SAO TRỜI MÊNH MÔNG
Nguyên tác: Hán văn: “Hạo Hãn Tinh Vân”
của Lâm Thanh Huyền
Hạnh Đoan lược dịch
CHƯƠNG 1: VƯỢT BIỂN
Trong đêm đen thăm thẳm, từng bông hoa tuyết trắng xóa nhè nhẹ rơi rơi. Người ta thường gọi là “phong hoa”
“Tuyết nguyệt” hay “phong hoa”, được xem như rất đẹp và rất lạnh; bởi vì trong hoa tuyết thoang thoảng hơi gió, ánh lên sắc trăng, phả làn hơi lạnh buốt mê hồn.
Chuyến xe lửa lao vun vút giữa màn đêm “phong hoa tuyết nguyệt.”
Từ song cửa nhìn ra, sương đêm giăng mờ cảnh vật, mặt đất tuyết phủ trắng xóa. Chỉ thấy những vật gì đó xam xám nhô lên hai bên đường; định thần nhìn kỹ, thì ra tất cả đều là thây người, họ chết nằm la liệt đủ kiểu. Lời kể với hiện trạng xảy ra tuy không giống nhau; song vẫn có chung một bối cảnh đồng nhất: đó là thời đại bi thảm!
Hoa tuyết chẳng thấy được sự thê lương của người, không ngừng bay lượn giữa trời.
Hoa xuân, trăng thu, ngày hạ, tuyết đông.. đều không hiểu được những biến cố đang xảy ra ở nhân gian; chúng cứ đúng hẹn mà đến với đời. Lúc vui vẻ nhìn ngắm thì thấy cảnh vật đẹp xinh, bốn mùa biến hóa kỳ mỹ; lúc buồn thảm mà nhìn thì chỉ thấy cuộc đời vô thường, thế gian vô tình!
Kéét..éét!.. một tiếng, chiếc xe lửa dừng lại trước cổng chùa Thiên Ninh Thường Châu.
Từ trong xe một thanh niên trẻ bước ra, chàng sửa y phục ngay ngắn rồi sải bước tiến về chùa Thiên Ninh, băng ngang qua tượng Quan Âm lộ thiên đang nhìn xuống sảnh đường, xuyên qua màn sương mù dày đặc; chàng vào tới tăng đường tối om.
Bên trong, các tăng sĩ đã ngủ hết cả.
Trong liêu và bên ngoài, sương buông hệt nhau; tối thui tối mò, im phăng phắc.
Chàng thanh niên trẻ đến bên song cửa còn điểm ánh tuyết le lói; sờ soạng và đánh thức vị tu sĩ đầu tiên. Chàng hỏi thật khẽ:
– Này, này! Có muốn đi Đài Loan không?
Vị tu sĩ đương say giấc nồng, ú ớ một tiếng rồi trở mình ngủ tiếp.
– Có muốn cùng đi Đài Loan không hả? – chàng hỏi người thứ hai.
Vị tu sĩ quơ quơ tay, kéo chăn lên rồi lại ngủ.
Chàng tìm đến người thứ ba, hỏi:
– Có muốn đi Đài Loan với tôi không?
Vị này thẳng thừng trùm kín đầu lại.
Chàng thanh niên không nản lòng, cứ đi đánh thức từng người và hỏi mãi câu ấy, cuối cùng nhiệt tình của chàng cũng lay chuyển được một số người đồng ý theo chàng ra nước ngoài.
Chàng thanh niên nhanh nhẹn bước ra khỏi chùa, theo thói quen chàng hướng về đức Quan Âm hành lễ; lúc chàng chắp tay nhìn lên Bồ-tát, hình như Ngài cũng thấy vẻ kiên quyết hiện lên trong mắt chàng.
Chàng bước lên xe, bảo tài xế:
– Mình đi thôi, bác!
Ai muốn đi Đài Loan, tôi sẽ dẫn đi!
Chiếc xe lửa trống trải chạy ngang qua Thượng Hải, chàng thanh niên biết đây là đêm cuối cùng mình ở Đại Lục; sau đó chàng sẽ đến Đài Loan, vùng đất xa lạ đầy bỡ ngỡ. Thời cuộc biến đổi triền miên như thế, biết còn có được ngày về?
Chàng trai chuẩn bị chuyến vượt biển ấy, chính là Tinh Vân, người sẽ đem pháp Phật truyền bá ở Đài Loan sau này.
Nhắc đến cái thuở bạo gan năn nỉ tài xế hỏa xa dừng tạm bên ngoài chùa Thiên Ninh, bất chấp cái lạnh cắt da, xông lướt sương tuyết, quyết đến rủ các tu sĩ cùng đi Đài Loan với mình, Tinh Vân kể:
– “Lúc ấy chưa biết là sẽ ra sao, song thấy việc cần làm, thì làm thôi!”
Giống như đi Đài Loan, thấy cần đi thì đi vậy.
Đó là năm Dân Quốc 37, Nam Kinh đã bị vây hãm nên chiến cuộc bùng nổ rất ác liệt. Chỗ nào cũng có thương binh, nhiều tu sĩ động lòng từ, phát tâm thành lập “Đội tăng sĩ cứu hộ” để săn sóc thương binh và phục vụ nhân dân.
Pháp sư Trí Dũng là bạn thân Tinh Vân, chạy lo huy động ngót mấy tháng trời, định thành lập một đoàn cứu hộ gồm sáu trăm tăng lữ.
“Lúc đó tôi rất sùng bái họ. Sáu trăm người ư? Đâu phải là không thực hiện được? Chỉ thấy họ đi lui đi tới, đi ra đi vào; hết nhóm lại họp…Lúc đó tôi đang làm Trụ trì, mắc nhiều việc nên không rõ họ hoạt động ra sao? Song, Trí Dũng là bạn thân tôi, tôi rất khâm phục và vui vẻ hỗ trợ, ngỏ ý:
– Tôi lo giúp các vị về khâu ăn uống nhé !”
