SAO TRỜI MÊNH MÔNG
Nguyên tác: Hán văn: “Hạo Hãn Tinh Vân”
của Lâm Thanh Huyền
Hạnh Đoan lược dịch

 

CHƯƠNG 6: TỬ SINH

Thời kỳ kháng chiến chống Nhật và nội chiến xảy ra, trong nước dân đen khốn khổ tận cùng, mạng người rẻ hơn trùng kiến. Từ tuổi ấu nhi cho đến lúc trưởng thành, sư phụ luôn chứng kiến những cảnh tượng khốc liệt. Nên ngay từ nhỏ Ngài đã có cái nhìn bình thản với chuyện tử sinh.

“ Có thể nói tôi lớn lên giữa cảnh xác người nằm chất đống. Khi cuộc chiến đến hồi ác liệt nhất, dọc đường chỗ nào cũng thấy thây phơi ngổn ngang, nằm ngồi đủ kiểu. Đến đỗi sau đó tôi hết hẳn cảm giác hoảng sợ mà còn vui vẻ dạo chơi nô đùa cạnh đám tử thi, vô tư nhẩm đếm thây người nằm hai bên đường để xem bên nào chết nhiều hơn.

Có lần tôi và chị Tố Hoa vừa đi vừa mê mãi đếm xác chết thì bất ngờ trận chiến xảy ra. Để tránh lằn mưa đạn của hai bên, tôi và chị Tố Hoa vội chui xuống núp dưới đám thây người.

Hồi tưởng lại thuở thơ dại ấy gương mặt Đại sư thoáng hiện nụ cười. Chuyện nô đùa bên đống thây người, kể ra thật khó ai tưởng tượng nổi.

–Thế..sư phụ không sợ giặc Nhật sao?

Nghe người lớn bảo là bọn “quỉ” Nhật rất đáng sợ, song chúng không làm hại trẻ con bao giờ. Vì con nít đâu có ăn hiếp được ai? Có khi thấy lính Nhật tới, bọn nhỏ chúng tôi còn lẽo đẽo đi xa xa phía sau chúng, tò mò dõi xem chúng làm gì? Biết là có chúng tôi theo sau, thỉnh thoảng bọn Nhật còn ngoái đầu lại, toét miệng cười với chúng tôi. Tôi nghĩ thầm: “A! thì ra lính Nhật mắt mũi cũng như người ta, xem mặt mày không đến nỗi nào, nhưng tại sao họ lại bắn giết người Trung Quốc mình tàn bạo như thế?”

Trọng tình thâm suy gẫm ý nghĩa tử vong

Chứng kiến cảnh chết chóc đến nhàm nên từ nhỏ Đại sư cho tử vong là đương nhiên. Rằng: hễ là người thì ai cũng phải chết, có điều không biết sẽ chết như thế nào, bao giờ  chết và chết ở đâu thôi.

“Do quá bình thản trước cái chết nên tôi đã cư xử ngây ngô tới mức bây giờ nhớ lại vẫn còn thấy xấu hổ.

Một ngày nọ gia đình tôi được tin vị trưởng bối trong thân tộc qua đời, cả nhà đều buồn thảm bi ai. Chỉ có tôi phát biểu tỉnh khô: – Chết rồi hả? Chết thì chết, có sao đâu!

Ai cũng ngạc nhiên trố mắt nhìn tôi. Sau đó tôi ngẫm nghĩ: “Đúng là mình có hơi quá một chút!”

Đành rằng chết là tự nhiên, nhưng cái chết người lạ với người thân không giống nhau. Vì chúng tôi đâu thể vô tư nhìn thân nhân mình chết rồi đi đếm xác bằng thái độ dửng dưng vô cảm? Tôi hiểu ra:- “Khi người thân mình chết, dù là cái chết giống như nhau, song mình sẽ có cảm giác khác hơn, mức độ xúc cảm tùy theo bản tính và thâm tình. Cái chết của người thân làm tôi biết đăm chiêu nghĩ ngợi và để tâm nghiền ngẫm ý nghĩa của tử vong.

Nghe Đại sư nói, tôi chợt nhớ đến lời Phật trong kinh A-Hàm:

 -“Thế gian có bốn hạng người thiện căn sâu dày. Một là, hạng thấy người lạ chết đâm ra tỉnh ngộ rồi phát tâm tu. Hai là, hạng thấy người quen chết sinh tỉnh ngộ rồi phát tâm tu. Ba là, hạng thấy bằng hữu thân thiết chết tỉnh ngộ mà phát tâm tu. Bốn là, hạng thấy quyến thuộc hay thân nhân ruột thịt chết, tỉnh ngộ rồi phát tâm tu.”

Cái chết – thực ra là yếu tố quan trọng giúp người ta thức tỉnh phát tâm tu hành. Đạo Phật cũng vì muốn giải thoát sinh tử mà thuyết giáo vậy.

 “Cả đời tôi từng chứng kiến biết bao cảnh tử vong. Nhưng có một cảnh hồi nhỏ tôi vừa thấy là bị ám ảnh suốt đời, không sao quên được.

Đó là một ngày giá rét, tuyết rơi dày đặc. Tuyết nhuộm trắng đại địa, phủ lên thây người nằm ngổn ngang. Từng đống, từng đống xác người nằm phơi ra đó, thi thể cứng đờ, tím đen. Tôi đứng trên mặt đất mịt mù tuyết phủ, lòng chợt dâng lên nỗi thương cảm vô hạn. Tôi ngậm ngùi nghĩ thầm: “Những người này sao mà  tội nghiệp quá! Họ nằm trong tuyết như thế có cảm thấy lạnh không? Chắc là lạnh lắm. Người nhà của họ đâu? Có biết họ như thế này chăng? Có đang ngóng đợi họ về? Tôi bỗng nhớ đến cha tôi da diết. Không hiểu giờ này ông ra sao rồi? Liệu cha tôi có gặp cảnh bi thảm giống như thế này không? Có đang nằm cứng đờ trong tuyết lạnh?”

Lòng tôi chìm đắm trong nỗi buồn thê thiết, tôi phát hiện ra con người chết rất dễ, người chết bất ngờ rất nhiều và chuyện người thân đột ngột lìa bỏ mình vĩnh viễn là chuyện rất thường xảy ra.

Vào thời buổi nội chiến, lúc hai bên giao tranh ác liệt thì tôi đang làm Hiệu trưởng trường tiểu học Bạch Tháp. Hết đảng này tìm, lại đến đảng kia. Ngày đêm kiểm tra gắt gao, hễ thấy có chút nghi ngờ là họ bắt liền, mà đã bị bắt đi, thì chẳng mong gì còn có được ngày về.

Thời cuộc chính trị rối ren nên chuyện bắt bớ, khủng bố xảy ra như cơm bữa. Tôi cũng bị vu khống rồi bị tống vào ngục. Ngày nào cũng chứng kiến cảnh người bị đánh đập tàn nhẫn, nhìn bạn mình bị lôi đi xử bắn. Ai bị kêu ra khỏi ngục là kể như đi lãnh án tử, vĩnh viễn không còn quay trở vào .

