SAO TRỜI MÊNH MÔNG
Nguyên tác: Hán văn: “Hạo Hãn Tinh Vân”
của Lâm Thanh Huyền
Hạnh Đoan lược dịch

 

CHƯƠNG 5: CẢNH KHỔ

Tôi đến Đạo tràng Đài Bắc bái kiến Đại sư, xin Ngài kể về những khổ cảnh, những dèm chê hủy báng đã gặp phải. Đại sư nói:

 “Đối với dư luận, khi bị người lăng mạ, hủy báng, mình nên thản nhiên tự tại. Không phải chỉ thản nhiên, tự tại là đủ; mà cần phải học hỏi, rút tỉa những điều hay từ những miệt thị đó để tự trang nghiêm, tăng phúc huệ cho mình.

Đại sư trích dẫn mấy câu thơ trong “Thành Thật Luận”:

Ác khẩu mạ nhục tiểu nhân
Bất kham như thạch vũ điểu
Ác khẩu mạ nhục đại nhân
Bất động như hoa vũ tượng.

(Tiểu nhân mà bị nhục mạ
Đau như chim bị trúng đá!
Đại nhân bị người nhục mạ,
An như voi được tung hoa!)

(Voi được tung hoa, chỉ càng tăng thêm vẻ trang nghiêm thôi)

Sư lại đọc tiếp bài kệ của Ngài Di Lặc:

Có ai mắng chửi lão
Lão sẽ nói là: – Hảo!
Có ai đến đánh lão
Lão sẽ tự té nhào
Bị người nhổ lên mặt,
Để mặc nước miếng khô.
Mình vừa được tỉnh táo
Người cũng ít phiền não!

Bị nhổ lên mặt mà thản nhiên để nước miếng tự khô thì đúng là sức nhẫn thuộc hạng tối thượng thừa, phong cách đó tự tại siêu đẳng biết ngần nào!

Muốn trở thành vĩ nhân đương nhiên là phải rèn sức nhẫn cực mạnh, khéo nhịn nhục giỏi, chịu được lời dèm chê hủy báng. Phải hiểu là: “Dự chi sở chí, báng diệc tùy chi.” (Chỗ nào lời khen xuất hiện thì lời chê cũng mò tới. Ở đâu có khen thì ở đó có chê! ) 

Lời mạ nhục hủy báng có thể đánh quỵ người hèn yếu bất tài, song không đánh đổ được người có chí khí, có hoài bão. Thử nhìn các bậc thánh hiền xem! Có ai mà không thành tựu từ dèm chê hủy nhục đâu?”

Đại sư đang phân tích giảng giải thì Từ Dung mở cửa bước vào thưa:

– Thỉnh thầy qua xem thử ạ!

Tượng sáp này đâu liên quan gì với ta

Số là có một điêu khắc gia phát tâm tạo tượng Đại sư, tượng đã làm xong, muốn thỉnh Sư đến xem thử để còn chỉnh sửa lại, Ngài rủ chúng tôi qua xem luôn thể.

Tượng Đại sư đúng là tạc khéo như thật! Hầu như chẳng có chút sai sót nào. Sư ngắm nghía, dáng bức tượng cười mỉm so với Ngài, trông giống hệt như đứa con nhỏ.

Đại sư đứng cạnh tượng cho nhà điêu khắc làm việc, ông ta lay hoay chụp hình, lấy số đo để chỉnh sửa lại các chi tiết.

Sư hỏi chúng tôi thấy tượng như thế nào? Huynh Chí Trung nhận xét:

– Diện mạo thì rất giống, nhưng trông tượng có vẻ cứng, không sống động và không toát ra được nét nhân từ dịu dàng vốn có của sư phụ.

Tôi bình:

– Giống thì có giống, nhưng thiếu vẻ trí tuệ linh hoạt.

Đại sư mỉm cười phán:

– Tượng sáp này và ta đâu có liên quan gì!

Chúng tôi đều bật cười to.

Sư phụ nhân đó khai thị:

 – Cũng giống như chuyện bức tượng đây, những lời dèm chê không phải người ta nhắm vào các con, mà là nhằm vào một  “tượng sáp” khác hẳn với mình!

Thấy tượng sáp được đặt yên nơi yên chỗ rồi, Đại sư kể cho chúng tôi nghe một điển tích xưa trong kinh “A Hàm”, và “Đại Đường Tây Vực ký” về duyên cớ tạo tượng Phật lần đầu:

 “Mùa an cư năm nọ chẳng thấy Đức Phật ở trong tăng đoàn, tăng chúng đều thắc mắc, không hiểu Ngài đã đi đâu? Hỏi tôn giả A Nan, Ngài cũng không rành, thế là mọi người nhờ tôn giả A Na Luật, người có thiên nhãn đệ nhất quan sát xem Phật hiện ở đâu? A Na Luật sau một hồi nhập định dò tìm, báo tin Phật hiện ở cõi trời Đao-Lợi và đang thuyết pháp cho mẫu thân là Ma-Gia phu nhân nghe.

Vì sao Phật không thông báo lại lẳng lặng bỏ đi lên cõi trời Đao lợi thuyết pháp cho Ma-Gia phu nhân? Có ba lý do: – Một là, Ngài muốn báo đáp thâm ân sinh thành của thánh mẫu. Hai là, ở nhân gian có một số chúng vì được Phật ở bên cạnh luôn nên ỷ y xem thường, không ưa nghe pháp. Ba là, trong tăng đoàn hay cãi cọ rầy rà, nên Phật tạm rời chúng một thời gian cho họ “tỉnh” ra.

Nghe tin Phật lên cõi trời Đao-Lợi rồi, mọi người đều thương nhớ, ngóng trông. Nhất là vua Ưu Điền nước Bạt-Tha. Từ khi ông được vương phi cảm hóa phát tâm qui y theo Phật rồi, ông hết lòng hết dạ kính tin Ngài, phát tâm đại bố thí, cúng dường rộng lớn; ông đối với Phật bằng tấm lòng thành không gì có thể sánh. Nhiều ngày xa cách không được gặp Phật, ông thương tưởng nhớ mong, đến nỗi lâm bịnh.

Thấy vua Ưu Điền bịnh, các quan trong triều râm ran bàn cách chữa trị cho ông. Họ hiến kế là nên mời một nhà danh họa tài ba vẽ tượng Đức Phật để vua chiêm ngưỡng cho đỡ nhớ. Vua nghe xong rất đẹp dạ, bèn nhờ tôn giả Mục-Kiền-Liên nổi danh thần thông đệ nhất, dùng phép mầu đưa ông thợ lên cõi trời để ông ta chiêm ngưỡng tôn nhan Phật rồi tạc tượng Ngài bằng gỗ thơm. Mục-kiền-liên phải đưa nhà điêu khắc đi về như vậy ngót ba bận, thánh tượng mới được làm xong. Vua Ưu Điền nhờ đó hết bịnh, vui mừng khôn kể.

Phật thuyết pháp ở cõi trời đâu chừng ba tháng thì Ngài về lại nhân gian. Thánh tượng chiên đàn được dựng lên để nghinh đón Phật. Phật mỉm cười nói với thánh tượng như an ủi:

 – Ông giáo hóa chắc hẳn vất vả lắm? Chúng sinh đời mạt thế thực sự cần nương tựa vào sự hướng dẫn của ông đấy!

Gọi “cảnh giới” hay “nghiệp chướng” tùy mình

Đại sư kiến thức uyên bác, nghe nhiều hiểu sâu, Ngài kể chuyện lôi cuốn khiến chúng tôi há hốc mồm nghe. Sư phụ kể Thiền sư Triệu Châu được đệ tử sùng bái, họa một bức hình Ngài khéo đến giống y như thật, rồi đưa cho Ngài xem. Triệu Châu nói:

– Nếu bức họa này là ta thì đem ta giết đi! Còn nếu nó không phải là ta thì đốt quách nó đi!

Đệ tử Ngài đành phải thiêu hủy bức họa.

Sư phụ lại kể chuyện Trưởng giả Cấp-cô-độc một hôm đến gặp Phật, thỉnh cầu Ngài cho phép ông đúc thánh tượng Ngài cho thỏa lòng tôn kính, để mọi người không cảm thấy trống vắng vì lúc nào cũng được thân cận với từ dung của Ngài.

Đức Phật từ bi nghe ông nói thế liền  bảo:

– Ông vì Phật pháp mà thỉnh cầu ta như vậy! Rất hay! Ta đồng ý!

Trưởng  giả được thể, mè nheo thêm:

– Dạ, xin phép Thế Tôn cho chúng con được trang trí tràng phan bảo cái, đặt hoa thơm cạnh tượng để cúng dường…

Phật đáp:

– Như Lai cho các ông tùy ý! 

Đại sư nói:

– Tôi không ưa chụp ảnh chụp bóng, họa hình tạc tượng… gì, song nghĩ những thứ ấy chỉ là vật biểu tượng. Mỗi lần có người ngỏ ý xin được chụp hình, tạc tượng.. tôi đều để họ tùy ý. Bởi vì nếu như  có thể làm cho người ta hoan hỉ vui vẻ thì sao lại không làm? Theo cách nhìn của tôi thì một mảnh vải, nếu may làm màn thì có thể treo trên đầu, may thành giày thì mang dưới chân. Vải vẫn là vải!

 Vải vốn không quí tiện, chỉ tùy theo cách nhìn của con người thôi, dù có in hình sư phụ hay in hình thành Liên Hoàn, cũng đều là vải như nhau! Cái thấy và cảm giác không đồng ấy, là “tùy tâm sở hiện”. Đại sư luôn tùy duyên, tùy hỉ, không muốn để đồ chúng thất vọng  buồn lòng. Ngài nhìn sự vật ở khía cạnh rất thoáng và bao dung. Như khi nhìn tượng sáp của chính mình, Ngài chẳng quan tâm đến việc giống hay không giống, mà chỉ quan tâm xem chúng sinh có hoan hỉ hay không? Phật pháp có được lưu hành rộng rãi không?

