LUẬN NHẬP ĐẠI THỪA
Tác giả: Bồ-tát Kiên Ý – Hán dịch: Đời Bắc Lương, Đại sư Đạo Thái
Việt dịch: Linh Sơn Pháp Bảo Đại Tạng Kinh
Hội Văn Hóa Giáo Dục Linh Sơn Đài Bắc Xuất Bản

 

QUYỂN THƯỢNG

I. PHẨM Ý NGHĨA

Nay giảng giải ý nghĩa của việc thể nhập Đại thừa.

Hỏi: Tại sao nói ý nghĩa của việc thể nhập Đại thừa?

Đáp: Vì muốn ngăn chận dứt trừ nguyên nhân đau khổ cho chúng sanh. Các người nên biết: Hoặc có người gần gũi tri thức ác, bị ác mê hoặc, chấp lệch lạc vào pháp của mình, chỉ đắm trước theo tà kiến, tư duy điên đảo, không hiểu được thực nghĩa, không tùy thuận trí Phật, phỉ báng thuyết của Thánh nhân. Kẻ phỉ báng thuyết bậc Thánh, tức hủy hoại chánh pháp; kẻ hủy hoại chánh pháp sẽ chịu tội báo lớn. Như Đức Thế Tôn nói, tội hủy báng chánh pháp nặng như tội ngũ nghịch ắt chịu khổ báo lâu dài trong các đường ác.

Kệ nói:

Lời bậc thật trí nói:
Phỉ báng pháp Đại thừa,
Nhất định đến cõi ác.
Người này chịu nghiệp báo,
Sinh đọa vào địa ngục,
Lửa lớn thiêu cháy thân,
Đốt thiêu rất thống khổ.
Nghiệp báo tội như thế.
Lưỡi cày sắt hừng cháy,
Đủ cả năm trăm lần,
Cày trên lưỡi người đó,
Thân nát vụn khổ não.
Khi ra khỏi địa ngục,
Chịu những báo ác khác:
Các căn thường khiếm khuyết,
Mãi không nghe pháp âm.
Giả sử nghe được pháp,
Lại sanh hủy báng pháp,
Do nhân hủy báng pháp
Lại đọa vào địa ngục.

Những chúng sanh hủy báng pháp nghe trong pháp Đại thừa nói như vậy liền sanh tâm nghi ngờ, thắc mắc.

Tôn giả Đề-bà có kệ nói:

Những người có phúc mỏng
Không nên sanh tâm nghi
Người thường hay sanh nghi
Ắt phá hoại các hữu.

Những người có sự nghi ngờ thì nên nghe chánh pháp. Khi đã nghe ý liền được hiểu và khai ngộ. Tâm được khai ngộ thì tâm tín liền sanh. Có tâm tín nên sanh hỷ lạc. Khi có hỷ lạc, cứ như vậy sanh tiếp Văn Tư Tu cho đến được thành tựu viên mãn Nhất thiết chủng trí.

Do hủy báng Đại thừa mà đọa vào cõi ác và cũng từ Đại thừa mà khởi lên những nghiệp thiện, tương tợ như người do đất mà ngã nhưng cũng lại tựa vào đất mà đứng lên được. Lại nữa, nhân nơi trí hiểu biết mà hướng đến đạo Bồ-đề và cùng hòa hợp hiện hữu với chúng sanh, nếu tách rời chúng sanh ắt không có sự chứng đắc Bồ-đề. Từ cảnh giới chúng sanh mà xuất sanh sự giác ngộ của chư Phật. Tôn giả Long Thọ có kệ nói:

Chẳng từ hư không có
Cũng chẳng từ đất sanh
Chính từ trong phiền não
Chứng đắc đạo Bồ-đề.

Hỏi: Ngài nói khéo thể nhập vào luận Ma-ha-diễn, đạt được công đức như vậy. Thế nào là Ma-ha-diễn?

Đáp: Ở trong tạng Bồ-tát gọi là Ma-ha-diễn.

Hỏi: Đức Phật há không thuyết giảng ba thừa, cũng là nói về Maha-diễn đó sao?

Đáp: Đúng vậy, trong Đại thừa cũng nói ba thừa tức gọi là ba tạng.

Như trong kinh Bồ-tát tạng nói: Phật dạy vua A-xà-thế: Tộc tính tử! Tạng có ba loại, đó là: Tạng Thanh văn, tạng Bích-chi Phật và tạng Bồ-tát. Tộc tính tử! Không phải lấy thừa Thanh văn mà gọi là ba tạng; cũng không lấy thừa Bích-chi Phật gọi là ba tạng, chỉ chỗ học Đại thừa của các Bồ-tát được gọi là ba tạng. Vì sao? Phàm người thuyết pháp, đầy đủ ba thừa gọi là ba tạng. Do Bồ-tát thuyết pháp có thể gồm đủ ba thừa do đó Ta nói là ba tạng.

Tộc tính tử! Người học có ba bậc: học Thanh văn, học Bích-chi Phật và học Bồ-tát. Người học thừa Thanh văn không học thừa Bích-chi Phật. Vì sao vậy? Không phải là chỗ lãnh hội. Người học thừa Bích-chi Phật không học thừa Bồ-tát. Vì sao? Cũng không phải chỗ lãnh hội. Tộc tính tử! Chỉ có bậc Bồ-tát, tuy học thừa Thanh văn, thừa Bích-chi Phật nhưng không chứng đạo Thanh văn, cũng không chứng đạo Bích-chi Phật. Bậc học thừa Bồ-tát biết rõ pháp hạnh của Bồ-tát, thường vui tùy thuận. Do ý nghĩa này nên thừa Bồ-tát được gọi là ba tạng, không phải nói thừa Thanh văn hay thừa Bích-chi Phật. Trong những kinh khác đã phân biệt đầy đủ nên nay Tôi chỉ lược thuyết.

Như ý ông nói: Không có ba tạng, tức là nay ông chỉ lấy kinh Tăng nhất A-hàm, kinh Trung A-hàm, kinh Trường A-hàm, kinh Tạp A-hàm với trăm nghìn bài kệ gọi là một tạng. Tỳ-ni, A-tỳ-đàm với hai trăm nghìn bài kệ gọi là hai tạng. Tu tập đầy đủ trọn hết gọi là ba tạng.

Nếu kể như vậy cũng không thể gọi là ba tạng. Vì sao? Vì có lỗi cho những kinh khác không phải là do Phật thuyết. Lỗi ấy thế này: Nếu A-hàm, Tỳ-ni, A-tỳ-đàm cũng như chính gọi là ba tạng thì những kinh khác như: Tạp Tạng, Kinh Xá Đầu La, Kinh Thai, Kinh Gián Vương Bổn Sanh, Nhân Duyên Bích Chi Phật v.v… kể như vậy đến tám vạn bốn ngàn tạng pháp mà Tôn giả A-nan đã theo Phật thọ trì, tất cả đều có lỗi không phải lời Phật dạy. Nếu không có lỗi này, thì biết tất cả đều là Phật thuyết; những lời Phật thuyết như thế nếu đều gọi là tạng thì có đến trăm ngàn tạng. Do đó lời ông nói là ba tạng đã tự hủy bỏ. Hơn nữa lại còn có những pháp Tôn giả A-nan không thọ trì, nghĩa là:

Sau ngày Phật thành đạo hai mươi năm, ở trong Tăng chúng Phật tự nói: Tuổi Ta đã cao, cần người thị giả, ai có thể làm thị giả cho Ta hãy nói ra.

Lúc ấy đại chúng thuận ý cử Tôn giả A-nan làm thị giả cho Phật. Tôn giả A-nan bèn thưa cùng các vị đồng phạm hạnh: “Đức Như Lai có đủ tám vạn bốn ngàn pháp, con nay có thể thọ trì hết. Duy trong hai mươi năm trước, những pháp do hai vị Tỳ-kheo thọ trì con đều không rõ”. Do ý nghĩa này, phải biết những điều Tôn giả A-nan đã thọ trì không gọi là đa văn. Trong những pháp Phật thuyết giảng, thật có những pháp Tôn giả A-nan không thể đảm nhận làm pháp khí. Nơi kinh Trung A-hàm nói: Thích-đề-hoàn-nhân nói với Uất-đa-la: “Tôn giả, tôi được trí tha tâm, thấy được tất cả chúng sanh trong cõi Diêm-phù-đề không ai có thể thọ trì hết được pháp Phật chỉ trừ Tôn giả. Những người khác thì không có khả năng”. Căn cứ vào nhân duyên này nên biết Tôn giả A-nan không thọ trì hết tất cả pháp của Phật. Đệ tử Thanh văn và Tôn giả A-nan không thể đảm nhận làm pháp khí. Những kinh Đại thừa đã giảng rộng đầy đủ. Như trong kinh Thủ Lăng Nghiêm, Phật nói với Thiên tử Tịnh Nguyệt Tạng: Pháp mà A-nan thọ trì còn thiếu sót không đủ, còn vô lượng pháp A-nan chưa thọ trì. Pháp của ta nhận biết là trăm ngàn ức phần, pháp đã giảng nói chưa đến một phần. Pháp ta đã giảng nói ra, A-nan chưa thọ trì được một phần của trăm ngàn ức phần. Này Thiện nam! Trong một ngày một đêm, mười phương thế giới các vị Phạm, Thích, Tứ thiên vương, Thiên, Long, Dạ-xoa, Kiền-thát-bà, và các Bồ-tát, tất cả đều đến nghe ta thuyết về Tu-đa-la trí tuệ, kệ tụng chương cú, các Ba-la-mật mà chúng sanh cần được thực hành, cùng thuyết về thừa Thanh văn thừa Bích-chi Phật, chán lìa sanh tử, khen ngợi Niết-bàn, đầy đủ các Ba-la-mật, cho đến thuyết giảng rộng cho những thiên tử. Giả sử người nhiều như số bụi của cả cõi Diêm-phù-đề này đều đa văn trí tuệ như A-nan, cũng không thể thọ trì hết một phần trong trăm ngàn ức phần ta đã giảng nói một ngày, một đêm. Cho đến, nhiều như số bụi của mười phương thế giới đều đa văn và trí tuệ như ông A-nan cũng không thể thọ trì hết”. Trong rất nhiều kinh khác cũng nói như vầy: Tôn giả A-nan không thể thọ nhận làm bậc pháp khí đầy đủ. Với ý nghĩa này thì biết Tôn giả A-nan không thể thọ trì hết tất cả pháp của Phật.

Hỏi: Không phải Đức Thế Tôn đã nói A-nan là đa văn đệ nhất đó sao?

Đáp: Đức Phật ở trong chúng Thanh văn tạm nói A-nan là đa văn bậc nhất, không phải là đối với Bồ-tát. Lại nữa, các ông đối với pháp được ghi nhận của A-nan hãy còn chưa lãnh hội đầy đủ, huống chi là đối với Đại thừa gồm đủ các nghĩa sâu xa! Ý ông nếu cho thừa Thanh văn là Đại thừa thì sự việc không phải như vậy. Vì sao? Vì nhân quả khác nhau. Nếu nhân của thừa Thanh văn so với nhân của Đại thừa mà không khác, thì quả cũng phải không khác. Nhưng hiện thấy quả khác, nên biết nhân cũng khác. Vì sao? Vì người học Thanh văn chỉ đoạn trừ chướng, kiết, quán xét hành vô thường, nghe pháp từ người khác. Còn chỗ đoạn trừ của Bồ-tát là các tập khí vi tế, cho đến quán tất cả các pháp rốt ráo là “không”, không từ người khác nghe pháp, đạt được Trí tự nhiên, Trí vô sư. Do ý nghĩa ấy, không thể cho thừa Thanh văn đồng với Đại thừa.

Hỏi: Đức Phật há không nói giải thoát là không khác nhau đó sao?

Đáp: Giải thoát của bậc Thanh văn có thể khiến núi Tu di v.v… thảy đều cúi mình quay hướng về đạo tràng. Ánh sáng chiếu khắp mười phương thế giới, hàng chục chúng ma trong vòng tám mươi do tuần hay không? Giải thoát của bậc Bồ-tát thì làm được như vậy. Do ý nghĩa này, trong các kinh khác Phật dạy: Tướng của giải thoát tuy không khác, nhưng lớn và nhỏ thật có khác biệt. Cũng như sâu gặm trong hạt cải thành chỗ trống không, tuy cũng gọi là không nhưng so với khoảng không trong thế giới, sao có thể gọi là một được? Khoảng không tuy là một nhưng lớn nhỏ có khác. Lại nữa cũng như lửa đom đóm so với ánh sáng của mặt trời, mặt trăng, cũng như muỗi mòng so với Kim-sí-điểu v.v… Như Tỳ-kheo Bà-lưu-chi thuyết kệ Phật bổn hạnh:

Tất cả những ánh sáng
Đèn sáng với ánh chớp
Sao, trăng chiếu khác nhau
Mặt trời sáng thứ nhất
Các cầm thú bay chạy
Ruồi muỗi kiến và ong,
Chim bay mỗi, mỗi khác
Khác xa Kim-sí-điểu.

Như vậy, tuy có chút tương tự nhưng lớn, nhỏ có khác biệt, nên biết: Nhân đã khác nhau, quả lại có thể đồng sao? Ông nói giải thoát không khác mà quán sát như vậy thì biết giải thoát không đồng nhau. Giải thoát ở bậc Thanh văn gọi là giải thoát ái tận không phải là giải thoát tất cả. Chỉ vì chúng sanh căn độn ít trí, nên tạm phân biệt mà nói. Giải thoát ở bậc Đại thừa là đoạn phiền não tâp khí, tất cả đều tận, rộng phân biệt nói vì bậc Bồ-tát lợi căn. Như ông nói: Giải thoát của Thanh văn tức giải thoát của Đại thừa, điều này có sai lỗi, vì nếu vậy thì Như Lai không phải là bậc Nhất thiết chủng trí sao? Như lúc Phật có bệnh nhẹ, khiến Tôn giả Mục-liên đến chỗ ông Kỳ-cúc lấy thuốc. Lúc đó Kỳ-cúc đã mất bảy ngày, sanh lên cõi trời Đao-lợi. Tôn giả Mục-liên liền đi tới cõi trời ấy. Khi ấy Kỳ-cúc mới vào hậu viên, Mục-liên bèn hỏi: Như Lai có chút bệnh, nên dùng thuốc gì? Đáp: Dùng sữa Tô. Thân Như Lai là thân Kim Cang, tất cả nghiệp ác đã diệt hết sao lại có bệnh được mà hỏi Kỳ-cúc?

Như Tỳ-kheo Ba-câu-la, nơi chín mươi kiếp trước cho người đồng phạm hạnh một quả thuốc mà trong chín mươi kiếp thân thường không bệnh. Nơi thân sau cùng, tuổi đến tám mươi, lúc đầu cũng không bệnh nhẹ. Chính do nhân duyên bố thí nhỏ là một quả Ha-ba-lê-lặc ấy mà được không bệnh, huống gì Đức Như Lai trong ức trăm ngàn vạn a-tăngkỳ kiếp đều hành đầy đủ Bố thí Ba-la-mật, hoàn bị các công đức cho đến cắt chân, tay, tủy não máu thịt nơi thân mình thí cho người bệnh, với nhân duyên ấy mà có bệnh sao!

Như kinh đã dạy, Như Lai ứng hiện không phải là Nhất thiết trí. Như có lần Như Lai vào thành khất thực đem bát không trở về, vì muốn độ ông Đề-bà-đạt-đa, khiến cho xuất gia… Như trong Kinh Khô Thụ nói khi thấy đám lửa lớn, lúc đó một số Tỳ-kheo liền sanh tâm thối thất. Để độ Mã-sư, Mãn Túc, thường hay mắng trách Bà-la-môn, Đoạt lại xà, Tát-già-ni-kiền, Tôn-đà-lợi v.v… Trong chín mươi ngày Phật ăn lúa của ngựa; để độ Mục-liên, Xá-lợi-phất . Phật vào lò gốm… và những việc tương tợ như vậy… Hoặc ý ông nói là nghiệp còn sót lại. Điều này cũng không phải. Vì sao? Như Lai đã tận diệt điều ác, đầy đủ hết thảy vô lượng công đức, nếu nói còn sót nghiệp ác tức là lỗi lớn. Ông không từng nghe trong các kinh nói: Như Lai đã vĩnh viễn dứt trừ mọi thứ phiền não, kiết tập của nghiệp hay sao?

Như Ma-đà-già-ly có kệ khen:

Mọi kiết sử đã tận,
Chỉ có bậc cứu đời,
Đầy đủ Nhất thiết trí,
Viên thành mọi công đức.

