GIÁO KHOA PHẬT HỌC
Nguyên tác Hán ngữ của PHƯƠNG LUÂN cư sĩ
Cư sĩ HẠNH CƠ dịch và biên soạn bổ túc

 

CẤP BA

Bài 26
TÔNG CHÂN NGÔN (phần 4)

XI. SÁU LOẠI VÔ ÚY (1)

Vô úy nghĩa là nghỉ ngơi yên ổn(2). Tất cả chúng sinh bị phiền não ràng buộc, không được tự tại, nếu chịu khó tu hành đạt đến chỗ này thì có thể phân biệt giải thoát(3), được nghỉ ngơi yên ổn, cho nên gọi là “vô úy”.

1. Thiện vô úy. Những người thiện ở thế gian giữ 5 giới, tu 10 điều lành, tâm được an lạc, xa lìa nỗi sợ sệt về ác đạo; đây gọi là “thiện vô úy”. Nếu ở tông Chân Ngôn, tu ba mật mà cúng dường Bổn Tôn1, có thể phát khởi tinh thần vô úy, gặp cảnh hiểm ác có thể hóa thành cảnh lành, được bình an. Địa vị này với địa vị kia bằng nhau.

2. Thân vô úy. Hành giả Nhị-thừa thành tựu các phép quán bất tịnh v.v…, đối với những ràng buộc nơi thân đều được giải thoát, không bị chướng ngại, lìa các nỗi sợ hãi; đây gọi là “thân vô úy”. Nếu ở tông Chân Ngôn, quán tưởng vị Bổn Tôn ở trên đàn, các tướng hiện tiền, uy quang sáng rõ; dần dần tiến đến chỗ nhiếp tướng mà hướng tới tánh, thoát li hình hài, có thể sinh khởi tinh thần vô úy, gặp cảnh đau khổ cũng có thể hóa giải, không còn đau khổ. Địa vị này với địa vị kia bằng nhau.

3. Vô ngã vô úy. Hành giả Nhị-thừa chứng nhập địa vị Kiến-đạo, quán chiếu tất cả pháp là vô ngã; ngã chấp đã trừ thì tâm sợ sệt cũng mất, đây gọi là “vô ngã vô úy”. Nếu ở tông Chân Ngôn, đối với hải hội2 Bổn Tôn, thấy rõ các tôn tượng đều thuộc duyên sinh, không khởi tâm ái trước, tức thân ta cũng là không. Địa vị này với địa vị kia bằng nhau.

4. Pháp vô úy. Hành giả Nhị-thừa nhập địa vị Vô-học, chứng lí thiên chân3, đối với cái thân do 5 uẩn hòa hợp làm thành, thấy rõ đó là không, không có gì làm cho sợ sệt, đây gọi là “pháp vô úy”. Nếu ở tông Chân Ngôn, khi thấy các tướng tam muội của Bổn Tôn ở trước mặt, biết đó như trăng trong nước, như ảnh trong gương, tuy rất trang nghiêm, kì thật đồng như ảo ảnh. Địa vị này với địa vị kia bằng nhau.

5. Pháp vô ngã vô úy. Bồ-tát đại thừa chứng pháp không chân như, biết rõ vạn pháp do nơi tâm, thấy các pháp là vô ngã, cho nên tâm được tự tại, đây gọi là “pháp vô ngã vô úy”. Nếu ở tông Chân Ngôn, biết tất cả cảnh giới đều là công đức của tự tâm, có được lực dụng tự tại. Địa vị này với địa vị kia bằng nhau.

6. Bình đẳng vô úy, cũng được gọi là “nhất thiết pháp tự tánh bình đẳng vô úy”. Phật biết tất cả pháp đều bình đẳng, chứng nhập pháp tánh, đối với gốc ngọn, năng sở hoàn toàn không phân biệt, đây gọi là “bình đẳng vô úy”. Nếu ở tông Chân Ngôn, khi tu tập thành tựu “tất địa” cao tột, đối với thân trí tuệ vô tướng và thân phước đức hữu tướng, đều có thể thọ dụng một cách tự tại. Địa vị này với địa vị kia bằng nhau – tức là thành Phật vậy.

XII. NĂM LOẠI PHÁP THÂN

Tất cả giáo tướng và sự tướng của tông Chân Ngôn đều căn cứ trên địa vị Phật mà kiến lập, đều tuyên nói quả vị của đức Như Lai, hiển bày cảnh giới chân thật của pháp thân Phật; và phân pháp thân ra làm năm loại. Năm loại pháp thân này đều được hàm nhiếp trong pháp thân lớn của đức Đại Nhật Như Lai. Tất cả chư Phật, Bồ-tát, trời rồng quỉ thần, hữu tình vô tình trong khắp mười phương ba đời, đều được hàm nhiếp trong pháp thân Tì Lô Giá Na, bao quát không cùng tận; ở đây xin chia ra trình bày như sau:

1. Tự tánh pháp thân. Chân thân của chư Phật, pháp tánh lí trí, tự nhiên đầy đủ, thường hằng khắp ba đời, chảy ra pháp ba mật để giáo hóa chúng Bồ-tát; có lí pháp thân(4) và trí pháp thân(5) khác nhau, đều gọi là “tự tánh pháp thân”.