Gặp lúc vận nước như thế thân phận con người thật khốn khổ, dù là bậc tu hành đức cao cũng không được xem trọng. Hòa thượng Từ Hàng bị bắt cùng với tôi, sau khi Ngài mất nhục thân vẫn không hoại. Lực tu của Ngài thâm hậu đến thế, song vẫn bị cảnh khổ mài luyện bầm dập. Những người như Ngài chết đi trong thời buổi ấy thật là đáng tiếc.

Chứng kiến những cảnh trạng ấy lòng Đại sư xót xa ngậm ngùi và càng thương cho số phận chúng sinh thống khổ. Do vậy mà Ngài phát hùng tâm, muốn lập ra cảnh  “Phật Giáo Nhân Gian”, những mong có thể đem đến hạnh phúc an vui cho mọi người, giúp họ thoát khỏi tình cảnh nước sôi lửa bỏng. Bằng tấm lòng yêu thương cõi đời vô bờ, Ngài tin rằng  “Phật Giáo Nhân Gian” có thể đùm bọc chở che, mang lại ý sống, nguồn hạnh phúc mới cho mọi người, có thể dẫn dắt họ vào cõi an lạc thanh lương của chư Phật mà không cần bắt họ trải qua bao mài luyện thống khổ rồi mới được hưởng an vui. Đại sư không chỉ chứng kiến chuyện tử vong xảy ra quanh mình mà bản thân Ngài cũng đã từng nhiều phen đối mặt với nó.

Lần đầu làm bạn với tử vong

Kinh nghiệm về tử vong đến với tôi lần đầu tiên vào năm tôi sáu tuổi. Lúc đó là cuối đông, sắp sửa bước qua năm mới, anh tôi từ  bên ngoài bước vào nhà báo tin:

– Nước trên sông đóng băng hết cả rồi! Giờ có thể qua lại trên đó được đấy!

Tôi mừng rỡ reo lên:

 – Thế hả? Để em! Để em tới đó xem thử!

Tôi vừa ra khỏi nhà thì anh tôi đã cài cửa lại. Tôi đi đến bên sông, dòm thấy trên mặt sông có vật gì đó trăng trắng tròn tròn giống như trứng ngỗng. Tò mò, tôi tiến đến xem cho rõ. Nhưng đi gần tới thì lớp băng mỏng trên mặt sông vỡ ra, tôi lọt thỏm xuống lòng sông lạnh giá. Tới giờ tôi cũng chẳng thể hiểu được, tại sao mình vẫn chưa chết? Cũng không rõ mình đã về nhà bằng cách nào? Chỉ nhớ là khi anh tôi mở cửa ra thì thấy mình mẩy tôi lạnh giá cứng đờ. Đem tôi vào nhà, đổ nước gừng vào miệng tôi thì tôi tỉnh lại. Nghĩ nát óc tôi cũng không tài nào hiểu được. Có lạ không chứ? –làm sao mà một nhóc tì năm sáu tuổi như tôi có thể tự ra khỏi sông băng, có thể tự thoát thân cho được?- Thuở tôi còn bé, những chuyện lạ như vậy xảy ra rất nhiều.

Trong làng, những đứa trẻ đồng trang lứa với tôi chẳng đứa nào sợ chết cả. Bởi vì hồi đó chuyện chết chóc xảy ra như cơm bữa, nhan nhản xung quanh mình. Thuở đó thuốc men không có nhiều, không được đầy đủ như bây giờ. Nuôi được một đứa trẻ sống sót tới lớn không phải là chuyện dễ. Như cậu Hai tôi, ông có tới bảy người con trai nhưng chẳng ai sống quá ba tuổi. Nói ra thì cũng lạ, không ai thắc mắc tìm hiểu nguyên nhân vì sao các đứa trẻ chết, họ đều quan niệm chết là tự nhiên, mà bịnh đau cũng tự nhiên. Hồi nhỏ chúng tôi vì phải phụ giúp việc đồng áng, bận rộn túi bụi nên cũng có khởi niệm ước ao, sao cho mình được đau ốm một chút. Vì có bịnh thì mới được nghỉ ngơi, mới khỏi phải lao tác. Hồi đó chẳng ai có ý niệm khán bịnh gì, cứ cho bịnh là tự nhiên, hết bịnh cũng tự nhiên, lành được thì tốt, không lành được thì chết, vậy thôi!

Nói về bịnh thì hồi thanh niên tôi đau răng cỡ ba ngày là lành, cảm mạo độ một tuần thì khỏi. Còn bị sốt rét thì mỗi ngày lên cơn một lần, nếu bịnh nặng thì lên cơn tám lần một ngày, trầm trọng lắm thì lên cơn mười lần một ngày, rồi cũng lành bịnh. Tôi gọi thời gian chờ lành bịnh là thời gian điều trị.

Chỉ cần có ý chí biết tự phấn đấu, khích lệ mình, thì có bị bịnh hoạn nạn tai chi đều là cơ hội giúp mình tăng trưởng thượng duyên.

Nếu ý chí hèn kém, bịnh có thể lành rất chậm hoặc không hồi phục nổi. Xem ra ý chí và tinh thần sung mãn cũng góp phần trị bịnh rất hữu hiệu.

Chư cổ đức thường nói: “Người ta phải mang ba phần bịnh trong mình thì mới biết phát tâm tu” là ý muốn ta xem bịnh tật như bạn, vì bịnh tật là chuyện không thể tránh, nhưng ta có thể lợi dụng nó để phát khởi đạo tâm kiên cố.

Nửa chén mắm thầy ban cho

Hai lần bịnh gây ấn tượng sâu sắc nhất đối với Đại sư là năm mười lăm, mười sáu tuổi Ngài bị đau răng. Do Ban Chức Sự quản giáo nghiêm khắc và vốn quen không đi khám bịnh nên Đại sư ráng chịu đựng, Ngài cũng chẳng dám cho sư phụ mình hay.

Do răng đau nên ăn gì cũng không được, lỡ thức ăn lọt vào lỗ sâu thì nhức buốt nên Đại sư cứ nuốt trọng và cố chịu đựng cảnh trạng đó suốt hai năm. Nhờ Ngài viết chuyện mình vào nhật ký, sư phụ Ngài tình cờ phát giác được mới dẫn Ngài đi khám nha sĩ và giải quyết dứt điểm vụ đau răng.

“Được thầy dẫn đến Nam Kinh khám răng, tôi cảm thấy ấm áp, hạnh phúc làm sao. Suốt thời gian chịu đựng, cơn nhức răng đã mài luyện sức chịu đựng của tôi thêm dẻo dai và ngay cả cái bao tử tội nghiệp của tôi cũng biết bắt chước theo, nên nó tiêu hóa cực kỳ tốt. Trong cơ thể tôi, khí quản và bao tử được xếp vào hạng tối ưu. Các đồ đệ tôi thường cười trêu:

– E rằng ngay cả đá bao tử sư phụ cũng nghiền nát được hết luôn đó!