Tập có ba loại là: Tập nghiệp, tập phiền não và tập uy nghi. Ba loại tập này Như Lai đã vĩnh viễn dứt hết. Do nhân duyên ấy mà nói còn dư nghiệp tức ông mắc lỗi quá lớn. Nếu ông nói đó là phương tiện thì cũng không phải. Vì sao? Ý ông trước đã nói thân Phật là thật. Không nói phương tiện và ứng hóa. Ông thường nói thân Phật là một, sao lại có phương tiện ứng hóa. Ông xem trong kinh nào có nói đến phương tiện và ứng hóa? Trong kinh các ông chỉ nói có thân hậu biên, không có các thân khác như pháp thân và thân phương tiện ứng hóa. Trong kinh Thập trụ của chúng tôi nói có Pháp thân không đồng với thân phương tiện ứng hóa. Do đó trong kinh Đại thừa nói Phật là Bậc Nhất thiết trí thì không sai, còn trong kinh Tiểu thừa nói Phật là Bậc Nhất thiết trí thì rất sai. Nếu ông nói thừa Thanh-văn tức là Đại thừa thì không đúng. Đại thừa có sự sai biệt so với thừa Thanh-văn về mặt rộng lớn. Nếu ý ông nói trong thừa Thanh văn có hiển thị Đại thừa thì cũng không đúng. Vì sao? Về lý trái nhau. Thừa Thanh văn nghe pháp từ đối tượng bên ngoài. Thừa của các Bậc Đại Tiên nối dòng Tam bảo để không đứt đoạn như vật báu lưu ly không phải xuất ra từ thủy tinh, do thể sai khác nhau.

Do đó Đại thừa thật vi diệu rất sâu xa, tâm Đại thừa rộng lớn. Bậc Bồ-tát Ma-ha-tát theo thứ tự tu học từ Bâc sơ địa đến địa thứ mười, đầy đủ tất cả công đức trí nghiệp. Vậy nên Phật nói là thừa Ma-ha-diễn. Nếu nói thừa Thanh-văn là từ thừa Ma-ha-diễn mà ra thì còn có lý. Cũng vì thế, Bậc Bồ-tát tu học mười địa đầy đủ các hạnh Ba-la-mật có thể sanh ra các pháp thiện của ba thừa.

Như Kinh Thập Địa nói: Bồ-tát Kim Cang tạng nói nói Bồ-tát Giải Thoát Nguyệt: Phật tử! Ví như tự (chữ) chương lấy chữ làm gốc làm đầu. Tất cả văn tự đều xuất ra từ gốc của chữ. Phật tử! Như tất cả pháp Phật cũng lại như vậy, đều lấy Địa làm đầu, từ nơi Địa mà đạt đến cứu cánh, thành tựu trí tự nhiên, do vậy Đại thừa được gọi là: rất sâu xa, sanh ra tất cả công đức của Thanh văn, không thể nói Tiểu thừa có thể sanh ra Đại thừa được. Phật dạy mười địa cũng như vàng tụ lại đầy đủ không thất thoát, tại sao không thọ trì? Đức Như Lai lấy lực Từ bi, vì người độn căn mà nói thừa Thanh văn để các ông tin và thọ trì, các ông lại tự thiên chấp, chỉ thọ hành pháp nhỏ, không tin vào Đại thừa chính giáo bình đẳng. Do vậy nên biết, Phật nói Đại thừa gọi là pháp thù thắng an lành đệ nhất.

Hỏi: Xưa, Thế Tôn có dạy: “Sau khi Ta diệt độ vào đời vị lai sẽ có nhiều chúng sanh khởi tranh luận nói điều này là Phật dạy, điều này không phải là Phật dạy. Do vậy Như Lai dùng pháp ấn để ấn định các pháp. Nếu nghĩa nhập nơi Tu-đa-la, thuận theo Tỳ-ni, không trái với pháp tướng, thì đó là Phật thuyết”. Có phải như vậy không?

Đáp: Phật cũng không nói, thừa Thanh-văn không phải ta nói, cho đến Bồ-tát Đại thừa cũng vậy. Phật dạy không có khác, dùng pháp ấn ấn định, đồng nhất một tướng. Còn ông nói nhập vào, là nghĩa vào Tuđa-la, là vào bằng văn tự sao? Nếu dùng văn tự mà vào thì không đúng. Vì sao? Vì Mười hai bộ kinh, tất cả văn kệ, chương, câu, đoạn văn mỗi mỗi đều khác biệt. Vậy nên hiểu không phải vào bằng văn tự. Nếu lấy nghĩa vào thì lý không trái, nếu nghĩa ấy thuận với nghĩa của Tu-đa-la, tương ưng với pháp tướng thì ý nghĩa hiển hiện, đấy gọi là thuận Tu-đala. Nếu hiển thị pháp Thanh-văn gọi là thừa Thanh-văn tùy thuận vào Tu-đa-la. Nếu hiển thị pháp Bích-chi Phật gọi là thừa Bích-chi Phật tùy thuận vào Tu-đa-la.

Nếu hiển thị pháp Bồ-tát, gọi là thừa Bồ-tát tùy thuận vào Tu-đala.

Nếu tôi hiển thị công đức của mười địa, làm tỏ hạnh Bồ-tát thì gọi là chân thuyết, tùy thuận vào Đại thừa. Chỉ vì ý ông thiên lệch chỉ nói vào ba tạng Tiểu thừa. Trong ba tạng Đại thừa tôi đã nói vào, do đó Ba tạng tức là Đại thừa. Vì sao? Trong mười hai bộ loại kinh văn nói Tỳ-phật-lược (Phương Quảng) tức là Đại thừa. Như kinh Trung A-hàm nói: Thế nào gọi là Tỳ-kheo? Là vì biết pháp có thể giải rõ mười hai bộ loại kinh văn, từ Tu-đa-la cho đến Ưu-ba-đề-xá. Tỳ-phật-lược là Ma-ha-diễn (Đại thừa). Vì sao? Kinh Tỳ-phật-lược nói: Vì các chúng sanh dạy pháp tu đối trị nên gọi là Tỳ-phật-lược, cũng có nhiều thừa nên gọi là Tỳ-phật-lược, cũng là đầy đủ nhiều trang nghiêm nên gọi là Tỳ-phật-lược, cũng là chỗ có thể sanh ra vô lượng quả báo lớn nên gọi là Tỳ-phật-lược, là chỗ không thể lường xét, không thể hiểu đến được nên gọi là Tỳ-phật-lược. Vì trừ đoạn tất cả những tà kiến nên gọi là Tỳ-phật-lược. Nếu ý ông nói trong pháp Thanh-văn giảng rộng Tu-đala, kệ tụng, câu văn chương đoạn cũng gọi là Tỳ-phật-lược thì điều này không đúng. Vì sao? Ông căn cứ kinh A-hàm nói là Tỳ-phật-lược, chỉ là ngôn ngữ. Nếu chỉ là ngôn ngữ thì không đáng tin. Nếu trong kinh Ahàm có ý nghĩa này thì trong chương nào, câu nào vì Thanh-văn nói Tỳphật-lược. Nếu không có câu văn nào nói thì nên hiểu là Tỳ-phật-lược là để hiển pháp Đại thừa, không phải nói với Thanh-văn Tiểu thừa.

Trong thừa Thanh-văn, chỗ nói trong một bộ kinh trọn không đến trăm ngàn kệ tán và văn cú, huống nữa là có thuyết rộng muôn ức. Đức Thế Tôn Như Lai dạy Bậc Thanh-văn, chỉ dạy vô thường, khiến chán sanh tử, khiến biết rõ gốc khổ, chóng cầu Niết-bàn. Từ đầu như vậy cho đến phụng hành, câu vị ít ỏi không có ý nghĩa rộng lớn và sâu xa.

Kinh Đại thừa nói về việc Bồ-tát làm rất sâu rộng, như Kinh Đại Dụ, Kinh Hiền Kiếp Tam Muội, Kinh Giải Thoát, Kinh Hoa Thủ… những kinh như vậy đều là Ma-ha-diễn, đều gọi là Tỳ-phật-lược. Như trong Kinh Kiết Giải Thoát, Thiện Tài đồng tử đến chỗ thiện trí thức Tỳ-kheo Hải Tràng, trong mười hai năm nhập Tam muội Đại hải, sau bạch với Hải Tràng: Pháp Tam-muội này, sâu rộng vô biên, còn có pháp môn nào lớn như pháp môn Tam-muội này hay không? Nói vừa xong, ngay trong Tam muội Đại hải, thấy một hoa sen lớn, từ trong hoa sen, đức Phật hiện ra dùng tay phải xoa đầu Hải Tràng khen: Lành thay! Lành thay! Này Thiện nam! Lại còn pháp môn Phổ Nhãn, ông nên thọ trì. Tức thì Tỳ-kheo Hải Tràng thọ trì tất cả văn cú của pháp môn Phổ Nhãn thứ lớp, vì người khác giảng rộng, bảo Thiện tài: Thiện nam! Ta trong khoảng một sát na có thể thọ trì pháp môn Phổ nhãn. Nếu dùng hết nước biển lớn để mài mực, giấy vở chất đầy như núi Tu di, tất cả cây cối trong thiên hạ làm bút, chúng sanh nơi nước, đất liền trong Tam thiên thế giới làm thầy viết những pháp môn được thọ trì trong khoảng một sát na ấy thì trong trăm ngàn phần chưa viết hết một phần huống gì là những điều thọ nhận trong một ngày một đêm, cho đến thọ nhận trong mười hai năm, nghĩa trọng yếu, phần lớn là hết sức sâu xa, vô lượng vô biên. Đồng tử Thiện Tài ở nơi một bậc thiện tri thức, từ chỗ nghe pháp đã có thể là vô lượng vô biên quá ức ngàn số pháp như vậy, huống gì đến tham vấn học hỏi một bên chư Phật nhiều như vi trần thế giới chư Phật và thọ giáo pháp ở các thiện trí thức.

Từ nhân duyên này nên đầy đủ Đại thừa, gọi là Tỳ-phật-lược. Vô lượng vô biên không phải là của Thanh-văn chăng? Ý nghĩa này rất sâu xa, do đó tất cả các pháp môn tu hành của Thanh văn đều nhập vào đạo Ma-ha-diễn mới là tốt đẹp tối thượng. Đó gọi là ý nghĩa tùy thuận Tu-đa-la.

Nay lại nói sự tùy thuận Tỳ-ni. Ba thừa Thánh đạo đều nhằm đoạn trừ tham dục, sân hận ngu si gọi là Tỳ-ni. Tu-đa-la là phân biệt nhân quả, A-Tỳ-đàm là phân biệt pháp tướng và cũng để đoạn phiền não. Ma-ha-diễn cũng nói là đoạn trừ phiền não tham dục, sân hận, ngu si và tất cả pháp ác.

Phật dạy bậc Thanh-văn làm thanh tịnh ba nghiệp xong thì gọi là Tỳ-ni. Với bậc Bồ-tát thì dạy làm thanh tịnh ba nghiệp xong, cho đến thành Phật, đầy đủ tất cả Thi-la Ba-la-mật cho chúng sanh, giới Bồ-tát thọ trì là tự tánh giới, phát tâm Bồ-đề thành tựu quả chân thật. Do vậy mà biết Ma-ha-diễn tùy thuận theo Tỳ-ni, không trái với pháp tướng. Kinh của ba thừa nói đều không trái mười hai nhân duyên. Đại thừa cũng không trái mười hai nhân duyên. Nếu khéo quán sát sẽ nhận biết Đại thừa tức là ba Pháp ấn. Nếu không khéo quán sát thì không thấy có Đại thừa và cũng không đủ ba thừa. Nếu phỉ báng Ma-ha-diễn thì đó là tội rất nặng. Nay nếu ông nói: “Đó là lời Ma nói, Phật không nói điều ấy, rõ ràng trong các kinh thật không có lời này. Nếu chỉ những lời từ kim khẩu Phật nói mới là Đại thừa thì lời nói của Ma ấy trọn không thể tin. Hoặc ý ông cho rằng lời Phật thuyết ấy cũng như trong thân Sư tử sanh ra trùng, trùng này trở lại đục khoét ăn thịt Sư tử, thì ba thừa đều như vậy, không riêng gì Đại thừa? Do đấy, Ma-ha-diễn không phải là chỗ Ma đạt đến, chỉ, duy nhất khả năng Phật mới nói được.

Hỏi: Ông không phải là Ma thuyết, tôi là Ma thuyết sao?

Đáp: Tôi và ông đều không phải là Ma thuyết vậy.

Hỏi: Nếu nói tôi và ông đều không phải Ma, thuyết thế thì cái gì nói là ma thuyết tức phải ngăn chặn.

Đáp: Pháp Đại thừa của tôi làm lợi cho chúng sanh thuận với pháp tướng nên có nhiều ma sự. Vì thế trong pháp Đại thừa Đức Như Lai đã dạy ngăn dứt ma. Còn pháp Tiểu thừa của ông chỉ có thể tự độ nên Ma không nhiễu hại, đâu cần ngăn chặn.

Vì thế, Như Lai đã dạy trong Kinh Pháp Hoa và Kinh Bát-nhã: Vào đời vị lai có nhiều chúng sanh khởi tâm đố kỵ, nên phải ngăn chặn những phỉ báng kẻo đọa vào cõi ác. Những điều ông tụng tập thì trong bộ kinh nào có nói Ma-ha-diễn là thuyết của Ma, nếu trong kinh không nói mà ông tự nói thì không thể tin.

Hoặc ý ông cho rằng trong pháp Thanh-văn cũng có pháp ngăn dứt, nhưng đã diệt lâu rồi, điều này khó có chứng cứ và cũng không phải. Vì sao? Vì không có xứ sở.

Giả như cần ngăn dứt, Phật đã dùng thần lực giữ gìn pháp này qua nhiều kiếp không bị mai một, mất đi. Do vậy đủ biết ông nói “lâu rồi” chỉ là lời nói. Giả như là lời Ma nói nhưng nếu có thể trừ chướng, hoặc, không trái với chánh pháp, thì tuy là Ma nói nhưng là chánh pháp, so với lời Phật dạy không khác biệt. Vì sao? Như điều Phật dạy: “Hãy y theo pháp, đừng nương theo người”. Vì vậy, nay tôi chỉ theo chính lý, không theo danh tự. Vả lại chỗ mong cầu của chúng ta là diệt được trí chướng và phiền não chướng. Nếu Đức Thế Tôn là Ma thực, trọn không thể nói pháp Bồ-tát. Vì sao? Vì Ma không thể biết là Bồ-tát từ thiền định phát sanh Văn, Tư, Tu tuệ, nhàm chán xa lìa các dục và các pháp ác bất thiện, ý nghĩa của Đại thừa, ấy chỉ có Phật mới có thể nói thứ lớp như vậy, từ sơ địa cho đến địa thứ mười, bốn thiền, bốn tâm vô lượng, bốn định vô sắc, định diệt thọ tưởng, tâm Bồ-đề, các Ba-la-mật, pháp phương tiện tùy nghi thành thục để thâu phục chúng sanh, mười đạo thiện, giới văn trí tuệ, không phóng dật, lìa tám pháp thế gian, tám Thánh đạo, chuyển pháp luân, kiên trì đầu đà, gồm đủ công đức, khổ, không, vô thường vô ngã, tịch diệt, mười hai nhân duyên, xuất nhập các thiền, ba môn giải thoát, các Đà-la-ni, ba mươi bảy pháp phẩm trợ đạo, những môn thần thông, bốn biện tài, thật đế, thiền trí hai luân để tự trang nghiêm, mọi sự hòa hợp, các pháp diệu dụng tự tại ở cả trong sanh tử và Niết-bàn, không lìa bỏ sanh tử, cũng không hướng về Niếtbàn, tâm thường chán sự ác, quán chính các địa, xa lìa các địa, không theo địa Thanh-văn, Bích-chi Phật, làm tịnh các cõi Phật, pháp nhẫn tùy thuận, pháp nhẫn vô sanh, bất thoái chuyển địa, thọ chính vị địa, lực, vô úy, pháp bất công, pháp thân tướng hảo vì chúng sanh nên trụ ở cõi sanh tử, thuận chuyển và quyết định chuyển, thuận theo không chuyển và quyết định không chuyển… các pháp Phật dạy như vậy, các pháp nhân quả thứ lớp, pháp bất công, pháp phi giác, các pháp này ma không thể nói vì không phải là cảnh giới của ma. Nên trong bốn loại: Ma, nếu cho Ấm ma nói thuyết này thì tôi trọn không nói Phật có thân ấm.

