NGUỒN THIỀN NHƯ HUYỄN
Tịnh Liên Nghiêm Xuân Hồng

 

CHƯƠNG 3

LỊCH TRÌNH BIỆN CHỨNG TIỀN TU CỦA THIỀN QUÁN. CHỦNG TÁNH NHỊ THỪA VÀ CHỦNG TÁNH BỒ TÁT ĐẠO. LỘ TRÌNH KHÔNG QUÁN XA MA THA: NHỮNG THỨ BỰC ĐỊNH VÀ QUẢ VỊ CHỨNG ĐẮC. LỘ TRÌNH GIẢ QUÁN VÀ TRUNG ĐẠO SONG CHIẾU TỨC TAM MA BÁT ĐỂ VÀ THUYỀN NA. PHÁP MÔN QUÁN CHIỂU NHƯ HUYỄN. NHỮNG CHẶNG ĐƯỜNG TẰM LINH.

 

Đến đây, để thành tựu thêm 1 phần tầm nhìn của chúng ta vào con đường Thiền quán của nhà Phật, thiết tưởng cần đi sâu hơn nữa vào ít nhiều chi tiết của những giai đoạn đi vào KHÔNG GIẢ TRUNG của lộ trình nói trên.

Nhưng con đường Thiền vốn là cuộc hành trình đi vào Biển mênh mang mịt mùng của tâm thức, trong đó, các tâm-sở, các trạng thái Chỉ quán hay Định Huệ cũng đều là do Thức biến nên đều dính mắc DUNG NHIẾP TRIỂN CHUYỂN. Do đó, nên sự mô tả lộ trình sau đây chỉ có thể là thống quan và trên đại lược… Nếu cần rõ thêm những chi tiết, bạn đọc có thể tìm kiếm trong những cuốn như: Tọa thiền Chỉ quán hay Lục diệu pháp môn của ngài Trí Khải, hoặc Tọa thiền tam muội của ngài Samgharakasa, hoặc kinh Viên giác, Lăng Nghiêm, và nhất là Hoa Nghiêm.

1)- TRONG GIAI ĐOẠN XA MA THA, TỨC LÀ ĐI VÀO NƠI KHÔNG HẢI CỦA TÀNG THỨC VÀ THÀNH TỰU KHÔNG QUÁN, CẦN PHẢI CHỈ NHƯ THẾ NÀO, QUÁN NHƯ THẾ NÀO? VÀ TRÃI QUA NHỮNG THỨ BỰC ĐỊNH HOẶC QUẢ VỊ CHỨNG ĐẮC NHƯ THẾ NÀO?

Mô tả giai đoạn này của lộ trình là 1 việc phiền toái… Vì có nhiều pháp môn chập chùng, cũng nhu nhiều thứ căn cơ chập chùng cùng nhau tiến bước trên đoạn đường này.

Về pháp môn, thì có nào là những phương thức quán những đề mục ngoại-sắc (Kasina) như quán những vòng tròn xanh-đỏ-tím-vàng… hoặc quán đất-nước-lửa-gió. Hoặc quán những điểm nội-sắc như chót mũi, bạch hào… Rồi quán Ngũ đình tâm quán là: quán Bất tịnh hay Cửu tưởng quán, quán sổ tức, quán Từ bi, quán Nhân duyên, quán Giới phân biệt. Hoặc quán Tứ- niệm-xứ là: quán Thân bất tịnh, Thọ thị khổ, Tâm vô thường, Pháp vô ngã… Rồi quán Tứ đế hay Thập nhị nhân duyên.

Về căn cơ, thì đại cương có năm loại chủng tánh: loại phàm phu thường chỉ ưa thích niềm khoái lạc của thiền-định, chỉ muốn thọ hưởng niềm khoái lạc ấy, ngoài ra chẳng có một ý chí hay ý nghĩ gì cao viễn nữa. Thứ hai là hàng ngoại đạo thì lợi căn, nhưng lòng mong cầu quá sâu nặng theo chiều hướng chấp ngã, và tâm tri kiến cũng rất mạnh theo chiều hướng chấp có… Thứ ba là loại bất-định tánh, nghĩa là căn cơ bất định, nếu gặp thầy ngoại đạo thì ngã theo ngoại đạo, nhưng nếu gặp thầy Nhị thừa thì vào được Nhị thừa.

Ba loại căn cơ trên đây, không đáng lưu tâm nhiều.

Duy cân lưu ý tới 2 loại căn cơ sau là: căn cơ Nhị thừa và căn cơ Bồ Tát… Nhị thừa tánh thì ưa Định lực hơn là Huệ-lực, thường nhàm chán thế gian và sợ khổ hoạn nên ưa thích niềm an vui của thiền định, không ưa những lối nhìn cao viễn mịt mùng và cũng không nghĩ tới việc mở tâm thật rộng lớn, e sợ những trần-sa-hoặc bời bời của chúng sanh, nên chỉ cần cù giới hạnh và siêng năng chăm chú gột sạch những phiền não thô của chính mình, để tiêu diệt những mầm móng sanh tử, vượt qua phần đoạn sanh tử bước lên Bờ Tịch diệt của những vị đã hết phiền não… Còn Bồ Tát tánh thì lại khác: ưa Huệ-lực nhiều hơn Định-lực, vì theo Kinh Hoa Nghiêm thì căn cơ Bồ Tát hay khởi lên từ cái tâm muốn BIẼT các pháp, biết tất cả pháp, muốn biết Ta là gì, Vật là gì, Tâm là cái gì, Pháp-giới là gì, muốn biết bí-ẩn của tâm và pháp giới. Nên tuy lúc sơ-phát- tâm, thường chẳng có định lực gì mấy nổi, và nhiều khi vô minh còn chất ngất, nhưng suy động bởi cái tâm muốn biết mình và pháp giới, nên ít thấy lo ngại sợ sệt trước cảnh giới, trái lại thường muốn phóng tâm mình vào các cảnh giới, vào tất cả pháp giới, vì muốn rồi lần lần muốn NHẬP PHÁP GIỚI… Đại cương là như vậy. Đồng thời, cũng hay khởi cái tâm thương xót kẻ khác. Ở lúc sơ-phát-tâm, tuy vẫn còn nghĩ tới mình, nhưng cũng hay nghĩ tới kẻ khác.

Nhưng tuy các pháp môn có chập chùng và căn cơ có sai biệt, song pháp môn cùng căn cơ đều thâu gồm trong 2 hoạt-dụng chính của tâm thức là CHỈQUÁN, để chuyển lần từ chỗ Quang-minh thô-kệch-dứt-nối tới chỗ Quang-minh-vi-tế và tương -tục, rồi bước vào niềm Tĩnh-lặng Không tịch, tức là Không-hải của tâm thức.

Hãy lấy tỷ dụ pháp môn quán sổ tức, tức là quán Hơi thở. Đây là 1 pháp môn chính yếu, không những đối với nhà Phật mà còn đối với các ngoại đạo khác như Bà la môn giáo hoặc phái tu thần-tiên của Lão giáo… Nhưng lối quán của nhà Phật có nhiều khác biệt với lối tu ngoại đạo, trong khi nhà Phật tu sổ tức (tức Lục diệu pháp môn) với tâm Vô-sở-cầu và lối nhìn coi hơi thở là rốt-ráo không, thì ngoại đạo tu hơi thở (gọi là phép tu Pranayama) với tâm mong cầu sâu nặng muốn điều khiển được hơi thở ấy để đi tới chỗ BẶT hơi thở, với lối nhìn chấp-có vì vẫn coi hơi thở là có thật… Các vị cổ- đức trong nhà Phật, từ xưa tới nay, thường rất hay truyền dạy pháp môn sổ tức này. Mỗi khi có 1 đệ tử mới nhập môn, thì các ngài chỉ thường truyền dạy, hoặc là Trì danh niệm Phật, hoặc sổ tức, vì đó là 2 pháp môn chính yếu, vương đạo và không mảy may nguy hại hoặc ma chướng…

Vậy thì Sổ tức hay Lục diệu pháp môn là một môn chính yếu trong Thiền quán của nhà Phật. Vì sao vậy? Là vì hơi thở ở chặng giữa trung-đạo giữa Tâm và Vật, là nhịp cầu nối-liền giữa tâm thức mịt mùng và các sắc-tướng tức là thân căn cùng cảnh giới bên ngoài. Cũng như sự nháy-mắt, hơi thở có thể coi là hiện-tướng của nhịp đập bềnh bồng của tâm thức. Khi hơi thở điều hòa, nhẹ nhàng và vi-tế, thì sự giao động của tâm thức cũng điều hòa, nhẹ nhàng, liên tục và vi-tế. Và khi một hành giả vào định, dù là 1 cơn định nhỏ, thì hơi thở rất nhẹ nhàng vi-tế. Nhiều khi, hơi thở THÔ (tức lối thở thông thường) lại bặt đi để nhường chỗ cho 1 lối thở vi-tế hơn, hoặc là THAI TỨC tức là lối thở trong thai, hoặc là lối thở bằng lỗ chân lông. Và đôi mắt người nhập định, cũng thường khép hờ và KHÔNG HỀ NHÁY MẮT… Bởi vậy, nên các chư Thiên, nhất là ở cõi sắc, đâu có nháy mắt?!

Vì hơi thở vốn ở chặng giữa trung-đạo giữa Tâm và Vật, không thô kệch như những đề-mục ngoại sắc hay nội sắc, đồng thời cũng chưa đến nỗi quá ư vi-tế như những hiện tượng tâm thức, nên quán sổ tức là con đường tuyệt hảo cho những người bước vào Thiền quán.

Vậy thì quán sổ tức là như thế nào, và lộ trình diễn tiến ra sao?

Lúc đầu thì phải Sổ đã, tức là ĐẾM hơi thở ra vào. Ngồi tĩnh tọa chừng mười lăm phút hay một giờ, hay vài giờ, và đếm hơi thở ra vào từ một đến mười.

Lắng tâm và CHÚ TÂM vào một việc đó thôi, buông bỏ các tạp niệm khác.

Khi Sổ đã thuần thục rồi, thì chuyển sang TÙY tức. Không đếm nữa, mà chú tâm nương theo hơi thở, ĐI THEO hơi thở ra vào. Khi hơi thở ra dài, thì biết là hơi thở ra dài. Khi hơi thở ngập-ngừng ở quãng-giữa truớc khi chuyển thành hơi thở vào, thì cũng biết rằng hơi thở ngập ngừng ở quãng giữa… Tới khi hơi thở vào ngắn hay dài, nhẹ nhàng hay thô tháo, thì cũng biết rõ như vậy… Như thế, tâm thức hành giả lần lần nhập một với hơi thở, quên mọi thứ khác. Lần lần, hành giả cũng bắt đầu nhận thấy rằng: cái hơi-thở ấy, hình như nó chẳng-từ-đâu-đến, và hình như nó cũng chẳng-đi-đến- đâu.

Khi Tùy tức thuần thục rồi, thì tâm của hành giả đã khá vi-tế an tịnh. Lúc đó, hành giả cần hiểu rằng: dù sao, hơi thở vẫn là THÔ, và trong tâm thức mình còn nhiều LỚP VI TẾ hơn nhiều… Bèn xả bỏ việc nương theo hơi thở, để chuyển từ tùy sang CHỈ… Bởi thế, nên phải hiểu rằng lịch trình tiến tu cũng tương tự như diễn trình thoát xác của một loài bướm quý, ngày càng rũ bỏ những lóp thô kệch để mang những sắc-thân-vi-diệu hơn… Từ con nhộng cắn vỡ vỏ kén tham-sân-si biến thành con ngài. Rồi mọc hai cánh Trí huệ và Đại Bi, hóa thành con bướm bay lượn khắp pháp giới… Tu CHỈ tức là không nhớ, không nương theo hơi thở nữa, và dứt hết các duyên lự để tâm lóng đứng lặng lẽ. Lúc đó, hành giả như người vào định, thấy tâm mình ngưng lặng, an ổn khoái lạc, như vô-vi tịch tĩnh.

Lúc đó, lại cần phải chuyển sang QUÁN. Hành giả phải nghĩ rằng: Tâm mình tuy đã tới chỗ ngưng lặng an ổn, nhưng chưa có trí-huệ phương tiện, vả lại nếu ngừng lâu và triền miên trong trạng thái ngưng lặng này mà không khéo dụng tâm, thì cũng có thể rơi vào hôn trầm, vậy thì ta phải khởi QUÁN… Nhưng quán cái gì? Quán cũng có thể có nhiều đối tượng. Nhưng thông thường, thì lúc đó, các bậc cổ-đức thường khuyên nên quán Ngũ-ấm sanh diệt. Tỷ dụ như quán rằng: Khi hơi thở ra, thì ngũ ấm sanh diệt như thế nào? và khi hơi thở vào, thì ngũ-ấm sanh diệt ra sao?

Khi Quán thuần thục, tức là Định-lực cùng Quán-lực của hành giả đã khá cao độ rồi… Lúc đó, phải chuyển sang HOÀN. Hoàn là gì? Hoàn nghĩa là phản-bổn-hoàn-nguyên, dùng sức chiếu soi của tâm thức không phải để chiếu soi các đối cảnh nữa, mà phản quán, CHIẾU SOI NGAY CÁI TÂM NĂNG QUÁN… Tức là mỗi lúc mỗi đi vào những lớp vi-tế hơn, và muốn thể nhập cái biển tâm thức. Hành giả quán rằng: cái tâm năng quán ấy không biết từ đâu sanh? Từ cái Tâm mà sanh, hay từ cái Không-tâm mà sanh?… Đại để là như vậy. Quán lâu rồi, thì hành giả sẽ tế nhận thấy rằng cái

Tâm ấy hình như sanh mà cũng hình như không-sanh, hình như chẳng-phải-có mà cũng chẳng-phải-không.

Khi Hoàn thuần thục rồi, thì hành giả nhận thấy rằng Tâm và Cảnh đều rỗng-lặng, chẳng phải sanh cũng chẳng phải không sanh, sắc-thọ-tưởng-hành-thức đều như vậy, chẳng thể có năng-tu-sở-tu, năng kiến và sở kiến, hoặc tịnh hay bất tịnh… Đó gọi là chuyển sang TỊNH. Bốn bề đều vắng lặng, vắng lặng mà vẫn phát sáng chiếu soi…

Trên đây là lược tóm chu-kỳ diễn trình của Lục diệu pháp môn, để chứng tỏ rằng tiến trình tu tập là đi lần từ chỗ Quang minh thô kệch tới chỗ Quang minh vi-tế chan hòa.

Nhưng cũng cần ghi rõ rằng: Lịch trình tiến tu và thâm nhập là 1 lịch-trình biện chứng noi theo một đường XOÁY CHÔN Óc, ngày càng lên CAOSÂU hơn. Nên giai đoạn TỊNH ở đây cũng chưa phải là cái Biển Cực tịnh của Chư Phật đâu, chưa phải là chỗ Đại-tịch-diệt.

… Chữ Tịnh có nhiều mức-độ nông sâu. Và Tịnh ở đây là chỉ cho các vị mới bước vào niềm Tĩnh- lặng nơi Không-hải của Tàng thức chu biến, chưa phải là mức Tột-Không khởi diệu dụng vô cùng của Chư Thế Tôn… Và nằm ở giai đoạn Xa ma tha, từ Giả vào Không mà thôi.

Hãy lấy một tỷ dụ khác là pháp môn quán Tứ niệm xứ, để thấy rõ thêm lịch trình tiến tu là đi từ THÔ vào TẾ, ngày càng thâm nhập những lớp SÂU của tâm thức.

Tứ niệm xứ là: trước tiên quán Thân là Bất tịnh, tức là quán Thô. Trong việc quán Thân này, cũng có quán hơi thở.

Theo Kinh Lăng Nghiêm, thì thân-căn (tức sắc- ấm) được dệt nên bằng những quang minh của những vọng tưởng kiên cố, nên quang minh bị nặng nề bởi tình nhiễm, và làm phát hiện những hình tướng thô.

Thứ đến quán Thọ là Khổ. Thọ là Thọ-ấm, gồm những cảm thọ và cảm giác. Theo kinh Lăng nghiêm, Thọ-ấm là màn-sương mù dệt nên bởi quang minh của những vọng tưởng Hư-minh từ vô thủy. Màn sương mù này làm lệch lạc cái Thấy-biết của chúng sanh, vì làm lóe lên những ảnh-tượng sự vật cong queo hư dối… Song quang minh của Thọ-ấm này cũng vi-tế hơn những quang minh dệt nên những thân-căn. Và sự quán chiếu của hành giả ngày càng đi vào chỗ vi-tế hơn.

Rồi đến quán Tâm Vô thường. Tâm đây mới chỉ là tâm-tưởng, sản phẩm của Thức thứ 6, và tâm tưởng là Tưởng-ấm. Tưởng-ấm này được dệt nên bởi quang minh của những vọng-tưởng Dung-thông từ vô thủy. Nên lại vi-tế hơn Thọ-ấm.

Rồi đến quán Pháp là Vô ngã. Pháp là gì? Pháp nào cũng là Hành-pháp cả, vì đều trôi-lăn-lưu-chuyển. Vậy thì quán Pháp ở đây tức là quán Hành-ấm của Thức thứ bảy tức Mạt na thức. Thức này là một cột gút lớn, mộ tấm lăng kính cong queo bền chặt, và chuyên so đo lo nghĩ để chấp Ngã. Và được dệt nên bởi những luồng quang minh U-ẩn của vô vàn tâm niệm âm thầm chấp Ngã từ vô thủy, và những quang minh U-ẩn này cũng vi-tế, chuyển động mau lẹ hon ba thứ quang minh nói trên… Cho nên, việc quán Pháp là Vô ngã ở đây chỉ có nghĩa là quán Nhân Vô ngã, không hề có chủ- thể, chứ chưa phải là quán tất cả các pháp đều Vô ngã, đều không… Tuy nhiên, nếu hành giả đạt được Nhân vô ngã, thì tức là phá được cái cột gút của Mạt na thức rồi, và được LỌT vào Tàng thức thứ tám, nhìn thấy cái biển Không hải đầy quang minh chu biến khắp giáp cả một Đại thiên thế giới.

Như thế là trong pháp môn tu Tứ-niệm-xứ, hành giả cũng đi từ Thô đến Tế, vượt qua bốn ấm trước để lọt vào Tàng thức sơ năng biến tức Thức-ấm.

Hãy lấy một tỷ dụ khác nữa như pháp-môn Quán Tứ Đế, để thấy rõ lịch trình đi từ Thô đến Tế.

Bắt đầu là quán Khổ-đế. Quán Khổ từ thô đến tế, tức là trước tiên quán Khổ-khổ. Khổ-khổ là gì? Là những cái khổ ở cõi Dục giới, chúng vốn dĩ nhiên là khổ, là những khổ thô, khó thể chối cãi. Tỷ dụ như lúc sanh ra thì thấy đau ép như ngộp thở nên phải bật tiếng khóc chào đời, rồi bệnh thì khổ, già nua lụm cụm ho hắng sặc sụa thì khổ, rồi chết thì lo sợ hết mức nên rõ rệt là khổ.

Rồi quán tới Hoại-khổ. Tức là những nỗi khổ của chư Thiên ở cõi sắc. Tại sao gọi là Hoại-khổ? Vì chư Thiên ở cõi sắc, tuy so với người là sướng lắm, có thân hào quang nhẹ nhàng bay lượn, không bệnh, sống lâu, không đại tiểu tiện, không bị bụi dính, không nháy mắt, suốt ngày ngồi trong định, nói chuyện với nhau bằng quang minh tâm tưởng… nhưng còn hình tướng, vẫn có thân, và khi năm tướng suy hiện ra, thì thân đó cũng phải hoại, và có thể tụt xuống các nẻo dưới. Bởi thế: Hoại-khổ.

Rồi quán đến Hành-khổ, tức vi-tế hơn nữa… Hành khổ nhằm vào chư Thiên cõi Vô-sắc. Chư Thiên này không có thân nữa, chỉ còn tâm tưởng và tâm thức, và tâm tưởng cũng vẫn có hình tướng tế-vi dệt bằng những quang minh dung thông… Các vị này gần như hết khổ lụy, suốt ngày ở trong những không-định, lâng lâng chẳng bọn chút trần-ai, sống lâu 8.4000 đại kiếp… Nhưng vẫn còn bị sự biến- dịch-vi-tế trôi-lăn-triền- miên của giòng quang minh U-ẩn của Hành-ấm tức Mạt na thức. Nên còn vướng Hành-khổ… Vả lại, khi hết thọ mạng, thì vẫn phải chết và tiếp tục trôi lăn.

Thêm nữa, kinh dạy rằng: các vị trời Vô sắc này, lúc chết, cảm thấy đau đớn nhu bị tên bắn…

Rồi đến quán Tập-đế, tức nguyên nhân của khổ… Vì sao mà khổ? Vì TẬP. Nhưng Tập cái gì? Là Tập ÁI DỤC. Nghĩa là: từ vô lượng kiếp đến giờ, đã quá quen thói trôi-lăn-lưu-chuyển, lúc nào cũng khởi Ái, hoặc ưa cái này, hoặc ghét cái kia, mỗi ngày khởi lên như thế không biết bao nhiêu tâm niệm. Vì luôn luôn Ái, nên luôn khởi Dục, khởi khát vọng, muốn chiếm cái này, giữ cái này, muốn bỏ cái kia, luôn luôn muốn hiện hữu qua những khát vọng ấy. Vào sâu hơn nữa, thì nguyên nhân của Khổ là Tư, tức tâm tưởng. Ái dục tạo vọng tình, còn Tư tạo vọng tưởng… Do đó, Ái dục và Tư tạo dựng nên các thứ độc là: tham sân si mạn nghi ác-kiến, khiến chúng sanh không thể không trôi lăn.

Nhưng Ái dục và Tư chỉ là nguyên nhân Thô. Đi vào Tế-vi hơn nữa, thì là VÔ MINH… Vô minh tức là không biết rõ, hay lãng quên mất cái thể tánh chân thực của mình, nó vốn là bất-khả-hoại-diệt, là bất-tử, là vô- sanh. Vì không biết rõ điều đó, nên suốt ngày tìm cách hiện-hữu lăng-xăng, chạy theo những cái bóng phù du hư ảo.

Rồi thì phải quán DIỆT ĐẾ… Biết vậy rồi, phải nghĩ đến việc chấm dứt các thứ lăng xăng đó, nghĩ đến diệt ái-dục và vô-minh. Nhưng nếu diệt ái-dục rồi thì còn cái gì, và liệu có còn cái gì không? Hay chỉ là hư-vô? Do đó, phải nghĩ đến Niết bàn, nghĩ đến trạng thái Tĩnh-lặng một khi ngọn lửa tham dục đã tắt ngấm. Phải tự đặt câu hỏi, và suy nghĩ… Như là: Niết bàn là hư-vô chăng? Là một cõi hạnh phúc miên viễn chăng? Là một Thật tại khó thể miêu tả chăng? Là hiện hữu hay không hiện hữu? Có là bất tử chăng? Là ở nơi đó, mạng căn có thể hết rồi, nhưng còn MẠNG TRƯỢC chăng?… v.v…

Đó là những câu hỏi mà hành giả phải tự nêu lên, rồi nương theo kinh sách tìm lấy kiến giải cùng lòng xác tín… Chỉ cần ghi rằng: chữ Niết bàn ở đây là để chỉ cho cái Vùng Tĩnh Lặng Tịch diệt của Nhị thừa, chưa phải cái Biển Đại Tịch Diệt Viên giác của Chư Như Lai… Vì tuy có tĩnh-lặng tịch diệt hết phiền não thô ấy, nhưng còn chưa đủ sáng chói để chiếu soi khắp giáp, và sự chiếu soi chỉ hạn cuộc trong 1 Đại thiên thế giới mà thôi. Trong khi Biển Đại tịch diệt thì đã gột sạch mọi vô-minh vi-tế, Đứng lặng và SÁNG NGỜI, soi khắp mười phương các thế-giới-hải.