Chúng tôi xoay lại với đề mục “khổ cảnh”, nằn nì Đại sư kể cho nghe về những “cầu đoạn trường” mà Ngài đã đi qua. Đại sư nói:

– Những cảnh khổ tôi đã gặp có nhiều vô số, khó kể, khó lường! Nói theo Phật giáo thì cảnh khổ được gọi là Nghiệp Chướng, song ta cũng có thể gọi là: “Cảnh Giới”. Vì nếu ta không vượt qua khổ cảnh thì đó là “Nghiệp Chướng”, còn như vượt qua được, thì từ khổ cảnh này ta có thể rút tỉa được những bài học hay, giúp trí tuệ tăng trưởng thêm, nên gọi  là “Cảnh Giới”.

Đại sư nói cảnh khổ của Ngài không sao kể hết, lường hết.. Song có thể nhìn vào những khổ nạn mà Đức Phật đã trải qua để lý giải. Đức Thế Tôn là bậc tu chứng viên mãn có nhân cách cao tột sáng chói, mà còn chẳng thoát khỏi các khổ cảnh ở nhân gian, thì nói gì đến hạng phàm phu chúng ta??

Cả đời Phật thường bị chúng ngoại đạo và Đề-Bà-Đạt-Đa đố kỵ, thù ghét; luôn tìm cách vu khống, hãm hại. Sinh mạng của Ngài thường xuyên bị đe dọa. Không những thế, còn có thêm ma vương Ba tuần ngày đêm rình rập, hết mê hoặc thì lại tìm cách phá hoại, khiêu chiến; tăng đoàn luôn bị các thế lực thù địch quấy rối, tìm dịp hủy hoại. Lúc tại thế Phật còn phải chứng kiến cảnh dòng họ Thích-ca bị diệt vong…toàn là những đau khổ “đậm đặc” hơn thường nhân. Cho nên đối với khổ nạn, Đại sư luôn nhìn bằng con mắt bình thản và sẵn sàng đón nhận với một tâm thái vững vàng.

Thể theo chân lý nghịch tăng thượng duyên

Lúc đi đường Phật từng bị ám hại hai lần: một lần Ngài bị Khư-Đà-La dùng tên độc bắn bị thương nơi chân núi Kha-Địa-La, một lần bị Đề-Bà-Đạt-Đa lăn đá làm chảy máu chân dưới núi Kỳ-Xà-Quật. Phật có hai lần bịnh: Một lần bị kiết lị nhờ danh y Kỳ-Bà chữa trị lành bịnh; lần khác Ngài đau lưng, phải sai tôn giả A-Nan vào làng khất thực sữa bò, rồi bảo Ca Diếp tụng Thất Bồ đề phần và lành bịnh. Phật còn có hai lần khất thực gặp cảnh khốn đốn: Một lần khi an cư ở thôn Ba-La, gặp năm thất mùa đói kém, Ngài phải ăn lúa ngựa ngót ba tháng ròng; lần khác ra ngoài khất thực không gặp ai cúng, đành ôm bát trống trở về, chịu nhịn đói qua đêm. Phật còn bị bọn ngoại đạo lăm le mưu hại rất nhiều. Bọn ngoại đạo mua chuộc một cô gái trẻ tên Chiến-Già, xúi cô thừa lúc Phật đang giảng kinh, tự mình độn bụng giả mang thai rồi xông vào pháp đường lu loa bêu rếu Phật là tác giả, nhằm phá hoại danh dự Ngài. Giữa giảng đường trang nghiêm, khi mọi người đang chăm chú nghe Phật thuyết giảng thì Chiến-Già thình lình đứng dậy chỉ vào Ngài hét ầm lên:

-Thích-Ca! Chàng chỉ giỏi nói nhân nói nghĩa, chỉ biết phun toàn lời đạo đức giả để dối gạt người, còn cái bụng em sắp đến ngày sinh nở chàng liệu tính thế nào đây? Hử!?

Các đệ tử nhẹ dạ vừa nghe cô ả hê lên như thế đã hoảng kinh xanh mặt. Nhưng Phật thần sắc chẳng động, vẫn bình thản thuyết pháp. Chiến-già thấy thế liền nhảy đong đỏng hét toáng lên, cố  tình gây lớn chuyện hòng phá hoại Đạo tràng thanh tịnh, Ngay lúc ả đang nhảy loi choi, cái bụng độn sút giây rớt xuống, mưu kế ác bị bại lộ, Chiến-Già xấu hổ ù té chạy mất.

Ngoại đạo vẫn không nản lòng, họ xúi dục nàng Tôn-Đà-Lợi thường xuyên ra vào Đạo tràng cố làm ra vẻ như đang dan díu thầm lén với các tu sĩ. Sau đó chúng giết chết nàng để giá họa cho tăng đoàn. Nhưng Đức Phật đại trí đã khiến hung thủ phải sa lưới, rửa sạch mối oan.

Đức Phật từng gặp biết bao khổ nạn, cuối đời, Ngài lặng lẽ tiễn phụ vương, di mẫu nhập niết bàn, nhìn Xá-Lợi-Phất ra đi trước, chứng kiến Mục-Kiền-Liên vong thân tả tơi và cảnh dòng họ Thích bị hủy diệt thảm thương.. tất cả những việc ấy đã khiến Phật ưu cảm đầy lòng. Phật là bậc giác ngộ viên mãn, có lòng yêu thương cõi đời tràn trề. Đối mặt với những chuyện sống chết vô thường xảy ra trong cõi đời, lòng Ngài đâu phải vô tình như gỗ đá hay khô cạn hết cảm tính? Song, vì Ngài là một bậc thánh đã chứng ngộ chân lý, Ngài hiểu rõ dòng sinh tử luân hồi không ngừng xoay vần, mọi việc xảy ra đều có nguyên cớ, vì nhân quả đền trả luôn nối tiếp nhau, chỉ có pháp thân là thường hằng bất biến. Mọi công kích hãm hại đối với Phật mà nói, thảy đều nằm trong chân lý nghịch tăng thượng duyên.

Sống ở đời cần phải đối mặt với cảnh khổ

Đại sư từng viết truyện sử Phật Thích-ca nên các khổ nạn của Phật Ngài thuộc nằm lòng và hiểu là chư Phật Bồ-tát đối với khổ nạn không hề có ngoại lệ. “Phật Giáo Nhân Gian” của Ngài cũng dựa theo triết lý này: Sống ở đời phải sẵn sàng đối mặt với cảnh khổ. Bồ-tát cách ấm còn mê, La Hán nhập thai còn mờ tối, thì phàm nhân chúng ta làm sao sáng suốt toàn vẹn để không lỗi lầm? Thế nên, nghiệp quả phải trả là lẽ đương nhiên! Cả đời Đức Thế Tôn từng gặp tai ách không ngừng, từng phải nhận lãnh biết bao hiểm họa, luôn đối mặt với biết bao hãm hại khó hiểu, khó lường.

 – Nhưng e rằng điều này sẽ khiến chúng sinh khởi tâm hiềm nghi, dị nghị…! – Tôi không nhịn được, buột miệng nói.

Đại sư đáp:

 – Vua Ba-Tư-Nặc nước Kosala cũng thắc mắc hệt như thế. Ông đã hỏi Phật:

– Bạch Thế Tôn! Ngài là bậc thánh trí đức trang nghiêm, có nhiều phước báo tới nỗi thân vàng tướng hảo, được xếp vào hàng cao quí vẹn toàn nhất trong trời người. Đối với Ngài, con một lòng tin tưởng không chút hoài nghi. Song, cả đời Ngài chuyên hành đạo, sống chỉ toàn truyền dạy chân lý cho thế nhân, nhưng không hiểu vì cớ nào mà Ngài lại gặp đủ thứ nạn tai như thế?

Phật đáp:

– Đại vương! Pháp thân chư Phật vốn vĩnh hằng, vì độ chúng sinh, mà thị hiện bị các tai nạn. Các hoạn nạn ta đã gặp và các việc như: chân bị thương, đau lưng, uống sữa lành bịnh.. cho đến nhập niết bàn, lưu xá lợi cho hậu thế cúng dường.. đều là những phương tiện thiện xảo nhằm muốn chúng sinh hiểu rõ lý nhân quả, rằng khi nghiệp trổ, báo ứng không hề sai, để họ tin sâu nhân quả, để họ sợ tội mà dõng mãnh đoạn lìa nghiệp ác, nhằm thúc đẩy họ siêng năng hành thiện, lánh dữ làm lành, không còn tham luyến tiếc sắc thân giả tạm vô thường và sớm đạt được pháp thân thường hằng bất biến, vui hưởng an lạc dài lâu.

Vua Ba-Tư-Nặc nghe xong vui mừng hớn hở, ông đã hiểu rõ về phúc báo, trí tuệ của Phật và tấm lòng từ  mênh mông như trời biển của Ngài.

Nhắc đến các nạn khổ của Phật, tôi lại òn ỉ, vòi Đại sư kể về các khổ nạn của Ngài, mong giúp cho những người gặp hoạn nạn tai ương có thêm được những bài học hữu ích.

Đại sư bảo:

– Trước hết, muốn đột phá khổ cảnh, phải nhờ vào trí tuệ và từ tâm của hạnh nguyện Bồ-tát.