Chuẩn bị lo toan như thế hơn mấy tháng trời, đến tháng 8 tháng 9 năm Dân Quốc 37, tiết trời bỗng thay đổi lạnh buốt; nhiều người trước đồng ý đi Đài Loan nay chẳng chịu đi nữa. Thậm chí ngay cả Trí Dũng cũng không muốn đi. Nguyên do là vì không thành lập được đội cứu hộ sáu trăm người nên cảm thấy nản lòng. Tinh Vân thấy tình trạng như thế rất sốt ruột; chuẩn bị vất vả bấy lâu, sao có thể nói không đi là không đi chứ? – Còn cả trăm vị muốn đi kia nữa, ai sẽ hướng dẫn họ? – Tinh Vân vội đến gặp Trí Dũng, khuyên lơn:
– Thầy chịu khó dẫn họ đi nhé, chúng ta cùng là bạn đạo; đâu nhất thiết phải ở bên nhau. Thầy tới được Đài Loan rồi, tôi có thể trông cậy vào thầy; mà lỡ như bất thành thì thầy cũng có thể quay lại nhờ tôi, đời người thành bại khó đoán trước lắm.
Trí Dũng vẫn không chịu đi, bảo Tinh Vân:
– Vậy thì ông đi đi !
Tinh Vân nghĩ thầm: “ Việc này cần có người đứng ra gánh vác, mình bắt buộc phải đi Đài Loan thôi!”
Thời đó qui củ Tùng lâm rất nghiêm, Tinh Vân không dám tự quyết, vội vã đến núi Thê Hà trình với sư phụ là Hòa thượng Chí Khai, xin phép đi Đài Loan; sư phụ nghe đồ đệ cưng muốn đi Đài Loan, chấp nhận ngay. Thế nhưng lòng quyến luyến không nỡ rời; trước khi chia tay, người đích thân làm một mâm chay để tiễn Tinh Vân. Hai thầy trò ngồi đối diện nhau; nghĩ đến chuyến đi “sinh tử tương biệt” (sống chết gì cũng ly cách nhau) ai nấy đều không ngăn được xúc cảm bùi ngùi.
“Dùng bữa xong, sư phụ lấy mười nén bạc trao cho tôi làm lộ phí chi dụng khi cần. Thế này thì quá mức rồi, số tiền ấy, khi sư phụ đưa, ngay cả một nén bạc tôi cũng chẳng nhìn qua; tôi đón nhận mà mắt dâng đầy lệ, sư phụ đối với tôi ưu ái quá! Người còn nói với tôi:
– Tướng quân Tôn Lập Nhân rất rành về Thê Hà sơn của chúng ta; con đến Đài Loan chỉ cần liên lạc với ông ấy; nhất định ông ấy sẽ chiếu cố con.
Được sư phụ khích lệ, tôi vội quay về trường Tiểu học Bạch Tháp chùa Đại Giác, nói với trăm vị tăng lữ muốn đi Đài Loan rằng:
– Xong rồi! Ai muốn đi Đài Loan tôi sẽ dẫn đi!
Lúc thốt câu nói này lòng hào hiệp trong Tinh Vân trỗi dậy vô bờ.
Hồi tưởng lại, Tinh Vân nói:
– Lúc đó Đài Loan nằm ở chỗ nào tôi cũng đâu có biết! Hai mươi ba tuổi nhưng kiến thức của tôi còn mù mờ lắm, ngay cả Thượng Hải tôi cũng chưa đi tới, nên khi nghe người ta nói quân kháng chiến đã vào tới Trùng Khánh, nếu như họ thắng thì từ Trùng Khánh vào tới được đây cũng phải sang năm! Vừa nghe thế tôi đã giật bắn người: – “Trùng Khánh xa dữ vậy sao? Vậy thì Đài Loan khỏi phải nói rồi, nó nằm tuốt ở ngoài biển lớn lận!”
Thuyền chở pháp qua biển
Tính cách của Tinh Vân, một khi đã quyết định rồi thì bất kể thành, bại đều lăn xả vào làm cho kỳ được mới thôi. Chàng nghe nói có một chiến hạm lớn sẽ khởi hành từ Thượng Hải tới Đài Loan, liền vội vã dẫn hơn bảy mươi người đáp xe lửa đến Thượng Hải. Trên đường đi, sực nhớ chùa Thiên Ninh nằm gần trạm xe lửa, bản thân mình cũng đã từng học ở đó; biết đâu có thể sẽ rủ thêm được vài người đi Đài Loan? Chàng liền năn nỉ tài xế dừng lại trước chùa; cất công đi đánh thức từng vị tu sĩ đang say ngủ.
“Lúc đó dọc đường đầy dẫy xác chết, thêm đêm tối khó nhìn rõ lối đi, có khi dẫm lên cả thây người mà đi đến chùa. Hồi ấy tất cả xe lửa đều được dùng chở đầy những thanh niên tòng quân, tôi cũng không biết sức mạnh nào xui tôi tìm bác tài, xin ông ta dừng lại trước cổng các chùa ở Thường Châu, Trấn Giang. Ai ngờ được đáp ứng như thế! Xe lửa chịu đợi đấy, nhưng đi Đài Loan tổng cộng chỉ có ba mươi vị. Nếu như gặp lúc thức thì có thể mời được nhiều hơn, song chìm trong giấc ngủ mê nên rủ thật là khó vậy.