Lại nữa nếu thực là ma nói, như lời này thì Bồ-tát Di Lặc nói cũng nên ngăn chặn: Lại như có Tôn giả Tân-đầu-lô, Tôn giả La-hầu-la như vậy đến mười sáu vị đại Thanh văn đều ở rãi rác các khu bãi nhỏ. Trong các kinh khác cũng có nói: Có chín mươi chín ức đại A-la-hán đều ở trước Phật, nguyện giữ mệnh thọ để hộ trì pháp. Ở phương Đông vùng Phất-ba-đề, vùng lúa mạch, vùng lúa tẻ, vùng Sư tử cõi Diêm-phù, cõi Đại Diêm-phù, xứ Bạt-đề-lê-già, Kế-tân cho đến ao lớn A-nậu, các bậc Hiền Thánh đều trụ thế để bảo vệ pháp Phật. Nếu nói Ma-ha-diễn do ma thuyết, ắt đây là đại họa của pháp Phật, các bậc Hiền Thánh, tất cả đều nên ngăn dứt. Do vậy nên biết nói Ma thuyết đều là vọng ngữ vu khống không căn cứ.

Hơn nữa các vị đại Bồ-tát, các bậc Hiền Thánh, tất cả đều hỗ trợ Đại thừa, là Ma-ha-diễn, nối tiếp hạt giống Tam bảo không để đoạn đứt.

Hỏi: Như Ngài vừa nói, nếu Ma-ha-diễn là hạt giống Tam bảo được Bồ-tát và Thanh-văn ủng hộ thì nay đối với kẻ phỉ báng Đại thừa tại sao không ngăn chặn, để cho họ không bị đọa địa ngục, không vào cõi ác đạo mà cũng không hủy hoại pháp Phật?

Đáp: Nghiệp báo quyết định không thể trừ dứt. Nghiệp có hai loại, một là: quyết định tăng trưởng, hai là: quyết định thọ báo. Bởi là nghiệp quyết định nên Bồ-tát Thanh-văn và Hiền Thánh không có thể trừ diệt. Nghiệp ác đã tạo tác quyết định phải có thọ báo, không thể cứu ngăn.

Ví như Tỳ-kheo Cù-già-ly phỉ báng kinh Đại thừa là do Ma nói, phải biết người này ắt phải bị đọa địa ngục không thể cứu được.

Hỏi: Ông nói báng bổ Đại thừa sẽ vào đường ác cũng chính là nói thô ác, tôi chưa tin được.

Đáp: Ông nói Phật thuyết Ma-ha-diễn là lời của Ma, tức là phỉ báng ba đời chư Phật, cũng là oán lớn của tất cả chúng sanh. Đó là lời nói hết sức xấu ác, đáng thọ quả báo bất thiện cực trọng của ác khẩu.

Như Phật có kệ:

Người sống nơi cõi đời
Trong miệng có búa rìu
Tự chém hại thân mình
Thảy đều do nghiệp ác.

Những lời báng bổ thô ác như vậy không phải lời tôi nói. Tôi, nay chỉ muốn khiến ông đừng khởi ý phỉ báng, vì lợi ích mà nói như vậy. Cũng như người bệnh ăn những món không nên ăn, thầy thuốc xem bệnh, cấm đoán không cho ăn. Cũng thế, vì thương mến ông, tôi muốn ông đừng dùng những lời thêu dệt nói Ma-ha-diễn là lời Ma.

Chư Phật quá khứ đã nói Ma-ha-diễn.
Chư Phật vị lai sẽ nói Ma-ha-diễn.
Chư Phật hiện tại đang nói Ma-ha-diễn.

Đây gọi là luận ngăn dứt sự hủy báng Ma-ha-diễn. Bậc Bồ-tát vì ngăn dứt sự phỉ báng Đại thừa nên mới diễn giảng luận phẩm: “Bước đầu vào Ma-ha-diễn”.

Hỏi: Ông đã ngăn chận mọi người khiến không phỉ báng, nay phải như thế nào để vào Ma-ha-diễn.

Đáp: Trước hết, Bồ-tát phải đầy đủ chủng tính, tùy thuận hạnh thiện, hiểu biết sâu xa, nội tâm rộng lớn, giới phận rộng lớn, chủng tính rộng lớn. Chủng tính đã đầy đủ thì trong tâm cũng điều hòa mềm mỏng, dần dần tiêu bớt phiền não, bớt tham-sân-si, ham tu điều thiện, tụng tập siêng năng tinh tấn. Chúng sanh như vậy, sáu căn trở nên rộng lớn có thể phát đại nguyện muốn cầu Phật đạo. Về chủng tính và tướng mạo như lời Phật dạy: Bậc căn, tính hạ, phát ý đạo bậc hạ, sở nguyện bậc hạ. Bậc căn tính, trung phát ý đạo bậc trung, sở nguyện bậc trung. Bậc căn, tính, thượng phát ý đạo bậc thượng, sở nguyện cũng ở bậc thượng. Do đấy, chư Phật tùy theo căn tính chúng sanh, sử dụng tâm từ bi phân biệt mà giáo hóa.

Hỏi: Nếu chúng sanh mỗi người mỗi căn tính riêng thì tùy theo căn cơ, thuyết pháp như thế nào?

Đáp: Chúng sanh bậc thượng căn thì thuyết pháp tạng Bồ-tát thâm diệu, vì biết căn tính có thể hành được hạnh Bồ-tát nên thuyết tạng Bồ-tát.

Hỏi: Là tạng Bồ-tát thì trụ ở Địa nào?

Đáp: Đến bậc Địa giải thoát có mười thứ hành. Được nghe tạng Bồ-tát rồi, được mười thứ pháp hành, lìa hành giải thoát liền được vào hạnh Bồ-tát. Mười hành đó là:

Một là: tu hạnh giải thoát của Bồ-tát, dù nhiều dù ít thảy đều tu tập.

Hai là: Tất cả pháp của Bồ-tát hiện có, dù nhiều dù ít thảy đều biên chép.

Ba là: Các pháp của tạng Bồ-tát, dù nhiều dù ít thảy đều cúng dường.

Bốn là: Các pháp của Bồ-tát, dù nhiều ít thảy đều truyền đọc.

Năm là: Các pháp của Bồ-tát, dù nhiều ít thảy đều nghe nhận.

Sáu là: Các pháp của Bồ-tát, dù nhiều ít thảy đều thọ trì.

Bảy là: Các pháp của Bồ-tát, dù nhiều ít thảy đều tu tập tụng đọc, dần dần thông hiểu.

Tám là: Các pháp của Bồ-tát, dù nhiều ít thảy đều vì người mà phân biệt diễn nói.

Chín là: Các pháp của Bồ-tát, dù nhiều ít thảy đều suy tư để khéo hiểu nghĩa lý.

Mười là: Các pháp của Bồ-tát dù nhiều ít, ở riêng một chỗ suy gẫm và tu tập để thêm sáng tỏ.

Đó là mười hành của Bồ-tát.

– Hành thứ tám là văn tuệ của Bồ-tát.

– Hành thứ chín là tư tuệ của Bồ-tát.

– Hành thứ mười là tu tuệ của Bồ-tát.

Hỏi: Bồ-tát đạt Văn, Tư, Tu rồi thì vào hạnh gì?

Đáp: Đạt Bậc này rồi thì vào môn giải thoát.

Theo thứ tự như vậy, khi sanh Văn Tư Tu, thấy pháp giới rồi thì tu ba môn giải thoát.

Hỏi: Ba môn giải thoát là gì?

Đáp: Đó là hành Không, Vô tướng và Vô nguyện.

Hỏi: Sao gọi là « Không? »

Đáp: Quán sát ngã, nhân, chúng sanh đều không có tự thể, tánh tướng thường tịch (vắng lặng).

Hỏi: Làm sao hiểu rõ ý nghĩa được?

Đáp: Thể nhập mười hai nhân duyên.

Hỏi: Môn giải thoát “Không” có khác với mười hai nhân duyên không?

Đáp: Tướng của “Không” và mười hai nhân duyên không khác.

“Không” tức là mười hai nhân duyên, mười hai nhân duyên tức là “Không” Vì sao? Vì nhân duyên giả mượn mà dấy khởi lên, không có tự thể. Như kệ của Tôn giả Long Thọ đã nói:

Mười hai nhân duyên, “Không”
Ta nay muốn thuyết giải
Tạm gọi pháp nhân duyên
Mà đây tức trung đạo.

Tất cả các pháp thảy đều không tịch. Vì sao? Vì đều thuộc nhân duyên, không có thể tánh riêng.

Hỏi: Nếu tất cả các pháp do nhân duyên sanh sao lại thuyết là không có thể tánh?

Đáp: Nói nhân duyên là căn cứ nơi thế đế mà nói. Với Đệ nhất nghĩa đế thì không có thể tính, cũng không có sanh. Đã không sanh ắt không diệt. Không sanh không diệt tức chân tịch diệt. Chân tịch diệt là tất cả các pháp tịch diệt. Nên tôi nói tất cả các pháp không có thể tánh.

Như trong Kinh Lão Mẫu, Thế Tôn nói: Ví như do người, do dùi, do trống, các duyên trên hòa hợp nên có tiếng trống phát ra. Như tiếng này, không ở tại ba đời, cũng không ở trong không ngoài, không ở giữa. Tánh nó là không tịch, không sanh, không diệt. Từ đó biết tất cả các pháp thể tính không tịch. Trong Kinh Lão Mẫu, Phật đã tự thuyết về “Không” . Do đó, bậc Bồ-tát trong vô lượng kiếp tu tập phúc đức, Thiền định, Trí tuệ thảy đều vào ba pháp môn giải thoát. Khéo quán sát sanh diệt thảy đều không tịch. Cũng như huyễn, lửa bốc, thành Càn-thát-bà, cũng đồng như mộng hóa như lời Phật dạy:

Trước ngộ mười hai duyên
Chúng sanh thảy đều “Không”
Một sát na có được
Lửa, huyễn, thành Càn thát.

Thứ tự như vậy vào môn giải thoát “Không”, tâm đựơc vui thích đạt được ý nghĩa, lợi lạc.

Hỏi: Các phái ngoại đạo đều chấp trước ngã kiến. Làm sao ngăn dứt ?

Đáp: Các phái ngoại đạo như vậy đều chấp trước sắc tướng ở trong, ở ngoài, chấp giữ ngã, ngã sở theo dòng sanh tử. Họ chấp trước nơi Ngã có thể ban cho thức ăn uống, tài lợi. Như vậy đủ loại đều dựa vào Kiến chấp Ngã, Kiến chấp chúng sanh. Họ chấp Ngã, Ngã sở là chấp vật tạo tác của Ngã, ví như cái bình, các vật của ta… loại như vậy gọi là chấp dựa vào ngã sở, và nghiệp của Ngã đã tạo. Với những chấp trước thiên lệch hoặc là một, hoặc là khác, hoặc cùng một là khác,, hoặc không một, không khác, họ chỉ dùng ngôn ngữ dối lừa thế gian và dối lừa chính mình. Vì ý nghĩa đó, nên trôi theo dòng chảy sanh tử, không hiểu nhân duyên, tánh các pháp là “không”.

Hỏi: Các ngoại đạo không hiểu nhân duyên mà khởi bốn chấp phạm những lỗi lầm nào?

Đáp: Phái Tăng khư có lỗi chấp một : tạo tác và tác giả là một, hình tướng của đối tượng, hình tướng của chủ thể là một; phần và hữu phần là một. Những loại tự như vậy gọi là lỗi chấp một.

Phái Ưu lâu khư chấp “khác”. Phái Ni-kiền-đà chấp “một, khác” đều có. Nhã-đề-tử chấp chẳng phải một chẳng phải khác. Các ngoại đạo và Ma-tha-la v.v… chấp “khác”. Tất cả đều không ngoài bốn loại chấp như trên.

Hỏi: Người phái Tăng khư nói: Sự tạo tác và tác giả là một, vậy lỗi như thế nào?

Đáp: Vì nói có hai nên không gọi là một. Sự tạo tác là nhân, tác giả là quả. Việc này không đồng, sao gọi là một. Nếu sự thực là khác mà nói là một thì đó là điên đảo. Vì sao? Vì tác giả tức là sự tạo tác. Tác và tác giả ở thời gian trước và sau, khác nhau, sao gọi là một ?

Hỏi: Trước và sau cũng là một hoạt dụng: Như khi hạt giống sanh mầm, tuy có trước sau nhưng tương tợ nhau mà nối tiếp nhau nên gọi là một.

Đáp: Đây cũng có lỗi. Nếu sự tạo tác là trước, tác giả là sau thì cái sanh và cái chưa sanh khác nhau, sao lại là một. Ví như có (hữu) và bình, trọn không được song song. Cũng như bò và sừng không thể nhân nhau mà sanh. Sự tạo tác và tác giả cũng như vậy.

Lại nữa, còn lý do mà sự tạo tác và tác giả không là một. Vì âm thanh khác, nghĩa khác, nhân duyên khác, thời gian khác, chữ khác. Như vậy có rất nhiều lỗi. Nếu chỉ là một thì không nên có tên gọi hai. Thể tướng của âm thanh và nghĩa trước sau khác nhau, nên không thể là một.

Nếu sự tạo tác và tác giả là một thì đất sét và thợ gốm, bàn quây, sữa và đề hồ thảy đều là một, nhưng đã không thế, nên biết sự tạo tác, tác giả không phải là một. Cũng như ngã và tâm không phải là một. Nếu là một thì tâm là vô thường, ngã cũng là vô thường. Do đó cho nên chấp sự tạo tác và tác giả, tướng và tướng giả; lượng và lượng giả; là một, thảy đồng bị phá. Những thuyết như: Có, một, bình v.v… cũng nên ngăn chấp, cho đến mền bông trắng, lá, màu xanh, dài, ngắn, vuông, tròn những kiến chấp như vậy tất cả đều ngăn phá.

Hỏi: Tỳ-xá sư chấp “khác”, có lỗi gì không?

Đáp: Nếu sự tạo tác và tác giả là khác biệt cũng có lỗi lớn.

Hỏi: Lỗi ấy như thế nào, xin giảng cho.

Đáp: Nếu bình và đất sét khác biệt thì để làm bình nên dùng tơ sợi, để làm mền bông nên dùng đất sét. Nhưng làm bình không thể dùng tơ sợi được nên biết không phải là khác.

Hơn nữa, đất sét do vi trần mà thành, bình do đất sét mà thành. Hoặc bình khác biệt đất sét thì bình tức không có “thể”, đất sét trở thành bình cho nên không được là khác. Đất sét, đối với vi trần thì là “tác giả”, đối với bình thì đất sét là “tác”. Nếu tác và tác giả là khác thì đất sét đối với vi trần, bình chỉ là tên gọi khác, không đúng là khác. Do vậy nên sự tạo tác và tác giả không thể là khác. Từ lông dạ thành chăn mền, từ cỏ bồ thành chiếu, đều cũng đồng nói như thế.

Tiếp nữa, nếu “có” “một” “bình” ba thứ khác biệt ắt tất cả pháp đều bị hoại. Vì sao? Nếu có “một” không phải “bình”, thì tách rời nên “có bình”. Nếu “có một” là “bình” ắt thành nhiều bình. Có “một”chẳng phải thì “có” cũng nên chẳng phải, tức là không có “bình”. vì nghĩa đó nên ông chấp khác tức là phá hoại tất cả các pháp.

Hỏi: Theo như thuyết này không hoại các pháp. Vì sao? Vì “có” “một” nương theo “bình” mà lập, như vậy thì “có” “một” và “bình” đều được thành lập.

Đáp: Nếu “có” “một” và “bình” hòa hợp thì cái một đó phải gọi là “bình”. Nếu “bình” và “có” “một” hòa hợp thì bình cũng gọi là “có” “một”. Đã hợp với “có” “một” thì không thể là khác.

Lại nữa, có và một khác biệt cũng như lỗi nói mền bông và màu trắng. Vì sao? Vì màu trắng không phải mền bông, mền bông không phải trắng, trắng với mền bông khác nhau, những vật khác cũng vậy. Như vậy, khi đốt mền bông, màu trắng lẽ ra không bị đốt. Nếu đốt mền bông mà màu trắng cũng bị cháy thì không thể là khác biệt. Nay ông nói: Vật khác thì tướng khác. Điều này không phải. Trước ông nói: Sáu sự mỗi mỗi đều khác. Điều này cũng nên ngăn dứt.

Hỏi: Ni-kiền-đà trước có thuyết một và khác đều có, thì có lỗi gì không?

Đáp: Như ông nói một và khác đều có tức là, hoặc nói: tác và tác giả là một hoặc nói: tác và tác giả là khác biệt cũng có nhiều lỗi.

Hỏi: Có lỗi như thế nào?

Đáp: Nếu tác là tác giả, sự ắt không thành. Nếu tác khác biệt tác giả, sự cũng không thành. Vì sao? Nhân và quả khác nhau, sao là một được? Do các duyên mà thành quả nên cũng không thể khác. Tướng của tác và tướng của tác giả cũng đều như vậy.