Cho nên, Vùng Tĩnh-lặng Tịch diệt này mới chỉ là LỌT vào nơi Không-hải của Tàng thức, thấy quang minh chu biến dính mắc khắp một Đại thiên. Nhưng chưa chiếu soi đủ để gột nổi những vô minh hoặc vi-tế…

Rồi đến quán ĐẠO ĐẾ. Bao gồm tất cả những pháp môn trong con đường mầu nhiệm tiến tu của Chư Phật. Cũng tức là Bát Chánh đạo, trong đó, Chánh niệm và Chánh định là chỉ cho Thiền quán, tức là những pháp môn như Ngũ đình tâm quán, Tứ niệm xứ, Tứ Vô lượng tâm… cùng những pháp môn cao siêu thẳng tắt hơn nữa.

Ở giai đoạn XA MA THA này, trong các pháp môn, hành giả lựa chọn lấy một hay hai để tu tập… Nếu hành giả là người nhàm chán thế gian, nhưng có thiên tư ưa thích Định-lực cùng ưa thích niềm an-ổn khoái lạc của Thiền định, thì hành giả dùng Định-lực PHI TRẠCH DIỆT (tức là ít quán chiếu giản trạch để Diệt) để làm nép-phục các phiền não thô. Nghĩa là giữ tâm tĩnh lặng, không tạo dựng những cơ duyên khiến cho phiền não mọc lên được, song những cội rễ phiền não vẫn chưa bị nhổ bỏ hẳn… đi theo lối này, thì hành giả có thể vào những cơn định trong bốn Thiền và bốn Không định, nhưng chưa chắc đã được những giải thoát trong bốn quả tiểu thánh.

Còn nếu hành giả là người rất nhàm chán thế gian, chỉ mong sớm diệt các phiền não để đi tới bờ tạm gọi là giải thoát, thì phải dùng quán-lực nhiều (tức Minh-sát-huệ) để nhổ bỏ trừ diệt phiền não thô… Đi theo lối Quán lực hay Huệ-lực TRẠCH DIỆT VÔ VI này, thì hành giả sẽ đắc những quả giải thoát, nhưng chưa nhất thiết là phải đạt những Tứ thiền và tứ không-định kia…

***

Vậy thì trong giai đoạn này, LỘ TRÌNH TIẾN TU RA SAO? CHỈ VÀ QUÁN NHƯ THẾ NÀO? VÀ CẢC THỨ BỰC ĐỊNH CÙNG QUẢ VỊ CHỨNG ĐẤC CÓ NHỮNG GÌ?

Trong giai đoạn nào cũng vậy, Chỉ và Quán vốn là hai hoạt dụng của tâm thức nên không thể tách rời, thường xen lẫn chập chùng và bồi dưỡng lẫn nhau. Có điều là tùy theo chỗ dụng tâm của hành giả, chúng được sử dụng đến nhiều hay ít mà thôi.

Tuy nhiên đây là giai đoạn Xa Ma Tha nhằm đi vào niềm tĩnh-lặng của Không hải nơi tâm thức, nên dụng công của hành giả cần nghiêng về Chỉ nhiều hơn là Quán.

Về những phương thức CHỈ để khiến tâm thức ngưng lặng, các bậc cổ đức như ngài Trí Khải, thường truyền dạy mấy cách sau đây:

1) Thứ nhất là Hệ-duyên-thủ-cảnh-Chỉ: nghĩa là buộc tâm vào một duyên, một cảnh, rồi giữ chặt lấy duyên hay cảnh đó để khiến tâm ngưng lặng.

Tỷ dụ như lắng tâm và chú tâm vào một vật ngoại sắc, hoặc một điểm nội-sắc như nơi chót mũi hay lỗ rún… Buộc tâm vào chỗ đó, tương tự như người ta xích con vượn. Loại trừ tất cả tạp-niệm khác, chỉ để lại một niệm như là hình ảnh chót mũi. Loại bỏ mọi làn sóng khởi lên của tâm thức, chỉ để lại một làn sóng đó thôi… tức là dùng một niệm trừ muôn niệm. Nên niệm đó ngày càng trở nên rõ rệt, kiên cố, và tâm hành giả trụ nơi niệm đó.

Như thế là Chỉ, nhưng trong Chỉ, vẫn có xen lẫn một ít Quán. Vì trong lúc đó, tâm hành giả vẫn phải săm soi, chiếu soi, để nếu có tạp niệm khác khởi lên, liền cắt đứt để kéo tâm về chót mũi.

Về phương thức này, hành giả có thể chọn một đối cảnh khác vi-tế hơn, tỷ dụ như hơi thở, hoặc quán Thân bất tịnh. Hoặc cao siêu hơn nữa như một hình tượng Phật… Hình tượng này, tuy chỉ là một hình tướng mường tượng nhưng bao giờ cũng phải được coi là cao siêu, vì là tượng trưng cho Thật tướng, cho Chân tâm, cho Trung đạo, và có khả năng kỳ diệu đưa lần tâm thức hành giả tới những bình diện cao vời… Trong những trường hợp này, dĩ nhiên là sức Quán lại phải nhiều hơn.

2) Thứ 2 là Chế-tâm-Chỉ:

Hành giả ngồi tĩnh tọa, không dụng công ngưng tâm mà chỉ chú tâm theo dõi mọi sự khởi lên và biến hiện của tâm. Mỗi khi có một niệm khởi lên, hành giả phải liền biết, rối cắt đứt ngay duyên lự đó, không cho nó tiếp tục rong ruổi lan man để đi tới chỗ tán loạn…

Cũng tương tự như người làm việc, nuôi một con vượn, buộc sợi dây vào cổ nó, và mỗi khi nó khởi tâm muốn lăng xăng nhảy nhót, thì liền kéo nó về chỗ cũ.

Làm như thế, lần lần các tạp niệm đều dứt, và tâm sẽ ngưng lặng… Và trong phương thức này, tuy gọi là Chỉ, nhưng tâm hành giả vẫn phải săm soi, theo dõi những niệm khởi lên, nên vẫn là có Quán…

Hai phương thức trên đây thường được gọi là thuộc về sự-tướng, tức là chưa cao siêu mấy… Vì sao? Là vì tuy chúng có thể giúp tâm hành giả đi lần tới chỗ tĩnh-lặng, nhưng chúng chưa giúp gì nhiều khiến hành giả có thể hiểu về cái tâm ấy, về thể-tánh của tâm ấy, về Tánh không của Tâm, về Không-hải của Tâm… và đi vào nơi Không hải… Trong khi mục tiêu tối thượng của mọi đường tu giải thoát là sự lặn-lội đi lần vào nơi Không-hải của Tâm, rồi đi tới chỗ TỘT KHÔNG, vì từ nơi Tột-không đó có thể làm phát hiện tất cả Diệu-hữu tức là pháp giới này.

Do đó nên có phương thức thứ 3, và phương thức này cũng bao gồm nhiều cách, tùy theo căn cơ của hành giả thiên trọng về chủng tánh nhị thừa, hay chủng tánh Bồ Tát đạo…:

3) Thứ 3 là THẺ CHƠN CHỈ:

Phương thức này là nhằm đi vào Thể-tánh chân thật của Tâm, tức là cội nguồn của pháp giới, đi vào TÁNH KHÔNG của Tâm… Cái Tâm này vốn cực kỳ trong sáng và cực kỳ RỖNG LẶNG. Vì nếu là tối và đặc sệt, thì nó không thể nào làm đột khởi, làm huyễn hiện nên cái pháp giới lung linh muôn màu muôn sắc này.

Trong phương thức này, dĩ nhiên là phải dùng Quán-lực tương đối nhiều hơn trước, nhưng dùng quán-lực để đi tới chỗ Tĩnh-lặng của Tâm.

Về phía căn cơ của người tu, thì cần phân biệt 3 loại chủng-tánh chính yếu: Chủng tánh Thanh Văn, chủng tánh Duyên Giác và chủng-tánh Bồ Tát đạo.

Chủng tánh Thanh-Văn thì thường dùng pháp môn quán NHÂN DUYÊN để làm cửa ngõ lọt vào Không-hải. Chủng tánh Duyên giác lại ưa dùng phép quán cái Vòng triển-chuyển trùng thành của THẬP NHỊ NHÂN DUYÊN để làm cửa ngõ vào nơi Không hải… Còn chủng tánh Bồ Tát thì hàm chứa căn cơ phức tạp và kỳ đặc hơn, nên con đường tiến tu cũng uyển chuyển siêu-việt hơn, và các vị này thường dùng phép quán chiếu NHƯ HUYỄN để lọt vào Không hải của tâm thức, rồi từ đó tiến bước lần tới chỗ TỘT KHÔNG của Chư Phật.

Hãy lần lượt theo dõi con đường tiến tu Thiền quán của các bậc thuộc 3 chủng tánh ấy, trên lộ trình Thể-chơn-chỉ để lọt vào Không hải:

a) Chủng tánh THANH VĂN:

Chủng tánh Thanh Văn là như thế nào?

Là những vị ưa thích Định-lực hơn Huệ-lực, ưa thích niềm an ổn khoái lạc của những cơn thiền-định hơn là khát vọng muốn biết cái bí-ẩn của mình và của pháp giới, thêm nữa rất nhàm chán thân-căn cùng thế gian và e sợ KHỔ LỤY, chỉ rắp tâm mong cầu thoát khổ lụy, ngoài ra không muốn nghĩ đến những điều gì rắc rối cao viễn hơn nữa… Thảng hoặc có nghe nói tới những việc như mở tâm thật rộng lớn, như ôm trọn pháp giới vào thân tâm mình hoặc trang nghiêm cõi Phật… thì không hề thấy hay, cũng chẳng khởi tâm khấp khởi vui mừng, chỉ muốn siêng năng cần cù lau chùi hết mọi phiền não (thô) để giải thoát khỏi khổ lụy của phần-đoạn- sanh-tử, ra ngoài tam giới mà thôi.

Để giải thoát khỏi khổ-lụy và hưởng niềm an lạc của thiền định, cũng như để gột sạch những phiền não (thô) và bước vào nơi Không-hải, các bậc này thường tu phép Nhân-duyên.

Vậy quán Nhân duyên là như thế nào?

Quán Nhân-duyên, trên đại lược là: luôn luôn nhớ và quán chiếu rằng tất cả các pháp đều chỉ là do vô-lượng-nhân-duyên-giả-họp-lại-mà-thành-tựu, là niệm-niệm-sanh-diệt, vừa sanh ra đã biến mất ngay… Nên đều là VÔ THƯỜNG,KHÔNG,VÔ NGÃ, là không có CHỦ THỂ, và hơn nữa là KHỔ... Đồng thời, luôn luôn nhớ và quán chiếu rằng NIẾT BÀNTĨNH LẶNG,AN LẠC miên viễn.

Cũng cần ghi rằng phép quán này bao gồm những phép quán khác như Tứ-niệm-xứ hay quán Tứ đế… Quán chiếu như vậy lâu rồi, thì hành giả sẽ làm bặt các thứ tâm niệm thô (thuộc sắc ấm, Thọ ấm, Tưởng ấm, Hành ấm…) và lọt vào noi Không hải của Tàng thức, tức Thức-ấm.

Và đó là cửa ngõ đầu tiên để đi vào biển Tánh không của tâm thức.

Tu theo phép này, hành giả đạt được Định-lực đi vào niềm Tĩnh-lặng, nhưng chưa thể có Huệ-lực nhiều. Vì tuy làm BẶT những tâm niệm thô, nhưng chưa thấu suốt nổi BẢN CHẤT của những tâm niệm ấy, Và cũng còn sót lại 1 số lỗi-lầm, làm chướng ngại cho sự nẩy nở của Đại Bát Nhã phưong tiện Huệ… Những lỗi lầm là:

– Tuy đã thấy rằng các pháp đều là Vô thường, Không, Vô ngã…, nhưng vẫn còn chấp rằng các thứ nhân duyên giả-họp (les composants) để tạo dựng các pháp (tỷ dụ như các ấm hoặc 4 đại) là thật CÓ. Vì kiến chấp Có này, nên chướng ngại Huệ.

– Thêm vào đó, là lòng e-sợ các pháp là Khổ, chỉ muốn lìa, tức là mong muốn, còn mong cầu. Vì còn mong cầu, nên chướng ngại Huệ… và con đường Thiền quán của nhà Phật là con đường của Vô-sở-cầu-hạnh, thì Thiền mới có thể bay bổng tuyệt vời được…

Tóm lại, có Định-lực nhưng Huệ-lực ít.

b) Chủng tánh DUYÊN GIÁC:

Chủng tánh Duyên giác là: những bậc này cũng rất nhàm chán thế gian và thân căn như các bậc Thanh Văn, rất chán đời, nhưng chưa đến nổi quá e-sợ sự khổ lụy như Thanh Văn. Cũng ưa Định-lực, nhưng không đến nổi ham thích niềm khoái lạc của Thiền-định như Thanh Văn, mà chỉ thích niềm vô-vi tịch tịnh… Và tuy ưa Định-lực nhưng cũng cầu Huệ-lực nhiều hơn Thanh Văn, muốn cầu một thứ Tự-nhiên-trí để hiểu biết về nguyên do của sự vật, nhưng chưa phải là sự BIT đến tột cùng Nhứt-thiết-chủng-trí.

Các bậc này tu phép quán chiếu Vòng-trùng- sinh-trùng-thành của 12 nhân-duyên, lấy đó làm cửa ngõ để lọt vào nơi Không hải.

Bắt đầu thường là quán cái khoen cụ-thể nhất là Ái, tức là lòng thương-ghét mà ai cũng có, và nó là nguyên nhân thô kệch của luân hồi… Vì luôn yêu-ghét, nên muốn Thủ tức là muốn giữ hoặc muốn vứt bỏ xa lánh… Nhân muốn Thủ nên duyên ra cái tri-kiến là Hữu, tức là chấp có hoặc chấp không. Vì xét cho cùng, thì các sự vật vốn chẳng-thật-chẳng-hư, và các chúng sanh sở dĩ đi tới chỗ chấp sự vật là có hay là không chỉ là vì tập quán tri-kiến từ vô thủy đã trở thành quá sâu nặng… Nhân tri-kiến Hữu ấy, nên duyên ra sanh, tức là bị dẫn dắt đi thọ sanh ở Dục giới, sắc giới hay Vô sắc giới… Đã chót sanh rồi, thì phải chịu những nỗi khổ-khổ, hoại-khổ, hành-khổ, tức là duyên ra Lão và Tử…

Đến lúc đó, sự quán chiếu đã khá thuần thục rồi, nên có thể quán chiếu NGƯỢC lên, và đi vào chỗ VÔ HÌNH TƯỚNG… Tức là quán xem nhân gì mà duyên ra Ái? Thì sẽ thấy rằng nhân Thọ mà duyên ra Ái… Rồi lại thấy nhân Xúc mà duyên ra Thọ… Rồi thấy nhân Danh-sắc mà duyên ra Lục nhập. Sở dĩ như vậy là vì Danh chỉ cho Tâm-thức tức là cái Kiến phần linh minh sáng láng hay le lói chiếu soi, còn sắc chỉ cho Vật tức là Tướng-phần trọng trược mờ tối, nhưng cả Kiến-phần lẫn Tướng-phần đều là sự chuyển-hiện-tương-ưng cái Tàng thức sơ năng biến tương tự như 2 cái vòi của con sên, và đều là THỨC BIẾN cả, nên chúng bắt buộc phải dính mắc lẫn nhau, đắm nhiễm gắn bó thu hút lẫn nhau, nên không thể không duyên ra Lục nhập.

Rồi thì đi sâu hơn nữa vào chỗ vô hình tướng. Quán chiếu cái Danh-sắc ấy, thì thấy rằng cả tâm lẫn vật đều từ nơi Tàng thức vô tướng mạo mà xuất hiện, từ những tập-khí chủng-tử từ vô thủy huân tập nơi Tàng thức mà hiện hành nổi lên thành hình tướng. Tức là nhận thức mà duyên nên Danh sắc.

Rồi lại quán chiếu những chủng-tử của Thức ấy, xem chúng từ đâu mà xuất hiện? Sẽ thấy là từ Hành, tức là những Hành-nghiệp của Quá-khứ.

Rồi Hành là từ đâu? là do VÔ MINH, tức là căn nguyên sâu thẳm của cái vòng trôi-lăn-lưu-chuyển… Và Vô-minh là cái niệm-mê-mờ-vô-thủy, bỗng quên lãng không biết cái Chân-tánh của mình.

Quán chiếu lâu dài như vậy, tới khi thuần thục, sẽ làm BẶT những tâm niệm thô, và lọt vào Không hải của Tàng thức.

Vì đã quán chiếu tới Vô-minh, tức là cái màn sương mù hằng khởi lên từ Diệu tâm, nên huệ-lực của bậc Duyên Giác đã cao và sâu hơn bậc Thanh Văn, vì bậc này thường chỉ quán chiếu những phiền não thô như: tham sân si mạn nghi ác-kiến… Tuy nhiên, huệ- lực của bậc Duyên Giác chưa phải là Đạo chủng trí, càng chưa phải là Nhứt thiết chủng trí, vì chưa biết được Diệu tâm và cũng vì thiếu tâm Đại bi lớn muốn độ sanh…

Ngoài ra, trí-huệ của bậc Duyên Giác còn bị chướng ngại bởi 2 sự gợn niệm là:

– Tuy quán chiếu cái vòng trùng thành của 12 nhân duyên, nhung vẫn còn kiến chấp rằng 12 nhân duyên ấy là Thật Có.

– Vẫn còn lòng mong cầu muốn lìa khổ, muốn được giải thoát và cầu Niết bàn.

c) Chủng tánh BỒ TÁT ĐẠO:

Chủng tánh này không giản dị đơn thuần như các chủng tánh Nhị thừa, nên đa dạng và kỳ đặc hơn.

Tâm trạng chính yếu của 1 vị Bồ Tát sơ phát tâm thường là lòng khát ngưỡng lớn lao muốn BIẾT. Không mong cầu gì khác mấy nỗi, mà thường chỉ có lòng mong cầu lớn lao muốn BIẾT RÕ.

Biết rõ cái gì?

Mang 1 tấm hình hài phù du, rong ruổi đi ngang đi dọc giữa 1 vũ trụ mênh mang, lạnh lùng và bí-ẩn, vị đó thường luôn bị ám ảnh bởi những niềm khắc khoải như sau: “Tại sao vậy? Tại sao lại như vậy? Tại sao trong cuộc sống nào cũng vậy, những niềm vui hình như đều rất phù du ngắn ngủi, còn những nỗi thống- khổ đớn đau lại có vẻ đằng đặc triền miên?! Tại sao có những người đẹp đẽ khỏe mạnh thông minh giàu sang, và lại có những kẻ xấu xí tật nguyền câm ngọng, căn trí lu mờ ám độn và chỉ có 1 mảnh khố che thân? Tại sao vậy? Cớ gì mà kỳ cục vậy?… Tại sao lại có những loài chúng sanh cứ phải ăn nuốt những loài khác mới sống được? Không ăn nuốt những loài khác thì không được sao?… Liệu có 1 thứ thế giới nào mà trong đó, 1 chúng sanh chẳng cần ăn nuốt chúng sanh khác mà vẫn sống được không?!

Mà cả cái thế giới này cũng vậy, nó thật là lạnh lùng khắc nghiệt và bí ẩn! Nói cho đúng, nó đôi khi cũng thoáng đượm những vẻ đẹp lung linh lạ kỳ… Nhưng hình như nét chính trong bộ mặt của nó vẫn là lạnh lùng bí ẩn. Ngay đến những nét thoáng đẹp cũng vẫn lạnh lùng bí ẩn!… Mà nó là từ đâu mà ra vậy? Nó là thực hay chỉ là 1 giấc mộng hoàng lương? Nó có 1 trật tự, 1 cứu cánh gì không? Hay chỉ là 1 cuộc hỗn- mang ghê gớm, 1 sự lầm lộn không thể vĩ-đại hơn?! Và ngoài cái vòm trời xanh thẳm kia, liệu còn có những vòm trời khác không? Neu còn có hoài hoài những vòm trời mới lạ, thì chẳng hóa ra nó là Vô-cùng-tận?… Và nếu không có vòm trời nào khác nữa, thì chẳng lễ nó là có cùng-tận hay sao?

Lại còn Ta đây nữa? Ta là cái gì vậy? Hiện hữu là cái gì? Từ đâu đến rồi đi về đâu?… Tại sao lại cứ phải tàn lụi rồi phải chết? Tại sao không trường thọ hoài hoài? Mà chết là gì, có phải là tan biến vào Hư-vô chăng? Mà Hư-vô là cái gì vậy?… Nó có thực hay chỉ là 1 điều mường tượng?… Mà sự có mặt của Ta giữa pháp giới mênh mang này, có 1 ý nghĩa, 1 duyên-cớ gì không? Hay chỉ là 1 sự tình-cờ, 1 sự lầm lộn vừa muốn bật cười lại vừa muốn rơi lệ?!?…”

Tâm trạng khắc khoải muốn HIỂU BIẾT này không phải là niềm khắc khoải của 1 kiếp, mà là những tập-khí chủng tử thao thức từ nhiều kiếp… Rồi vì Sơ- phát-tâm ấy thầm nghĩ rằng: “Nếu không hiểu nổi những điều đó, thì kiếp sống này thực là luống uổng, vô vị…”

Do tâm trạng ấy, nên ưa Huệ-lực và không nghĩ gì nhiều về Định-lực… Không thấy ham thích gì nhiều về niềm an-ổn khoái lạc của thiền định, vì mang mang nghĩ rằng cái đó có lẽ cũng phù du hư ảo như nhiều thứ khác… Đồng thời, không e-sợ mấy những khổ-lụy của các cảnh giới, vì trong lòng thầm muốn đi vào nhiều thứ cảnh giới để thấy nghe hay biết… Do sự hăng say ưa thích Huệ-lực này, nên lần lần Quán-lực mạnh mẽ, lại thêm có Nguyện-lực, do cái mầm thương xót muốn đổi thay những cảnh khổ lụy.

Do tâm trạng ấy, nên lúc đầu, tuy vốn liếng Định Huệ chưa có gì mấy nỗi, mà thường dám phát Đại tâm cầu Nhứt-thiết-chủng-trí, để mong BIẾT RÕ tất cả pháp, biết rõ tất cả thế giới, tất cả chúng sanh, biết rõ cái bí-ẩn của pháp giới và của kiếp sống chính mình…

Vị đó không mong cầu điều gì khác, không mong cầu quyền lực, không mong cầu sự thọ sanh tốt đẹp sung sướng, mà chỉ mong cầu BIẾTrõ pháp giới…

Có chiêu cảm thì tất có ứng. Nên lần lần, do sự tự lực tu tập cũng nhu do sức gia trì của Thần-lực, vị đó lần nẩy nở Huệ-lực hiểu biết đuọc ít nhiều về đạo-lý vận hành trong vũ trụ.

