GIÁO KHOA PHẬT HỌC
Nguyên tác Hán ngữ của PHƯƠNG LUÂN cư sĩ
Cư sĩ HẠNH CƠ dịch và biên soạn bổ túc

 

CẤP HAI

Bài 21
BUỔI ĐẦU PHẬT PHÁP TRUYỀN VÀO TRUNG QUỐC và CUỘC TỈ THÍ GIỮA THÍCH, ĐẠO

Theo sách sử ghi chép, Phật pháp được truyền vào Trung-quốc bắt đầu từ thời Hậu-Hán(1). Kì thực, Phật pháp đã có ở Trung-quốc từ trước thời Hậu-Hán. Sách Liệt Tử1(2) từng dẫn lời đức Khổng Tử nói: “Khâu này nghe nói ở phương Tây có bậc thánh nhân, không trị mà xã hội không loạn, không nói mà mọi người tin tưởng, không giáo hóa mà đạo được thi hành. Thật mênh mông, người dân không thể gọi là gì cho đúng được!” Như thế thì đức Khổng Tử đã biết có Phật.(3) Trong cuốn Kinh Lục của Chu Sĩ Hành(4) có chép: “Năm thứ 4 đời vua Tần(5), phái đoàn của sa môn Thất Lợi Phòng(6) ở Tây-vực(7), gồm 18 vị, lần đầu tiên mang kinh Phật đến Trung-hoa. Nhà vua thấy hành trạng kì lạ, bèn bắt hết giam vào ngục, sau đó thì đuổi ra khỏi nước.”(8) Như vậy, từ khi Thỉ hoàng chưa xưng đế, đã có sa môn và kinh Phật đến nước Tần. Thiên “Thích Lão Chí” trong sách Ngụy Thơ chép: “Trong niên hiệu Thú2(9) đời vua Vũ đế nhà Tiền-Hán(10), tướng quân Hoắc Khử Bệnh3 được tượng người vàng cao hơn trượng, do vua nước Hồn-da4(11) dâng hiến. Nhà vua cho đó là một vị thần, đem đặt trong cung Cam-tuyền, thắp hương lễ bái.” Như vậy, từ thời Hán Vũ đế, tượng Phật đã xuất hiện ở Trung-quốc. Những sự thật vừa thuật trên chỉ có thể coi là bước khởi đầu của Phật giáo đến Trungquốc, mà không thể nói đó là sự hoằng truyền chính thức.

Cho đến năm thứ 7 niên hiệu Vĩnh-bình thời Đông-Hán5, vua Minh đế(12) nằm mộng, thấy người vàng bay trước sân điện, trên đầu có vầng ánh sáng tròn. Sáng dậy, vua đem giấc mộng ấy hỏi quần thần, xem là điềm lành gì. Quan thái sử6 Phó Nghị(13) tâu rằng: “Thiên ‘Dị Kí’ trong Chu Thư(14) có chép: Thời vua Chiêu(15) có ánh sáng năm màu, chiếu thấu sao Thái-vi, thái sử Tô Do tâu rằng: Có bậc đại thánh nhân ra đời ở phương Tây, cho nên có điềm này; một ngàn năm sau thánh giáo sẽ truyền đến đây. Vua bèn sai khắc điều ấy vào đá để ghi nhớ. Giấc mộng của bệ hạ nhằm vào sự việc đó vậy.” Nghe vậy, đế bèn sai lang trung7 Thái Âm(16), bác sĩ8 Vương Tuân, trung lang tướng9 Tần Cảnh, v.v… cả thảy 18 người, đi sang cầu pháp. Đến nước Nhục-chi10, họ gặp hai vị tôn giả13 Nhiếp Ma Đằng11 và Trúc Pháp Lan12, dùng ngựa trắng chở kinh và tượng Phật, muốn sang Trungquốc hoằng pháp, bèn thỉnh cùng về. Năm thứ 10 niên hiệu Vĩnh-bình14 về đến Lạc-dương, tạm trú trong Hồng-lô tự15; sau đó mới xây Bạch-mã tự để cho hai ngài ở. Tại đây hai ngài đã dịch kinh Tứ Thập Nhị Chương16(17). Trung-quốc có chùa Phật và phiên dịch kinh Phật bắt đầu từ lúc đó.

Phật giáo mới truyền nhập, liền được triều đình sùng phụng và bảo hộ. Do đó, các vị đạo sĩ ở năm núi lớn (ngũ nhạc17) và các núi, sinh lòng đố kị, đã dâng biểu lên vua rằng: “Bệ hạ đã bỏ gốc theo ngọn, cầu giáo pháp với Phạm tăng(18), sợ rằng đó không phải là đạo lớn. Chúng thần ở năm núi lớn, hầu hết là những người thông minh trí tuệ, bác thông kinh điển, xin cùng với họ thí nghiệm. Tất cả chúng thần, về kinh học đều thông hiểu, về bùa chú huyền bí đều thấu suốt, nhai bùa nuốt khí, sai khiến quỉ thần, vào lửa không bị cháy, đi trên mặt nước không bị chìm. Nay chúng thần xin cùng với họ tỉ thí.” Vua chuẩn y lời tâu ấy; bèn chọn ngày, cho xây ba cái đài ở phía Nam chùa Bạch-mã, chia ra ba loại: kinh điển Phật giáo, kinh điển Đạo giáo và xá lợi18 Phật, xếp riêng biệt trên ba cái đài đó, rồi châm lửa đốt. Tức thì, kinh điển của Đạo giáo cháy hết thành tro; kinh điển của Phật giáo lửa đốt không cháy, lại còn phát ra ánh sáng rực rỡ. Hai tôn giả Nhiếp Ma Đằng và Trúc Pháp Lan liền phóng thân lên hư không, hiện đủ các phép thần biến, và nói kệ rằng: “Chồn không phải là sư tử19, ánh sáng đèn không phải là ánh sáng mặt trời mặt trăng, ao hồ không rộng lớn như biển cả, gò đống không có được cái vẻ vinh quang như núi non cao lớn, mây pháp phủ trùm thế giới, mưa pháp thấm nhuận chúng sinh, hiện bày việc ít có, hóa độ muôn loài khắp mọi nơi.”

Lúc bấy giờ, cả thảy 628 đạo sĩ đều chuyển ý, qui y theo Phật giáo. Nhóm người của quan tư không(19) Lưu Tuấn gồm 260 vị; sĩ thứ(20) ở kinh đô có 390 người; Âm phu nhân trong hậu cung của vua, Vương tiếp dư20(21) cùng các thể nữ gồm 190 người21, trông thấy các sự việc thần dị ấy, đều xin xuất gia(22), quyết tu hành chứng đạt thánh quả. Vua sắc dựng mười ngôi chùa – bảy ngôi ở ngoài thành dành cho chư tăng, và 3 ngôi ở trong thành dành cho chư ni cư trú. Do đó mà Ba Ngôi Báu đều đầy đủ, Phật pháp thịnh hành.

 

CHÚ THÍCH

1. Liệt Tử tức Liệt Ngự Khấu, người nước Trịnh, thời Chiến-quốc, tư tưởng có nguồn gốc từ Hoàng Đế, Lão Tử; trước tác sách Liệt Tử, nội dung phần nhiều là ngụ ngôn. Năm đầu niên hiệu Thiên-bảo đời Đường, sách này được vua ban hiệu là Xung Hư Chân Kinh. Trong niên hiệu Cảnh-đức đời Tống, nó lại được gọi là Xung Hư Chí Đức Chân Kinh; Trương Trạm đời Tống chú giải, cộng cả thảy là 8 quyển.

2. Thú là niên hiệu của vua Hán Vũ đế.

3. Hoắc Khử Bệnh, người đất Bình-dương đời Hán, trước sau cầm quân phạt Hung-nô 6 lần, có công lớn, được phong là Phiêu-kị tướng quân, tước Quán-quân hầu; lúc chết được vua ban tên thụy là Cảnhhoàn.

4. Hồn-da là tên một bộ lạc thuộc giống Hung-nô, khu vực của họ nay là vùng đất Cam-túc.

5. Đông-Hán cũng gọi là Hậu-Hán; Vĩnh-bình là niên hiệu của vua Minh đế.

6. Thái sử là tên gọi viên quan chuyên chép sử, kiêm nhiệm cả việc xem thiên văn, tinh tú, làm lịch.

7. Tên chức quan đời Hán.

8. Như trên.

9. Như trên.

10. “Nguyệt-đê” đọc là “Nhục-chi”, là tên quốc gia. Nước này chia ra có lớn và nhỏ: Nước Tiểu Nhụcchi ở tại vùng đất phía Tây tỉnh Cam-túc; nước Đại Nhục-chi trong thời kì hưng thịnh, lãnh thổ bao quát cả vùng lưu vực sông Hằng ở Ấn-độ, Kashmir, A-phú-hãn, luôn cả các vùng phía Tây và phía Đông của dãy núi Thông-lĩnh(23).

11. Xin xem chú thích số 7, bài 7.

12. Xin xem chú thích số 8, bài 7.

13. Cả phước đức và trí tuệ đều đáng tôn kính, cho nên gọi là “tôn giả”. Danh hiệu này vốn được dùng để tôn xưng bậc A-la-hán.

14. Năm thứ 10 niên hiệu Vĩnh-bình tức là năm 552 sau ngày Phật nhập diệt(24) nhằm năm 67 s. TL.

15. “Hồng-lô” là tên quan chức; ở vương triều nhà Chu thì gọi là “Hành-nhân”, là viên quan chưởng quản các công việc về ngoại giao, chư hầu vào triều chầu vua; ở vương triều nhà Tần thì gọi là “Điểnkhách”, trông coi công việc đối ngoại với chư hầu và các nước nhược tiểu về qui thuận triều đình; đại để giống như nhiệm vụ của bộ Ngoại-giao ngày nay. “Tự” là nơi làm việc của các quan. Phàm các cơ quan của triều đình đều gọi là “tự”; buổi đầu vốn chỉ được dùng để gọi các công sở, nhưng khi hai ngài Nhiếp Ma Đằng và Trúc Pháp Lan mới đến Trung-quốc, trước tiên cư ngụ tại Hồng-lô tự, sau đó lại cư trú tại Bạch-mã tự, từ đó, hễ những nơi tăng chúng cư trú thì đều gọi là “tự”, lâu ngày thành thói quen.

16. Xin xem chú thích số 9, bài 7.

17. Các vị đạo sĩ ở năm núi lớn (ngũ nhạc) gồm có: Chử Thiện Tín ở Nam-nhạc, Lưu Chánh Niệm ở Tâynhạc, Hằng Văn Độ ở Bắc-nhạc, Tiêu Đức Tâm ở Đông-nhạc, và Lữ Huệ Thông ở Trung-nhạc; cùng với các đạo sĩ ở các núi như Phí Phúc Tử v.v…, cả thảy 1.200 người.

18. Chư Phật, Bồ-tát, La-hán, cao tăng, sau khi viên tịch và hỏa thiêu, nhục thân thường ngưng kết thành xá lợi, giống như hạt ngọc, hoặc giống như hoa; màu trắng là xá lợi xương, màu đỏ là xá lợi máu thịt, màu đen là xá lợi tóc – hoặc cũng có loại xá lợi xen lẫn nhiều màu, là do các thứ tổng hợp mà thành. Đó là do sự huân tu giới định tuệ trong lúc sinh tiền mà được, là sự kết tụ của vô lượng công đức. Nếu đó là xá lợi của Phật thì không có bất cứ vật gì ở thế gian phá hủy được; từ Bồ-tát trở xuống, sức cứng rắn của xá lợi giảm bớt dần.

19. Sư tử là tên loài thú.

20. Hai chữ này đọc là “tiếp dư”. Chữ “tiếp” có nghĩa là nhận được ân sủng của bề trên; chữ “dư” là tiếng xưng hô đẹp đẽ. Tiếp dư là chức nữ quan trong cung nhà Hán, do vua Vũ đế chế định, địa vị bằng với thượng khanh, tước ngang với hầu.

21. Có thuyết nói rằng, nhóm Dương-thành hầu Lưu Thiện v.v… cả thảy 1.000 người, nhóm đạo sĩ ở bốn núi lớn gồm Lữ Huệ Thông v.v… cả thảy 628 người, Vương phu nhân cùng cung nữ cả thảy 230 người, đều xuất gia tu đạo; riêng Chử Thiện Tín và Phí Phúc Tử, vì quá hận mà chết, cho nên không được độ.

 

PHỤ CHÚ

1) Hậu-Hán: Vương triều Hán ở Trung-quốc kéo dài hơn 400 năm (từ năm 206 tr. TL đến năm 220 s. TL), được chia làm hai thời đại:

– Tiền-Hán (cũng gọi là Tây-Hán), từ năm 206 tr. TL đến năm 25 s. TL. (Xin xem phụ chú số 10 ở sau.)

– Hậu-Hán (cũng gọi là Đông-Hán), từ năm 25 đến năm 220 s. TL, kinh đô đặt tại Lạc-dương (tỉnh Hà-nam ngày nay). Thời đại này gồm 13 đời vua: Quang-vũ đế (Lưu Tú, 25-57), Minh đế (Lưu Trang, 5875), Chương đế (Lưu Huyên, 76-88), Hòa đế (Lưu Triệu, 89-105), Thương đế (Lưu Long, 106), An đế (Lưu Hộ, 107-125), Thuận đế (Lưu Bảo, 126-144), Xung đế (Lưu Bỉnh, 145), Chất đế (Lưu Toản, 146), Hoàn đế (Lưu Chí, 147-167), Linh đế (Lưu Hoằng, 168-189), Thiếu đế (Lưu Biện, 189), và Hiến đế (Lưu Hiệp, 189-220).

2) Liệt Tử: tức Liệt Ngự Khấu (450?-375 tr. TL), người nước Trịnh, là một nhà tư tưởng ở đầu thời Chiến-quốc (476-221 tr. TL). Tiểu sử của ông không thấy chép trong sách sử, nhưng căn cứ vào tác phẩm Liệt Tử của ông để lại, thì thấy rằng, tư tưởng của ông thuộc phái Hoàng Lão Đạo Gia, chủ trương trị thế bằng đạo vô vi, quay trở về buổi chất phác ban đầu, quí chuộng sự hư tĩnh. Ảnh hưởng của ông trong hệ tư tưởng và văn học Trung-quốc rất lớn, được liệt ngang hàng với Trang Chu (khoảng 369-286 tr. TL). Bởi vậy, người đời đã gọi Lão, Trang, Doãn, Liệt là “Đạo gia tứ tử” (bốn vị thầy của Đạo gia). Đời Đường ông rất được tôn trọng, được truy phong là Xung Hư chân nhân. Thiên “Nghệ Văn Chí” trong bộ Hán Thư có chép bản “Liệt Tử” của ông, nhưng đã mất. Sách Liệt Tử hiện còn ngày nay (cũng gọi là Liệt

Tử Xung Hư Chân Kinh, hay Xung Hư Chí Đức Chân Kinh, có phần chú thích của Trương Trạm đời Tống) bị ngờ là bản ngụy tạo bởi người sau, vào khoảng thời Ngụy – Tấn (220-316). Các sách Trang Tử, Chiến Quốc Sách, Hàn Phi Tử, Lã Thị Xuân Thu, đều có nhắc đến học thuyết của ông.

3) Lời của đức Khổng Tử được dẫn trên đây là rút từ trong sách Liệt Tử hiện đang lưu hành. Mà sách này, theo sự khảo cứu của các chuyên gia ngành Văn Triết Sử, thì nhiều chứng cớ cho thấy nó đã được ngụy tạo do người nào đó sống trong khoảng thời Ngụy – Tấn (xin xem lại phụ chú số 2 ở trên). Vậy lời của Khổng Tử chép trong sách ấy cũng chỉ là ngụy tạo mà thôi, không đáng tin cậy.