2. Thọ dụng pháp thân. Thọ dụng thân của chư Phật có hai loại: 1) Tự thọ dụng thân, tức là cái thân tự thọ nhận pháp lạc, tương ứng với lí; 2) Tha thọ dụng thân, tức là cái thân vì hàng Bồ-tát ở cấp Mười-địa mà thị hiện; cả hai đều gọi là “thọ dụng pháp thân”.

3. Biến hóa pháp thân. Chư Phật vì hàng Bồ-tát Địa-tiền cùng Nhị-thừa, phàm phu mà thị hiện ứng thân4 một trượng sáu, nói pháp nội chứng, thuộc về những việc làm do biến hóa, cũng là tự nhiên mà có, gọi là “biến hóa pháp thân”.

4. Đẳng lưu pháp thân. Thân này là vì 9 pháp giới mà bình đẳng hiện ra, cho nên gọi là “đẳng lưu”; cho đến vì chúng sinh trong 6 đường mà thị hiện những thân hình đồng loại, tùy cơ hóa độ, gọi là “đẳng lưu pháp thân”.

5. Pháp giới thân. Pháp thân Như Lai đầy đủ thể tánh 6 đại, biến khắp pháp giới, gọi là “pháp giới thân”.

XIII. CHỮ “A” VỐN KHÔNG SINH

Về lí luận, tông Chân Ngôn cho rằng, hễ vật gì là căn bản đầu tiên, thì chắc chắn đó là pháp bất sinh; hễ là nhân sinh ra các pháp thì không phải là căn bản đầu tiên. Chữ “A” dịch nghĩa là “không”, lại có nghĩa là chân không, là mẹ của các âm, là chủng tử của tất cả chữ; cho nên, nó tức là lí thể của thật tướng bát nhã, không sinh không diệt. Cho nên kinh Kim Cương Đảnh nói: “Tự môn(6) A là tất cả pháp tịch tĩnh vậy.”

Giáo pháp của tông này khác hẳn với các tông khác. Chỗ thâm áo của nó bí mật khó hiểu, thuộc về cảnh giới nội chứng của Như Lai, cho nên hàng phàm phu không thể hiểu được. Vì không hiểu được cho nên gọi là “mật”. Vì vậy, cái ý nghĩa nó trình bày, không thể dùng giáo lí của Hiển giáo để suy diễn. Người học muốn hiểu biết cặn kẽ thì không thể không học Mật.

 

CHÚ THÍCH

1. Ở trong Chư Tôn, chọn một Tôn làm căn bản cho mình, gọi là “Bổn Tôn”. Trong Bí Tạng có ghi rằng: “Tâm ta xưa nay tự tánh thanh tịnh, là tối thắng tối tôn ở thế và xuất thế gian, gọi là Bổn Tôn; lại đã thành tựu cái lí xưa nay tự tánh thanh tịnh của Phật, đối với thế và xuất thế gian là tối thắng tôn quí, gọi là Bổn Tôn.”

2. Nhiều thánh chúng hội họp, phước đức sâu dầy, số nhiều như biển lớn, gọi là “hải hội”.

3. Tiu thừa nói về chân lí, chỉ thiên về một bên “không” mà thôi, cho nên gọi là “thiên chân – có nghĩa, cũng là chân nhưng có ý thiên lệch về một bên.

4. Xin xem lại chú thích số 5, bài 21, sách Sơ Cấp Phật Học Giáo Bản.

 

PHỤ CHÚ

1) Sáu loại vô úy: Theo tông Chân Ngôn, hành giả Mật giáo, khi phát bồ đề tâm thì có được 6 loại công đức, gọi đó là “6 loại vô úy”.

2) Nghỉ ngơi yên ổn: tức tiếng Hán-Việt là “an ẩn tô tức”, chỉ cho cảnh giới niết bàn tạm thời, hoặc giống như niết bàn của hàng Thanh-văn, Duyên-giác.

3) Phân biệt giải thoát: Chỉ có chư Phật mới đạt được cảnh giới giải thoát rốt ráo; tất cả còn lại, từ hàng Bồ-tát trở xuống, sự giải thoát chỉ đạt được từng phần (không rốt ráo) mà thôi, gọi là “phân biệt giải thoát”.

4) Lí pháp thân: Các pháp trong pháp giới, thể tánh tịch nhiên, thường trú bất biến, gọi là “lí pháp thân”.

5) Trí pháp thân: Tất cả các pháp biến khắp trong nhau, lí sâu xa đồng thể, gọi là “trí pháp thân”.

6) Tự môn: Lấy chữ làm cửa, do cửa này mà đi vào thì liễu ngộ được lí lẽ của các pháp, cho nên gọi là “tự môn”.

 

BÀI TẬP

1) Hãy trình bày ý nghĩa của từ “vô úy”.

2) Sáu loại vô úy là những gì?

3) Năm loại pháp thân là những gì?

4) Sao gọi là biến hóa pháp thân? Sao gọi là đẳng lưu pháp thân?

5) Hãy giải thích ý nghĩa của “pháp vô ngã vô úy”, và “chữ A vốn không sinh”.

6) Sao gọi là “hải hội”? Sao gọi là “thiên chân”?