Vì hiểu biết ít nhiều đạo lý, nên tâm thức thay đổi khác trước… Lúc đó, đứng nhìn những kẻ khác, thấy họ vẫn còn mê muội ngụp lặn chìm nổi trong biển hoặc lậu, nên nẩy tâm muốn san sẻ cái biết của mình với người khác, để khiến họ bớt mê muội… Do đó, lần lần nẩy tâm ĐẠI Bỉ, chỉ muốn san sẻ cứu độ, TUY CHƯA ĐỘ NỔI MÌNH MÀ ĐÃ MUỐN ĐỘ NGƯỜI, như tâm trạng của ngài A Nan trong 1 bài kệ Kinh Lăng Nghiêm… Nhất là mong mỏi kẻ khác cũng hiểu biết những điều mà mình hiểu biết.

Vị sơ-phát-tâm ấy, lúc ban đầu, có thể là vẫn còn vướng vào chấp có, chấp vào hình tướng. Nhưng kiến chấp với tập-khí nhẹ, nên lần lần dễ hiểu được lý Không, Lý Tột-không và Diệu-hữu, lý Bất-nhị… mà không hề sa vào hố nghi lầm sự hãi.

Thêm nữa, cũng vì muốn biết rốt ráo, nên cũng hay tìm hiểu kẻ khác… Do đó, ít chấp Tự-Tha…

Trên đại cương, tâm trạng của chủng tánh Bồ Tát là như vậy…

Nhưng còn trên đường Thiền quán, thì vị Bồ Tát tu CHỈQUÁN như thế nào?

LÚC ban đầu, vị Bồ Tát thường cũng tu những pháp môn mà các bậc Nhị thừa vẫn tu… Hoặc là Ngũ đình tâm quán, hoặc quán sổ tức, hay Tứ niệm xứ hay quán Nhân duyên hay 12 nhân duyên.

Hãy lấy tỷ dụ vị đó tu quán Nhân-duyên. Cũng quán rằng: các pháp đều là do vô-lượng nhân duyên hội-tụ giả-hợp, nên đều là khổ, không, vô thường, vô ngã… và cũng cần cù siêng năng quán chiếu… Nhưng lần lần, đến 1 giai đoạn nào đó, do sự hiện hành nổi lên của những chủng-tử đạo lý huân tập từ nhiều kiếp, Bồ Tát chợt nghĩ rằng: “Những chân-lý này quả thực là lớn lao và cao siêu! Các chúng sanh thực là đáng thương hại, vì lẽ các pháp vốn dĩ là khổ-không-vô-thường-vô- ngã, mà chúng sanh lại cứ mê lầm cho là vui, là có, là thường hằng, là có ngã… Nhưng thực ra, các pháp có nhứt thiết, có QUYẾT ĐỊNH là khổ không? Nếu quyết định là khổ, tại sao các chúng sanh lại còn có thể mê lầm mà tưởng là vui?… Nếu là quyết định khổ, thì không thể lầm tưởng được… Có thể rằng các pháp chẳng phải là quyết định vui hay quyết định khổ, mà thấy là vui hay thấy-là-khổ là tùy theo nhãn quan cùng tâm-trạng của người-trong-cuộc mà thôi… Còn Không-vô thường-vô ngã cũng có thể là như vậy… Kể ra thì những chân lý này có thể gọi là Chân-lý tối thượng rốt ráo. Vì nếu các pháp quyết định là khổ, không… thì pháp giới này phải có 1 bộ mặt cố định rồi, còn có gì có thể gọi là lạ lùng huyền-nhiệm nữa…?!”

Suy ngẫm nhu vậy lâu rồi, Bồ Tát lần lần nhận thấy rằng: hình như ĐẦU MÓI của mọi sự lạ lùng huyền nhiệm lại chính là cái tâm-thức của người-trong- cuộc hay của chúng sanh. Chính cái tâm thức ấy mới thực là lạ lùng kỳ diệu, chứ không phải là các pháp… Nếu đối với 1 pháp nào đó, mà tâm thức cứ nghĩ và TƯỞNG hoài hoài rằng cái đó là có và là khổ, thì rồi pháp đó sẽ trở thành có và là khổ. Còn nếu cứ nghĩ và TƯỞNG hoài hoài rằng cái đó chẳng là gì cả và nó là vui, thì nó sẽ trở thành không và là vui.

Lần lần, Bồ Tát hiểu được đôi chút về cái bí-ẩn chuyển hiện lắt lay của tâm thức, và hiểu đôi chút về cái gọi là Phương-tiện-huệ của Chư Phật… Thì ra cái vụ quán Nhân duyên này cũng chưa có gì tuyệt đối, mới chỉ là 1 toa thuốc mà Chư Thế Tôn đề ra để chữa trị những căn bệnh TƯỞNG LẦM quá sâu nặng từ vô thủy của hầu hết các chúng sanh… Nhưng tuy nghĩ thế, Bồ Tát vẫn siêng năng cần cù quán chiếu Nhẩn-duyên. Vì sao? Vì Bồ Tát nhận thấy rằng: căn bệnh Tưởng-lầm ấy, chính mình cũng mắc rất sâu nặng nên cần uống kỹ càng toa thuốc này, và hơn nữa, cần uống kỹ càng để rồi côn mang mách bảo lại cho các chúng sanh khác…

Nay lại tỷ dụ Bồ Tát quán 12 nhân duyên… Bồ Tát nghĩ rằng: “cái vòng triển-chuyển trùng-sinh trùng thành của 12 nhân duyên này thực là rõ rệt, cao siêu và thăm thẳm, có lẽ cao siêu hon phép quán nhân duyên kia. Và nó có thể giải thích được hầu hết những hiện tượng hữu hình cùng vô hình của pháp giới này… Nhưng không hiểu những khoen xích nhân-duyên ấy là Thật có, hay là không-thật?? Neu là không-thật, thì tại sao chúng lại có thể triển-chuyến và sanh ra cái pháp giới này?… Còn nếu chúng là thật-có, thì pháp giới này phải đi theo 1 lổi triển-chuyển nhất định và có 1 bộ mặt cố định, và như thế thì cỏn gì gọi là huyền-nhiệm nữa?! Thêm nữa, Vô minh là cái gì, nó có nguyên nhân hay không có nguyên nhân, có thực-thể hay không có thực- thể?!… Suy ngẫm như vậy hoài, Bồ Tát lần lần hé mở cánh cửa tâm thức, thấy rằng Vô-minh ấy có lể khởi lên chẳng từ đâu, rồi đi cũng chẳng đến đâu… Nhưng tuy nghĩ vậy, Bồ Tát vẫn siêng năng cần cù quán chiếu 12 nhân duyên, để nhận diện thật lộ! chúng nó, để làm lui bớt những bóng toi tăm của tâm thức mình… rồi biết được đến đâu lại vội vã đi mách bảo những chúng sanh khác về cái vỏng triển chuyển thậm thâm ấy…

Vậy thì Bồ Tát vẫn quán chiếu như vậy, để đi tới Thể chơn chỉ, làm bặt các tạp niệm duyên lự, đi lần vào miền tĩnh lặng nơi Không hải của Tàng thức…

Nhưng rồi tới một ngày túc duyên tốt đẹp, được gặp gỡ một cuốn Kinh Pháp-Bảo hay một vị Thiện trí thức, Bồ Tát được nghe giảng nói về Lý Như huyễn mộng-ảo-bào-ảnh-lộ-điển, về Duy tâm sở hiện, về Lẽ BIẾN HIỆN của Tự-tâm… Nghe nói rằng cái pháp giới bao la và có vẻ rắn chắc này chỉ là trùng-trùng-huyển- khởi, là do một niệm-mê-mờ-vô- thủy nên rào rạt khởi lên, là do cái Tâm rỗng-không ấy biến hiện, là tùy theo nghiệp-lực chiêu cảm mà xuất hiện hoặc sáng ngời hoặc mờ mịt trước mắt chúng sanh trong cuộc, và thực ra, cả pháp giới này chỉ nổi lên giữa Biển Tâm tưong tự như 1 hòn bọt nước nổi lên giữa lòng biển cả mà thôi…

Nghe những lời đạo-lý như hư như thực ấy, Bồ Tát như bừng tỉnh, tưởng chừng như được uống mấy giọt nước cam-lồ của 1 cõi xa xăm… “Thì ra là như vậy! Cái bí-ẩn của tâm thức và pháp giới là như vậy, chẳng phải thật chẳng phải hư, mà chỉ là huyễn-hiện- tương-ưng… Nếu như vậy thì pháp giới này vừa là ẩn lại vừa là hiện, và cái tâm thức kia vừa là tịch-tĩnh lại vừa phải chiếu soi. Càng tịch-tĩnh bao nhiêu lại càng chiếu soi ngần ấy, và càng chiếu soi bao nhiêu lại càng đi sâu vào niềm tịch-tĩnh ngần ấy… Và cái pháp giới này với tất cả chúng sanh nhiều hơn vi-trần, với tất cả Chư Phật mà số lượng còn nhiều hơn nữa, đối với Ta, thì cũng chẳng phải là một nhưng cũng chẳng phải khác. Vì sao? Vì cũng đều khởi lên từ cái biển Diệu tâm ấy, và cũng đều dính mắc chằng chịt bởi vô lượng những màng lưới quang minh dệt nên bởi vô vàn tâm niệm hoặc túc duyên hoặc oan trái… Và nếu như vậy, thì Bát Nhã vắng-lặng đâu có thể tách rời được Đại bi chiếu soi, và 1 kẻ phát tâm rộng lớn muốn biết tất cả pháp đâu có thể lìa bỏ chúng sanh được?! Vì cùng 1 Thể tánh cả mà, và cũng đều là huyễn-mộng… Nếu có cần phải đi vào địa ngục thì cũng cứ an nhiên mà đi, vì địa ngục cũng vậy, cũng huyễn mộng… Đúng rồi! Đúng rồi! Chân lý tối thượng rốt ráo phải là như vậy, chẳng thật chẳng hư, chẳng có chẳng không, chẳng khứ chẳng lai… vì đều là HUYỄN HIỆN. Chân lý chẳng thể khác được, vì nếu khác, thì làm sao lý giải cái huyền- nhiệm của pháp giới này?! Mà pháp giới này thì không thể coi là không huyền nhiệm được…“

Khi Bồ Tát bừng tỉnh và bồi hồi lẩm bẩm như vậy, thì bắt đầu bước vào địa vị Thập Tín.

Rồi Bồ Tát chuyển sang muốn quán chiếu Như Huyễn.

Đến đây, thiết tưởng cần ghi rõ rằng pháp môn tu Như huyễn tam-ma-đề bao trùm con đường Thiền quán của nhà Phật, được giảng dạy rõ rệt trong các bộ kinh như Lăng Nghiêm, Viên Giác, Kim Cang, Duy Ma Cật… và bàng bạc trong tất cả kinh Đại thừa như Hoa Nghiêm, Pháp Hoa… Đồng thời, được giảng dạy trong các bộ đại luận như Đại Trí độ luận hay luận Khởi Tín.

Pháp môn đó gồm 3 phép quán (Xa ma tha, Tam ma bát đề, và Thuyền na… tức là Không, Giả và Trung quán) thường dung nhiếp triển-chuyển lẫn nhau, và được gọi là Nhất tâm tam quán.

Hoặc cũng có thể gọi là Tam-đế viên dung. Tam đế là: Tục đế hay Thế-đế, Chân-đế và Đệ-nhứt-nghĩa-đế, cũng tức là 3 lối nhìn. Nếu cho các sự vật hay cảnh giới là có, thì là Tục-đế, là lối nhìn của phàm phu. Nếu coi các sự vật là Không, thì là Chân-đế, là lối nhìn của Nhị thừa. Nếu thấy rõ sự vật hay pháp giới này là chẳng-có-chẳng-không, chẳng-thật-chẳng-hư, là như- huyễn, là biến-hiện tương ưng, thì là Đệ-nhứt-nghĩa- đế, là lối nhìn của Phật cùng Đại Bồ Tát.

Tâm thức có khả năng kỳ-diệu như vậy… Nó tương tự như 1 tấm gương lớn luôn chiếu soi, nhưng trong khi tấm gương chỉ có thể chiếu soi sự vật mà không thể tự-chiếu-soi chính nó, thì tâm thức vừa có thể chiếu soi sự vật lại vừa có thể hồi quang phản chiếu tự-chiếu-soi chính mình… Hơn nữa, chỉ có 1 tâm-thức thôi mà có thể chiếu soi theo 3 cách: hoặc chiếu soi theo lối có thì thấy rằng sự vật cùng tâm thức đều là có, hoặc chiếu soi theo lối không thì sẽ thấy rằng sự vật cùng tâm thức chỉ là Không, hoặc chiếu soi theo lối Song chiếu Bất nhị thì sẽ thấy rằng sự vật cùng tâm thức đều là chẳng thật-chẳng-hư, chẳng có chẳng không, là biến-hiện, là như-như, bất khả hoại diệt, bất khả tạo tác… nên bất khả-thuyết- bất-khả-thuyết.

Ba lối chiếu soi này, tùy theo căn co mãnh lợi hay chậm lụt, có thể thực hành theo thứ-lớp, hoặc theo cách triển chuyển dung nhiếp, theo cách tiệm hoặc theo cách viên-đốn… Nếu căn cơ giải đãi chậm lụt, thì sự tu tập có thể kéo dài 3 A tăng kỳ kiếp. Nhưng nếu căn cơ mãnh lợi tinh tấn tối thuợng, thì lịch trình tu tập có thể thu gọn lại trong vài kiếp, hoặc 1 kiếp, 1 năm, 1 tháng, 1 giờ, 1 sát na… Vì chân lý hay đạo-lý của pháp giới vốn là Tụ tâm biến hiện, nên không có cái gì QUYẾT ĐỊNH là cái gì cả.

Trong những kinh như Lăng Nghiêm hay Viên Giác, trong khi giảng nói về Xa ma tha, Tam ma bát đề và Thuyền na… thì có lúc Phật nói đốn có lúc nói tiệm, có lúc nói viên dung có lúc nói thứ-lớp, có lúc nói dung nhiếp có lúc nói triển chuyển… nên chúng ta nhiều khi bỡ ngỡ, khó theo rõ ý kinh.

Là vì Phật nói tùy theo căn cơ.

Trong truờng họp 1 bậc tối thượng căn, tỷ dụ như 1 Đại Bồ Tát thị hiện chẳng hạn, thì tuy ngài nói rằng tu Không quán, nhưng trên thực sự, sự chiếu soi của tâm thức vẫn bao gồm sâu đậm cả Giả quán lẫn Trung quán, và sự chứng đắc của hành giả vẫn vào sâu tới gần nơi tột-bờ-mé của Thật tướng.

Trong trường họp 1 vị trung căn, thì trong khi tu Không quán, chỉ có thể bàng bạc thêm 1 chút Giả quán, không thể chiếu soi nhiều về Giả được… Và tỷ dụ như vị đó có cố gắng dụng tâm muốn song chiếu ngay để sớm vào Trung đạo, thì sự chứng nhập vẫn chưa thể cao và sâu, vì sự song chiếu chưa chín mùi… Vả lại, diễn trình biến chứng của sự chứng nhập là 1 lộ trình theo đường XOAY CHÔN Óc, luôn luôn phải làm con thoi qua lại, từ Không sang Giả, từ Giả sang Không, và ngày càng chín mùi, bước vào những bình diện thâm sâu hơn của Thật tướng… Tới chỗ tột bờ mé, thì Không quán bước vào TỘT KHÔNG, Giả quán bước vào DIỆU HỮU, và Trung quán thì vừa là Tột không lại vừa Diệu hữu.

Còn đối với những vị hạ căn, thì dĩ nhiên là phải theo thứ lớp. Phải cố gắng thành tựu Không quán trước đã để chớm bước vào Không hải của tâm thức. Rồi sau mới tính đến việc bước vào Giả quán rồi Trung quán…

Trong phạm vi tập tiểu luận này, dĩ nhiên là chỉ trình bày về sự lần bước thứ lóp tiến tu của những vị trung căn và hạ căn, để hiểu được ít nhiều về những bước tiến đi vào Không-Giả-Trung trên con đường thiền quán…

Thế là vị Bồ Tát sơ phát tâm chuyển sang lối quán chiếu Như-huyễn… Cũng có thể rằng Bồ Tát vẫn tiếp tục những pháp môn cũ như quán nhân-duyên hoặc quán 12 nhân duyên, nhưng trong lúc hạ thủ công phu, đã bàng bạc thâm sâu 1 lối nhìn Như-huyễn.

Vậy thế nào là Quán chiếu NHƯ HUYỄN?

Nương theo các kinh, có thể có nhiều hình ảnh trợ giúp sự quán chiếu, có nhiều lối nhìn tùy theo căn cơ ưa thích của vị Bồ Tát:

– Tỷ dụ như theo Kinh Lăng Nghiêm và Đại Bát Nhã, có thể quán chiếu như sau:

Đối với các Sắc-tướng: tuy các sắc tướng có vẻ rắn đặc, ù lỳ và cố định, hành giả cần phải hiểu và quán chiếu rằng cái đám rắn-đặc-ù-lỳ ấy bao gồm vi-trần-số những lỗ hổng hư-không, vì trong sắc tướng nào cũng có hư không cũng như trong pháp nào cũng có niết bàn cả. Tỷ dụ như trong 1 nguyên tử, hư-không thường chiếm 1999/2000 phần khoảng không gian của nguyên tử… Cho nên, sắc tướng chỉ là 1 đám mây-mù nguyên tử, 1 đám mây mù của những ba động quang minh chập chùng giao thoa… Ngay cho đến cái thành phần có vẻ đặc sệt ù lỳ của sắc tướng, cũng chỉ được dệt nên bởi những quang minh của những vọng-tưởng kiên cố thô kệch, xoay vần miên viễn từ vô thủy, rồi tới này xuất hiện, kết chặt lại, lóng lại, cột gút lại thành hình tướng mà thôi.

Bởi vậy, kinh dạy rằng phải hiểu và quán chiếu các sắc-tướng như BỌT NƯỚC, như HOA ĐÓM giữa hư không.

Đối với các cảm-thọ tức Thọ-ấm: các hiện tượng này là tế-vi hơn sắc tướng, nhưng sự quán chiếu trên đại lược cũng tương tự như vậy. Ở đây, các luồng quang minh của những vọng tưởng hư-minh đã xoay vần miên viễn từ vô thủy, nay giao thoa và làm huyễn- khởi những cảm giác cùng cảm thọ.

Nên cần hiểu và quán chiếu cảm-thọ như BONG BÓNG NƯỚC, huyễn khởi từ những nhân duyên trùng- trùng.

Đối với các tâm tưởng tức Tưởng-ấm: những tâm tưởng này đều được dệt nên bằng những luồng quang minh dung-thông từ vô thủy, nay giao động chập chùng và kết nên những hình-tướng cực-lược- sắc của tâm tưởng.

Nên cần quán chiếu tâm tưởng như ÁNH NẤNG CHÓI CHANG. Vì ánh-nắng chói chang thường nung nấu, và làm LÓE lên những ảnh-tượng hoa-đốm trước mắt chúng sanh đứng nhìn hư-không dưới ánh mặt trời. Đối với các hiện tượng của Hành-ấm: hành-ấm này tức là sức Hành của nghiệp-vọng từ vô thủy, luôn luôn muốn khởi vọng, muốn hiện-hữu, cũng tức là cái ý-chí, cái khát-vọng muốn hiện hữu và chấp ngã nặng nề. Nó cũng là cội nguồn trực tiếp làm khởi lên 3 thứ ấm nói trên. Sự hằng-khởi liên tục của nó thường tạo dựng nên 1 màn thiên-la-võng các thứ nhân duyên tương-sanh- tương-duyên chằng chịt, trong đó, chúng sanh lầm nhận thấy như có pháp này pháp nọ.

Nên cần quán chiếu hiện tượng Hành-ấm này như HÌNH NHỮNG CÂY LAU GÁC LÊN NHAU. Khi những cây lau gác lên nhau, thì tạo dựng nên những hình thù mà ta lầm tưởng là vật hoặc là người, kỳ thực đó chỉ là 1 đám nhân-duyên chằng chịt, và ở bên trong tuyệt nhiên chẳng có tự-thể hay chủ-thể gì.

Sự quán chiếu đại lưọc là như vậy.

– Hoặc tỷ dụ như theo Kinh Kim Cang, thì có thể quán chiếu theo mấy chữ: MỘNG ẢO BÀO ẢNH LỘ…

Quán chiếu rằng: tất cả sự vật đều như 1 đám mây mù, 1 lằn khói tỏa, 1 giấc chiêm bao, 1 ảo-ảnh nước giữa noi sa mạc, như tiếng vang, như hoa-trong- gương, trăng-đáy-nước, như 1 tuồng ảo- hóa bày ra bởi 1 đại phù thủy ngồi xổm ở ngã tư đường.

– Hoặc quán chiếu theo chữ ĐIỂN của Kinh Kim Cang và thuyết SÁT NA của nhà Phật.

Quán chiếu rằng: sức Hành của nghiệp vọng, huân tập từ vô thủy trong vi-trần-số những chủng tử hàm chứa nơi Tàng thức, tới khi chín mùi thì hiện hành nổi lên, và luôn luôn không ngừng nghỉ, trong mỗi sát- na, làm phụt lên hàng loạt vi-trần-số tia-chớp-nháng (flashs) quang minh. Và những tia chóp nháng ấy đã dệt nên những tổng-tướng ảnh tượng mà ta lầm nhận là sự vật…

Những loạt tia chóp nháng vừa phụt lên, đã biến mất ngay. Nhưng lại được tiếp nối không kẽ hở, trong sát na kế tiếp, bởi hàng loạt những tia chóp nháng

TƯƠNG TỢ TƯƠNG TỤC, tạo dựng nên những tổng tướng ảnh tượng tương tợ tưong tục… Khiến các chúng sanh, do giác quan thô kệch cùng vô minh chất ngất, đều lầm tưởng rằng các sự vật là có, là thường hằng hoặc ít nhất cũng tồn tại 1 thời gian nào đó… (xin xem cuốn Lăng Nghiêm Ảnh Hiện)…

Do đó, nên Kinh Lăng Già tâm-ấn mới thâu tóm và dạy rằng: “Tất cả sự vật chỉ là ẢNH HIỆN KHÔNG THÊ NGHĨ BÀN, tùy theo nghiệp-lực chiêu cảm mà hiện ra trước mắt chúng sanh, hoặc ẩn đi mà thôi… Pháp giới như không-hoa, và thế gian hằng như mộng…”

Trong 1 thời gian đầu, vị Bồ Tát thường ngồi TĨNH TỌA và tu tập quán chiếu như vậy… để đi lần đến THể CHƠN CHỈ, tức là bước lần vào miền Tĩnh lặng KHÔNG của tâm thức.

