GIÁO KHOA PHẬT HỌC
Nguyên tác Hán ngữ của PHƯƠNG LUÂN cư sĩ
Cư sĩ HẠNH CƠ dịch và biên soạn bổ túc
CẤP BA
Bài 6
TÔNG HOA NGHIÊM (phần 3)
VII. MƯỜI DUYÊN KHỞI MẦU NHIỆM
Mười duyên khởi mầu nhiệm là mười pháp mầu nhiệm làm duyên cho nhau để sinh khởi các pháp khác, cũng tức là tướng trạng của “sự sự vô ngại pháp giới” trong bốn loại pháp giới vậy. Nếu hiểu rõ giáo nghĩa này thì có thể vào sâu trong biển mầu nhiệm của bộ kinh lớn Hoa Nghiêm; cho nên lại được gọi là “mười cánh cửa mầu nhiệm”. Nhưng đại sư Chí Tướng1 và đại sư Hiền Thủ đã trình bày về mười cánh cửa mầu nhiệm này khác nhau chút ít; nay xin y theo tác phẩm Thám Huyền Kí2 của đại sư Hiền Thủ mà trình bày sơ lược như sau:
1) Đồng thời cụ túc tương ứng môn: Các pháp trong ba đời đều không xa rời nguyên lí duyên khởi, không những thế, mà trong cùng một lúc, chúng còn làm duyên cho nhau sinh khởi, đầy đủ trọn vẹn. Trong khắp mười phương thế giới, mối quan hệ của tất cả sự vật cực kì mật thiết vi diệu, hợp thành một “đại duyên khởi” mà tồn tại; một hạt bụi dấy động là toàn thể liền chịu ảnh hưởng. Cái cuộc diện vạn pháp hô ứng lẫn nhau một cách đầy đủ trọn vẹn ấy được gọi là “đồng thời cụ túc tương ứng môn”. Cánh cửa này được coi là tổng tướng của sự sự vô ngại pháp giới; chín cánh cửa còn lại chỉ là những ý nghĩa khác của cánh cửa này.
2) Quảng hiệp tự tại vô ngại môn: Do một pháp duyên khởi thành tất cả pháp, thì cái sức của một pháp ấy lớn bao trùm không có gì lọt ra ngoài, gọi là “quảng”. Nhưng nếu tìm đến cái chỗ gốc của một pháp ấy thì giới hạn của nó quá nhỏ hẹp, gọi là “hiệp”. Tất cả vạn pháp đều có đủ hai nghĩa rộng hẹp như thế, vận dụng một cách tự tại, không chướng ngại lẫn nhau, cho nên gọi là “quảng hiệp tự tại vô ngại môn”.
3) Nhất đa tương dung bất đồng môn: Theo ý nghĩa của môn “quảng hiệp tự tại vô ngại” vừa được trình bày ở trên, khi cái tư thế của một pháp nhập vào trong tất cả pháp, thì đồng thời cái tư thế của tất cả pháp cũng nhập vào trong một pháp ấy. Cái một và cái nhiều dung chứa nhau như thế, nhưng bản vị của cái một không mất mà bản vị của cái nhiều cũng không mất; vả lại, tướng một và tướng nhiều, hai cái tướng ấy thực hiển nhiên là không giống nhau, cho nên gọi là “nhất đa tương dung bất đồng môn”; – đây là đứng trên phương diện “dụng” mà nói.
4) Chư pháp tương tức tự tại môn: Theo ý nghĩa của môn “nhất đa tương dung bất đồng” vừa được trình bày ở trên, ngay khi cái thế lực của một pháp nhập vào trong tất cả pháp, thì một pháp này tức là một pháp của tất cả pháp. Cái thể của pháp này làm thành toàn vẹn tất cả pháp, như thế cũng có nghĩa là, ở ngoài tất cả pháp hoàn toàn không có một pháp này. Như thế thì thu hết tất cả pháp mà làm thành cái thể của một pháp, thì ở ngoài một pháp này hoàn toàn không có tất cả pháp. Như vậy tức là, cái thể của tất cả pháp là thể rỗng, còn cái thể của một pháp này là thể thật. Như thế đó, một rỗng một thật, một pháp tức ở nơi tất cả pháp, tất cả pháp tức ở nơi một pháp, tự tại vô ngại, cho nên gọi là “chư pháp tương tức tự tại môn”; – đây là đứng trên phương diện “thể” mà nói.
5) Ẩn mật hiển liễu câu thành môn: Theo ý nghĩa vừa trình bày trên, ngay khi một pháp tức ở nơi tất cả pháp, thì tất cả pháp là hiển rõ mà một pháp thì ẩn kín. Ngay khi tất cả pháp tức ở nơi một pháp, thì một pháp là hiển rõ mà tất cả pháp là ẩn kín. Hai tướng hiển và ẩn này đều đồng thời thành tựu đầy đủ. Như nấu vàng đúc thành sư tử, khi để ý thấy vàng thì vàng hiển rõ mà sư tử thành ra ẩn kín; khi để ý thấy sư tử thì sư tử hiển rõ mà vàng thành ra ẩn kín. Ẩn và hiển cùng lúc thành tựu đầy đủ mà không hề chướng ngại nhau, cho nên gọi là “ẩn mật hiển liễu câu thành môn”.