Hỏi: Như tướng của bình bị phá mà thể không bị phá, do thể không bị phá nên được gọi là khác biệt, vì tướng đã mất mà thể vẫn còn đó. Hoặc lúc bình bị phá mà gốc thể là không thì không được là khác.

Đáp: Nếu nói là một tức, giống như thuyết của Tăng khư đã bị phá. Nếu nói là khác biệt, giống như thuyết của Tỳ-xá-sư đã bị phá. Cũng như lá xanh, mền bông trắng cũng đều bị phá.

Hỏi: Như thuyết của Nhã-đề-tử chấp không một không khác, thì có lỗi gì?

Đáp: Cả ba thuyết trước mỗi thuyết có một cách chấp. Nếu chấp không một thì tức phải là chấp khác nếu nói không khác tức phải là chấp một. Chỗ chấp kia là gì mà nói không một, không khác ? Nếu không có gì chấp mà vọng có sở chấp thì tức phá hoại pháp tướng.

Hỏi: Ngài nói pháp Đại thừa là cũng không có gì để chấp, thì cũng nên cũng hoại tất cả pháp tướng ?

Đáp: Chỗ chấp của tôi hiện thấy trên thế gian đó là pháp nhân duyên. Chỗ ông nói chỉ là điên đảo không thuận với pháp tướng.

Hỏi: Thế nào là pháp tướng? Mà nói tôi hoại pháp tướng ?

Đáp: Không có thể tướng đó chính là thể tướng.

Hỏi: Tại sao không có thể tướng làm thể tướng?

Đáp: “Không” gọi là không có thể tướng.

Hỏi: Tại sao gọi là không? Từ cái “có” để lập “không” hay từ “không có” mà lập “không”.

Đáp: Tôi không từ ý nghĩa của “có” để lập “không”, cũng không từ nghĩa của “không” để lập “không”. Do lìa nơi “có, không” nên gọi là “không”. Như Tôn giả Long Thọ nói:

Chấp có gọi là thường
Chấp không tức là đoạn
Nếu lìa chỗ có, không
Gọi là chân thực không.

Tiếp nữa trong Trung Luận, Tôn giả có kệ:

Chấp “có” thì chấp thủ thể tướng
Chấp “không” thì vướng không có “thể”
Không còn chấp giữ ở có, không
Đó chính gọi là chân thật quán.

Từ đó, do lìa “có, không” mà gọi là “không”. Lìa đoạn, thường gọi là trung đạo. Nếu có thể giác ngộ được pháp tướng như vậy nên gọi là Phật. Vậy nên ý nghĩa của mười hai nhân duyên gọi là “không”.

Hỏi: Mười hai nhân duyên lấy chứng cớ gì để biết là “không” ?

Đáp: Thí dụ như bình, đất sét, bàn xoay cho đến thợ gốm. Nhiều duyên hòa hợp sau đó thành bình. Không phải đất sét là bình, cũng không phải rời đất sét mà có bình. Chỉ là mượn tên gọi nói là bình phụ thuộc vào nhân duyên không có “thể” tướng riêng. Không có “thể”, tướng nên không sanh, không sanh nên “thể”, tướng tịch diệt. Do nhân duyên mà thành nên không có “thể”. Nếu các pháp xác định là có tự thể thì không cần dựa vào nhân duyên… không thể có như vậy. Do không tự tướng nên không có bình, bình không có nên tất cả pháp cũng không có.

Tôn giả Đề-bà có kệ:

Nếu một pháp là có tự thể,
Thì các pháp khác cũng đều như vậy,
Tất cả pháp vốn không tậht có
Do nhân duyên nên thảy đều “không”.
Quán sát thật một pháp, các pháp,
Thảy đều là tướng chẳng hai
Hiểu rõ, xác thật nó “không” rồi,
Thì thấy tất cả pháp đều “không”.

Hỏi: Có phải từ nhân duyên sanh ra pháp tức là thể tướng?

Đáp: Điều này không đúng. Vì sao? Như có “thể”, tướng hay không “thể” tướng cũng không liên quan đến điều ông nói. Như ông nói lấy nhân duyên làm thể tướng. Nhân duyên dựa bên ngoài sanh khởi, làm sao có tự thể? Gọi là thể tướng tức từ tự tánh sanh khởi không thuộc nhân duyên. Nếu phụ thuộc nhân duyên tức không có tự tánh. Cũng như vay mượn tức là không tự có. Do đó nhân duyên dựa trên pháp khác mà thành, không có tự thể, như Tôn giả Long Thọ có kệ: Pháp do nhân duyên sanh tức không có tự tánh Nếu không có tự tánh Sao lại có thể tướng.

Hỏi: Thể tướng của các pháp, Thế gian hiện thấy, sao lại nói không có ư?

Đáp: Điều này không đúng. Kẻ phàm phu vọng thấy, điều này không đáng tin.

Pháp sanh diệt đều là “không”. Sanh diệt nhanh chóng không có lúc tạm dừng. Do tướng tương tự và tương tục nên vọng kiến thấy là thực. Cũng như đèn cháy sáng sanh và diệt niệm niệm nối tiếp nhau, người phàm phu nói là một ngọn lửa. Cũng như nước chảy xiết, như bóng, tiếng vang, như huyễn, như lửa nóng bốc hơi… Như Phật dạy: Huyễn và huyễn giả đều không gì là có mà vọng thấy cho là thật. Nếu là thật thì Ngạ quỷ không phải nhìn nước mà thấy là lửa, thấy cát đá, là máu mủ,… Chúng sanh tùy nghiệp báo thiện ác mà thấy. Nếu chúng sanh lợi căn, tâm tịnh ắt có thể thấy chúng là “không”. Dạ-xoa, ngạ quỷ ở xa thấy nước, đến gần thấy là lửa liền sanh nghi hoặc. Nếu vật có thật thì không có hai lần thấy khác nhau. Do có hai lần thấy khác đó nên biết là không thực, chỉ là vọng thấy.

Vì vậy biết tất cả các pháp đều không có « thể », tướng, do không có “thể” tướng nên đều không có sanh diệt.

Hỏi: Nếu tất cả các pháp đều không sanh không diệt, tại sao lại có các lỗi đến, đi, chấp đoạn, thường?

Đáp: Do thấy chủng tử bèn cho là đến, đi. Nếu đạt được pháp “không” ắt lìa đoạn, thường. Như do chủng tử hạt giống mà có mầm, cành lá, hoa quả theo thứ tự mà thấy, mầm sanh thì chủng tử diệt. Đó là không đoạn. Cho đến quả sanh thì hoa diệt cũng không có lỗi thường.

Như Tôn giả Đề-bà có kệ:

Các pháp tương tục có
Không phải là đoạn diệt
Nhân diệt thì quả sanh
Nên không gọi là thường.

Do vậy, thấy nhân duyên là “không” tức lìa khỏi đoạn và thường.

Hỏi: Do nhân duyên si nên có hành, vì sao được lìa nơi đoạn thường?

Đáp: Do vô minh nên có hành thiện, hành ác cho đến nhân nơi sinh mà có lão, tử. Phàm phu không hiểu lý nhân duyên tương tục mà vọng cho là thật. Thể của vô minh là “không”, nên “thể” của hành cũng “không”, cho đến “thể” của sanh cũng là không, “thể” lão, tử cũng là không. Vì thế gian mà tạm gọi là có sự kế tiếp, tương tục, nên không có lỗi đoạn diệt. Niệm niệm không dừng trụ, không có lỗi thường. Do chúng sanh phàm phu chết nơi đây sanh nơi kia đó là tướng tương tợ, tương tục. Cho nên, như lời Phật dạy: Trong nghĩa đệ nhất đế không có chúng sanh chết ở đây, sanh bên kia. Chỉ vì thế đế tạm gọi như thế mà nó. Thức làm chủng tử (hạt giống), hành nghiệp làm thửa ruộng, lấy đất kiêu mạn phủ lên, vô minh làm phân bón, nước ái để tưới thấm, tinh khí của cha và mẹ hòa hợp với duyên sanh mầm danh, sắc, cho nên danh sắc không có tự thể. Cũng như chân giường mượn nhờ nhau mà dùng.

Cái khởi đầu của thai gọi là Ca-la-la, thứ hai là An-phù-đà; thứ ba là Nhục đoạn, thứ tư là Kiên thực, thứ năm là các thứ trong bào thai khai trương, thứ sáu là xúc, pháp sanh theo thứ tự mượn nhờ nhau mà có, nên không gọi là đoạn. Bồ-tát khéo hiểu rõ pháp nhân duyên tức biết nó là “không”. Vì nhân duyên là “không” nên hết thảy pháp “không”. Pháp đã hiểu là “không” nên không có lỗi đoạn và thường. Trong kinh Xuất Thai, Phật có kệ:

Tùy mượn lập danh tự,
Mà được có các pháp
Trong danh không có pháp,
Đó tức là chân thực.

Do vậy, không nói năng mới là pháp. Nếu đã tùy thuộc danh tự mà có các pháp, thì pháp tức nhiều thể. Nếu cùng như pháp “không” thì không có một thể cũng không nhiều thể.

Hỏi: Nói tất cả pháp đều là không có “thể”, e rằng ông có lỗi vì hiện thấy là có.

Đáp: Nếu các pháp là “có”, nói là “không” ắt có lỗi. Pháp đã không có sao nói là lỗi? Do đó các pháp lúc đầu, lúc sau cũng như vậy. Nếu các pháp xác định là có “thể” tướng, sau khi vào Niết-bàn lẽ ra phải đoạn diệt. Nếu trước không phải là “không”, sau nói là “không” ắt là tà kiến làm hoại chánh pháp, cũng không có giải thoát.

Như Tôn giả Đề-bà có kệ:

Chẳng “không” mà thấy “không”
Ta nên đắc Niết-bàn
Tà kiến, không Niết-bàn
Như Lai giảng điều này.

Các pháp gốc là “không” nên mãi mãi thấy là “không”. Như chư Phật quá khứ thấy tướng “không”, nay cũng thấy tướng “không”. Nên tôi nói pháp nhân duyên là “không”, điều này không có lỗi. Như vậy trước tiên lập đệ nhất nghĩa đế, sau mới phân biệt lập thế đế, thì ngã và chúng sanh, tác và tác giả cho đến là một, là khác biệt đều không có lỗi ấy. Như Tôn giả Long Thọ có kệ:
Không nói phân biệt đế, không đạt đến thật đế.
Nếu không đạt thật đế, hẳn không đạt Niết-bàn.

Tiếp lại có kệ:

Chư Phật diễn nói pháp
Thường nương theo hai đế
Phân biệt nói thế đế
Và đệ nhất nghĩa đế
Nếu không phân biệt được
Chân và tục, hai đế
Như vậy ắt không biết
Nghĩa thâm diệu pháp Phật.

Cho nên, pháp nhân duyên là “không”, gọi là chân như, pháp tánh, thực tế. Đó gọi là tu tập thiền đệ nhất nghĩa thấy nhân duyên là không tức là pháp môn giải thoát Không. Nếu thấy “không” tức chẳng thấy tướng của các pháp, đó gọi là pháp môn giải thoát Vô tướng. Thấy được vô tướng, nên không còn chỗ mong cầu, đó gọi là pháp môn giải thoát Vô nguyện. An trụ trong ba pháp môn giải thoát như vậy, chủng tử thức ở trong tam giới sẽ không sanh mầm danh sắc, Thức không còn chấp trước sẽ diệt khổ của ba cõi. Khổ nơi ba cõi diệt thì đạt đến Niếtbàn tịch diệt. Như Tôn giả Đề-bà có kệ:

Thức là nghĩa chủng tử
Lưu hành trong sáu cõi
Thấy các trần là không
Các mầm liền đoạn diệt.

Hỏi: Bồ-tát vượt “không”, ra khỏi sanh tử, tại sao lại được thù thắng hơn bậc Thanh văn?

Đáp: Bồ-tát được lợi tại thế gian, và xuất thế gian, vượt qua các cảnh giới, tuy xuất thế gian nhưng vẫn có thể trụ ở thế gian để giáo hóa chúng sanh.

Bậc Thanh văn thì không thể như vậy. Bậc Thanh-văn sợ hãi sanh tử cầu chóng diệt độ, theo đạo xuất thế gian thấy được pháp giới. Thấy pháp giới rồi, đến bờ Niết-bàn. Bồ-tát không như vậy. Vì sao? Bồ-tát thấy cái khổ của chúng sanh khởi tâm đại bi, vì muốn độ qua bờ kia nên kiên trì trụ trang nghiêm nơi a-tăng-kỳ kiếp tu hành đạo xuất thế gian. Trong khoảng một niệm quán tất cả pháp giới, quán pháp giới rồi tạo duyên với chúng sanh, không giữ lấy quả chứng mà có khả năng độ thoát. Như trong kinh A-nậu-đại-trì, Phật dạy: Có hai người từ đỉnh núi bị trượt ngã. Một người có sức, có phương tiện tốt và nhờ phương tiện tốt nên tuy ngã nhưng lại lên được đỉnh. Một người sức yếu, lại không phương tiện liền rơi xuống lại không thể lên được. Bậc Bồ-tát trong pháp vô vi, không chứng không chấp, như người khéo léo đã lên được đỉnh núi. Bậc Thanh-văn chứng chấp nơi vô vi, như người ít phương tiện, rơi xuống không lên lại được.

Ví như có vị Trưởng giả chỉ có một con. Vì mất mùa đói kém nên đến một nước xa, qua mười năm sau vị Trưởng giả ấy ở một thành lớn, trở nên giàu có, nhiều châu báu, có người giúp việc bèn trở về nước. Bồ-tát có vô lượng vô biên a-tăng-kỳ công đức đến các cảnh giới trí tuệ, hướng tới Niết-bàn. Do lòng thương xót chúng sanh nên quay lại vào sanh tử ở trong a-tăng-kỳ kiếp chịu khổ nhọc lâu dài. Thừa Bồ-tát Ma-ha-tát cũng gọi là thừa đại khổ, cầu quả vô thượng không thể nghĩ bàn, vượt qua tất cả thừa Thanh-văn, thừa Bích-chi Phật, đầy đủ tất cả công đức trí tuệ, nên siêu vượt qua các cảnh giới. Thế nào Bồ-tát, thừa là thừa đại khổ ? Ví như có người đi thuyền vào biển, gặp phong ba bão tố, nhiều nạn như thế. Người cùng thuyền do tâm khủng hoảng sanh ra nhiều sợ hãi, nhưng lúc đó thuyền trưởng khéo giữ tay buồm, nên vượt qua các nạn, là người có phúc đức, đã vượt qua nạn rồi, còn thu tìm được châu báu… Bồ-tát Ma-ha-tát ở nơi biển sanh tử cũng lại như vậy, vì kẻ tri thức ác không tin vào hiểm nạn, hướng vào cõi ác.

A-tăng-kỳ kiếp thứ nhất, tu hạnh trị địa tịnh cầu giải thoát tịnh.

A-tăng-kỳ kiếp thứ hai, tu hạnh thiền định tịnh.

A-tăng-kỳ kiếp thứ ba, tu hạnh trí tuệ tịnh để dứt trừ các chướng ngại của cảnh giới.

Do đó thừa Bồ-tát gọi là thừa khổ. Đầy đủ mười địa, lúc đó được không nghi, không chướng ngại, đầy đủ tất cả hành, đắc quả Bồ-đề vô thượng. Do vậy nhờ trí biết cảnh giới mà thành tựu quả lớn.

 

QUYỂN HẠ

II. PHẨM CƠ LUẬN KHÔNG

Hỏi: Trước giảng về thừa điều thuận, thừa đại khổ đạt được quả báo vi diệu, cảnh giới bậc Bồ-tát đạt được đều thât khó thấu hiểu đến.

Đáp: Chỗ hành của Bồ-tát vi diệu nên rất khó biết hết. Trong ba a-tăng-kỳ kiếp mới có thể thành tựu. Vô lượng trăm ngàn vạn ức na-dotha kiếp ở trong phàm phu, không có pháp xuất thế.

Như Tôn giả Đề-bà có kệ:

Trong vô lượng ức kiếp
Thường tại chỗ phàm phu
Ông nay hãy nên biết
Vị lai cũng như vậy.

Cho nên chốn Bồ-tát hành là rất rộng lớn và cũng khó được. Chúng sanh tâm tán loạn được nghe, nói cũng đã rất khó huống gì tu hành. Như Tôn giả Đề-bà có kệ:

Sanh gặp pháp là khó
Được nghe pháp cũng khó
Sanh tử không ranh giới
Nghe pháp có giới hạn.

Hỏi: Tôn giả trước đã nói mười địa. Xin phân biệt giảng cho tôi rõ những bậc nào là mười địa của Bồ-tát.

