưa phá trừ, hành giả phải bị chướng ngại trên đường tiến tới niết bàn, cho nên gọi là “phiền não chướng”. Sở tri chướng là sự chướng ngại ở đối cảnh được biết, hoặc làm cho tăng thượng(5); tức là đối với các pháp xuất và xuất thế gian, nếu hành giả cho chúng là thật có, rồi chấp trước thái quá, làm thành pháp trần, thì chướng ngại cho trí tuệ giác ngộ, cho nên gọi là “sở tri chướng”. Cách thức đối trị: 1) Dùng phép quán “nhân không” phá trừ phiền não chướng; bởi cái ngã chủ quan đã không thì hoặc nghiệp tự nó không thể tồn tại được. 2) Dùng phép quán “pháp không” phá trừ sở tri chướng; bởi tướng pháp đã không thì pháp chấp cũng theo đó mà tiêu diệt. Chỉ có “câu sinh(6) ngã chấp”4 thì phải hàng Bồ-tát ở địa thứ tám mới đoạn trừ được; còn “câu sinh pháp chấp”5 thì phải thành Phật mới đoạn trừ được. Thế mới biết, tông này tuy lạm bàn về hai không, thực ra chưa thể đoạn trừ hai chướng, chẳng qua là có kiến giải sâu sắc mà thôi.
IV. 84 PHÁP
Tông này đã tóm thâu vũ trụ vạn hữu trong 84 pháp, đối với luận Câu Xá có chút ít khác biệt, xin liệt kê trong đồ biểu sau đây (để khỏi rườm rà, những pháp cùng giống với luận Câu Xá thì không cần phải lặp lại; chỉ chú thích những pháp khác với luận Câu Xá mà thôi):
V. HAI PHÁP SẮC TÂM RỐT CỤC LÀ KHÔNG
Trong 84 pháp liệt kê ở trên, sắc pháp, nếu so sánh với các pháp kia thì thấy chúng như có thật, nhưng 5 căn, 5 trần và 4 đại đều là những pháp được kết tụ bởi các pháp vật chất cực vi13; nếu đem những vật chất cực vi đó chia chẻ đến vô hạn thì chúng sẽ thành không, đó là chủ trương của luận Thành Thật. Đứng trên phương diện triết lí mà nói, sắc pháp là do nghiệp lực phát sinh, nếu nghiệp tiêu diệt thì sắc cũng tự hủy hoại. Đứng trên phương diện khoa học mà nói, nguyên tử điện tử có thể biến hóa thành ánh sáng và năng lượng, mà tiêu mất, đó lại là một chứng minh để thấy sắc pháp cuối cùng cũng qui về không. Còn tâm pháp chẳng qua chỉ là một dòng trôi chảy của tư tưởng, tự nó vốn không thật, cho nên nó là không. Sự phán đoán của tông này đối với hai pháp sắc và tâm, không ngoài ý nghĩa KHÔNG, cho nên muốn ở ngay trong vạn pháp hư huyễn không chân thật mà tĩnh tâm lặng trí, để cầu giải thoát sinh tử, chứng quả niết bàn.
CHÚ THÍCH
1. Chữ “tu-đa-la” dịch nghĩa là khế kinh, nhưng thông thường nó được dùng để gọi chung cho Đại Tạng, còn chữ “kinh” thì dùng chỉ riêng cho các kinh. “Khế” tức là khế hợp, có hai nghĩa: một, khế lí, là trên thì phù hợp với diệu lí của chư Phật; hai, khế cơ, là dưới thì phù hợp với căn cơ của chúng sinh.
2. “Cưu Ma La Thập” dịch nghĩa là đồng thọ, nghĩa là ở tuổi nhi đồng mà có cái đức của người cao tuổi. Thân phụ ngài là người Thiên-trúc, cưới em gái của vua nước Qui-tư, sinh ra ngài. Ngài 7 tuổi xuất gia, 20 tuổi thọ giới, thông hiểu Phật pháp sâu rộng. Vua Phù Kiên nghe danh ngài, đã sai đại tướng Lữ Quang mang quân đánh nước Qui-tư, ý muốn bắt ngài đem về. Sau đó Phù Kiên bị Diêu Trành giết, Lữ Quang bèn hùng cứ Tây-lương. Quang chết, truyền ngôi cho Lữ Long. Lúc đó Diêu Trành cũng chết, con là Diêu Hưng kế vị, bèn đánh Qui-tư, thỉnh ngài về Trường-an, tôn làm quốc sư. Tại đây ngài chuyên việc dịch kinh, Phật giáo nhân đó mà thịnh hành ở Trung-quốc.