6) Vi tế tương dung an lập môn: Một pháp tuy cực nhỏ cũng dung chứa được tất cả pháp. Đó chính là điều mà trong kinh nói: Trong một lỗ chân lông mà an lập một cách rộng rãi vô lượng cõi Phật thanh tịnh trang nghiêm.3
7) Nhân Đà La võng pháp giới môn: Nhân Đà La dịch là Thiên Chủ, tức trời Đế Thích. Tấm lưới ngọc của trời Đế Thích, mỗi hạt ngọc đều chiếu hiện hình ảnh của tất cả các hạt ngọc khác của tấm lưới ấy; đó là một lớp mỗi mỗi hạt ngọc ảnh hiện. Hình ảnh của tất cả các hạt ngọc chiếu hiện trong một hạt ngọc ấy, mỗi hình ảnh lại chiếu hiện hình ảnh của các hạt ngọc; đó là hai lớp mỗi mỗi hạt ngọc ảnh hiện. Cứ như thế mà lớp lớp hình ảnh các hạt ngọc chiếu hiện, vô cùng vô tận. Mỗi một vi trần trong pháp giới đều ảnh hiện vô biên cõi nước, trong biển cõi nước ấy lại có vi trần, mỗi vi trần lại ảnh hiện biển cõi nước; cứ như thế trùng trùng vô tận, không khác gì tấm lưới ngọc của trời Đế Thích, cho nên gọi là “Nhân Đà La võng pháp giới môn”.
8) Thác sự hiển pháp sinh giải môn: Mượn một sự, một lí, liền đủ để biểu hiện pháp môn vô tận, khiến cho người sinh tâm tin tưởng và hiểu biết, gọi là “thác sự hiển pháp sinh giải môn”.
9) Thập thế cách pháp dị thành môn: Tám môn trên nhằm trình bày cái tướng viên dung vô ngại ở trong không gian, môn thứ chín này không những nói rõ cái chiều rộng không gian là như vậy, mà cả cái chiều dài thời gian cũng như vậy. 10 đời gồm có: quá khứ, hiện tại, vị lai là 3 đời; mà mỗi một đời trong ba đời này lại cũng có 3 đời quá khứ, hiện tại, vị lai, vị chi là 9 đời; chín đời này tức là nhau, ở trong nhau, tóm thâu thành 1 đời; cộng cả thảy là 10 đời. Các pháp trải cách nhau 10 đời, tuy khác biệt nhưng thành tựu cùng lúc; ý nói, một niệm và một kiếp dung thông nhau, tức là nhau, ví như trong một giấc mộng ngắn ngủi mà hiện rõ các sự việc đến cả 10 năm, hay sự việc của cả 10 năm mà hiện ra chỉ trong một giấc mộng ngắn, cho nên gọi là “thập thế cách pháp dị thành môn”.
10) Chủ bạn viên minh cụ đức môn: Các pháp trong mười phương ba đời đã thành là một đại duyên khởi, thì khi một pháp phát sinh, các pháp liền sinh theo; một pháp là chủ, các pháp là bạn. Theo đó mà nêu lên một pháp, pháp nào cũng như vậy. Một pháp đầy đủ trọn vẹn tất cả công đức, như mặt trăng tròn sáng rỡ là chủ, các ngôi sao quây quần chung quanh là bạn, cho nên gọi là “chủ bạn viên minh cụ đức môn”.
Mười cánh cửa mầu nhiệm như vừa trình bày trên đều đầy đủ trong một hạt bụi. Cũng vậy, vô số hạt bụi trong khắp thế giới mười phương cũng đầy đủ mười cánh cửa mầu nhiệm, hàm nhiếp nhau một cách vô ngại, dung thông nhau, ở trong nhau, trùng trùng vô tận; nêu lên một cái liền tóm thâu toàn thể các cái, tương ứng viên mãn; đó gọi là pháp môn “thập huyền duyên khởi”, hay cũng được gọi là pháp môn “vô tận duyên khởi”.(1)
CHÚ THÍCH
1) Vân Hoa Trí Nghiễm đại sư cũng có hiệu là Chí Tướng tôn giả, là tổ thứ nhì của tông Hoa Nghiêm.
2) Tức tác phẩm Hoa Nghiêm Kinh Thám Huyền Kí do ngài Hiền Thủ soạn để giải thích kinh Hoa Nghiêm.
3) Xin xem phẩm “Lô Xá Na” trong bản kinh Tấn dịch(2).
PHỤ CHÚ
(01) Tất cả 10 cánh cửa mầu nhiệm (thập huyền môn) mà tác giả trình bày trong bài trên, có thể được tóm gọn trong một mệnh đề “Một là tất cả, tất cả là một” (Nhất tức nhất thiết, nhất thiết tức nhất). Cũng có thể nói, đây là mệnh đề tóm tắt toàn bộ yếu nghĩa của kinh Hoa Nghiêm. Yếu nghĩa ấy nói về mối tương quan tương duyên chằng chịt của tất cả mọi sự vật trong vũ trụ: Sự vật này tức là sự vật kia, sự vật kia tức là sự vật này; một sự vật có mặt trong tất cả mọi sự vật, tất cả mọi sự vật có mặt trong một sự vật; một sự vật tức là tất cả sự vật, tất cả sự vật tức là một sự vật. Theo nguyên lí duyên khởi, một sự vật không thể tự nó có mặt, mà đã do vô số các sự vật khác, không phải là nó, hợp lại cấu thành. Một cuốn sách chẳng hạn, không phải tự nó hiện ra, nhưng đã do tất cả những cái “không phải là sách” (như giấy, mực, máy in, nhân công, những vật liệu làm ra giấy, làm ra mực, làm ra máy in, rồi những thứ đã nuôi sống thợ làm giấy, thợ làm mực, thợ nhà in, v.v… nhiều lắm, kể cả trời trăng không khí, núi sông hoa cỏ, cùng khắp vũ trụ, không kể hết được!), tất cả cùng hợp lại làm thành cuốn sách ấy. Bởi vậy, trong cuốn sách có mặt tất cả mọi thứ trong vũ trụ, mọi thứ trong vũ trụ đều có mặt trong cuốn sách; giữa cuốn sách và mọi thứ trong vũ trụ không có gì ngăn cách. Cuốn sách và mọi thứ trong vũ trụ cùng lúc làm thành nhau, có mặt trong nhau, tức là nhau. Hành giả quán chiếu đến khi đạt được tuệ giác này thì tâm ý tức khắc được giải thoát khỏi những ràng buộc, những hạn chế của ngã chấp và pháp chấp, chấm dứt khổ đau.