Đáp:

Một là, địa Hoan hỷ.

Hai là, địa Ly cấu.

Ba là, địa Minh.

Bốn là, địa Diệm.

Năm là, địa Nan thắng.

Sáu là, địa Hiện tiền.

Bảy là, địa Thâm viễn.

Tám là, địa Bất động.

Chín là, địa Thiện tuệ.

Mười là, địa Pháp vân.

Sao gọi là địa Hoan hỷ? Vượt qua giới phàm phu, được đạo xuất thế gian không thể nghĩ bàn, tâm sanh hoan hỷ nên gọi địa Hoan hỷ.

Sao gọi là địa Ly cấu? Phá bỏ và lìa các cấu uế, gọi là địa Ly cấu.

Sao gọi là địa Minh? Tu theo mười hai pháp môn thiền được trí tuệ sáng suốt nên gọi là địa Minh.

Sao gọi là địa Diệm? Được tăng thêm đạo phẩm, giác ý phân biệt đốt cháy mọi củi phiền não, công đức sáng rỡ nên gọi địa Diệm.

Sao gọi là địa Nan thắng? Tu tập mười trí, tuy hàng phục phiền não nhưng chưa có thể thắng nên gọi là địa Nan thắng.

Sao gọi là địa Hiện tiền? Có thể quán mười hai nhân duyên theo chiều thuận và nghịch, thấy được pháp rõ ràng như trước mắt nên gọi là địa Hiện tiền.

Sao gọi là địa Thâm viễn? Yêu thích trí tuệ công đức của Phật, tiếp theo không vướng mắc đến tâm khác, thâm nhập được pháp tướng, nên gọi là địa Thâm viễn.

Sao gọi địa Bất động? Rời bỏ sắc tướng, kiên cố không bị lay chuyển nên gọi là địa Bất động.

Sao gọi là địa Thiện tuệ? Nhập vào bốn biện tài, có thể giải rõ mọi âm thanh, tùy chỗ hỏi có thể giải đáp trong khoảng một sát na, nên gọi là địa Thiện tuệ.

Sao gọi là địa Pháp vân? Có thể thọ trì tất cả pháp Phật, cũng như đám mây lớn có thể rưới ra mưa pháp nên gọi là địa Pháp vân.

Trên đây là tên đầy đủ mười địa của bậc Bồ-tát.

Như vậy, Mười địa là hành xứ an trụ của Bồ-tát, cũng có khả năng đạt đầy đủ tất cả trí tuệ như trong kinh Thập Địa đã giảng rộng. Nếu có thể biết mười địa Bồ-tát như vậy gọi là: Khéo nhận biết về hành xứ an trụ. Cũng gọi là: Khéo nhận biết về xứ sở công đức rộng lớn của Bồ-tát. Cũng gọi là: Khéo nhận biết về xứ sở công đức rộng lớn của Như Lai. Nếu không thể hiểu như vậy, tôi nay quyết định ngay là người đó không rõ pháp Bồ-tát và pháp của Như Lai. Bồ-tát Ma-ha-tát từ lúc sơ phát ý cho đến địa thứ mười luôn tu bốn hành.

Như trong kinh Bảo Đỉnh nói: Hành khéo hiểu biết về vô minh, hành về Ba-la-mật, hành phân biệt đạo phẩm, hành thành thục chúng sanh, bốn hành như thế tổng nhập vào hai luân là phúc luân và trí luân, các địa của Bồ-tát cũng đầy đủ hai thứ quả trí và quả phúc.

Hỏi: Thế nào là thành tựu hai quả?

Đáp: Quả phúc ở Sơ địa làm vua cõi Diêm-phù-đề.

Quả phúc ở địa thứ hai làm Chuyển luân Thánh vương làm chủ bốn cõi thiên hạ.

Quả phúc ở địa thứ ba làm trời Đế thích.

Quả phúc ở địa thứ tư làm Thiên vương Diệm ma.

Quả phúc ở địa thứ năm làm Thiên vương Đâu suất đà.

Quả phúc ở địa thứ sáu làm Thiên vương Hóa lạc.

Quả phúc ở địa thứ bảy làm Thiên vương Tha hóa tự tại.

Quả phúc ở địa thứ tám làm Phạm vương ngàn thế giới.

Quả phúc ở địa thứ chín làm Phạm vương hai ngàn thế giới.

Quả phúc ở địa thứ mười làm Thiên vương Tịnh cư nơi ba ngàn thế giới.

Như trong kinh Hoa Nghiêm đã nói rộng. Như Lai xuất sanh quả báo và thâu nhận thế giới, đó gọi là của phúc luân Bồ-tát.

Thế nào là trí luân của Bồ-tát? Bậc Bồ-tát sơ địa, trong khoảng một sát na đạt trăm pháp Tam muội, thấy trăm môn thần thông của chư Phật, có thể qua được trăm cõi Phật, có thể làm chấn động đến trăm thế giới Phật, ánh sáng soi chiếu khắp đến trăm thế giới Phật, có thể thành tựu hàng trăm hạng chúng sanh, có thể nhận biết trăm kiếp quá khứ, trăm kiếp vị lai, có thể nhập vào trăm pháp môn,… có thể hiện thành trăm thân rồi nhập về một thân, dùng trăm Bồ-tát để trang nghiêm quyến thuộc. Nếu dùng nguyện lực còn quá hơn số ấy hàng trăm ngàn vạn ức, vô lượng vô biên không thể dùng số lượng tính toán hoặc thí dụ để biết được. Như lực thân hoặc lực quang minh, hoặc lực thần thông, hoặc lực nhãn, hoặc lực thanh, hoặc lực hành, hoặc lực trang nghiêm, hoặc lực trụ trì, hoặc lực giải thoát, tạo ra những nghiệp thiện gọi là sơ trụ. Bồ-tát trong khoảng một sát na thành tựu vô lượng công đức như vậy.

Bồ-tát trụ thứ hai đạt ngàn pháp Tam-muội,… như kinh đã giảng nói rộng.

Bồ-tát trụ thứ ba đạt mười vạn pháp Tam-muội,… như kinh đã giảng nói rộng.

Bồ-tát trụ thứ tư đạt ức pháp Tam-muội,… còn lại nói rộng tương tự như sơ trụ.

Bồ-tát trụ thứ năm đạt ngàn ức pháp Tam muội,… còn lại nói rộng như bậc sơ trụ.

Bồ-tát trụ thứ sáu đạt vạn ức pháp Tam muội,… còn lại nói rộng như bậc sơ trụ.

Bồ-tát trụ thứ bảy đạt ức trăm ngàn na-do-tha pháp Tam muội,… còn lại nói rộng như sơ trụ.

Bồ-tát trụ thứ tám đạt số pháp Tam muội gấp mười lần số vi trần của tam thiên thế giới,… còn lại cũng nói rộng như sơ trụ.

Bồ-tát trụ thứ chín đạt số pháp Tam muội bằng số trăm ngàn atăng-kỳ vi trần của mười thế giới Phật, công đức còn lại giống như sơ trụ đã nói rộng.

Bồ-tát trụ thứ mười đạt pháp Tam muội nhiều như số không thể nêu, không thể nói ức trăm ngàn na-do-tha vi trần của mười thế giới Phật, công đức còn lại như sơ trụ đã nói rộng. Trong khoảng một sát na cho đến thấy chư Phật nhiều như số vi trần nơi ức trăm ngàn na-do-tha không thể nói không thể nêu của mười thế giới Phật. Như Bồ-tát bậc sơ trụ (sơ địa) trong khoảng một sát na thấy trăm thế giới chư Phật, cho đến thành tựu được trăm hạng chúng sanh. Bậc Bồ-tát trụ thứ mười cũng lại như vậy.

Hỏi: Như Phật đã dạy là trong một thế giới không có hai vị Phật xuất hiện. Tại sao Bồ-tát lại thấy mười thế giới chư Phật, bất khả thuyết bất khả thuyết ức trăm ngàn na-do-tha vi trần số chư Phật?

Đáp: Chư Phật nói trong một thế giới không có hai vị Phật là nói với hạng chúng sanh tiểu tâm, độn căn không phải nói với chúng sanh đại tâm lợi căn. Như trong kinh các ông nói: Một thế giới không có hai vị Chuyển Luân thánh vương, không có hai vị Phật xuất hiện ở đời nhưng nơi bốn cõi thiên hạ thật có nhiều vị Chuyển luân thánh vương. Chư Phật xuất thế cũng vậy, có rất nhiều.

Hỏi: Phật Thích-ca Mâu-ni cũng có thể hiện hữu khắp các cõi Phật, thì đâu cần những vị Phật khác?

Đáp: Như ông nói, chỉ một vị Phật cũng có thể hiện bày khắp tất cả thế giới thì trong quá khứ trước Phật Thích-ca Mâu-ni đã có bảy vị Phật ra đời và thành Chánh giác. Nên điều tôi nói có nhiều Phật là không lỗi. Dù thần lực của Phật Thích-ca Mâu-ni có thể hiện bày khắp đến tất cả thế giới thì hiện nay vô lượng chư Bồ-tát đương tu vạn hạnh, công đức đầy đủ đều sẽ thành Phật. Không có lý chỉ một người thành Chánh giác mà cản trở những Bồ-tát không thành Phật. Như kinh A Hàm Khô Thọ Pháp Luân và các kinh khác nói, có sáu mươi Tỳ-kheo, lậu dứt sạch, ý thông tỏ, đều đắc quả A-la-hán. Bồ-tát cũng vậy, công hạnh cùng hoàn thành, đồng thời thành Phật. Nên biết mười phương có vô lượng chư Phật. Lại như kinh Kim Sa và kinh A Hàm có nói:

Có Phật mới thành
Có Phật hiện tại
Có Phật diệt độ.

Lại nữa, nói kệ:

Quá khứ vô lượng Phật
Vị lai cũng như vậy
Và phật thành hiện nay
Đều diệt những sầu ưu,
Tất cả tôn trọng pháp,
Nay xưa đều tu hành.
Vị lai cũng như thế
Pháp chánh giác như vậy.

Đàm-vô-cúc-đa cũng có kệ:

Đảnh lễ hết thảy Phật
Lậu tận, không ai hơn
Vô lượng thân chư Phật
Chánh giác tối thắng tôn
Chỗ phát sanh Chánh giác
Cùng chứng đắc Bồ-đề
Chuyển bánh xe chánh pháp
Vào Niết-bàn vô lậu
Hoặc dừng hoặc kinh hành
Hoặc Như Lai ngồi nằm
Thế như sư tử chúa
Nay con xin đảnh lễ
Đến các bậc Thế Tôn
Trên dưới khắp các phương
Pháp thân cùng Xá-lợi
Kính lễ các tháp Phật
Phương Đông đến phương Bắc
Lưỡng Túc Tôn tại thế
Được xưng tên Nan thắng
Chư Phật ấy nói kệ
Những bài tụng kệ này
Tán thán các Thế Tôn
Trong trăm kiếp sanh tử
Trọn không đọa cõi ác.

Như Phật thuyết cho Tôn giả Mục-kiền-liên: Không phải thần túc của ông bị thoái chuyển, chỉ do Tôn giả Xá-lợi-phất đã dùng sức thần thông buộc y đai vào tòa nan thắng.

Trong kinh của các ông đã nói đến những vị Phật như vậy, huống chi trong Ma-ha-diễn đã biện minh có vô lượng, vô biên chư Phật cùng ở trong pháp giới đồng hư không giới, thế giới của chư Phật đều có những vị Phật.

Bồ-tát bậc sơ địa, thân hành thanh tịnh, nên dù có kiết sử nhưng không thể gây nhiễu loạn được. Cho đến Bồ-tát trụ thứ bảy không gọi là đoạn kiết, cũng không gọi là có kiết. Tại sao không gọi là có kiết mà cũng không gọi là đoạn kiết?

Vì kiết sử không còn là điều quấy nhiễu Bồ-tát, nên gọi là không có kiết. Vì yêu thích công đức Phật nên gọi là có kiết. Đến hết Atăng-kỳ kiếp thứ hai thành địa thứ tám của Bồ-tát, đầy đủ tất cả hạnh, không có chỗ tạo tác, tất cả kiết sử đều dứt, nên đắc được Bồ-đề, trú ở “không” tĩnh lặng, đắc định diệt tận như bậc A-la-hán. Như vậy cho đến thành tựu pháp nhẫn vô sanh.

Nếu chư Phật không khuyến thỉnh, thì ngay ở định diệt tận của Bồ-tát, nhập vào Niết-bàn vô dư. Như trong kinh dạy: Đắc vô sanh pháp nhẫn lìa chướng phiền não như bậc A-la-hán đắc tịch diệt hoàn toàn, lìa sanh tử, được mười pháp tự tại.

Mười tự tại là: Thọ mệnh tự tại, tâm tự tại, các vật dụng tự tại, tạo nghiệp tự tại, chỗ sanh tự tại, giải thoát tự tại, thần thông tự tại, nguyện tự tại, pháp tự tại và trí tự tại.

Được các pháp tự tại như vậy rồi, khéo tu pháp như ý túc nên hàng phục được Bốn ma là: Ấm ma, Phiền não ma, Tử ma và Thiên ma. Vì chúng sanh nên thảy đều một vị, đắc từ vô duyên. Như cây thuốc Như ý, tùy theo sự mong cầu của chúng sanh, đều khiến thành tựu.

Hỏi: Tại sao tự thân Bồ-tát tạo nghiệp, có thể khiến chúng sanh tùy nguyện mà thành tựu.

Đáp: Bồ-tát lấy tâm từ làm thể. Như thấy độc có thể làm chết người, chúng sanh thấy Bồ-tát liền được lợi ích.

Hỏi: Bậc Bồ-tát trụ thứ tám đã đoạn hết kiết sử, vậy sao thân rốt sau của Bồ-tát lại sanh ra La-hầu-la?

Đáp: Đúng như chỗ nói, thân rốt sau của Bồ-tát, nếu thật sự có dục thì quả Phật không thể thành huống gì là La-hầu-la.

Hỏi: Sao lại quả Phật không thể thành?

Đáp: Nếu hủy giới thì không có giới Ba-la-mật. Không có giới Bala-mật thì không có các Ba-la-mật khác. Như Phật dạy:

“Nếu không có giới thì không có bố thí. Không có thí thì không có nhẫn nhục. Không nhẫn nhục thì không tinh tiến. Không tinh tiến thì không thiền định. Không thiền định thì không trí tuệ. Không trí tuệ thì không có tất cả công đức. Không tất cả công đức thì không Phật. Không Phật thì không La-hầu-la”.

Ông sao lại nghi hoặc sanh La-hầu-la là có kiết hay không kiết. Bậc Bồ-tát trụ thứ tám không còn phiền não như bậc A-la-hán. Dùng sức của phương tiện hiện thọ năm dục, làm những việc lỗi ác, xả bỏ chức vị Chuyển luân vương, thống lãnh bốn cõi thiên hạ, chỉ khiến cho chúng sanh đựơc tâm chán lìa cõi ác.

Như Tỳ-kheo Ba-lưu-chi có kệ về Bổn hành của Phật:

Một thân vì nhiều thân
Hành động rất thù thắng
Không thực, cũng không hư
Khiến thảy đều vui thích
Phóng dật sanh ý dục
Hừng hực sự cuồng loạn
Hiện đồng hành với dục
Đều dẫn đến bờ giác
Thiền trí hay thiêu hủy
Các kiết sử dục giới
Dục kiết rất cuồng loạn
Thường hiện rõ nơi tâm.

Bậc Bồ-tát quán sát dục thấy nó như huyễn mộng nên dùng sự quán sát này để chuyển tâm chúng sanh. Bậc Bồ-tát đại bi làm những huyễn thuật để chuyển hóa tâm của họ.

Hỏi: Tại sao lại dùng huyễn thuật đối chúng sanh.

Đáp: Bồ-tát thường dùng bốn nhiếp pháp, tạo phương tiện nhằm giáo hóa tất cả chúng sanh. Đồng sự, lợi ích là để phá kiết sử. Như của nhân duyên bổn sự Bồ-tát Sí Thiêu vì tâm dục cuồng loạn, vác xác chết chạy và múa hát… Bậc Bồ-tát dùng phương tiện giống vậy. Để trừ tai họa ưu phiền, dục vọng bùng phát của người nữ kia nên thị hiện đồng sự, không thể gọi là vọng ngữ. Phương tiện đồng sự của hết thảy Bồ tát đều chẳng phải vọng ngữ, trò huyễn thuật của thế gian ít có lợi ích. Bậc Bồ-tát được vô lượng giải thoát các pháp môn Tam-muội như huyễn, dùng để làm lợi ích lớn, thành tựu chúng sanh nên không có lỗi.