Như khi gặp phải những người có khí lượng hẹp hòi, có tính bảo thủ, cố chấp; thích ngăn trở.. Ta phải lấy lòng từ đáp trả, dùng tâm bao dung cảm hóa. Đối với những chuyện không hợp lý, trái đạo; thì phải dùng trí tuệ khai thị, chuyển xoay. Nếu như từ bi, trí tuệ không đủ chuyển thì phải dùng tâm vô úy, tỉnh giác phát đại nguyện. Cảnh khổ giống như đá tảng, nếu nguyện lực chúng ta nhỏ yếu thì sẽ bị nó đè bẹp ngay. Còn nếu nguyện lực chúng ta lớn như sông dài biển rộng thì đá tảng kia cũng bị nhấn chìm, chướng ngại dù lớn đến đâu cũng khó thể ngăn trở được.

Đại sư kể thời trẻ Ngài thường bị bắt giam, lúc nào tính mạng cũng đáng lo. Những lúc ấy trí huệ và bi tâm được Ngài ứng dụng triệt để, nhờ vậy mà tâm cảnh vô úy. Ngài nghĩ bản thân mình không có tội nên chẳng sợ hãi gì, cuối cùng rồi cũng biến nguy thành an. Hằng ngày Đại sư còn giảng giải đạo lý, khiến viên cai ngục xúc động đi tu; chính là nhờ vào tinh thần vô úy, phong cách an nhiên thoát tục của người xuất gia mà Đại sư cảm hóa được viên cai ngục như vậy.

 “Thuở chân ướt chân ráo tới Đài Loan, cả đoàn chúng tôi đi đâu cũng được đãi cái món “đóng cửa”. Luôn bị đối xử ghẻ lạnh, bị hắt hủi, đuổi xua, chẳng ai thèm dòm tới. Thậm chí xin ăn một bữa, ngủ nhờ một đêm cũng không được. Một số bạn đồng tu của tôi đâm ra ngao ngán, cho rằng số kiếp người xuất gia sao mà khổ quá! Ngay cả một bữa cơm cũng chả ai thèm thí cho! Họ đâm ra nản lòng rồi chuyển hướng, kẻ vào quân ngũ, người thì hoàn tục tạo sự nghiệp riêng. Khi đó có một sĩ quan bảo tôi: – “ Xét tư chất tài hoa của thầy, nếu vào quân ngũ, chưa đầy mười năm đã thăng làm tướng rồi!”

Thế nhưng cảnh khổ tuyệt chẳng làm tôi dao động. Tôi thường nghĩ: “Đại sư Huyền trang qua Ấn Độ thỉnh kinh, có lần phải lội qua một sa mạc dài hơn bốn trăm cây số. Giữa cảnh trời nóng đổ lửa, chẳng có lấy một giọt nước thấm môi. Tính mạng lâm nguy như thấy rõ trước mắt. Nhưng lúc ấy lòng Đại sư chẳng chút lui sụt, còn dũng mãnh phát đại nguyện: “Thà đến Tây Thiên mà chết, còn hơn lui về Đông Độ mà sống.”

Nhờ vào nguyện lực kiên cố ấy mà Ngài vượt qua hết các cửa ải khó khăn.

Tôi cũng học theo gương Ngài Huyền Trang, chẳng ngại gian khổ, chẳng màng lợi dưỡng. Cứ thế mà trôi giạt mãi cho đến khi được Hoà thượng Diệu Quả thu nhận cho ngụ lại chùa Viên Quang Trung Lịch, thì tháng ngày lưu lạc gian nan mới chấm dứt.”

Dùng trí tuệ chuyển hóa cảnh khổ

Đại sư hồi tưởng lại thuở đầu đến Đài Loan. Lúc đó tình hình chính trị hết sức rối ren, căng thẳng tới mức gió thổi hạc kêu cũng khiến người ta giật mình hoảng hốt, bầu không khí nghi ngờ phủ khắp, làm gì cũng dễ bị cho là giặc. Hắc đảng đi đầy đường. Khi Đại sư bị vu là gián điệp, rằng: “ngày mặc áo tu, đêm đến lẻn ra ngoài truyền rao phản động..” Ngài đã nghĩ thầm:- “Người trong tự trong, người đục tự đục!” Mọi việc rồi sẽ được sáng tỏ.. Nên chẳng thèm quan tâm tới. Có viên mật thám theo dõi sư phụ tò tò, lâu dần, đâm ra cảm phục tinh thần vì đạo của Ngài, xoay qua xin qui y làm đồ đệ.

Mới đầu, sư phụ hoằng pháp gian nan lắm. Hồi đó không được tự do ngôn luận và tự do tụ họp gì.

 “Có lần tôi đang thuyết giảng, thì có viên cảnh sát tiến đến gần khán đài dõng dạc ra lịnh:

– Thầy xuống đây! Xuống đây! Lẹ lên!

Tôi đành đi xuống hỏi ông ta:

– Có chuyện gì ư?

Ông ta nói:

– Thầy phải lập tức tuyên bố giải tán ngay!

Tôi đáp:

 – Việc này tôi không làm được! Vì những người này đến nghe kinh do chính tôi mời họ tới. Bây giờ bắt tôi tuyên bố giải tán, tôi thật khó mà mở miệng được! Nếu muốn, thì ông tự tuyên bố đi!

Viên cảnh sát nọ sợ đụng chạm rồi chọc giận  đám đông nên cũng không dám tuyên bố. Thế là tôi lại tiếp tục giảng. Đây gọi là dùng trí tuệ chuyển hóa khổ cảnh vậy!

Không những Đại sư khéo dùng trí tuệ xoay chuyển cảnh khổ của mình mà còn gỡ rối giúp cho người trong những hoàn cảnh tương tự.

 “Trần Tú Bình là nhân viên công ty Thuỷ Điện Nhật Nguyệt, do bị cảnh sát khám xét thấy  trong mình ông có tờ danh sách mang tên những người tình nghi gián điệp nên từ đó ông bị gán cho cái tội tay sai của bọn gián điệp!

Lúc ông mới đến Nghi Lan, bất kể là đi đâu đều bị cảnh sát địa phương giám sát nghiêm nhặt; làm gì cũng không được tự do, kể cả đến Nghi Lan dự lễ niệm Phật cũng bị can thiệp, nếu may mắn được phép tham dự khóa lễ, cũng bị cảnh sát theo dõi gắt gao.

Lúc đó chính phủ Quốc Dân mới chuyển sang Đài không lâu nên thời cuộc rất bất ổn, làm gì cũng dễ bị nghi. Bản thân tôi tuy chẳng được bảo đảm gì, nhưng mình là thầy, thấy cảnh đệ tử bị khổ nạn như thế trong lòng rất bất nhẫn, thế là tôi thu hết can đảm, mạnh dạn đến gặp viên cảnh sát trưởng, xin phép ông ta:

– Thưa ông, cho tôi dẫn Trần Tú  Bình ra ngoài hoằng pháp..

 Viên cảnh sát trưởng thất kinh nói:

– Ối trời ơi! Đâu có được! Ông ta đang bị nghi là gián điệp, làm sao… làm sao mà … có thể tự do như thế chứ!?

– Dạ đúng! Gián điệp là rất xấu, vì làm rối rắm và phá hoại nền an ninh của quốc gia, quả tình luật pháp khó thể dung. Bây giờ tôi định dẫn  Tú Bình ra ngoài hoằng pháp là cốt ý muốn biến đổi ông ta thành người tốt, tập cho ông ta làm những việc có ích cho xã hội quốc gia. Để ông ta làm việc tốt giúp mọi người chả lẽ cũng không được ư? Rốt cuộc thì phải làm sao mới nên?? Nếu không khuyến khích ông ta làm việc tốt, vậy là cứ để mặc ông ấy làm xấu hay sao?

– Ừm!.. Chà!.. Thôi được!..Nhưng mà thầy phải bảo đảm và chịu trách  nhiệm hoàn toàn đấy nhé!

– Vâng! Tất  nhiên là vậy!

Tôi cam kết gánh hết trách nhiệm. Mỗi khi ra ngoài đều dẫn Tú Bình đi theo. Như thế được mấy năm. Đến khi thành lập trường Thương Nghiệp Trí  Quang, tôi đề  bạt ông ta làm Hiệu phó.

Trong khoảng thời gian từ niên đại 50 đến 60, việc hoằng pháp gặp rất nhiều khốn đốn. Ngoài yếu tố chính trị ra còn có thêm các yếu tố xã hội, vì thời  đó chùa chiền và tu sĩ không được xem trọng, là đối tượng thường  xuyên bị áp  bức.

Chùa Thọ Sơn ở Cao Hùng mới vừa xây xong, chưa kịp khánh thành thì đã nhận được công văn của “Bộ Tư Lịnh An Ninh Cao Hùng” gởi tới, bảo là chùa xây cất vượt qui định cho phép và ra lịnh buộc chúng tôi phải tháo dỡ tầng thứ Năm.

Thật vô lý làm sao! Lúc xây thì chẳng ai nói năng gì, giờ xây xong rồi lại truyền lịnh bắt tháo dỡ! Tôi đi thẳng tới Bộ Tư Lịnh tìm gặp ban phụ trách kiến nghị:

 – Xin cho biết vị nào đã ra quyết định phải tháo dỡ chùa Thọ Sơn và sẽ nhận chịu trách nhiệm về việc này?!

Ngay khi đó có một Thượng tá bước ra, vẻ rất ngạo mạn, ông ta hất hàm nói:

 – Là tôi đây! Chính tôi ra lịnh phải tháo dỡ chùa đấy!