(02) “Bản kinh Tấn dịch” trong chú thích số 3 của tác giả, tức là bộ kinh Lục Thập Hoa Nghiêm, cũng gọi là Cựu dịch Hoa Nghiêm, do ngài Phật Đà Bạt Đà La dịch vào đời Tấn.
BÀI TẬP
1) Những gì là “mười duyên khởi mầu nhiệm”?
2) Hãy giải thích thế nào là “đồng thời cụ túc tương ứng môn”?
3) Sao gọi là “ẩn mật hiển liễu câu thành môn”? Hãy nêu một thí dụ để làm tỏ rõ lí lẽ ấy.
4) Vật vi tế có thể dung chứa tất cả pháp. Có câu kinh văn nào có thể chứng minh điều đó, xin hãy viết ra.
5) Hãy nói cái nghĩa “10 đời”. 6) Hãy giải thích “pháp giới như tấm lưới trời Đế Thích”.
Tổng Hợp Yếu Chỉ các bài 4, 5 và 6
1) Tương truyền kinh Hoa Nghiêm, sau khi do Bồ-tát Văn Thù và tôn giả A Nan kết tập, đã được cất giữ tại Long-cung. Về sau, Bồ-tát Long Thọ vào Long-cung, trông thấy có ba bản kinh, nhưng chỉ lấy Bản Hạ đem lưu truyền ở thế gian. Thuyết đó nghe gần như thần thoại, không đủ để tin tưởng chắc chắn. Lấy ý mà suy, suốt mấy trăm năm sau ngày đức Thích Tôn nhập diệt, trên toàn cõi Ấn-độ chỉ có tiểu thừa giáo thịnh hành, tất cả kinh điển đại thừa đều bị mai một, không được lưu truyền; tình hình này thì đúng là sự thật. Nhưng, không được lưu truyền là vì không có người hoằng dương, chứ hoàn toàn không phải là bị hủy diệt mất. 600 năm sau ngày Phật nhập diệt, Bồ-tát Mã Minh đã tập hợp tông yếu của hàng trăm kinh điển đại thừa để trước tác bộ luận Đại Thừa Khởi Tín, xem sự việc ấy thì đủ thấy, kinh điển đại thừa từng có nhiều ở nhân gian, nhưng không có người để ý đến, giống như là tuyệt tích vậy. Bồ-tát Long Thọ lấy được kinh mà lại lúng túng trong việc lưu truyền, xét ra cũng hợp với tình lí, ban đầu không chắc đã phải nhờ nơi Long-cung mới có Hoa Nghiêm vậy. Đến như truyền thuyết về Bản Thượng, Bản Trung, thì hãy cứ nghe như vậy đi, còn sự thật có hay không thế nào, chẳng cần phải cứu xét làm gì; tại vì, thuyết ấy dù đúng dù sai thì cũng không quan hệ gì đến tông chỉ của việc hoằng dương.
2) Pháp giới duyên khởi cũng như ba phép quán về pháp giới thật là cách nhìn cực kì mầu nhiệm của tông Hoa Nghiêm đối với vũ trụ vạn hữu. Pháp giới duyên khởi tức là do tất cả pháp mà sinh khởi một pháp, do một pháp mà sinh khởi tất cả pháp, cả hai sự việc đó xảy ra cùng một lúc, không cái nào trước, không cái nào sau. Hãy thử lấy một sợi lông trên người chúng ta làm một pháp để quán sát. Nếu muốn sợi lông ấy sinh khởi và tồn tại thì phải có một thân thể hoàn chỉnh, nếu không thì người đã không có, làm sao có sợi lông! Thứ đến, nếu muốn duy trì cái thân này, tất cả các điều kiện sinh hoạt cần phải đầy đủ, cái thân này mới có thể tồn tại. Như vậy thì toàn thể vũ trụ, tất cả trời trăng sông núi, cỏ cây nhà cửa, mỗi mỗi đều phải kiến lập. Do đó, sự thật là phải dùng tất cả thế lực của mối quan hệ hỗ tương của tất cả pháp mới có thể sinh khởi một sợi lông; đó gọi là do tất cả pháp sinh khởi một pháp. Nói trái lại, vì muốn sinh khởi và duy trì một sợi lông mà phải sinh khởi toàn thể vũ trụ vạn hữu; đó gọi là do một pháp sinh khởi tất cả pháp. Hai lớp ý nghĩa này giống như cây lau nương vào nhau mà đứng, mỗi duyên sinh khởi, sở duyên của nó cùng sinh khởi, trùng trùng vô tận, không có cái kia cho nên không có cái này, không có cái này thì cũng không có cái kia; đó gọi là “pháp giới duyên khởi”; đó cũng là nói rõ ý nghĩa về tính duyên khởi lẫn nhau của sự sự vật vật trong toàn thể pháp giới.
3) Căn nguyên của pháp giới duyên khởi là do ở chân như không giữ tự tánh, bất giác tâm giao động, bèn sinh ra vạn hữu. Nếu muốn trở về nguồn cội chân như, chỉ cần tâm trống rỗng thì vạn pháp liền tiêu diệt, không có gì khác! Như sau khi tỉnh mộng thì cảnh giới trong mộng liền mất; mà khi chưa tỉnh, người đó vẫn thấy cảnh giới đó là có thật. Trong 10 pháp giới(1), chỉ có Phật là người tỉnh mộng, chúng sinh trong 9 pháp giới kia đều còn mê trong cảnh giới mộng!