4) Chu Sĩ Hành (203-282): cũng gọi là Chu Tử Hành, người đất Dĩnh-xuyên (Hà-nam), nước Ngụy, thời Tam-quốc (220-280). Ngài là vị sư Trung-quốc đầu tiên xuất ngoại sang Tây-vực cầu pháp; và cũng có tài liệu còn nói rằng, ngài là người Hán đầu tiên đi xuất gia làm tăng (xin xem chương “Khái Thuật về Chùa Tháp Thời Bắc Triều”, cư sĩ Tuệ Khai dịch, trong Pháp Tạng Phật Giáo Việt Nam, tập 79, ấn hành năm 2546 Phật lịch). Ngài tinh cần nghiên cứu kinh điển, xem việc hoằng pháp chính là nhiệm vụ của mình. Năm 257 ngài giảng kinh Đạo Hạnh Bát Nhã tại Lạc-dương; và đó cũng là buổi giảng kinh thuyết pháp đầu tiên của người Trung-quốc trên đất nước mình. Kinh Đạo Hạnh Bát Nhã (Astasahasrikaprajnaparamita) do ngài Chi Lâu Ca Sấm (Locasema) dịch từ thời Hậu-Hán, nhưng vì văn ý khó hiểu, gây khó khăn cho người học, nên Chu Sĩ Hành quyết chí đi Tây-vực để tìm nguyên bản Phạn văn. Ngài xuất phát từ Trường-an vào năm 260, sang tới nước Vu-điền (Ku-stana, ở phía Tây Tân-cương, nay là Khotan). Ngài ở lại đây nhiều năm để nghiên cứu Phạn điển, và đã tìm được nguyên bản Phạn ngữ của kinh Phóng Quang Bát Nhã (Pancavimsatisahasrika-prajnaparamita). Ngài đã sao chép lại bản kinh này, nhưng chưa mang về Trung-quốc. Sau hơn 20 năm lưu trú tại Vu-điền, vào năm 282, ngài viên tịch tại đây, thế thọ 80 tuổi. Trước khi viên tịch, ngài đã sai đệ tử là Phất Như Đàn (người Vu-điền), mang cuốn kinh Phóng Quang Bát Nhã ấy đem về Trung-quốc – sau đó, năm 291, kinh ấy được ngài Vô La Xoa và cư sĩ Trúc Thúc Lan dịch ra Hán ngữ. Theo nhận xét của người Trung-quốc, việc đi Tây-vực cầu pháp của ngài, với bản kinh Phóng Quang Bát Nhã bằng Phạn ngữ do ngài sao chép và cho mang về nước, đã làm cho phong trào nghiên cứu và học tập kinh hệ Bát Nhã tại Trung-quốc trong triều đại Tây-Tấn (265-316), trở nên hưng thịnh. Ngoài ra, cuốn Hán Lục của ngài cũng được coi là tác phẩm thuộc loại “kinh lục” được soạn sớm nhất của Trung-quốc.

5) Vua Tần (Tần vương): “Tần vương” ở đây là chỉ cho vua Tần Thỉ hoàng (259-210 tr. TL) khi chưa xưng đế hiệu. Thời đại Xuân-Thu (770-476 tr. TL), nước Tàu có hơn trăm tiểu quốc (chư hầu của vương triều Chu), chiến tranh liên miên, nước mạnh thôn tính nước yếu, dần dần, sang đến thời đại Chiến-quốc (476-221 tr. TL) thì chỉ còn lại bảy nước: Yên, Tề, Hàn, Ngụy, Triệu, Sở, và Tần. Trong bảy nước này thì Tần là nước hùng mạnh hơn cả. Nhà Chu (1111-221 tr. TL) lúc đó tuy trên danh nghĩa vẫn là vương triều trung ương, bao trùm và sai khiến tất cả các nước chư hầu, nhưng thực tế thì đã suy yếu lắm; tuy trên lí thuyết là chấm dứt vào năm 221 tr. TL (năm Tần Thỉ hoàng xưng đế), nhưng sự thật thì vương triều này đã bị nước Tần tiêu diệt từ năm 256 tr. TL. Tần Thỉ hoàng tên là Chính, lên ngôi làm vua nước Tần (với tước hiệu là Tần vương) năm 247 tr. TL, gọi là Tần vương Chính; lúc đó mới 12 tuổi. Đến tuổi trưởng thành, với sự phò tá của nhiều người tài giỏi, ông đã cương quyết thực hiện chương trình thống nhất đất nước. Dần dần, trong hơn 10 năm, ông đã tiêu diệt hết sáu nước đối địch: Hàn (năm -230), Triệu (-228), Ngụy (-225), Sở (-223), Yên (-223), và Tề (-221).

Sau khi diệt hết sáu nước, thống nhất đất nước, ông tự coi mình có đức cao hơn cả Tam hoàng và Ngũ đế, nên tự xưng mình là “hoàng đế”, lấy hiệu là Thỉ hoàng đế (ý nói, đây là vị hoàng đế đầu tiên, rồi sẽ nối tiếp với Nhị thế hoàng đế, Tam thế hoàng đế, v.v… cho đến Vạn thế), thường gọi là Tần Thỉ hoàng; chính thức lên ngôi hoàng đế, sáng lập triều đại nhà Tần (năm 221 tr. TL). Dù ông có tham vọng như vậy, nhưng ông chỉ ở ngôi hoàng đế hơn 11 năm, đến năm 210 tr. TL thì mất, và triều đại nhà Tần cũng chỉ kéo dài thêm 4 năm nữa, đến năm 206 tr. TL thì bị nhà Hán tiêu diệt. – Niên đại “Năm thứ 4 đời vua Tần…” được tác giả nhắc tới trong bài học, tức là năm 244 tr. TL, Tần vương Chính được 16 tuổi, chưa thống nhất đất nước, và chưa xưng mình là hoàng đế.

6) Thất Lợi Phòng: Trong Lịch Đại Tam Bảo Kỉ (quyển 1) của Phí Trưởng Phòng (thế kỉ thứ 6, đời Tùy) thì nói tên vị này là Thích Lợi Phòng.

7) Tây-vực: Tây-vực là khu vực gồm nhiều nước ở miền lục địa phía Tây Trung-quốc thời xưa. Thực ra thì không có một phạm vi nhất định nào để chỉ cho khu vực này; lại nữa, số lượng và danh xưng của các quốc gia trong khu vực này cũng thay đổi hoài theo thời gian. Trong các sách sử Phật giáo, Tây-vực thường được dùng để chỉ cho các nước trong khu vực nằm trên con đường bộ thông thương giữa Bắc Ấnđộ và Trung-quốc, từ thế kỉ thứ 3 tr. TL, khi Phật giáo Ấn-độ hưng thịnh và bắt đầu truyền bá ra khỏi biên thùy Ấn-độ. Các nước đó, từ Tây sang Đông gồm có: Ca-thấp-di-la (Kashmir), Kế-tân (Dardisthan), Bàng-già-phổ (Punjab), Kiền-đà-la (gồm Pakistan và miền Đông Nam A-phú-hãn ngày nay), Khương-cư (Sagdiane), An-tức (Iran), Đại Nhục-chi (Kusana), Vu-điền (Khotan), Sa-xa (Yarkan), Qui-tư (Kucina), Sớ-lặc (Kashgar), Cao-xương (Turfan). Khoảng năm 260 tr. TL (dưới triều đại vua A Dục), do sự sai phái của vua A Dục, các phái đoàn cao tăng Ấn-độ đã đem Phật giáo truyền vào các nước vùng Tây-vực này, cho nên Phật giáo ở đây sớm phát triển. Buổi đầu Phật giáo được truyền vào Trung-quốc, cũng do các vị cao tăng ở Tây-vực trước nhất; sau đó, từ thời Đông-Tấn, mới có chư tăng đến từ Ấn-độ.

8) Sự việc này, sách Lịch Đại Tam Bảo Kỉ của Phí Trưởng Phòng đã chép như sau: “Vào thời Thỉ hoàng, có phái đoàn sa môn Thích Lợi Phòng, gồm 18 vị, đem kinh điển đến giáo hóa. Thỉ hoàng không nghe theo, bèn giam Lợi Phòng và tất cả phái đoàn vào ngục. Đêm ấy có người thân kim cương, cao trượng sáu, đến phá ngục giải thoát cho họ. Thỉ hoàng kinh sợ, bèn cúi đầu tạ tội.”

9) Thú: tức Nguyên-thú, niên hiệu thứ tư của vua Hán Vũ đế (140-87 tr. TL). Ông là vị vua đầu tiên dùng niên hiệu trong lịch sử Trung-quốc. Trong 53 năm trị vì, ông đã dùng đến 11 niên hiệu: Kiếnnguyên (144-135 tr. TL), Nguyên-quang (134-129), Nguyên-sóc (128-123), Nguyên-thú (122-117), Nguyên-đỉnh (116-111), Nguyên-phong (110-105), Thái-sơ (104-101), Thiên-hán (100-97), Thái-thỉ (9693), Chinh-hòa (92-89), và Hậu-nguyên (88-87 tr. TL).

10) Tiền-Hán (cũng gọi là Tây-Hán): Lưu Bang (259-195 tr. TL) diệt nhà Tần năm 206 tr. TL, nhưng còn phải tranh chiến với Sở Bá vương (Hạng Võ); đến năm 202 tr. TL, đánh bại Sở Bá vương, mới thực sự lên ngôi hoàng đế, tức Hán Cao-tổ, sáng lập vương triều Hán, kéo dài hơn 400 năm. Triều đại nhà Hán gồm hai thời đại: Tiền-Hán và Hậu-Hán. Nhà Tiền-Hán đóng đô tại Trường-an (nay là phố Tây-an, tỉnh Thiểm-tây), truyền nối được 14 đời vua: Cao-tổ (Lưu Bang, 206-195), Huệ đế (Lưu Doanh, (194188), Lữ hậu (vợ của Cao tổ, chuyên quyền, 187-180), Văn đế (Lưu Hằng, 179-158), Cảnh đế (Lưu Khải,

157-141), Vũ đế (Lưu Triệt, 140-87), Chiêu đế (Lưu Phất Lăng, 86-74), Tuyên đế (Lưu Tuân, 73-49), Nguyên đế (Lưu Thích, 48-33), Thành đế (Lưu Ngạo, 32-7), Ai đế (Lưu Hân, 6-1 tr. TL), Bình đế (Lưu Diễn, 1-5 s. TL), Nhụ Tử (Lưu Anh, 6-8). Tới đây thì nhà Tiền- Hán bị Vương Mãng cướp ngôi, lập ra triều đại Tân, làm vua được 14 năm (9-23). Năm 23 s. TL, dân quân khởi nghĩa kéo vào Trường-an giết Vương Mãng, rồi tôn người con của vua Cảnh đế là Lưu Huyền lên ngôi, nối tiếp nhà Tiền-Hán. Nhưng chỉ được hơn 2 năm (23-25) thì Lưu Huyền lại bị loạn quân giết. Lúc đó, Lưu Tú, cháu chín đời của vua Cao-tổ, dẹp tan loạn quân, lên ngôi hoàng đế, tức Quang Vũ đế, dời kinh đô về Lạc-dương, bắt đầu thời đại Hậu-Hán (tức Đông-Hán, 25-200 s. TL – xin xem lại phụ chú số 1 ở trên).

Vậy, thời đại Tiền-Hán kéo dài được 232 năm (206 tr. TL – 25 s. TL), nhưng nếu trừ đi thời gian 14 năm bị đứt đoạn bởi Vương Mãng chiếm ngôi lập triều đại Tân, thì còn lại 218 năm.

11) Hồn-da: Hai chữ này, chữ Hán viết là “côn tà”, nhưng theo Từ Nguyên thì phải đọc là “hồn da”. Hồn-da là tên một bộ lạc thuộc giống người Hung-nô vào triều đại nhà Hán. Tù trưởng của bộ lạc này được gọi là Hồn-da vương. Địa vức hoạt động của bộ lạc này nằm trong khu vực ngày nay là vùng trung bộ tỉnh Cam-túc. Năm 121 tr. TL, vua Hán Vũ đế (140-87 tr. TL) sai Phiêu-kị tướng quân Hoắc Khử Bệnh (140-117 tr. TL) đem quân đánh Hung-nô, sáu lần đều thắng trận, đẩy quân Hung-nô lùi xa lãnh thổ Hán triều. Thiền-vu (tức là vua) Hung-nô thấy bộ lạc Hồn-da liên tiếp bại trận, muốn giết Hồn-da vương. Thấy thế nguy, sang năm 120 tr. TL, Hồn-da vương bèn đem toàn bộ quân mã hơn bốn vạn người qui hàng nhà Hán. Từ đó, Hồn-da trở thành thuộc quốc của nhà Hán.

12) Minh đế: tức vua Hiếu-minh hoàng đế (58-75 s. TL), tên Lưu Trang, đặt niên hiệu là Vĩnh-bình, con của Hán Quang-vũ đế (25-57), thời đại Đông-Hán (25-220). Ông là một trong những bậc minh quân của vương triều Hán, cai trị bằng pháp lệnh nghiêm minh, tôn trọng Nho học. Theo Phật giáo Trung-quốc, chính trong thời gian ông tại vị, Phật giáo đã được chính thức truyền nhập Trung-quốc. Năm thứ 7 niên hiệu Vĩnh-bình (mà tác giả ghi trong bài học) là năm 64 s. TL.

13) Phó Nghị (?-90 s. TL): Tự là Vũ Trọng, quê ở Phù-phong (thuộc địa phận tỉnh Thiểm-tây ngày nay), thời đại Đông-Hán. Ông làm quan thái sử (chép sử, coi thiên văn, làm lịch) triều vua Minh đế (58-75). Dưới triều vua Chương đế (76-88), ông làm Lan-đài lệnh sử (như thư viện trưởng ngày nay), cùng với Ban Cố trông coi thư khố ở nội phủ. Năm đầu vua Hòa đế (89-105), ông được Xa-kị tướng quân Bảo Hiến mời làm Kí-thất lệnh sử (như chánh văn phòng ngày nay); năm sau Bảo Hiến được thăng làm đại tướng quân thì ông cũng được thăng làm tư mã (chức quan võ, thời Hán là thuộc cấp của đại tướng quân). Có sách viết tên ông là “Truyền Nghị”; có lẽ vì tự dạng chữ Hán của hai chữ “phó” và “truyền” trông giống nhau, nên đã đọc nhầm.

14) Chu Thư: Bộ sách Thượng Thư ghi chép các việc trải bốn vương triều Ngu (2255-2206 tr. TL), Hạ (2205-1767 tr. TL), Thương (1766-1123 tr. TL), và Chu (1122-247 tr. TL); trong đó, từ thiên “Thái Thệ” đến thiên “Tần Thệ”, gồm 32 thiên, ghi chép các việc của nước Chu và nước Tần, gọi là Chu Thư.

15) Chu Chiêu vương: Chiêu vương là vua thứ tư của vương triều Chu, ở ngôi 51 năm (1052-1002 tr. TL). Theo niên đại chính thức của đức Phật đã được Phật giáo thế giới thống nhất sử dụng, thì đức Phật Thích Ca Mâu Ni đản sinh vào năm 624 tr. TL, sau vua Chu Chiêu vương đến 4 thế kỉ.

16) Thái Âm: Các sách sử Việt-nam thường viết nhầm là “Thái Hâm”; có lẽ vì tự dạng chữ Hán của hai chữ “hâm” và “âm” trông giống nhau, nên đã đọc nhầm.

17) Xin xem phần “Phụ Lục” ở cuối sách.

18) Phạm tăng: Từ “Phạm tăng” ở đây là chỉ cho chư tăng từ Ấn-độ hoặc các nước vùng Tây-vực (Trung Á) tới Trung-quốc truyền giáo.

19) Tư không: tên chức quan. Thời nhà Chu, quan tư không quản nhiệm các công trình kiến trúc, chế tạo xe và khí giới, cùng các công trình thủ công nghệ. Thời Tây-Hán đặt chức đại tư không, có nhiệm vụ như bí thư trưởng của chính quyền trung ương. Thời Đông-Hán, tư không là một trong tam công: tư đồ nắm triều chính, tư mã nắm quân sự, và tư không có nhiệm vụ giám sát.

20) Sĩ thứ: nói chung dân chúng, từ trí thức đến bình dân.

21) Trong sách sử Việt-nam, từ “tiếp dư” thường bị đọc nhầm là “tiệp dư”, có lẽ vì tự dạng chữ Hán của hai chữ “tiếp” và “tiệp” trông giống nhau, nên đã đọc nhầm.

22) Sự việc có cả ngàn người Hán xuất gia trong thời Hán Minh đế mà tác giả nêu trong bài học, có lẽ không đúng; vì trong thời nhà Hán, người Trung-quốc chưa được phép xuất gia, như giáo sư Nguyễn Lang nói: “Như thế rõ ràng là trung tâm Bành-thành được thành lập sớm hơn trung tâm Lạc-dương: Chính ở đây vào năm 65 đã có một đoàn thể Phật giáo vừa tăng già vừa cư sĩ. Tăng già đây chắc chắn là những vị tăng già ngoại quốc, bởi lẽ người Trung-hoa trong đời Hán chưa được phép xuất gia. Cao Tăng Truyện trích lời sớ của Vương Độ đời Tấn: ‘Từ khi Phật giáo được du nhập chỉ nghe nói đến các sư Tâyvực được phép làm chùa thờ Phật, người Hán không được phép xuất gia.’ …” (Nguyễn Lang, Việt Nam Phật Giáo Sử Luận, q. 1, Lá Bối in lần thứ hai tại Paris, năm 1977, trang 23)

Lại nữa, gần đây, trong cuốn Lịch Sử Chùa Tháp Trung Quốc (tức PHÁP TẠNG PHẬT GIÁO VIỆT NAM tập 79, do cư sĩ Tuệ Khai trích dịch từ bộ Hiện Đại Phật Giáo Học Thuật Tòng San), bài “Khái Thuật về Chùa Tháp Thời Bắc Triều”, cũng nói: “Bởi nhân Chu Sĩ Hành, người Hán đầu tiên đi xuất gia vào đầu nhà Ngụy. Từ đó về sau người tin Phật càng nhiều, đồng thời họ y chiếu theo pháp đức Phật chế mà cạo đầu làm tăng…” (trang 73, ấn bản năm 2546 Phật lịch).