Tôi thưa:

– Làm thế e không được! Ông truyền lịnh làm việc này, nếu tuân hành e sẽ kinh động đến tín đồ Phật giáo, hậu quả thế nào, tôi cũng không dám bảo đảm. Cách đây không lâu bên nước Việt Nam, vì tổng thống Ngô Đình Diệm ban lịnh cấm treo cờ Phật giáo mà sau đó ông ta bị lật đổ.. giờ lịnh của ông ban ra, tất nhiên là sẽ được đồn đi, lan truyền khắp nơi, gây ra ảnh hưởng nghiêm trọng, sẽ dẫn tới kết cục không hay và còn làm đầu đề cho các ký giả trong và ngoài nước bàn tán vin vào cớ đó để đưa tin, bọn họ sẽ xúm nhau cho đăng hàng tít lớn trên báo như thế này: “Hãy xem Trung Hoa Dân Quốc cũng phá chùa, hủy Phật!..” Chừng đó, ai sẽ chịu trách nhiệm về những tai tiếng này?!

Viên Thượng tá nghe nói thế thất kinh, hỏi dồn:

 – Vậy…giờ phải làm sao?.. Làm sao đây??

Tôi nói:

 – Ông ra tiếp một công văn, bảo chẳng cần tháo dỡ gì nữa thì ổn thôi.

Ông ta nghe xong, cảm ơn rối rít và tiễn tôi đến tận cổng.

– Đây gọi là dùng trí huệ chuyển hóa, khiến chùa miếu được bảo tồn, còn tránh cho viên sĩ quan kia khỏi tạo nghiệp ác. Con xem, có phải là tốt đẹp đôi đàng không?”

Chùa Thọ Sơn khánh thành xong rồi, do vì con đường từ công viên dẫn vào chùa có những bậc tam cấp khiến xe chẳng cách chi chạy vào tới cổng chùa được. Đại sư bèn kêu thợ sửa các bậc thang thành con đường dốc để tín chúng tiện ra vào.

Vài ngày sau, viên cảnh sát khu vực nháo nhào chạy tới ra lịnh:

– Ai cho sửa các bậc thang thành con đường lài này thì phải phá hủy ngay, phải hồi phục nguyên trạng cũ lập tức!

Đại sư nghe đồ chúng báo tin, tức tốc đến gặp viên cảnh sát, bảo ông ta:

– Nghe nói là vài ngày nữa đây bà Mỹ Linh, phu nhân của Tưởng Tổng Thống sẽ lên núi họp Hội Phụ Nữ, nếu khi xe bà đến đây không thể chạy vào đến nơi mà bắt buộc phải lội bộ từ chân núi đi lên..Lỡ như bà nghe mách lại rằng: “Vài ngày trước đây xe cộ vẫn lên xuống thuận tiện dễ dàng, tới phiên bà thì mới gặp trở ngại như vậy…” Nếu bà tức giận quở trách, ai sẽ đứng ra lãnh chịu trách nhiệm này?

Vừa nghe tới tên “Tưởng Phu Nhân”, gương mặt viên cảnh sát từ cao ngạo chuyển sang xanh lét, không còn dám ho he gì thêm. Sau đó chẳng thấy anh ta mò tới la lối nữa.

Đại sư nói:

– Người ta sợ chính trị thì phải dùng trí lấy chính trị cảm hóa thôi.

Càng bị đàn áp chí  khí càng mạnh

“Thế nhưng những cảnh khổ của công cuộc hoằng pháp không bắt nguồn từ áp lực bên ngoài, mà phát xuất từ  trong giới Phật giáo. Do chính nội bộ Phật giáo tranh chấp, bài xích, hủy báng nhau mà ra.

Phật giáo Đài Loan vào buổi đầu chẳng được đoàn kết mà rời rạc, tan tác như lá mùa thu! Trước đó, tôi từng nghe pháp sư Đại Tỉnh diễn giảng phát biểu:

– Phật giáo trong nước mình đây, chỉ cần có được mười người chịu đoàn kết, chịu hợp tác lại với nhau  là có triển vọng lắm rồi!

Khi ấy tôi nghĩ thầm: “ Pháp sư có lầm không chứ? Làm gì mà không kiếm được mười người chịu đoàn  kết với nhau??”

Sau này tôi mới hiểu ra, mới biết được là đoàn kết chỉ có khi không liên quan đến quyền lợi, nhưng một khi dính dáng tới quyền hạn, hơn, thua.. thì đoàn kết rất là khó!

Ví dụ như bây giờ đề xướng: “Chúng ta hãy đoàn kết lại với nhau!” Ai nấy đều sẽ tán thành, đồng ý: – “Ồ, được! Tốt  thôi!”

Thế là có hơn trăm vị chịu đi ra hoằng pháp ở ngoài đảo. Ai nấy đều nhất trí đồng lòng đoàn kết, chịu cùng đi thuyết giảng. Nhưng mà… trước tiên phải bầu trưởng đoàn, giờ chọn ai làm trưởng đoàn đây? Mọi người bàn bạc, chọn lựa.. Khi trưởng đoàn được bầu lên thì có ít nhất mười người không đồng ý:“Hừ, tôi nói rồi, nếu bầu ông ấy làm trưởng đoàn thì đừng hòng chúng tôi tham gia!” Vậy là có mười người rút lui không đi. Bây giờ tới chuyện đi đường. Hiện thời trong bổn viện có hai xe: một chiếc xịn, một chiếc xoàng. Thế là: “… cùng ra đảo bố giáo mà sao bọn họ được ngồi xe lớn êm ái, còn chúng ta thì bị nhét vào cái xe nhỏ hẹp, chật chội này? Rõ là xem thường bọn ta quá! – Vậy thì không đi nữa, ở nhà!” – lại bỏ cuộc thêm mười người.

Đến Đài Đông, không có chỗ thuyết giảng, giảng đài chưa có thì làm sao?? “Này, mấy ông kia! Lo mà khiêng bàn xếp ghế, sắp đặt loa phát thanh đi! Chúng tôi đang bận phải lo cho phần thuyết giảng đây này!” – “Uả, vì sao chỉ có bọn ta phải làm thôi? Cũng đồng thời học vị ngang nhau, thế mà họ rẻ rúng xem khinh coi bọn ta như là cấp dưới vậy! Bộ bọn ta đến đây để làm nô tài, khiêng bàn khiêng ghế hay sao chứ? Chúng ta cũng là giảng sư vậy! –  Dẹp! Không làm gì hết, không bố giáo bố giác gì nữa..!” – Vậy là giảm thêm mười người. Cứ thế mà giảm mãi, giảm mãi.. cuối cùng, tới được Đài Bắc thì nhóm “đoàn kết”, nhóm“đồng chí” ấy đã tan rã.

Đại sư đưa ra ví dụ và kể chuyện thật dí dỏm làm chúng tôi không nhịn được, bật cười ha hả. Song ngẫm lại, vì so đo mà mất đoàn kết thì thật là đáng buồn. Tất cả là tại lòng tham sân nặng, do cái tính đố kỵ không ưa thấy người khác tài giỏi hơn mình mà ra! Thế nhưng chứng bịnh này lại bắt rễ ăn sâu từ trong đoàn thể Phật giáo, nên mới phát sinh ra cái chuyện bài xích, hủy báng nhau.

“Phật giáo không phục hưng được, thảy đều do cái tật “đố kỵ nhân tài” mà ra! Ví như quí vị giảng kinh hay, thì kể như là nhân tài rồi. Song, trong giới Phật giáo sẽ có người nói:

– Hay ho gì mấy cái chuyện đó!? Chỉ cần hả họng ra nói thì có khó gì mà làm không được? Toàn là ba hoa triết lý suông thôi, giỏi nói chứ đâu giỏi hành! Nói mà không tu thì chả ích lợi chi!

Nghe phê bình vậy quí vị sẽ nghĩ: “Đúng thiệt! Mình chỉ nói suông chứ chưa hành. Được rồi, thế thì thực hành vậy!” Thế là quí vị bế quan, cấm túc tu rục. Tức thời sẽ có người chọt ngay: – “Cái lão ấy bế  quan, ăn ngọ.. nói là nhập thất tu, chứ phỏng được tích sự gì? Xem đấy, lão có làm nên được trò trống chi? Nói thiệt, nếu như giao chùa cho lão quản, bảo đảm là cái chùa ấy sẽ sinh chuyện rối rắm, chỉ tổ hư sự thêm thôi!

– “Hả? Tôi không làm nên việc gì ư? Được! Tôi sẽ học cách và làm cho mà xem!”

Giảng cũng giảng được, tu cũng đã tu, làm cũng đã làm.. như vậy thì quí vị cũng đáng mặt nhân tài lắm rồi, nhưng trong Phật giáo sẽ không công nhận như thế, sẽ có người bình liền:

– Cái lão ấy tối ngày chỉ biết khoe mẽ về chuyện tu hành nhỏ nhặt, chứ ngoại ngữ thì dốt đặc! Lỡ mà gặp khách nước ngoài tới viếng chùa thì lúng ta lúng túng, á khẩu liền cho coi! Chỉ có câm họng chứ biết gì mà nói? Tiếng Anh tiếng Nhật không rành thì làm được cái quái gì? Phật giáo bây giờ người ta cần nhân tài Quốc tế kia!

Thoạt nghe qua, thấy cũng có lý! Thế là quí vị vội đi học ngoại ngữ để sau này có gặp khách nước ngoài thì cũng biết cách ứng đối, hoằng đạo. Nhưng người trong Phật giáo lại dè bĩu:

– Ối dào! Cái lão ấy không an phận thủ thường, tối ngày chỉ lo phan duyên, cứ long nhong rong ruổi bên ngoài! Gặp khách ngoại quốc tới thì xum xoe, xí xô xí xào, bộ dạng giống như bị mắc phong, hệt như là bị tâm thần vậy! Rõ là cái thứ người mất gốc, chẳng có lập trường chính khí gì, chỉ biết chạy theo xu phụ bọn ngoại bang, cứ làm ra vẻ như ta đây là tài là giỏi lắm! Vậy là hỏng! Hỏng rồi!