4) Cái lớn ở trong cái nhỏ, nhiều cái ở trong một cái, điều này có hai mặt lí và sự. Nói về mặt lí, bên trong một hạt bụi có hàm chứa thế lực của toàn thể vũ trụ, nếu không thế thì hạt bụi đó không thể tồn tại. Hàm nhiếp cái thế lực của toàn thể vũ trụ ở trong một hạt bụi, tức là cái lớn ở trong cái nhỏ, nhiều cái ở trong một cái. Nói về sự, nhét quả núi Tu-di vào trong một hạt cải, đổ nước cả bốn biển lớn vào trong một lỗ chân lông, đặt ba vạn hai ngàn tòa sư tử trong căn phòng chỉ rộng một trượng vuông, đó là cái lớn ở trong cái nhỏ, nhiều cái ở trong một cái. Chư Phật và Bồ-tát đã ở trong tự tánh, chứng nhập tận cùng cái lí, lại chứng nhập tận cùng cảnh giới lí sự vô ngại và sự sự vô ngại; đối với tâm thì tự tại, đối với pháp cũng tự tại, làm chủ vạn pháp, không có gì là không như ý. Cõi trời Tha-hóa-tự-tại(2) ở Dục giới và cõi trời Ma-hê-thủ-la(3) ở Sắc giới cũng có một phần bản lãnh này. Chúng ta mang thân phàm phu, không có trí tuệ sáng suốt, mới bị vạn pháp sai khiến, thì làm sao mà làm chủ vạn pháp! Cho nên đối với loại lí luận này, chỉ nên nghe để biết mà thôi; nếu muốn thật chứng thì phải đợi tu hành cho đến khi đạt được địa vị Bồ-tát mới lại nói đến; tạm thời có thể không cần phải nghiên cứu kĩ càng.
5) Nghiệp cảm duyên khởi, a-lại-da duyên khởi, chân như duyên khởi, pháp giới duyên khởi, cả bốn luận thuyết ấy đều đúng lí. Thuyết “ba vi tế, sáu thô sơ” được nêu trong bộ luận Đại Thừa Khởi Tín, chính là hành tướng của “vạn pháp duyên khởi”. Trong “ba vi tế” thì tướng vi tế đầu tiên là “vô minh nghiệp tướng”, là chỉ cho ở một niệm ban sơ bất giác mà tâm giao động. Tâm động tức là nghiệp, và liền sau đó là sinh khởi tướng nghiệp; nghiệp ràng buộc với tướng khổ, lại vẫn là nghiệp vậy. Cho nên vạn pháp trong vũ trụ, từ đầu đến đuôi, toàn là nghiệp chủ động thao túng hoành hành, làm thành tấm lưới nghiệp rộng lớn bao la, trùm khắp vô tận. Cái cách lấy NGHIỆP để nhìn pháp giới như thế, gọi là “nghiệp cảm duyên khởi”; và đó là cái nhìn hoàn toàn đúng đắn, không có điểm nào sai lầm. Tiến thêm một bước mà nói, tất cả chúng sinh từ vô thỉ đến nay, chuyển từ một bản thể tinh ròng rỗng sáng thành ra tám thức. Trong tám thức ấy, thức thứ tám là a-lại-da làm chủ, bảy thức trước đều nương dựa vào nó. Trong thức a-lại-da, chủng tử của mười pháp giới, “pháp nhĩ”(4) đầy đủ, gặp các duyên nhiễm, tịnh huân tập thì phát khởi thành hiện hành. Mười phương ba đời, vô lượng cảnh giới y và chánh báo, đều được xây dựng nên dưới dạng thức này. Do cách này mà nhìn pháp giới, gọi là “a-lại-da duyên khởi”, và cũng hoàn toàn không có một điểm sai lầm. Lại tiến thêm một bước mà nói, vạn pháp bời bời chằng chịt, cái này khởi cái kia diệt, toàn là tùy duyên hiển hiện. Thức a-lại-da vốn là chân vọng hòa hợp, mà vọng y nơi chân mà khởi, chỉ nhân một niệm bất giác(5) đã khiến cho toàn chân thành vọng. Cách nhìn như thế đối với vạn pháp gọi là “chân như duyên khởi”, dù một điểm cũng không sai lầm. Sự vật tuy là như thế, nhưng khi một pháp khởi sinh thì thế lực nhân duyên của nó bủa khắp, như thân cây dưa, kéo bên trái, níu bên phải, bao la rộng rãi; nếu nói cho đến cùng thì toàn trong vũ trụ, không có một pháp nào mà không quan hệ với cây dưa ấy. Chạm một hạt bụi liền giao động cả toàn thế giới. Cách nhìn như thế đối với vạn pháp gọi là “pháp giới duyên khởi”, là cách nhìn hoàn toàn đúng đắn.