Nhưng căn cơ đa dạng và kỳ đặc của Bồ Tát vốn là muốn Mở tâm ngày càng rộng lớn tới chỗ vô cùng tận, đã phát hay muốn phát Vô thượng tâm (Vô thượng tâm gồm cả 2 mặt là Bát nhã và Đại bi tâm), nên luôn muốn hiểu tất cả cảnh giới, muốn đi vào các cảnh giới.

Nên lần lần, vị Bồ Tát cảm thấy cần phải hạ thủ công phu quán chiếu, không những riêng trong những lúc tĩnh tọa, mà ngay trong những oai nghi: Đi-đứng- nằm-ngồi-nói-nín… để đi vào các cảnh giới mà không gián đoạn công phu.

Và vị Bồ Tát lại tu tập luôn cả phương thức TÙY DUYÊN ĐỒI CẢNH THỂ CHƠN CHỈ như sau, để quán chiếu cả Sự lẫn Vật đều như-huyễn.

TÙY DUYÊN ĐỐI CÁNH THỂ CHƠN CHỈ:

– Tỷ dụ như trong khi ĐI, thì Bồ Tát nghĩ rằng: Đi thế này là nghĩa gì?… Đi thế này tức là Đem- thân-mấy-thước-này-để-đo-pháp-giới đây… Nhưng thân là cái gì, và pháp giới là gì? Thân này là cái vỏ thô kệch của Kiến-phần nó chuyển hiện từ biển Tàng thức sơ năng biến xuống những lớp lưu ngại thô kệch, và nó được dệt nên bởi những cơn lốc quang minh trọng trược chuyển động lần lần chậm lại của những vọng- tưởng kiên cố xoay vần từ vô thủy… Còn con- đường-đi là gì? Nó thuộc về cái pháp giới mênh mang kia đấy, và nó có vẻ rắn-chắc-ù-lỳ khó thể lay chuyển. Nhưng tuy rắn chắc ù lỳ, nó cũng chỉ là hiện-tướng của cái Tướng-phần, mà Tướng phần này thì cũng bắt nguồn từ cái biển Tàng thức sở năng biến mà chuyển hiện xuống. Sự chuyển hiện của Tướng phần này lại bắt buộc phải TƯƠNG ƯNG với sự hiện hành NỞ ra của những chủng tử trong Kiến phần. Vậy thì con đường này, tuy có vẻ rắn chắc nặng nề, nhưng cũng chỉ là cảnh-tượng LÓE lên từ nơi Tàng thức, do sự chiêu cảm của những chủng tử nở ra… Vậy thì cái thân này và con đường này, thực ra tuy chẳng phải là một, nhưng cũng chẳng phải là khác. Vì sao? Vì đều là ảnh-tượng lóe lên từ cái biển Tàng thức… Ấy thế mà nay lại muốn đem thân này để đo con đường này! Tức là đem 1 ảnh tượng để đo 1 ảnh tượng!??

Lại còn cái sự việc ĐI thì ra sao đây?… Đi là như thế nào?… Là: bỗng có 1 tâm niệm khởi lên là muốn động-đậy cựa quậy. Tâm niệm động đậy phổ vào cái thân, nên thân động-đậy. Thân động đậy thay đổi nên duyên ra 1 cảm giác về sự chuyển động… Nhưng sự việc chuyển động này là có thực hay không thực?… Nếu nhìn về 1 mặt, thì thấy sự việc ấy có vẻ là THẬT CÓ, vì thân có thay đổi vị trí so với con đường… Nhưng nếu nhìn về 1 mặt khác và suy ngẫm kỹ, thì sẽ thấy rằng không thể có 1 sự chuyển động thực-sự được, không thể có 1 thứ gì, 1 entity hay tự-thể gì khả dĩ gọi là chuyển-động đơn thuần (movement pur). Vì sao? Là vì trong pháp giới, bất cứ cái gì từ cực tiểu cho đến cực đại, cũng đều lay động không ngừng nghỉ cả. Và nếu tất cả đều lay động, thì làm gì có sự đứng-yên (rest hay immobility), và nếu không có sự đứng-yên thì làm gì có sự chuyển động thực sự được?!

Vả lại, tác-động ĐI ấy không phải là lìa thân mà có được, vì có ai trông thấy một tác động Đi thuần túy độc lập mà không cần có vật-đi đâu? (No going without goer). Nhưng tuy Đi không phải lìa thân hay vật mà có được, nhưng nó cũng chẳng phải là một với thân…

Như vậy thì ra thế nào? Tóm lại, thì phải kết luận ra sao về cái bộ Ba: Người đi, tác động đi và con đường đi qua này?… Chẳng lẽ tới chỗ bế tắc sao?

Như vậy thì phải hiểu thâm sâu rằng: cái thân người đi vốn là huyễn mộng như bọt nước, con đường kia cũng chỉ là sự huyễn- hiện tưong ưng của những quang minh thuộc Tướng phần, thì tác động đi cũng chỉ có thể là 1 ảo-giác, 1 vọng-tưởng khởi lên do sự biến hiện chập chùng tương sanh tương duyên trong cái màn thiên la võng nhân duyên của pháp giới này… Và cả 3 đều chẳng phải là một, cũng chẳng phải khác, vì đều là 1 TUỒNG HUYỄN HIỆN của Tâm, do nghiệp lực chiêu cảm mà thôi.

Tóm lại, trong khi Đi, vị Bồ Tát có thể quán chiếu như vậy… Và lần lần nhận thấy rằng các pháp đều chẳng-thật-chẳng-hư, đều là Rỗng-lặng.

– Về mấy oai nghi khác như ĐỨNG, NẰM NGỒI… vị Bồ Tát có thể nương theo giáo lý Như huyễn để suy nghĩ cùng quán chiếu theo cách tương tự như đoi với oai nghi ĐI.

Còn như về oai nghi NÓI, NÍN, thì có thể quán chiếu đại lược như sau: NÓI là cái gì vậy? Hiện tượng Nói là như thế nào? Là tâm nói, hay thân nói, hay là chẳng-có-cái-gì-nói cả?… Bỗng dưng có 1 tâm niệm khởi lên từ nơi mịt mùng, rồi các thớ thịt ở ngực co lại, phát ra 1 luồng-hơi, 1 luồng ba-động quang minh rào rạt, luồng này chuyển xuống phía bụng, đập vào dưới bụng, rồi dội ngược lên, va chạm phải yết-hầu, lưỡi, răng, 0 gà, má, môi… rồi chuyển hiện thành 1 thứ tiền- trần gọi là âm-thanh hay tiếng nói, mà nhĩ-căn của 1 số chúng sanh, vì nghiệp-lực tương ưng, có thể lãnh nạp được… Cơ sự diễn biến là như vậy.

Nhưng như thế là thế nào? Cái tâm niệm đầu tiên kia thì từ đâu mà ra, từ đâu mà khởi lên? Từ thân ư? Hay từ 1 lớp nào thô kệch hay vi tế của tâm thức? Hay từ nơi 1 hố- thẳm mông lung mịt mùng nào khó nổi thăm dò?… Rồi luồng hơi kia là cái gì vậy? Nó là thực hay không thực? Tại sao nó lại chuyển xuống phía dưới rồi bật ngược lên? Tại sao lúc va chạm phải ổ gà, lưỡi, răng… nó lại làm phát hiện 1 thứ tiền trần gọi là tiếng nói?… Tiếng nói này là thực, hay chỉ huyễn ảo như 1 tiếng VANG?… Tiếng nói tiếp-nối nhau thì là miên-tục (Continu) hay không miên-tục?… Tại sao lại có những chúng sanh nghe thấy, và lại có vô lượng những chúng sanh khác chẳng hề nghe thấy?… Nen nó là thật-có, thì chúng sanh nào cũng bắt buộc phải nghe thấy. Còn nếu nó là không-thật-có, thì tại sao lại có 1 số chúng sanh nghe thấy, rồi khởi tâm giận- dữ hoặc vui mừng?… Hơn nữa, tiếng nói là âm thanh, âm thanh thì đi vào nhĩ-căn, vậy tại sao tiếng nói lại hình nhu có 1 ý-nghĩa và tác động vào tới ý thức được?…

Bồ Tát cứ bồi hồi suy nghĩ hoài như vậy… thì rồi sẽ nhận thấy rằng: tiếng nói, cũng như các pháp khác, đều khởi lên chẳng từ đâu, đều như mộng như ảnh như vang, đều không thật không hư, đều chỉ là huyễn-khởi- trùng-trùng-tương-ưng. Và cả người nói tiếng nói và người nghe, tuy là 3 mà cũng là 1, vì đều là 1 tuồng huyễn-hiện dính mắc chằng chịt trong cái màn thiên la võng nhân duyên mênh mang mịt mùng của pháp giới…

– Trên đây là nói về TRẢI DUYÊN để tu tập Thể-chơn-chỉ. Nay đến ĐỐI CẢNH Thể-chơn-chỉ.

Đối cảnh cũng vậy thôi, và Bồ Tát cũng suy tư quán chiếu tương tự như vậy.

Tỷ dụ như khi thấy sắc, thì quán chiếu như thấy hoa trong gương, trăng đáy nước. Và nhiếp tâm không cho khởi 1 mảy mún vọng-tình như ưa ghét vui buồn… Nghe âm thanh thì quán chiếu như tiếng vang, và không khởi vọng tình… Ngửi mùi hay hương, thì quán chiếu như 1 làn khói… Nếm 1 vị thì quán chiếu như mình nếm 1 vị trong mộng… Khi có 1 xúc giác, quán chiếu rằng tay mình vừa đụng chạm phải 1 cái bóng, v.v…

Cần nhất là không khởi vọng tình. Vì trên đuờng tu tập, cần tiêu trừ vọng tình truớc, rồi sau sẽ tiêu trừ vọng tưởng, vì vọng tưởng vi-tế hơn… Lần lần như vậy, vị Bồ Tát sẽ đi lần vào miền Tĩnh lặng nơi Không hải của tâm thức…

Thiết tưởng cần nhận định rõ rằng lối quán chiếu NHƯ HUYỄN là bí-tạng của Chư Phật, là cửa ngõ cao siêu và tuyệt vời nhất để đi vào nơi Không hải của Tàng thức, rồi bước lần tới chỗ Tột-không-Diệu-hữu của Chư Thế Tôn… Thực ra, thì lối quán chiếu này thường bao hàm dung nhiếp cả 3 phép quán Không Giả Trung, và không vướng 1 lỗi lầm gì hết, vì lúc nào cũng phù hợp với Trung-đạo… Nhưng trong giai đoạn đầu, sự tu tập của Bồ Tát là nghiêng về Không, để thành tựu Không quán. Nhưng tuy nghiêng về Không quán, mà vẫn thường bàng bạc có Giả quán và Trung quán.

Đó là điểm đặc sắc của con đường Bồ Tát Đạo.

Bồ Tát Đạo này còn hàm chứa nhiều điểm kỳ- đặc khác nữa… Như là: con đường của Nhị thừa thường là ưa Định-lực, thích thiền-lạc, nên thường dùng định-lực để làm phát sanh 1 ít Huệ-lực. Trong khi Bồ Tát Đạo lại chú trọng vào Huệ-lực tức Quán-lực, và dùng Huệ-lực để làm phát sanh định-lực… Và Huệ sanh định thường nhanh hơn là Định sanh huệ.

Thêm nữa, Nhị thừa vì không có những khát ngưỡng siêu xuất cao viễn, nên thường chỉ biết trông cậy vào Tự-lực tức là thức thứ 6 và 7 của mình, mà chưa biết đến Diệu tâm, chưa biết đến những nguồn Thần-lực không ngằn mé của Diệu-tâm, chưa biết đến sự Nở tung ra rầm rộ của Tàng thức, tương tự như 1 cánh rừng đầy hoa thơm cỏ lạ. Nên trên đường tu tập, chỉ đạt được Định lực và 1 ít Huệ lực.

Trái lại, con đường Bồ Tát Đạo thường đạt được Huệ-lực thâm sâu, rồi lần lần được định-lực như 1 bậc A La Hán, tức là khi Bồ Tát bước tới Đệ-lục-địa tức Hiện tiền địa… Nhưng ngoài Huệ lực và định lực, Bồ Tát lại còn có thêm NGUYỆN Lực nữa. Nguyện-lực là gì? Là những luồng tâm lực lớn lao, khởi lên do sự phát những ĐẠI THỆ NGUYỆN TRANG NGHIÊM. Như là phát Vô thượng tâm, phát Đại bi tâm, phát tâm muốn mang lại sự lợi ích an lạc cho mọi chúng sanh, muốn khiến cho chúng sanh thâm hiểu Đạo lý lớn… và như thế cho đến tột-vi-lai-tế, như Kinh Hoa Nghiêm giảng nói rất kỹ càng.

Do đó, nguyện-lực của chính Bồ Tát đã có thể làm tăng trưởng huệ-lực rất nhiều. Nhưng không phải chỉ có vậy. Vì có cảm thì phải có ứng, Bồ Tát đã phát đại-tâm cho pháp-giới, thì pháp-giới bắt buộc phải đáp ứng lại. Sự phát tâm trang nghiêm của Bồ Tát, làm phát ra những luồng quang minh vi-tế mãnh liệt, thẩm thấu đến bình diện đáy tầng sâu thẳm của pháp giới, tức là cái biển quang minh THÂN Lực và NGUYỆN Lực của Chư Phật cùng Đại Bồ Tát. Biển quang minh này bắt buộc phải DỘI NGƯỢC lại, và tỏa sức GIA TRÌ không thể nghĩ bàn lên Bồ Tát… Đó là lời giảng nói rõ ràng của Kinh Hoa Nghiêm và Lăng Già.

Do sức gia trì này, những công hạnh của Bồ Tát lần tăng tiến tới chỗ không ngằn mé… Và đó là điều mà những kẻ tu hành cần suy ngẫm kỹ.

Ngoài ra, thêm với nguyện-lực, Bồ Tát lại còn khởi được cái tâm VÔ SỞ CẦU. Không cầu riêng gì cho mình, không e sợ khổ lụy, không mong cầu Thiền-lạc, không mong cầu thọ sanh những nẻo tốt lành sung sướng, mà chỉ mong cầu có 1 điều: muốn BIẾT tất cả pháp, biết tất cả thế giới, biết tất cả các loài chúng sanh, biết tất cả tâm niệm chúng sanh… để chỉ bày dẫn dắt họ trở về nhập pháp giới, nhập Diệu tâm. Mong cầu như vậy chính là vô-sở-cầu-hạnh, vì Tự Tha vô ngại, và phù hợp với Trung đạo.

Với tâm vô sở cầu này, Bồ Tát có thể mau lẹ tiến tu. Không lạc vào những con đường tẽ của thiền-lạc, cũng như không lạc vào ma-chướng. Vì các ma chướng trong Kinh Lăng Nghiêm đều khởi lên từ cái tâm gấp- gáp mong cầu.

Với tâm vô sở cầu, Bồ Tát dù có nghe nói lịch-kiếp tu hành trong ba A tăng kỳ, cũng không hề e ngại sợ hãi. Hoặc nghe Kinh Hoa Nghiêm nói trong một sát na có thể Chánh giác,… cũng chẳng hề khởi tâm khấp khởi vui mừng… Vì sao? Vì Bồ Tát lần lần hiểu rằng thời gian chỉ là một vọng tưởng, tùy thuộc thể-tốc của quang minh tâm thức, và kiếp số cùng sát na đều có thể chuyển hiện lẫn cho nhau… Nhưng tuy hiểu như vậy, Bồ tát vẫn siêng năng cần cù làm mọi sự Như-huyễn, để lui bớt những bóng tối tăm trong tâm thức mình cũng như trong pháp giới…

Chỉ và Quán trong giai đoạn Xa ma tha đã nói rồi, nay nói đến các THỨ BỰC ĐỊNH, cùng QUẢ VỊ CHỨNG ĐẮC trên lộ trình ấy.

1. Trước hết, hãy nói đến CHỦNG TẢNH NHỊ THỪA

Về con đường tiến tu của chủng tánh này, các kinh sách thường hay nói đến: 9 bậc ĐỊNH (Cửu thứ đệ định) và 4 QUả VỊ Tiểu thánh tức Tu Đà Hoàn, Tư Đà Hàm, A Na Hàm, A La Hán…, tức là bậc Nhập-lưu, Nhất lai, Bất lai và Vô sanh.

Về căn cơ thuộc chủng tánh này, thì dù là Thanh Văn hay Duyên Giác, cũng thường có 2 hạng hành giả:

– Một hạng thì lúc khởi điểm cũng rắp tâm muốn thoát khổ, nhưng ưa Định lực và RẤT HAM THÍCH THIỂN LẠC. Nên một khi dùng định lực vào nổi 1 số thứ bực Định rồi, thì nhận thấy trong định lâng lâng sung sướng quá, chẳng còn gì khổ lụy, nên thường khởi tâm muốn ngồi lỳ ở đó hưởng thiền-lạc, lần lần quên lãng mất mục tiêu là tiêu trừ các phiền não để được giải thoát ra khỏi luân hồi tam giới.

Con đường của những vị này thường được gọi là PHI TRẠCH DIỆT VÔ VI. Tức là dùng sức Định mà ít dùng sức Quán, nên các phiền não thô chỉ tạm thời NÉP PHỤC vì thiếu co duyên hiện hành, chứ chưa hề bị tiêu trừ.

Do đó, các vị này dễ đạt được 1 số thứ bực Định nhưng không-nhứt-thiết-đắc-Quả, và thường là ít đắc quả để ra khỏi luân hồi tam giới cùng phần đoạn sanh tử. Vì muốn đắc quả ra khỏi tam giới, cần phải tiêu trừ nổi những phiền não thô.

Vậy thân phận của các vị này ra sao?… Neu các vị ấy thức tỉnh được điều đó, thì là tốt lành rồi. Nhưng nếu không thức tỉnh và chỉ thích ngồi lỳ trong niềm thiền lạc của 1 con định nào đó, thì trong lúc còn báo thân này, vẫn tiếp tục được hưởng niềm thiền lạc ấy. Rồi tới khi mãn báo thân, thường được thọ sanh ở những trời sắc hay Vô sắc tùy theo cơn định đạt được lúc gần lâm chung… Nhưng nếu lại phạm phải 1 trọng nghiệp, hoặc lúc lâm chung khởi 1 thứ tâm tưởng điên đảo trầm trọng, thì các phiền não lại có cơ duyên nổi lên ào ào, và cũng có thể bị đọa ác-đạo.

Tỷ dụ như trường hợp của Thiện Tinh tỳ kheo. Thiện Tinh là 1 vị đệ tử của Phật, có nhiều khả năng định-lực, nhưng tính tình kiêu mạn phóng túng, thích lui tới giao du với bọn Ni-Kiền-Tử ở trần và ăn bã rượu, và hay lộng ngôn bài bác nhân quả. Ông ta dùng định lực vào được đệ-tứ-thiền, nhưng lại hiu hiu tự đắc, cho rằng mình đã đắc quả A La Hán… Tới lúc lâm chung, thấy phiền não vẫn nổi lên bời bời, chẳng có gì là chân thường an lạc hết, nên giận dữ thốt lời vọng ngữ rằng: “Chẳng có Niết bàn gì hết, và lời Phật nói chỉ là hư vọng…” Nên bị hiện báo và đọa địa ngục… Trường hợp này được nói đến trong Kinh Đại Bát Niết Bàn…

– Một hạng căn cơ nữa thì nhất tâm muốn thoát khổ, cũng ưa định-lực cùng thiền lạc đấy, nhưng mong cầu hơn hết là muốn diệt trừ phiền não để ra khỏi luân hồi tam giới.

Các vị này cũng dùng định-lực để có thể vào các định cũng như làm nép nhục các phiền não, nhưng đồng thời chú trọng dùng huệ-lực để quán chiếu diệt trừ phiền não.

Con đường này gọi là TRẠCH DIỆT VÔ VI.

Cấc vị này thường là đắc quả, nhimg không- nhứt-thiết-là-đắc-định… Tỷ dụ như những vị đắc Tu Đà Hoàn và Tư Đà Hàm thì có thể là không đắc định.

Đến bực A Na Hàm thì bản lĩnh đã cao siêu, định lực đã thâm sâu rồi, nên thường đắc cả quả lẫn định.

Bậc A La hán thì dĩ nhiên là cũng đắc các định.

Các bậc đắc ba quả vị đầu, thì không thể đọa nữa vì thân tâm đều thanh tịnh… Lúc mạng chung, thường thọ sanh ở những trời cõi sắc. Các bậc A Na Hàm đều thọ sanh ở năm tầng trời Bất hoàn thiên. Và các bậc A Na Hàm có căn cơ mãnh lợi và huệ lực cao, thường hay tránh không muốn vào Tứ Không định ở cõi Vô sắc, muốn đi thẳng lên Diệt tận định, rồi đắc A La Hán ra khỏi tam giới… Là vì các vị ấy hiểu rằng khi vào Tứ Không định, thì niềm thiền lạc quá lớn và giả có thể khởi tâm muốn sự cám dỗ rất mạnh, và hành ngồi lỳ nơi đó để tọa hưởng. Vả lại, ở cõi trời Vô sắc, khi nào nghiệp cũ hiển lộ, thì vẫn có thể bị phước báo hết, và tụt xuống…

Nay nói đến Chín BẬC ĐỊNH

Trên đại lược, chín bậc Định này là những gì và như thế nào?

Chín bậc định này đều là những chặng đường, ngày càng đi SÂU vào những lớp tâm thức, và bước lần vào nơi Không hải của Tàng thức… Và gồm: Sơ thiền, Nhị thiền, Tam thiền, Tứ thiền, rồi Không vô biên xứ định, Thức vô biên xứ định, Tô sở hữu xứ định, Phi tưởng phi phi tưởng xứ định và Diệt tận định.

Thế nào là đắc Sơ thiền?

Sơ thiền được gọi là Ly sanh hỷ lạc địa. Ly là lìa ÁI DỤC, và do lìa ái dục nên thân tâm được an ổn khoái lạc, sanh ra vui mừng… Kẻ hành giả, đã NHẤT TÂM muốn tu hành, nhưng chưa có mấy nổi định lực, bèn tu tập lìa bỏ các tập quán ái dục. Lìa ái dục, nhưng còn giác quán tức là còn cảm giác và xét nghĩ. Nghĩa là còn Thọ ấm, Tưởng ấm, nhưng muốn chặt đứt cái tâm tham ưa những Lạc thọ.

Do sự lìa bỏ ái dục, nên tâm không kiêu mạn, không ham muốn, không thích tranh cãi hơn thua, ý thường thênh thang vui vẻ, lời nói nét mặt nhu hỏa, thân tâm an ổn khoái lạc… Như thế là đắc Sơ thiền.

Thế nào là đắc Nhị thiền?

Nhị thiền là Định sanh hỷ lạc địa. Nghĩa là do Định mà sanh rất vui mừng… Vị hành giả đã lìa được ái dục rồi, nhưng còn giác quán và chưa vào được định. Bèn nhận thấy giác quán là lỗi lầm, vì nó làm não loạn chao động tâm thiền định. Nên tu tập cắt đứt giác quán, học không giác không quán… Do đó, Định thanh tịnh phát sanh, vào Nhị thiền. Thấy tâm lặng lẽ an ổn xua chua từng có. Nên rất MỪNG.

Giai đoạn này tương xứng với phuong thức Chế tâm chỉ đã nói ở trên.