Những lời miệt thị ấy cho dù không đúng đắn, thậm chí rất sai lạc nữa. Song đáng tiếc là nó phát xuất từ những người trong nội bộ Phật giáo. Những người có tính thích kích bác chỉ trích, sống lẫn lộn trong đạo. Những vị này có thể không biết ngoại ngữ, không giỏi giảng thuyết, không làm việc tài, cũng chẳng thực tu thực nghiệm gì, nhưng diểm đặc biệt là họ chẳng bao giờ muốn thấy người khác giỏi, giận là sao người chẳng vô tài vô năng như mình! Họ không có tinh thần cấp tiến, chỉ muốn “dìm nhau vào chỗ chết”. Họ có thể là Đổng Sự Trưởng trong đạo, hoặc giữ chức Trụ Trì, bản thân họ không cầu tiến và cũng không muốn thấy người khác tiến, thậm chí còn muốn ngăn trở đà tiến bước của người!

Đại sư nói nghe thật thống thiết, Ngài thổ lộ:

 – Suốt một đời tôi dốc hết tâm huyết sức lực để đầu tư cho công cuộc phát triển đạo pháp. Nhưng trớ trêu thay, lực ngăn trở, phá hoại lớn nhất lại phát xuất từ trong Phật giáo! Điều này thật đáng buồn! Thế nhưng càng bị đàn áp thì chí khí trong tôi càng bùng phát mạnh  mẽ. Bây giờ nhìn lại thì những ngăn trở khó khăn của họ chính là nghịch hạnh tốt giúp tôi tăng trưởng thượng duyên.

Đại sư nhớ lại buổi đầu khởi sự xây dựng Phật học viện Đông Phương ở Phật Quang Sơn, đúng ra đây là việc rất tốt lành. Song Hội Phật giáo trong nước lại vì đó mà nhóm họp nghiêm trọng. Họ mở đại hội cốt chỉ để xoay quanh một chủ đề: “Làm sao tiêu diệt Phật học viện Đông Phương”, và xôn xao bàn tán thảo luận. Tất nhiên là phần đông nhân sĩ trong hội đều cho rằng xây dựng Phật học viện Đông Phương là việc không nên. May mắn thay, khi đó có một vị Đổng sự  tánh tình bộc trực, trọng nghĩa công tâm, phát biểu thẳng thừng:

– Các vị hãy nhìn mà xem! Bên Thiên Chúa, Tin Lành, người ta xây biết bao là trường Đại Học, Thư Viện.. Sao các vị chẳng giỏi đến tiêu diệt đi?! – Còn bên Phật giáo chúng ta mới có được một người đứng ra lập Phật học viện, là chuyện rất đáng khen, các vị chẳng những đã không ủng hộ thì thôi, sao còn muốn tìm cách tiêu diệt ngược ngạo như thế chứ hả?

Nhờ vậy việc này mới được để yên.

Nếu nhận đồng với Tinh Vân thì bị bài xích

Nhắc đến những việc này Đại sư có vẻ buồn và xót xa. Không phải Ngài buồn cho Phật học viện của mình, vì dẫu bị áp bức đến đâu Ngài cũng chịu được. Ngài buồn vì tư tưởng “không muốn thấy người khác tiến, không muốn thấy người khác giỏi”. Ngài chua xót vì cái ý “muốn dìm nhau vào chỗ chết” còn tồn đọng trong tâm tư của những người đệ tử Phật.

Tình huống thời ấy thật khó lý giải, nội cái chuyện nền chùa được lót gạch hoa, cũng bị người trong Giáo hội mạ lỵ:

– Nếu không phải là vũ trường thì lót cái thứ gạch đó làm chi?!

Còn khi thấy nhà cầu được dội bằng dây giật thì họ phê ngay:

– “Thiệt là xa hoa lãng phí hết chỗ nói!”

 Để xây dựng nên một Phật Quang Sơn hiện đại Đại sư phải đương đầu với biết bao lực phá hoại kích bác, ở vào thời buổi chính trị có nhiều rối ren như thế thì những khổ nạn, những khó khăn mà Ngài vấp phải cũng có thể tưởng tượng được.

“Chữ Vân là bạn đồng học với tôi, một hôm lò dò đến Phật Quang Sơn, chẳng phải đến để thăm viếng gì tôi, mà là đến để kiểm tra cho tận mắt. Vì ông nghe đồn phòng ốc tôi rất lộng lẫy, hào nhoáng. Nào là giường cao rộng lớn, sàn lót thảm nhung, đèn đuốc chói loà…v.v.. Nghe kể thiệt quá khó tin, nên ông quyết đi tới tận nơi xem cho rõ thật hư. Sau một hồi “thanh tra” kỹ càng, ông ôm bụng cười và bảo tôi:

– Giờ thì tôi rõ rồi, té ra những người tung tin đồn này cũng chưa từng tới Phật Quang Sơn bao giờ!”

Thuở ấy, những người nắm quyền trong giới Phật giáo thường là “tự lập, tự hưởng.”

Có nghĩa là hệ thống bầu cử Giáo hội rất không dân chủ, thậm chí còn gian lận. Vì trước ngày bầu cử một tháng, danh sách ban Chức sự đều đã được chỉ định sẵn cả. Thí như toàn quốc có 35 tỉnh (Đại Lục thì coi như không tính rồi) Mỗi tỉnh họ cử ra hai đại biểu lôi kéo người bỏ phiếu. Thời kỳ đầu guồng máy Ban Quản trị cũng giống y như Quốc Hội Vạn Niên, không một tu sĩ bổn tỉnh nào được bầu lên, người nắm chức vị có toàn quyền sinh sát, coi sóc hết mọi việc từ lớn chí nhỏ. Ngay cả quét sân, nấu cơm.. cũng phải qua Ban Chức sự chỉ định. Nếu Ban lãnh đạo chỉ nhắm vào mục tiêu thâu tóm quyền lực, lo củng cố uy danh, thì làm sao có thể giúp Phật giáo phát triển tốt được? Điều này thật đáng xót xa cho đạo  pháp biết bao nhiêu.

Đại sư vốn ưa dân chủ, không tán đồng quyền uy, Ngài không thích tính bảo thủ cố chấp và rất có tinh thần cấp tiến. Giáo hội Phật Giáo trong nước thời đó  nắm toàn quyền sinh sát nhưng lại hết sức bảo thủ, họ xem Ngài như cái gai trong mắt cần phải nhổ bỏ, nên bất cứ hoạt động nào của Ngài, bất kể đúng sai, họ đều cực lực bài xích; tìm cách ngăn trở, thậm chí muốn tiêu diệt.

 Hồi tưởng lại chuyện cũ, Đại sư kể:

 “Về phương diện đàn áp, gây chướng ngại khó khăn thì phải nói là Giáo hội đứng đầu. Lão pháp sư Bạch Thánh giữ chức Trưởng Ban Trị Sự “Giáo hội Phật Giáo Vạn Niên”, suốt bốn mươi năm nắm quyền, rất độc đoán độc tài. Người nào dám nêu chút ý kiến, kiến nghị gì  trước Hội trưởng thì bị trục xuất ngay. Thêm vào đó, nếu ai phản đối Tinh Vân thì sẽ được vào ban Trị Sự, còn nhận đồng với Tinh Vân thì bị đào thải lập tức.

Có một lần tôi giảng kinh tại Nhà Kỷ Niệm Quốc Văn, có một thầy nọ giữ chức trong ban “Thường vụ Hội Đồng Quản Trị” cảm kích quá nên đã tán thán tôi bằng mấy câu thơ. Ngay sau đó ông ta bị cách chức liền, ông phải hướng về Giáo hội hành lễ sám hối và tuyên bố rằng: “Sau này tôi chẳng bao giờ khen ngợi Tinh Vân nữa”! Ông mới được phục chức trở lại.

Còn các pháp sư Hội Tinh, Tường Vân, dám công khai thốt mấy lời ca tụng tôi, nên bị Ban Quản Trị đào thải. vĩnh viễn không được tuyển dụng.”

Tôi mỉm cười thưa:

– Bạch Sư phụ, thế thì những người hiện ngồi nơi đây chắc chẳng ai có cơ may được vào “Ban Chức sự của Giáo hội”, vì ai cũng quí Thầy hết cả!

Đại sư bật cười, Ngài bảo:

 – Được vào Ban Quản Trị hay không chẳng quan trọng, nhưng ác hại nhất là cái hành động phá hoại, cản trở đào tạo nhân tài, chặn đường phát triển của Phật giáo. Giáo hội còn vận động khiến chính phủ ra quyết định như sau: “Tăng lữ nào muốn xuất ngoại, phải thông qua Giáo hội, được Giáo hội cho phép rồi thì mới được nộp đơn cho chính quyền”.

Vì muốn đào tạo tăng tài, lo cho các đồ đệ xuất ngoại du học nên tôi gởi hồ sơ của các đệ tử Từ Huệ, Từ Dung, Từ Trang, Y Không… lên bộ xin phép.

 Chuyện này xét ra thật đáng buồn. Như đồ đệ Y Không xin đi Nhật du học, hồ sơ bị Giáo hội câu lưu cả năm, sau đó mới làm được. Lúc Y Không đang học ở Nhật thì được tin thân phụ tạ thế, phải về thọ tang. Sau đó muốn xuất ngoại học tiếp thì Giáo hội lại ngăn trở, không cho phép. Thật may, vừa lúc đó chính phủ ban lệnh cho phép đi du lịch tự do không cần qua phép Giáo hội. Nhờ vậy Y Không mới có cớ để tiếp tục việc học.

Buồn nhất là Giáo hội không lưu tâm đến tiền đồ Phật giáo mà chỉ quan tâm đến quyền hành của mình, họ không muốn các tu sĩ đi du học, thậm chí còn ban lệnh: “ Trừ Giáo hội ra không ai được tự tiện truyền giới cho đệ tử”.