Bốn thuyết duyên khởi vừa được trình bày trên đại biểu cho bốn cách nhìn vạn pháp ở bốn khía cạnh, mà khía cạnh nào cũng phù hợp với chân lí. Nếu muốn điều hòa giữa bốn thuyết duyên khởi đó, chỉ cần đặt xuống một lời chuyển ngữ trên bốn chữ “nhất tâm duyên khởi”, là đủ để có một cái nhìn xuyên suốt. Lí do là vì, bất luận là duyên khởi theo cách nào, nếu tâm không giao động thì chẳng có pháp nào sinh khởi; vì tâm giao động cho nên vạn pháp mới sinh khởi. Chủ trương “đế duyên khởi” của ngoại đạo đương nhiên không thể trở thành một lí do. Vạn pháp nếu do thượng đế duyên khởi, thì thượng đế đã do từ duyên khởi nào? Nếu đã có duyên khởi thì “thượng đế duyên khởi” đã rơi vào giai đoạn thứ hai. Đã là giai đoạn thứ hai thì trước giai đoạn đó lại còn có duyên khởi, cho nên không nói thượng đế là “đầu tiên” được! Nếu không có duyên khởi thì thượng đế là loại quả không có nhân, đối với chân lí thì điều này hoàn toàn không phù hợp. Cho nên người có phước mới có duyên nghe được Phật pháp, nếu đời trước chưa gieo trồng thiện căn, chưa tu tập tuệ nghiệp, tuy có nhĩ căn lành lặn cũng chỉ nghe được ngôn thuyết của ma Ba-tuần(6) mà thôi.
6) Tông Hoa Nghiêm đối với tông Tịnh Độ có mối quan hệ lớn, tại vì phần sau cùng của kinh Hoa Nghiêm, sau khi Thiện Tài đồng tử(7) tham học với 53 vị thiện tri thức(8), có chỗ chứng đắc ngang bằng với chư Phật, thì đức Bồ-tát Phổ Hiền đã vì Thiện Tài và cả đại chúng trong pháp hội Hoa Nghiêm mà tuyên nói 10 đại nguyện vương(9), cùng hướng dẫn họ qui về thế giới Cực-lạc ở phương Tây, để trong một đời mà viên mãn quả Phật. Do đó có thể thấy, nơi cuối cùng để trở về của kinh Hoa Nghiêm chính là cõi tịnh độ Cực-lạc! Kinh Hoa Nghiêm từng được xưng hiệu là “Vua của các kinh” mà còn hoằng dương cõi tịnh độ Cực-lạc, lấy đó làm chỗ cuối cùng để quay về, thì những người hủy báng pháp môn Tịnh Độ cũng tức là hủy báng kinh Hoa Nghiêm vậy! Chẳng lẽ các vị Bồ-tát Đẳng-giác như Phổ Hiền, Thiện Tài, Văn Thù, mà trí thức không bằng bọn phàm phu chúng ta ư?! Những người từng khinh thị pháp môn Tịnh Độ, khi xem thấy điều này cũng nên cảnh tỉnh!
7) Có Sự pháp giới, Lí pháp giới, Lí Sự vô ngại pháp giới và Sự Sự vô ngại pháp giới, nhưng không có “Lí Lí vô ngại pháp giới”. Để giải thích về “LÍ”, trong bài học trên(10) có nói rõ: “Lí thể chân như bình đẳng là nơi y cứ của vạn pháp, gọi là Lí pháp giới.” Sự thì có hàng muôn ngàn thứ khác nhau, cho nên nói là “sự sự”; còn cái lí thể chân như bình đẳng này xưa nay vốn chỉ có một cái, không hề có cái thứ hai, thì làm sao nói “lí lí” được?! Ví như một ông cha sinh ra vài người con, lúc viết thư có thể tùy ý nói bốn câu như sau: cha bình an, con bình an, cha con bình an, các con đều bình an; nhưng không thể nói “các cha đều bình an”, vì ông cha cũng giống như lí thể chân như, chỉ có một người.
CHÚ THÍCH (của người dịch)
(01) Mười pháp giới (thập pháp giới, thập giới): Trong luận Ma Ha Chỉ Quán, đại sư Trí Giả có chia ra 10 loại thế giới trong vũ trụ:
1) Địa-ngục: thế giới của đau khổ cùng cực;
2) Ngạ-quỉ: thế giới của đói khát và bẩn thỉu cùng cực;
3) Súc-sinh (Bàng-sinh): thế giới của loài vật, ngu si tăm tối;
4) A-tu-la: thế giới của hận thù, cuồng bạo, chém giết;
5) Nhân: thế giới của loài người, hạnh phúc và đau khổ lẫn lộn;
6) Thiên: thế giới của loài trời, an vui, phúc đức cao hơn loài người;
7) Thanh-văn: thế giới của bậc giải thoát do kết quả của công phu tu học theo giáo pháp của đức Phật mà được giác ngộ;
8) Duyên-giác: thế giới của bậc giải thoát do kết quả của công phu tự mình quán chiếu thực tại mà được giác ngộ;
9) Bồ-tát: thế giới của những bậc đại trí tuệ, luôn luôn đem tình thương yêu, trí hiểu biết và chí dũng mãnh để phục vụ làm lợi ích cho mọi loài, và quyết chí tinh tiến tu tập mãi cho đến ngày thành Phật – nói cách khác, đó là những đức Phật tương lai;
10) Phật: thế giới của bậc giác ngộ cao tột, giải thoát hoàn toàn, hai hạnh lợi mình và lợi người đều thành tựu viên mãn.
Trong 10 thế giới đó, 6 thế giới trước (Địa-ngục, Ngạ-quỉ, Bàng-sinh, A-tu-la, Nhân và Thiên) gồm toàn chúng sinh phàm phu mê muội, được gọi là “sáu cõi phàm” (lục phàm), cũng tức là 6 nẻo luân hồi (lục đạo luân hồi); còn 4 thế giới sau (Thanh-văn, Duyên-giác, Bồ-tát và Phật) gồm toàn thánh nhân, được gọi là “bốn cõi thánh” (tứ thánh); gộp chung lại gọi là “sáu phàm bốn thánh” (lục phàm tứ thánh).