Nhưng cũng không hoàn toàn như thế, những người đang thức cũng thay đổi, lúc xuất phát thì có hơn trăm tu sĩ; nhưng đến Thượng Hải rồi thì còn lại chưa tới bảy mươi người. Tại Thượng Hải chờ thuyền ngót mấy ngày, lại bỏ cuộc hết hai mươi vị, chính thức lên thuyền đi Đài Loan thì chỉ còn có năm mươi người. Sau này, các giảng sư hoằng pháp tương đối nổi tiếng ở Đài Loan như Tịnh Hải, Ấn Hải, Hạo Lâm, Quảng Từ v.v… đều là những thanh niên trong nhóm năm mươi người đó. Nếu không có các vị này, thì Phật pháp không thể trong vòng mấy mươi năm ngắn ngủi mà có thể quảng bá rộng rãi ở Đài Loan, cho nên con tàu chiến Thượng Hải thuở ấy, cũng là chiếc thuyền chở pháp qua biển.”
Thuyền vừa đến Cơ Long, thì phải đáp tàu hỏa đến Đài Nam; tất cả thuyền viên đều bị đưa vào trại lính, Tinh Vân ngước nhìn mấy chữ to tướng đề trên doanh trại: “Trường Huấn Luyện Lính Phổ Thông”. Lúc đó ai nấy đều bàn tán xôn xao, mấy ngàn người khựng lại trước cổng chẳng chịu bước vào; một số ít tăng lữ từng tham gia vào “Đội tu sĩ cứu hộ” phát biểu: “Chúng ta là người xuất gia, sao có thể tòng quân được chứ?” Còn đa số thanh niên trí thức thì hưởng ứng câu: “Một tấc non sông, một tấc máu; ngàn vạn thanh niên ngàn vạn quân”. Họ nói: – chúng ta thuộc thành phần trí thức, sao có thể làm lính phổ thông được cơ chứ?”
Tinh Vân an ủi mọi người:
– Đã đến nơi được thì ổn rồi, ta hãy vào rồi hẵng tính!
Vào doanh trại, nhớ lời sư phụ dặn; Tinh Vân tìm đến xin viên phụ trách :
– Cho tôi gặp Tướng quân Tôn Lập Nhân!
– Ông là gì của Tôn tướng quân? – viên phụ trách hỏi với vẻ cáu kỉnh.
– Tôi và Tôn tướng quân không có quan hệ gì, nhưng sư phụ tôi dặn hãy đến tìm ông ta.
– Ai vô đây cũng tự tiện đòi gặp Tôn tướng quân hết, đợi đó đi!
Tinh Vân và nhóm tăng sĩ đành ở trong trại quân chờ đợi. Lại có một số người chịu không nổi, bỏ đi.
Vài ngày sau có mấy quân nhân đến khuyên tòng quân, họ bảo Tinh Vân:
– Tài hoa như thầy, nếu chịu gia nhập quân ngũ, chưa tới mười năm là đã thăng đến chức tướng rồi!
Tinh Vân đáp:
– Tôi là người xuất gia, thăng tướng mà làm gì??
Trong lòng chàng thầm nghĩ: “Nếu như không rời khỏi đây, sớm muộn gì cũng bị ép vào quân ngũ”… nhưng nhóm bạn đạo đi theo chàng, đã có mấy người ngã bịnh, chàng thấy mình phải có trách nhiệm với họ, bất đắc dĩ đành nấn ná ở lại. Lúc này Đại Lục biến động lớn, đám dân quân đông nghịt từ Đại Lục lại kéo sang Đài Loan nên tình hình rất hỗn loạn; nhưng ngụ lại trại lính, tạm có nơi ăn chốn ở thuận theo ý bạn bè.
Ở được một thời gian thì ngày nọ, có một sĩ quan đến bảo họ:
– Sáng mai tất cả đến trường Hoàng Bộ Quân nhận công tác!
Sao các ông cũng chạy qua Đài Loan?
Tinh Vân xét thấy lúc này nếu không đi thì không ổn; cả đám tăng sĩ lục tục rời khỏi trại lính, ai nấy đều tay không rảnh rang, chỉ riêng Tinh Vân là ôm kè kè tấm bản đồ Đài Loan bên mình, chàng có người bạn đồng học là pháp sư Đại Đồng, hiện làm Trụ trì chùa Bảo Giác ở Đài Trung, nên quyết định đến Đài Trung tìm Đại Đồng rồi tính sau.
Lộ trình đi thiệt là gian nan, phải chuyền mấy bận xe, rồi cuốc bộ thất tha thất thểu, chân nam đá chân chiêu mới đến được chùa Bảo Giác. Khi đó có một tăng sĩ bước ra hỏi họ:
– Các ông đến đây làm gì?
Tinh Vân trả lời:
– Chúng tôi tìm pháp sư Đại Đồng!
Vị tăng ấy bảo:
– Thầy Đại Đồng bị nghi là gián điệp, đang đêm đã bỏ trốn sang Hương Cảng rồi !
Dĩ nhiên Pháp sư Đại Đồng không phải là gián điệp; nhưng trong thời buổi chính trị rối ren; bất kể là mình có làm hay không, chỉ cần bị nghi là gián điệp thì coi như chỉ có nước chết. Vì thế thầy Đại Đồng buộc phải chạy trốn để bảo toàn tính mạng. Tinh Vân buồn nẫu ruột, vậy là lặn lội hằng trăm dặm kể như toi công! Còn đang bối rối chưa biết tính thế nào thì lúc ấy có cư sĩ Lâm Tông Tâm từ trong chùa Bảo Giác bước ra nói với họ:
– Sư Trụ trì hiện thời là một người rất tốt, các vị hãy nán lại chờ người về, chắc sẽ được thu nhận.