Thông-lĩnh: là dãy núi lớn nằm ở phía Tây Nam tỉnh Tân-cương, trên cao nguyên Pamir, cao trên dưới 8.000m, là cái trục chính của các mạch núi vùng Trung Á, chia vùng Tây-vực ra làm hai khu vực Đông và Tây. Từ xưa nó vẫn được gọi là cái nóc nhà của thế giới. Núi này, Nam tiếp giáp với Ấn-độ và núi Hi-mã-lạp, Đông tới Tân-cương, Bắc nối liền với dãy núi Thiên-sơn, Tây giáp A-phú-hãn. Theo Đại Đường Tây Vực Kí, vì thổ sản chính của núi này là cây hành, vả lại, toàn núi màu xanh biếc, cho nên được gọi tên là Thông-lĩnh. (Chữ Hán, “thông” nghĩa là cây hành, cũng có nghĩa là xanh biếc, xanh ngắt.)

Năm thứ 10 niên hiệu Vĩnh-bình (tức năm 67s. TL), theo tác giả, đó là năm 552 Phật lịch. Như vậy thì đức Phật nhập diệt vào năm 485 tr. TL. Các tài liệu về niên đại nhập diệt của đức Phật, xưa nhất là thuyết “Chúng thánh điểm kí” của hệ Nam truyền. Theo thuyết này, sau khi Phật nhập diệt, Luật tạng được kết tập. Vào cuối mùa an cư, ngày Rằm tháng Bảy, sau lễ tự tứ, tôn giả Ưu Ba Li đã dùng hương hoa cúng dường Luật tạng, rồi chấm xuống một chấm trước nơi đặt Luật tạng. Từ đó về sau, cứ mỗi năm, khi mùa an cư hoàn mãn, chư thánh tăng đều nối tiếp nhau chấm một chấm như vậy, để ghi số năm trôi qua sau khi Phật nhập diệt. Đến niên hiệu Vĩnh-minh thứ 8 đời Tề (tức năm 490 s. TL – thời đại Nam triều, Trung-quốc), cộng lại cả thảy được 975 điểm. Từ đó mà suy tính thì đức Phật nhập diệt 486 năm tr. TL.

Đây là tài liệu trọng yếu để nghiên cứu Phật lịch, nhưng không chắc chắn là chính xác. Ngày nay, Phật giáo Nam phương Thượng Tọa bộ thường dùng niên đại Phật nhập diệt là 543 hoặc 544 năm tr. TL. Từ năm 1950, các nước Phật giáo trên thế giới đều thống nhất công nhận niên đại Phật nhập diệt là năm 544 tr. TL, và lấy năm đó làm năm thứ nhất Phật lịch. Theo đó, một cách chính thức, năm nay, 2004 TL, là năm 2548 Phật lịch (kể từ sau ngày Phật Đản, 12.6.2004).

 

BÀI TẬP

– Hãy nêu ra ba chứng cớ để chứng minh rằng, Phật giáo đã vào đến Trungquốc từ trước đời vua Minh đế thời Đông-Hán.

– Hãy trình bày nguyên nhân khiến vua Minh đế thời Đông- Hán sai sứ sang Tây-vực cầu Phật pháp, cùng việc hai vị tôn giả Ma Đằng và Trúc Pháp Lan đến Trung-quốc.

– Ngôi chùa Phật đầu tiên ở Trung-quốc là chùa nào? Cuốn kinh Phật được dịch ra Hán ngữ đầu tiên tại Trung-quốc là kinh nào? Vị tì kheo ni đầu tiên của Trung-quốc là ai?

– Hai tôn giáo Thích và Đạo đã tỉ thí như thế nào? Kết quả ra sao? 5) Xá lợi là vật gì? Do đâu mà có?

 

Tổng Hợp Yếu Chỉ Các Bài 19, 20 và 21

1. Đức Phật nói giáo lí tiểu thừa trong 12 năm, nói giáo lí đại thừa trong 37 năm, cộng cả thảy là 49 năm. Trong thời gian đó, các pháp môn từ cạn đến sâu, từ ngọn tới gốc, từ quyền đến thật(1), từ phương tiện đến cứu cánh, thứ tự được đức Phật trình bày cực kì hợp lí. Người đời sau học Phật pháp, nếu tinh lực dồi dào, tốt nhất hãy noi theo trình tự ấy mà tu học, không nên chấp nê nhất định vào một giáo thuyết này mà bỏ đi những giáo thuyết khác; tại vì, hễ có bắt đầu thì phải có kết thúc, có nhỏ thì phải có lớn, thế mới là giáo pháp hoàn bị. Cái kia và cái này, như một bộ máy toàn vẹn, hễ tách rời ra thì chỉ là một đống đồ vụn vặt. Người học Phật thông minh là người biết tổng hợp toàn bộ giáo pháp lại để quán sát, có như thế mới thấy rõ được cái lẽ thật của sự thiết lập giáo pháp vậy.

2. Đức Phật tuy đản sinh ở Ấn-độ, nhưng giáo pháp của Ngài thì không phải là của riêng của Ấn-độ; do vậy mà nó đã không trở thành một thứ của báu riêng tư, mà đó là loại giáo pháp “vô ngã”(2), giáo pháp của toàn thể nhân loại. Chúng ta chỉ cần xét cái tình hình nó được đem đi gieo trồng ở nước ngoài qua hai con đường Nam truyền và Bắc truyền thì tức khắc thấy được cái “thế giới tánh” của nó. May mắn làm sao, đã có các cuộc di thực này! Vì nhờ thế mới có được cảnh phồn vinh ngày hôm nay; nếu không thì nó đã bị tiêu diệt ngay tại bản địa Ấn-độ từ lâu rồi! Cho nên, giấc mộng “người vàng” của vua Minh đế, Nhiếp Ma Đằng và Trúc Pháp Lan dắt ngựa trắng, Bồ Đề Đạt Ma đến Đông-độ, Huyền Trang sang Tây-trúc, đều là những biến cố cực kì quan trọng. Tiền nhân hậu quả, dấu vết không rõ ràng, thật khó nhọc cho những ai quan tâm đến! Hầu như mọi việc đều do tiền định, không có gì là ngẫu nhiên. Cho đến hôm nay, hai con mắt của chúng ta còn xem được kinh điển chưa bị hủy, hai tai của chúng ta vẫn còn nghe được giáo pháp chưa bị diệt, đó là một chút nhân duyên không biết đã tu đến mấy đời mới được; nhưng nếu nghe mà không tu hành, thì đáng tiếc biết chừng nào!

3. Cuộc tranh chấp giữa KHÔNG và CÓ, nguyên lai đã lâu. Khởi đầu là tiểu thừa chấp “có”, sau đó, hai ngài Long Thọ và Đề Bà đưa ra giáo nghĩa “rốt ráo không” để đả phá; rồi các học giả đời sau lại chấp “không”, cho nên hai ngài Vô Trước và Thế Thân lại phải nêu lên giáo nghĩa “có như huyễn” để đả phá. Quí ngài dù rằng nói KHÔNG hay nói CÓ, cũng đều nhằm đối trị cái bệnh “chấp pháp”; nhưng người sau đã không lĩnh hội được cái thâm ý ấy, thành ra, mỗi người cứ bám chắc vào một giáo nghĩa, rồi công kích đả phá nhau. Kì thật, nói không cũng không đúng, mà nói cũng không đúng, mà chỉ có THẬT TƯỚNG TRUNG ĐẠO, tức là không không cũng không có, cũng không mà cũng có. Nếu chỉ thấy ở một đầu thì đó là Từ Lục mang bảng(3), cố chấp để công kích người, quả là tội lỗi! Người có chí tu học, nên ở giữa không và có mà tìm cho ra một sự thật, phải tự mình thấy rõ được một điều: “Nói sự vật là không lại chẳng phải là không, nói sự vật là có lại chẳng phải là có”; như thế mới coi là đại cục an định, nếu không thì trọn đời chỉ mò mẫm tới lui trong cái vòng đen tối, làm gì có được chút ánh sáng rọi vào.

4. Lão Tử và Trang Tử mới đúng là những vị Đạo gia(4) chân chính. Đến thời Đông-Hán, Trương Đạo Lăng(5) đề xướng các thuật luyện đơn, bùa chú, đã bước vào chỗ quái dị, đánh mất cái tông chỉ vô vi thanh tịnh, khiến cho những vị thức giả bỏ đi, Đạo giáo(6) do đó mà tiêu vong. Phật giáo truyền vào Tây-tạng cũng trọng chú thuật(7), thích hợp với hạng người hèn kém, trôi theo dòng yêu vọng, mất đi cái tông chỉ giới, định và tịch diệt, những bậc chân tu không chấp nhận; đó là lí do đã làm cho phái Lạt-ma Hồng giáo(8) bị suy đồi. Từ đó có thể biết, tu đạo quí ở sự định tĩnh, thảng hoặc có pháp thuật, nếu không phải ở trường hợp bất đắc dĩ, quyết không phô diễn thần thông kì tích; vì vậy mà trong bài kệ của ngài Nhiếp Ma Đằng mới có câu: “Hiển lộ thần thông việc ít có.” Về sau, lúc thiền sư Hoàng Bá(9) đi tham học, thấy một vị tăng đi trên mặt nước như trên mặt đất, liền quát to: “Chỉ biết có mình!”(10) Vị tăng kia lại khen ngợi Hoàng Bá là người có căn khí đại thừa, mình không sánh kịp. Thế mới biết, điều quí trọng trong giáo pháp của chúng ta chính là khí thức, chứ không phải thần thông. Người tu học khi mới vào cửa Phật, nên hướng đến chỗ bình dị mà gần chân lí, gắng công nghiên cứu, học hỏi và tu tập, thì càng ngày sẽ càng gần với đạo; nếu tham cầu những việc thần dị, tức dễ rơi vào cảnh giới của yêu ma. Xin hãy thận trọng!

5. Tăng và ni cùng ở chung chùa, đương nhiên là không thể được. Chúng ta hãy trông vào việc vua Hán Minh đế cấp tốc xây mười ngôi chùa, bảy chùa ở ngoài thành dành cho chư tăng cư trú, ba chùa ở trong thành dành cho chư ni cư trú, thì biết rằng, từ lúc Trung-quốc xây cất chùa lần đầu tiên, tăng và ni đã cư trú cách biệt. Nói chung, từ trước ở Trung-quốc đại lục, trong chùa tăng không cho người phái nữ cư ngụ, trong chùa ni không cho người phái nam cư ngụ; mà ngày nay thì nam nữ ở chung lẫn lộn, hoàn toàn không còn thể thống, thì Phật pháp làm sao mà không suy đồi! Nếu muốn chỉnh đốn Phật giáo trở lại, phải từ sự việc này mà khởi đầu.

6. Khi hai vị tôn giả Nhiếp Ma Đằng và Trúc Pháp Lan đến Trung-quốc, liền được triều đình dùng hậu lễ ưu đãi. Đồ chúng Đạo giáo nhân đó đã dâng biểu lên vua, trong tờ biểu họ đã tự khoe bản lĩnh, như có thể “nhai bùa nuốt khí, sai khiến quỉ thần, vào lửa không bị đốt cháy, đi trên mặt nước không bị chìm”! Họ đâu có biết rằng, giả sử những thứ pháp thuật kia là thật có đi nữa, nhưng cứ đem cái nhãn quan của Phật pháp mà nhìn, những thứ đó không thể nào giúp cho hiểu nổi hai không ngã và pháp, không tu tập được hai nghiệp định và tuệ; họ công nhận ngoài tâm có pháp, và như thế là trái ngược với cái tông chỉ “vô vi”, không phù hợp với pháp ấn(11) “niết bàn tịch tĩnh”. Huống chi, sau khi đã trải qua cuộc thí nghiệm, chứng cớ cho thấy rằng, họ chẳng hề có bản lĩnh nào cả, hoàn toàn là nói ngoa.

Người tu học Phật, khi mới vào đạo, nên quyết chí tu học để chứng nhập giới định tuệ, một lòng niệm Phật cầu vãng sinh về Tịnh-độ, tuyệt đối đừng đi lạc tông chỉ mà dấn vào con đường thần kì quái dị, đi theo những loại người nuốt dao phun lửa. Phải nên biết rằng, ở trong Phật pháp, những loại cử chỉ hành động như thế hoàn toàn không được chấp nhận; chỉ có ba pháp học vô lậu mới là tôn quí bậc nhất mà khó đạt được. Nếu bỏ ba pháp học này để chạy theo những thứ pháp thuật kia, tức là đã bỏ gốc mà tìm ngọn vậy!

7. Xá lợi, vì sao chỉ người xuất gia mới có? Tại vì, xá lợi chính là kết tinh của giới định tuệ; mà nếu luận về công phu giữ giới, tu định, thì người xuất gia so ra được thuận lợi hơn. Người tại gia còn có vợ con cùng những việc thế tục, khiến cho tâm thường bị phân tán; giới hạnh của họ cũng không được cao khiết tinh thuần như người xuất gia, cho nên sau khi chết khó có được xá lợi. Nhưng dù sao thì cũng có trường hợp ngoại lệ. Ngoài ra cũng còn nên chú ý đến một việc: Những kẻ ngoại đạo, ngoại giáo, dù họ cũng tu tập theo đường lối của họ một cách đáng tán dương, nhưng chắc chắn sau khi chết sẽ không có xá lợi. Điều đó có thể nhận ra rằng, phương pháp tu hành của họ có nhiều sai lầm. Rất tiếc, người đời đã không từ nơi sự thật này mà phân biệt chân ngụy, chỉ hướng đến phương diện vật chất mà truy cầu, tham lam chút lợi nhỏ mà bán đi cái huệ mạng của vô lượng kiếp, giống như đứa bé đem bức họa quí giá đổi lấy cục kẹo; chi xiết thở than! Người xưa nói: “Chuông vàng hủy bỏ, nồi sành kêu vang.”(12), đó là hiện tượng đang bày trước mắt.

8. Tiểu thừa đã phân rẽ thành hai bộ phái Thượng Tọa và Đại Chúng, lại phân rẽ nữa thành ra đến 20 bộ phái. Kiến giải của những bộ phái này phần nhiều chỉ là thiên kiến, cố chấp vào một chủ thuyết nào đó, chúng ta hà tất phải dày công nghiên cứu! Vấn đề trọng yếu của người tu học Phật là làm thế nào phá trừ kiến tư hoặc, thoát ra khỏi vòng luân hồi ba cõi, chấm dứt phần đoạn sinh tử. Việc này cũng giống như người chơi cờ giỏi hay có tửu lượng cao, chính họ chân thật có công phu, chứ tơ hào không thể nhờ vả, vay mượn ở người khác được. Người học nếu tự lượng sức mình không đủ, không thể vượt thoát sinh tử ngay trong đời này, thì nên niệm danh hiệu Phật, nương vào đại nguyện của Phật mà cầu vãng sinh về cõi Phật. Hãy lấy việc niệm Phật làm pháp môn tu chính thức, rồi dùng các pháp môn tu thiền, trì luật, giáo học mà phụ thêm vào để cùng hành trì. Đến như việc tra cứu khảo chứng, xin nói thẳng là không cần thiết! Lí do là: Biển sinh tử thật sâu rộng, đường đến quả bồ đề còn quá xa, thì mình đâu có thì giờ nhàn rỗi mà lo đi tra xét những việc không can dự gì tới mình! Xưa kia, ngài Đại Câu Hi La(13) từng đọc 18 loại kinh lớn(14), suốt trong 12 giờ(15) mà không rảnh để cắt móng tay, gọi là Trường Trảo phạm chí. Thiền sư Vĩnh Minh Thọ(16), trong các thời khóa tụng ngày và đêm, đã niệm danh hiệu Phật đến vài vạn biến, làm 108 Phật sự(17). Với sự tinh tấn đó, thì đến những việc như ăn cơm, rửa chân cũng còn sợ là khó khăn, nói chi đến việc dùng công sức để khảo xét chuyện người! Nếu là xem kinh xem luận, nên cố gắng lĩnh hội cái tinh nghĩa trọng yếu ở trong đó; ngoài cái đó ra, đều chỉ là văn tự phù phiếm, giống như vỏ trái cây, giấy gói kẹo, bỏ đi có gì đáng tiếc!