Tôi nghĩ do thời gian đau răng, cách ăn toàn nuốt trọng đã luyện cho bao tử tôi tính chịu đựng dạn dày, tự cường tự  lập.

Bịnh nhức răng lành chưa bao lâu thì năm mười bảy Đại sư bị sốt rét. Sốt rét là chứng bịnh khá kỳ quặc. Nếu mắc bịnh trước mùa hạ thì tương đối nhẹ, nhưng sau mùa thu mà vướng phải bịnh này thì xem như rất nghiêm trọng, có thể dẫn đến tử vong. Người ta thường gọi chứng bịnh sau mùa thu là “Thu Lão Hổ”. Ai chết vì bịnh “Thu Lão Hổ”, thì người ta khiêng đi thiêu ngay, trong Tùng lâm chuyện này rất bình thường.

Đại sư lại bị sốt rét sau mùa thu, bịnh có dấu hiệu nguy kịch trầm trọng.

 “Lúc đó lòng tôi buồn vô hạn, nếu bây giờ tôi chết đi chẳng phải đáng buồn lắm sao? Vì đạo nghiệp chưa thành, lại chẳng có ai quan tâm đến. Trong lúc còn đang ngậm ngùi tủi thân thì tin tôi bịnh đến tai sư phụ, khi đó Ngài đang làm Viện Trưởng tại một Phật học viện nọ, bèn sai người đem về cho tôi nửa chén mắm thái. Tôi đón nhận lòng đầy xúc động, nước mắt rưng rưng. Thầm nguyện trọn đời dốc sức hoằng dương Phật pháp, quyết không phụ lòng mong mỏi của Ngài. Tự hứa sẽ làm một tu sĩ xứng đáng, nguyện dâng cả thân tâm cho đạo để phụng sự và cứu giúp chúng sinh..

Theo cái nhìn của người dư thừa vật chất bây giờ thì nửa chén mắm nào có đáng kể chi? Nhưng đối với tôi vào thời điểm đó nửa chén mắm đó rất quí, nó chứa đựng cả sự quan tâm lo lắng của sư phụ, thể hiện thịnh tình  thăm hỏi Ngài dành cho tôi. Ngay từ nhỏ tôi đã có quan niệm: “Nhận ân như giọt nước, báo đáp như suối nguồn..” Nếu người đối với tôi có chút ân huệ, thì tôi luôn muốn đền đáp bằng cả sinh mệnh.

Nửa chén mắm hồi ấy đúng là quí hơn vàng!

Tôi nhớ khi sang Đài Loan, lúc phu nhân của tướng quân Tôn Lập Nhân làm tiệc sinh nhật mừng tuổi ba mươi của tôi. Nhìn mâm cỗ ê hề thịnh soạn với thức ăn được đặt trên mâm vàng chén ngọc, tôi không chịu được, nhăn nhó bảo phu nhân:

 – Nếu bà còn bày vẽ trịnh trọng như thế này nữa thì tôi sẽ không tới dự đâu!

Nhìn bữa tiệc sang trọng đầy dẫy cao lương, tôi bỗng nhớ đến nửa chén mắm sư phụ ban cho thuở nào, và nhận ra rằng: “Hạnh phúc lớn nhất của con người ta không phải là vật chất, mà là tâm linh.”

Nếu như bịnh mà không chết thì phải có lúc lành thôi

Hồi 20 tuổi Đại sư mắc chứng bịnh lạ rất nghiêm trọng, trên mình Ngài nổi đầy mụn mủ, từ đầu tới chân không sót chỗ nào, chỉ trên mặt là không có.

Do mủ chảy ra dính cứng vào y phục nên tắm rửa gì cũng khó khăn. Nhưng làm sao có thể nhịn tắm suốt thời gian dài cho được? Mà muốn cởi y phục thì phải cởi từ từ, phải cử động thật chậm. Cởi được bộ đồ ra cũng mất hai tiếng đồng hồ. Mỗi khi cởi quần áo, cơ hồ lớp da ngoài cũng vuột theo, coi như trên thân chẳng còn có chỗ nào lành lặn, giống y như là bị lột da vậy.

 Chứng bịnh này không phải chỉ riêng mình tôi bị, mà hầu hết các bạn đồng học đều mắc phải. Ai nấy đều lâm vào tình trạng khốn đốn khổ sở như nhau. sau này tôi bỏ cả buổi tìm hiểu, mới biết là do nghiệp chướng!

Vì khoảng năm Dân Quốc 26, Nhật Bổn lạm sát, giết người hàng loạt, thây người nằm la liệt khắp nơi khiến không khí và nguồn nước bị ô nhiễm, nên mới phát sinh ra chứng bịnh này.

Sau đó cũng có người bào chế ra loại thuốc “Tiêu Trĩ Long” chuyên trị bịnh này, một liều hai mươi viên, uống vào thì lành bịnh. Nhưng không bao lâu bịnh tái phát trở lại. Vì sao ư? Bởi vì quần áo tôi chỉ có một bộ, do cứ mặc lại y phục cũ nên bị lây nhiễm mà thành bịnh lại đó thôi. Nhưng tôi chẳng có tiền để mua thuốc nữa, đành phó mặc bỏ thí. Tôi nghĩ: “Nếu như bịnh mà không chết thì sẽ phải lành thôi!”

Khi bịnh phát quá nặng, hai chân tôi đầy mụn mủ, đau tới mức bước đi không nổi. Một hôm, do chẳng thể đi thọ trai, tôi đành ở lại coi chùa. Tôi đang ngồi trên ghế, thình lình thấy đôi vợ chồng dắt một đứa bé đi trên đường. Trông thấy tôi họ liền tiến đến hỏi thăm:

– Chào Tiểu sư phụ! Năm nay thầy được bao nhiêu tuổi rồi?

Tôi sực nhớ ra, hôm ấy là ngày 22 tháng 7 năm Dân Quốc 36, đúng ngay ngày sinh nhật tôi. Tôi liền trả lời:

– Năm nay tôi 23 tuổi! Nói xong tôi chợt ngẩn người ra.

Thuở trước, lúc tôi chưa xuất gia, thường gặp việc rất lạ, nghĩa là hằng năm cứ vào rằm tháng bảy, tháng chạp, tức là nhằm vào những ngày lễ quan trọng. Cứ đúng vào lúc người ta đang trịnh trọng cúng tế thì  tôi bỗng xây xẩm mặt mày, choáng váng đến độ không thể ngồi vững, bắt buộc phải nằm xuống, đánh một giấc dài cho tới tối mịt mới thức dậy được. Sau đó thì tỉnh táo lại như bình thường.

Tôi thưa với Đại sư:

– Chắc là  do các đệ tử tiền kiếp đang cúng bái Ngài!

Người Đài Loan có một thuyết gọi là “Bão Niên Bão Tiết” (ngày no đủ), họ cho rằng mỗi khi gặp khánh lễ của mình thì ngày ấy người ta sẽ chẳng thiết ăn uống chi, vì tử tôn đời trước đang cúng tế cho mình, nên bụng tự nhiên no nê.