Tinh Vân hồi tưởng lại tình huống lúc đó, kể:
“ Cư sĩ Lâm Tông Tâm không những đã tuấn tú mà còn rất tài hoa; ông chơi thân với người Nhật và làm thông dịch viên. Trong thời buổi ấy cũng bị hãm hại, bị vu là Hán gian, vì vậy chính phủ không cho phép ông tới Nhật. Mãi đến năm Dân Quốc 50, tôi kiến nghị với đảng Quốc Dân và đảng Trung Ương; xin giúp cho ông và giải thích rằng: “Chúng ta muốn phát triển mối bang giao với Nhật thì nên cử Lâm Tông Tâm đi, vì ông ta không những thạo tiếng Nhật mà còn là một nhân tài tiêu biểu; người Nhật rất nể trọng ông”.
Sau đó, chính quyền mới miễn cưỡng phái ông ta đi một lần, về nước không bao lâu thì ông mất.”
Cá tính một đời Tinh Vân là: “Trích thủy chi ân, dũng tuyền chi báo” (nhận ân như giọt nước; báo đáp như suối nguồn) với Lâm cư sĩ là một trường hợp. Vì thuở xưa ông ta đã từng biểu hiện chút hảo ý nên dù trải qua hơn mười năm, hễ có được cơ hội thì Tinh Vân liền báo đáp ngay cho ông gấp bội.
“Đợi đến sư Trụ trì về, ý chừng ông ta khủng hoảng về chuyện sư Đại Đồng bị vu làm gián điệp, sợ vạ lây nên chẳng dám thu nhận một người nào trong đoàn Tinh Vân. Ông nói với Tinh Vân :
– Chi bằng các ông hãy tới Lăng Vân Thiền Tự ở núi Quan Âm tìm gặp pháp sư Từ Hàng, hiện ông ấy đang mở Phật học viện nên rất cần giáo thọ, các ông đến tìm ông ta thử xem!
Do họ không thông thuộc đường xá, có một thầy sốt sắng tình nguyện dẫn họ đi Quan Âm sơn. Ai dè mới đến Đài Bắc thì trời đổ mưa to, mưa xối xả như trút nước; làm cho giao thông Quan Âm sơn bị đứt đoạn.
“Nhân duyên là thế đấy, Quan Âm sơn đến giờ tôi cũng chưa đi tới. Hồi ấy tôi mới hai mươi ba tuổi, trong lòng nghĩ đơn giản, cho rằng chỉ cần có được cái am cái cốc để ở tu là tốt rồi; chưa lường được khúc mắc ra làm sao. Đi núi Quan Âm không thành thì vị sư dẫn đường bảo:
– Hay là các ông đi đến Thập Phổ Tự? May ra được đấy, vì sư Trụ trì chùa này là người ngoại tỉnh!
Tinh Vân lại xông lướt mưa gió đi đến Thập Phổ Tự ở Nam Xương. Pháp sư Đạo Dung bước ra đầu tiên, vừa nhìn thấy bọn họ đã bực bội nói:
– Hừm! Các ông sao cũng chạy qua Đài Loan?
Lúc đó có một thầy vui vẻ đáp lời ông ta:
– Ông có thể qua đến đây, thì vì sao chúng tôi không đi được chứ?
Sau đó, Trụ trì Bạch Thánh bước ra, không chịu thu nhận bọn họ, kể cả nghỉ tạm một đêm cũng không cho.
Tìm vớt tay nải trong dòng nước xiết
Vị thầy dẫn đường tiễn Tinh Vân tới Đài Bắc rồi bảo:
– Giờ chỉ còn nước đi đến chùa Thiện Đạo thôi, chùa Thiện Đạo có pháp sư Đại Tỉnh.
“Vừa nghe qua, tôi mừng rỡ nói ngay: -“Được đấy!” (Vì thấy pháp sư Đại Tỉnh là một văn nhân; thường viết bài phát biểu trên báo, ý tưởng phong phú và rất có kiến thức). Cả nhóm khởi hành từ Nam Xương đi đến Trung Hiếu Đông; trên đường trời mưa xối xả, nước ngập tới đầu gối. Lúc rẽ vào ngõ rừng rậm, bất ngờ tôi bị rơi xuống cái ao sâu hút, do vì nước dâng quá cao nên không nhìn thấy được gì, tôi liều mạng bơi qua đến bờ. Leo lên bờ rồi mới phát hiện ra cái tay nải của mình đã mất. Tôi kêu lên: – “Cái tay nải tôi rớt mất rồi! không thấy tay nải ở đâu nữa!” Các bạn đồng hành đều bảo: – “Cần nhất là giữ được cái mạng mộc của mình đây nầy, tay nải mất thì bỏ phứt cho rồi!” Bọn họ đâu biết là trong tay nải có mười nén bạc sư phụ cho tôi, tiền đó cũng giúp bảo mệnh được mà, làm sao có thể bỏ phứt đi?”
Tinh Vân lập tức quay lại, nhảy vào trong ao, cố mò tìm cái tay nải bị dòng nước cuốn; một phần là trong tay nải có mười nén bạc nên trôi tương đối chậm; một phần là nhờ từ bé Tinh Vân đã thạo bơi nên cuối cùng cũng mò vớt được tay nải đem lên.
“Hồi nhỏ tôi ở Dương Châu, gần nhà có một con sông nước chảy rất xiết; tôi thường hay bơi từ bờ bên này qua bờ bên kia; ngay từ bé tôi đã bơi rất giỏi nên mò vớt được tay nải thì đương nhiên là cảm thấy vui và yên tâm rồi. Song lúc này toàn thân đều ướt nhăn nhúm, cơ bắp rã rời; sức lực hầu như cạn kiệt, vừa đói vừa lạnh; nếu nói là khốn đốn thì đúng là khốn đốn cực kỳ.
