GIÁO KHOA PHẬT HỌC
Nguyên tác Hán ngữ của PHƯƠNG LUÂN cư sĩ
Cư sĩ HẠNH CƠ dịch và biên soạn bổ túc

 

CẤP BA

Bài 19
TÔNG PHÁP TƯỚNG (phần 6)

XIII. CHẾ PHỤC và ĐOẠN TRỪ HAI CHƯỚNG

Ở trên vừa nói hàng tiểu thừa tu phép quán “ngã không”, đoạn trừ phiền não chướng mà chứng niết bàn, hàng đại thừa tu phép quán “pháp không”, đoạn trừ sở tri chướng mà chứng bồ đề; đó chẳng qua là nói một cách sơ sài, đại khái. Thật ra, hai thứ phiền não chướng và sở tri chướng ấy còn được phân làm hai loại: phân biệt khởi và câu sinh khởi. Sau khi sinh ra đời, người ta bị tà sư, tà giáo, hoặc các tư tưởng bất chánh, cùng những ảnh hưởng của hoàn cảnh chung quanh mà tạo thành các hoặc chướng, gọi đó là “phân biệt khởi”; còn các hoặc chướng vốn có từ bao đời trước, bây giờ cùng khởi dậy đồng thời với 6 thức trước hay thức thứ bảy, gọi là “câu sinh khởi”. Lại nữa, hai loại chướng ngại này phát sinh ra có hình trạng, biểu hiện ra bề ngoài, gọi là “hiện hành”; nhưng cái gốc rễ của chúng thì ẩn tàng ở bên trong, đó gọi là “chủng tử”. Do kết quả của công phu tu hành mà chủng tử bị tiêu diệt, tuy vậy, khí chất của chúng vẫn còn, rất khó diệt trừ; giống như cái hũ đựng nước muối lâu ngày, tuy rửa sạch mà cái dư vị khó hết, gọi đó là “tập khí”. Muốn đối trị với 3 thứ hiện hành, chủng tử và tập khí kia, cần có 3 biện pháp không giống nhau: chế phục (phục), đoạn trừ (đoạn) và buông bỏ (xả). Chủng tử chưa bị nhổ lên, chỉ cần áp chế không để cho chúng phát khởi ra hiện hành, gọi là “chế phục”; tóm thâu hết chủng tử mà nhổ bỏ đi, gọi là “đoạn trừ”; sau khi đã đoạn trừ chủng tử thì tập khí cũng không giữ lại làm gì, gọi “buông bỏ”.

Nay xin đem thứ lớp của việc đoạn hoặc của tông Pháp Tướng, trình bày bằng đồ biểu như sau:

XIV. CHUYỂN 8 THỨC THÀNH 4 TRÍ

Thức hữu lậu tuy là căn bản của luân hồi, nhưng ngay trong khi tu hành, phải lợi dụng thức  vô lậu để thực hiện mọi pháp sự. Trong thời gian đó, do hữu lậu biến đổi thành vô lậu, gọi là “chuyển”, giống như người ác mà biến đổi thành người thiện, tình hình kia là y vào tánh chất của họ mà biến đổi ngược lại. 8 thức có thể phân làm 4 loại để chuyển: 5 thức trước là 1 loại; thức thứ sáu, thức thứ bảy và thức thứ tám, mỗi thức 1 loại. Thức thứ sáu và thức thứ bảy là “nhân trung chuyển”, 5 thức trước và thức thứ tám là “quả thượng viên”.2 Đến như tác dụng chuyển đổi thì phải nhờ công phu tu tập phép quán “hai không” của thức thứ sáu, đoạn trừ hai chấp ngã và pháp; cái kết quả đó làm cho 5 thức trước thành tựu các việc làm lợi ích chúng sinh, gọi là “thành sở tác trí”; làm cho thức thứ sáu quán sát tướng của các pháp và căn khí của chúng sinh, đúng bệnh cho thuốc, chuyển phàm thành thánh, gọi là “diệu quán sát trí”; làm cho thức thứ bảy xa lìa 4 phiền não, mình người bình đẳng, cứu vớt hàm linh3, gọi là “bình đẳng tánh trí”; làm cho thức thứ tám sạch hết vô minh, dị thục đều không, vắng lặng mà soi chiếu vô biên, giống như tấm gương tròn đầy, gọi là “đại viên cảnh trí”.