 

CHÚ THÍCH (của người dịch)

1. Quyền – thật: “Quyền” và “thật” là hai thuật ngữ Phật học. “Quyền” nghĩa là phương tiện chỉ dùng trong nhất thời, tùy theo từng trường hợp, từng hoàn cảnh, từng đối tượng mà nói năng, hành động, xử sự cho được thích nghi, không cứ phải chấp nê theo một khuôn thức cứng ngắc, nhất định nào cả. “Thật” nghĩa là chân thật, chắc chắn, rốt ráo cùng cực, vĩnh viễn không thay đổi. Từ hai thuật ngữ này, trong Phật học đã phát sinh ra nhiều thuật ngữ liên hệ, như: quyền giáo, thật giáo; quyền trí, thật trí; quyền quả, thật quả; v.v…

– Quyền giáo và thật giáo: Tất cả lời dạy của Phật đều là chân thật, do từ kim khẩu của Phật nói ra, nhưng tùy trường hợp, tùy hoàn cảnh, tùy căn cơ của thính chúng mà trong những lời dạy ấy có khi Ngài nói thẳng, chỉ rõ những điều nội chứng của Ngài; như trong các kinh Pháp Hoa, Đại Bát Niết Bàn, Ngài đã nói thẳng cho mọi người biết, tất cả chúng sinh đều vốn sẵn có Phật tánh, tất cả chúng sinh trước sau đều thành Phật. Đó là lời dạy chắc chắn, chân thật, rốt ráo cùng cực, không thay đổi được, cho nên gọi là “thật giáo”. Nhưng, loại giáo lí này đức Phật chỉ nói trước một thính chúng có căn cơ cao siêu, thuần thục, còn những hạng người căn cơ từ bậc trung trở xuống thì không thể tiếp nhận được; vì vậy, đối với những hạng người này, Ngài phải dùng loại giáo lí phương tiện để tùy nghi hướng dẫn, giúp cho họ thăng tiến dần lên từng cấp một, đó gọi là “quyền giáo”. Điển hình của loại giáo lí này là toàn bộ kinh A Hàm.

– Quyền trí – thật trí: Quyền trí cũng gọi là phương tiện trí, tức là trí tuệ hiểu biết được các pháp thuộc ba thừa (Thanh-văn, Duyên-giác và Bồ-tát); thật trí, hay như thật, chân thật trí, là trí tuệ siêu việt, hiểu biết các pháp chân thật nhất thừa (Phật thừa).

– Quyền quả – thật quả: Các quả vị của các hàng Thanh-văn (Tu-đà-hoàn, Tư-đà-hàm, A-na-hàm, Ala-hán), Duyên-giác (Bích-chi Phật), cho đến cả Thập-địa và Đẳng-giác Bồ-tát, đều là quyền quả; chỉ có Phật quả mới là thật quả.

2. Từ “vô ngã” ở đây có nghĩa là không có chủ quyền, không thuộc quyền sở hữu của ai cả.

3. Từ Lục mang bảng: Từ Lục có lẽ là tên một nhân vật, chúng tôi chưa tìm ra được sự tích để biết đó là người nào, nhưng điều này không quan trọng; quan trọng là hai chữ “mang bảng”. Mang bảng, Hán ngữ là “đảm bảng hán” (nghĩa là người mang bảng), nguyên được dùng để chỉ cho người phu khuân vác, phải vác một tấm bảng gỗ lớn trên lưng, chỉ thấy được ở trước mặt chứ không thể thấy ở hai bên trái phải. Trong Thiền tông, từ “đảm bảng hán” này đã trở thành một thuật ngữ, dùng để chỉ cho những người chỉ có một loại kiến giải cố chấp, mà không có được cái thấy viên dung toàn thể.

4. Đạo gia: cũng gọi là Đạo-đức gia, là một trong Mười nhà (Thập gia), tức mười học phái triết học ở Trung-quốc trong thời đại Chu – Tần. Mười nhà ấy gồm có: Nho gia (sùng bái học thuyết của Khổng Tử), Đạo gia (sùng bái học thuyết của Lão Tử và Trang Tử), Âm-dương gia (đề xướng thuyết Âm Dương Ngũ Hành), Pháp gia (chủ trương pháp trị), Danh gia (đề cao mối quan hệ giữa Danh và Thật), Mặc gia (sùng bái học thuyết của Mặc Tử), Tung-hoành gia (học phái của các nhà du thuyết để tuyên truyền các chính sách “Hợp tung” và “Liên-hoành” ở thời Chiến-quốc), Tạp gia (tổng hợp tư tưởng các học phái xuất hiện vào cuối thời Chiến-quốc), Nông gia (đề cao kĩ thuật nông nghiệp và tư tưởng nông dân), và Tiểuthuyết gia (ghi chép những chuyện vặt vãnh, những lời kể tạp nhạp ở đầu đường xó chợ). Nhưng có người lại cho rằng, “Tiểu-thuyết gia” chỉ quan tâm đến những chuyện lặt vặt ở ngoài vỉa hè, không xứng đáng để được liệt vào ngang hàng với các học phái; cho nên đã bỏ Tiểu-thuyết gia ra khỏi Thập gia, chỉ còn lại chín nhà, và gọi đó là “Chín dòng” (Cửu lưu), tức chín trào lưu tư tưởng lớn trong thời đại Chu – Tần; – Sách Hán Thư, thiên “Nghệ Văn Chí”, gọi chung là “Cửu lưu Thập gia”.

Theo sách Hán Thư, học phái Đạo gia đã được hình thành do các sử quan. Những vị này thường xuyên ghi chép những sự thành bại, còn mất, họa phúc, đạo hay vô đạo của cổ kim, rồi sau hiểu biết nguồn gốc, tự giữ mình bằng lẽ thanh hư, tự nhún mình như kẻ yếu đuối.

Người khai sáng học thuyết này là Lão Tử, nội dung chủ yếu cho rằng: “Đạo” là nguồn gốc của vạn sự vạn vật. Nó sinh ra trước trời đất, là mẹ của thiên hạ; đó chính là “hư vô”. Về chính trị thì chủ trương quay về với xã hội “nước nhỏ ít người”, và “cai trị bằng vô vi”; không tôn trọng người hiền thì sẽ khiến cho dân không tranh giành, và như thế thì vô vi cũng tức là “vô bất vi” (không làm mà không có gì là không làm). Về nhận thức luận thì cho rằng vạn vật nương nhau mà tồn tại, có và không sinh ra nhau, dài và ngắn, cao và thấp cùng thành hình cho nhau. Về luân lí thì chủ trương dứt nhân bỏ nghĩa, dứt thánh bỏ trí, nếu người ta không hiểu biết thì sẽ không thèm muốn.

Sau Lão Tử, từng xuất hiện nhiều học phái có tư tưởng giống như Đạo gia, như phái Hoàn Uyên chủ trương lấy bản nguyên làm tinh túy, lấy vật làm thô thiển; phái Tống Doãn chủ trương quả dục; phái Dương Chu chủ trương giữ vững tính chân, không để vật làm lụy hình; v.v… trong số đó, phái Trang Tử (chủ trương quên cả vật lẫn ta, tự do tuyệt đối) là nổi bật hơn cả, được mọi người công nhận là học phái kế thừa và phát triển toàn diện tư tưởng của Lão Tử. Trong thời Chiến-quốc, tư tưởng Đạo gia đã kết hợp với các học phái Danh gia và Pháp gia để hình thành học phái Hoàng Lão; và tiếp tục còn nhiều biến đổi trải qua thời Tây-Hán. Tư tưởng Đạo gia lưu truyền vào dân gian, càng lâu càng kết hợp với các tập tục sùng bái quỉ thần trong dân gian, đến nửa đầu thế kỉ thứ 2 TL (thời Đông-Hán) thì biến thành Đạo giáo (do Trương Đạo Lăng khai sáng) và Lão Tử được tôn làm giáo chủ. Trong thời Ngụy – Tấn (thế kỉ thứ 3), tư tưởng Đạo gia từng được dùng để giải thích Nho gia, hình thành loại huyền học kết hợp giữa Đạo và Nho gia. Từ thời Đông-Tấn (thế kỉ thứ 4), có lúc học thuyết Lão Trang lại được dùng để giải thích Phật học, khiến tạo thành hợp lưu Đạo – Phật. Nói chung, tư tưởng Đạo gia có ảnh hưởng rất lớn đến các giới tư tưởng và văn nghệ ở Trung-quốc. Kinh điển tiêu biểu và căn bản của Đạo gia là hai tác phẩm Đạo Đức Kinh (của Lão Tử) và Nam Hoa Kinh (của Trang Tử).

5. Trương Đạo Lăng (34-156): là vị sáng lập nên Đạo giáo ở Trung-quốc. Ông chính tên là Trương Lăng, người thời Đông- Hán, ở đất Phong, nước Bái (nay là huyện Bái, tỉnh Giang-tô), thông hiểu ngũ kinh và các môn thiên văn địa lí, kể cả sấm vĩ, là một nhà Nho lớn thời ấy. Ông từng giữ chức lệnh ở Giang-châu (nay là Trùng-khánh, Tứ-xuyên) dưới thời vua Hán Minh đế. Sau đó, vào thời vua Thuận đế (126-144), nghe đồn đất Thục nhân dân thuần hậu, ông bèn vào núi Hạc-minh (thuộc tỉnh Tứ-xuyên) tu luyện, trước tác 24 thiên Đạo thư, tự xưng là Thái Thanh Huyền Nguyên, sáng lập ra Đạo giáo. Ông ra điều lệ: người muốn nhập đạo phải nộp năm đấu gạo; vì vậy, Đạo giáo ở buổi đầu cũng được gọi là đạo Năm-đấu-gạo (Ngũ-đấu-mễ đạo). Ông cũng thường dùng chú thuật phù thủy để chữa bệnh hoặc cầu đảo, nên nhân dân coi ông như thần thánh, thành tâm thờ phụng ông. Ông xây dựng 24 trụ sở để lập thành hệ thống tổ chức Đạo giáo, với chức tế tửu để lãnh đạo giáo đồ. Từ thời Ngụy – Tấn trở đi, giáo đồ đã tôn Trương Đạo Lăng làm “Thiên Sư”; rồi danh xưng Thiên Sư ấy lại được dùng để xưng cho tất cả các giáo chủ đời sau của Đạo giáo – như giáo chủ đời thứ 63 được tôn xưng là Trương Ân Phổ Thiên Sư, đã qua đời năm 1969 tại Đài-loan.

6. Đạo giáo: là một tôn giáo được sản sinh ngay trong đất nước Trung-quốc. Tôn giáo này tôn Lão Tử làm giáo tổ, lấy Đạo Đức Kinh làm kinh điển chủ yếu, lấy tư tưởng Lão Trang làm giáo nghĩa trung tâm, rồi thêm vào loại tín ngưỡng thần tiên trong thời Tần – Hán, các thuật bói toán cổ đại, dung hợp thuyết âm dương ngũ hành, cùng với sấm vĩ, bùa chú, và các tín ngưỡng thông tục trong dân gian; lại cũng thu nạp cả một số tư tưởng của Nho gia và Phật giáo. Tất cả những thứ đó đã làm thành hệ tư tuởng của Đạo giáo. Người khai sáng ra Đạo giáo là Trương Lăng (tức Trương Đạo Lăng, 34-156), ở vào khoảng đời vua Hán Thuận đế (126-144), thời Đông-Hán. Đạo giáo (cũng được gọi là Ngũ-đấu-mễ đạo) ở thời Trương Lăng mới chỉ được coi là giai đoạn khai đạo, phải đến đời con là Trương Hành và cháu là Trương Lỗ mới thực sự hoàn chỉnh. Trong thời vua Hán Linh đế (167-189), Trương Giác đã lập ra Tháibình đạo; đó là một chi phái lớn đầu tiên tách ra từ Đạo giáo.

Thái-bình đạo có thanh thế rất mạnh, có đến mấy chục trụ sở đặt ở khắp nơi, giáo đồ đông đến vài vạn, làm cơ sở cho cuộc khởi nghĩa nông dân gọi là “Khăn vàng” (Hoàng cân) vào năm 184. Sau đó, trong thời Tây-Tấn (265-316), vì muốn tranh giành ảnh hưởng với Phật giáo, giới trí thức Đạo giáo đã tạo ra cuốn sách gọi là “Lão Tử Hóa Hồ Kinh”, tuyên truyền rằng, sau khi Lão Tử biệt tích ở Trungquốc, ông đã sang Ấn-độ giáo hóa dân chúng và tu hành đắc đạo thành Phật Thích Ca Mâu Ni. Nhờ xảo thuật này mà Đạo giáo càng được lan rộng. Năm đầu thời Đông- Tấn (năm 317), Cát Hồng soạn thiên “Bão Phác Tử”, chỉnh lí và truyền bá các lí luận về bói toán và thần tiên có từ thời Chiến-quốc, cùng hệ thống hóa nội dung tư tưởng của Đạo giáo, làm thành điển tịch cơ bản cho Đạo giáo. Trong thời ĐôngTấn này, giáo đồ tin rằng Trương Đạo Lăng là bậc Thiên Sư, do đó, Đạo giáo lại được gọi là Thiên-sư đạo.

Vào thời đại Nam-Bắc-triều (386-589), đạo sĩ Khấu Khiêm Chi ở Tung-sơn (Bắc-triều), tự tuyên bố phụng thừa ý chỉ của Thái Thượng Lão Quân để thanh lí và chấn chỉnh Đạo giáo, xưng mình là Bắc Thiên-sư đạo (hoặc Tân Thiên-sư đạo). Chẳng bao lâu, các đạo sĩ như Lục Tu Tĩnh, Đào Hoằng Cảnh, v.v… (Nam-triều) cũng chỉnh lí kinh thư, biên soạn các nghi thức, qui tắc về trai giới, làm cho lí thuyết cùng hình thức tổ chức của Đạo giáo càng thêm hoàn bị, bèn xưng mình là Nam Thiên-sư đạo. Từ đó, Thiên-sư đạo (tức Đạo giáo) được chia làm hai nhánh Bắc và Nam. Cả hai nhánh đều ảnh hưởng lớn đến sự phát triển của Đạo giáo.

Đến thời đại nhà Đường (618-907), pháp tôn (cháu theo thứ bậc trong đạo) của Đào Hoằng Cảnh là Vương Viễn Tri, đã hợp nhất Bắc và Nam Thiên-sư đạo, làm cho cơ sở của Đạo giáo dưới vương triều Đường vô cùng hưng thịnh. Các đời vua thuộc vương triều này đều sùng phụng Đạo giáo, cho dựng miếu thờ Lão Tử, ban lệnh xây đạo quán ở từng châu quận, đem Đạo Đức Kinh vào chương trình khoa cử, gọi các sách Lão Tử, Trang Tử, Liệt Tử là “chân kinh”. Đời Ngũ-đại (907-960), Đỗ Quang Đình lại cực lực chỉnh lí điển tịch Đạo giáo, bởi đó mà nghi lễ của Đạo giáo được tập đại thành. Lữ Động Tân thì lấy châm ngôn “từ bi độ thế” làm con đường thành đạo. Giáo lí của Đạo giáo dưới vương triều Tống (9601279) lại càng phát triển mạnh. Vua Tống Chân-tông (998-1022) từng ban sắc lệnh cho Vương Khâm Nhược và Trương Quân Phòng biên tập Đạo tạng (hình thành kho sách Đạo giáo). Vua Tống Huy-tông (1101-1125) tự gọi mình là Giáo Chủ Đạo Quân hoàng đế, và ban lệnh cho thiên hạ, mỗi nhà đều phải tìm kiếm, sưu tầm “tiên kinh” của Đạo giáo, giảo định và khắc in để hoàn thành Đạo tạng.

Tự thân Đạo giáo chia ra rất nhiều tông phái. Từ Đường, Tống về sau, Nam và Bắc Thiên-sư đạo, cùng với các tông phái khác như Thượng-thanh, Linh-bảo, Tịnh-minh, v.v… dần dần hợp lưu. Đến triều đại nhà Nguyên (1260-1368) thì tất cả đều qui vào Chánh-nhất phái, lấy bùa chú làm chính. Trước đó, dưới triều đại nhà Kim (1115-1234), Vương Trùng Dương ở Sơn-đông sáng lập Toàn-chân giáo, và vài người khác cũng lập một số tông phái khác, nhưng chỉ có Toàn-chân phái là cực thịnh. Cho nên, dưới triều đại nhà Nguyên, Toàn-chân phái và Chánh-nhất phái là hai tông phái chủ yếu của Đạo giáo. Vương Trùng Dương nỗ lực điều hòa tư tưởng của ba tôn giáo Phật, Nho và Đạo, bỏ hết bùa chú và những giáo điều mê tín đã có từ trước, chú trọng đến giáo lí Phật giáo, nhất là Thiền tông và đời sống xuất gia. Nhưng tình hình ấy không kéo dài lâu. Trong đời vua Nguyên Thế-tổ, truyền thuyết về “Lão Tử Hóa Hồ Kinh” bỗng được khơi dậy, khiến phát sinh những cuộc tranh luận dữ dội giữa Phật giáo và Đạo giáo. Cuối cùng thì phía Đạo giáo bị thất bại, khiến cho nhà vua ban lệnh cấm Đạo giáo hoạt động. Sự việc này đã xảy ra năm 1281. Từ đó Đạo giáo thường xuyên bị đả kích nặng nề, cho nên thế lực cũng trở nên ngày càng suy yếu. Sau đó, sang triều đại nhà Minh (1368-1661), hai phái Chánh-nhất và Toàn-chân cũng vẫn tiếp tục lưu truyền. Đến triều đại nhà Thanh (1616-1911) lại càng suy vi.