(02) Trời Tha-hóa-tự-tại (Tha-hóa-tự-tại thiên): là tầng trời thứ sáu, cao nhất trong 6 tầng trời cõi Dục (lục Dục thiên). Người ở tầng trời thứ năm là Hóa-lạc thiên, kế ngay dưới, tự mình biến hóa ra năm trần cảnh để hưởng thụ; rồi người ở tầng trời thứ sáu này lại lấy năm trần cảnh ở tầng trời Hóa-lạc thiên kia để hưởng thụ một cách tự tại, như luận Đại Trí Độ nói: Cõi này chiếm lấy sự biến hóa của người khác để làm vui cho mình, cho nên gọi là “Tha-hóa-tự-tại”. Cõi trời này làm chủ của cả 6 cõi trời Dục giới. Đối với loài người thì thiên chúng ở cõi trời này sống lâu hơn, đoan chính hơn và sung sướng hơn rất nhiều. Họ sống đến 16.000 tuổi, mà một ngày đêm ở đó dài ước chừng bằng 1.600 năm ở cõi người. Cõi trời này cũng có duyên với Phật pháp, chính đức Thế Tôn đã từng nói một hội kinh Hoa Nghiêm và một hội kinh Bát Nhã ở cung trời này. Nhưng ở cõi trời này cũng có một cung điện vô cùng rộng lớn, đẹp đẽ, là chỗ ở của ma vương, chuyên để tâm phá hoại Phật pháp, mà luận Đại Trí Độ gọi đó là “Tha-hóa-tự-tại thiên tử ma” (là một trong 4 loại ma).
(03) Trời Ma-hê-thủ-la (Ma-hê-thủ-la thiên): tức là trời Đại-tự-tại (Đại-tự-tại thiên), nguyên là thần Thấp Bà trong Bà-la-môn giáo. Những người tín phụng vị thần này đã lập một giáo phái gọi là “Đại-tựtại thiên ngoại đạo”, cho rằng trời Đại Tự Tại là bản thể của thế giới, là chúa tể sinh ra vạn vật trong vũ trụ, tất cả những sự khổ, vui, buồn, mừng v.v… của con người cảm nhận cũng tức là những khổ, vui, buồn, mừng v.v… của trời Đại Tự Tại. Cho nên khi vị trời này vui mừng thì tất cả chúng sinh đều an vui; khi vị trời này giận dữ thì chúng ma xuất hiện, thế giới tao loạn, chúng sinh khổ sở. Khi thế giới bị hủy diệt thì tất cả vạn vật đều trở về cõi trời Đại-tự-tại này. Bên cạnh cái diện mạo độc ác, trời Đại Tự Tại cũng có cái diện mạo cát tường, hay cứu hộ và trị liệu cho chúng sinh. Ban đầu vị trời này được liệt vào bậc dưới đối với trời Phạm Thiên, về sau dần dần được nâng lên trở thành vị thần tối cao, và được Bà-lamôn giáo coi là “bản thể thường trú biến khắp vũ trụ”. Sau khi được dẫn nhập vào Phật giáo, vị thần này đã trở thành một vị thần thủ hộ, cũng tên là Đại Tự Tại Thiên, trú tại cõi trời Tứ-thiền.
(04) Pháp nhĩ: là một thuật ngữ Phật học. Chữ “nhĩ” (爾) ở đây có nghĩa là tự nhiên như vậy, không do ai tự ý đặt ra. “Pháp nhĩ” nghĩa là các pháp tự nhiên như vậy, tự chúng là như thế, không do ai tạo tác cả. Về phương diện tồn tại thì các pháp đều do nhân duyên hòa hợp mà thành, dù nước có sâu tới đâu, dù lửa có cao tới đâu, vẫn là việc tự nhiên như thế. Về tính chất, đất đá thì rắn chắc, nước thì lưu nhuận, lửa thì nóng, gió thì giao động, các pháp tự nhiên như vậy. Về bản thể chân như, thể tánh các pháp vốn thường hằng bình đẳng như vậy.
(05) Bất giác: nghĩa là mất cảnh giác, mê muội, không sáng suốt.
(06) Ba-tuần: trong kinh điển thường gọi là ma Ba-tuần hay thiên ma Ba-tuần, dịch ý là cực ác, chỉ cho loài ác ma luôn luôn tìm cách diệt mạng sống cùng thiện căn của con người. Thời Phật tại thế, loài ma này thường hay theo quấy nhiễu, cốt cản trở sự nghiệp giác ngộ của Ngài. Đây là loại ma ở cõi trời, nên gọi là “thiên ma”, và vì cư trú tại tầng trời Tha-hóa-tự-tại (tầng trời cao nhất của 6 tầng trời cõi Dục), nên luận Đại Trí Độ đã gọi đó là Tự-tại thiên tử ma, hay Tha-hóa-tự-tại thiên tử ma.
(07) Thiện Tài đồng tử: là vị Bồ-tát đi cầu đạo được đề cập tới trong phẩm “Nhập Pháp Giới” của kinh Hoa Nghiêm. Trên đường cầu đạo, ngài đã từng đi về phương Nam, trải qua nhiều nước, tham phỏng với rất nhiều vị thiện tri thức gồm đủ mọi thành phần như tì kheo, tì kheo ni, cư sĩ nam, cư sĩ nữ, đồng tử, thiên nữ, quốc vương, vương phi, bà la môn, trưởng giả, y sư, thần cây, thần đất v.v…, được học nhiều pháp môn, cuối cùng đến đạo tràng của Bồ-tát Phổ Hiền thì chứng nhập được pháp giới vô sinh. Phật giáo đại thừa thường đem Thiện Tài đồng tử (giống như nàng Long nữ trong kinh Pháp Hoa) làm ví dụ điển hình để chứng minh cho thuyết “tức thân thành Phật”.