Năm 1966, tôi mở Giới Đàn tại Phật Quang Sơn, Giáo hội không cho phép. Tôi nghĩ, chiếu theo pháp Phật thì Tam Qui Ngũ Giới ngày ngày đều có thể truyền, dù Giáo hội không đồng ý tôi vẫn cứ y theo pháp Phật mà hành. Hiện giờ chùa nào cũng được quyền truyền giới không cần phép Giáo hội. Có thể thấy những áp đặt thuở ấy của Giáo hội quả thật có nhiều bất công và vô lý.

Đối với những áp đặt vô lý, cứ đúng pháp mà thực hành

Không chịu nhượng bộ những bức hiếp vô lý, sư phụ cứ đúng pháp mà thực hành, nhờ vậy Ngài đã vượt qua những rào cản trói buộc trùng trùng, khiến cho những người muốn áp bức Ngài cũng phải kiêng nể đôi ba phần.

Đại sư nói:

– Những năm sau này mỗi lần hội Phật giáo mở hội, khi tôi đứng lên phát biểu thì cả thính phòng im phăng phắc, mọi người đều nín thở lắng nghe, vì không đoán được tôi sẽ nói gì. Nhưng bất kể tôi nói gì, làm gì, những việc làm của tôi hoàn toàn không mưu cầu tư lợi, cứ theo đúng pháp mà thực hành.

Bây giờ, mọi chuyện đã qua, tình thế cũng đã thay đổi. Song ngẫm lại, tôi thấy mình phải mang ơn hội Phật giáo và những người đã áp chế tôi, vì chính nhờ những đàn áp ngăn trở của họ mà tôi mới có được những thành tựu như ngày hôm nay.

Đại sư kể lúc mới tới Đài Loan, Ngài rất lo cho tiền đồ Phật giáo. Muốn Phật giáo phát triển mạnh và được tồn tại lâu bền thì phải giúp giới thanh niên hiểu biết Phật pháp. Mà muốn lôi kéo giới trẻ đến với đạo thì không thể nào áp dụng cách thức như đối với người già. Lúc đó Đại sư  cũng là thanh niên, Ngài nghĩ thầm:”Bây giờ, mình sẽ tổ chức cho tham quan chùa miếu, nới rộng mối giao du, để có cơ hội tiếp xúc với giới thanh niên mà dẫn dắt họ vào đạo.”

Lần đầu tiên tổ chức, không có tiền thuê xe đi tham quan nên tất cả đều phải đi tự túc, sư phụ hẹn gặp đám thanh  niên trước cổng chùa Viên Thông và cùng khởi  hành tại đó.

“Tôi dỡ theo ít bánh, kẹo, trái cây để chiêu đãi họ. Buổi họp mặt rất hào hứng, sinh động. Ai nấy đều tỏ vẻ thích thú, chuyện trò rất vui. Sau đó chúng tôi quay về chùa Thiện Đạo, đang định giải tán thì Trụ trì chùa thiện Đạo thấy tôi đứng với nhóm thanh niên liền kêu tôi tới quở:

 – Tinh Vân! Lần này tôi cảnh cáo thầy! Từ rày về sau tôi cấm tuyệt! Thầy không được dẫn đám thanh niên này tới chùa nữa!

Trong lòng tôi cảm thấy khó hiểu, không cho dẫn thanh niên tới chùa, chẳng lẽ chỉ được dẫn lão niên tới thôi ư? Tinh thần Phật giáo vốn tươi trẻ và rất thích hợp với thanh niên mà? Đức Phật cũng thành đạo từ thời thanh niên và các vị Bồ-tát cũng đâu có ai già lụm cụm? Thế thì Phật giáo vì sao lại không thể tiếp nhận thanh niên chứ?  Tôi đang do dự, chần chừ chưa biết giải quyết thế nào thì thấy cư sĩ Chu Nguyên Đức đang đi ra phía cổng chùa, tôi liền lao nhanh tới chặn ông ta lại, gởi gắm:

– Tiên sinh ơi! Đám thanh niên này nhờ ông dìu dắt họ vào đạo hộ tôi nhé!

Lúc đó Chu cư sĩ đang giữ chức “Giám Đốc Phòng Nhân Sự”, ông sốt sắng nhận lời:

– Ồ được! Thầy yên tâm đi! Để đó tôi lo cho!

Chu cư sĩ đã hết lòng dẫn dắt giúp đỡ các thanh niên, Sau này ông còn lập Quỹ học bổng cấp cho các thanh niên Chuyên Khoa trường Đuốc Tuệ, nhằm khuyến khích giới trẻ tham gia học Phật, khiến Phật Khoa phát triển mạnh mẽ, bùng lên thành một phong trào.

Tôi rất quan tâm và hiểu tầm quan trọng của việc truyền bá giáo lý cho giới trẻ. Vì trong trường học, trại lính, nhà giam… mọi nơi trong xã hội, hầu như tầng lớp trẻ đều chiếm đa số, nhưng muốn cho họ thấm nhuần được Phật pháp ở vào thời buổi đó cũng là gian khổ trùng trùng.

Trịnh Tú Hùng, đệ tử tôi, cũng là em trai của đồ đệ Từ Gia, khi đó đang học Đại học Sư Phạm, mời tôi đến đấy diễn giảng. Ngày giờ giảng đã được dán áp phích thông báo hết cả rồi. Nhưng trước buổi giảng mấy ngày, đảng Trung ương gọi điện đến thông báo là người xuất gia không được diễn giảng tại trường, nên tất cả đều phải hủy bỏ.

Vì thế nên việc vào quân đội thuyết pháp là điều hoàn toàn bất khả thi. Tôi bèn nghĩ cách, cho thành lập “Đoàn Ủy Lạo Biểu Diễn Văn Nghệ phục vụ chiến sĩ”, mong rằng nhờ vậy có thể truyền bá được chút ít Phật pháp.

Dẫu gặp nhiều gian nan khổ cảnh trùng trùng, Đại sư chẳng bao giờ chịu đầu hàng buông xuôi, trái lại còn kiên quyết làm cho đến cùng. Rốt cuộc, về sau này, khi Ngài xuất hiện, thì Trường học, Trại lính, Trường Sĩ Quan Quân Đội, kể cả Nhà giam… đều nhiệt liệt hoan nghinh đón Ngài vào thuyết pháp, ngay tới  viên cai ngục cũng hết lòng mến mộ Ngài.

 “Cuối cùng, trọn cả Đài Loan, không có chỗ nào mà tôi không đặt chân tới, thậm chí chốn quân đoàn bảo thủ nhất tôi vẫn có được một khóa giảng riêng cho họ. Còn các Trường Sĩ Quan chính phủ, Hải, Lục, Không quân gì.. tôi cũng được phép vào giảng tất! Mỗi tuần một buổi! Ngay chốn quân đội Kim Môn ở Kình Thiên tôi cũng được đến giảng rất nhiều lần, giảng xong còn làm Đại lễ qui y cho họ. Giữa khán đài trang nghiêm, nhìn quân nhân Kim Môn mặc quân phục cung kính hành lễ, lòng tôi xúc động không sao kể xiết! Tôi bồi hồi nhớ lại ngày xưa, lần đầu khi giảng tại Nghi Lan Cao Trung, tôi đã bị bộ cảnh sát Phòng vệ điều tra hơn một năm. Không! ngót nghét gần hai năm! Những chuyện gian truân ấy đúng là không thể một ngày mà kể hết được. Song nếu như thuở đầu không bị đàn áp dữ dằn như thế thì tôi đâu có dốc hết tâm huyết ra mà hành sự và chắc rằng cũng chẳng thể đạt được thành quả vi diệu như ngày hôm nay.”

Dù là Tưởng Phu Nhân cũng phải kháng nghị

Việc hoằng pháp trên truyền hình cũng gian nan không kém.

Đại sư thường bảo các đệ tử:

– Chúng ta bình thường mỗi lần giảng kinh, thính giả dù có đông đến mấy thì chỉ độ hai vạn là cùng, song nếu giảng trên truyền hình thì một buổi ít nhất cũng truyền bá được cho hằng trăm vạn người! Vì vậy, dẫu có phải bán hết đồ, mình cũng ráng mở cho được một tiết mục trên ti vi!

Thế là Đại sư đến gặp Lưu Chấn Uỷ giám đốc Đài truyền hình, xin mua một giờ cho Tiết mục Phật giáo. Ai ngờ khi sắp bắt đầu chiếu thì Tiết mục Phật giáo lại bị hủy. Đại sư thân hành tới Đài truyền hình kháng nghị, nhân viên trong đài tỏ vẻ áy náy phân trần:

– Do Tưởng Phu Nhân nói Phật giáo không được phép lên truyền hình, không cho phép trình chiếu, chứ chẳng phải chúng tôi muốn làm khó thầy đâu!

Đại sư bất bình, ấm ức nói:

– Dù là Tưởng Phu Nhân chúng tôi cũng kháng nghị!

Đài truyền hình sợ việc vỡ lỡ gây ầm náo, bèn hứa là mỗi tuần sẽ cho chiếu một tập phim “Sơn Hà Cẩm Tú” giới thiệu về các cảnh chùa Phật giáo bên Đại Lục, trong đó có rất nhiều truyện tích hay của đạo Phật. Họ còn nói là hoàn toàn chiếu miễn phí, xem như là đền bù cho Đại sư .

Nhắc đến chuỵện này, Đại sư không nhịn được cười, bảo:

– Sau này tôi rất mang ơn Tưởng Phu Nhân, vì trước đó nôn làm tiết mục Phật giáo tôi không nghĩ đến nhân lực tiền của. Thật ra khả năng hạn hẹp của tôi khó mà làm được những tiết mục hoành tráng như các tập phim Phật giáo mà Đài truyền hình vừa cho trình chiếu. Tập phim “Cẩm Tú Sơn Hà” được thực hiện không chút sai sót, không những đã hay mà còn chiếu miễn phí nữa! Thiệt là tốt hết chỗ nói! Đúng ra phải cảm ơn Tưởng Phu Nhân thật nhiều, vì nhờ bà ra mặt nên mới có kết quả tốt đẹp như thế!