Đến chùa Thiện Đạo, chúng tôi vẫn bị từ chối như trước nhưng trời đã tối rồi, đành chịu cảnh toàn thân ướt dầm, náu tạm qua đêm bên cạnh đại hồng chung, trong khi bên ngoài tiết trời giá buốt, lạnh cắt da.
Qua ngày hôm sau, chúng tôi đáp xe lửa từ Đài Bắc để tới chùa Linh Tuyền trên núi Nguyệt Mi ở Bát Đổ, hi vọng có thể nương nhờ pháp sư Thiện Hội. Trước lúc khởi hành, thấy mình đi chân không thật khó coi nên tôi mua một đôi guốc gỗ xỏ vào, nào dè lúc lên hỏa xa chen vất vả nên tới hồi xuống xe tôi cứ để nguyên chân không mà bước, quên béng đôi guốc; tới hồi nhớ lại thì xe đã chạy mất tiêu. Lần này không may như cái tay nải, đôi guốc mới mua bị mất tuốt luốt.”
Tính tiết kiệm mực thước của Đại sư, là thói quen do Phật học viện huân thành. Những năm gần đây, ai cũng biết các vật dụng tùy thân của Đại sư, nếu chưa đến tình trạng tận cùng thì người nhất định không vứt bỏ. Có vị đệ tử thấy y phục giày dép Đại sư sờn cũ quá, xin người hãy đổi thứ mới; người trả lời: – Tiết kiệm là bổn phận của kẻ xuất gia!
“Đi chân không đến chùa Linh Tuyền quả chẳng dễ dàng, đến nơi thì đã hơn một giờ trưa. Pháp sư từ trong chùa bước ra hỏi:
– Đã ăn cơm trưa chưa ?
Vừa nghe hỏi câu ấy, cả đoàn đều mủi lòng, đều cảm kích hết chỗ nói. Cơm trưa tất nhiên là chưa ăn, cơm sáng cũng chưa ăn, chiều hôm qua cũng chưa ăn nốt; tính ra trưa và sáng hôm qua ai nấy đều không có gì bỏ bụng, đồng ôm cái bụng lép kẹp đói meo. Nhưng dọc đường từ Đài Trung đến đây, nào có được ai quan tâm tới? Giờ bỗng được nghe có người hỏi: -“Ăn cơm chưa?” – thì niềm xúc động ấy thật khó mà diễn tả bằng lời.
Pháp sư tuy hỏi thế song chẳng có biểu hiện gì là sẽ cho ăn, ông bảo:
– Ta hỏi vậy thôi, nhưng e chẳng còn gì để mời các ông cả!
Rồi ông quay vào chùa, chúng tôi nghe bên trong có người nói:
– Bản thân chúng ta còn không đủ ăn, có gì để mà cho họ chứ?
Không có gì ăn, chúng tôi cùng hùn tiền gởi pháp sư nhờ người mua ít gạo về nấu ăn. Chờ mua đồ về, nấu nướng xong xuôi thì đã ba tiếng đồng hồ. Ăn được bữa cơm đầu, cảm giác ấy thật không sao diễn tả, tưởng tượng được! Nhân khẩu đông nên phần ăn chia cho mỗi người chỉ có một chén. Trong đời, có lúc ước được một bữa ăn no đủ kể cũng khó.”
Do trải qua kinh nghiệm này nên Tinh Vân phát nguyện: sau này nếu như mình có chùa, bất kể khách đến nhiều ít, bất kể họ nghèo giàu, bất kể thân phận địa vị ra sao; bất luận họ đến nhằm thời gian nào, đều có quyền được dùng bữa, đều được đãi ngộ đàng hoàng. Nhất định Sư sẽ quan tâm, chăm sóc, tiếp đón họ chu đáo. Điều này về sau cũng thành tông phong của Phật Quang Sơn.
Văn chương đã vượt biển sang Đài trước tôi
Xem ra Linh Tuyền Tự không thể ở lâu được. Chúng tôi bàn nhau, nghe nói pháp sư Từ Hàng đang ở chùa Viên Quang. Muốn đi Viên Quang thì phải đến Trung Lịch; ở đó có Phật học viện Đài Loan, pháp sư Từ Hàng hiện là viện trưởng, biết đâu chừng có thể dung thân? Thế là từ Bát Đổ cả nhóm lên xe lửa đi Trung Lịch; từ Trung Lịch cuốc bộ hơn mười mấy cây số đường đất đỏ, mới tới được chùa Viên Quang.
Vừa tiến vào chùa thì gặp một vị tỳ kheo ni, trông rất thanh tú, hiền hậu; cô chắp tay, nhã nhặn chào: – “Vô Lượng Thọ Phật!”
“Lúc đó tôi cảm động hết sức, vị tỳ kheo ni ấy nhìn trang nghiêm giống hệt Đức Quan Âm. Cả đoàn chúng tôi ăn mặc rách rưới tả tơi, nếm trải nhiều khốn đốn nhục nhằn; dọc đường tìm người để hỏi thăm, chẳng ai thèm đếm xỉa tới. Trên đường nếu không bị tiếp đón ghẻ lạnh thì cũng bị hất hủi đuổi xua, cô ni này sao mà tốt quá đỗi? Còn hướng về chúng tôi thi lễ nữa chứ! Tỳ kheo ni ở Đài Loan đều tốt như thế cả ư? Tiếp đến, lại gặp một tỳ kheo ni nữa, vừa thấy tôi cô nói ngay:- “Thầy là pháp sư Tinh Vân đây mà! Văn chương của thầy tôi đều đã đọc qua, các tác phẩm của thầy Phật học viện chúng tôi có đủ cả đấy! Nào! Nào! Để tôi mời Hòa thượng ra gặp thầy!” Tôi được ưu ái đến bất ngờ: – “ Mời lão Hòa thượng đến gặp mặt tôi ư ?” – Tôi nào dám thế! Song tôi nghĩ: -Đúng là văn chương có sức mạnh thật, nó đã vượt biển sang Đài trước tôi.”