Tam thiền: gọi là Ly hỷ diệu lạc địa. Nghĩa là lìa cái Hỷ thì đuợc Diệu lạc… Khi ấy, hành giả dụng tâm quán cái Mừng, nhận thấy mừng vẫn là lỗi lầm, là họa hoạn, vì nó vẫn khiến tâm dao động. Bèn tu tập rời bỏ cái mừng thô. Liền đuợc niềm Vui sâu và thanh thoát của các bậc hiền thánh. Vào Tam thiền.

Tứ thiền: đuợc gọi là Xả niệm thanh tịnh địa… Nghĩa là Xả hết mọi niệm, nên đuợc thanh tịnh… Khi ấy, hành giả lần nhận thấy rằng ngay cái Vui sâu và thanh thoát ấy cũng vẫn còn lỗi lầm, vì nhu thế tâm vẫn còn động chuyển. Bèn tu tập rời bỏ cái vui ấy, phóng xả các niệm, để tâm đuợc thanh tịnh, vô sự, không động chuyển. Vào Tứ thiền.

Tứ thiền này là một con Định khá lớn trên giai đoạn đi vào Không hải của Tàng thức. Vào đến đây, hành giả gần nhu đã làm bặt được Thọ ấm và Tưởng ấm, không còn khởi những cảm thọ cùng tâm tưởng nữa, không còn động chuyển nữa… Nên cũng được gọi là BẤT ĐỘNG DIỆT VÔ VI. Nhưng thứ Bất động này là còn nông và thấp, chưa phải là Bất động địa hay Biến hóa địa của Bồ Tát Đệ bát địa. Vì tuy gọi là Bất động diệt, nhưng mới là những lóp Thọ và Tưởng bất động thôi, và còn những dòng biến dịch vi tế liên miên bền dưới vẫn như thác đổ của Mạt na thức và Tàng thức.

Tuy nhiên, đến mức này, hành giả đã có được những khả năng khác thường: có thể ngưng hơi thở, phóng quang ít nhiều, và biến hóa ít nhiều… Khi lâm chung thọ sanh lên những tầng trời Tứ thiền. Và gặp lúc kiếp hoại, những tầng trời này không bị tam tai phá hoại tan hoang như những tầng trời ở dưới.

Đến mức này, có một đường chẻ, nguy hại cho tiến tu. Những vị có căn cơ ít mãnh lợi và tầng thượng mạn, được một chút đã cho là đầy đủ, có thể ngừng chân lại nơi đây, rồi tới khi mạng chung, thọ sanh nơi tầng trời Vô tưởng, rồi ngồi lỳ nơi đó… Còn những vị căn cơ mãnh lợi hơn, và hiểu biết về con đường của Đạo lý lớn, thì tìm cách muốn tiến tu lên nữa…

Đến đây là tới đảnh cõi trời sắc giới rồi. Các vị hành giả có thể tiến tu để vào những con Không định của cõi trời Vô sắc. Song những bậc hiểu biết về đạo lý lớn thuờng tránh không muốn vào những cơn Không định này, vì ở trong đó, sức cám dỗ của niềm thiền lạc trở thành quá lớn, khiến kẻ hành nhân rất dễ khởi tâm muốn dừng chân nơi đó, và nhu thế là lạc vào lỗi lầm của ngoại đạo… Nên các bậc này thuờng hay tu tập, muốn dùng quán lực để diệt trừ phiền não, đắc những quả vị nhu Tu Đà Hoàn, Tri Đà Hàm, A Na Hàm, rồi trực chỉ vào Diệt tận định rồi ra khỏi tam giới…

Vậy thế nào là TỨ KHÔNG ĐỊNH?

Không vô biên xứ định: hành giả khi đạt Tứ thiền rồi, đã lìa bỏ đuợc các lạc thọ cùng khổ thọ, đồng thời làm bặt được những tâm tưởng… nhưng lúc đó nhận thấy mình còn có THÂN, và thân này vẫn lưu ngại… Bèn tu tập quán xét cái thân hình sắc ấy là lỗi lầm, nghĩ tưởng Không xứ mới thực là pháp thượng diệu, và muốn tiêu cái thân ngăn ngại ấy vào hư không… Nghĩ tưởng tu tập như vậy hoài, thì lần lần vào được Không xứ định.

Lịch trình tiến tu vẫn là lần đi vào chỗ ngày càng VI TẾ… Nhưng Không xứ ở đây chưa phải là nơi Không hải của tâm thức, và chưa vô được Tàng thức. Mới chỉ là nhập được Không đại (tức hư không), tức là đại thứ năm trong bảy đại, và sau đó, còn cần phải nhập Thức đại và Kiến đại nữa thì mới gọi là vào Không hải… Và tuy nhập Không xứ rồi, nhưng hành giả vẫn còn coi hư không là có, vì chưa biết quán chiếu Như huyễn…

Thức vô biên xứ định: hành giả, lúc đó, nhận thấy rằng hư không, tuy gọi là vô ngại, nhưng chưa thực vô ngại, vì vẫn cỏn hình tướng, cỏn là thô kệch, nên vẫn là lỗi lầm. Bèn tu tập nghĩ tưởng tới công đức vi diệu của Thức xứ. Thấy Thức này còn sâu thẳm hơn hư không, vi tế hơn, vô tướng mạo hơn và chắc là vô ngại hơn.

Quán chiếu lâu như vậy rồi, thì lọt được vào sâu hơn nữa trong tâm thức, vượt qua Tưởng ấm, và lọt được vào lớp THỨC XỨ THÔ của Thức thứ bảy. Nhưng chưa lọt được hoàn toàn, mới chỉ là vào lóp Thức Thô thôi, nên dĩ nhiên cũng chưa phải là Không hải.

Như thế, gọi là vào Thức vô biên xứ định. Thấy Thức Xứ Vô Biên, chu biến khắp giáp, và rất vi tế nhỏ nhiệm.

Vô sở hữu xứ định: Lúc đó, hành giả lại nhận thấy rằng Thức xứ này, tuy đã rất vi diệu nhỏ nhiệm, nhưng vẫn còn là lỗi lầm. Vì vẫn còn cái HAY BIẾT nó làm chao động… Nên tu tập quán chiếu diệt trừ cái hay biết lỗi ấy. Rồi vào Vô sở hữu xứ định.

Đến đây, có lẽ tâm thức của hành giả vẫn còn nằm trong phạm vi của lớp Thức Thô của Thức thứ bảy. Và thức này được dệt nên bởi những Vọng tưởng u ẩn chấp Ngã từ vô thủy.

Do đó, nên tuy gọi là đã diệt được cái hay biết cùng kiến chấp năng sở nó làm chao động, và thấy mười phương, như là vắng lặng, nhưng kỳ thực thì ở bên trong vẫn còn cái chấp Ngã âm thầm của lóp Thức rất u ẩn vi tế của Thức thứ bảy.

Phi tưởng Phi phi tưởng xứ định: Hành giả lại cần phải quán chiếu sâu hơn nữa, để lọt vào lóp Thức rất u ẩn vi tế của Thức thứ bảy… Quán chiều thuần thục thì lọt vào lóp thức ấy, và thành tựu Định Phi tưởng Phi phi tưởng. Thấy tâm thức mình như một tấm gương lớn

Vắng lặng, như là đã bặt hết mọi gợn niệm tâm tưởng mà hình như vẫn còn gợn niệm tâm tưởng, thấy như là không chiếu soi mà hình như vẫn còn tiếp tục chiếu soi. Là vì vẫn còn cái dòng biến dịch rất vi tế của những quang minh của Thức thứ bảy và tám…

Do đó, nên trong Kinh Lăng Nghiêm, trang 919, Phật dạy: “Này A Nan, ở những cõi trời Tứ không đề thì không có sắc pháp của nghiệp quả, định tính hiện tiền. Song các loài trời đó, tuy muốn xét cùng cái Không, nhưng CHƯA TỘT ĐƯỢC LÝ KHÔNG…” Nghĩa là: Tuy tạm gọi là Không định, nhưng chưa phải là đã thành tựu được Không quán, chưa lọt được vào Tàng thức Sơ năng biến, nên dĩ nhiên lại càng chưa thể so sánh với bình diện Tột không của Chư Phật…

Nếu hành giả biết tiến lên, quán chiếu sâu hơn nữa, thì sẽ tiêu trừ vượt qua được cả lóp thức ẩn vi tế âm thầm chấp ngã, tức là những tập khí ô nhiễm chấp ngã của Thức thứ bảy. Sau thức trước đã bặt rồi, nay lại vượt Mạt na thức, nên vào DIỆT TẬN ĐỊNH. Rồi lọt vào nơi Không hải của Tàng thức Sơ năng biến… Và như thế là thành tựu Không quán và kết thúc lộ trình Xa ma tha.

Nay nói đến những QUẢ VỊ chứng đắc.

Quả vị là hậu quả của công phu dùng Định lục cùng Quán lục đế khiến nép phục rồi tiêu trừ những mầm mong của các phiền não, nó khiến các chúng sanh phải trôi lăn trong sáu nẻo. Nhung mới là tiêu trừ những phiền não thô, chua phải tiêu trừ những Tập khí, tức là Vô minh vi tế.

Phiền não thuờng đuợc chia thành Kiến hoặc và Tu hoặc… Kiến hoặc là những chỗ thấy biết là sai lầm rồi vẫn cố chấp lấy sai lầm đó, và cũng đuợc gọi là Lợi sử, vì tuơng đối dễ tiêu trừ. Tỷ dụ nhu Thân kiến, Biên kiến, Kiến thủ kiến, Giới thủ kiến và Tà kiến… Còn Tu hoặc là những chỗ cảm thấy hoặc nghĩ nhớ sai lầm rồi trở thành đắm nhiễm sâu xa, cũng đuợc gọi là Độn sử vì khó tiêu trừ. Tỷ dụ nhu tham, sân, si mạn, nghi…

Cả tam giới, Dục giới, sắc giới và Vô sắc giới đều có những hoặc này. Có điều là càng lên cao bao nhiêu, thì những hoặc càng bớt thô lậu và ngày càng vi tế.

Khi một hành giả dùng định lực cùng huệ lục đoạn trừ đuợc hết thảy các kiến hoặc trong tam giới, thì vị đó chứng đuợc Sơ quả Tu Đà Hoàn, tức là Nhập lưu (dự vào dòng Thánh). Còn đối với các Tư hoặc, thì vị này mới có thể làm nép phục được ít nhiều thôi… Nên vị Sơ quả này còn cần phải thọ sanh bảy lần nữa ở các tầng trời Dục giới, hoặc ở nhân thế thì mới đắc A La Hán ra khỏi ba cõi được.

Vị hành giả lại tu lên nữa. Tới khi đoạn trừ được sáu phẩm tư hoặc của Dục giới (Dục giới có chín phẩm tư hoặc) thì hành giả đắc quả Tư Đà Hàm, tức Nhất lai. Nghĩa là chỉ phải thọ sanh nơi Dục giới một lần nữa thôi.

Đoạn trừ được nốt ba phẩm tư hoặc của Dục giới, thì đắc quả A Na Hàm, tức Bất lai. Nghĩa là không cỏn phải thọ sanh trở lại nơi Dục giới, mà thường thọ sanh ở năm cõi trời Bất hoàn thiên ở cõi sắc. Các vị này đều có thân tâm dệt bằng quang minh khá vi tế, và kiếp sống thường trải dài trong niềm thiền lạc… Tuy nhiên, thường nghĩ tới việc tu lên, thường tránh không muốn vào Tứ Không định, chỉ mong diệt nốt những phiền não để ra khỏi tam giới.

Tới khi đoạn trừ nốt được bảy mươi hai phẩm tư hoặc của Sắc giới và Vô sắc giới, thì đắc quả A La Hán, cũng gọi là Vô sanh. Nhưng Vô sanh này còn là một thứ Vô sanh thấp, chưa phải là Vô sanh pháp nhẫn của Đệ bát địa Bồ Tát. Và chỉ có nghĩa là không phải trở lại thọ sanh ở trong tam giới nữa… Đắc quả này rồi, thì có thể nhập Diệt tận định, làm bặt bảy thức trước, và lọt vào nơi Không hải của Tàng thức (tức Thức ấm). Và thành tựu Không quán…

Vào đến đây rồi, thì SAO NỮA?

Vào đến đây rồi, tức là đã đi được chừng một phần ba con đường tu theo Chánh pháp của Chư Như Lai (tức là tu thành Phật).

Thành tựu được Không quán, CHỚM BƯỚC vào nơi Không hải mịt mùng của Hiện thức (Tàng thức) và của Chân thức (Diệu tâm).

Tức là đạt tới bực CÀN TUỆ ĐỊA của Kinh Lăng Nghiêm, chỉ có cái Huệ khô trong sáng, rỗng suốt thôi, chưa thấm nước ĐẠI Bỉ cùng pháp thủy của Chư Như Lai.

Được sáu CÃN RỖNG LẶNG (cũng tương tự như sáu căn thanh tịnh của vị đắc Pháp Hoa Tam muội), nhưng chưa được sáu căn hỗ dụng của Bậc Diệu giác mà toàn thân chỉ là một khối Bảo giác viên dung.

Vì sáu căn rỗng lặng, nên thấy nghe hay biết được một CÕI Đại thiên thế giới. Chưa biết nhiều hơn được.

Nếu các phiền não đã đoạn rồi, thì đắc quả A La Hán. Ra khỏi tam giới. Vào Biển Tịch diệt của Thanh Văn sau khi mạng chung…

Nhưng tuy các Kiến hoặc cùng Tư hoặc đã sạch rồi, song vẫn còn những vô minh vi tế, bàng bạc gọn sóng lăn tăn trong cái biển Thức ấy, và nhiều hơn cát bụi… Nếu không chuyển nổi những gợn sóng cát bụi ấy, thì Phật Đạo chưa thành tựu được.

Vậy thì còn phải làm gì nữa, phải tu ra sao?

Vậy thì lúc đó, các bậc A La Hán lợi căn cần hiểu rõ con đường của Đạo lý lớn, phải biết hồi tâm, phát tâm lớn đi vào Đại thừa. Phải đừng cho là đủ, rồi tiếp tục lặn lội bì bõm trong biển Tâm để gột sạch và chuyển những Vô minh vi tế… Nghĩa là luôn luôn hứng khởi Đại bi tâm để thấm nhuần Càn huệ, đi vào Giả quán rồi Trung đạo song chiều… Và vì sẵn có định lực cùng Càn huệ, nên các bậc đó có thể trải qua khá mau lẹ những bậc Thập trụ, Thập hạnh, Thập hồi hướng… để đi vào Thập Địa.

Còn những bậc A La Hán độn căn thì ra sao? Các bậc này, lúc đó, thường cho là đủ, và chưa chịu hiểu Đạo lý lớn. Nên Kinh Lăng Nghiêm gọi là: mắc bệnh Triền không và sa vào Định tánh Thanh Văn… Nghĩa là nghĩ rằng: Mình tới đây là đủ rồi, tới bến nguyên sơ tịch diệt, không muốn nghĩ xa hơn nữa, chỉ muốn ngồi đó hưởng niềm trầm không thú tịch, chẳng muốn nghĩ đến chúng sanh hay pháp giới, nghe thấy nói trang nghiêm cõi Phật hay Nhập Pháp Giới thì chẳng thấy ưa thích gì cả…

Nên trong khi còn báo thân này, thì ngồi lỳ trong niềm thiền lạc ấy, ở niềm tịch diệt ấy, ở hóa thành ấy, ở nơi Niết bàn một ngày ấy.

Nhưng khi mãn báo thân này rồi, thì các ngài ra sao? Kinh A Hàm thường chỉ nói rằng: các ngài vào Niết Bàn như củi hết lửa tắt, như một vệt ánh sáng tắt đi vì phiền não (ví như củi) hết rồi, nên hết phần đoạn sanh tử, và không cỏn thọ sanh nơi tam giới nữa…

Trong các kinh nguyên thủy, Phật thường chỉ dạy ẩn mật như vậy, không muốn nói rõ hơn. Vì sao? Vì do phương tiện huệ, Ngài biết rõ căn cơ của đa số người thời đó, nhất là ngoại đạo, thường chỉ mong cầu thoát khổ, được niềm an lạc, hoặc giải thoát khỏi tam giới mà thôi, chứ không muốn nghĩ dài xa hơn nữa. Và nếu Phật nói dài xa hơn nữa, nói mấy A tăng kỳ kiếp, thì đa số sẽ nản, có thể lắc đầu quầy quậy… Nên Ngài chỉ nói về nơi tịch diệt hóa thành, chỉ cần tu một kiếp hay vài kiếp, hoặc nhiều lắm là sáu mươi kiếp là có thể thoát rồi.

Nhưng chúng ta cần phải hiểu ý của Phật qua lăng kính của các kinh Đại Thừa, cùng những bộ Đại luận… Niết bàn ấy chưa phải là Biển Đại tịch diệt rốt ráo của Như Lai, chưa phải cái Thực tại cuối cùng tức Diệu Tâm. Củi hết lửa tắt có nghĩa là: củi tức là phiền não hay vô minh chi mạt đã hết rồi, thì lửa tắt. Lửa tức là sự bừng cháy của ngũ ấm, dệt nên những thân thô kệch chịu phần đoạn sanh tử trong tam giới… Nay lửa đã tắt, tức là không đi thọ sanh mang thân thô kệch trong tam giới mà thôi. Lửa tuy đã tắt rồi nhưng vẫn còn TRO NÓNG, phiền não rụng rồi nhưng vẫn còn Vô minh vi tế nhiều như cát bụi… Và thực ra, ở trong pháp giới này, chẳng có một cái gì có thể MẤT đi cả, (Rien ne se perd, rien ne se crée), chỉ có Biến hóa hay Biến hiện mà thôi.

Vậy thì vẫn còn tro nóng, còn vô minh vi tế… Het phần đoạn sanh tử có hình tướng thô kệch, nhưng vẫn còn cái dòng biến dịch vi tế liên miên lưu chuyển như thác đổ theo lời kệ của Kinh Lăng Nghiêm.

Còn biến dịch thì dĩ nhiên vẫn còn chỗ đi đến. Vậy thì đi đâu?… Tất nhiên là phải đi tới một trụ xứ nào DỆT bằng những quang minh còn vi diệu hơn những quang minh của cõi sắc và Vô sắc.

Trong bộ luận Abhisamayalankara Aloka (trích dẫn bởi ngài Narada trong cuốn Đức Phật và Phật Pháp, trang 595), có một đoạn như sau:

“Những vị Đại đệ tử đã chứng ngộ được tuệ giác của Thanh Văn, sau khi thân ngũ uẩn chấm dứt, vẫn còn tâm sợ sệt, bởi vì các ngài chưa đạt được Đại bi và Trí huệ cao thượng. Do sự chấm dứt sinh lực, tạo nên bởi những năng lực trong quá khứ, các ngài có thể đắc Niết Bàn…

Tuy nhiên, trên sự thực, chỉ thành tựu cái gì mường tượng như Niết Bàn, gọi là Niết Bàn, giống như ánh sáng dập tắt. Không còn trở lại Tam Giới nữa… nhưng sẽ tái sanh vào một cõi thanh tịnh nhất, trong cảnh giới hoàn toàn tinh khiết, ở trong một trạng thái

xuất thần nhập hóa, mơ mơ màng màng, bên trong những CÁNH HOA SEN.

Sau đó, Đức Phật A Di Đà cùng các vị Phật khác, giống như những VẦNG THÁI DƯƠNG, sẽ đem các ngài lên gột rửa trí huệ cho đuợc trong sáng… Từ đó, các ngài tận lực tiến đến Giác ngộ Vô thượng. Rồi tích trữ lần lần những yếu tố cần thiết của đạo quả Vô thượng, các ngài trở thành đạo sư của tất cả chúng sanh…”

Những luận cứ trên đây, tuy có vẻ khó tin khó nhận đối với một số căn cơ, nhưng suy ngẫm kỹ thì sẽ thấy rằng hết sức rốt ráo, và hợp với đạo lý vận hành của vũ trụ…

Đồng thời, có thể giúp chúng ta hiểu được lòng Đại bi nhiếp độ của Chư Phật, cũng như hiểu được cái bí ẩn thù thắng của những cõi Tịnh Độ. Vì các cõi này được dệt nên do nguyện lực và thần lực, và các quang minh còn vi diệu hơn những quang minh của cõi sắc cùng Vô sắc… Do đó, biết rằng pháp môn Vãng sanh quả là pháp môn mầu nhiệm tối thắng, khởi ra từ thần lực Đại bi của Chư Phật, vì pháp môn đó có thể gột rửa những kẻ nhiều nghiệp như chúng ta, rồi đưa sang gần như làm bạn lữ với những bậc đã đắc Ngã-Không. Thực ra thì trong cả pháp giới này, chỉ có 2 phân vực: uế độ và Tịnh độ. Thoát khỏi luân hồi tức là thoát khỏi phần đoạn sanh tử, là sang Tịnh Độ, chỉ còn sự biến dịch vi tế, nên thường là vô lượng thọ, và có vô lượng quang…

Về vụ lọt vào nơi Không hải của Tàng thức này, thì trong hàng ngoại đạo, trên nguyên tắc, nếu có những vị nào biết lìa bỏ những Không định, rồi gột sạch những tập khí ô nhiễm chấp ngã… thì cũng có thể lọt vào được.

Nhưng một khi lọt vào đó rồi, nhìn thấy cái biển quang minh vi diệu mầu nhiệm của Thức sơ năng biến, thấy sanh mạng của mình dung thông dính mắc với sanh mạng của các chúng sanh, thấy quang minh chập chùng chu biến khắp giáp, nên dễ vội cho là chân thường rồi lạc vào những ý ma.. Các vị ngoại đạo, vốn có nhiều lòng mong cầu cùng tâm tri kiến quá nặng, nên rất dễ khởi kiến chấp, nhất là chấp Có. Nên khi nhìn thấy biển Thức vi diệu và chu biến, thì khởi tâm khấp khởi vui mừng, nghĩ rằng cái đó chính là Thần ngã tối linh của mình, và chính nó đã tạo dựng nên vũ trụ. Hoặc cho rằng cái đó là Minh đế, là cái Hỗn độn hoang sơ, cái Thực tại cuối cùng đã tạo dựng nên vũ trụ… Do đó, nên mê mờ tánh Bồ Đe, thường dừng chân nơi đó, không biết đường tiến tu lên nữa để đạt tới tột bờ mé của Diệu tâm. Nên trong Kinh Lăng Nghiêm, Phật đã giảng nói kỹ càng về các ý ma mà ngoại đạo thường vấp phải, khi lọt vào Thức ấm tức là nơi Không hải của Tàng thức…

2. CHỦNG TÁNH BỒ TÁT:

Căn cơ Thanh Văn thường là đơn thuần minh bạch, còn căn cơ Bồ Tát thì đa dạng, phức tạp hơn, và rộng lớn hơn, cũng sâu hơn nữa… Không ham thiền lạc nhiều, ít e sợ sanh tử, ưa Huệ lực và muốn biết đến vô cùng tận, rồi lại khởi đại nguyện, làm phát hiện nguyện lực cùng chiêu cảm sức gia trì của Phật và Đại Bồ Tát… Rồi trên lộ trình Xa ma tha, không phải chỉ đơn thuần quán Không, mà còn quán Như Huyễn, nên có xen lẫn khá nhiều Giả quán cùng Trung quán.