XV. NĂM LỚP QUÁN DUY THỨC

Phép quán chiếu mà tông Pháp Tướng tu tập, từ chỗ thô sơ đến chỗ vi tế, gồm có 5 lớp, gọi là “5 lớp quán duy thức”. Lớp thứ nhất là “bỏ hư giữ thật”, tức là trừ bỏ cái tánh hay tính toán suy lường hư vọng của tánh biến kế sở chấp, mà tồn giữ cái thật thể của tánh y tha khởi và tánh viên thành thật, gọi là “bỏ hư giữ thật”. Lớp thứ hai là “bỏ lạm giữ thuần”, tức là vất bỏ ngoại cảnh bừa bãi lộn xộn mà tồn giữ nội thức thuần túy, gọi là “bỏ lạm giữ thuần”. Lớp thứ ba là “nhiếp ngọn về gốc”, tức là từ trên tác dụng chi mạt của hai phần kiến tướng mà thu nhiếp qui về bản thể tự chứng phần, gọi là “nhiếp ngọn về gốc”. Lớp thứ tư là “ẩn xấu hiển tốt”, tức là ẩn giấu cái tâm sở xấu kém mà làm sáng tỏ cái tâm vương ưu thắng, gọi là “ẩn xấu hiển tốt”. Lớp thứ năm là “bỏ tướng chứng tánh”, tức là trừ bỏ sự tướng sai biệt mà chứng nhập lí tánh không sai biệt; hay nói cách khác, trừ bỏ tất cả pháp tướng mà chứng nhập tất cả pháp tánh, gọi là “bỏ tướng chứng tánh”.

Lại nữa, 5 lớp quán duy thức ấy cũng tức là 5 cặp tương đối: Lớp thứ nhất, bỏ hư giữ thật, là “tương đối có không”, phải bỏ cái không mà giữ cái có. Lớp thứ nhì, bỏ lạm giữ thuần, là “tương đối tâm cảnh”, phải bỏ cảnh mà giữ tâm. Lớp thứ ba, nhiếp ngọn về gốc, là “tương đối thể dụng”, phải nhiếp dụng qui về thể. Lớp thứ tư, ẩn xấu hiển tốt, là “tương đối vương sở”, phải ẩn giấu tâm sở mà hiển bày tâm vương. Lớp thứ năm, bỏ tướng chứng tánh, là “tương đối lí sự”, phải bỏ sự tướng mà chứng lí tánh. Bốn lớp đầu thuộc về tướng duy thức, lớp sau cùng thuộc về tánh duy thức; xin liệt kê thành đồ biểu như sau:

CHÚ THÍCH

1. Tam-hiền, Tứ-thiện-căn: Xin xem lại bài 13, sách Trung Cấp, đồ biểu địa vị Tu-đạo.

2. Chuyển thức thứ sáu thành trí diệu quán sát, thức thứ bảy thành trí bình đẳng tánh, đều ở thời kì tu nhân thành Phật. 5 thức trước phải đến khi thức thứ tám chuyển thành trí đại viên cảnh, thì đồng thời chúng mới chuyển thành trí thành sở tác, mà viên thành quả Phật; cho nên có câu nói: “Lục, thất, nhân trung chuyển; ngũ, bát, quả thượng viên.”

3. Từ “hàm linh” là nói tắt của câu “hàm hữu linh tánh chúng sinh” (gồm hết chúng sinh có linh tính), cùng nghĩa với từ “hàm thức”.

 

BÀI TẬP

1) Trong hai thứ chướng ngại, thứ nào là phân biệt khởi? Thứ nào là câu sinh khởi?

2) Chế phục, đoạn trừ và buông bỏ, không giống nhau như thế nào?

3) 8 thức chuyển thành những loại trí gì?

4) Sao gọi là bỏ hư giữ thật? Bỏ lạm giữ thuần? Nhiếp ngọn về gốc? Bỏ tướng chứng tánh?

5) Hãy liệt kê 5 lớp quán duy thức bằng đồ biểu, kể cả tướng duy thức và tánh duy thức.