7. Phật giáo truyền vào Tây-tạng: Từ thời Hán, người Trung-quốc vẫn gọi Tây-tạng là nước Thổphồn, nhưng ngày nay, Thổ-phồn là nước East Turkestan. Tây-tạng (Tibet – tiếng Phạn: Bhota) là một nước ở vùng địa thế rất cao (có nơi cao tới hơn 8.000m so với mặt biển), từng được gọi là “nóc nhà thế giới”, khí hậu rất lạnh, nằm giữa hai mạch núi vĩ đại là Côn-lôn ở phía Bắc và Hi-mã-lạp ở phía Nam; Đông giáp Trung-quốc, Nam giáp Miến-điện, Ấn-độ, Bhutan, Sikkim, và Nepal, Tây giáp Ấn-độ, Bắc giáp East Turkestan.

Theo lời đức Đạt Lai Lạt Ma, trong cuốn hồi kí Nước Tôi và Dân Tôi (My Land and My People – Hồng Hà dịch), nước Tây-tạng được thành lập vào năm 127 tr. TL, và vị vua đầu tiên là Nya-Tri-Tsenpo.

Vị vua thứ 28 là Lha-Tho-Ri-Nyen-Tsen đã nhận được một cuốn sách về giáo lí đạo Phật, và sự truyền bá Phật giáo ở Tây-tạng bắt đầu từ đó. (Tuy nhiên, ngài Đạt Lai Lạt Ma đã không cho biết tên cuốn sách giáo lí ấy là gì, do từ đâu, và sự việc đó đã xảy ra vào năm nào.) Từ vị vua thứ 28 ấy trở về trước, tôn giáo chính của Tây-tạng là đạo Bon (sùng kính thần linh, chuyên dùng chú thuật, phù phép, bói toán) và nhiều thứ tín ngưỡng mê tín khác thật kì quái. Đến đời vua thứ 33, Song-Tsen-Gampo (sinh vào năm 629 TL), ông bộ trưởng Thumi-Sam-Bhota được phái sang học tại Ấn-độ; khi trở về, ông đã dựa vào chữ Phạn (Sanskrit) mà sáng chế ra chữ viết Tây-tạng. Vị vua này, ngoài ba bà vợ bản xứ, còn cưới thêm hai bà vợ là công chúa của hai nước láng giềng Nepal và Trung-hoa; hai bà công chúa này đều sùng tín Phật giáo, nhờ vậy mà Phật giáo Nepal và Trung-hoa đã có ảnh hưởng lớn đối với Phật giáo Tây-tạng. Vua thứ 37 là Thi-Song-Deu-Tsen (sinh năm 790), đã mời được hai nhà bác học Ấn-độ, Khen-Bodi-Sattawa và Lopon-Pema-Samba, sang Tây-tạng. Các học giả Ấn-độ và những người Tây-tạng giỏi Phạn ngữ, bắt đầu dịch kinh điển từ Phạn ngữ ra Tạng ngữ. Dưới triều vua thứ 41 là Lang-Dar-Ma (lên ngôi năm 901), Phật giáo bị bách hại đến diệt vong, phải hàng trăm năm sau mới khôi phục trở lại được.

Theo lời thuật của đức Đạt Lai Lạt Ma thì không thấy đề cập gì tới mật chú và pháp thuật, nhưng những thứ này lại thuộc về Mật giáo, là giáo phái chính thức của Phật giáo Tây-tạng; và các niên đại do ngài ghi ra thì khác nhiều so với các sử liệu của Phật giáo Trung-quốc. Về Mật giáo ở Tây-tạng, theo sử liệu của Phật giáo Trung-quốc cũng như các tài liệu khảo cứu của các học giả Nhật-bản và Tây-phương, vào năm 747, vua Tây-tạng là Khri-Sron-Lde-Btsan (742-797) đã cho sứ thần sang Ấn-độ thỉnh ngài Tịch Hộ (Santa-raksita, ở học viện Na-lan-đà, là sáng tổ của phái Du Già Trung Quán) vào Tây-tạng hoằng dương giáo pháp Trung Quán. Nhà vua lại nghe lời khuyên của ngài Tịch Hộ, thỉnh được ngài Liên Hoa Sinh (Padma-sambhava) đến Tây-tạng cùng trong năm 747. – Ngài Tịch Hộ cùng với các đệ tử thì truyền bá Hiển giáo; trong khi đó, ngài Liên Hoa Sinh cùng với các đệ tử thì truyền bá Mật giáo Kim-cương thừa. Nhà vua đã xây ngôi chùa lớn Samyas tại kinh đô Lhasa để làm nơi cư trú và dịch kinh điển của quí vị đại sư từ Ấn-độ sang. Ngôi chùa này đã được xây theo kiểu mẫu của ngôi đại tự Vikramasila, là trung tâm của Kim-cương thừa Mật giáo ở vùng Bengal, miền Đông Ấn-độ.

Ngài Liên Hoa Sinh vốn là một vị đại học giả của phái Kim-cương thừa Mật giáo Ấn-độ, có gốc từ ngôi đại tự Vikramasila. Vì vậy, sau khi tới Tây-tạng, ngài đã hết sức truyền bá tư tưởng Mật giáo, và được coi như là vị sáng tổ của Mật giáo Tậy-tạng. Từ đó, mỗi thời kì đều có nhiều cao tăng từ Ấn-độ tới, từ từ họ di chuyển toàn bộ kinh điển Mật giáo Ấn-độ vào Tây-tạng. (Do đó mà ngày nay chỉ có nước Tâytạng là có đầy đủ tất cả kinh điển Mật giáo; không nước nào có đầy đủ như vậy, kể cả Trung-quốc.) Vua thứ 41 của Tây-tạng là Lang-Dar-Ma (đức Đạt Lai Lạt Ma nói nhà vua này lên ngôi năm 901, nhưng Phật Quang Đại Từ Điển và các tài liệu khác thì nói ông ở ngôi từ năm 836-841), sau khi lên ngôi đã tiêu diệt Phật giáo; nhưng ông chỉ ở ngôi được 6 năm thì bị ám sát. Phật giáo Tây-tạng đã lấy thời đại trị vì của vị vua này làm cái mốc để phân chia lịch sử truyền bá Phật giáo ở Tây-tạng làm hai thời kì chính: Từ vua Lang-Dar-Ma trở về trước là thời kì “sơ truyền”; và từ đó trở về sau là thời kì “hậu truyền”.

8. Hồng giáo: tức Hồng Mạo phái của Mật giáo Tây-tạng, mà sáng tổ là ngài Liên Hoa Sinh đến từ Ấn-độ (xin xem lại chú thích số 7 ở trên). Chư tăng (lạt-ma) của phái này mặc cà sa đỏ và đội mão đỏ, nên gọi là Hồng Mạo phái hay Hồng giáo. – Hồng giáo cũng được dùng để chỉ chung cho Phật giáo Tâytạng từ trước khi Hoàng Mạo phái (hay Hoàng giáo, tức phái mũ vàng) xuất hiện vào giữa thế kỉ 15. – Thế kỉ thứ 8, ngài Liên Hoa Sinh từ Ấn-độ sang Tây-tạng, mang theo các “đà-la-ni” và “chân ngôn nghi quĩ”, rồi phối hợp với tín ngưỡng sùng bái quỉ thần, bùa chú và bói toán của tôn giáo Bon sẵn có của dân bản xứ, đã khiến cho dân chúng phát sinh lòng tin đối với Phật giáo hết sức dễ dàng; chỉ trong vòng 3 năm mà Mật giáo đã phổ cập khắp Tây-tạng. Đó là thời kì tiên khởi của Mật giáo Tây-tạng. Ngài Liên Hoa Sinh đã được tín đồ tôn xưng là vị sơ tổ của giáo phái ấy; và ngài cũng chính là khai tổ của Lạt-ma giáo Tây-tạng.

Sau triều đại vua Lang-Dar-Ma (tiêu diệt Phật giáo), Phật giáo Tây-tạng dần dần phục hưng và phát triển trên cả ba giáo hệ là Giới luật, Hiển giáo và Mật giáo. Riêng về Mật giáo, trong thời gian này có ngài Rin-Chen-Bran-Po sang Nepal học Mật giáo. Khi về nước, ngài đã đem theo về nhiều kinh điển Mật giáo, đã dịch nhiều “nghi quĩ” của Mật giáo, làm cho Mật giáo lại phát triển mạnh ở Tây-tạng. Lịch sử Phật giáo Tây-tạng gọi đây là thời kì “Tân phái Mật giáo”; và từ đó về trước là thời kì “Cổ phái Mật giáo”. Khoảng năm 1038 có ngài Atisa từ Ấn-độ tới. Ngài cũng xuất thân từ hệ Kim-cương thừa Mật giáo (như ngài Liên Hoa Sinh thuở trước), từng giữ chức thủ tọa chùa Vikramasila ở vùng Bengal; cho nên sau khi vào Tây-tạng, ngài cũng kế thừa sự nghiệp Hồng giáo, chuyên truyền bá giáo lí Kim-cương thừa với nhiều lối tác pháp quái dị. Sau khi ngài Atisa viên tịch, giáo phái này đã bị phân rẽ thành nhiều phái khác, càng ngày càng đi vào con đường cực đoan của Kim-cương thừa Mật giáo, với nhiều mê tín dị đoan, lìa bỏ Hiển giáo, không trọng giới luật, coi tính dục là chuyện đương nhiên của việc tu đạo; cuối cùng thì sa vào hố trụy lạc, và thực sự trở thành Mật giáo Tả phái, tức như một thứ tà đạo.

Đó là tình hình Mật giáo ở Tây-tạng vào các thế kỉ thứ 14, 15. Để cứu vãn tình hình này, trong thế kỉ 15, ngài Tông Khách Ba (Tsong-Kha-Pa, 1417-1478) đã dũng mãnh đứng lên vận động làm cuộc cải cách vĩ đại, đưa Phật giáo Tây-tạng đến một hệ thống tổ chức mới, gọi là Hoàng Mạo phái (hay Hoàng giáo, tức phái Mão vàng). Ngài lúc đầu học Hiển giáo, sau tu theo Mật giáo, và tinh nghiêm hành trì giới luật. Ngài chủ xướng tinh thần tôn trọng kinh giáo, nghiêm trì giới luật, sử dụng tất cả sở trường của các giáo phái, chỉnh lí cả hai tông Hiển, Mật, làm sáng tỏ chân nghĩa của Phật pháp, kiến lập trình tự tu hành. Ngài trước tác có đến 300 bộ sách, trong đó, bộ Bồ Đề Đạo Thứ Luận được coi là tiêu biểu cho Hiển giáo; và bộ Chân Ngôn Thứ Đệ Luận được coi là tiêu biểu cho Mật giáo. Ngài cũng xây tu viện Dgah Idan ở phía Đông thủ đô Lhasa để làm đạo tràng trung tâm của Hoàng Mạo phái. Các vị Đạt Lai Lạt Ma và Ban Thiền Lạt Ma sau này đều xuất thân từ Hoàng giáo. Tuy cuộc cải cách của Tông Khách Ba đã làm thay đổi toàn diện Phật giáo Tây-tạng, nhưng Hồng Mạo phái (tức Hồng giáo) đã không tiêu vong, mà chỉ bị suy yếu đi, và vẫn sinh hoạt tiềm tàng trong dân chúng.

9. Hoàng Bá (?-850): tức thiền sư Hi Vận, rất có danh tiếng ở cuối đời Đường. Ngài là người Phúckiến, không rõ họ gì, thuở nhỏ xuất gia ở chùa Kiến-đức, trên núi Hoàng-bá tại tỉnh Phúc-kiến. Ngài thông minh mẫn nhuệ, học thông nội ngoại điển, được người đời xưng là Hoàng Bá Hi Vận. Tướng mạo của ngài thật kì lạ, mình cao gần 3m, trên trán nổi lên cục thịt giống như hạt châu, nên có hiệu là Nhục Châu. Một hôm ngài đi dạo núi Thiên-thai, tình cờ gặp một vị tăng. Hai người nhìn nhau vui mừng như người quen cũ, rồi sánh vai cùng đi. Tới một dòng suối lớn, nước chảy mạnh, vị tăng giục ngài lội qua suối. Ngài nói: “Muốn qua thì hãy qua trước đi!” Vị tăng liền vén áo bước trên sóng nước mà đi, như đi trên mặt đất. Sang tới bờ bên kia, vị tăng vẫy tay gọi bảo: “Qua đây! Qua đây!” Ngài vỗ tay rồi hét lớn: “Chỉ biết có mình! Nếu ta biết sớm, chắc chắn đã chặt bắp đùi ngươi.” Vị tăng liền khen: “Ngươi quả là pháp khí của đại thừa. Ta thật chẳng sánh kịp!” Vị tăng nói xong thì không thấy đâu nữa. Sau, nhờ một bà lão chỉ bảo, ngài tìm đến yết kiến tổ Bách Trượng Hoài Hải (720-814), được tổ truyền tâm ấn, tiếng tăm lừng lẫy một thời, người đời khen ngợi là pháp khí của đại thừa. Về sau ngài lên ở núi Hoàng-bá, cổ xúy tâm yếu “truyền thẳng từng người” (trực chỉ đơn truyền), người học từ bốn phương vân tập về đông đúc. Từ đó, núi Hoàng-bá đã trở thành một đạo tràng lớn của phái Lâm Tế Thiền tông Trung-quốc. Người đời kính mộ ngài đến nỗi đã lấy tên núi Hoàng-bá làm thành tên ngài; không những thế, những nơi ngài được thỉnh đến để hoằng pháp, đều được đặt tên là Hoàng-bá, như hai ngọn núi Thứu-phong và Tiểu-lư ở Giang-tây đều được gọi tên là núi Hoàng-bá. Đến như, khi hệ phái của ngài được truyền sang Nhật-bản, chẳng những tông Hoàng Bá được thành lập, mà ngọn núi được chọn làm đạo tràng trung tâm của tông này cũng được đặt tên là núi Hoàng-bá.

Ngài viên tịch năm 850, không biết tuổi thọ (vì không rõ năm sinh), được ban thụy hiệu là Đoạn Tế thiền sư. Pháp ngữ của ngài đã được người bạn thân đương thời là tiết độ sứ Bùi Hưu sưu tập làm thành quyển ngữ lục tên là Hoàng Bá Sơn Đoạn Tế Thiền Sư Truyền Tâm Pháp Yếu, đến nay vẫn còn. Trong số môn đồ của ngài, Lâm Tế Nghĩa Huyền (?-867) là vị cao đồ đắc pháp và xuất sắc nhất, đã thừa kế và làm rạng rỡ Tông môn, thanh thế càng vượt trội hơn nữa.

10. Chỉ biết có mình: tức thuật ngữ “tự liễu hán” trong Thiền tông Trung-quốc, có nghĩa là người không có tinh thần lợi tha, chỉ mưu đồ ích lợi cho riêng bản thân mình. Thuật ngữ này có ý nghĩa tương đương với câu tục ngữ thường được dùng trong dân gian: “cẩn tự lí nhất thân, bất cố đại cục giả” (người chỉ biết lo cho bản thân mình, không đoái hoài gì đến đại cuộc). Thuật ngữ “tự liễu hán” được dùng trong thiền môn để chỉ cho hạng hành giả chỉ biết lo tu cho bản thân mình, mà hoàn toàn không để tâm đến việc giúp đời độ người, giáo hóa chúng sinh. Thuật ngữ này nguyên là một câu nói của ngài Hoàng Bá Hi Vận (xem lại chú thích số 9 ở trên). Sách Bích Nham Lục (tắc 11) ghi: “Sư (Hoàng Bá) nói: ‘Mời ngài qua (suối) trước.’ Vị tăng kia bèn vén áo, đạp trên sóng nước mà đi (qua suối), như đi trên đất bằng; rồi ngoái lại bảo: ‘Qua đây! Qua đây!’ Sư quát: ‘Đó là người chỉ biết có mình!’ (Giá tự liễu hán!)”