Đại sư nói:

– Kể ra cũng kỳ quặc, cái chứng xây xẩm choáng người đúng ngay dịp tế lễ ấy, từ khi tôi xuất gia rồi thì hết luôn, không còn bị vậy nữa.

Sau này đến Đài Loan, nếm trải nhiều bịnh tật, dần dần tôi hiểu ra và quyết định xem bịnh hoạn như bạn lữ. (dĩ tật vi hữu). Vì nếu ta cư xử với bịnh tật như đối với bằng hữu thì lâu dần rồi nó cũng sẽ .. tốt với ta!

Năm Dân Quốc 44 chúng tôi ra đảo bố giáo và hóa duyên để in lại Đại Tạng Kinh. Lúc đó có một máy ghi âm lớn, rất quí. Tôi cẩn thận để nó trên bắp đùi mình suốt chuyến hành trình dài. Từ Đài Đông đến Bình Đông, do đường xá gồ ghề dằn xốc quá, khiến bắp đùi tôi tê nhức rất khó chịu. Từ đảo trở về, bác sĩ khám bịnh bảo chân tôi bị phong thấp cấp tính, e là có thể phải cưa bỏ cả hai chân. Nếu không cưa, bịnh sẽ lây lan nặng nề hơn.

Vừa nghe, tôi nghĩ thầm: “Cưa bỏ thì cũng được thôi! Vì tôi vẫn có thể ngồi ở nhà viết văn độ chúng sinh mà!

Lúc đó trong lòng tôi bình thản an nhiên, chẳng thấy sợ hãi gì. Song các đồ đệ chẳng ai chịu để cho tôi cưa chân, cương quyết đòi tìm bác sĩ khác khám lại. Tôi cũng chẳng thèm khám nữa. Từ đấy, tôi hết đau rồi lại lành, lành rồi đau, cứ thế nối tiếp nhau. Tình trạng này kéo dài suốt mấy năm, đến nỗi quanh năm suốt bốn mùa xuân, hạ, thu, đông… bất kể thời tiết thế nào, tôi đều phải mặc áo len. Rồi chẳng hiểu sao, bịnh cũng được lành.

Chứng bịnh bầu bạn với Đại sư dai dẳng trường kỳ nhất là bịnh tiểu đường. Ba mươi năm trước khi khám bịnh tổng quát, sư mới hay mình bị bịnh tiểu đường. Nhưng Ngài tuyệt chẳng uống thuốc hay châm cứu gì, chỉ phối hợp vận động thể thao; kiêng cữ ăn uống; làm, nghỉ bình thường. và suốt ba mươi năm nay Ngài sống chung với bịnh hoạn rất thuận thảo.

Mãi đến năm 1991 Ngài bị té gãy chân, do bác sĩ yêu cầu, Ngài mới dùng tới thuốc.

Đại sư kể:

– Bác sĩ bảo bịnh tiểu đường của tôi nếu làm hoặc đi quá độ, lượng đường trong máu sẽ tăng lên làm xơ cứng động mạch gây hôn mê và có thể dẫn đến tử vong. Ông ta khuyên tôi phải hết sức cẩn thận, không được khinh suất, phải lưu tâm để mắt tới biến chứng của bịnh. Nhưng suốt ba mươi năm nay tôi buộc phải “quá độ” thường xuyên, bịnh chỉ phát tác ngang ngửa, rồi cứ thế mà “bầu bạn” song hành với tôi.

Đối với bịnh tật phải bình thản an nhiên

Đại sư nói:

– Trọn đời tôi nếu không mắc chứng tiểu đường thì có thể xem như là không có bịnh. Bởi vì đa số các bịnh khác đều lành cả. Lành rồi thì có thể nhắc đến chúng một cách thú vị.

Vào khoảng năm 1980 tôi có đến bịnh viện Vinh Tổng khám bịnh. Lúc đó có bảy, tám vị bác sĩ vây quanh tôi tỏ vẻ lo lắng căng thẳng lắm, dường như họ cho rằng bịnh tình không nhẹ. Có một vị cúi đầu thở dài than:

– Hừ! Trong ngực vì sao có một điểm đen lớn như thế chứ?

Một vị khác bảo tôi:

– Ngày mai xin Thầy hãy đến đây khám lại lần nữa.

Tôi nói:

– Ngày mai e rằng tôi không rảnh vì phải đi Nghi Lan làm lễ giúp một vị tỳ kheo ni rồi.

Ông bác sĩ nói:

–  Thế thì ngày kia cũng được!

Tôi bảo:

–  Ngày kia cũng không được, vì theo lịch trình thì tôi phải đi xuống miền nam!

Vị bác sĩ tức giận trách:

– Chuyện nguy hiểm đến tính mạng mà sao Thầy coi thường đến vậy chứ?

Tôi nói:

– Thôi được rồi! Hễ rảnh là tôi đến khám liền!

Sau đó tôi đi xuống miền nam, quá bận rộn nên quên béng luôn. Nửa tháng sau tôi mới về lại Đài Bắc, pháp sư chùa Phổ Môn bảo tôi:

– Sư phụ à! Không xong rồi! Hổm rày các bác sĩ ở Vinh Tổng nhiều lần gọi điện tới hối thúc, họ nói là giá nào Thầy cũng phải mau mau tới đó tái khám!

Tôi đến Vinh Tổng, bên này chụp, bên kia khám, kiểm tra đủ kiểu, còn đòi “Thiết phiến” để xét nghiệm. Lần đầu tiên tôi mới nghe tới hai từ “Thiết phiến” này. Về tới chùa Phổ Môn, đồ chúng lăng xăng hỏi thăm:

–  Bạch sư phụ, hôm nay khám bịnh ra sao?

Tôi nói:

– Họ bắt phải “Thiết phiến” để xét nghiệm. Mọi người đều hỏi dồn:

* “Thiết phiến” là sao?

Tôi mỉm cười giải thích:

-“Thiết” là cắt, “phiến” là lát mỏng, “Thiết phiến” là cắt thịt ra từng lát, từng lát để xét nghiệm.

 – Ối trời ơi!

 Ai nấy đều kinh hãi le lưỡi. Tôi  chẳng thấy đáng sợ chi.

Sau đó kiểm tra rồi thì mới vỡ lẽ ra: Nguyên là hai năm trước gặp lúc gió bão, Đại sư đẵn cây làm hàng rào bị nhánh cây đâm xuyên vào ngực. Ngài đau một trận nặng rồi lành, xong nơi ngực vẫn còn lưu vết sẹo đen.

Tôi thường bảo đồ chúng rằng:

– Đối mặt với bịnh tật phải an nhiên một chút.

Bịnh tật sợ ba hạng người: Một, người có sức đề kháng mạnh. Hai, người bình tĩnh an nhiên. Ba, người tâm lực mạnh mẽ.