Đợi một lát, vị tỳ kkheo ni dẫn lão pháp sư ra, chính là Hòa thượng Diệu Quả. Thật lạ, ngay phút đầu diện kiến, hai người đều nhìn nhau như thể đã quen lâu, Hòa thượng Diệu Quả nói tiếng Đài Loan, Tinh Vân vừa nghe đã hiểu. Hòa thượng bảo Sư:
– Ông đừng đi nữa, hãy ở lại đây nhé!
Tinh Vân cảm động không thôi, bèn ở lại chùa Viên Quang. Số là Hòa thượng mời Sư làm Giáo thọ Phật học viện; song Tinh Vân cho rằng mình chưa đủ khả năng nên từ chối. Thế nhưng lúc đó tra xét hộ khẩu rất gắt, bắt buộc phải trình báo, Tinh Vân đề nghị với Hòa thượng:
– Thế thì Ngài ghi con là tăng sinh của Phật học viện vậy!
Thoạt tiên Hòa thượng không chịu, nói:
– Phật học viện năm tới mãn khóa rồi, là tăng sinh thì phải học ngay từ đầu!
Tinh Vân thưa :
-Trước đấy Ngài bảo con làm Giáo thọ, giờ con xin làm học tăng, vậy không đủ tư cách sao ?
Hòa thượng đành phải dùng danh nghĩa học tăng đăng ký hộ khẩu giúp cho Tinh Vân.
Để cảm tạ Hòa thượng thu nhận mình; suốt thời gian ở Viên Quang, Tinh Vân đem hết tâm ý phụng sự Hòa thượng. Lúc đó Hòa thượng đang làm Vụ trưởng Hội Phật Giáo cho cả ba huyện: Miêu Lật, Đào Viên, Tân Trúc. Tất cả công văn Tinh Vân đều duyệt giúp Ngài. Mặc dù Sư không nhận làm Giáo thọ Phật học viện, nhưng mọi việc tạp sư đều cáng đáng hết, bao luôn đi chợ nấu ăn. Hằng ngày, từ khuya Sư đã dậy sớm lội bộ ra chợ mua thức ăn, về tới chùa là lo chuẩn bị thức dùng cho mọi người. Nếu thấy ai đối với Hòa thượng có chút bất kính không hay, Sư sẵn sàng liều mình để bảo vệ Ngài.
Ở Viên Quang được ba tháng, một ngày nọ cảnh sát tìm đến bắt hết các tu sĩ đi.
“Không phải chỉ có chúng tôi, mà tất cả tu sĩ ở Đài Loan đều bị bắt. Nguyên do là Đài Loan có bốn cục trưởng cảnh sát làm gián điệp, mà ngoài chợ đang xảy ra chuyện dán biểu ngữ; các đơn vị tình báo lại phao vu là do bọn “Hòa thượng chính trị” dán. Vì vậy những tu sĩ thuộc thành phần trí thức đều bị bắt đi; kể cả những vị đức cao vọng trọng như pháp sư Từ Hàng, Luật Hàng. Pháp sư Luật Hàng là Trung tướng xuất gia, mà lại xuất gia ở Đài Loan, nên hễ có chút nghi vấn là không xong, vẫn bị bắt đi.
Hóa độ viên cai ngục
Tinh Vân và nhóm tu sĩ có nguyên quán ngoại tỉnh bị nhốt vào một nhà kho to đùng; tay chân đều bị trói chặt, nếm đủ màn tra khảo, khủng bố, ngay cả nằm nghỉ cũng không được; thậm chí còn phải chứng kiến cảnh người bên cạnh mình bị đánh đập, bị lôi đi xử bắn. Sáng nay họ đánh, giết vài người, ngày mai đánh, giết vài người…
Mặc dù cảnh lao ngục đáng sợ như thế, Tinh Vân vẫn điềm nhiên đối mặt với sinh tử. Tuy vậy cũng có điều ấm lòng, vì viên cai ngục vốn có cảm tình với người xuất gia, rất thích tìm hiểu Phật pháp. Hằng ngày ông đến học hỏi Phật pháp với nhóm Tinh Vân và thường bảo họ rằng:
– Quí thầy sẽ nhanh chóng được thả ra thôi, khi quí thầy được thả rồi, tôi sẽ đến xin xuất gia!
Ai cũng cho là ông ta có lòng tốt, nói thế để an ủi họ; nào dè khi họ được thả, thì viên cảnh sát ấy cũng theo xuất gia luôn, pháp hiệu là Quảng Nguyên.
Họ bị nhốt trong ngục hai mươi ba ngày; nhờ có bà Trương Dương Thanh, Phu nhân của Tướng quân Tôn Lập Nhân và cư sĩ Ngô Hồng Lân, cùng những người khác lo chạy chọt bảo lãnh nên các thầy mới được cứu ra khỏi ngục. Riêng pháp sư Từ Hàng thì không được may như thế, bị nhốt ngót năm tháng ròng; về sau Ngài viên tịch ở Điện Di Lặc, nhục thân vẫn không hoại.
Sau khi thả các tu sĩ ra, cục cảnh sát vẫn phái người theo dõi ngày đêm; vì có người vu khống Tinh Vân là ban ngày nghe đài giặc, tối đến thì thay thường phục lén ra ngoài phân phát truyền đơn phản động; Sư cũng chẳng lấy đó làm điều. Một năm sau, các phe đảng đen tối không đánh mà tự tan, viên mật thám được Tinh Vân cảm hóa, xin qui y làm đồ đệ.