11. Pháp ấn: Chữ “pháp” ở đây là chỉ cho Phật pháp; chữ “ấn” ở đây nghĩa là cái ấn, con dấu, phù hợp, tiêu chuẩn, chân thật, không thay đổi. Con dấu dùng để ấn chứng một sự việc là thật, chắc chắn, đáng tin tưởng. “Pháp ấn” là những đặc chất, tiêu chuẩn của Phật pháp; đó chính là chân lí, là điều chân thật được chứng ngộ và nói ra bởi đấng Đại Giác (Phật). Tất cả kinh luận, giáo lí nào phát biểu đúng với nội dung của những con dấu này, tức đều là Phật pháp. Tất cả mọi nhận thức, phát biểu nào không phù hợp với những con dấu này, tức đều là ngụy ngữ, tà pháp.

Trong các kinh luận thường nêu ra có ba pháp ấn, bốn pháp ấn hoặc năm pháp ấn.

– Ba pháp ấn là:

  1. Nhất thiết hành vô thường (tất cả vạn hữu đều biến đổi không ngừng)
  2. Nhất thiết pháp vô ngã (tất cả vạn hữu đều không có bản ngã chân thật)
  3. Niết bàn tịch tịnh (bản thể của vạn hữu là vô phân biệt, lìa khỏi mọi hình tướng, mọi tri kiến, mọi khái niệm)

Trong ba pháp ấn trên, hai pháp ấn 1 và 2 (vô thường và vô ngã) nói lên tướng trạng của vạn pháp, pháp ấn 3 (niết bàn tịch tịnh) nói lên bản thể vủa vạn pháp.

– Nếu thêm pháp ấn “nhất thiết hành thị khổ” (tất cả vạn hữu là khổ) vào ba pháp ấn trên thì gọi là bốn pháp ấn. – Pháp ấn “khổ” này cũng nói lên tướng trạng của vạn pháp.

– Nếu thêm pháp ấn “nhất thiết pháp không” (tất cả vạn hữu đều không có tự tánh) vào bốn pháp ấn trên thì gọi là năm pháp ấn. – Cùng với pháp ấn “niết bàn tịch tịnh”, pháp ấn “không” này cũng nói lên bản thể của vạn pháp.

Đặc biệt, theo kinh Pháp Ấn thì có ba pháp ấn như sau:

  1. Không: Bản thể của vạn pháp là không.
  2. Vô tướng: Bản thể của vạn pháp không thể nhận biết được bằng khái niệm hay nhận thức phân biệt, mà chỉ hiển lộ trong trí tuệ bình đẳng, vô phân biệt.
  3. Vô tác (hay vô nguyện): Trong trí tuệ bình đẳng, vô phân biệt, sẽ không còn có sự phân biệt giữa chủ thể nhận thức và đối tượng nhận thức, về chủ thể chứng đắc và đối tượng chứng đắc.

Nhưng theo giáo nghĩa rốt ráo của đại thừa thì chỉ có một pháp ấn, đó là pháp ấn “nhất thật tướng”, tức là lí chân thật, xa lìa các tướng hư vọng, không hai, không khác. Tất cả kinh điển đại thừa do Phật nói đều lấy lí chân thật để ấn chứng, khiến cho các học thuyết ngoại đạo không thể trộn lẫn vào, mà tà ma cũng không thể xuyên tạc, phá hoại. Những kinh luận nào phát biểu đúng với pháp ấn nhất thật tướng này đều phù hợp với giáo pháp của Phật, nếu không thì chỉ là tà thuyết.

12. Chuông vàng hủy bỏ, nồi sành kêu vang: “Chuông vàng” (hoàng chung) là một loại nhạc khí, dụ cho người hiền tài, kẻ sĩ biết lễ nhạc. – Chữ “hoàng” ở đây là màu vàng đất, khác với màu vàng của vàng. “Nồi sành” (ngõa phẫu) là dụ cho người tầm thường. Câu “Chuông vàng hủy bỏ, nồi sành kêu vang.” (Hoàng chung hủy khí, ngõa phẫu lôi minh.) đã được tác giả lấy từ bài “Bốc Cư” của Khuất Nguyên (xin xem tiểu truyện ở chú thích số 1, bài “Tổng Hợp Yếu Chỉ Các Bài 10, 11 và 12” ở trước), ý nói kẻ hiền tài thì không được trọng dụng, còn kẻ không ra gì thì đắc thời đắc thế, lên mặt làm oai với mọi người.

13. Đại Câu Hi La (Mahakausthila): là một trong những vị đệ tử xuất sắc của Phật, sau khi chứng quả A-la-hán thì chứng nhập được diệu lí “năm uẩn đều không”, cho nên cũng được gọi là Ngộ Không. Ngài là con của vị phạm chí Điệt Sử ở thành Vương-xá, và cũng chính là cậu ruột của tôn giả Xá Lợi Phất, thông minh bác học, có biện tài nghị luận, từng đi du học bốn phương, thông suốt cả 18 loại kinh sách Bà-la-môn giáo. Lúc ở Nam Thiên-trúc, vì quyết chí phải trở thành vị luận sư đệ nhất thiên hạ, nên ngài đã ngày đêm chuyên cần học tập, đến nỗi móng tay mọc ra quá dài mà không cắt, cho nên người ta đã gọi ngài là Trường Trảo phạm chí (Dirghanakha). Sau khi biết cháu mình là Xá Lợi Phất đã xuất gia theo Phật, ngài liền tìm đến chỗ Phật để xin cùng Phật nghị luận; kết quả, ngài bị đức Phật khuất phục và cảm hóa, bèn xin xuất gia làm đệ tử Phật. Sau đó thì chứng quả A-la-hán.

14. 18 loại kinh lớn: là 18 loại kinh luận của ngoại đạo thời Phật tại thế, gồm có:

– 4 kinh Phệ Đà (Veda): Câu Lê Phệ Đà (Rg-veda), Dạ Nhu Phệ Đà (Yajur-veda), Sa Ma Phệ Đà (Sama-veda), A Thát Bà Vệ Đà (Atharva-veda).

– 6 luận (Veda-anga): Thức Xoa luận (Siksa), Tì Già La luận (Vyakarana), Kha Lạt Ba luận (Kalpa), Thụ Để Sa luận (Jyotisa), Xiển Đà luận (Chandas), Ni Lộc Đa luận (Nirukta).

– 8 luận: Kiên Vong Bà luận, Na Da Tì Tát Đa luận (Naya-vistara?), Y Để Ha Bà luận (Itihasa), Tăng Kha luận (Samkhya), Khóa Già luận (Garga?), Đà Thố luận (Dhanur), Kiền Thát Bà luận (Gandharva), A Du luận (Ayur-sastra).

15. 12 giờ: Xưa người Trung-quốc chia một ngày đêm làm 12 giờ, tương ứng với 12 chi: Tí, Sửu, Dần, Mão, Thìn, Tị, Ngọ, Mùi, Thân, Dậu, Tuất, Hợi. Giờ Tí là giờ bắt đầu của một ngày; giờ Hợi là giờ cuối của một ngày. Vậy, 12 giờ tức là trọn một ngày đêm, tức người Trung-quốc gọi là “cánh nhật”, cũng gọi là “nhị lục thời trung”. Theo lịch pháp Ấn-độ thì một ngày đêm có 6 giờ, hoặc 8 giờ.

16. Vĩnh Minh Thọ thiền sư: tức thiền sư Diên Thọ, hay Vĩnh Minh Diên Thọ. (Xin xem lại chú thích số 24, bài “Tổng Hợp Yếu Chỉ Các Bài 34, 35 và 36”, sách GKPH I.)

17. Phật sự: Tất cả các công việc nhằm hộ trì Tam Bảo, hoằng dương Phật pháp và giáo hóa chúng sinh, đều được gọi là “Phật sự”. Riêng trong Thiền tông Trung-quốc, từ “Phật sự” được dùng để chỉ cho các công việc nhất định trong thiền môn như an vị Phật, khai nhãn, niêm hương, thượng đường, nhập thất, khai thị, phổ thuyết v.v… Ngày nay, Phật giáo Trung-quốc thường dùng từ này để gọi chung cho các nghi thức được cử hành trước Phật, kể cả nghi thức tụng kinh cầu siêu cho các vong linh; và từ Phật sự ở đây cũng được gọi là pháp sự, hay pháp hội.

 

PHỤ LỤC

Kinh TỨ THẬP NHỊ CHƯƠNG

Có Phải Là Cuốn Kinh Đầu Tiên Được Dịch Tại Trung Quốc Không?

HẠNH CƠ

Tứ Thập Nhị Chương là tựa đề của một cuốn kinh gồm có 42 chương, ghi vắn tắt các giáo nghĩa cơ bản của đạo Phật, được dịch từ Phạn ngữ ra Hán ngữ rất sớm, có thể từ thế kỉ đầu Tây lịch. Nội dung toàn cuốn kinh gồm những lời giáo huấn dành cho người xuất gia, nhưng không theo một chủ đề tổng quát nào; mà mỗi chương đều nói về một đề tài khác biệt, chú trọng vào các yếu nghĩa như: các nghiệp lành dữ, mạng sống vô thường, xa lìa tham dục, v.v… Các chương dài ngắn không đồng đều; dài nhất là hai chương 1 và 34, gồm 124 chữ (Hán), ngắn nhất là chương 9, chỉ gồm 18 chữ(1). Nội dung và hình thức của kinh này không giống với bao nhiêu kinh điển khác. Kinh có 42 chương, nhưng chương 1 không phải là chương mở đầu, mà chương 42 cũng không phải là chương kết thúc. Vì vậy có thể nói, đây là một cuốn kinh đã được trích dịch từ nhiều cuốn kinh tiếng Phạn khác nhau;(2) từ đó suy ra, tựa đề kinh – “Tứ Thập Nhị Chương” – đã được dịch giả đặt ra sau khi tuyển dịch xong; và trong Phạn điển đã không hề có một cuốn kinh nào có tên như vậy.

Trải qua thời gian, kinh này đã được in đi in lại nhiều lần. Và cứ mỗi lần in là mỗi lần có sự thêm bớt, sửa đổi từ văn từ cho đến nội dung; kết quả, bản dịch gốc tuy chỉ có một, nhưng đã có nhiều dị bản. Chủ yếu có ba dị bản: 1) Bản được giữ trong Tống Tạng, Nguyên Tạng và Cao-li Tạng, mang hình thức xưa nhất của kinh bản; 2) Bản do Chân Tông (đời Tống) chú thích, được giữ trong Nam Tạng của nhà Minh; 3) Bản do Thủ Toại (đời Tống) chú thích, là một trong bộ Phật Tổ Tam Kinh của Thiền tông, được lưu hành rộng rãi hơn cả, các nhà chú sớ ở các triều Minh, Thanh, như Ngẫu Ích, Liễu Đồng, Đạo Phái, Tục Pháp, v.v… đều dùng bản này làm lam bản. Bản sau cùng này cũng là bản được lưu hành rất phổ biến ngày nay, văn từ đẹp đẽ, thêm nhiều tư tưởng cao siêu của giáo pháp đại thừa, khác nhiều so với bản kinh nguyên thỉ, lúc mới được tuyển dịch.(3) Bản kinh này hiện nay cũng đã được dịch ra nhiều thứ tiếng để lưu hành trên thế giới, như Việt, Nhật, Hàn, Pháp, Anh, v.v…

Về nội dung thì kinh Tứ Thập Nhị Chương cũng không khác gì với bao nhiêu kinh điển khác, nhưng về phương diện lịch sử thì thật là quan trọng; vì đó là cuốn kinh duy nhất (trong số mấy cuốn kinh) được dịch từ Phạn văn ra Hán văn đầu tiên, còn lưu hành cho đến ngày nay. Vậy, một câu hỏi được đặt ra: “Kinh này đã được dịch vào lúc nào? Tại đâu?”

Để trả lời câu hỏi này, từ trước đến nay, các sách sử của Phật giáo Trung-quốc đều khẳng định rằng, kinh Tứ Thập Nhị Chương đã được dịch tại Lạc-dương (kinh đô nhà Hán), Trung-quốc, vào đời Hiếu Minh hoàng đế (58-75 TL), nhà Hậu Hán (25-220). Sự khẳng định này là do y cứ vào một truyền thuyết:

Vua Hán Minh Đế, vào măm thứ 3 niên hiệu Vĩnh-bình (tức năm 60 TL), một đêm kia nằm mộng thấy một người vàng, đầu có ánh sáng như mặt trời, bay đến trước điện. Sáng dậy, vua đem việc ấy hỏi quần thần. Quan thái sử Phó Nghị(4) tâu: “Thần nghe nói ở Tây-vức có vị thần, gọi là Phật. Người vàng mà bệ hạ thấy trong mộng, chắc là vị thần ấy.” [……] Niên hiệu Vĩnh-bình thứ 7 (tức năm 64 TL), vua Minh Đế bèn sai lang trung Thái Âm(5), trung lang tướng Tần Cảnh, bác sĩ Vương Tuân, v.v…, cả thảy 18 người, đi về hướng Tây tìm cầu Phật pháp. Tới Ấn-độ, họ thỉnh được Ca Diếp Ma Đằng (Kasyapamatanga) và Trúc Pháp Lan (Dharmaraksa), dùng ngựa trắng chở kinh, đem cả xá lợi và họa tượng Phật. Phái đoàn về đến Lạc-dương vào năm thứ 10 niên hiệu Vĩnh-bình (năm 67 TL). Vua rất mừng, xây chùa Bạchmã, dịch kinh Tứ Thập Nhị Chương. [……] Phật pháp khởi thỉ được truyền vào Trung-quốc từ thuở đó…(6)

Truyền thuyết này thấy xuất hiện đầu tiên trong sách Lí Hoặc Luận của Mâu Tử (160?-230?). Mâu Tử là người Hán, tinh thông cả Lão và Khổng học. Vì đất Hán nhiều loạn lạc nên đã phải bỏ quê nhà là Thương-ngô, đem mẹ xuống Giao-châu (Việt-nam) lánh nạn. Tại đây, ông được đọc kinh điển Phật giáo, vì nghiệm thấy giáo lí ấy cao sâu và thực tiễn, vượt hẳn Khổng, Lão, nên quyết chí theo Phật, trở thành một Phật tử tinh thông cả ba giáo. Ông viết sách Lí Hoặc Luận để giải tỏa những điều nghi hoặc về Phật giáo của những người Hán theo Khổng giáo và Đạo giáo, cũng đang sống tị nạn ở Giao-châu vào thời đó. Truyền thuyết về kinh Tứ Thập Nhị Chương như trên, đã được nói tới trong chương 21 của sách Lí Hoặc Luận.(7)

Trong sách Tổng Tập Văn Học Phật Giáo Việt Nam I, bằng những luận cứ xác đáng, giáo sư Lê Mạnh Thát khẳng định rằng, Mâu Tử đã viết Lí Hoặc Luận vào khoảng năm 198, tức cuối thế kỉ thứ 2 TL. Vậy chắc chắn là kinh Tứ Thập Nhị Chương đã được lưu hành ở thế kỉ thứ 2, hoặc sớm hơn, là từ thế kỉ đầu TL.

Nhưng kinh ấy đã được phát xuất từ đâu? Theo truyền thuyết trên, kinh ấy đã do Ma Đằng và Pháp Lan dịch tại Lạc-dương (kinh đô nhà Hán) vào năm 67 TL.

Điều này không có gì là chắc chắn để chúng ta tin tưởng. Nhưng trải qua gần 20 thế kỉ, nó đã được coi như là thuyết chính thức cho sự du nhập Phật giáo vào Trung-quốc, cũng như cho sự xuất hiện của dịch bản kinh Tứ Thập Nhị Chương. Nhưng gần đây, với sự khám phá của hai vị giáo sư thạc  học của Phật giáo Việtnam là Nguyễn Lang và Lê Mạnh Thát, chúng ta thấy sự thực trở nên khác hẳn.

Trước hết, về hai vị được cho là “dịch giả” của Kinh Tứ Thập Nhị Chương: Truyền thuyết về vua Hán Minh Đế mộng thấy người vàng vừa nêu trên, được thấy xuất hiện trong tài liệu chữ Hán xưa nhất viết về Phật giáo là sách Lí Hoặc Luận của Mâu Tử (được viết vào cuối thế kỉ thứ 2 TL tại Giao-châu), nhưng trong sách này đã không hề nói tới danh tánh của hai “nhân vật dịch giả” là Ca Diếp Ma Đằng và Trúc Pháp Lan. Chương 21 của sách Lí Hoặc Luận chép:

“… Do thế vua hiểu, sai trung lang Thái Hâm, vũ lâm lang trung Tần Cảnh, bác sĩ đệ tử Vương Tuân, tất cả 18 người đến xứ Đại Nguyệt Chi(8) chép kinh Phật 42 chương, cất tại gian 14 nhà đá Lan Đài…”(9)

Điều này chứng tỏ, hai vị cao tăng Thiên-trúc là Ma Đằng và Pháp Lan, chưa chắc đã có mặt tại Lạc-dương trong thời vua Hán Minh Đế. Đời Lương (thời Namtriều), ngài Tăng Hựu (445-518) soạn Xuất Tam Tạng Kí Tập, có nói tới kinh Tứ Thập Nhị Chương do sa môn Trúc Ma Đằng dịch, nhưng cũng không nói gì về tiểu sử của Trúc Ma Đằng. Điều đó chứng tỏ, lúc soạn sách, tuy Tăng Hựu có “nghe nói” về truyền thuyết kia, nhưng không có gì chắc chắn về sự có mặt của nhân vật “Trúc Ma Đằng”, nên đã không đề cập tới nhân vật này.