Nếm trải đủ thứ bịnh tật, tôi mới nghiệm ra và tin chắc rằng sức mạnh tinh thần có thể giúp chống lại bịnh tật hoặc ít ra cũng làm suy giảm lực hoành hành của nó.

Nhớ lại hồi tôi bị gãy xương đùi. Trước đó tôi đã hẹn là sẽ đi giảng ở Nhật, do bị nạn nên phải hồi lại.

Thế nhưng người ta vẫn cứ nằn nì, nài tôi qua đó giảng, không đành lòng để họ thất vọng, tôi buộc phải đi. Đến nơi, vì không có đường dốc cho xe lăn đi nên họ phải công kênh tôi lên khán đài. Trước đây tôi rất chán ngán người Nhật, vì từng chứng kiến cảnh họ xâm lăng giết người tàn bạo ở Trung quốc. Giờ đây, trong giây phút để người Nhật khiêng mình lên giảng đài, chân tình của họ làm tôi cảm thấy ấm áp và rất xúc động rồi quên béng luôn cái chân đau, cũng không nhớ đến cơn đau, điều này chứng tỏ rằng sức mạnh tinh thần quan trọng biết bao.

Đại sư cho rằng “Sinh, Lão, Bịnh, Tử” là lẽ đương nhiên của kiếp người. Đã không tránh được thì khi nó đến cứ bình thản vui vẻ chấp nhận.

Dù Đại sư xem bịnh hoạn đến với Ngài như gió thoảng mây bay, song đối với đệ tử Ngài thì tháng 4 năm 1994 là khoảng thời gian dài đăng đẳng và đáng sợ nhất. Bởi vì ba động mạch chính của tim Đại sư bị tắc nghẽn trầm trọng, Ngài bắt buộc phải phẫu thuật tim và nằm điều trị ở bịnh viện Vinh Tổng suốt cả tháng ròng.

Giúp người bịnh hiểu lý an tâm

Sau ca mổ tim không lâu, Đại sư viết một thiên ký sự: “Vinh Tổng Phẫu Thuật Tim” đăng trên báo.

Ngài phát biểu: “Tôi có cảm giác mình giống như một cậu học trò nhỏ được đặt chân vào thế giới  phẫu thuật mới lạ. Những chăm sóc quan tâm ưu ái của các bác sĩ, cán sự, y tá thân tình đến độ khiến tôi quên mình là bịnh nhân và cảm thấy xúc động vô cùng”.

Bằng huệ tâm và sự dịu dàng vốn có, Đại sư kể lại tỉ mỉ tất cả diễn tiến, từ lúc Ngài nhập viện cho đến khi xuất viện, mỗi một lời, mỗi một câu mô tả tình tiết, đều toát ra phong thái an nhiên vô quái ngại. Đại sư rất dễ dàng thông cảm với các nạn nhân bịnh khổ, Ngài cư xử như thể mình là gia quyến họ và còn đưa ra những lời an ủi tinh tế, những lời khai thị thật hay.

 Có một bác sĩ trẻ trước khi phẫu thuật đã phỏng vấn Ngài:

 – Đại sư! Ngài có sợ chết không?

Sư đáp:

– Chết thì không sợ, sợ đau thôi! Một người bình thường lúc mạnh khỏe thì đi như gió, ngồi như chuông, nằm như cung, phát biểu đâu ra đấy, lời lẽ rạch ròi, điềm đạm tác phong. Song đến khi bị bịnh vật ngã và bị đau đớn hành hạ rồi thì khó tránh khỏi rên la. Ái chà ! Lúc này xem ra còn thảm hơn con gấu chó nữa đó!

Bác sĩ bảo:

– Đại sư đừng nói thế! Người mạnh tất nhiên là có cái oai phong của người mạnh, nhưng người bịnh dù có la khóc kêu rên thì vẫn có cái oai phong của người bịnh mà!

Đại sư bình: “ Khéo nói lời trấn an giúp người bịnh. Đó là tính nhân ái, là tấm lòng tốt biết lo cho người! Nghĩa cử này rất đáng tán thán”! –vì chính Tấm lòng hào hiệp, cách xử sự nghĩa tình, biết thể hiện sự quan tâm nồng ấm đến mọi người, là những điều mà tôi muốn đề xướng, muốn cho thực hiện ở “Phật Giáo Nhân Gian”!

 Suốt quá trình mổ tim, nhìn những ống dẫn cắm đầy trên thân mình, Đại sư nói: “Những vị sáng chế ra mấy thứ dụng cụ này quả đáng được kính lễ!” còn đối với các bác sĩ y tá quan tâm thăm hỏi Ngài, sư rất cảm kích, tỏ vẻ tri ân sâu nặng và xem họ như những người có ân tái tạo.

Ngỏ cùng nhân gian

Trong lúc mạng sống nằm giữa lằn ranh sống chết, Đại sư không mất chánh niệm và càng yêu thương chúng sinh sâu sắc hơn. Khi tỉnh lại, Đại sư đã đem những điều mình thể hội được từ ca phẫu thuật, nhất nhất viết ra, mong chia sẻ kinh nghiệm này với mọi người để họ cùng hưởng lợi ích.

-Không biết là hạnh phúc

Sau khi mổ xong, nhiều người tới thăm, hỏi Đại sư:

– Ngài phẫu thuật có đau không?

– Không đau! Một chút cũng không đau!

– Lớp da trên thân thể, bị cắt bỏ một chút cũng thấy đau. Huống chi trên bắp đùi Ngài có tới năm mươi mấy vết thương, tĩnh mạch bị cắt lìa, cả xương lồng ngực cũng bị cưa! Làm sao mà không đau đớn chứ?

– Bởi vì lúc ấy tôi bất tri mà! Trong đời, tôi sợ nhất là bị ghim mấy cái ống dẫn chi chít này vô người. Suốt 24 giờ chờ hồi sức, người ta ghim tổng cộng bảy, tám ống. Nhưng tới khi tôi tỉnh dậy thì mấy cái ống này được dẹp đi rồi!

“Suốt thời gian bác sĩ Trương Yến phẫu thuật tim cho tôi, tôi hoàn toàn không hay biết. Hoàn toàn “Bất tri nhân gian đa sự”! Mà đã bất tri thì đâu có gì là thống khổ?

Lúc ấy tôi nghiệm ra một điều, thế gian sở dĩ có nhiều khổ não là do tri mà ra. Cả một đời người, bao nhiêu thống khổ đều phát xuất từ kiến văn giác tri. Do bởi ngã chấp nên vừa thấy, nghe, hiểu, biết.. xong là ta vội túm hết thống khổ nhét vào trong tâm, để rồi tự mình hành hạ mình!

Ví dụ như thấy kẻ thù thì lòng mình đâu có vui? Những niệm buồn thương chỉ hiện diện trong khoảnh khắc, nhưng ký ức lại lưu giữ và ôn tới ôn lui nỗi thống khổ đó suốt đời. Khi nghe phải một lời mạ lỵ oan uổng hoặc nhận được một tin tức không may thì tâm liền khởi buồn thảm rồi đắm sâu vào đó, chẳng chịu thoát ra.