Do những yếu tố đa dạng và chập chùng ấy, nên bước đường tiến tu của Bồ Tát thường phức tạp hơn, vì bao gồm nhiều khía cạnh.

Về chín thứ đệ định nói trên của Thanh Văn, thì trên đường tiến tu, Bồ Tát nhiều lúc cũng chú tâm tu tập để vào những định ấy. Nhưng khi vào được rồi, tâm không thấy ham niềm thiền lạc ấy, vì hiểu rõ rằng thứ bực ấy chưa có gì rốt ráo cứu cánh… Và mỗi khi vào được một định thường tự nhủ rằng: “Mình tương tự như một kẻ lữ hành, muốn đi khắp chân trời góc bể. Nay vào cái quán trọ này, chỉ là cốt muốn biết thôi, để biết nó là hắc điếm hay quán trọ hiền lương… Nay đã biết rồi, thì nên đi ra, để chỉ bảo cho những kẻ lữ hành khác biết đường lui tới nơi quán trọ này…”

Về bốn quả vị chứng đắc của Thanh Văn, thì trên đường tiến tu, Bồ Tát cũng nhiều lúc chú tâm tu tập, gột rửa bớt phiền não để chứng đắc những quả ấy. Nhưng mỗi khi chứng được một quả vị, cũng ít khởi tâm kiến chấp tự mãn và ít ham, vì biết rõ rằng cái đó chưa có gì là siêu tuyệt.

Lại thường nghĩ: “Nay mình đã biết rồi, thì nên đi ra, để chỉ cho các chúng sanh khác biết lối ra vô…”

Rất có thể rằng đối với các định cùng quả vị ấy, Bồ Tát phải để một thời gian dài hơn các vị Nhị thừa để chứng đắc… Là vì Bồ Tát không chú tâm vào những vụ đó nhiều bằng các bậc Nhị thừa, và lối dụng tâm của Bồ Tát cũng đa dạng hơn.

Lối dụng tâm đa dạng này là muốn noi theo con đuờng Đạo lý lớn của Chu Nhu Lai, muốn tới chỗ tận cùng tột bờ mé của pháp giới, muốn phối họp dung nhiếp cả Không giả Trung quán, dung nhiếp Lý và Sự, dung nhiếp Tự và Tha, mặc dầu trong giai đoạn này, vẫn phải nghiêng về Không và về Lý nhiều hơn.

Do đó, nên lộ trình tiến tu của Bồ Tát thường là một lịch trình biện chứng theo vòng tròn xoáy chôn ốc (en spirale), lúc nghiêng bên này lúc nghiêng bên kia và muốn dung nhiếp cả hai bên, để ngày càng tiến lên những bình diện cao hơn, sâu thẳm hơn.

Cứ như thế tiến sâu vào, rồi lần lần Bồ Tát cũng LỌT được vào Không hải của Tàng thức… Nhưng một khi lọt vào rồi, thì Bồ Tát không những chỉ thành tựu Không quán, mà còn THÀNH TỰU NHIỀU THỨ KHÁC NỮA.

Nay hãy duyệt lại những chặng đường tâm linh mà, theo các kinh, Bồ Tát thường trải qua trong giai đoạn này:

Trước hết là THẬP TÍN.

Tín tâm sâu chắc vốn là cội gốc, là mẹ của tất cả công đức… Nên trong chặng đường này, Bồ Tát thường nghe (Văn) và tư duy (Tư) nhiều, để làm chín mùi và thuần thục Tín tâm, đến mức dù gió nghiệp có nổi lên ào nhưng tín tâm vẫn không lay chuyển.

Nên cần phải suy tư miên man về giáo lý, về thông điệp tối thượng và vi mật của Chư Như Lai, tức là lý Duy tâm sở hiện cùng giáo lý Tương sanh tương duyên trùng trùng huyễn khởi. Phải hiểu rõ Chân tâm ấy là cỗi nguồn duy nhất, ngoài ra chẳng có gì khác. Phải hiểu nó là Chân thường, Chân lạc. Nó cũng là Diệu, là Minh. Nó Diệu như thế nào, Minh thế nào? Nó Diệu đến mức có thể huyễn hiện cả pháp giới, và Minh đến mức chói sáng khiến cho đạo nhãn của các bậc Thanh Văn cũng chưa chịu đựng nổi… Rồi hiểu tại sao khởi Vọng, và tâm chuyển hiện ra sao? Và Thức là cái gì? Cái vỏng huyễn hiện của nó tiếp diễn ra sao? Nó phổ vào những lớp lưu ngại, rồi làm LÓE lên những cảnh giới như thế nào? Nó phổ vào thân tứ đại, rồi làm lóe cái thấy nghe hay biết như thế nào? Và cảnh giới cùng cái Thấy, hai bên chuyển hiện tương ứng ra sao?…

Rồi làm thế nào để NGƯỢC DÒNG TRỞ VỀ… Chư Như Lai thường thuận dòng đi xuống để tiếp dẫn, nhưng còn chúng sanh thì làm thế nào để ngược dòng đi lên? Chư Như Lai xuất hiện nơi đời, hy hữu như hoa Ưu đàm ra sao? Thế nào là Thần lực, thế nào Tự lực? Thế nào thế giới, thế nào vi trần? Hiểu rằng Chư Như Lai không hề rốt ráo nhập Niết Bàn, còn như chúng sanh thì quyết định rốt ráo sẽ thành Phật. Vì cái đạo lý vận hành là Như thị… Cho nên, pháp giới này đối với mình, thì chẳng phải là một, cũng chẳng phải khác..

Suy ngẫm miên man như vậy, Bồ Tát ngày càng hiểu rõ cái bí ẩn lắt lay biến hiện của tâm thức, và tín tâm ngày càng thâm sâu, kiên cố gần như pháp giới… Đen kiếp hoại, dù tam tai có nổi lên, hoặc lúc lâm chung, dù gió nghiệp có thổi, thì tín tâm vẫn đứng vững… Vì hiểu rằng Chân lý không thể khác được.

Hiểu như vậy rồi, tin như vậy rồi,… thì thấy lòng Bi và Trí tăng lên mạnh mẽ. Muốn phát ĐẠI NGUYỆN để đi tới chỗ vô cùng tận và tột vị lai tế.

Bởi thế, nên Thập Tín bắt đầu bằng TÍN TÂM TRỤ, và kết thúc bằng NGUYỆN TÂM TRỤ… Bước vào Bồ Tát Đạo… Trên đại cương, Thập tín này vẫn còn nghiêng về LÝ.

Rồi bước tới THẬP TRỤ.

Thập trụ này là bắt đầu HẠ QUYẾT TÂM DẤ THÂN vào Bồ Tát Đạo.

Nên khởi đầu là Phát tâm trụ, tức là lập những Đại thệ nguyện, quyết đem tâm mình trải khắp cùng tận hư không giới và không ngừng nghỉ cho đến tột vi lai tế Bồ Tát trang nghiêm tự thệ: “Pháp giới rộng lớn vô cùng tận như thế nào, thì tâm tôi cũng vô cùng tận như vậy. Thời gian vô thủy vô chung như thế nào, thì tâm tôi cũng vô thủy vô chung như vậy…”. Tức là phát Bồ Đề tâm, lập Tứ đại hoằng thệ, nhứt tâm xu hướng và cầu Nhứt thiết chủng trí để độ sanh, tự thệ siêng năng cúng dường tất cả Chư Phật cũng như không nhàm chán e sợ sanh tử.

Rồi tới Trị địa trụ. Tức là lần lần khởi thêm mười thứ tâm dũng mãnh nữa như là: Tâm thương xót lân mẫn, tâm Đại bi, tâm muốn giáo hóa không thôi nghỉ, tâm muốn thủ hộ, tâm không khiếp sợ e ngại bất cứ một cảnh giới nào…

Nhưng tăng cường bồi dưỡng tâm lực như vậy cũng chưa đủ. Còn cần phải tăng trưởng huệ lực, bằng cách Quán sát các pháp trong mười phưong… Quán sát tất cả chúng sanh giới, tất cả pháp giới; và nhận thấy rằng chúng sanh thật là vô lượng, vô số, có vẻ như vô tận mà cũng hình như hữu tận… mà pháp giới cũng vậy, có vẻ như có như không, như là vô cùng tận mà cũng hình như hữu tận… Do đó, nên Bồ Tát nhận thấy rằng chúng sanh cùng pháp giới thực là bất tư nghị, bất khả ngôn thuyết…

Khi đã nhận thấy và tin sâu vào bộ mặt kỳ diệu lạ lùng bất khả ngôn thuyết ấy của pháp giới rồi, thì tâm Bồ Tát bắt đầu tiếp nhận được một chút khí phần nhiệm mầu của mười phương Chư Phật, và thấy tâm mình trở thành kiên cố, như không động, không thể thối chuyển… Lúc đó, dù Bồ Tát có nghe thấy nói khen Phật hay chê Phật, nghe thấy khen giáo lý là hay, hay chê là không hay, nghe nhiều người khen mình hay chửi rủa mình, hoặc thấy những cảnh giới hãi hùng đáng sợ, hoặc thấy những đám chúng sanh kỳ hình dị dạng và hung tợn, hoặc ở nơi thân mang nhiều trọng bệnh khổ lụy… nhưng trong tâm vẫn không thấy lay động. Vì Bồ Tát biết rõ các thứ phiền não khởi như thế nào và tắt như thế nào, và các tập khí tương tục của chúng sanh thường diễn khởi ra sao…

Khi Bồ Tát đã khéo biết các pháp cùng pháp giới như vậy rồi, thì vào cuối chặng đường Thập Trụ, Bồ Tát khởi tu LỤC ĐỘ vạn hạnh.

Tóm lại, trên chặng đường Thập trụ này, Bồ Tát trang nghiêm lập những đại hoàng thệ để xu hướng và tăng trưởng tâm lực của mình, rồi quan sát tất cả pháp để tăng trưởng Huệ lực về giáo lý Duy tâm sở hiện… rồi sau cùng, mang cái tâm tin sâu biết rõ ấy để bước vào Sự.

Như thế, chặng đường này vẫn còn nghiêng nhiều về Lý, và ít về Sự.

Rồi bước tới THẬP HẠNH.

Lúc này, Bồ Tát đã khá đầy đủ tâm lực kiên cố, cũng như đủ huệ lực thâm sâu rồi… Tâm lực cùng huệ lực tạo dựng nên định lực, vì nhiều khi huệ lực làm phát sanh định lực nhanh hơn là Định lực sanh Huệ lực… Các thứ lực ấy phổ vào thân hình Bồ Tát, khiến Bồ Tát có đủ hình tướng trang nghiêm, để bước vào Hạnh, tức là bước vào Sự, vào THA NHÂN, làm mọi sự việc cứu độ kẻ khác. Làm các sự, để thành tựu biển Công đức của Bồ Tát, thành tựu các đại nguyện… Do đó, nên trong Kinh Hoa Nghiêm, phẩm Thập Hạnh đuợc diễn nói bởi một bậc Đại Bồ Tát tên là Công Đức Lâm. Vì Công Đức Lâm là Rừng công đức.

Trên đại lược, mười hạnh thường tưong xứng với mười Độ, vì Bồ Tát cần thực hành mười Độ, chứ không phải chỉ sáu Độ.

Khởi đầu là Hoan hỷ hạnh, tức là Độ Bố thí… Bồ Tát phải làm Đại thí chủ, cho tất cả mọi thứ không hề xẻn tiếc, từ của cải vợ con, đến hình hài, đến giáo pháp, đến tâm lực… Khi Bồ Tát thấy có người đến xin đầu mình, thì lỏng khấp khởi vui mừng, như một tỳ kheo nhập đệ tam thiền. Nên gọi là Hoan hỷ hạnh, vì cho mà rất vui mừng.

Rồi đến Nhiêu ích hạnh, tức là Trì giới… Bồ Tát trì tịnh giới, nhiêu ích hữu tình giới, không phải là để mong cầu thọ sanh tốt đẹp, mà chỉ là để lợi ích chúng sanh.

Rồi Vô sân hân hạnh, hay Vô vi nghịch hạnh, tức là tu Nhẫn nhục. Dù có người đến chém mình, cũng không, khởi một niềm sân hận.

Rồi Vô khuất nhiễu hạnh, tức là tu Tinh tấn. Lòng tinh tấn của Bồ Tát thực là vô biên, tương tự như xưa kia, trong Kinh Hiền Ngu, ngài Đại Thí cầm cái gáo quyết tâm tát cạn biển cả… Tát biển thì đến bao giờ mới cạn, nhưng tâm lượng của Bồ Tát vô biên như đại hải.

Rồi Ly si loạn hạnh, từ là tu Thiền định… Lúc này, tâm của Bồ Tát đã lìa bỏ nhiều vọng tưởng tán loạn, định lực khá lớn, các thứ âm thanh không làm hoặc loạn được, có thể vào một số Định hoặc Tam muội… Nhưng trên đường hạnh nguyện, Bồ Tát thường tùy nguyện đi thọ sanh cùng khắp, nên lúc này, phải tu tập định lực khiến cho lúc nhập thai cũng không mê muội.

Rồi Thiện hiện hạnh, tức là tu Trí huệ Bát nhã… Gọi là Thiện hiện, vì Bồ Tát phải tu tập nhìn rõ các pháp đều là Biến hiện của Tự tâm. Thấy pháp như huyễn, thấy Phật như bóng, thấy Bồ Tát hạnh như mơ, thấy tiếng mình thuyết pháp như tiếng vang, thấy thế gian như mộng, thấy pháp giới như không hoa…

Rồi Vô trước hạnh, tức là tu Phương tiện huệ (Độ Phương tiện) và Vô tác diệu lực. Làm tất cả hạnh mà vẫn không chấp trước.

Rồi Nan đắc hạnh, tức là tu tập về Độ Nguyện… Vì không lúc nào quên lãng, rời bỏ Đại nguyện.

Rồi Thiện pháp hạnh, tức là tu tập về Lực… Lúc đó, thân tâm của Bồ Tát đã thuần phục đến mức, bất cứ một lời nói, một hành vi nào cũng ứng họp với cái biển Từ lực mênh mang của Chư Phật… Nên lần lần, tâm thức của Bồ Tát ứng hợp với biển Từ lực ấy.

Rồi cuối cùng là Chân thật hạnh. Vì thân tâm đều tương ứng với Chân thật tướng của pháp giới.

Tóm lại, chặng đường này toàn là Sự, là Hạnh… để gột bỏ những ranh giới giữa Lý và Sự, gột bỏ những vọng thức phân biệt giữa TựTHA, giữa mình và pháp giới…

Rồi bước vào THẬP HỒI HƯỚNG.

Các Hạnh đã làm khá nhiều, rải rắc trên các nẻo đường sanh tử tử sanh…, nhưng không phải là để cầu gì cho riêng mình, mà chỉ để HỒI HƯỚNG cho toàn thể pháp giới Để thanh tịnh hóa pháp giới, TRANG NGHIÊM pháp giới.

Nên tâm hành Hồi hướng là một tâm hành rất độc đáo của Bồ Tát Đạo… Nó cũng là một bí ẩn tuyệt vời của Bồ Tát Đạo. Vì sao? Vì nó chính là bí quyết để tăng trưởng, những thiện căn đến chỗ vô cùng tận. Neu làm một việc lành với một thứ tâm nhỏ, có sở cầu, có kiến chấp, thì thiện căn vẫn có, nhưng nhỏ và hữu hạn… Trái lại, cũng làm một việc lành ấy, nhưng với một tâm lượng vô hạn, không sở cầu, không kiến chấp, vì hiểu rõ rằng mình là huyễn và việc là mộng… mà chỉ là để hồi hướng trang nghiêm pháp giới thì thiện căn đó được tăng trưởng đến mức vô hạn định.

Là vì cái luồng tâm lượng vô hạn ấy, nó rất là vi tế và kỳ diệu, nó sẽ thẩm thấu tới những bình diện sâu thẳm và kỳ ảo của Diệu tâm, nên sự DỘI NGƯỢC LẠI cũng trở thành liên miên vô cùng vô tận…

Chặng đường này cũng là nhằm đẩy mạnh tâm thức của Bồ Tát thêm một bước nữa, lên một bình diện cao sâu hơn nữa, trong việc gột bỏ những tập khí phân biệt giữa LỶ và sự, giữa Tự và THA, giữa mình và pháp giới… Để thể hiện lần lần sự đồng nhất hóa giữa hai bên. Để tiến tới Lý sự vô ngại, Tự tha vô ngại, mình và pháp giới vô ngại…

Nên bắt đầu là Cứu hộ nhứt thiết chúng sanh Ly chúng sanh tướng hồi hướng… Cứu độ tất cả, mà chẳng hề thấy có tướng chúng sanh được cứu độ, rồi mang cái tâm hành ấy mà hồi hướng trang nghiêm pháp giới. Thiết tưởng trong cả pháp giới này, thực không thể có một tâm hành nào cao đẹp hon, kỳ diệu hơn nữa…

Bồ Tát luôn tự nhủ: “Tôi phải làm như mặt trời, chiếu soi khắp tất cả, mà chẳng nghĩ là mình chiếu soi, cũng chẳng cầu báo ân… Tôi siêng tu các thiện căn để hồi hướng cùng khắp. Thiện căn dù ít, nhưng tôi dùng tâm hoan hỷ quảng đại để hồi hướng… Hồi hướng như vậy để khiến tất cả chúng sanh đều được cái Vui không thọ, cái vui tịch tĩnh, cái vui vô động, cái vui vô lượng, và tuy luôn làm như vậy, tôi cũng chẳng hề chấp tướng…” (lược trích Hoa Nghiêm Kinh, phẩm Thập Hồi hướng).

Rồi lại đến hồi hướng cho niềm hoan hỷ của tất cả Chư Phật… Hồi hướng cho tất cả chỗ, tất cả xứ, tất cả cõi nhiều hơn cát bụi… Rồi lại bình đẳng tùy thuận theo tâm của tất cả chúng sanh mà hồi hướng… Rồi tùy thuận Chân nhu mà hồi hướng… Và sau cùng là tùy thuận Đẳng pháp giới vô lượng vô biên mà hồi hướng…

Và hơn nữa: “Trong khi Bồ Tát đem tất cả thiện căn hồi hướng như vậy, thì Bồ Tát vẫn biết rõ ràng chúng sanh giới chẳng hề có chúng sanh, hiểu tất cả pháp đều không có tác giả, ngộ tất cả pháp không có ngã, quán tất cả pháp đều từ duyên khởi không có trụ xứ, biết tất cả vật đều không sở y, rõ tất cả cõi đều không sở trụ, quán tất cả Bồ Tát hạnh đều không xứ sở, thấy tất cả cảnh giới đều không sở hữu…”. (Hoa Nghiêm kinh, trang 649).

***

Đến cuối chặng đường Thập hồi hướng này, Bồ Tát đã đạt được một NẤC PHỐI HỢP tạm gọi là viên dung của con đường thăm thẳm đi vào Trung đạo… Nghĩa là viên dung giữa Lý và Sự, giữa Tự và Tha, giữa Không quán và Giả quán.

Song nấc phối họp này còn ở một mức độ thấp, vì con đường đi vào Trung đạo là một diễn trình theo hình xoáy chôn ốc, ngày càng đi lên nhưng bình diện cao hơn, sâu hơn và hoàn mãn hơn.

Do đó, nên nhà Phật thường nói rằng: lộ trình đi từ Thập tín tới cuối Thập hồi hướng thường gồm một A tăng kỳ kiếp… Nhưng thực ra, lâu hay chóng là tùy thuộc căn cơ, cũng như sự tinh tấn hay giải đãi của hành giả, chứ không nhứt thiết phải là một A tăng kỳ kiếp.

Đến đây, bậc thành tựu được Thập hồi hướng có thể gọi là TƯƠNG TỢ GIÁC. Có thể thấy biết được Diệu tâm, nhưng mới thấy biết lờ mờ, nên gọi là Tương tợ giác.

Trên diễn trình vận hành của tâm linh, vị này đôi khi và trong một khoảnh khắc nào đó, cũng có thể đưa tâm thức lọt được vào nơi Không hải của Tàng thức sơ năng biến… Nhưng sự lọt vào đó thường là bất chợt, do thần lực gia trì nhiều hơn là do sức quán chiếu của mình, nên chưa được thường trực, và cũng chưa có thể xuất nhập tùy ý muốn.

Đồng thời, có thể đắc một số Định và Tam muội. Định thường là do sức của Không quán, nên những thứ bực định thường là hữu hạn, vì trên con đường đi vào Không hải, chỉ có một số thứ bực cao thấp hoặc sâu nông thôi… Nên kinh nhà Phật không bao giờ nói rằng có vô số vô lượng Định cả.

Trái lại, Tam muội thường là do sức của Giả quán. Giả quán là quán chiếu những cảnh giới, mà cảnh giới thì rất nhiều, vô lượng vô số, nên Tam muội cũng có thể là vô lượng vô số… Có thể quán đất, quán nước, gió, lửa, hoặc quán thân, hoặc quán các thứ cảnh giới mỗi mỗi sai khác, nên Đại Bồ Tát nhất là từ đệ bát địa trở lên có thể CHUYỂN Tam muội rất mau lẹ dễ dàng. Có thể nhập Tam muội bằng một cảnh giới, rồi xuất ở nơi một cảnh giới khác. Hoặc nhập Tam muội bằng thân hình người, nhưng khi xuất lại thành thân Chư Thiên hoặc một thân hình khác. Đây là nói về Đại Bồ Tát, và Kinh Hoa Nghiêm luôn luôn nhắc tới cái gọi là Tam muội đại tự tại lực ấy.

Cho nên, ở những mức độ còn thấp, thì Định với Tam muội có chỗ khác biệt là như vậy… Nhưng khi lên tới thật cao, gần tột bờ mé, từ Đệ Thập Địa trở lên, thì Định với Tam muội trở thành đồng, không còn dị nữa.

Tại sao vậy? Là vì ở mức độ ấy Không quán cùng Giả quán đã phối hợp hoàn mãn để trở thành Trung đạo song chiếu rất là tuyệt vời rồi… Do đó, nên từ Pháp vân địa trở lên, các Đại Bồ Tát có thể chứng nhập trọn vẹn Như huyễn Tam muội, tức là Thủ Lăng Nghiêm Tam muội… Và Thủ Lăng Nghiêm Tam muội cũng được gọi là Đại Định Thủ Lăng Nghiêm… Và Ma Vương chỉ mới nghe đến danh tự của Đại định ấy, cũng đã muốn co chân chạy trốn rồi.

Trở lại những bậc thành tựu Thập hồi hướng, thì những vị này chưa được gọi là Đại Bồ Tát, vì chưa bước vào những Địa của sự Phần giác… Các vị ấy có đạt được một số định cùng Tam muội. Nhưng đối với những Tam muội, mức thông đạt của các ngài chưa tới mức tuyệt hảo, chưa có thể xuất nhập mau lẹ tùy theo ý muốn được. Và cũng chưa biến hóa được nhiều. Vì Diệu lực của Tự tâm chưa bừng nở rầm rộ…

3. GIAI ĐOẠN TAM MA BẢT ĐỂ VÀ THUYỀN NA, TỨC LÀ GIẢ QUẢN VÀ TRUNG ĐẠO SONG CHIẾU

Như ở trên đã nhận định, lộ trình tiến tu cùng trạng thái tâm linh của Bồ Tát có tính cách đa dạng, kỳ đặc và phức tạp, chứ không đơn thuần minh bạch như đối với các bậc Nhị thừa.