(08) 53 vị thiện tri thức: Thuật ngữ Phật học thường nói là “ngũ thập tam tham”, hoặc đầy đủ hơn là “Thiện Tài đồng tử ngũ thập tam tham”, chỉ cho việc Thiện Tài đồng tử đi du phương cầu đạo được ghi chép trong kinh Hoa Nghiêm. Theo phẩm “Nhập Pháp Giới” trong kinh này, trên đường du phương học đạo, Thiện Tài đồng tử trước tiên cầu học với Bồ-tát Văn Thù (ở tại tu viện Cấp Cô Độc trong vườn Kìđà, kinh đô Xá-vệ, nước Kiều-tát-la), rồi tiến về miền Nam, lại trở ngược về Bắc, trải qua hơn trăm thành ấp, hỏi đạo với 53 vị thiện tri thức, mà vị cuối cùng là Bồ-tát Phổ Hiền. 53 vị thiện tri thức ấy được ghi theo thứ tự như sau (theo bộ Đại Phương Quảng Phật Hoa Nghiêm Kinh, cũng tức là Tứ Thập Hoa Nghiêm Kinh, do Tam tạng pháp sư Bát Nhã dịch ra Hán văn vào thời nhà Đường, được thu vào Tạng Đại Chánh, quyển 10, mang số 293):
1) Tì kheo Cát Tường Vân ở núi Diệu-phong, nước Thắng-lạc;
2) Tì kheo Hải Vân ở nước Hải-môn, phía Nam nước Thắng-lạc;
3) Tì kheo Diệu Trụ ở tụ lạc Hải-ngạn, bên đường Lăng-già, phía Nam nước Hải-môn;
4) Đại sĩ Di Già ở thành Kim-cang-tằng, nước Đạt-la-tỉ-tra, phía Nam tụ lạc Hải-ngạn;
5) Trưởng giả Trụ Giải Thoát ở tụ lạcTrụ-lâm, phía Nam thành Kim-cang-tằng;
6) Tì kheo Hải Tràng ở xứ Biến-vô-cấu, phía Nam tụ lạc Trụ-lâm;
7) Nữ cư sĩ A Xá Na ở khu lâm viên Phổ-trang-nghiêm, là vương phi của vua Diệu Viên Quang ở thành Viên-mãn-quang, xứ Hải-triều, phía Nam xứ Biến-vô-cấu;
8) Tiên nhân Đại Uy Mãnh Thanh ở nước Na-la-tố, phía Nam xứ Hải-triều;
9) Bà la môn Thắng Nhiệt ở tụ lạc Y-sa-na, phía Nam nước Na-la-tố;
10) Đồng nữ Từ Hạnh, con vua Vô Úy Tinh Tú Tràng, ở thành Sư-tử-tần-thân, phía Nam tụ lạc Y-sa-na;
11) Tì kheo Diệu Kiến ở nước Tam-mục, phía Nam thành Sư-tử-tần-thân;
12) Đồng tử Căn Tự Tại Chủ ở thành Diệu-môn, nước Viên-mãn-đa-văn, phía Nam nước Tam-mục;
13) Nữ cư sĩ Biện Cụ Túc ở thành Hải-biệt-trụ, phía Nam thành Diệu-môn;
14) Trưởng giả Cụ Túc Trí ở thành Đại-hữu, phía Nam thành Hải-biệt-trụ;
15) Trưởng giả Tôn Pháp Bảo Kế ở thành Sư-tử-cung, phía Nam thành Đại-hữu;
16) Trưởng giả Phổ Nhãn ở thành Phổ-biến-môn, nước Đằng-căn, phía Nam thành Sư-tử-cung;
17) Vua Cam Lộ Hỏa ở thành Đa-la-tràng, phía Nam thành Phổ-biến-môn ;
18) Vua Đại Quang ở thành Diệu-quang, phía Nam thành Đa-la-tràng; 19) Nữ cư sĩ Bất Động ở nước An-trụ, phía Nam thành Diệu Quang;
19) Đạo sĩ ngoại đạo Biến Hành ở thành Đô-tát-la, phía Nam nước An-trụ;
20) Trưởng giả Cụ Túc Ưu Bát La Hoa ở tụ lạc Quảng-đại, nước Quảng-đại, phía Nam thành Đô-tát-la;
21) Thuyền trưởng Bà Thi La ở thành Lâu-các, phía Nam tụ lạc Quảng-đại;
22) Trưởng giả Tối Thắng ở ấp Lạc-anh-lạc, phía Nam thành Lâu-các;
23) Tì kheo ni Sư Tử Tần Thân ở thành Yết-lăng-ca-lâm, nước Vô-biên-tế-hà, phía Nam ấp Lạc-anh-lạc;
24) Thiếu nữ Phạt Tô Mật Đa ở thành Bảo-trang-nghiêm của tụ lạc Hiểm-nạn, phía Nam thành Yết-lăng-ca-lâm;
25) Cư sĩ Tì Sắc Để La ở thành Tịnh-đạt-bỉ-ngạn, phía Nam thành Bảo-trang-nghiêm;
26) Bồ-tát Quán Tự Tại ở núi Bổ-đát-lạc-ca, phía Nam thành Tịnh-đạt-bỉ-ngạn; 28) Bồ-tát Chánh Tánh Vô Dị Hạnh ở tại đạo tràng của Bồ-tát Quán Tự Tại;
27) Thần Đại Thiên ở thành Môn-chủ, phía Nam núi Bổ-đát-lạc-ca;
28) Địa thần Tự Tánh Bất Động ở Bồ-đề đạo tràng, nước Ma-kiệt-đề, phía Đông Bắc thành Môn-chủ; 31) Dạ thần Xuân-hòa ở thành Ca-tì-la, phía Bắc nước Ma-kiệt-đề;
29) Dạ thần Phổ Biến Cát Tường Vô Cấu Quang ở Bồ-đề đạo tràng, nước Ma-kiệt-đề, phía Nam thành Ca-tì-la;