Còn một việc khác nữa, ở đời có những việc không nên biết, không biết có khi lại rất có ích cho mình, song chúng ta không chịu vậy, ta luôn tò mò muốn biết đủ thứ, ngay cả những chuyện không liên can gì tới mình cũng cứ ngong ngóng để chực nghe. Tính tò mò tọc mạch muốn biết chuyện người hoặc những chuyện không dính dáng tới mình là căn bịnh thường tình, song nó hiếm khi đem đến ích lợi, ngược lại còn gieo hại.

Có thể đơn cử chuyện Tần Thủy Hoàng xây lăng mộ để quí vị hiểu. Khi lăng mộ Tần Thủy Hoàng được xây xong, thì tất cả những người từng tham dự việc kiến trúc đó đều bị giết sạch, vì vua Tần không muốn kho báu trong cung bị tiết lộ. Thế nên, biết những điều mình không nên biết thường đem đến xui xẻo hơn là tốt lành, có nhiều sự việc do bởi biết mà quí vị tự chuốc họa vào thân! Không biết có khi lại là hạnh phúc. Đây gọi là triết học “không biết”, cũng là điểm trọng yếu trong “Phật Giáo Nhân Gian

2-Công năng đặc biệt

 Khi tôi tỉnh dậy và bắt đầu tập hít thở lại, tôi vừa mới hít vào một hơi thì nơi bảng hiển thị kim chỉ số vọt lên tới 4500ml. Cô y tá kinh ngạc hỏi phải chăng tôi có công năng gì đặc biệt? Hay đã từng luyện qua thuật hô hấp?

Thực ra thì tôi chẳng có công năng đặc biệt gì cả.

Nhưng tôi nhớ từ lúc xuất gia tới giờ lúc nào cũng bận Phật sự đa đoan và thời khóa công phu sớm tối. Đi đâu cũng tụng kinh. Mỗi lần tụng tôi luôn dốc hết tâm sức hành trì. Đến  sau này, chỉ cần hít vào một hơi là tôi có thể tụng hết bài Bát Nhã Tâm Kinh, và tôi có thể tụng xong một biến Đại Bi cũng chỉ trong một hơi thở thôi.

Hóa ra việc tụng niệm kinh chú cũng giúp dưỡng khí, mà khí đủ thì thể lực sung mãn, khí đủ thì thọ mệnh kéo dài. Khí lực có liên quan mật thiết với nhau. Bởi vậy mới có câu: “Phật nhờ một nén hương, người nhờ một làn hơi”.

Thế thì loại “công năng” này đâu có gì đặc biệt, chỉ nhờ hằng ngày vận dụng chút tâm sức thôi. Đây cũng là điểm tu hành đặc sắc ở “Phật Giáo Nhân Gian”.

3-  Đồng hồ và cuộc sống

Rời phòng phẫu thuật tới phòng hồi sức, khi tôi tỉnh dậy, vật đập vào mắt tôi đầu tiên là cái đồng hồ treo trên tường, lúc ấy đang chỉ đúng 6 giờ.

Tôi nhắm mắt lại thật lâu rồi mở mắt nhìn, kim dồng hồ đang chỉ  6g 05 phút.

Tôi lại nhắm mắt, lần này tôi nhắm thật lâu, lâu đến nỗi tưởng chừng như đã mấy ngày trôi qua rồi vậy. Xong, tôi mở mắt, thấy kim đồng hồ chỉ 6 giờ 10.

Rõ ràng là hai cây kim phút và giây đang chuyển động, chứng tỏ rằng tôi đang tồn tại, rằng tôi vẫn còn liên quan với thế giới này. Tiếng tíc tắc của kim đồng hồ làm tôi an lòng, khoảnh khắc này đối với tôi, là trọn cả sinh mạng, là toàn thể thế giới.

Những năm gần đây tôi nhiều phen bôn ba khắp thế giới, từng đi qua rất nhiều danh lam thắng cảnh, gặp biết bao cảnh trí thơ mộng. Song tôi chẳng có thời gian rảnh để ngắm nhìn chúng. Còn bây giờ, trong thời điểm đặc biệt này cái đồng hồ lại thu hút tôi hơn cả núi sông đại địa!

Nhân gian nếu không có đồng hồ làm dụng cụ đo lường thời khắc, thì thống khổ buồn thương xem như không quá khứ, vị lai; không cả ước mơ hi vọng, người ta nên lợi dụng thời khắc thâm thúy này để tham ngộ từ những sự việc bình thường nhất.

Lúc mê muội thì thời gian sẽ khiến bạn mất tất cả,  ngộ rồi thì thời gian đều nằm trong tay bạn.

4 – Tôi muốn về nhà

Nằm ở phòng điều dưỡng tôi nhận ra một điều nữa  là: Tôi muốn về nhà!

Quả là không đơn giản. Khi bác sĩ đến khám, tôi nói ngay:

– Tôi muốn về nhà! Tôi muốn rời khỏi đây!

Nói xong, tôi ngẩn ngơ. “Tôi đang bị bịnh phải nằm điều trị mà, về nhà ư? – Nhà nào đây?? – Phải rồi! – Về nhà! Chính là về Phật Quang Sơn – nơi tôi cùng đồ chúng chung sống bấy lâu, chỗ mà từng cọng cây ngọn cỏ, từng ngôi kiến trúc đều hết sức quen thuộc và thân thiết với tôi. Đó là nơi tôi và mọi người cùng ấm lạnh có nhau, cùng đùm bọc tương trợ nhau, tha hồ sống thật với nhau, không cần phải giữ ý khách sáo. Nhớ lại thuở bé mỗi khi ra ngoài bị bắt nạt, tôi thường khóc tu hu rồi gào to lên:  Tôi muốn về nhà!”

Bây giờ tôi bị mổ phải nằm viện, thân tâm đều cảm thấy không thích ứng, giống như hồi bé ra ngoài gặp khúc mắc vậy.

Hóa ra – nhà – chính là nơi an ninh yên ổn, là nơi đùm bọc chở che, là nơi cho ta cảm giác ấm áp, thoải mái.. Chỉ cần về tới nhà là bao nhiêu phiền não, khúc mắc .. đều sẽ tan biến hết.

Như vậy, “Nhà”, đối với nhân sinh, thật sự quan trọng biết bao nhiêu!

Bởi thế mà trong “Phật Giáo Nhân Gian”, tôi đề xướng rằng: việc mà mỗi người cần lưu tâm nhất, là phải biết trân trọng nâng niu. tận lực gìn giữ nguồn hạnh phúc cho gia đình trước, rồi  sau mới có thể bàn đến việc tạo dựng cõi tịnh độ ở nhân gian.Vì bao nhiêu vấn đề phức tạp đa đoan đều bắt nguồn từ gia đình! Thế nên, điểm then chốt trong“Phật Giáo Nhân Gian” là: Phải gầy dựng cuộc sống hạnh phúc nơi gia đình trước, rồi sau đó mới có thể kiến tạo an vui cho xã hội, cho quốc gia và toàn thể nhân loại.