Là vì các bậc Nhị thừa, vốn chỉ mong cầu giải thoát cho mình, nên thường tu tập đơn thuần Không quán để trải qua các thứ bực định, đắc bốn quả, tiêu trừ phiền não, lọt vào Không hải của Tàng thức, rồi sau khi mãn báo thân thì ra khỏi phần đoạn sanh tử cùng tam giới… Cỏn như các vị Bồ Tát thì lại muốn nhập pháp giới, phát đại thệ nguyện trang nghiêm ôm trọn pháp giới vào thân tâm mình, nên lộ trình tiến tu thường là nghiêng ngả dung nhiếp chập chùng giữa Không Giả Trung quán, giữa Lý và Sự, cùng Tự và Tha.

Do đó, nên khi thành tựu bậc Thập hồi hướng, thì mức độ tiến tu cùng tâm thức của bậc đó, trên đại lược, là như sau:

– Chưa thành tựu được hoàn toàn Không quán, vì chưa lọt được vào Tàng thức sơ năng biến một cách thường trực.

– Chưa vào được Diệt tận định như bậc A La Hán. – Do đó, về Định lực, còn thua sút bậc A La Hán. – Tuy nhiên, về Huệ lực, Quán lực và Nguyện lực, thì Bồ tát đã vượt khá xa bậc A La Hán. Là vì không những chỉ đơn thuần quán Không thôi, lại thường dung nhiếp quán Giả, và nhiều khi lại quán cả Trung đạo nữa. Hơn nữa, đã mở tâm rộng lớn, quan sát các pháp và chúng sanh, rồi khởi rất nhiều hạnh để đem những thiện căn ấy hồi hướng cho khắp cả.

Bởi vậy, nên đối với Bồ Tát, giai đoạn Tam ma bát đề và Thuyền na thực ra đã bắt đầu từ lâu rồi, từ những chặng đường Thập trụ cùng Thập hạnh, mặc dầu Bồ Tát vẫn chưa thành tựu được hoàn toàn Không quán.

Nhưng trong chặng đường sắp nói tới, tức là THẬP ĐỊA, thì Bồ Tát không những thành tựu rõ ràng Không quán, mà đồng thời như hoa nở rầm rộ, còn thành tựu nhiều sắc thái đậm đà về Giả quán cùng Trung quán.

THẬP ĐỊA tức là những Địa tiến tu của các bậc Đại thánh.

Như là: Hoan hỷ địa, Ly cấu địa, Phát quang địa, Diệm huệ địa, Nan thắng địa, Hiện tiền địa, Viễn hành địa… rồi đến Đệ bát địa tức là Bất động địa cũng tức là Biến hóa địa, rồi Thiện huệ địa, rồi Pháp vân địa tức Thọ chức vị địa.

Các bậc Bồ Tát thập hồi hướng thường phải trải qua một chặng đường nữa gọi là Tứ gia hạnh (Nghĩa là tăng cường mạnh mẽ các hạnh trước), rồi mới bước vào Địa.

Nhưng trong mười Địa này, cũng cần phải chia làm hai chặng tiến tu… Chặng thứ nhất bao gồm bảy Địa đầu tiên. Trong đó, vị Bồ Tát vừa thành tựu rõ ràng Không quán, lại vừa tiến sâu mạnh vào Giả quán cùng Trung quán. Chặng thứ nhì bao gồm ba Địa sau, cùng với Đẳng giác rồi Diệu giác, trong đó, Trung đạo song chiếu bay bổng tới chỗ tuyệt vời…

TỪ SƠ ĐỊA ĐẾN VIỄN HÀNH ĐỊA:

Trong Kinh Hoa Nghiêm, phẩm Thập địa được diễn nói bởi một bậc Đại Bồ Tát tên là Kim Cang Tạng Bồ Tát, và diễn nói ngay ở nơi cung trời Tha Hóa Tự Tại của cõi Dục, tức là nơi thường ngụ của Ma vương (gọi là Tha hóa tự tại nghĩa là chuyên đi đánh cắp tự tại lực của những vị Trời khác để lấy làm tự tại lực của mình, là vì vua Ma vương ít chịu dụng công tu luyện, chỉ qua lại nhòm ngó xem có những vị Trời nào bản lãnh cao siêu tỏa ra những hào quang vi diệu hơn mình, thì tới ngồi gần, để nhờ sức hào quang ấy đẩy tâm thức mình lên một mức vi diệu hơn…

Vậy thì trong khi pháp hội Hoa Nghiêm nhóm họp để nghe ngài Kim Cang Tạng diễn nói về Thập địa, có thể là Ma vương cũng lẩn quẩn đâu đó, để mong tiếp thu nương nhờ vào hào quang vi diệu của các Đại Bồ Tát… Nhưng có nhiều phần chắc chắn là Ma vương đã phải bỏ chạy rất xa, vì những hào quang đó quá mãnh liệt chói sáng, nên đạo nhãn cùng đạo lực của vua Ma không chịu đựng nổi… Trong các pháp hội siêu xuất thường là như vậy, vì ngay các đại đệ tử của Phật cũng không chịu đựng nổi sự chói sáng của các hào quang, và thường phải nhờ thần lực của Phật gia trì mới chịu đựng nổi. Ở nơi tột bờ mé của Diệu tâm là như vậy.

Do đó, trên chặng đường Thập địa này, các bậc Bồ Tát thường tu theo lối song hành hoặc Song chiếu, vừa gột rửa NGÃ CHẤP để lọt vào Tàng thức sơ năng biến và thành tựu hoàn toàn Không quán, đồng thời tu Giả quán cùng Trung quán để gột rửa lần từng phần PHÁP CHẤP và bước vào Biển Chân thức… Cứ gột một phần Pháp chấp, thì chuyển được một phần Hiện thức và thấy được một phần Chân thức… Nên những bậc này thường được gọi là PHẨN GIÁC.

Khi mở đầu, ngài Kim Cang Tạng, được Chư Phật mười phương phóng hào quang gia trì, nên nói đoạn kệ sau:

Cảnh giới Phật tịch diệt
Lời nói không đến được,
Cảnh THẬP ĐỊA cũng vậy
Khó nói cũng khó nhận…

TRÍ phát sanh cảnh Phật
Rời hẳn ngoài tâm niệm,
Chẳng phải uẩn xứ giới
Trí biết, ý chẳng biết…

Như dấu chim bay qua
Khó chỉ cũng khó nói,
Nghĩa của THẬP TRÍ ĐỊA
Tâm ý chẳng rõ được…

TỪ BI và NGUYỆN LỰC
Sanh hạnh vào Thập địa
Tuần tự tâm viên mãn
Chẳng phải cảnh tư lự…

Cảnh giới này khó thấy
Biết được không nói được,
Do PHẬT Lực nên nói
Đại chúng phải kính nhận…

Cảnh giới của Trí địa
Ức kiếp nói chẳng hết,
Nay tôi chỉ nói lược
Nghĩa chân thiệt của kia… .

THÂN Lực Vô Lượng Phật
Đều đến vào thân tôi,
Vơi đây khó hiển bày
Nay tôi nói phần ÍT…

Rồi ngài khởi Đại bi tâm diễn nói… Sau đây chỉ là cố gắng thâu tóm rất sơ luợc những ý nghĩa ẩn mật của Kinh:

– Bắt đầu là Sơ địa, tức HOAN HỶ ĐỊA:

Trên kia đã nhận định rằng Thập Hạnh tuơng xứng với mười Độ của Bồ Tát. Nhưng ở chặng đường Thập hạnh, Bồ Tát tuy tu Thập Độ, nhưng chưa được thâm sâu rốt ráo, chua được Ba La Mật Đa… Đến Thập Địa, Đại Bồ Tát cũng vẫn tu Thập Độ ấy, nhưng chuyển lên bình diện thâm sâu rốt ráo, nên là tột Ba La Mật. Vì ngày càng lìa tướng, lìa tình, lìa tưởng… đi lần vào Biển Đại tịch diệt, vô tướng mạo và hào quang sáng chói.

Bồ Tát bước vào Hoan Hỷ Địa này, thì tâm luôn luôn NHỚ TƯỞNG Chư Phật nhiều như vi trần, nên sanh vui mừng… Luôn nhớ tưởng Chư Đại Bồ Tát nhiều hơn cát bụi, nên sanh vui mừng… (Cần ghi thêm rằng: trong kinh Viên Giác, Phật cũng dạy rằng những hành giả muốn tu Giả quán thì trước hết phải nhớ tướng Chư Phật cùng Bồ Tát mười phương, rồi mới khởi Giả quán và quán chiếu các cảnh giới Như huyễn… Như vậy là để làm gì? Là để nhớ tưởng Diệu tâm, để nhớ rằng mọi cảnh giới đều do Tự tâm biến hiện, và đều nương vào thần lực cùng nguyện lực của Phật và Bồ Tát. Đồng thời, chiêu cảm sức gia trì, cùng sớm thấy được Phật tức là hiện tướng của Trung đạo, của Diệu tâm)… Luôn nhớ tưởng những Bồ Tát hạnh quảng đại nên sanh vui mừng… Luôn nhớ Thanh tịnh Ba La Mật, cùng trí huệ phương tiện nên sanh vui mừng… Luôn nhớ những Đại thệ nguyện trang nghiêm, nên sanh vui mừng…

Lại luôn nhớ nghĩ tu duy về mười thứ VÔ TẬN như là:

Chúng sanh giới vô tận, Hư không giới vô tận, Thế giới hải vô tận, Pháp giới vô tận, Niết bàn giới vô tận, Phật xuất hiện giới vô tận, Như Lai Trí giới vô tận, Tâm tập khí tương tục sở duyên giới vô tận…v.v.. Và luôn tự thệ rằng: “Neu chúng sanh giới kia nhẫn đến pháp giới kia có tận, thì thệ nguyện của tôi mới tận, nhưng chúng sanh giới cùng hư không giới cùng pháp giới kia chẳng hề tận, nên thiện căn đại nguyện của tôi đây cũng không cùng tận…”

Bồ Tát này thường tu cả mười Độ, nhưng chuyên chú tu về ĐÀN Ba La Mật, tức là BỐ THÍ… Còn chín Độ kia thì tùy sức tùy phần mà tu tập… Vui mừng bố thí, xả bỏ hết ngã, ngã sở, của cải, vợ con, ngôi báu, thân hình, tâm lực để bố thí…

Do đó, lần lần lìa bỏ hết ngã sở, ngã tưởng, ngã kiến, để đi lần đến NGÃ KHÔNG.

Lần lần, Bồ Tát này, “do sức ĐẠI NGUYỆN LỰC, được THẤY NHIỀU ĐỨC PHẬT, như là trăm Đức Phật, nghìn Đức Phật…”, cần nhận định rằng ở đây, Bồ Tát được thấy Phật là do sức Nguyện lực, không phải đơn thuần do Định lực… Nguyện lực tức là Quán lực, cộng với những luồng tâm lực mãnh liệt của lòng Khát nguỡng lớn lao, nên chiêu cảm sức đáp ứng gia trì, nên đuợc thấy Phật. Nhung dĩ nhiên là trong Quán lục vẫn bao hàm một khía cạnh Định lực… Nhung nếu kẻ hành giả chỉ tin tưởng vào tự lực, và sử dụng đơn thuần Định lực như các bậc Thanh Văn, thì không thể thấy được Phật. Điểm này rất quan hệ.

Bồ Tát này thường là tùy nguyện thọ sanh, vì ở trong thai không hề mê muội. Tùy nguyện thọ sanh ở các nẻo luân hồi để cứu độ, bố thí.

Nhưng nếu không kể đến tâm nguyện, mà chỉ cân lường về phước đức, thì mỗi khi thọ sanh, Bồ Tát này thường được làm Vua ở nhân thế, để ban bố thực hành chánh pháp.

Nhưng nếu Bồ Tát nhàm chán không thích làm vua, bỏ ngôi đi xuất gia, rồi tinh tấn tu hành, thì “trong một NIỆM có thể xuất nhập trăm TAM MUỘI, có thể thấy hàng trăm ĐỨC PHẬT, và ngồi trong Tam muội, có thế hóa hiện hàng trăm HÓA THÂN để đi các cõi độ sanh… ” (Hoa Nghiêm kinh, trang 860).

Về điểm này, cần nhận định rằng: đoạn kinh ở đây chỉ nhắc đến Tam muội của Bồ Tát, không nhắc đến định. Vì Tam muội thường thuộc về Giả quán, và Bồ Tát sơ địa đương đi mạnh vào Giả quán do tâm đại bi. Tam muội cũng vô lượng vô số, nên nhắc đến số lượng Tam muội để nói lên về sức Tam muội của Bồ Tát… Nhưng cần nhớ rằng Bồ Tát được hàng trăm Tam muội, và có thể hóa hiện hàng trăm hóa thân, một phần do tâm lực của mình, nhưng phần lớn là do thần lực gia trì. Vì những vị noi theo Bồ Tát Đạo, có phát và thực hành đại nguyện, nên bao giờ cũng chiêu cảm sức gia trì, hoặc nhiều hoặc ít.

Ở bậc Hoan hỷ địa này, Bồ Tát đã tiêu trừ được phần lớn Ngã chấp do Bố thí Ba La Mật. Đồng thời, gột được một phần mười những pháp chấp vô minh vi tế, tiến lần tới Pháp không…

– Địa thứ hai là LY CẤU ĐỊA:

Bồ Tát này cũng tu mười Độ, nhưng chuyên chú tu THÍ Ba La Mật, tức là Trì giới rốt ráo thanh tịnh, gột sạch trần cấu, nên gọi Ly cấu… về chín Độ kia, thì tùy sức tùy phần tu tập.

Cũng tùy nguyện thọ sanh, không hề mê muội trong thai… Nhưng nếu cân lường phước đức, thì mỗi khi thọ sanh, thường được làm vua Chuyển Luân Vương, ở những thời kỳ mà tuổi thọ của loài người dài hơn tám vạn tuổi. Cai trị bốn châu thiên hạ, có bảy vật báu như Luân bửu, Tạng bửu… ban bố chánh pháp khắp thiên hạ.

Nếu bỏ ngôi xuất gia, rồi tinh tấn tu hành, thì trong một niệm, “có thể xuất nhập nghìn Tam muội, thấy nghìn Đức Phật, hóa hiện nghìn hóa thân đi các cõi…”. Như thế, trong việc xuất nhập Tam muội, những quang minh tâm thức đã đạt tới những thế tốc kinh khủng.

Tiếp tục tiêu trừ nốt những Tập khí Ngã chấp. Đồng thời, chuyển những vô minh vi tế, tiêu trừ được hai phần mười Pháp chấp tiến tới Pháp không…

– Thứ 3 là PHÁT QUANG ĐỊA:

Tu mười Độ, nhưng chuyên chú NHẪN NHỤC BA LA MẬT, tương tự như tiền thân Đức Phật làm một vị tiên tu nhẫn nhục, và bị vua Ca Lợi chặt chân tay, mà không hề khởi một niệm sân hận.

Đến bực này, sáu căn đã gần nhu Rỗng lặng, thanh tịnh, nên có Thiên nhãn thông, Thiên nhĩ thông, Tha tâm thông, Túc mạng thông… tuy vẫn còn giữ nhục thân. Cũng tương tự như vị đắc Pháp Hoa Tam muội… Cánh cửa của Tàng thức sơ năng biến đã hé mở một cách thường trực, và những quang minh tâm lực chói sáng rực rỡ, nên gọi là Phát quang địa… Gần như thành tựu được Không quán.

Định lực cao, gần bằng bậc A La Hán… Có thể xuất nhập nghịch hay thuận Tứ Thiền và Tứ Không định mau lẹ dễ dàng. Nhưng khác với bậc A La Hán là: tuy vào các Định như vậy, nhưng chỉ là tùy thuận theo pháp mà làm, chứ trọn không ham thích không chấp trước vào Định lực ấy… Nhưng chưa vào được DIỆT TẬN ĐỊNH như A La Hán.

Về các Tam muội cũng vậy, có thể xuất nhập và chuyển nhiều Tam muội, nhưng không hề khởi tâm chấp trước. Không hề nương sức thiền định để thọ sanh những nẻo an lạc tốt lành, chỉ theo nguyện lực thọ sanh nơi các nẻo để độ duyên.

Tùy nguyện thọ sanh chẳng hề mê muội quên lãng… Nhưng nếu cân theo phước đức, thường được thọ sanh làm vua Trời Đế Thích ở Đao Lợi Thiên.

Nếu tinh tấn tu hành, thì trong một niệm, có thể xuất nhập trăm nghìn Tam muội, thấy trăm nghìn Đức Phật, hóa hiện trăm nghìn hóa thân đi các cõi độ sanh.

Tiêu trừ thêm đuợc một phần Pháp chấp, tức ba phần mười..

Cũng cần ghi rằng: bậc A La Hán, tuy Định lực cao hơn, nhưng chỉ có được mười tám pháp biến hóa như: đi trên nước, đi vào đất, đi trên hư không, dưới thân tuôn ra nước, trên thân phun ra lửa, biến thân lớn như núi Tu Di thì được, nhưng biến thân nhỏ như hạt cải thì không được… như kinh Đại Bát Niết Bàn đã dạy rõ… Còn như về hóa thân, thì hình như không biến hiện được để tạo dựng hóa thân, vì kinh không hề nói vụ đó… Trong khi Bồ Tát từ Sơ địa trở lên đã có thể hóa hiện nhiều hóa thân, mặc dầu định lực chưa bằng A La Hán. Xem thế thì đủ rõ rằng Quán lực cùng Nguyện lực quan hệ kỳ đặc là nhường nào, vì sự phát tâm rộng lớn thường chiêu cảm sức gia trì của thần lực. Cho nên, con đường Bồ Tát Đạo thực là kỳ diệu mầu nhiệm…

– Rồi đến DIỆM HUỆ ĐỊA.

Diệm huệ có nghĩa là hào quang của Trí huệ càng bừng lên chói sáng hơn nữa.

Chuyên chú tu tập TINH TẤN Ba La Mật.

Dùng sức trí huệ và tinh tấn không ngừng để tu mười pháp minh môn, nghĩa là quán sát sâu hơn nữa mười thứ pháp như là: Quán sát chúng sanh giới, Thế giới, Hư không giới, Thức giới, Dục giới, sắc giới, Vô sắc giới…

Do đó, những luồng quang minh của trí huệ ngày càng vi tế, và rực rỡ chói sáng.

Nếu thọ sanh theo phước đức, thì thường làm Dạ Ma Thiên Vương.

Thường được ức số Tam muội, thấy được ức số Phật, và do nguyện lực độ sanh, có thể hóa hiện ức số hóa thân đi đến các cõi… Tiêu trừ bốn phần mười Pháp chấp.

– Rồi đến NAN THẮNG ĐỊA:

Chuyên chú tu tập THIỀN BA LA MẬT. Nên đắc nhiều thứ thiền định, tùy ý xuất nhập, hay chuyển theo chiều nghịch hoặc thuận. Nhưng vẫn không chấp trước, không ham thích… Và chính do tâm hành không chấp trước, nên diệu lực của Tự tâm nẩy nở rất nhiều.

Đặc điểm của Bồ Tát này là không những đã am hiểu Chân đế cùng Đệ nhứt nghĩa đế, nhưng lại còn, “vì muốn làm lợi ích chúng sanh, nên gồm học tập tất cả những môn học thế gian (tức là Tục đế), thông đạt các môn văn tự, toán số, đồ thơ, ấn loát, các sách luận về địa, thủy, hỏa, phong. Lại giỏi các phương thuốc trị bệnh: điên cuồng, quỷ mị, cổ độc… Lại giỏi các thứ văn bút, tán vịnh, ca vũ, kỹ nhạc, diễu cười, đàm luận. Biết rành cách thức kiến thiết thành trì, thôn ấp, nhà cửa, vườn tược. Biết rõ những nơi có mỏ vàng, bạc, châu ngọc… Giỏi xem biết rành rẽ mặt trời, mặt trăng, tinh tú, địa chấn, chim hót, các điềm mộng chiêm bao, các thứ thân tướng sang hèn… Dùng các thứ ấy để khai thị và làm lợi ích chúng sanh, rồi lần lần dẫn họ vào Phật pháp vô thượng…” (kinh Hoa Nghiêm, trang 901).

Nếu cân lượng theo phước đức để thọ sanh, Bồ tát này thường làm Đâu Suất Thiên vương.

Thường được ngàn ức Tam muội, được thấy ngàn ức Đức Phật, có thể hóa hiện ngàn ức hóa thân… Tiêu trừ năm phần mười Pháp chấp.

– Rồi đến địa thứ sáu tức HIỆN TIÊN ĐỊA:

Chuyên tu BÁT NHÃ BA LA MẬT, thường quán sát mười pháp BÌNH ĐẲNG là:

“Tất cả pháp vì vô tướng nên Bình đẳng, vì vô thể nên bình đẳng, vì vô sanh nên bình đẳng, vì vô diệt nên bình đẳng, vì bổn lai thanh tịnh nên bình đẳng, vì không hý luận nên bình đẳng, vì tịch tĩnh nên bình đẳng, vì NHƯ HUYỄN, như mộng, như bóng, như vang, như trăng đáy nước, như hoa trong gương, như dương diệm, như biến hóa nên BÌNH ĐẲNG, vì có không BẤT NHỊ nên bình đẳng…” (kinh Hoa Nghiêm, trang 908).

Vì tu tập như vậy, nên được Bát Nhã Ba La Mật HIỆN TIỀN, tức là Vô chướng ngại TRÍ quang minh.

Được TÙY THUẬN NHẪN, nhưng CHƯA ĐƯỢC VÔ SANH PHÁP NHẪN… Có nghĩa là: vì thấy rõ Bản thể của các pháp là như huyễn, là vô tự tánh, là vô sanh là tịch tĩnh, là bình đẳng, nên thường tùy thuận tiếp xúc nhẫn chịu các pháp mà chẳng hề khởi một mảy muốn hý luận hoặc vọng tưởng hoặc vọng tình… Tuy nhiên, sự thể nhập chưa sâu lắm, nên là Tùy thuận nhẫn, chưa phải là Vô sanh pháp nhẫn.

Được Tùy Thuận Nhẫn này, tức là đã đạt được sáu phần mười PHÁP KHÔNG.

Đồng thời, đến đây, Bồ Tát cũng tiêu trừ được hết thảy mọi mầm mong về Tác giả, về Thọ giả, về Trí giả, về Ngã chấp câu sanh. Nên đạt được hoàn toàn NGÃ KHÔNG.

Thành tựu hoàn toàn KHÔNG QUÁN: rõ ràng, lọt vào Tàng thức so năng biến, thường trụ nơi đó, hoặc ra vào tùy ý.

ĐỊNH Lực lúc này NGANG BẰNG với bậc A La Hán. Có thể tùy ý xuất nhập DIỆT TẬN ĐỊNH… Nhưng về Quán lực và Nguyện lực thì vượt xa A La Hán.