Hỏi: La-hầu-la là ứng hóa hay là chân thật?

Đáp: Cả hai ý đều không lỗi.

Thân Bồ-tát tức là thân trời. Như kinh Bổn khởi nói: Phật bảo Tôn giả A-nan: Như Lai vì chúng sanh nên xuất hiện nơi thế gian, mà không dùng thân trời để chuyển pháp luân. Vì sao? Vì nhằm khiến chúng sanh không biếng trễ. Phật lấy thân trời đắc thành chính quả không phải lấy ngã phàm phu mà thành được. Do vậy bậc Thiên trung thiên vì thương xót chúng sanh nên thị hiện ở thế gian, cũng có cha mẹ, vợ con và quyến thuộc, nếu là huyễn hóa mà hiện có La-hầu-la, điều này cũng không lỗi. Nếu là người thực cũng không phải lỗi. Bồ-tát theo phương tiện đã đắc giải thoát không thể nghĩ bàn, trụ ở đại địa để thành tựu chúng sanh đã cùng hóa sanh làm cha mẹ anh em vợ con.

Hỏi: La-hầu-la là Bồ-tát phải không?

Đáp: Không riêng gì La-hầu-la là Bồ-tát. Tại thành Ca-tỳ-la-vệ các đồng tử họ Thích, như A-nan, Nan-đà, Đề-bà-đạt-đa, A-nậu-lâuđà… đều là những bậc Bồ-tát, đại lực không thoái chuyển. Như Bà-lalâu-chí trong kinh Bổn hạnh có kệ:

Hoặc là đại trượng phu
Hoặc là Phật hóa ra
Ông Đề-bà-đạt-đa
Đồng bạn của Đại tiên
Hoặc là cha, là con
Thường làm người quyến thuộc
Bồ-tát có đại lực
Quyền biến được như thế
Cùng Phật và người khác
Bồ-tát, các Đại tiên.
A-nan, Nan đà cùng…
Na luật, Thích ma nam
Bạt-đà và Trất-sa
Cùng Ưu-ba-tất-lệ
Làm cha con quyến thuộc
Đều cùng ở chung quanh.

Hỏi: Đề-bà-đạt-đa trong năm trăm thân thường gây oán lớn với Bồ-tát. Sao cũng gọi là Bồ-tát ?

Đáp: Đề-bà-đạt-đa không phải gây oán với Phật. Vì sao? Nếu Đề-bà-đạt-đa là kẻ gây oán với Phật: Hãy xét, Bồ-tát (tức Phật) luôn tu thiện, còn Đề-bà-đạt-đa thường tạo ác, vậy tại sao đời đời Đề-bàđạt-đa và Bồ-tát cùng sanh một thời, gặp nhau? Theo ý nghĩa này thì không phải Đề-bà-đạt-đa gây oán với Bồ-tát. Ví như có hai người đi. Một người hướng Đông, một người hướng Tây, mỗi bước mỗi xa nhau, thường là trái ngược nhau thì sao lại là bạn, cùng thời với nhau. Nếu Đềbà-đạt-đa là chỗ oán của Bồ-tát thì Như Lai Thế Tôn có lỗi lớn.

Hỏi: Có lỗi ra sao?

Đáp: Nếu là vậy thì Phật không phải là bậc Nhất thiết trí, cũng không có thần lực, là ngu si ắt không thể cứu hộ chúng sanh, không phải thân Kim Cang, Như Lai còn có dư nghiệp báo ứng chưa đoạn hết. Vì sao nói Phật không phải Nhất thiết trí? Khi Như Lai ở núi Kỳ-xà-quật, Đề-bà-đạt-đa đẩy đá đè mà Phật không hay. Như vậy đủ biết Như Lai không có Nhất thiết trí. Vì sao nói không có thần lực? Đề-bà-đạt-đa dùng chày đánh hại mà Phật không thể ngăn cản chế ngự, do vậy biết ngài không thần lực. Vì sao nói là ngu si? Thấy có người hại mà không biết tránh, vậy là ngu si. Vì sao nói không thể cứu hộ chúng sanh? Đềbà-đạt-đa phạm tội ngũ nghịch mà Phật không cứu độ, vì thế nên biết là không thể cứu hộ chúng sanh. Vì sao nói không phải là thân Kim cang? Bậc Chuyển Luân Thánh vương với phước báo ít mà không còn oán hại huống gì là Đức Như Lai ? Vua chuyển pháp luân mà bị đá đè chảy máu, đủ biết Như Lai không phải là thân Kim cang. Sao nói là còn nghiệp chưa đoạn dứt hết? Còn bị người đánh, nên biết là dư nghiệp chưa hết. Nếu muốn không có các lỗi này, Như Lai phải diệt hết oán địch. Nhưng Bồ-tát khéo dùng phương tiện, khiến chúng sanh chán dùng tâm ác, vì hiện làm nghịch hại, sẽ đọa vào địa ngục, muốn chỉ rõ ý nghĩa nghiệp báo là không thể hoại. Hơn nữa, một người sắp đọa địa ngục biết quy y Như Lai, thỉnh Phật cứu hộ thì những kiếp về sau được làm người giàu có, vào trong pháp Phật, biểu hiện có sự nương nhờ uy lực của Bồ-tát. Còn chịu người dùng roi gậy đánh khiến chúng sanh có ý niệm: Thân Như Lai còn bị hủy hoại huống chi là thân phàm phu, phúc ít. Ông nói là tội nghịch, đó chỉ là Bồ-tát khéo tạo phương tiện, quyền biến để thấy rõ những tội nghịch như vậy. Tội nghịch tên tuy có năm, thực chỉ có hai là Phá tăng và Hại Phật, nghiệp báo như thế trong thế gian không hề có. Đề-bà-đạt-đa là Bồ-tát Đại Tân-già-la vì ngăn chúng sanh dấy khởi tội nghịch nên hiện tạo hai nghiệp đọa vào địa ngục. Bồ-tát Ma-ha-tát tùy chỗ phải làm để giáo hóa chúng sanh cho đến hiện cùng nghiệp ma, khiến ma Ba tuần dùng ba ngọc nữ, để hiển hiện tướng vô dục của Như Lai. Cũng hiện mưa đao kiếm,… mọi việc là để hiển hiện tướng không sân hận của Như Lai và các tướng không tham ái, không ngu si.

Hỏi: Thiên ma đến với tâm ý phá hoại Chánh giác của Như Lai. Sao ông nói là vì muốn hiển bày tướng không tham, sân của Như Lai?

Đáp: Không phải bị ngăn chặn. Vì sao? Nếu Như Lai ra khỏi ma giới vẫn bị ma ngăn chặn thì Đại Phạm Thiên vương cũng ra khỏi ma giới, tại sao không bị ngăn chặn ? Bồ-đề là quả diệu đạo không ai có thể cướp đoạt cũng không đem cho được nên không thể bị hoại. Nói ma nhiễu loạn có hai nghĩa: Một là: Thực có nghiệp ác nên bị ma nhiễu loạn. Hai là: Vì muốn tạo tinh tiến cho người mới học, khiến thân tâm kiên cố nên bị ma thử thách. Thực ra đó là bậc Bồ-tát chân thiện tri thức hiện làm ma đến để tăng tiến công đức. Cũng như trên đường đi lấy sự dọa dẫm, để người bộ hành chóng qua được hiểm nạn. Cũng như con bò cày giỏi, dùng ít roi vọt tức được điều hòa lợi ích.

Hỏi: Thiên ma cũng là Bồ-tát phải không?

Đáp: Không những chỉ trong thế giới này, ma là Bồ-tát mà Ma vương trong mười phương thế giới phần nhiều là Bồ-tát. Như trong kinh Duy ma cật nói: Ma vương trong mười phương thế giới phần nhiều là Bồ-tát, trụ nơi giải thoát không thể nghĩ bàn, hay xin tay, chân, đầu, mắt, tủy não,… những vị như vậy đều là Bồ-tát trụ nơi giải thoát không thể nghĩ bàn. Vì sao vậy? Nếu không phải là Bồ-tát thì không thể kham nổi những việc ấy. Cũng như bước đi của Hương tượng thì lừa không thể theo kịp. Chỉ bậc Bồ-tát mới có khả năng làm được những việc như vậy như trong kinh đã nói rộng. Căn cứ vào ý nghĩa này nên biết bậc Bồ-tát đã thấu rõ chúng sinh mà dùng đủ mọi việc làm, hoặc hiện làm kẻ sát sanh, hoặc hiện làm người xin,… để hiển bày sức phương tiện của công đức trí tuệ.

Hỏi: Nếu La-hầu-la thực là bậc Bồ-tát sao lại nói là bậc Thanh văn A-la-hán.

Đáp: Bậc Bồ-tát cũng có thể gọi là Thanh-văn, là A-la-hán. Vì khiến cho tất cả chúng sanh nghe được đạo quả Bồ-đề vô thượng nên cũng gọi là Thanh văn. Đối với tất cả hàng thiên, nhân, A-tu-la đáng được thọ nhận cúng dường nên gọi là Ứng cúng. Bồ-tát Ma-ha-tát vì hóa độ chúng sanh, nên hiện làm Thanh-văn, A-la-hán.

Hỏi: Những vị Thanh-văn khác cũng là Bồ-tát sao?

Đáp: Những vị Thanh-văn khác cũng có vị là Bồ-tát, như trong kinh Pháp Hoa nói: Tôn giả Xá-lợi-phất cùng năm trăm vị đệ tử đều là Bồ-tát, đều sẽ làm Phật. Tất cả Thanh-văn đều là bậc Bồ-tát bất thối như kinh Bất thoái chuyển Pháp luân đã nói rộng. Do đó nên biết bậc Bồ-tát đều hiện làm Thanh văn.

Hỏi: Có phải tất cả Thanh văn đều thành Phật chăng?

Đáp: Thanh văn thành Phật. Điều này cũng không sai.

Hỏi: Sao lại không sai?

Đáp: Trước đoạn chướng, kiết sử, sau đoạn trí chướng, đạt đến các địa, hướng về Nhất thiết trí. Vậy Thanh văn thành Phật không sai.

Hỏi: Thiêu đốt kiết sử cũng như mầm lúa khô héo sao thành Phật được?

Đáp: Nếu ông nói: Đoạn diệt kiết sử không thành Phật được, vậy thì ông và chúng sanh đầy đủ mọi phiền não tức nên thành Phật! Ý ông nếu nói người có đủ phiền não không phải là Phật, thì người kia lìa phiền não tức thành quả Phật. Còn ông nói thiêu đốt phiền não kiết sử cũng như đốt cháy mầm lúa, nên không thành Phật, cũng không có điều ấy. Tôi đâu có ý nói là đầy đủ hột giống phiền não để nảy mầm pháp Phật, ông vô trí si mê hiểu một cách điên đảo nên nói phiền não là hạt giống pháp Phật! Bậc A-la-hán trước đoạn dứt phiền não, sau trừ chướng trí, tu đạo Bồ-đề, đắc thành Chánh giác. Trong A-la-hán, có một số ít vị đoạn trí chướng, có vị không đoạn, có vị đắc Tam muội Vô tránh, có vị không đắc Tam muội ấy, có vị đắc năm môn thần thông, có vị không đắc. Có vị đắc bốn thứ biện tài, có vị không đắc. Có vị đắc xuất nhập thiền tự tại, có vị không đắc. Vì sao? Vì không đoạn tất cả trí chướng.

Hỏi: Như thế nào gọi là trí chướng?

Đáp: Vô minh của bậc xuất thế gian gọi là trí chướng.

Cũng như trong kinh Bà-la-lưu-chi Bổn hạnh có kệ:

Vô minh có hai loại:
Thế gian, xuất thế gian.
Vô minh hành thế gian,
Bậc Hiền Thánh xa lìa.
Người ngu không hiểu đúng,
Không thể biết như thật,
Nương theo nơi tâm thức,
Pháp giới, chốn hiểm này,
Không tìm được bổn nguyện,
Sao quyết định xuất sinh,
Pháp thân chứng Niết-bàn?
Chỉ Phật mới thấu hiểu.

Đức Phật Bà-già-bà biết được thể tính của vô minh, dùng trí tuệ và đại bi đoạn kiết sử đó cũng gọi là trí chướng mà Thanh văn đoạn trừ. Thanh văn có hai bậc. Một: Siêng năng tu thiền định là kẻ độn căn. Hai: Hồi hướng Bồ-đề có thể đoạn dứt trí chướng là hạng lợi căn. Người ưa hành thiền như trong kinh Bảo Lương nói: Cũng như thủy tinh thì không thể thành châu báu Ma-ni được. Thanh văn tu thiền cũng lại như vậy, rốt ráo không thể thành quả Bồ-đề.

Đây là cảnh giới của chư Phật, tôi không biết được, một thừa và nhiều thừa, nay chỉ đơn cử ý nghĩa, để làm sáng tỏ điều Phật dạy, không được sai trái. Tôi cũng chưa thấu hiểu. Cũng như có vị Trưởng giả đi xa mỏi mệt bèn hóa ra một hóa thành. Trong kinh ấy nói: Chỉ có một thừa, thực không có ba thừa. Phật cũng tự nói: Chỉ có một thừa, không có hai thừa, ba thừa.

Hỏi: Do tu tập thế nào mà Như Lai đoạn được kiết sử thành Phật?

Đáp: Trong kinh dạy: Phật bảo Tôn giả A-nan: Người có thể tu bốn pháp Như ý trụ trong một kiếp hay trụ nhiều kiếp cho đến đoạn hết sanh tử. Tất cả các kinh đều nói như vậy. Nếu ông nói không có phiền thì tôi cũng vậy. Đã có thân ái tin tưởng nơi tôi, tôi sẽ nói cho ông.

Hỏi: Thế nào là trụ thọ?

Đáp: Bậc A-la-hán không phiền não đồng với bậc Bồ-tát trụ thứ tám, do khéo tu Như ý túc nên có thể tùy ý trụ ở đời cho đến đoạn tận hết sanh tử. La-hầu-la, Tân-đầu-lô… các vị như vậy trụ mãi nơi thế gian. Trụ là dùng thân này trụ thế, hay dùng thân khác trụ thế? Nếu lấy thân thật trụ thế ắt không phải nghĩa này. Nếu biến hóa thân trụ thọ nơi nhiều kiếp mới hợp nghĩa. Như trong Tăng kỳ nói: Những vị như Như Lai Thanh Nhãn vì để hóa độ Bồ-tát nên trụ nơi cõi trời Quang âm cùng với những Thanh văn trụ vô lượng trăm ngàn ức na-do-tha kiếp. Như nơi cõi trời ấy, bậc Thanh văn trụ được nhiều kiếp nên biết trong cõi này cũng có các Thanh văn trụ như vậy. Bậc Thanh văn không kiết sử đã trụ như vậy nên biết bậc Bồ-tát trụ thứ tám có thể trụ đến tận hết sanh tử.

Hỏi: Phật dạy: Di Lặc là Bồ-tát Nhất sanh bổ xứ. Với nhân duyên này tức hiểu là Bồ-tát cũng có sanh, sao lại được danh gọi là vô sanh?

Đáp: Nói “có sanh” là pháp hý luận. Bồ – tát Ma-ha-tát dùng sức phương tiện thị hiện là thọ sanh, không phải là sanh chân thực. Như Trưởng giả Duy ma Cật nói với Bồ-tát Di Lặc: Bồ-tát nói vô sanh có thể đắc. Tại sao Như Lai thọ ký cho ông là một lần sanh nữa sẽ đắc đạo quả Bồ-đề vô thượng. Là sanh ở quá khứ, là sanh ở vị lai hay sanh ở hiện tại. Nếu lấy sanh ở quá khứ, quá khứ được sanh đã diệt, lấy sanh ở vị lai, thì vị lai chưa đến. Nếu lấy sanh ở hiện tại thì hiện tại không dừng trụ. Quán xét kỹ thì thấy sanh ở quá khứ, vị lai hay hiện tại đều không thể được. Do vậy tôi nói: Bậc Bồ-tát trụ thứ tám ở kiếp a-tăng-kỳ thứ hai, diệt tận hết hạnh hữu tác, trụ ở hạnh vô tác như bậc A-la-hán đoạn dứt kiết sử. Bèn nói kệ:

Từ lúc mới phát ý
Phương tiện hành các địa
Đạt đến địa thứ tám
Tự tại dứt kiết sử.

III. PHẨM THUẬN TU CÁC HẠNH

Hỏi: Như trên vừa nói: Bậc Bồ-tát trụ thứ tám đoạn hết phiền não, tất cả kiết sử, làm thế nào để thành Phật và đạt được Nhất thiết trí.