30) Dạ thần Hỉ Mục Quán Sát Nhất Thiết Chúng Sinh, cũng ở Bồ-đề đạo tràng;
31) Dạ thần Phổ Cứu Hộ Nhất Thiết Chúng Sinh Oai Đức Cát Tường ở Bồ-đề đạo tràng;
32) Dạ thần Cụ Túc Công Đức Tịch Tĩnh Âm Hải ở Bồ-đề đạo tràng;
33) Dạ thần Thủ Hộ Nhất Thiết Thành Tăng Trưởng Uy Đức ở Bồ-đề đạo tràng;
34) Dạ thần Năng Khai Phu Nhất Thiết Thọ Hoa An Lạc ở Bồ-đề đạo tràng;
35) Dạ thần Thủ Hộ Nhất Thiết Chúng Sinh Đại Nguyện Tinh Tấn Lực Quang Minh ở Bồ-đề đạo tràng;
36) Lâm thần Diệu Uy Đức Viên Mãn Ái Kính ở lâm viên Lam-tì-ni, thành Ca-tì-la, phía Bắc Bồ-đề đạo tràng;
37) Thiếu nữ Cù Ba, thuộc dòng họ Thích, ở thành Ca-tì-la, phía Tây Nam vườn Lam-tì-ni;
38) Ma Da phu nhân nơi tòa sư tử Đại ma-ni Tì-lô-giá-na Bảo Liên hoa tạng;
39) Thiên nữ Thiên Chủ Quang, con của thiên vương Cụ Túc Chánh Niệm ở cõi trời Đao-lợi;
40) Sư đồng tử Biến Hữu ở thành Ca-tì-la;
41) Đồng tử Thiện Tri Chúng Nghệ ở thành Ca-tì-la;
42) Nữ cư sĩ Tối Thắng Hiền (Hiền Thắng) ở thành Bà-đát-na, nước Ma-kiệt-đề, phía Nam thành Ca-tì-la;
43) Trưởng giả Kiên Cố Giải Thoát ở thành Ốc-điền, phía Nam thành Bà-đát-na;
44) Trưởng giả Diệu Nguyệt, cũng ở thành Ốc-điền;
45) Trưởng giả Vô Thắng Quân ở thành Quảng-đại-thanh, phía Nam thành Ốc-điền;
46) Bà la môn Tối Tịch Tịnh ở tụ lạc Đạt-ma, phía Nam thành Quảng-đại-thanh;
47) Đồng tử Đức Sinh và đồng nữ Hữu Đức ở thành Diệu-ý-hoa-môn, phía Nam tụ lạc Đạt-ma;
48) Bồ-tát Di Lặc ở tòa lầu Tì-lô-giá-na-trang-nghiêm-quảng đại, nước Hải-ngạn, phía Nam thành Diệu-lí-hoa-môn;
49) Bồ-tát Văn Thù Sư Lợi ở thành Tô-ma-na;
50) Bồ-tát Phổ Hiền.
(Nếu đồng tử Đức Sinh và đồng nữ Hữu Đức –số 50– được kể làm 2 vị, và kể luôn vị đầu tiên –trước khi Thiện Tài đi về phương Nam– là Bồ-tát Văn Thù, thì tất cả là 55 vị (ngũ thập ngũ thiện tri thức).
(09) 10 đại nguyện vương: tức 10 hạnh nguyện lớn của Bồ-tát Phổ Hiền:
1) Thường kính lễ chư Phật (lễ kính chư Phật);
2) Thường khen ngợi công đức viên mãn của các đức Như Lai (xưng tán Như Lai);
3) Thường thờ phụng và đem tâm cúng dường tối thượng để cúng dường chư Phật (quảng tu cúng dường);
4) Thường sám hối các nghiệp xấu mình đã tạo ra từ vô thỉ đến nay, và tinh cần giữ gìn giới luật (sám hối nghiệp chướng);
5) Thường tùy hỉ các công đức của chư Phật, Bồ-tát, thánh nhân, cho đến của tất cả các loài chúng sinh phàm phu trong sáu nẻo luân hồi (tùy hỉ công đức);
6) Thường thỉnh chư Phật, chư vị pháp sư thuyết pháp để cho Phật pháp tồn tại mãi ở thế gian (thỉnh chuyển pháp luân);
7) Thường thỉnh chư Phật, chư Bồ-tát thánh chúng không nhập niết bàn, thị hiện lâu dài ở thế gian để thuyết pháp cứu độ chúng sinh (thỉnh Phật trụ thế);
8) Vĩnh viễn nguyện theo Phật để tu học (thường tùy Phật học);
9) Thường tùy thuận mọi yêu cầu của chúng sinh trong mục đích hóa độ bình đẳng (hằng thuận chúng sinh);
10) Tất cả công đức có được do thực hành 9 hạnh nguyện trên, xin đem hồi hướng cho tất cả chúng sinh, để hoàn thành đại nguyện thành Phật (phổ giai hồi hướng).
10 hạnh nguyện trên đây vô cùng rộng lớn, cho nên nói là “nguyện vương”; được nói rõ trong phần chót (tức quyển 40) của kinh Tứ Thập Hoa Nghiêm (cũng tức là bộ kinh Đại Phương Quảng Phật Hoa Nghiêm Kinh Nhập Bất Tư Nghị Giải Thoát Cảnh Giới Phổ Hiền Hạnh Nguyện Phẩm) do pháp sư Bát Nhã dịch ra Hán văn nào thời đại nhà Đường.
(10) Tức bài 5 (mục “V. Bốn Pháp Giới”) ở trên.