Ra ngục rồi, sư vẫn trụ ở Viên Quang; Hòa thượng Diệu Quả bảo sư giúp Ngài viết bài “Hồi Cố Tiền Chiêm” cho Đặc san Mãn khóa Phật học viện.
“Lúc ấy tôi còn quá trẻ, mà phải suy diễn theo khẩu khí của Hòa thượng để sáng tác. Bài viết xong, Hòa thượng không yên tâm; thấy tôi tuổi nhỏ nên Ngài sợ tôi viết “lão” không quen; bèn lấy bài đưa cho pháp sư Viên Minh là chủ bút xem và hỏi:
– Thầy đoán xem người viết tác phẩm này cỡ bao nhiêu tuổi?
Viên Minh đọc xong, rất khâm phục, bình:
– Xét về tư tưởng và văn tài thì đây hẳn là một lão Hòa thượng tu hành cao niên; ít gì cũng phải trên sáu mươi!
Ông ta còn nghi là pháp sư Đông Sơ viết. Việc này khích lệ tôi rất nhiều, tôi thấy rằng mình đã có thể đi vào đường hoằng pháp bằng văn chương.
Tiếp đến, Tinh Vân được phái đến chùa Pháp Vân tại Miêu Lật để trông coi sơn lâm. Ba tháng ở trên núi Sư lo trù tính việc hoằng pháp cho tương lai, Sư hình dung lại bộ mặt Phật giáo qua những gì đã chứng kiến ở Đài Loan, lên kế hoạch sẽ tiến hành như thế nào, kiểu mẫu sống được phác họa và dần dần hình thành trong sư.
Trong thời gian ở sơn lâm, sư đã viết cho Đài Loan cuốn sách đầu tiên: “Vô Thanh tức đích ca xướng” (Lời ca vô thanh).
Sau đó không lâu, pháp sư Đại Tỉnh chùa Thiện Đạo mở Phật học viện ở Linh An Tự, cạnh hồ Thanh thảo; Ông cho mời Tinh Vân đến làm chủ nhiệm trông coi việc giảng dạy, năm ấy Tinh Vân vừa tròn hai mươi lăm tuổi.
Suốt hai năm đảm nhiệm chức chủ nhiệm giáo dục, có nhiều học sinh gây ấn tượng sâu sắc như thầy Trí Đạo; Thánh Định, Huệ Định, còn thầy Tình Hư chùa Linh Tuyền Cơ Long hiện giờ là chủ bút tạp chí “Hải Triều Âm”. Riêng thầy Tu Hòa, Trụ trì chùa Khai Sơn Đài Đông, sau này bị xử tù chung thân rồi chết trong ngục. Thầy ấy có một đệ tử tên Ngô Thái An, mắc bịnh thần kinh; ngày đêm sống với ảo tưởng lật đổ chính phủ, mơ làm cách mạng.. Chú ta viết rất nhiều thư gởi cho thầy Tu Hòa và nhiều người khác; nội dung toàn lệnh cho họ lật đổ chính quyền đương thời; ta bị bắt nhốt oan cũng do cớ sự này. Thầy Tu Hòa là một thanh niên ưu tú mà bị bắt giam rồi chết trong ngục như thế thật oan uổng và đáng tiếc! Còn thầy Thánh Ấn ở Đài Trung, lúc đó mới mười bảy tuổi, khi thầy đến ghi danh thì Phật học viện đã khai giảng rồi, trường không thu nhận thầy. Tôi thấy thầy ấy là một nhân tài nên can thiệp: – “Nếu như không thu nhận học sinh này, thì tôi không dạy nữa!” Trường mới miễn cưỡng nhận.”
Hồi tưởng lại thuở đầu dạy tăng sinh ở Phật học viện Đài Loan; sắc mặt Tinh Vân lộ vẻ hoan hỉ. Những tăng sinh này rất nhiều người có niên kỷ xấp xỉ Sư; có số còn lớn hơn Sư cả chục tuổi. Tình cảm thầy trò rất mật thiết. Nhưng Sư cũng lấy làm lạ là, nhiều tăng sinh lúc còn đang học thì có biểu hiện tình cảm rất nồng hậu, thậm chí việc việc đều bắt chước, tỏ vẻ rất sùng bái Sư, nhưng sau khi tốt nghiệp rồi lại không chịu nhận là học trò của Sư.
“Mới đầu, tôi cho là luân lý thầy trò Đài Loan lợt lạt, không giống ở Tiều Sơn: “Nhất nhật vi sư, chung thân vi phụ” (một ngày làm thầy, trọn kiếp như cha). Dần dần, tôi hiểu ra, còn nhiều lý do khác nữa. Một là, có những tăng sinh tính tình kiêu ngạo tự cho là hơn tôi, bản thân họ cũng là thầy; một khi phải hạ thấp để nhận là trò của người thì họ sợ bị “giảm giá”, bởi họ có tư tưởng và quan niệm không được chín chắn về đạo thầy trò. Hai là, do yếu tố nguồn gốc ngoại tỉnh của tôi! – Các tăng sinh này đa số đều là người bản xứ, còn tôi là giáo thọ ngoại tỉnh – Do “lậm” nặng ảnh hưởng kỳ thị nên họ khó mở miệng nhận mình là học trò người ngoại hương. Đây là điều đáng tiếc vô cùng! Phật giáo là một tôn giáo bao dung khoáng đạt, chủ trương mọi người đều bình đẳng, không hề phân biệt, kỳ thị một chúng sinh nào. Phật Thích Ca Mâu Ni vốn là người Ấn Độ, còn chư vị tổ sư bất kể là tông phái nào, há chẳng phải đều là người ngoại hương cả sao? Phật A Di Đà còn là người ngoại hành tinh nữa kia!”