Đáp: Bồ-tát Ma-ha-tát trừ ác nơi thân, làm vắng lặng mọi kiết sử, rời lìa sanh tử, diệu dụng tự tại, có lực sĩ kim cang thường theo hộ trợ, có được thân kim cang thanh tịnh, như trong kinh Như Lai tạng giảng rộng: Được bốn biện trí, tịnh từ địa thứ chín, ở trong hai ngàn Phạm, được lực tự tại có thể khéo thuyết pháp, là đại pháp sư, có thể nhập tạng bí mật của Như Lai. Tịnh trị địa thứ mười, đắc vô lượng vô biên thần chú và phương thuật, có thể khiến tất cả tự tại vô ngại, làm vua cõi trời Ma-hêthủ-la, làm chỗ dựa cho tất cả thế gian.

Hỏi: Cõi Ma-hê-thủ-la có giống Ma hê của thế gian hay không?

Đáp: Đây là cõi Tịnh cư tự tại, không phải cõi tự tại thế gian. Ông nói Ma-hê-thủ-la, danh tự tuy giống nhau nhưng người không giống. Có cõi Ma-hê-thủ-la Tịnh cư, có cõi Ma-hê-thủ-la Tỳ-xá-xà. Về cõi Tịnh cư: Bồ-tát như vậy là gần với Phật địa, như chỉ cách một màng mỏng. Trong khoảng thời gian một sát na, số pháp nhiều như số vi trần của mười phương thế giới đều hiểu rõ. Có thể thổi hơi ra làm chấn động mười phương thế giới. Cũng có thể dùng một thân hiện đến khắp tất cả nước Phật. Cũng như Hoàng thái tử lúc mới nhận chức, với nghiệp lực của mình nên một hoa sen báu lớn tự nhiên hóa ra, Bồ-tát thọ bậc Nhất thiết chủng trí, ngồi tòa hoa sen báu, có vô lượng Bồ-tát cũng ngồi trên tòa sen rồi tự đi vòng chung quanh. Ngồi tòa hoa sen báu, có hào quang của chư Phật mười phương thế giới chiếu đến, đó là lúc Bồ-tát thọ vị quán đỉnh. Cũng như lúc trưởng tử của chuyển luân Thánh vương thọ nhận vương vị. Thọ quán đảnh xong, tức ngay trên tòa ấy đoạn trừ dứt chướng vi tế về trí, cảnh, được Tam-muội Thủ lăng nghiêm, Tam muội Tỳ-lăng-nghiêm, Tam-muội Pháp hoa, Tam muội Quyết định nhất thiết thật pháp, Tam-muội Giải thoát bất khả tư nghì, Tam-muội Hải thủy vô úy thâm diệu, Tam-muội Ly cấu vi diệu thanh tịnh, Tam muội các pháp bình đẳng vô ngôn thuyết, cho đến Tam-muội kim cang. Đạt được những pháp Tam-muội như vậy xong, tức không còn chướng ngại. Tất cả các hạnh đều đầy đủ, biết rõ tất cả trí cảnh, thành đạo quả Bồ-đề vô thượng. Thành Chánh giác xong, được mười lực của Như Lai, được trí bốn biện, mười tám pháp bất công, có thể hiện đến khắp tất cả nước Phật, được tất cả pháp thân bất hoại như chư Phật, hiện hữu đầy khắp tất cả pháp giới, tất cả tướng nghiệp của thân khẩu ý đều trừ diệt. Được xứ vô vi tịch diệt, lên địa Như Lai. Có hai nhân duyên:

Một là: Nơi tất cả thế gian hiển hiện rõ sắc thân, đều do bản nguyện với nghiệp lực vô tác.

Hai là: Từ sự sai khác về suy tưởng phân biệt của chúng sanh do đó có thể tạo ra nhiều loại hình sắc đều ứng hợp với chúng sanh. Đó gọi là pháp thân vô ngại của Như Lai.

Hỏi: Như trong kinh nói: Từ lúc mới xuất gia, có thể trụ ở pháp Phật gọi là pháp thân.

Đáp: Điều này không đúng. Nếu ông lấy điều ấy gọi là pháp thân, thì chỉ có pháp mà không có Phật, ắt không có ba qui y. Nếu muốn đủ thì người thọ ba qui y, từ lúc mới vào sơ địa cho đến địa thứ mười ở cõi trời Tịnh cư, thành được Chánh giác, tự tại ứng hóa, đó gọi là pháp thân đầy đủ Tam bảo.

Hỏi: Nếu theo như vậy gọi là pháp thân e là hư dối không thực. Vì sao? Đức Như Lai đầy đủ công đức, rời khỏi trời Đâu-suất xuống cõi Diêm-phù-đề sanh vào vương cung, tại thân hậu biên đắc thành Bồ-đề. Tại sao nói ở trời Tịnh cư đắc thành Phật đạo gọi là Pháp thân ? Đáp: Không phải thành Phật ở cõi Diêm-phù-đề. Công đức của Bồ-tát trụ thứ mười không phải pháp của cõi Dục, huống gì là đắc thành Chánh giác tại cõi Diêm-phù-đề. Trước, tôi đã nói bậc Bồ-tát trụ thứ tám dứt tận tất cả kiết, có thể làm Phạm vương nơi một ngàn thế giới. Bậc Bồ-tát trụ thứ chín làm Phạm vương hai ngàn thế giới. Bậc Bồ-tát trụ thứ mười làm Phạm vương ba ngàn đại thiên thế giới. Do lực của thệ nguyện nên sanh ở cõi trời Tịnh cư, như vậy mới có nghĩa. Còn thực thân thành Phật ở cõi Diêm-phù-đề ắt không phải nghĩa. Do ý nghĩa này, nên biết thành Phật ở cõi trời Tịnh cư, không phải ở cõi Diêm-phùđề.

Hỏi: Giả sử sanh ở cõi Diêm-phù-đề được thành Phật thì cũng có thể ở nơi thế giới tam thiên đại thiên mà đắc tự tại vậy?

Đáp:Việc này không được. Vì sao? Vì quả báo do phước đức quyết định có chỗ. Ông không rõ nên mới nói vậy. Nếu Phật Thích-ca Mâu-ni sanh tại cõi Diêm-phù-đề rồi đắc tự tại ở Tam thiên đại thiên thế giới thì tất cả mười phương thế giới cũng đắc tự tại.

Hỏi: Nếu khiến mười phương đều tự tại thì có lỗi gì?

Đáp: Nếu như ông nói chỉ là Phật một thế giới, chư Phật mười phương ắt không y theo quả. Hơn nữa trong kinh đều nói Thích-ca Mâuni là Pháp vương giáo hóa tam thiên đại thiên thế giới, không có nói cho đến mười phương thế giới. Nếu như ông nói, ắt không có nhân quả. Như trong kinh nói: Chư Phật ra đời, chúng sanh ở cõi nước, đều là y báo, mỗi mỗi đều có ranh giới. Do đó nên biết: Tại cõi trời Tịnh cư thành Chánh giác, cai quản tam thiên đại thiên thế giới. Không phải tại cõi Diêm-phù-đề.

Hỏi: Nếu không phải Phật thành Chánh giác ở cõi Diêm-phù-đề thì bốn tháp của Như Lai ắt không lợi ích ?

Đáp: Không phải trước tôi đã nói sao? Nếu từ nhân duyên kiết sử mà thọ thân không thành đạo, không có Thi Ba-la-mật. Không có Thi Ba-la-mật ắt không có các Ba-la-mật. Không có các Ba-la-mật ắt không Phật. Không có Phật ắt không có bốn tháp.

Hỏi: Chỗ ông nói đều không có nghĩa lý. Vì sao? Tất cả luận sư của các bộ đều nói: Tất cả chư Phật đều từ cõi Diêm-phù-đề mà ra đời. Đức Thích Ca Như Lai sanh ở vườn Lâm-di-ni, tại thành Già-da, ngồi ở đạo tràng thành Đẳng Chánh Giác, tại Ba-la-nại chuyển pháp luân, ở thành Câu-thi-na nhập bát Niết-bàn, vì vậy ông nói không phải.

Đáp: Điều này không đúng. Vì sao? Ý tôi không muốn nói chư Như Lai ra đời tại cõi này, mà ra đời tại cõi trời Thủ-đà-hội, thành Chánh giác. Nếu tại Thủ-đà-hội thành Chánh giác thì không sanh ở vương cung, không có xuất gia, cũng không thành đạo. Tại sao? Như đấng Như Lai thì không thân tộc, cũng không sanh, cũng không có diệt, như trong kinh Pháp hoa, kinh Trí chiếu, kinh Như Lai xuất sanh… đều nói rộng: Như Lai không sanh, không diệt. Tôn giả Ca Diếp cũng tự nói: Tôi nương theo Nhất thiết chủng trí mà xuất gia,… nghĩa này là nghĩa thị hiện, Như Lai không sanh. Từ trong quan tài đưa chân ra ngoài, Ca Diếp làm lễ, đó là thị hiện, Như Lai không diệt. Do đó biết: Pháp thân Như Lai không sanh, không diệt.

Hỏi: Như Lai đều không sinh diệt sao?

Đáp: Tôi nay chính nói theo lý, Như Lai thực không sanh, không diệt, không phải là hư vọng. Chỉ do Như Lai dùng sức phương tiện thị hiện sanh diệt, đều là chỗ không thể nghĩ bàn, để giáo hóa chúng sanh. Trong kinh Tu lại, Phật nói: Tại thế giới Sa-bà, nếu Ta hiện thân thực ắt không có một người thọ sự giáo hóa của Ta. Do đó cõi này rất là sâu xa, bí mật, cũng gọi là hiển hiện, đều là vì các chúng sanh căn cơ thấp, trí tuệ cạn, ít, không thể biết được pháp thâm diệu. Do vậy, dùng phương tiện thị hiện những sự việc như thế. Có kệ tụng:

Đại thừa rất sâu rộng,
Hiển hiện dễ để thuyết.
Vì trí độn tâm hẹp,
Nghe ắt sợ hãi nghi.
Là Phật tử chân thật
Hiểu được chỗ sâu xa
Nay mới thuyết chân thật
Chỉ vì người cầu Phật.
Thành tựu bậc nhị thừa
Người, trời, hạng lợi căn
Thọ phúc theo thừa này,
Gọi là đạo Đại thừa
Đại thừa có thể sanh
Đạo Thanh văn, Duyên giác.
Nếu ngăn che Đại thừa
Làm sao đắc các quả ?
Cũng như chữ có gốc.
Rời gốc ắt không chữ
Nếu rời Ma-ha-diễn
Là không có Thừa nào.
Kẻ căn độn trí ít,
Không tin ở Đại thừa.
Do không tin tưởng này,
Tất cả thừa đều không.
Lợi mình và lợi người,
Đó là vô thượng thừa
Do vậy nên thân gần,
Cho đến thành Phật đạo.

Ý nghĩa này rất thâm diệu khó có thể hiểu rõ không nên vì người, mà nơi nào cũng thuyết.

Hỏi: Tuy không thể nói ở mọi chỗ, nhưng phải vì người có thể hiểu mà nói. Nếu phát tâm lớn, tăng trưởng trí tuệ, nên vì người ấy phân biệt đầy đủ mà thuyết giảng như trên đã nói, được không?

Đáp: Có bốn điều không thể nghĩ bàn là: Phật không thể nghĩ bàn, thiền định không thể nghĩ bàn, long thần không thể nghĩ bàn nghiệp báo không thể nghĩ bàn. Phật không thể nghĩ bàn nên pháp được hiển hiện, chỉ có pháp được thuyết giảng từ Phật Lô xá na về sau, chúng sanh lợi căn mới gắng thọ nhận được.
Hỏi: Sao được nói là từ Phật Lô-xá-na, tiếp tục thứ lớp cho đến nay?

Đáp: Pháp thân của Như Lai vì giáo hóa chúng sanh nên có bốn phương tiện. Những gì là bốn:

Một là Đa-đàn-đa-la-ba-la-tỷ-địa.

Hai là Đa-đàn-đa-la-ni-tỷ-trí.

Ba là A-đàn-đa-la-ba-la-tỷ-trí.

Bốn là A-đàn-đa-la-tỷ-trí.

Hỏi: Nếu pháp thân của Như Lai thường là tịch diệt, vô tướng, vô vi sao lại được tùy thuận hữu tướng?

Đáp: Do diệu lực của bổn nguyện. Như Tỳ-kheo nhập định diệt tận tuy không tâm, không tướng nhưng chính yếu do tâm trước khi vào định, như khi đánh kiền chùy, âm thanh đến tai theo tiếng chuông bèn ra khỏi định. Bậc Bồ-tát cũng tương tự, đã phát tâm Bồ-đề, có sức thệ nguyện gốc, nếu khiến ngã đắc pháp thân tịch diệt, thì bấy giờ tâm thức tuy vô tướng nhưng dùng năng lực vô tác để giáo hóa chúng sanh. Do đó Pháp thân vô tướng của Như Lai vẫn có thể thích hợp khắp tùy thuận hữu tướng. Như tam thiên đại thiên thế giới, trăm ức cõi trời Đâu suất, trăm ức cõi trời Diêm-ma, đều đồng thời thị hiện sắc thân. Hiện sắc thân rồi hoặc xả thọ mạng hoặc nhập vào thai, hoặc hiện lúc mới sanh, hoặc làm Thích, Phạm, Tứ Thiên vương, tiếp sự tả hữu, hoặc hiện đi bảy bước, hoặc hiện sư tử gầm, hoặc lại tự nói: Là đấng tối tôn tối thượng nơi cõi trời, người, thân sau cùng đoạn dứt sanh lão bệnh tử khổ, hoặc hiện đồng tử, hoặc hiện nhập cung hoặc hiện xuất gia, hoặc hiện tu khổ hạnh, hoặc hiện an tọa nơi đạo tràng, hoặc hiện hàng phục ma, hoặc hiện mới thành Phật, hoặc hiện giác ngộ chúng sanh, hoặc hiện thành Phật đã lâu, hoặc hiện Thích Phạm thỉnh chuyển pháp luân, hoặc hiện thành thục, không thành thục chúng sanh, hoặc hiện độ thoát đã thành thục, hoặc hiện đương nhập Niết-bàn, hoặc hiện đã nhập Niết-bàn, hoặc hiện xálợi toàn thân, một phần thân ở cõi Diêm-phù-đề, hoặc hiện từ Đâu suất xuống thế gian, cho đến hiện độ thoát chúng sanh thành thục, tùy hợp theo chỗ thấy thích hợp mà hiện hình, hoặc luôn luôn thị hiện, hoặc tạm thời thị hiện. Nói lời như vậy là nghĩa chân thực.

Quyết không thể với ba a-tăng-kỳ kiếp tu hành các Ba-la-mật mới thành mà chỉ trong bốn mươi hay năm mươi năm quả lại diệt hết sao? Sao lại nói được nhân ấy, lớn như núi Tu-di-chỉ-la mà quả thì bé như hột cải hay vi trần bị phân chia. Cho nên thuyết ông nói trước là điên đảo. Còn trong pháp của tôi có thể khiến hạt nhân nhỏ như hạt cải sanh ra quả lớn như núi Tu-di-chỉ-la. Ở đây hợp với ý nghĩa đó. Cho nên do nhân ba a-tăng-kỳ chứng đắc đoạn tận tất cả quả báo sanh tử, rồi ứng hiện hóa độ chúng sanh nơi pháp thân thường tại. Như trong kinh Pháp Hoa phẩm Thọ lượng đã nói rõ, hoặc trong phẩm Văn Thù Sư lợi thọ ký cũng đã nói. Những chỗ kia sao gọi là Đa-đản-đa-la-tỳ-ni-trí? Như Phật đã dạy: Sau khi Đức Phật hoàn thành sự việc, nói lời này với các Tỳ-kheo: Đã đến lúc ta vào Niết-bàn. Mười phương chư Phật cũng như vậy, sau khi giáo hóa chúng sanh xong, cũng dạy những lời như vậy, thực sự là không có diệt. Tất cả các cõi Phật đều thần thông biến hóa, đồng với pháp giới hư không. Từ đó nên biết Pháp thân là thường, sắc thân ứng hóa thì vô thường. Nếu lấy sắc thân mà quán Phật, không thể gọi là thấy Như Lai. Như Phật nói kệ:

Nếu thấy Phật từ sắc
Bằng âm thanh cầu Phật
Người này hành Tà đạo
Không thấy được Như Lai.