3. Diêu-Tần cũng gọi là Hậu-Tần, do Diêu Trành kiến lập; vì để phân biệt với Doanh-Tần, Phù-Tần, cho nên gọi là Diêu-Tần.
4. Cái tác dụng thấy nghe hiểu biết chấp trước vào cái thân do năm uẩn hòa hợp giả tạm làm thành, cho rằng trong cái thân đó có một chủ tể thường hằng, gọi đó là ngã chấp hay nhân chấp. Tính chấp trước này có hai loại: câu sinh và phân biệt. Tính chấp ngã vốn tự bẩm sinh, gọi là “câu sinh ngã chấp”; tính chấp ngã do từ thói quen phân biệt từ sau khi sinh ra đời mà có, gọi là “phân biệt ngã chấp”.
5. Từ vô thỉ huân tập thành tánh, đối với tất cả pháp thường vọng sinh chấp trước, gọi là “câu sinh pháp chấp”. Loại pháp chấp này không phải do tính phân biệt phát khởi, mà đã có cùng lúc với sinh mạng, cho nên gọi là “câu sinh pháp chấp”.
6. 5 trần sắc, thanh, hương, vị, xúc, cũng gọi là 5 cảnh.
7. Đất, nước, lửa, gió, 4 thứ này rất rộng lớn, có thể tạo ra tất cả các loại sắc pháp, cho nên gọi là “bốn đại”.
8. Tâm vương là tác dụng chính của tâm, khác với tác dụng phụ thuộc của tâm sở hữu pháp. Tâm vương biết rõ tổng quát các đối cảnh; tâm sở thì đối với các đối cảnh này phát sinh các tình cảm tham, sân v.v… Xin xem lại chú thích số 2, bài 32 ở trước.
9. Cựu dịch là tâm số, tân dịch là tâm sở, tức tiếng nói tắt của “tâm sở hữu pháp”, khác với “tâm vương”. Xin xem đồ biểu “75 pháp” trong bài 32 ở trước.
10. Ngoài 46 tâm sở ở tông Câu Xá, thêm 2 tâm sở hân (hớn hở) và yếm (nhàm chán); lại đem thụy miên chia làm hai tâm sở là thụy (ngủ) và miên (ngủ mê); cộng thành 49 tâm sở.
11. Phi sắc phi tâm pháp tức bất tương ưng hành pháp. Nhân vì chúng không tương ưng với cả sắc pháp lẫn tâm pháp, cho nên gọi là “phi sắc phi tâm pháp”. Xin xem tiết II của bài 32 ở trước.
12. Trong 14 pháp bất tương ưng hành ở luận Câu Xá, đem mạng căn và đồng phận hợp làm 1, rồi thêm 4 pháp lão, tử, phàm phu pháp và vô tác (cũng gọi là vô tác sắc, tức là vô biểu sắc); cộng lại là 17 pháp.
13. Đem vật chất chia chẻ đến khi nào không thể chia chẻ được nữa, gọi là “cực vi”.
PHỤ CHÚ
(01) Ha Lê Bạt Ma (Harivarman): cũng có tên gọi tắt là Bạt Ma, người Trung-Ấn, sống vào khoảng thế kỉ thứ 4 TL. Ngài là con của một gia đình đạo Bà-la-môn, tuổi nhỏ đã thông minh, lớn lên lại hay suy tư tìm hiểu. Ban đầu ngài học theo phái Số Luận, sau theo về Phật giáo, nghe vị học giả của Thuyết Nhất Thiết Hữu bộ là Cưu Ma La Đà (Kumaralabdha) giảng luận Phát Trí, thấy rằng ý chỉ của bộ luận đó thấp kém, không phải là nguyên ý của Phật, bèn lập chí học khắp Ba Tạng. Về sau lại chuyển sang Ma Ha Tăng Kì bộ, chuyên nghiên cứu đại thừa, thấy suốt chỗ u huyền, kê cứu trào lưu tư tưởng của khắp trăm nhà, bỏ những điều dị đoan, viết nên bộ luận Thành Thật (đó là thánh điển căn bản của tông Thành Thật). Sau đó ngài vâng mệnh vua nước Ma-kiệt-đà, đả phá các luận cứ sai lầm của chư vị luận sư ngoại đạo, được vua tôn phong làm quốc sư. Cuộc đời hành đạo của ngài từ sau đó, không thấy sách sử nào nói đến.