5- Nhẫn là vượt qua hết

Thời gian nằm chờ sức khoẻ hồi phục, chỉ số hô hấp của tôi bắt đầu là 97, 98, rồi 100, hoàn toàn trái ngược với một số người. Nhân viên bịnh viện thường hỏi tôi có luyện qua khí công chăng? Hoặc có luyện công phu hay thuật dưỡng khí Thiếu Lâm gì chăng?

 Tôi chưa từng luyện khí công hay công phu Thiếu Lâm gì, song có một chút công phu “Phật Quang”!

Nhớ lại lúc 12 tuổi xuất gia rồi đến 15 tuổi thọ giới, tôi bị đốt liều hương sâu hoắm đến đỗi mất trí nhớ. Suốt thời kỳ trí não đần độn, trong chùa ai cũng chỉ vào mặt tôi dè bỉu:

– Thằng nhỏ này ngày sau mà thành người hữu dụng được ấy hả, thì có mà mặt trời mọc đàng tây!

Nghe thế tôi cũng chẳng lấy làm khó chịu hay oán thán, tủi thân sầu não gì, bởi lòng tôi luôn nghĩ: “Hữu dụng hay không, ngày sau sẽ rõ! Đâu cần biện minh! Thời gian sẽ cho tôi sức lực và mang đến câu trả lời! Vì hai mươi, ba mươi năm sau, ai mà biết trước được? Rồi  sẽ có một ngày tôi bất ngờ đột phá, tiến bộ cho mà xem!”

Bây giờ ngẫm nghĩ lại, thật ra sức mạnh nào đã giúp tôi chịu đựng giỏi như thế? Chính là pháp Phật! Dù lúc đó tôi chưa hiểu gì về nhẫn, về “Vô sinh pháp nhẫn”, nhưng ít nhất tôi cũng hiểu được “Nhẫn nhục ba-lamật”. Gọi là “Ba-la-mật” bởi vì có thể “độ”, mà “độ”, nghĩa là vượt qua, nghĩa là: nhẫn nhục có thể “độ” phiền não, giúp ta vượt qua mọi trở ngại, khúc mắc.

Chính nhờ từ nhỏ tôi giỏi chịu đựng, nhẫn nhịn, nên mới có thể chuyển xoay, biến phiền não thành sức mạnh. Nhờ vậy tôi mới luyện được cá tính “càng gặp gian nan càng dũng mãnh”; càng đối đầu với chướng ngại, tôi càng phát huy hết công năng diệu dụng và cứ thẳng tiến mạnh mẽ cho đến thành công mới thôi. Đây cũng là trọng điểm tu hành ở “Phật Giáo Nhân Gian”.

Trong cuộc sống bao giờ cũng có những trắc trở đem đến kết quả tương phản: nó có thể làm người ta chán nản hoặc có thể giúp người ta tăng thêm chí khí. Tôi hi vọng trong tâm mỗi người đều có “khí Phật Quang”, có thể khéo léo chuyển hóa như tôi đã làm. Hi vọng lúc nào quí vị cũng có thể tập chuyển hoá, nếu làm được vậy tức là quí vị đã khơi mở được sức mạnh tiềm tàng có sẵn trong người mình.

Tôi cũng khuyên những người bịnh đau trong thế gian, hãy hiểu là không ai tránh được bịnh. Bịnh hoạn luôn được chia đều cho chúng ta, có khác chăng là mức độ nặng nhẹ mỗi người thọ nhận không giống nhau. Song, thân thể mắc bịnh đã đành, quí vị đừng để tâm mình bịnh. Tâm mà bịnh thì thân xác sẽ suy sụp nặng, dẫn đến tình trạng khó hồi phục sức khoẻ. Quí vị đừng bao giờ sinh lòng chán nản đối với cuộc sống, đừng bi quan về vận mệnh, tương lai mình, làm vậy sẽ khiến cho sự việc càng trầm trọng thêm. Hãy tự cứu mình bằng tinh thần vô úy mạnh mẽ. Được vậy, quí vị mới có thể làm giảm nhẹ tình thế và lấy lại quân bình.

Tôi chẳng sợ tuổi già

Khi sư phụ hồi phục sức khoẻ, Ngài nói: – Đây là một cuộc chạy thi với thời gian, mà khán giả chính là những người quan tâm lo cho tôi. Vì hi vọng của khán giả mà tôi cố gắng chạy tới đích. Thế nhưng tôi luôn cầu nguyện, mong rằng nhờ vào cơn bịnh này của tôi mà chúng sinh ít bị bịnh đau mài luyện, tôi cầu cho mỗi người, tâm tư khai mở, trí tuệ sáng suốt để có thể tự tạo an lạc cho chính mình rồi từ đó đem hạnh phúc đến tha nhân. Mong rằng tâm tư mọi người đều được tỉnh sáng, để có thể bình thản tự tại trước bịnh đau, an nhiên chứng kiến tiến trình lão hóa hay tử vong.

Đại sư im lặng một lúc rồi kể:

“ Hai mươi năm trước có người vừa gặp tôi thì buột miệng nói ngay:

– Sao chẳng thấy ông già chút nào! Một chút suy yếu cũng chẳng thấy!

Nghe thế, tôi hiểu là tiến trình già suy đã tới. Lần sau, hễ có ai phê bình tương tự vậy thì tôi đáp liền: 

-Tôi đâu có thời gian để mà già chứ!

Chính xác là nếu bạn sợ già thì cái già tới ngay bên cạnh, còn nếu bạn chẳng để ý tới, thì thời gian sẽ phải chạy theo bạn.

Gần đây giáo sư Trần Cung Nhượng ở đại học Bắc Kinh nói với tôi:

– Đại sư, con cầu mong Ngài có sức khỏe khang kiện  để mà hoằng pháp!

Nghe vậy tôi cảm động vô cùng. Thật ra tôi chẳng sợ gì già cả!

Ngày xưa Đại sư không thích tổ chức sinh Nhật, Ngài quan niệm ngày sinh của mình là ngày “Mẫu nạn”, nên mãi tới năm sáu mươi, Ngài mới chìu theo nguyện vọng của bao người, chấp thuận cho tổ chức sinh Nhật.

“Bởi vì tôi đã già, và nhiều người rất mong được chúc mừng tôi. Họ thỉnh cầu đến nỗi tôi không đành lòng từ chối.”

Đại sư cho mời hết những kỳ lão sáu mươi đến chung hưởng sinh Nhật với Ngài. Mời được 1360 vị, các kỳ lão này đến Phật Quang Sơn dự lễ, nhằm để biểu thị rằng:- “Tuổi sáu mươi ai rồi cũng đến! Tuổi sáu mươi, chẳng có gì là không thực hiện nổi!”