Đại sư im lặng trầm tư, nghiệm lại các khổ cảnh đã qua. Sau đó các thế lực chính trị đàn áp Phật giáo ập đến, tiết mục Phật giáo trên truyền hình bị bắt buộc ngưng trình chiếu, đành phải chờ dịp khác.

Ít lâu sau, Đài truyền hình Trung Hoa ra đời, sư phụ cũng xin mở tiết mục. Lúc đó lệ phí đóng trên ti vi nửa giờ là mười hai vạn. Vào khoảng ba mươi năm trước thì đây là một số tiền rất lớn. Tiết mục có ba mươi phút, trừ đi chín phút quảng cáo thì coi như chỉ còn có hai mươi mốt phút.

 Đại sư nói:

– Dù đài truyền hình bắt chẹt, đưa ra những diều kiện khắt khe, song vì muốn hoằng dương chánh pháp nên tôi chẳng tiếc gì. Tôi cặm cụi lo soạn tiết mục “Vạn  gia  sinh  Phật” (Nhà nhà sống theo Phật). Nhưng chẳng được phép trình chiếu, bởi vì có chữ “Phật” ở trỏng. Tôi bèn sửa lại là: “Vô tận Đăng”, vẫn không được phép chiếu. Cuối cùng, tôi phải đổi thành “Cam Lộ”, mới được duyệt. Tiết mục dài khoảng hai mươi lăm ngày, được phép chiếu vào mỗi thứ năm trong tuần. Tôi phấn khởi lắm, thông báo cho tín chúng trong đạo, kể cả đăng báo đưa tin.

Ai dè sáng sớm hôm ấy, Đài truyền hình gọi điện cho hay là không trình chiếu được. Thật hỡi ôi! Hôm ấy đối với tôi đúng là dài dằng dặc, chẳng biết làm sao để qua một ngày như thế! Thể diện uy tín gì đều bị đổ đi! Tôi đi kiến nghị khắp nơi, nhờ Cao Lập Uỷ xin phụ cũng không có kết quả. Cuối cùng, tôi tìm tới Tướng quân Tưởng Vĩ Quốc nài nỉ ông giúp đỡ. Ông ta bảo tôi:

– Thầy Tinh Vân này! Làm sao mà Đài truyền hình chịu cho thầy giảng pháp được chứ? Ảnh hưởng của truyền hình cực kỳ rộng lớn, khó mà tưởng tượng hết được! Nếu để thầy vô đó thuyết pháp, người ta xúm nhau theo Phật hết làm sao??

Tôi đáp:

– Tôi chỉ đưa lên một vài quan điểm hiện đại của Phật giáo, giảng về không sát sinh, về ích lợi của ăn chay và khi cúng chỉ nên dùng hoa trái thay vì giết chóc thôi mà..

Sau nhiều phen cất công xin phép, vận động… cuối cùng Đài truyền hình cũng cho phép chiếu. Chiếu được ba tháng thì không hiểu sao lại ngưng ngang. Tôi lại bôn ba chạy tới chạy lui lo cho việc được suôn sẻ.. thì thoắt cái, giờ chiếu tiết mục của tôi được đổi qua 11g khuya. – “Đúng là ép người quá đáng”! – Song tôi có một niềm tin, rằng không nên xem thường ảnh hưởng của truyền hình. Sau biết bao cố gắng nhọc nhằn, không ngừng phấn đấu, cuối cùng cả ba kênh truyền hình tôi đều được mở tiết mục, và được cho chiếu miễn phí hết.

Nghe Đại sư thuật lại những gian nan trong việc truyền đạo, tôi mường tượng cảnh Ngài chạy vạy khắp nơi để vận động thuyết phục và cảnh Ngài điềm tĩnh vào giảng trong quân đội, trại lính, trường học, nhà giam.. bằng tấm chân tình thiết tha sôi nổi, đầy quyết tâm và dũng khí mà ít ai hiểu và biết đến được.

Người hại ta là giúp ta thành tựu

Đại sư nhớ lại việc Hội Phật Giáo ra sức đàn áp mình, lòng thầm tri ân. Vì nếu lúc đó cải cách Phật giáo theo đường lối của Giáo hội thì càng theo càng bế tắc. Bởi, đối với Giáo hội thì “Đạo bất đồng, bất tương vi mưu” (chẳng đồng quan điểm chẳng bàn việc chung), nhờ vậy mà Ngài mới mở ra được một con đường xán lạn, mới mẻ.

Lấy chuyện Hội Nghị Phật giáo Thế Giới làm ví dụ, Trong kỳ Đại Hội tổ chức lần 2, họ có gởi thiệp mời cho Đại sư Chương Gia và sư phụ đến dự. Song công văn vừa đưa đến thì Hội Phật Giáo trong nước liền gạch bỏ tên Tinh Vân. Từ đó, mỗi lần Đại sư được mời làm Đại Biểu tham dự “Đại Hội Thế Giới” thì luôn bị ém nhẹm. Mãi đến khi “Đại Hội Phật Giáo Thế Giới Thứ 14” khai mở, do lúc này danh tiếng sư phụ đã vang dội khắp nơi, Hội Phật Giáo Thế Giới đặc cách mời thỉnh Đại sư làm khách quí.

Mãi đến năm 1988, “Đại Hội Phật giáo Thế Giới thứ 16” khai mở, sư phụ liên hệ với những người ở chùa Tây Lai bên Los Angeles đứng ra tổ chức, chi phí tốn kém hơn ngàn vạn mỹ kim, đây không những là Đại Hội đầu tiên do người Châu Á tổ chức mà còn được xem là một Đại Hội thành công và nổi tiếng nhất.

Kể từ đó Đại sư cùng Hội Phật Giáo Thế Giới kết duyên đạo thâm sâu, qua lời giới thiệu của Ngài, “Đại Hội Phật Giáo 17” được tổ chức ở Hàn Quốc, “Đại Hội thứ 18” tổ chức tại Phật Quang Sơn Đài Loan và “Đại Hội thứ 20” được Đại sư đứng ra tổ chức tại chùa Nam Thiên Úc Châu.

Đại sư liên tục chủ trì ba khóa Đại Hội và liên tiếp được Hội Phật Giáo Thế Giới suy tôn là:”Hội Trưởng Danh Dự Vĩnh Cửu”. Có thể thấy Đại sư được trọng vọng tôn kính đến ngần nào!

Ngày 05 tháng 2 năm 2000, Tổng Lãnh Sự Thái Lan đặc biệt tặng bằng khen danh dự: “Có Công Cống Hiến Vĩ Đại Đối Với Phật Giáo Thế Giới” cho Đại sư , nhiệt liệt tôn vinh Ngài.

Nghe kể mười mấy năm trước, nếu có Đoàn thể Phật giáo nước ngoài nào đến Đài Loan mà ngỏ lời yêu cầu xin tham quan Phật Quang Sơn thì Giáo hội luôn trả lời:

– Các vị đến Phật Quang Sơn làm chi? Phật Quang Sơn nhỏ hẹp lắm, e là tới đó ngay cả trà, nước cũng không đủ cho các vị uống!

Có một lần, “Đại Hội Tăng Già Thế Giới” được tổ chức tại Đài Loan do Hội Phật Giáo trong nước đứng ra chủ trì, và có tổ chức một chuyến tham quan đi thăm các tự viện.

Một hôm hành trình đi qua Cao Hùng, họ không sắp khách đến viếng Phật Quang Sơn, nhưng trong nhóm chợt có người đề nghị:

– Nghe nói Phật Quang Sơn là Đạo tràng lớn nhất ở đây, sao không đến đó tham quan?

Người trong Giáo hội trả lời:

– Không thể đi được, vì Phật Quang Sơn là của Tinh Vân!

Pháp sư Khai Chứng là người hào hiệp, trọng nghĩa, bất bình nói thẳng:

– Vì sao lại không thể đi chứ? Lần tổ chức đại hội vừa rồi Tinh Vân đã tiêu tốn hơn hai trăm vạn, Phật Quang Sơn nổi tiếng là Đạo tràng tối ưu nơi miền Nam này, tại sao lại không đưa chúng tôi đến tham quan?

– Đi thì đi! Nhưng hết thời gian rồi! Tính luôn ăn uống nghỉ ngơi thì chỉ  còn có hai tiếng thôi!

Đại sư được tin, nói: “Hai giờ thì có cách của hai giờ!”

Ngài liền cử một phái đoàn gồm mười sáu người thông thạo ngoại ngữ của từng nước như Anh, Pháp, Mỹ, Nhật, Hàn, Đức, Hà Lan v.v.. đến khách sạn Viên Sơn đón khách, dọc đường nhóm hướng dẫn viên này còn thuyết minh giới thiệu cho khách biết sơ qua các thắng cảnh. Lên đến Phật Quang Sơn, trước tiên đưa khách vào tham quan Đại Hùng Bảo Điện, sau đó mới mở tiệc chiêu đãi mời khách thọ trai. Đại sư dùng nghi thức tối long trọng của Phật giáo để đón tiếp đoàn khách. Ngài quan tâm chăm lo chu đáo khiến đoàn tăng lữ ngoại quốc rất xúc động, ngưỡng mộ. Họ có cảm giác nơi đây thân thiết và gần gũi như là chỗ của mình. Để rồi khi rời Phật Quang Sơn, đến nhiều năm về sau, ấn tượng tốt đẹp về Đại Đạo tràng Phật Quang Sơn và phong cách tuyệt vời của sư phụ vẫn còn in đậm trong tâm trí họ, làm họ lưu luyến khó quên.