(02) Tăng Duệ (?-?): một vị cao tăng đời Đông-Tấn (317-420), quê ở huyện An-dương, tỉnh Hà-nam, năm sinh và năm mất đều không rõ. Từ thuở nhỏ ngài đã có chí xuất trần, 18 tuổi xuất gia, đến 20 tuổi đã học thông kinh luận. Ngài từng nghe đại sư Tăng Lãng giảng kinh Phóng Quang Bát Nhã, thường hỏi những chỗ nghi ngờ, rất được đại sư chú ý. Năm 24 tuổi ngài bắt đầu chu du các nơi để giảng thuyết, thính chúng đông đảo. Ngài vẫn ước ao tu tập thiền pháp, nhưng lúc đó chưa có ai truyền, cho nên năm 401, khi pháp sư Cưu Ma La Thập đến Trường-an (bấy giờ là kinh đô nước Hậu-Tần), ngài liền theo pháp sư học thiền. Pháp sư dịch bộ Thiền Pháp Yếu Giải, ngài y theo đó mà tu tập, ngày đêm chuyên cần, rất được vua Diêu Hưng của nhà Hậu-Tần kính ngưỡng. Ngài từng cùng với quí vị cao tăng khác như Đạo Sinh, Đạo Dung, Tăng Triệu tham dự đạo tràng dịch kinh của pháp sư La Thập; 4 vị này đã được người đương thời coi là 4 đệ tử lớn của pháp sư La Thập, và được xưng là 4 vị thánh tăng của đất Quantrung (Quan-trung tứ thánh). Sau khi pháp sư La Thập dịch bộ luận Thành Thật, chính ngài đã được ủy nhiệm giảng thuyết về bộ luận ấy, rất hợp với ý chỉ của pháp sư. Bình sinh ngài vẫn cầu nguyện được vãng sinh về Tịnh-độ. Trong mọi trường hợp đi đứng ngồi nằm, ngài không dám xoay lưng thẳng về phương Tây. Khi biết đã tới giờ phút lâm chung, ngài bèn cáo biệt cùng đồ chúng, rồi đi tắm rửa, vào phòng đốt hương lễ bái, ngồi nhìn về hướng Tây, chắp tay mà viên tịch; thế thọ 67 tuổi.
(03) Tông Thành Thật: là một trong 13 tông phái Phật giáo ở Trung-quốc, lấy bộ luận Thành Thật làm chỗ y cứ căn bản. Bộ luận Thành Thật do ngài Ha Lê Bạt Ma trước tác, cho nên ngài đã được tôn làm vị sáng tổ của tông này. Danh xưng “Thành Thật” có nghĩa là xác lập tính chân thật của giáo lí Tứ Đế. Bộ luận này thuyết minh rằng, tất cả vũ trụ vạn hữu đều là những hiện tượng giả hợp, không có thật thể, cuối cùng đều trở về không; phải quán chiếu như thế thì mới thể hội được chân lí Bốn Sự Thật (Tứ Đế), rồi dùng tám nguyên tắc hành động chân chính (bát chánh đạo) để tận diệt phiền não, chứng nhập cảnh giới niết bàn.
Ở Ấn-độ, vào thời đại của Ha Lê Bạt Ma, rất nhiều giáo thuyết về Tứ Đế nẩy sinh, cực kì lộn xộn, rất nhiều nhầm lẫn; bởi vậy, ngài đã soạn bộ luận Thành Thật để đả phá các dị luận, xác lập lại ý nghĩa chân thật của thánh đế. Bộ luận này, sau đó được truyền sang Trung-quốc, và đã được pháp sư Cưu Ma La Thập dịch ra Hán văn tại thành Trường-an vào năm 412. Sau khi dịch xong, các môn nhân của pháp sư cùng nhau góp sức xiển dương truyền bá: ngài Tăng Duệ thì giảng diễn; ngài Đàm Ảnh thì chỉnh lí các phẩm; các ngài Tăng Đạo, Đạo Lượng thì chú sớ; v.v… lập thành một tông phái riêng biệt.