Do ý nghĩa ấy, lấy pháp thân quán Phật gọi là chân thật thấy Như Lai. Như Tỳ-kheo ni Liên Hoa thấy sắc thân Phật liền nghĩ Ta thấy Phật trước tiên. Phật nói: Người không phải thấy Phật trước tiên. Chỉ có Tu-bồ-đề ở nơi Pháp thân mà thấy ta trước tiên. Do vậy nên biết, ở địa thứ mười gọi là thấy Pháp thân. Nếu kính lễ Pháp thân tức kính lễ tất cả sắc thân. Như trong kinh Pháp Hoa, Phật nói: Nếu người xưng danh hiệu cúng dường Pháp thân Quán Thế Âm thì hơn cúng dường sáu mươi hai ức sắc thân chư Phật. Vì sao? Vì ở địa thứ mười, được Pháp thân Phật cũng gọi là Bồ-tát, cũng gọi là Phật. Do đấy, biết Pháp thân là gốc, vô lượng sắc thân đều nương tựa nơi Pháp thân mà hóa hiện ra. Do vậy, Phật tạm thời nói: Cúng dường sáu mươi hai ức hằng hà sa sắc thân, không bằng cúng dường một Pháp thân. Như trong kinh Bảo Tích đã dạy: Như vậy, này Ca Diếp! Như trong thế gian có người lúc trăng mới mọc, cung kính lễ bái cho đến lúc trăng tròn đầy mà không cung kính. Tại sao vậy? Vì từ lúc mới mọc, cho đến lúc tròn đầy như vậy, này Ca Diếp! Có Thiện nam muốn cung kính ta, truớc nên kính lễ Bồ-tát. Vì sao? Vì Phật từ địa Bồ-tát mà được đầy đủ công đức, cho đến trải qua nhiều kiếp sanh tử, sắc thân biến hóa làm lợi ích cho chúng sanh. Do ý nghĩa ấy mới đạt được quả Phật. Đó là lời Phật thuyết giảng chân thực, không phải là hư vọng.

Hỏi: Với bậc chưa vào địa Bồ-tát, Tỳ-kheo thọ giới cụ túc có lễ bái không?

Đáp: Lễ bái. Vì bậc Bồ-tát mới phát tâm cũng hơn tất cả Thanh văn, Bích-chi Phật, như Tôn giả La-hầu-la có kệ: Nếu người phát tâm sâu ắt sanh nhân Bồ-đề. Nên được hết thảy loài Cung kính và lễ bái.

Hỏi: Tại sao Tỳ-kheo đã thọ cụ túc giới lại lễ một vị Bồ-tát chưa vào chính vị, không có giới cụ túc.

Đáp: Nên kính lễ Bồ-tát. Vì sao? Giới của bậc Thanh văn khi thọ mạng diệt liền xả. Bồ-tát phát tâm thành tựu giới đệ nhất nghĩa, giới giải thoát của tự tánh. Vì thế Thanh văn tuy thọ giới cụ túc cũng nên lễ bái bậc Bồ-tát chưa nhập chính vị. Vì thể tánh của Bồ-tát là không giết hại, xa lìa đao, gậy cho đến kiến trùng, cũng không dấy tâm giết hại mà tự hổ thẹn. Từ đó hiểu rộng thể tánh không trộm cướp cho đến thể tánh không tà kiến. Như thọ giới Ba-la-đề-mộc-xoa, khi mệnh hết thì xả, bỏ đạo cũng xả. Còn giới tánh của bậc Bồ-tát đại sĩ, từ khi thành tựu cho đến đạo tràng rốt ráo không xả. Với ý nghĩa đó, Tỳ-kheo tuy thọ giới cụ túc cũng nên lễ bái bậc Bồ-tát.

Hỏi: Bậc thành tựu thể tánh giới có thể được cúng dường mà không nên lễ bái?

Đáp: Không phải vậy. Do có công đức giới, nên không những cúng dường mà còn lễ bái. Ông nói là không nên lễ bậc Bồ-tát không thọ giới, tôi sẽ nói rọng để ông biết. Không chỉ lấy bạch bốn yết ma mà thọ Cụ túc giới. Như trong Tỳ-ni Tỳ-bà-sa nói có mười loại thọ Cụ túc giới. Còn Bồ-tát có rất nhiều cách thọ giới. Những gì là mười? Như Phật nói: Thiện lai Tỳ-kheo! Tự nhiên được đủ giới cụ túc, như Ma ha Ca-diếp do nhân duyên tự thệ mà thọ giới cụ túc. Như Kiều-trần-như thấy đế mà thọ giới cụ túc. Như Tỳ-kheo ni Ba-xà-bà-đề dùng tám pháp mà thọ giới cụ túc, như Tỳ-kheo ni Đạt-ma-đề-na dẹp trừ kiết sử mà thọ giới cụ túc. Như Sa-di Tu-đà-ni-da, luận về nghĩa mà thọ giới cụ túc, như Tỳ-kheo Da-xá v.v… Thiện lai thọ cụ túc giới, như Bạt-đà-laba-lăng-già, do ba qui y mà thọ giới cụ túc, như luật sư thứ năm ở nước biên địa mà được thọ giới cụ túc. Ở nước trung tâm thì, bạch bốn yết ma mà thọ giới cụ túc. Đó là những vị Bồ-tát thường thọ giới cụ túc chưa từng xả ly.

Hỏi: Có phải bậc Bồ-tát đủ pháp phục thì được lễ, còn Bồ-tát bạch y thì không?

Đáp: Bậc Bồ-tát phương tiện có đủ năm thông, tùy thuận tất cả hình tướng của chúng sanh mà cùng đồng trạng phục, cũng tùy tất cả chúng sanh mà nhập vào các cõi, thì cùng đồng hình trạng như chúng sanh, là những vị đại Bồ-tát, tùy nghiệp báo của chúng sanh mà biến hóa thọ thân. Tôn giả Câu-ma-la đà có kệ:

Các cõi đều biến hóa
Chỉ trừ Tịnh cư thiên
Tùy nghiệp đủ loài chuyển
Không chỗ nào không sanh.

Do đó nên biết, bậc Bồ-tát thường cùng lợi ích với chúng sanh, theo đó mà thọ sanh để giáo hóa, dẫn dắt họ. Chỉ vì chúng sanh mà dùng diệu lực phương tiện không bị ràng buộc do nghiệp báo phiền não.

Tôn giả Đề-bà có kệ:

Hoặc hiện làm sư trưởng,
Hoặc hiện làm đệ tử,
Dùng các loại phương tiện,
Để giáo hóa phàm ngu.
Tự tại nơi các cõi,
Được mọi loài cung kính.
Nếu ai không cung kính,
Là nghiệp kiêu mạn lớn.

Do vậy, Bồ-tát tuy hình dáng, trang phục như thế tục, nhưng đáng được lễ kính như đức Như Lai. Vì giáo hóa chúng sanh nên hiện nhiều loại hình tướng như vậy. Cũng như hóa Phất Ca Sa vương, hiện thành hình Trưởng lão Tỳ-kheo, hiện hình thợ gốm, hiện hình lực sĩ, hiện hình thầy chuyên về đàn cầm sắt, cũng hiện hình nhiều loại người tại gia. Tuy hiện ra vô số hình trạng, tất cả hình trạng ấy đều xứng đáng được lễ bái cung kính. Do vậy tuy trang phục đồng như thế tục vẫn xứng đáng được kính lễ. Như Phật có kệ:

Nghiêm sức các hạnh mà tịch diệt
Điều phục quyết định tu phạm hạnh
Xả bỏ dao gậy nơi chúng sanh
Gọi là Sa-môn, Bà-la-môn.

Do đó, không nên căn cứ nơi hình dạng, tướng mạo của các Bồ-tát mà sanh phân biệt. Bậc Bồ-tát chỉ vì chúng sanh trong tam giới mà làm nhà lớn, hoặc hóa làm Phật, hoặc hóa làm trời, người cho đến hóa làm đủ loại súc sanh. Tất cả đều nên lễ bái nơi công đức thù diệu ấy của Bồtát, không nên sanh tâm lễ dựa vào hình trạng, tướng mạo như người thế tục, tận tâm lễ kính hình tượng ! Ở xa mà lễ kính pháp thân, đâu phải ở nơi những thứ bằng vàng đá bùn đất cây gỗ mà tôn thờ ư ! Do đó Bồ-tát dùng các phương tiện tùy thuận mà mang hình tướng trong ngoài nhằm đem lại ích cho chúng sanh, vậy mà còn dè xẻn lễ bái với các ngài hay sao? Cho nên Như Lai không vào Niết-bàn, cũng không phải không vào Niết-bàn. Tôn giả La-hầu-la có kệ:

Sanh tử khổ vô tận
Đáng nhập vào Niết-bàn
Với sức Đại từ bi
Trụ thế lâu không xả.

Do vậy nên biết, theo dòng sanh tử rất dài lâu, Pháp thân vẫn thường trụ, sắc thân thì ứng hiện cũng như đèn tắt. Nên Pháp thân Bồtát hơn sắc thân Phật. Sắc thân của chư Phật thành Chánh giác ở cõi Dục, Pháp thân của Bồ-tát trụ ở cõi Tịnh cư, Pháp thân của Bồ-tát trụ ở Nhất thiết chủng trí của chư Phật. Sắc thân của chư Phật vì giáo hóa chúng sanh khiến các bậc Thích Phạm, bốn vị Thiên vương đều tỏ sự cung kính. Vì thế Phật nói: Cúng dường sáu mươi hai ức hằng hà sa sắc thân chư Phật không bằng cúng dường một Pháp thân Bồ-tát. Như trong Kinh Tập Nhất Thiết Phúc Đức Tam Muội có nói: “Hỷ lạc với chánh pháp, rốt cùng cũng không nói Phật nhập Niết-bàn”. Trong Kinh Pháp Hoa, có kệ:

Thường tại núi Linh Thứu
Và các trụ xứ khác.
Kẻ phàm ngu vô trí
Trước mắt cũng không thấy.

Trong kinh Nhập Nhất Thiết Thế Giới Đại Trang Nghiêm Tam Muội có nói: “Này các Thiện nam! Các ông có thấy Pháp thân Như Lai không? Bạch Thế Tôn ! Chúng con đã thấy. Trong một lỗ chân lông, chúng con thấy trăm ức Na-do-tha thế giới chư Phật. Nghiệp thân khẩu hiện bày đầy khắp thế giới chư Phật”. Lại, trong Kinh Như Lai Mật-Tạng có nói: “Bồ-tát Trì Tốc Tật quán nơi đảnh Như Lai cho đến vô lượng thế giới chư Phật cũng không thể thấy. Như Mục-liên tìm âm thanh thuyết pháp của Như Lai, cho đến thế giới Dã mã cũng không thể hết âm thanh Phật”. Như trong kinh Thủ Lăng Nghiêm có dạy: “Như Lai ở trong cung, nhưng hiện ra vô lượng thế giới từ sơ sanh đến chuyển pháp luân, nhập Niết-bàn”. Như trong kinh Mật Tạng nói: “Pháp thân của Như Lai trụ trong tất cả thân chúng sanh, ánh sáng hiện rõ ra ngoài, như lấy lụa bọc lại trong không ngăn che được ánh sáng của ngọc ma ni”. Do vậy nên biết, pháp thân của Như Lai hiện hữu khắp trong tất cả chúng sanh. Như Phật đã dạy: “Cho đến cây cối khô héo, cũng đều thể nhập vào mà không sanh thiệt hại. Huống gì những loại khác”. Cho nên để lường tính xem xét chúng sanh thì ngoài Đức Như Lai ra không ai có khả năng nhận biết được. Kinh Duy Ma Cật nói: “Tất cả đất Phật thảy đều nghiêm tịnh. Thế giới Sa-bà này cũng nghiêm tịnh. Vì chúng sanh có đại tâm đầy đủ tạng Như Lai nên đức Thích Ca Như Lai dùng phương tiện thiện xảo, khiến cho các Thanh văn, đại đệ tử hiện ở trong đời năm trược này, các ngoại đạo, mặc dù có kiến chấp là một, là khác… mặt trong thân tất cả những người như vậy cũng đều có pháp thân, tất cả nương theo phương tiện Bồ-tát mà sanh, đều được hiển phát đạo Maha-diễn”.

Do đó nên biết, bậc Bồ-tát ở nơi tam thiên đại thiên thế giới giáo hóa chúng sanh với nhiều loại không giống nhau. Nếu là chúng sanh lợi căn thì vì họ mà khen ngợi Đại thừa không chút hiềm nghi, khiến cho tâm dễ hiểu. Hoặc là chúng sanh độn căn lún sâu trong rừng tà kiến, vướng mắc vào lưới ngu si, thì khiến cho được nhân duyên gặp chư Phật và Bồ-tát diệt bỏ những tà kiến thể nhập vào Đại thừa. Do vậy Ma-hadiễn là thừa căn bản nhất trong các thừa. Nếu có chúng sanh, thọ trì tin hiểu Đại thừa này ắt biết người ấy được tiêu trừ tất cả nghiệp báo phiền não. Như Phật dạy vua A-xà-thế trong kinh Giải trừ những nghi hối, nói về tướng ánh sáng: “Đừng nói lời ấy. Vì sao vậy? Ông đối với các thế giới Phật khác, tu thiền định mười kiếp không bằng ở thế giới Sa-bà này tu hành tâm từ trong thời gian một bữa ăn. Vì sao? Vì ở nơi thế giới khác, đoạn trừ phiền não, cũng lại không bằng nơi thế giới Sa bà này, trong khoảng một bữa ăn, tu tập thiện nghiệp”. Lại như kinh Văn Thù Sư Lợi thọ ký đã nói, và các kinh khác đều phân biệt đầy đủ.

Nếu có chúng sanh phỉ báng chánh pháp, như kinh Bát nhã, kinh Pháp Hoa đã giảng rộng: Kẻ hủy báng pháp là tội nghịch lớn, nếu có thể thọ trì tin hiểu Đại thừa, thì dù là tội năm vô gián cũng đều tiêu hết. Phật nói kệ:

Nghiệp ác nặng đã làm,
Mà tự mình hối trách,
Kính tin pháp Đại thừa,
Thì gốc tội được trừ.

Phật dạy về pháp tướng chân thật như vậy, tâm tín lần lượt được tiếp nối rồi sẽ an trú nơi không tịch, những điều ác đã tạo từ trước kia đều tiêu diệt. Như trong kinh Thế Tôn Giải Trừ Nghi Hối nói: “Đại vương hãy quán sát tâm của chính mình, tâm nào là tâm giết cha, là tâm quá khứ, tâm vị lai hay tâm hiện tại? Nếu là tâm quá khứ thì tâm quá khứ đã diệt, nếu tâm đã diệt tức không có chỗ trú, không có phương sở. Nếu là tâm vị lai thì tâm vị lai chưa đến. Nếu là tâm hiện tại, thì tâm hiện tại không dừng trụ. Các tâm ấy cũng như huyễn hóa, không phải sắc xanh, vàng, đỏ, trắng, tím hay trong như pha lê. Thể tánh chỉ là một thể thuần tịnh, cho đến không có tướng, không thể thấy được, nói rộng như vậy, tức được chỗ thù thắng”. Do vậy nên biết Ma-ha-diễn là thừa căn bản. Như trong kinh Di Lặc Trang Nghiêm nói: Sự phát tâm Bồ-đề, lãnh hội ý nghĩa tâm Bồ-đề, trụ ở tâm Bồ-đề, đạt được lợi ích lớn, không còn bị đọa vào chốn ác. Sự lãnh hội ý nghĩa tâm Bồ-đề, làm thanh tịnh tâm Bồ-đề, từ địa này đến địa khác, dần dần tăng ích rồi được Pháp thân hiện được thần thông, như Phật Lô Xá Na, hiện sự biến hóa và nói kệ:

Đạt được thân vô cấu
Sắc tướng nhiều vô lượng
Hoặc sanh cõi Diêm-phù
Hoặc ở trời Đâu suất
Từ nơi Phật Định Quang
Đến khi dứt sanh tử
Biết phải thời phi thời
Biết nơi Định Quang hóa
Không phải cõi hình sắc
Cũng không phải vô tướng
Đều do nơi hạnh gốc
Cũng như trăng trong nước
Thân khẩu ý bí mật
Đều là pháp bất công
Tất cả các thế giới
Hiện sắc thân giải thoát
Bồ-tát, các trời, người,
Muốn quán thấy Phật đảnh,
Vô biên không nghĩ bàn,
Vượt quá ức thế giới.
Mục-liên các đệ tử,
Dốc tâm tìm tiếng Phật
Vượt hơn trăm ngàn cõi,
Tiếng Phật vô hạn tận.
Nghiệp công đức pháp thân,
Không ai có thể biết,
Không thể dùng hình loại,
Ngôn từ, khéo diễn nói.
Chỉ sức Phật thấy nghe,
Không phải cảnh giới ta.
Ai nghĩ báo ân Phật,
Cung kính tin phụng hành
Lời pháp ta đã nói
Hồi thí cho chúng sanh,
Diệt kiết sử phiền não,
Sẽ chứng đạo vô thượng.