Ngày hôm ấy nhìn cách Đại sư xử sự, xem cách Ngài bộc lộ nghĩa tình, tế nhị quan tâm đến mọi người, trông Ngài giống hệt một Bậc Thiên Nhân Sư mẫu mực, tôi thấy Ngài giống Đức Phật quá! – Giống Đức Phật – là vì thời thanh niên, Ngài hành sự mẫn tiệp dẻo dai, khiến chúng tôi quên hẳn tuổi tác của Ngài. Rồi sang tuổi trung niên lần lần tới tuổi già, Ngài có vẻ như kiên cường mạnh mẽ hơn, làm chúng tôi không còn nhớ đến chu trình tuổi tác của Ngài. – Già –  chỉ là dấu vết của thời gian, là tiến trình lão hóa biểu hiện ở bề ngoài. Còn đối với Bậc trí tuệ uyên thâm, thì thời gian lại hiến tặng sự chuyển hóa vi diệu nhất. Cái già đương nhiên là sẽ đến từ từ, càng lúc càng gần tới đích, song chỉ cần tâm trí thông tuệ linh hoạt, thì dù có già hay phải chết, nào  có đáng sợ chi?

Chưa tới số thì chẳng chết được

Thường thì từ chùa Viên quang tới chợ mua đồ phải dùng xe ba bánh để chở hàng, do đường đi quá xa và quá vất vả, để tiết kiệm thời gian, tôi rủ bạn bè hùn tiền mua chiếc xe đạp. Mỗi người bỏ ra một đồng, mười bốn người cũng được mười bốn đồng. Sắm được xe đạp thật là thích! Ái chà chà! Chiếc xe mới tuyệt làm sao! Tôi thích lắm nên tập cưỡi nó với vẻ rất ư là khoan khoái.

Ngày nọ, tôi đi Đại Luân để mua đồ, từ Viên Quang đến Trung Lịch tương đối khá xa nhưng đường lộ rộng lớn, dễ đi; còn đường Đại Luân tuy gần nhưng là đường đèo, chật hẹp và hiểm trở.

Tôi và thầy Tính Như mỗi người cưỡi một chiếc xe đạp. Vừa chạy tới quãng đường hẹp thì thấy xa xa có hai cô bé học sinh đang đi bộ trên đường. Tính Như hét:

-Tránh ra! Tránh ra!

Hai cô bé vội nép sát vào lề, tôi khen thầm: “Hai em bé này ngoan quá!” vừa khởi niệm như thế thì chiếc xe tôi đã bay thẳng vào hư không rồi rớt xuống vực sâu với độ cao tương đương ba bốn tầng lầu, tiền bạc bay tung toé, tôi rơi xuống, đầu bị va đập mạnh, tôi chỉ kịp nghĩ: “Mình chết chắc rồi!” và tôi bất tỉnh.

Không rõ là bao lâu, tôi tỉnh dậy: “Đây là thiên đường hay địa ngục? Sao mọi thứ giống hệt ở nhân gian vậy? Vẫn có bùn lầy, đất đai, cỏ cây, sông nước, đá tảng.. Tôi đang ở đâu đây?..” tôi thử ngo ngoe tay chân và  phát hiện mình vẫn còn cử động được. “Có lẽ tôi chưa chết? Đây là đầu tôi, tay tôi, chân tôi.. thân thể tôi đây mà!” Tôi nhìn quanh tìm kiếm chiếc xe đạp, nó đã nát vụn. Thật uổng! Nhưng mớ sắt vụn này vẫn còn bán ve chai được. Tôi  thu nhặt tử thi chiếc  xe, buộc lại và vác nó về nhà. Trong lòng thầm tức cười với ý nghĩ: “Khi đi tôi cưỡi xe, lúc về xe cưỡi tôi”! Rồi tôi nhớ lại, mình có bạn đồng học cùng đi nữa mà? Vậy thì Tính Như đâu? Hóa ra Tính Như thấy tôi rơi xuống vực, cho rằng té như thế mười phần chết chắc, chẳng thể nào sống sót được, huynh ấy sợ có chuyện rầy rà lôi thôi nên đã dông tuốt về chùa.

Điều hết sức lạ là, tôi té xuống vực, đầu bị va đập mạnh, rơi với độ cao ba bốn tầng lầu như thế, lẽ ra óc não tôi đều phải bị dập và văng bắn tung toé, song mình mẩy tôi lại chẳng có chút thương tích, da thịt cũng không trầy xước gì. Chuyện xảy ra giống hệt như hồi bé khi tôi bị rớt xuống sông băng. Tôi thấy kỳ diệu đến ngạc nhiên! Thế thì tôi không cần phải sợ chết làm chi, bởi vì chưa tới số thì chẳng chết được!”

Về kinh nghiệm tử vong, người Trung quốc từng nói: “ Người chết giống như bấc cạn dầu” và trong “Khuyến phát Bồ-đề tâm văn” có diễn tả: Người sắp chết giống như rùa đang sống bị lột vỏ..” Nhưng, thế không phải là tử vong, là bản thân chết chóc đau khổ, mà chỉ là đang đối mặt với nỗi kinh hoàng đau đớn của tử vong. Những đau đớn thống khổ đó, tuyệt chẳng phải là tử vong!

Chẳng giảng “Sinh Tử” mà giảng “Tử Sinh”

“Tôi thường dùng giấc ngũ để quán chiếu về tử vong. Có lúc đánh giấc hết sức thư thái, chẳng hay biết chi, so với chết hầu như chẳng khác gì. Tôi cũng thường dùng sự nghỉ ngơi để quán chiếu tử vong. Mệt quá thì phải nghỉ thôi, buông xuống hết rồi thì cùng tử vong đâu có gì khác biệt?

 Giống như cách đây không lâu, khi tôi đến Bịnh Viện Vinh Tổng kiểm tra, bị bác sĩ bắt nằm trong cái hòm kín để khám xung điện. Tôi thấy thư thái quá nên thiếp đi. Kiểm tra xong tôi cũng vừa thức dậy, bác sĩ hoang mang nói:

– Lạ chưa? Sao có thể như thế được chứ?!

Và ông yêu cầu tôi khám lại lần nữa. Tôi nghĩ khám lại rất tốn kém nên vội nói:

– Tôi chỉ ngủ thôi nên đâu có động đậy gì!

Khám xung điện như vậy mấy lần, Đại sư kể:

– Khi đó tôi nằm trong cái hộp kín tối thui, không đèn đuốc ánh sáng, không cả thanh âm màu sắc, cảnh trạng giống hệt như đang nằm trong quan tài, nên tôi mới nhân đó quán chiếu về tử vong luôn.

Đại sư nói: “Lúc đó tôi nhập diệt rồi”!

Nếu nhập diệt với tâm tư bình thản như thế,  “xuất ra” rồi thì đi lên thôi. Cho nên chúng ta không cần giảng sinh tử, vì không phải “sống rồi mới chết” mà chính là “Chết rồi mới sống”! Thiết nghĩ, “Sinh Tử học” đúng ra nên đổi thành: “Tử Sinh học”. Vì chết mới là (bắt )đầu, sinh mới là cuối (điểm). Khi Đại sư giảng, đề nghị đổi “Sinh Tử học” thành “Tử Sinh học”, mọi người đều vỗ tay khen hay!