Ngài Tăng Đạo (362-457) lúc ấy hoằng pháp ở phương Nam. Ngài trú tại chùa Đạo-công ở Sa-tích, rồi đến Kiến-khang, đều chuyên giảng thuyết luận Thành Thật, mở đầu cho phong trào nghiên cứu, học tập luận Thành Thật, lập thành hệ thống Nam-phương (khu vực Nam-triều) của tông Thành Thật. Trong khi đó, ở chùa Bạch-tháp tại Bành-thành, ngài Tăng Tung (?-?), cũng là môn nhân của pháp sư La Thập, cũng chuyên giảng thuyết luận Thành Thật, lập thành hệ thống Bắc-phương (khu vực Bắc-triều) của tông Thành Thật.
Tông này rất thịnh hành trong thời đại Nam-Bắc-triều (cũng tức là Lục-triều), và đã trở nên cực thịnh là vào thời đại nhà Lương (502-557) của Nam-triều. Sang thời đại nhà Tùy (581-618) vẫn có nhiều vị danh tăng tiếp nối hoằng dương. Đến nhà Đường (618-907), từ khi có các vị sư phê phán rằng, luận Thành Thật là một bộ luận tiểu thừa, thì số người nghiên cứu, học tập ngày càng giảm thiểu; cho đến khi các bộ luận đại thừa như Thập Địa Kinh Luận, Nhiếp Đại Thừa Luận, v.v… được lưu bố rộng rãi, thì tông Thành Thật thực sự bị suy tàn.
(04) Lục-triều: là tên của một thời kì lịch sử ở Trung-quốc, kéo dài 367 năm (222-589); đó là 6 vương triều kế tiếp nhau thống trị miền Hoa-nam, đều đóng đô tại Kiến-khang (tức Kiến-nghiệp, hoặc Namkinh): Ngô (thời Tam-quốc và Tây-Tấn, 222-265-316), Đông-Tấn (317-420), Lưu-Tống (420-479), NamTề (479-502), Lương (502- 557), và Trần (557-589). Như vậy, Lục-triều cũng gần như là Nam-triều, và cũng tức là thời đại Nam-Bắc-triều trong lịch sử Trung-quốc.
(05) Tăng thượng: là một thuật ngữ Phật học, có ý nghĩa là làm cho gia tăng, tiến thêm, lớn hơn, mạnh hơn, thậm chí làm cho quá độ. Những điều kiện giúp cho một hiện tượng (tức một pháp, như một vật, một việc thiện, một việc ác v.v…) phát sinh và tăng trưởng, gọi là “tăng thượng duyên”; sức tăng thượng ấy giúp cho một nhân đạt thành kết quả, gọi là “tăng thượng quả”. Tính kiêu mạn quá đáng gọi là “tăng thượng mạn”, như người học giáo lí, chưa hiểu tỏ tường mà tự khoe mình đã liễu ngộ, chưa chứng đắc mà tự xưng mình đã chứng quả này quả nọ, v.v… Do chuyên cần tu tập quán chiếu, dứt trừ phiền não vọng niệm mà đạt được tâm định, gọi là “tăng thượng tâm”.
(06) Câu sinh: Những pháp đồng sinh ra một lần, không tách rời được, gọi là “câu sinh”; như tất cả các pháp hữu vi (sắc, tâm, tâm sở, tâm bất tương ưng hành), một khi sinh khởi thì đồng thời bốn tướng sinh, trụ, dị, diệt cũng cùng sinh khởi, và không thể tách rời. Ở đây, “câu sinh” có nghĩa là sinh ra cùng lần với thân mạng, tức là tâm chấp ngã, tâm chấp pháp, nói chung các loại phiền não tham, sân, si, v.v… vốn có từ vô thỉ, nay cùng sinh đồng thời với thân mạng. Đối lại là “phân biệt sinh”, tức là những thói quen, những tà kiến mới có từ sau khi thân mạng sinh ra, hoặc do gia đình dạy dỗ, hoặc do tà sư ngoại đạo trao truyền, hoặc hấp thụ từ quần chúng trong xã hội.
BÀI TẬP
1) Bộ luận Thành Thật do ai trước tác? Hãy giải thích hai chữ “thành thật”.
2) Thế nào là “nhân không quán” và “pháp không quán”?
3) Thế nào là “phiền não chướng” và “sở tri chướng”? Đối trị hai thứ chướng ấy ra sao?
4) Sao gọi là “câu sinh pháp chấp”?
5) Thử dùng triết lí và khoa học chứng minh sắc pháp cuối cùng cũng qui về không.