Thứ đến, về dịch phẩm Kinh Tứ Thập Nhị Chương: Đời Đông-Tấn, ngài Đạo An (314-385) soạn sách Tông(10) Lí Chúng Kinh Mục Lục, là cuốn sách mục lục về Phật điển đầu tiên của Phật giáo Trung-quốc, đã không ghi tên kinh Tứ Thập Nhị Chương. Cuốn sách kinh lục ấy đã thất truyền, nhưng dấu tích của nó còn tìm thấy trong sách Xuất Tam Tạng Kí Tập của ngài Tăng Hựu (445-518), ra đời hơn một trăm năm sau đó:

“Tứ Thập Nhị Chương Kinh, 1 quyển, Cựu Lục nói Hiếu Minh Hoàng Đế Tứ Thập Nhị Chương. Bản mục lục do An pháp sư soạn thiếu kinh này…”(11)

Sự việc trên chứng tỏ rằng, khi soạn sách Tông Lí Chúng Kinh Mục Lục, ngài Đạo An đã không biết tới kinh Tứ Thập Nhị Chương này. Theo giáo sư Nguyễn Lang:

“Không những Đạo An bỏ sót kinh Tứ Thập Nhị Chương, ông lại bỏ sót luôn Lý Hoặc Luận của Mâu Tử nữa. Theo Đạo An, những kinh sách đầu tiên bằng Hán tự được dịch tại Lạc-dương. Đạo An người miền Bắc, đã từng ở Lạc Dương, biết nhiều về tình hình lưu truyền của Phật kinh miền Bắc, thế mà đã không nghe nói tới kinh Tứ Thập Nhị Chương: điều này làm ta tin rằng miền Bắc không phải là nơi xuất phát kinh này. Paul Pelliot (Meou Tseu ou les Doutes Levès)  nói rằng có thể kinh này phát xuất ở miền hạ lưu sông Dương Tử, bởi di tích đầu tiên về kinh đã thấy ở tờ biểu của Tương Giai, mà Tương Giai là người ở gần miền này. Như vậy Đạo An có lẽ chưa từng đặt chân tới những miền có lưu hành kinh Tứ Thập Nhị Chương, tức miền Giang Tả và Giao Chỉ ở miền Nam. Đạo An cho rằng Lạc Dương là trung tâm đầu tiên phát xuất kinh điển Hán tự, không nói đến Tứ Thập Nhị Chương và Lý Hoặc Luận vốn là hai tác phẩm không phát xuất từ Lạc Dương; [……] Kinh Tứ Thập Nhị Chương nếu không phát xuất từ Lạc Dương hẳn phải phát xuất hoặc từ Bành Thành hoặc từ Luy Lâu. Nhưng như ta biết, trung tâm Luy Lâu là bàn đạp để Phật giáo truyền vào đất Hán; cuốn kinh đầu tiên tuyển dịch lời Phật dạy hẳn đã phát xuất từ trung tâm Luy Lâu vào thượng bán thế kỷ thứ hai và được đưa vào miền Giang Tả vào khoảng giữa thế kỷ này.”(12)

Về “tờ biểu của Tương Giai” được nhắc tới trong đoạn văn trích trên đây, đó là tờ biểu mà Tương Giai tâu lên vua Hán Hoàn đế (147-167) vào năm 166(13) để can gián về lối sống xa xỉ của nhà vua. Tờ biểu này được ghi lại trong sách Hậu Hán Thư của Phạm Việp (398-445), có đoạn như sau:

“Lại nghe trong cung dựng miếu thờ Hoàng Lão, Phù Đồ(14). Đạo đó thanh hư quí chuộng vô vi, hiếu sinh ghét giết, bớt dục bỏ xa xỉ. Nay bệ hạ ham muốn không bỏ, giết phạt quá lẽ, đã trái với đạo ấy, há nhận được phước ư? Phù Đồ không nghỉ ba đêm dưới cây dâu, vì không muốn lâu sinh ra tình ân ái. Thiên thần đem gái đẹp gửi đến, Phù Đồ nói: Đó là túi da đầy máu. Bèn không thèm nhìn. Phù Đồ thủ nhất như vậy, mới có thể thành đạo. Nay bệ hạ, gái dâm, bà đẹp, vượt hết vẻ đẹp của thiên hạ, đồ ngon thức ngọt, chót hết mùi của thiên hạ, thì làm sao mà muốn như Hoàng Lão ư?”(15)

Trong đoạn văn trên đây có nhắc đến hai sự việc lấy ra từ kinh Tứ Thập Nhị Chương: “Phù Đồ không nghỉ ba đêm dưới cây dâu, vì không muốn lâu sinh ra tình ân ái.”,(16) và: “Thiên thần đem gái đẹp gửi đến, Phù Đồ nói: Đó là túi dơ đầy máu. Bèn không thèm nhìn.”(17)

Như vậy, từ thời vua Hán Hoàn đế, đạo Phật mới thực sự có ảnh hưởng mạnh mẽ ở Lạc-dương. Vào thời ấy, năm 148 (tức sau khi Hoàn đế tức vị một năm) có vị cao tăng nước An-tức (Parthia – nước Iran ngày nay) là An Thế Cao (Arsakes, ?170), đến Lạc-dương, trong suốt hai mươi năm, đã dịch tổng cộng khoảng 40 bộ kinh từ Phạn văn ra Hán văn; rồi Chi Lâu Ca Sấm (Locasema, 147-?) cùng nhiều vị khác từ Thiên-trúc và các nước Tây-vực cũng tiếp tục đến Lạc-dương, cùng tham gia vào việc dịch kinh, làm cho Lạc-dương trở thành một trung tâm Phật giáo quan trọng ở Trung-quốc vào cuối thế kỉ thứ hai.

Trở lại truyền thuyết cho rằng “kinh Tứ Thập Nhị Chương là cuốn kinh được dịch từ Phạn văn ra Hán văn đầu tiên tại Trung-quốc do hai ngài Ma Đằng và Pháp Lan dịch vào thời vua Hán Minh Đế”, theo giáo sư Nguyễn Lang, đó là một câu chuyện “không có giá trị lịch sử”. Ông nói:

“Cuối cùng, người ta nghĩ thật khó mà tin rằng chỉ vì một giấc mộng mà một phái đoàn quan trọng thế kia đã được gửi đi một chuyến hành trình quá gian khổ như thế. Truyền thuyết giấc mộng Hán Minh Đế vì vậy không có căn bản vững chắc. Ông Henri Maspéro năm 1910 đã đem nhiều chứng liệu để chứng minh rằng chuyện Giấc Mộng Hán Minh Đế chỉ là một sự ‘ăn gian vì đạo’ (fraude pieuse) bịa đặt vào hậu bán thế kỷ thứ hai (Le Songe et l’Ambassade de l’Empereur Ming, étude critique des sources – BEFEO X). Nhưng tại sao người ta đã bịa đặt ra câu chuyện giấc mộng? Rất có thể vì trong đời nhà Hán, ngoài trung tâm Phật giáo Lạc Dương còn có trung tâm Bành Thành và trung tâm Luy Lâu. Những người theo Phật giáo ở kinh đô Lạc Dương trong giữa khoảng thế kỷ thứ hai có thể đã tạo dựng nên câu chuyện kia để chứng tỏ rằng Phật giáo Lạc Dương có sớm nhất, trong mục đích tạo uy tín cho trung tâm này. Nếu câu chuyện thấy có chép trong tác phẩm Lý Hoặc Luận, chắc hẳn đó là một sự thêm bớt sau này [……] sớm nhất là vào giữa thế kỷ thứ ba. Trong Lý Hoặc Luận, ta có thể tìm ra một số từ ngữ và cách hành văn có mầu sắc thế kỷ thứ ba và thứ năm; những yếu tố này cho ta biết một vài điều sửa chữa và thêm thắt đã xảy ra cho tác phẩm trong các thế kỷ đó.”(18)

Những luận cứ trên làm cho ta tin rằng: Kinh Tứ Thập Nhị Chương không phải là cuốn kinh đầu tiên của Phật giáo Trung-quốc, được dịch từ Phạn ra Hán tại kinh đô Lạc-dương dưới triều Hán Minh đế; mà nó đã được dịch và lưu hành tại Việtnam trong khoảng từ thế kỉ đầu Tây lịch sang đầu thế kỉ thứ hai; đến giữa thế kỉ thứ hai thì được lưu truyền đến các địa phương phía Nam sông Dương-tử. Nếu xét nội dung của Lí Hoặc Luận và của kinh Tứ Thập Nhị Chương, lời khẳng định trên càng được sáng tỏ thêm. Câu hỏi ở chương 16 của Lí Hoặc Luận rằng:

“Đạo Phật trọng vô vi, ưa bố thí, giữ giới đau đáu như kẻ đi ven vực sâu. Nay sa môn đam mê rượu ngon, có kẻ nuôi vợ con, mua rẻ bán đắt, chuyên làm dối trá. Đấy là việc xấu lớn ở đời, mà đạo Phật gọi đó là vô vi sao?”(19)   Câu hỏi này được đặt ra để vấn nạn Mâu Tử, tác giả của sách Lí Hoặc Luận. Nội dung của câu hỏi ấy đã cho ta nhìn thấy cái tệ trạng của tăng đoàn Giao-châu (Việt-nam) thời bấy giờ. Câu hỏi đó cũng chứng tỏ, Việt-nam vào thế kỉ thứ hai đã có một tăng đoàn đông đảo. Thật vậy, trong sách Thiền Uyển Tập Anh (tác phẩm đời Trần, ghi tiểu sử các thiền sư Việt-nam từ cuối thế kỉ thứ 6 tới đầu thế kỉ 13) có ghi lại lời của pháp sư Đàm Thiên (Trung-quốc) tâu lên vua Văn đế (581-604) nhà Tùy (581-619) rằng:

“Một phương Giao Châu, đường thông Thiên Trúc, Phật pháp lúc mới tới, thì Giang Đông chưa có, mà Luy Lâu lại dựng chùa hơn hai mươi ngôi, độ tăng hơn 500 người, dịch kinh 15 quyển, vì nó có trước vậy.”(20)

Lời này cho ta thấy, trong khi ở Trung-quốc chưa có tăng sĩ người bản xứ (vì nhà Hán, rồi nhà Ngụy, đều không cho người Hán xuất gia(21)), thì ở Việtnam vào thời đó đã có đông đảo tăng chúng người bản xứ; mà càng đông đảo thì càng hỗn tạp, rất dễ sinh tệ trạng, đó là điều không tránh khỏi. Và đó có thể là lí do chính đáng để kinh Tứ Thập Nhị Chương ra đời. Nội dung kinh này nêu lên một số hạnh tu căn bản dành cho giới xuất gia, hàm ý răn dạy người xuất gia hơn là nhằm vào giới cư sĩ; trong đó, vấn đề diệt trừ ái dục được đặc biệt chú trọng. Trong cái bối cảnh mà tăng chúng Giao-châu phần đông lơ là giới luật như thế, kinh Tứ Thập Nhị Chương đã ra đời kịp lúc như những lời cảnh tỉnh, hầu chấn chỉnh đạo phong của giới xuất gia, đem nếp sống phạm hạnh mà làm gương mẫu cho đời, củng cố niềm tin để cho nền mống đạo pháp được vững chắc. Ví dụ như lời Phật dạy ở Chương 1:

“Từ bỏ người thân để đi xuất gia, biết rõ tâm mình, thấu suốt bản tánh của mình, hiểu rõ pháp vô vi, đó gọi là sa môn; luôn hành trì 250 giới, đi đứng đều thanh tịnh, thực hành bốn đạo hạnh chân chính, thì chứng quả A-la-hán. [……] Người đoạn trừ ái dục, phải giống như chặt đứt chân tay, quyết không dùng lại nữa.”(22) Hoặc như Chương 16:

“Phật dạy: Người ôm tâm ái dục thì không thể thấy đạo; ví như nước đang lắng yên mà lấy tay khuấy lên, mọi người đến soi thì chẳng ai thấy được ảnh mình. Người thường dính dáng tới sắc dục thì tâm bị vẩn đục, cho nên không thể thấy được đạo. Các thầy sa môn! Hãy dứt bỏ ái dục! Chừng nào những cáu bẩn của ái dục tuyệt sạch, chừng đó quí thầy mới thấy được đạo.”(22)

Như vậy, khi pháp sư Đàm Thiên nói, nước ta vào thời đó đã có 15 quyển kinh Phật được lưu hành, thì chắc chắn, kinh Tứ Thập Nhị Chương là một trong số 15 quyển kinh đó. Sự việc nó được nói tới trong sách Lí Hoặc Luận của Mâu Tử, lại là một chứng cớ vững chắc nữa để xác định rằng, kinh này đã được tuyển dịch tại Việt-nam vào thượng bán thế kỉ thứ hai trở về trước. Pháp sư Đàm Thiên chỉ nói tới con số 15 quyển kinh đã được lưu hành ở nước ta vào thời đó, mà không nói rõ tên của 15 quyển kinh ấy. Nhưng theo những khám phá đầy tính khoa học gần đây của giáo sư Lê Mạnh Thát, trong số 15 quyển kinh kia, không những có kinh Tứ Thập Nhị Chương, mà ít ra, còn 3 quyển kinh nữa đã được tìm ra dấu tích và tên tuổi, đó là Lục Độ Tập Kinh, Cựu Tạp Thí Dụ Kinh và Tạp Thí Dụ Kinh. Ông nói:  “Như thế, một hệ thống kinh điển đã tồn tại ở nước ta vào thế kỷ thứ hai, mà quyển số theo Đàm Thiên có thể lên tới ’15 bộ’. Điểm đáng tiếc là ’15 bộ’ này gồm những kinh gì, thì Đàm Thiên, rồi sau đó Thông Biện đã không kể ra. Điều may mắn là hiện nay ta có thể truy ra được ít nhất ba bộ kinh đã lưu hành vào thời đó, tức là Cựu Tạp Thí Dụ Kinh, Tạp Thí Dụ Kinh và Lục Độ Tập Kinh…”(23) Hay ở một đoạn khác:

“Nói tóm lại, qua những phân tích sơ bộ trên, tối thiểu cho đến ngày nay ta có thể truy tìm lại được bốn bộ kinh đã tồn tại trong hệ thống kinh điển Phật giáo tại nước ta. Trong bốn bộ kinh đó, ngoại trừ Tứ Thập Nhị Chương Kinh, ba bộ còn lại đều thuộc loại kinh thí dụ…”(24)

Trong khi đó, theo giáo sư Nguyễn Lang, trong số 15 quyển kinh kia, ngoài Tứ Thập Nhị Chương còn có các kinh Bản Sinh (nói về các chuyện tiền thân của Phật), Bản Sự (nói về cuộc đời đức Phật), và có thể còn có cả kinh Di Lan Đà Vấn Đạo.(25)

Một nhận xét nữa của giáo sư Nguyễn Lang cũng đáng để chúng ta chú ý:  “Điều ta cần lưu ý ở đây là so với các trung tâm Lạc Dương và Bành Thành, trung tâm Luy Lâu ngoài việc dịch thuật kinh điển như các trung tâm khác, đã cống hiến những sáng tác sớm nhất. An Thế Cao, An Huyền, Nghiêm Phù Điều, Trúc Sóc Phật và Chi Lưu Ca Sấm ở Lạc Dương chỉ chú trọng nhiều về việc dịch thuật…”(26)

Lời nhận xét này đã cho thêm một chứng cứ để khẳng định rằng, kinh Tứ Thập Nhị Chương đã được tuyển dịch tại Giao-châu trong thời gian sớm sủa đó, chứ không phải tại Lạc-dương. Xét nội dung cũng như văn phong của kinh này, chúng ta thấy nó không phải là một bản dịch thuần túy, mà có vẻ như một bản kinh “phỏng dịch”, tức là, dịch là phần chính, nhưng cũng có thêm phần sáng tác. Xin thử so sánh một đoạn sau đây:

Kinh Tạp A Hàm có đoạn:

“Có một vị tôn giả tên là Nhị Thập Ức Nhĩ, dù tinh cần tu tập, nhưng vẫn không dứt hết phiền não; lòng buồn bực, muốn hồi tục. Phật hỏi ông: ‘Thầy gảy đàn, nếu dây đàn căng quá, tiếng đàn có êm dịu không?’ Ông thưa: ‘Bạch Thế Tôn, không!’ ‘Nếu dây đàn dùn quá, tiếng đàn có êm dịu không?’ Bạch Thế Tôn, không!’ Nếu dây đàn vừa phải, không căng quá mà cũng không dùn quá, thì thế nào, tiếng đàn có êm dịu không?’ ‘Bạch Thế Tôn, tiếng đàn sẽ nghe rất hay!’ Phật dạy: ‘Sự tu hành cũng giống như vậy. Sự tinh tấn mà khẩn trương quá thì sẽ sinh thất vọng; sự tinh tấn mà lơi lỏng quá thì sẽ sinh giải đãi. Vì vậy, thầy hãy tu tập với tâm bình đẳng. Đối với các pháp đã tiếp thọ, không nên chấp trước, cũng không nên buông thả, càng không nên dính mắc vào hình tướng.’ Tôn giả nghe xong, y theo lời dạy mà tư duy, tu tập, cho đến khi mọi phiền não đều dứt hết, tâm hoàn toàn giải thoát, chứng đắc quả vị A-la-hán.”(27)

Chương 34 của kinh Tứ Thập Nhị Chương đã “phỏng dịch” – thậm chí có thể nói là “phóng tác” – đoạn kinh trên như sau:

“Một vị sa môn, một đêm nọ tụng kinh Di Giáo của đức Phật Ca Diếp, tiếng nghe buồn bã, khẩn trương, có vẻ như ân hận, muốn thối chí. Đức Phật hỏi vị sa môn ấy: ‘Ngày trước ở nhà thầy từng làm nghề gì?’ Sa môn thưa: ‘Con rất thích đàn cầm.’ Phật hỏi: ‘Dây đàn dùn thì thế nào?’ Sa môn thưa: ‘Không ra tiếng.’ ‘Dây đàn căng thì thế nào?’ Sa môn thưa: ‘Mất tiếng.’ ‘Vừa phải, không căng không dùn thì thế nào?’ Sa môn thưa: ‘Các âm đều phát rõ.’ Phật dạy: ‘Sa môn học đạo cũng vậy. Nếu tâm điều hòa thư thái thì có thể đạt đạo. Đối với đạo, nếu gắng quá sức thì thân mỏi mệt; thân mỏi mệt thì ý sinh bực bội; ý bực bội thì hành sẽ thối lui; hành đã thối lui thì tội lỗi thêm nhiều. Chỉ có thanh tịnh an vui thì đạo mới không mất.’”(28)

Lại nữa, về tình hình hành đạo ở nước ta trong mấy thế kỉ đầu Tây lịch, quả thật, tăng đoàn Giao-châu đã gặp phải nhiều trở lực, vì sự bài xích của những người Hán theo Khổng và Lão giáo. Chính bản thân sách Lí Hoặc Luận của Mâu Tử đã cho ta thấy rõ tình hình đó. Bởi vậy, kinh Tứ Thập Nhị Chương đã cung cấp cho tăng đoàn những cung cách hành xử khôn khéo, đúng chánh pháp, để đối trị những trở lực kia.

Người hành đạo chân chính, trước hết cần tự biết lỗi và biết sửa lỗi mình; làm cho mình thanh tịnh để không ai có lí do gì đả kích mình; như Chương 5 của Kinh nói:

“…… Nếu người có lỗi, và tự biết mình có lỗi, cải ác làm lành, thì tội lỗi tự tiêu mất; như đang bệnh mà được ra mồ hôi, từ từ sẽ khỏi bệnh.” Đối với người phỉ báng mình thì sao? Chương 6 dạy:

“Người ác nghe ta hành thiện, liền đến quấy nhiễu. Ta hãy giữ tâm bình thản, không giận dữ trách móc. Người kia đến gây ác thì tự họ sẽ gánh chịu hậu quả ác.” Chương 7 tiếp:

“Có người nghe Phật giữ đạo, thực hành hạnh nhân từ, liền đến mắng Phật. Phật yên lặng, không phản ứng. Người ấy mắng xong, Phật hỏi: ‘Ông đem lễ vật tặng người, nếu người kia không nhận, có phải lễ vật ấy lại thuộc về ông không?’ Người ấy trả lời: ‘Vâng, thuộc về tôi.’ Phật dạy: ‘Nay ông mắng tôi, tôi không nhận những lời mắng ấy; ông hãy giữ họa đem về cho chính bản thân ông, như vang theo tiếng, bóng theo hình, không bao giờ tránh khỏi.

Vậy ông nên cẩn thận, đừng làm điều ác!’”  Chương 8 còn đưa ra những thí dụ hết sức thâm trầm:

“Phật dạy: Kẻ ác hại người hiền thì cũng như ngửa mặt lên trời mà phun nước miếng. Nước miếng không đến trời, mà trở lại rớt xuống mặt mình! Như tung bụi ngược gió, bụi không tới người mà trở lại dính dơ thân mình. Người hiền không thể nào bị hại, mà mọi tai họa đều phải bị tiêu diệt.”

Chương 10 ghi lời dạy của Phật về phước đức của những người tán trợ người hành đạo. Phước đức ấy như một bó đuốc lớn, dù có trăm ngàn người đến mồi lửa, lửa của bó đuốc cũng không bao giờ hết. Chương 33 ghi lời Phật dạy về ý chí dũng mãnh của người hành đạo:

“Phật dạy: Người hành đạo ví như một người phải chiến đấu với muôn người. Khi đã mặc giáp ra khỏi cửa, lòng hoặc là khiếp nhược, hoặc nửa đường thối lui, hoặc chiến đấu mà chết, hoặc chiến thắng trở về. Sa môn học đạo, tâm phải kiên trì, tinh tấn dũng mãnh, không sợ cảnh trước mặt, phá diệt các ma chướng, chứng đạt đạo quả.”(29)

Tất cả những chứng cớ trên đều cho ta thấy, kinh Tứ Thập Nhị Chương không phải là cuốn kinh đã được dịch từ Phạn ngữ ra Hán ngữ sớm nhất của Phật giáo Trung-quốc, như các sách sử của Phật giáo Trung-quốc đã khẳng định từ trước đến nay; mà hai vị đại sư Ấn-độ là Ca Diếp Ma Đằng và Trúc Pháp Lan cũng không phải là dịch giả của kinh này. Dù sau tựa đề kinh có ghi câu “Hậu Hán Ca Diếp Ma Đằng Trúc Pháp Lan đồng dịch”, thì đó cũng chỉ là một sự gán ghép không hợp lí mà thôi. Sự thực là ngày nay chúng ta chỉ thấy có danh tánh hai vị cao tăng này, mà không thấy có tác phẩm nào của hai ngài ấy. Lai lịch của hai vị cao tăng này đã không thấy nói tới trong luận văn Phật giáo viết bằng Hán ngữ xưa nhất hiện còn tồn tại là Lí Hoặc Luận của Mâu Tử. Bản Tứ Thập Nhị Chương Kinh in trong Đại Chánh Đại Tạng Kinh, sau tựa đề kinh có ghi hàng chữ “Hậu-Hán Tâyvức sa môn Ca Diếp Ma Đằng cộng Pháp Lan dịch”, nhưng trong bài tựa thì không thấy ghi tên hai vị cao tăng này như trong chú giải của đại sư Ngẫu Ích ghi trên. Khi Tăng Hựu (445-518) viết Xuất Tam Tạng Kí Tập vào đời Lương (502558), có nói kinh Tứ Thập Nhị Chương do Trúc Ma Đằng dịch, nhưng không chép gì về tiểu sử của Trúc Ma Đằng. Mấy mươi năm sau, khi Tuệ Hạo (497-554) viết sách Cao Tăng Truyện thì tiểu sử của ngài Ca Diếp Ma Đằng mới được nói tới rõ ràng, kèm theo truyền thuyết về giấc mộng người vàng của vua Hán Minh đế. Trong tiểu sử ấy có đoạn rằng:

“…… Đằng thệ nguyện hoằng pháp không sợ khó nhọc, mạo vượt lưu sa, thì đến Lạc Ấp. Minh Đế khen thưởng tiếp đãi rất hậu, ở ngoài cửa thành Tây dựng tinh xá cho Đằng ở. Đất Hán mới bắt đầu có sa môn. Nhưng đại pháp mới truyền, chưa có qui tín, nên Đằng giấu sự hiểu sâu của mình, mà không tuyên thuật điều gì. Ít lâu sau mất ở Lạc Dương. Có Ký nói: Đằng dịch Tứ Thập Nhị Chương Kinh một quyển xưa cất trong gian 14 nhà đá Lan Đài.”(30)

Như vậy là ngài Trúc Ma Đằng không có tác phẩm nào cả; còn chuyện ngài dịch kinh Tứ Thập Nhị Chương cũng không chắc chắn gì, Tuệ Hạo chỉ “nghe đồn” mà thôi. Tiếp đó, Tuệ Hạo cũng có ghi truyện của ngài Trúc Pháp Lan:

“Trúc Pháp Lan cũng được mời đến một lượt với Đằng, và đã phiên dịch năm bộ Thập Địa Đoạn Kết, Phật Bản Sinh, Pháp Hải Tạng, Phật Bản Hạnh và Tứ Thập Nhị Chương. Nhưng bốn bộ thất bản không truyền ở Giang Tả, chỉ Tứ Thập Nhị Chương này còn thấy, còn hơn hai ngàn lời. Đất Hán hiện còn các kinh, chỉ kinh này là đầu.”(31)

Về bốn dịch phẩm thất truyền này, tuy là có tên nhưng vẫn không có căn cứ chắc chắn, coi như không có. Về Kinh Tứ Thập Nhị Chương, được biết là Trúc Pháp Lan dịch chung với Ca Diếp Ma Đằng; mà Ma Đằng đã không có gì chắc chắn, thì Pháp Lan cũng vậy thôi.

Tới đây chúng ta có thể kết luận, Tứ Thập Nhị Chương là một trong những bộ kinh Phật đã được tăng đoàn Việt-nam dịch từ Phạn ngữ ra Hán ngữ tại Việt-nam sớm nhất (trong khoảng từ thế kỉ đầu cho đến nửa đầu thế kỉ thứ 2 Tây lịch – không biết đích xác dịch giả là ai), còn lưu truyền cho đến ngày nay. Kinh này đã được truyền bá đến miền Giang-tả vào giữa thế kỉ thứ 2 TL, và sau đó lan rộng đến Lạc-dương, kinh đô của nhà Hán. Với những khám phá quan trọng gần đây của hai vị giáo sư Nguyễn Lang và Lê Mạnh Thát, sự thực, một Tạng Kinh Việt-nam đã được hình thành từ mấy thế kỉ đầu Tây lịch, chắc chắn là chưa đầy đủ như ngày nay, nhưng cũng đã khá đồ sộ, như sách Lí Hoặc Luận nói: “Nay kinh Phật, quyển số kể đến vạn, lời đếm tới triệu, không phải sức một người có thể kham nổi…”(32), thật quá đủ để làm nền tảng vững chắc để xây dựng cho dân tộc Việt một nếp sống tinh thần văn minh, tiến bộ về mọi lĩnh vực như văn hóa, tư tưởng, giáo dục, chính trị, đạo đức v.v…; không những thế, nó còn là cơ sở chắc chắn để từ đó Phật giáo được truyền bá vào Trung-quốc, trước khi các vị Phạm tăng đến được đất Hán! Rất tiếc, vì nước nhỏ dân ít, nước ta đã bị người Trung-quốc xâm lăng mấy lượt, đô hộ cả nghìn năm. Với mưu đồ đồng hóa, họ đã tận diệt tất cả cái gia tài văn hóa của Việt-nam. Mỗi lần xâm lăng là mỗi lần thu vét sách vở, thứ gì thích thì mang về cất giữ làm của mình, thứ gì không thích thì đốt cháy sạch; cố làm cho mất hết vết tích. Chỉ cần tìm hiểu một bản kinh Tứ Thập Nhị Chương này thôi, đã hiển lộ cả một tình cảnh bi thương của đất nước Việt-nam như thế đó!

 

CHÚ THÍCH

1. Theo bản “Phật Thuyết Tứ Thập Nhị Chương Kinh Giải” của đại sư Ngẫu Ích (1599-1655), cuối đời Minh, trong sách Di Giáo Tam Kinh Chú Giải. Hương-cảng: Hương Cảng Phật Kinh Lưu Thông Xứ, 1988.

2. Ví dụ: Chương 29 đã được trích dịch từ kinh Đại Niết Bàn (bản Nam truyền); Chương 34 đã được trích dịch từ kinh Tạp A Hàm; v…

3. Giáo sư Nguyễn Lang có đưa ra nhiều điểm dị biệt khi đối chiếu các bản in khác nhau của kinh này. Xin xem sách Việt Nam Phật Giáo Sử Luận, quyển 1, Chương 2, để biết rõ chi tiết.

4. Giáo sư Nguyễn Lang, trong Việt Nam Phật Giáo Sử Luận I, đã viết nhầm là “Truyền Nghị”. – Trong chữ Hán, tự dạng của hai chữ “phó” và “truyền” trông giống nhau.

5. Không biết do dâu, các sách tiếng Việt đều viết là “Thái Hâm”. – Trong chữ Hán, tự dạng của hai chữ “âm” và “hâm” trông giống nhau.

6. Lời chú giải của đại sư Ngẫu Ích, trong sách Di Giáo Tam Kinh Chú Giải.

7. Xin xem “Bản Dịch Lý Hoặc Luận”, trang 173, sách Tổng Tập Văn Học Phật Giáo Việt Nam I của Lê Mạnh Thát. Sài-gòn: Nhà xuất bản Thành Phố Hồ Chí Minh, 2001.

8. Đúng ra là “Đại Nhục-chi”. – Trong các kinh luận chữ Hán, khi viết tên nước Đại-nhục-chi, chữ “nhục” được viết y như chữ “nguyệt”; chữ “chi” được viết y như chữ “thị”; cho nên có người đọc là “nguyệt thị”, hoặc “nguyệt chi”.

9. Lê Mạnh Thát, sđd, tr. 195.

10. Các sách tiếng Việt đều viết nhầm là “Tổng”.

11. Lê Mạnh Thát, sđd, tr. 77.

12. Nguyễn Lang, sđd, tr. 57-58.

13. Gs Lê Mạnh Thát, trong sách TTVHPGVN I, đã viết nhầm là năm 167.

14. Phù Đồ là tiếng dịch âm khác của Phật Đà, tức là “Phật”.

15. Lê Mạnh Thát, sđd, tr. 148.

16. Kinh Tứ Thập Nhị Chương, chương 3: “Phật dạy: Người đã cạo bỏ râu tóc, làm vị sa môn, thọ nhận đạo pháp, hãy từ bỏ của cải thế tục, chỉ xin ăn đủ sống; mỗi ngày chỉ ăn một bữa trưa, chỉ ngủ mỗi đêm nơi một gốc cây, không được nhiều hơn. Chính ái và dục làm cho con người bị ngăn che, ngu tối vậy.”

17. Kinh Tứ Thập Nhị Chương, chương 26: “Thiên thần dâng ngọc nữ cho Phật, muốn phá hoại ý chí của Phật. Phật dạy: Cái đãy da đựng đủ thứ đồ dơ bẩn, ông đem đến đây làm gì! Đem đi, tôi không dùng! Thiên thần rất kính phục, bèn hỏi ý đạo, Phật giảng nói cho. Nghe xong liền chứng quả Tu-đà-hoàn.”

18. Nguyễn Lang, sđd, tr. 20-21.

19. Lê Mạnh Thát, sđd, tr. 190.

20. Lê Mạnh Thát, Lịch Sử Phật Giáo Việt Nam, tập 1, Huế: Nhà xuất bản Thuận Hóa, 1999, tr. 98.

21. Sách Cao Tăng Truyện trích lời sớ của Vương Độ đời Tấn: “Từ khi Phật giáo được du nhập, chỉ nghe nói đến các sư Tây Vực được phép lập chùa thờ Phật, người Hán không được phép xuất gia. Nhà Ngụy theo pháp chế của nhà Hán, cũng chưa cho dân bản xứ xuất gia.” (Nguyễn Lang, sđd, tr. 23.)

22. Trích dịch từ sách Di Giáo Tam Kinh Chú Giải của đại sư Ngẫu Ích.

23. Lê Mạnh Thát, TTVHPGVN I, tr.76.

24. Lê Mạnh Thát, sđd, tr. 82.

25. Nguyễn Lang, sđd, tr. 35.

26. Nguyễn Lang, sđd, tr.36-37.

27. Xin xem trong bài 8, ở trước.

28. Trích dịch từ sách Di Giáo Tam Kinh Chú Giải của đại sư Ngẫu Ích.

29. Các đoạn kinh văn trên đều được trích dịch từ sách Di Giáo Tam Kinh Chú Giải của đại sư Ngẫu Ích.

30. Lê Mạnh Thát, sđd, tr. 79.

31. Như trên.

32. Lê Mạnh Thát, sđd, tr. 179.