Vì muốn đả phá tư tưởng kỳ thị hạn hẹp, muốn mọi người cùng đoàn kết lại với nhau; Tinh Vân thấy rằng mình cần phải đi sâu vào quần chúng để hiểu rõ xã hội Đài Loan; hầu có thể đem Phật pháp truyền bá rộng rãi ở vùng đất này. Sư hi vọng có thể sửa đổi được cảnh tượng tăng tục lộn xộn và chấn chỉnh lại các hiện tượng bát nháo như: tu sĩ cưới vợ, ăn mặn; không coi trọng kinh điển, giới luật. Do tất cả đã nhiễm sâu, ảnh hưởng nặng nền phong hóa Phật giáo Nhật Bản. Đây không phải chỉ riêng mình ra sức hoằng dương chánh pháp là đủ, mà còn phải gấp rút lo đào tạo nhân tài cho vùng đất này, được vậy thì hạt giống chánh pháp mới có thể gieo rắc khắp nơi nơi.
Tinh Vân đến đây là phúc của Đài Loan
Vào năm Dân Quốc 39 thời cuộc rất hỗn loạn, Tinh Vân cũng bị cơn lốc thời đại cuốn hút đưa đẩy, ngẫu nhiên mà trôi dạt đến phương Nam Thượng Hải, hòn đảo mà Sư chưa một lần tưởng tượng đến. Trong giây phút Sư từ bến Thượng Hải đặt chân xuống thuyền, giống hệt như cảnh Hòa thượng Giám Chân thời Đường vượt biển sang Nhật Bản. Những ảnh hưởng về mặt văn hóa, tư tưởng, nghệ thuật.. mà Hòa thượng Giám Chân lưu lại cho nước Nhật thật là to tát, sâu rộng; còn tồn tại mãi đến sau này. Người Nhật thường nói: “Có được Đại sư đến nước này là phúc của Nhật Bổn” Chúng ta cũng có thể nói: “Có được Tinh Vân đến nước này là phúc của Đài Loan”. Những hỗn loạn rối rắm xảy ra trong các thời đại là điều khó tránh; bất kể là quốc gia nào, thảy đều bị dòng xoáy thời cuộc cuốn hút, đẩy đưa. Song, dòng nước lũ và cơn lốc xoáy đi qua cũng góp phần tạo nên kỳ tích, đem lại những đổi thay khoáng hoạt, có ích cho khí phách và văn hóa.
Bình tâm nhìn lại, nếu như năm Dân Quốc 39 không xảy ra một trận trời nghiêng đất lở, đưa những người ngoại hương tài ba lỗi lạc đến đất Đài, nếu không có họ cùng xả thân góp sức, đồng cam cộng khổ với đồng bào bản xứ ngót mấy mươi năm; thì nền văn hóa và kinh tế của Đài Loan không thể trong một sớm một chiều mà có thể thay hình lột xác được như hiện giờ. Đại sư Tinh Vân suốt năm mươi năm nay, ngày đêm lo phục vụ chúng sinh không ngừng nghỉ; luôn miệt mài với lý tưởng: “Phật giáo hóa nhân sinh”, lo xây chùa chiền, dựng trường học, lập viện cứu tế.. sáng lập báo “ Vô Ô Nhiễm” và mở cả kênh truyền hình “Vô Ô Nhiễm” v.v.. không những Sư đem chánh pháp quảng bá rộng rãi nơi vùng đất này mà còn hòa nhập hẳn vào dân tộc Đài Loan, giúp cho nền văn hóa Đài Loan phát sáng, tâm linh thăng hoa.. việc này được chứng minh qua những cống hiến khó mờ phai của Sư. Vì thế, chuyến vượt biển của Tinh Vân đáng được ghi vào “Những Chuyến Lữ Hành Tôn Giáo Vĩ Đại” trong lịch sử; từng hỗ tương nhau chói rạng, đúng lúc và kịp thời: Đạt Ma vượt biển, Giám Chân sang Đông, Huyền Trang tây tiến, Huệ Năng về Nam..
Nhớ lại xưa kia, xem sách sư phụ viết, khi đọc đến câu: “Dục vi Phật môn long tượng, tiên tố chúng sinh mã ngưu” (muốn làm bậc long tượng trong Phật pháp, trước phải làm trâu ngựa cho chúng sinh) hoặc: “Trích thủy chi ân, dũng tuyền chi báo”. Tôi cảm động đến rơi lệ. Nghĩ phận mình sinh vào thế kỷ 20 nơi ốc đảo xa xôi; dù không được phúc duyên thân cận Đạt Ma, Giám Chân; Huyền Trang hay Huệ Năng …song tôi luôn nhìn thấy hình ảnh các Ngài ấy qua nhân dáng mẫu mực của sư phụ. Tôi nhận ra rằng: được thân cận Ngài quả là diễm phúc nhất đời! Có nghĩ như thế thì mới thấy hết được sự may mắn đem lại từ trận ba đào xa xưa, lần vượt biển ấy, và chiếc thuyền vô tình chở pháp qua, đem nhà tôn giáo vĩ đại năm mươi năm mới xuất hiện một lần, tặng cho Đài Loan!
Có thể thấy là nhân duyên của sư phụ với Đài Loan rất đặc biệt, không thể nghĩ lường. Nếu nói về “duyên”, thì sư phụ với Đài Loan “nghĩa sâu tình nặng” còn hơn hẳn cố hương của Ngài!
“Năm Dân Quốc 41 tôi đến Nghi Lan, năm này là năm 90 rồi. Chà! Từ ấy đến nay ngót nghét đã tròn năm mươi năm chẵn!”