Vinh nhục thành bại của mình, chẳng cần quan tâm đến

Cả đời Đại sư chịu nhiều áp bức, nếm trải biết bao khổ nạn gian nan, hầu như Ngài luôn bị gây khó khăn, cản trở không ngừng. Thế nhưng thời gian đã chứng minh rằng, Ngài đã chọn lựa phương hướng đúng.

Những người từng áp bức gây khó cho Ngài, mấy mươi năm sau nhìn lại, chẳng những không lưu lại được chút sự nghiệp cống hiến vẻ vang nào cho Phật giáo, mà ngay cả đạo tràng và đồ chúng của họ ngày càng lụn bại suy yếu, hầu như không thể trụ vững.

Tiếp đến, các tự viện Phật Quang Sơn lần lượt được xây dựng khắp nơi trên đất Mỹ, đạo tràng hưng thịnh. Đúng là nhân duyên riêng của mỗi người chẳng ai có thể ngăn trở hoặc xoay chuyển được.

Đại sư nói: – Có những tăng sĩ đến Mỹ sớm hơn chúng ta, một, hai mươi năm! Giá như lòng họ quảng đại một chút thì biết đâu đã có thể cùng bắt tay nhau để hợp sức trùng hưng và kiến lập Đạo tràng ở Mỹ vào thế kỷ mới này rồi. Tiếc là các vị ấy ưa rao  giảng thần thông mà lòng thiếu bao dung cởi mở. Thích giảng thần thông thì Phật pháp chẳng được trường cửu, bụng dạ hẹp thì Phật pháp khó quảng bá rộng, dễ suy yếu.

Cả đời sư phụ gặp nhiều nạn tai, cảnh khổ; nhưng đối với sự thành bại vinh nhục của mình Ngài chẳng màng, chẳng quan tâm đến.

Năm 1988 pháp sư Chiêu Huệ xin mở Học viện Nghệ Thuật trong nước, cầm đầu tín đồ phản đối việc lập Học Viện Nghệ Thuật “Tư Phàm”*. Nhóm biểu tình đến tận Trung Tâm văn Hóa kháng  nghị, song nhân sĩ trong các giáo giới chẳng ai ủng  hộ. Cuối cùng, nhờ sư phụ ra mặt giúp việc mới được giải quyết tốt đẹp. Vì nếu sau này Đoàn Nghệ Thuật Tư Phàm muốn công diễn những đề tài báng bổ Phật giáo, dù họ có muốn trương bảng lên thì cũng phải nể mặt Phật giáo mà không dám làm càn.

Năm 1994, Đài Bắc mở con đường phía Nam, tượng Quan Âm (kiệt tác của Dương Anh Phong) nơi công viên số 7 bị chính phủ ra quyết định dẹp bỏ. Nhóm nhân sĩ bảo vệ tượng liền phát động cuộc biểu tình: “Quan Âm Không Muốn Đi”. Song, chính phủ Đài Bắc vẫn kiên quyết dẹp tượng. Khi đó, nhóm pháp sư Chiêu Huệ nhất định tuyệt thực phản đối, nguyện cùng tồn vong với tượng. Sư phụ hay tin, lập tức vận động, điều đình với Thị Trưởng Hoàng Bộ Châu. Cuối cùng chính phủ Đài Bắc chịu nhượng bộ, tượng Quan Âm trang nghiêm mỹ lệ nhờ vậy được giữ nguyên.

Năm 1999, Đại sư bị bịnh mới lành, đang điều dưỡng tại Mỹ. Nghe nói trong nước đang vận động thỉnh cầu chính phủ cho cả nước được nghỉ mừng Lễ Phật Đản. Sư phụ vội liên kết với mười mấy vạn tín đồ Phật Quang Sơn, tức tốc về nước hướng dẫn mọi người diễn hành kiến nghị. Cuối cùng Lễ Phật Đản được chấp thuận là ngày nghỉ toàn quốc, Thượng Nghị Viện, Hạ Nghị Viện đều nhất trí thông qua. Chính phủ tuyên bố: “Ngày mồng 8 tháng 4 âm lịch, toàn quốc được nghỉ để ăn mừng Lễ Phật Đản”.

Vào tháng 3 năm 2001 Đại sư thỉnh cầu Phật giáo Nam tông thâu nhận và truyền giới Tỳ kheo ni cho nữ giới.

Tháng 5 năm 2001 Đại sư hỗ trợ đoàn thể tôn giáo chế định lại giới pháp.

Những việc làm của Ngài khiến cho khó tính cỡ pháp sư Chiêu Huệ cũng phải buông lời tán thán: “Hào khí mênh mông chánh nghĩa cao vợi!”

Chân tình và nghĩa khí của Đại sư xuất phát từ tấm lòng thương yêu chúng sinh vô bờ bến, bao giờ Ngài cũng quan tâm, luôn che chở và nâng đỡ cho hàng hậu sinh.

Đúng như Đại sư nói, Ngài đã ứng dụng trí tuệ và lòng từ để vượt qua những khổ cảnh trùng trùng bằng phong thái vô úy và lòng bao dung quảng đại, giống như mấy câu thơ mà Ngài rất thích:

Thiên chùy bách luyện xuất thâm sơn
Liệt hỏa phần thiêu mạc đẳng gian
Phân thân toái cốt toàn bất tích
Lưu đắc thanh bạch tại nhân gian.

(Trăm ngàn mài luyện ngút núi ngàn,
Lửa dữ nấu nung chẳng tạm dừng
Thịt nát xương tan nào đâu tiếc
Giữ tấm lòng trong giữa thế nhân.)

Gặp hoàn cảnh trắc trở Đại sư càng sáng trí vững tâm, gặp khổ nạn Ngài càng kiên gan không nao núng, luôn gắng gượng tiến bước để làm nên sự nghiệp phi thường, có thể nói là người tầm thường yếu kém khó đạt được thành quả như thế. Song, nếu hiểu được tâm nguyện to rộng, hiểu được nhiệt tình dũng khí và sức gánh vác bền bỉ không màng tư lợi của Đại sư, thì ngay cả người bình thường cũng sẽ được khai thị rất sâu.

Trải qua trăm ngàn mài luyện, mới thành tượng Phật được thờ phụng

Trên đường về nhà, tôi đi qua con đường đầy bóng râm. Hồi tưởng lại lúc xem tượng sáp khi nãy, trong trí tôi chợt hiện lên câu chuyện cổ Đại sư đã kể:

“Trong chánh điện có thờ một tượng Phật bằng đồng. Cái chuông nằm trên bệ cũng được đúc bằng đồng.

Một hôm, chuông quay qua cự nự với tượng Phật:

– Này, tượng Phật kia! Ngươi và ta thể chất giống nhau, đều là đồng đúc hết cả. Ấy vạy mà cái đám tín đồ khờ khạo kia chỉ bu vào xum xoe lễ lạy mỗi mình ngươi, có phẩm vật bánh trái gì cũng hùa nhau chất đầy trước mũi ngươi. Tại sao thế? Tại sao họ chỉ lễ lạy cung kính có mình ngươi thôi?

Tượng Phật nghe hỏi, trầm ngâm giây lâu rồi mỉm cười bảo:

– Chuông đồng này, ngươi không hiểu lý lẽ, để ta giải thích cho mà nghe!

“Năm đó hai ta được lấy lên từ trong quặng, đều là dạng đồng khối như nhau. Nhưng khi nhà Điêu khắc khởi sự tạo hình, ta bị mài giũa trui rèn đau chí chết, ta bị nấu nung, bị đục đẽo đủ trò! Chẳng hạn như con mắt ta đây, khi họ ngắm nghía thấy nó ti hí, thì họ quơ ngay cái dùi, đục tới đâm lui, đau nhừ tử! Rồi khi phát hiện ra cái lỗ mũi ta to bè, họ lại đập, nện, gõ, khoét..nhức bưng bưng cả mặt!.. Lúc nào ta cũng bị dòm dỏ, bị mài dũa tôi luyện, đau thấu xương, nhưng ta chẳng rên rỉ thán oán gì, bởi ta biết họ làm vậy là vì muốn tốt cho ta. Nhờ khéo nhẫn nhịn, giỏi chịu trăm cay nghìn đắng, cuối cùng ta mới thành là một tượng Phật tôn nghiêm dễ coi, được người chiêm ngưỡng lễ cúng. Còn ngươi ấy hả? Ngươi đâu có chịu đau khổ gì nhiều? Chỉ cần tạo lõm xuống là thành ngay cái chuông. Mà người ta vừa mới chạm nhẹ vào mình ngươi là ngươi đã la lên ong óng…  Bởi thế nên không ai lễ lạy cúng dường ngươi là vậy!”

Nếu nhìn theo sắc tướng thì thấy sư phụ bị đủ khổ nạn. Song nhìn theo pháp thân thì những khổ cảnh này cũng vô phi vô thị, tùy duyên mà chiêu cảm; có thể nhân đấy dùng phương tiện khéo léo để khai thị giúp ích cho chúng sinh vậy. Tôi bỗng nhớ đến bài kệ trong kinh Hoa Nghiêm:

Nếu người muốn rõ cảnh giới Phật
Hãy tịnh tâm ý như hư không.
Nước trong biển có thể uống cạn
Tâm niệm thoáng qua có thể đếm
Có thể buộc gió, lường hư không
Song, khó diễn tả hết cảnh giới Phật.

Cơn gió nhẹ thổi vào con đường tối âm u làm tôi cảm thấy mát rười rượi. Cơn gió này phát xuất từ hư không nên còn mang hơi hướm của không hư, chở theo âm thanh vi vút như tiếng sáo trời.

* Một viện nghệ thuật rất dung tục.