Nếu thọ sanh theo phước đức, thì thường làm Lạc Biến Hóa Thiên vương.

Đắc trăm ngàn ức Tam muội, thấy được trăm ngàn ức Đức Phật, có thể hóa hiện trăm ngàn ức hóa thân.

– Rồi đến VIỄN HÀNH ĐỊA:

Chuyên tu về Độ PHƯƠNG TIỆN Ba La Mật. Tu muời môn Phuơng tiện huệ, làm phát khởi mười đạo thù thắng như là:

“Dù khéo tu Không, Vô tướng, Vô nguyện Tam muội mà vẫn khởi tâm đại bi chẳng bỏ chúng sanh. Dù được pháp bình đẳng của Chư Phật, mà thường siêng năng ưa thích cúng dường Chư Phật… Dù nhập môn quán không trí mà siêng chứa phước đức… Dù tâm thức xa rời Tam giới mà vẫn tích cực trang nghiêm Tam giới… Dù biết rõ các pháp như huyễn, như mộng, như bóng, như vang, như trăng đáy nước, tự tánh bất nhị, mà vẫn tùy theo tâm nguyện tác động vô lượng thứ sai khác để độ sanh… Dù biết các cõi Phật độ đều dường như hư không, mà vẫn thường khởi mọi diệu hạnh để trang nghiêm các cõi nước… Dù biết Pháp thân Chư Phật bổn tánh vốn không thân, mà vẫn tu tập những tướng hảo để trang nghiêm thân mình… Dù biết âm thanh của Chư Phật vốn bổn tánh không tích, mà vẫn tùy theo các chúng sanh để khởi ra các thứ âm thanh để thuyết pháp giáo hóa v.v…” (Hoa Nghiêm kinh, trang 920).

“Này Chư Phật tử! Bồ Tát này do đại phương tiện như vậy, nên được đại trí lực… Nên dù luôn luôn thị hiện ở nơi sanh tử mà vẫn thường trụ ở Niết Bàn…., dù do nguyện lực thọ sanh trong ba cõi mà chẳng hề nhiễm thế pháp. Dù tâm thường trụ ở nơi Biển tịch diệt, mà do sức phương tiện vẫn thị hiện có ngũ uẫn như phừng cháy… Dù vẫn tùy thuận Phật trí mà vẫn thị hiện vào bực Thanh Văn, Bích Chi Phật… dù được Phật cảnh giới mà có thể thị hiện ở cảnh giới ma… dù thị hiện ở trong ngoại đạo mà chẳng bỏ Pháp Phật. Dù thị hiện tùy thuận tất cả thế gian mà thường thật hành tất cả pháp xuất thế…” (kinh Hoa Nghiêm, trang 928).

Hai đoạn kinh trên đây chỉ rõ rằng: Bồ Tát này đã bước vào TRUNG ĐẠO SONG CHIẾU một cách viên dung.

Vì đã tiến khá xa trên con đường Phật quả, xa lìa hết thảy tâm niệm cùng nhiễm trước thể gian, nên gọi là Viễn hành địa… Nhưng tuy tâm xa lìa thế gian, mà vẫn vì đại bi chẳng bỏ thế gian.

Bồ Tát này dĩ nhiên là vượt xa bậc A La Hán. Và tuy nhập xuất Diệt tận định, nhưng không hề tác chứng… Tức là không tham trước, không trụ trong đó.

Bồ Tát này được một thứ Nhẫn gọi là QUANG MINH VÔ SANH PHÁP NHẴN, chưa phải hẳn là Vô sanh pháp nhẫn của Đệ Bát Địa. Nghĩa là thấy rõ hiện tướng Quang minh của Chân thức, nhưng chưa chứng nhập hẳn Biển Chân Thức.

Nếu thọ sanh theo phước đức, thường làm Đại Tự Tại Thiên vương.

Được trăm ngàn ức na do tha Tam muội, thấy Phật cũng nhiều như vậy, và có thể hóa hiện trăm ngàn ức na do tha hóa thân… Chuyển hóa bảy phần mười Pháp Chấp.

Đến Viễn hành địa này, là thành tựu một nấc thứ hai về sự phối hợp viên dung của TRUNG ĐẠO… Tuy đã khá cao, nhưng chưa phải là tuyệt vời, chưa tột bờ mé.

Từ Sơ địa đến Viễn hành địa, kinh thường nói rằng, phải trải qua một A tăng kỳ kiếp nữa… Nhưng dài hay ngắn cũng chỉ là tùy thuộc thái độ tâm thức cùng mức độ tinh tấn của người lữ hành.

Cũng cần ghi rằng: trong bảy địa này, sự hóa hiện hóa thân của các Bồ tát thường được gọi là TAM MUỘI NHẠO Ý SANH THÂN.

Nghĩa là thường nhập được HƯ HUYỄN Tam muội, nhưng chưa thường trụ được trong Tam muội ấy. Vẫn còn xuất nhập… Và nếu muốn hóa hiện hóa thân, thì phải nhập Tam muội. Nếu xuất rồi, thì không hóa hiện được…

TỪ ĐỆ BÁT ĐỊA ĐẾN ĐỆ THẬP ĐỊA:

Đến những Địa này, thì phàm thức chúng ta không đủ sức để mường tượng lãnh hội, và ngôn từ thường nghiệm không đủ để diễn nói. Vì lời kinh thường khiến người đọc bị ngộp, vừa khấp khởi vui mừng, vừa bàng hoàng khiếp hãi…

Nên sau đây là chỉ nương theo lời kinh, ghi nhận vài điều mà thôi:

– ĐỆ BÁT ĐỊA:

Địa này được gọi là BẤT ĐỘNG ĐỊA, vì từ đây trở lên, Đại Bồ Tát thường khởi những hạnh vô công dụng, tức là làm mọi Phật sự độ duyên mà tâm không gợn một mảy mún mong cầu chấp trước… Để đi tới VÔ TÁC DIỆU LƯC.

Chuyên chú tu về Độ NGUYỆN BA LA MẬT. Nhưng trong mỗi niệm, đều có thể đầy đủ mười Ba La Mật.

Đắc VÔ SANH PHÁP NHẴN, tức là nhập vào cái Biển Bản thể Bất động Vô sanh của các pháp.

“Chư Phật tử! Bồ Tát trụ bực này, dùng trí đại phương tiện thiện xảo, phát khởi VÔ CÔNG DỤNG GIÁC HUỆ để quán sát những cảnh sở hành của nhứt thiết chủng trí…

Như là quán thế gian thành, thế gian hoại, do nghiệp này họp mà thành, do nghiệp kia hết mà hoại, bao nhiêu thời gian thành, bao nhiêu thời gian hoại, đều biết đúng như thiệt. Lại rõ biết địa giới tướng nhỏ, tướng lớn, vô lượng tướng, sai biệt tướng. Biết thủy, hỏa, phong giới nhỏ lớn v.v… cũng như vậy. Biết vi trần số tướng VI TẾ, tướng sai biệt, vô lượng tướng sai biệt. Tùy trong thế giới nào có bao nhiêu địa, thủy, hỏa, phong giới gồm bao nhiêu vi trần, những bửu vật có bao nhiêu vi trần, thân chúng sanh có BAO NHIÊU VI TRẦN, thân quốc độ có bao nhiêu vi trần, đều biết đúng như thiệt… Biết thân địa ngục, thân súc sanh, thân ngạ quỹ, thân A Tu La, thân người, thân trời, có bao nhiêu vi trần hợp thành. Lại biết Dục giới, sắc giới, Vô sắc giới tướng nhỏ, tướng lớn, tướng vô lượng, tướng sai biệt… Được Trí quán Tam giới sai biệt như vậy…” (kinh Hoa Nghiêm, trang 938).

Kinh cũng ví bực Bồ Tát này như người ngồi thuyền buồm muốn vào biển lớn, mà nay đã VÀO biển lớn… Trước khi vào đến biển, thì còn phải dùng nhân lực để chèo thuyền. Nay vào rồi, chỉ nưong theo sức GIÓ mà lướt phăng phăng, chẳng cần đến nhân lực nữa. Hoặc có cần, cũng chỉ cần đôi chút để lái thuyền thôi, không cần để chèo nữa.

Vậy SỨC GIÓ ấy là gì? Là thần lực của chính tự tâm Hành giả nở ra rầm rộ, cộng với Thần lực gia trì của Chư Phật, cộng với Pháp lực gia trì của Biển Diệu tâm… vì biển này cũng huân tập, cũng vận hành THÂU HÚT tương tự như một hỏn đá nam châm vi đại thâu hút những mảnh sắt nhỏ.

Bởi vậy, nên con thuyền lướt phăng phăng. Trong khoảng một niệm, dùng trí vô công dụng nhập các cảnh giới sở hành của nhứt thiết chủng trí… Trong khoảng một niệm, dùng Trí quang minh khắp thị hiện thọ sanh. Được vô số Đà La Ni lực tự tại… Thường có Chư Thiên Vương, cùng Kim Cang Đại Lực Sĩ đi theo để thị vệ.

Nếu cân lường theo phước đức, thường thọ sanh làm Đại Phạm Thiên Vưong, chủ một Tiểu thiên thế giới.

Đắc trăm vạn thế giới vi trần số Tam muội. Cũng được thấy ngần ấy Đức Phật. Và có thể hóa hiện ngần ấy hóa thân…

– Rồi đến THIỆN HUỆ ĐỊA:

Bồ Tát trụ Đệ Bát Địa, dùng vô lượng trí tư duy quan sát như vậy, lại muốn nhập sâu hơn nữa vào biển Đại tịch diệt giải thoát.

Bèn tu tập Như Lai trí huệ, nhập các môn Tam muội Như Lai bí mật pháp Đại trí tánh thanh tịnh bất tư nghị… Mà vẫn chẳng hề bỏ Đại bi bổn nguyện lực.

Do đó, nhập Thiện huệ địa.

Đại Bồ Tát này biết đúng như thiệt, tất cả rừng rậm tâm niệm của các chúng sanh, tất cả rừng rậm phiền não, rừng rậm tập khí trong tục khởi lên, rừng rậm căn tánh, rừng rậm các loại tướng thọ sanh.

Lại được bốn trí vô ngại là: Pháp vô ngại, Nghĩa vô ngại, Tứ vô ngại, và Lạc thuyết biện tài vô ngại trí.

Nên thường hiện hóa thân, đi khắp các đạo tràng trong các cõi, tùy theo tâm niệm chúng sanh, dùng vô ngại trí cùng DIỆU ÂM để chuyển pháp luân.

Thế nào là dùng DIỆU ÂM chuyển pháp luân?

Là:

“Đại Bồ Tát này, ngồi trên pháp tòa, muốn chỉ dùng MỘT âm thanh mà khiến các chúng sanh đều hiểu rõ, thì liền hiểu rõ.

Hoặc có lúc tâm muốn ở trên thân mình, mỗi mỗi chân lông đều diễn nói pháp âm.

Hoặc có lúc tâm muốn, nhẫn đến Đại thiên thế giới có bao nhiêu vật hữu tình vô tình đều diễn nói ngôn âm diệu pháp… (tỷ dụ như núi sông cây cỏ, chim đều niệm Phật, niệm Pháp… tương tự như cõi Cực Lạc của Đức A Di Đà).

Hoặc có lúc tâm chỉ phóng ĐẠI QUANG MINH để diễn nói pháp môn…” Đại lược là như vậy.

Đại Bồ Tát này chuyên tu LỰC BA LA MẬT, nhưng trong mỗi niệm đều đầy đủ Thập Ba La Mật,

Nếu cân lường theo phước đức, thường thọ sanh làm Đại Phạm Thiên Vương, chủ một Trung thiên thế giới. Đắc trăm vạn vô sẽ quốc độ vi trần số Tam muội. Cũng được thấy ngần ấy Đức Phật, và có thể hóa hiện ngần ấy hóa thân… Đắc chín phần mười Pháp Không…

– Rồi đến PHÁP VẨN ĐỊA:

Cũng được gọi là THỌ CHỨC VỊ ĐỊA. Tương tự như một vị Đông cung Thái tử được làm lễ đội Vương miện để sau này lên ngôi vua.

Đại Bồ Tát này nhập Tam muội, gọi là Thọ nhứt thiết trí thắng chức vị. Lúc Tam muội này hiện tiền, Bồ Tát ngự trên cõi trời sắc cứu cánh, rồi một bông Đại bửu liên hoa bỗng nhiên xuất hiện, rộng lớn bằng trăm vạn Đại thiên thế giới, trang nghiêm toàn Diệu bửu Đại Bồ Tát ngự trên Đại bửu liên hoa, thân cân xứng với hoa, rồi phóng vô lượng vô số đại quang minh bao trùm các cõi… Sự mô tả của đoạn kinh dài này không thể tóm lược được.

Chỉ cần ghi rằng: từ nơi trời sắc Cứu Cánh này, Đại Bồ Tát có thể tiến tu lên bậc Đẳng giác, rồi Diệu giác. Hoặc có thể, do nguyện lực độ sanh, xuống cung Đâu Suất làm bực Nhứt sanh bổ xứ như Ngài Di Lặc, rồi chờ cơ duyên thuần thục, giáng thần xuống nhân thế, thị hiện thọ sanh, đi bảy bước mỉm nụ cười hàm tiếu vi tế, xuất gia học đạo, thành chánh giác, chuyển pháp luân, rồi thị hiện nhập Niết Bàn…

Bậc này chuyên tu tập TRÍ BA LA MẠT.

Có thể nhập trọn vẹn Đại Định Thủ Lăng Nghiêm, tức Như Huyễn Tam muội.

Nên khởi diệu dụng không thể nghĩ bàn.

Nên cân theo phước đức, thường thọ sanh làm Ma Hê Thủ La Thiên Vương, chủ một Đại thiên thế giới.

Đắc trăm ngàn ức na do tha Phật sát vi trần số Tam muội. Được thấy ngần ấy Đức Phật, và có thể hóa hiện ngần ấy hóa thân…

Cũng cần ghi rằng: lối hóa hiện các hóa thân của ba bậc Đại Bồ Tát này, trên đại lược thường được gọi là GIÁC PHÁP TỰ TÁNH Ý SANH THÂN.

Giác pháp tự tánh có nghĩa là các bậc này hầu như chứng nhập hoàn toàn thể tánh của các pháp, nên gần như thường trụ trong Như Huyễn Tam muội. Vì thường trụ, nên không có xuất nhập như các bậc từ đệ Thất địa trở xuống. Trụ trong Tam muội tịch bất động, các ngài thường dùng những quang minh rất vi diệu của tâm thức, thuận theo thể tánh của Chân như mà Khởi dụng, hiện tất cả thân như trăng đáy nước, hoa trong gương, như ý tự tại du hành khắp cõi…

Tuy nhiên, mặc dầu có quảng đại tự tại lực, nhưng các ngài vẫn còn ít nhiều vết tích Tác ý khởi dụng, chưa đạt được hoàn toàn Vô công dụng hạnh cùng Vô tác diệu lực của Chư Phật…

Rồi đến Bậc ĐẲNG GIÁC, rồi DIỆU GIÁC, thì mới thực là viên mãn đến tột độ cái lộ trình xoáy chôn ốc đi vào Trung đạo Vô sở đắc. Nơi đây là vừa TỘT KHÔNG vừa DIỆU HỮU. Tột Không và Diệu hữu Không hai.

Kinh dạy rằng từ Đệ Bát Địa lên Diệu giác, cũng trải qua một A tăng kỳ… Nhung đối với tâm thức một Đại Bồ Tát, thì A tăng kỳ kiếp có thể đi qua nhu một sát na..

Đến nơi đây thì thục là mịt mùng, và những quang minh vi diệu của biển Tâm đã làm mờ nhạt mọi nhân ảnh cùng vọng thức. Nên Bất khả ngôn thuyết Bất khả thuyết, nhu chính kim khẩu của Phật đã dạy trong phẩm A tăng kỳ của kinh Hoa Nghiêm.

Chỉ cần ghi rằng:

Bộ kinh Hoa Nghiêm có dành ba phẩm: phẩm Thập Định, phẩm Thập Thông, phẩm Thập Nhẫn… tức là những phẩm 27,28, 29, để diễn nói về nơi Tột bờ mé mịt mùng này, và bạn đọc có thể tham khảo nếu muốn có một ý niệm rõ rệt hơn về những thứ bực chứng nhập ấy.

Khi bước tới bờ mé ấy, theo lời kinh, toàn thể thân tâm của Hành giả trở thành một khối BẢO GIÁC VIÊN DUNG, SÁU CĂN HỔ DỤNG… nghĩa là có thể dùng mắt để nghe, hoặc dùng tay để nhìn. Đầy đủ Vô tác diệu lực cùng Vô tác diệu đức, khởi diệu dụng không cùng để cứu độ, như trong kinh Lăng Nghiêm có nói rõ ở đoạn nói về Đức Quán Thế Âm… Thân tâm lúc đó trong sáng nhu ngọc lưu ly, lại như có ánh trăng ở trong, và thân tâm thường ảnh hiện tất cả mười phương thế giới. Vì pháp giới với thân tâm không hai không khác.

Ở những bực này, việc hóa hiện hóa thân thường được gọi là CHỦNG LOẠI CÂU SANH VÔ HÀNH TÁC Ý SANH THÂN… Có nghĩa là: Tùy theo tâm niệm của mỗi chúng sanh, mỗi loài chúng sanh chiêu cảm mà liền ỨNG HIỆN lập tức một hay nhiều hóa thân thích họp nhất, để độ duyên cho chúng sanh ấy. Vô hành tác nghĩa là Vô công dụng hạnh và Vô tác diệu lực đã đến mức tuyệt vời… Chư Như Lai vốn đã tiêu trừ hết mọi tập khí vô minh vi tế, thiện căn lại sung mãn đầy rẫy như biển lớn, và đã chứng nhập hoàn toàn Pháp thân tự tánh. Nên các Ngài tương tự như hạt châu ma ni vương, tùy theo vật chung quanh mà hiển hiện thành những màu sắc. Tự tánh pháp thân của Như Lai cũng như vậy, tùy tâm niệm của chúng sanh mà ứng hiện. Như Lai vốn từ rất lâu xa đã lìa bỏ mọi tâm niệm, nhưng vẫn do lòng Đại Bi bình đẳng mà khởi niệm hiện thân, khởi niệm mà không hề có một mảy mún tác ý nên vẫn như vô niệm. Và đó là do bi nguyện từ nhiều kiếp làm thành, và cũng do tự tánh cùng pháp tướng lý ưng là như vậy…

Để hiểu rõ thêm về tính cách phù hợp nhịp nhàng giữa các kinh Đại thừa, thiết tưởng cần lấy mấy tỷ dụ trong Kinh Pháp Hoa, để chỉ rõ những thứ bực tu chứng cùng công hạnh của các bậc Đại Bồ Tát:

Nơi phẩm thứ 20 của kinh Pháp Hoa, có ngài Thường Bất Khinh Bồ Tát, gần mạng chung, đắc được Tam muội được lục căn thanh tịnh Rỗng lặng có đại thần thông, đại thiện tịch: thứ bực chứng đắc của ngài tương xứng với Đệ lục địa, tức Hiện tiền địa. Thành tựu rỡ ràng Không quán, và tiến khá xa trên đường Giả quán và Trung quán.

Nơi phẩm 23, có Ngài Nhứt Thiết Chúng Sanh Hỷ Kiến Bồ Tát, chuyên đi kinh hành và nghe kinh Pháp Hoa, nên đắc Hiện nhứt thiết sắc thân Tam muội: tương xứng với đệ bát địa, tức Bất động địa, hay Biến hóa địa. Từ đây trở lên, là khởi diệu dụng Không cùng tận.

Nơi phẩm 24, có ngài Diệu Âm Đại Bồ Tát, về thuở quá khứ, chuyên dùng mười muôn thứ kỹ nhạc (tức là dùng sự hóa hiện DIỆU ÂM) để cúng dường

Chư Phật, nên đắc Tam muội đại tự tại lực: tương xứng với Pháp vân địa, hay Đẳng giác địa.

Nơi phẩm 25, tức phẩm Phổ Môn của Ngài Quán Thế Âm: tương xứng với Diệu giác.

Rồi nơi phẩm 27, tức phẩm Diệu Trang Nghiêm Vương Bổn Sự, Phật kể lại chuyện rằng: về quá khứ rất xa, có Phật Vân Lôi Âm Tú Vương Hoa Trí ra đời. Lúc đó, có một vị vua tên Diệu Trang Nghiêm thường tin theo tà kiến ngoại đạo, Nhưng vua có bà phu nhân tên Tịnh Đức và hai người con tên là Tịnh TẠNG và Tịnh NHÃN… Và do sư khuyến tấn của bà phu nhân cùng hai người con, nên nhà vua đã bỏ tà kiến, rồi đến gặp Phật, rồi xuất gia tiến tu theo CHÁNH PHÁP.

Như thế nghĩa là thế nào?

Lời kinh thường có hai nghĩa:

Theo nghĩa đen, thì ở cái kiếp xa xưa ấy, THẬT có một vị vua tên là Diệu Trang Nghiêm, và câu chuyện đã xảy ra đúng thật như vậy.

Nhưng theo nghĩa bóng thì là: Diệu Trang Nghiêm là danh từ mà nhà Phật thường dùng để chỉ cho Tàng thức hoặc Chân thức… Nên vị vua đó tu hành theo ngoại đạo, đã thành tựu được Không quán, lọt được vào noi Không hải của Tàng thức so năng biến. Nhưng khi tới đó rồi, lại lạc vào ý ma, khởi tà kiến, chấp chân thường, chấp Thần ngã, hay coi Thức ấy là Minh đế, nghĩ rằng mình đã tới bến rồi, không chịu tiến tu nữa để chuyển Tàng thức nửa vọng nửa chân ấy thành Bạch tịnh thức.

Do đó, nên hai người con cùng bà phu nhân mới phải sách tấn.

Tịnh TẠNG có nghĩa là Tịnh cái Tàng thức ấy. Tức là một bậc Đại Bồ Tát đã bước vào Giả quán cùng Trung quán, đã đắc một số Tam muội… nghĩa là đã tịnh được 1 phần Tàng thức.

Tịnh NHẪN cũng có nghĩa như vậy, vì Tàng thức sơ năng biến tức là Kiến đại vi diệu, tức là Tâm nhãn.

Nhưng Tâm nhãn ấy vẫn còn cần phải thanh tịnh hóa hơn nữa, gột nốt những vô minh vi tế.

Còn Tịnh ĐỨC tức là Chỉ Quán song tu, Trung đạo song chiếu.

Và hai người con đã phải dùng Đại tự tại lực, thi triển thần thông, cả thần thông của Nhị thừa lẫn thần thông của Đại Bồ Tát (như hiện thân lớn đầy hư không, rồi lại hiện thân thật nhỏ… và đó là điều mà ngoại đạo không làm nổi), để thuyết phục vua cha.

Nên vua mới tỉnh ngộ, đến ra mắt Phật, xuất gia tinh tấn tiến tu theo CHÁNH PHÁP, vào Giả quán cùng Trung Quán, đắc được Nhứt thiết tịnh công đức trang nghiêm Tam muội… Tức là nơi Tàng thức đã gột sạch được mấy phần vô minh vi tế chấp pháp rồi.

Nên được Đức Phật Vân Lôi Âm thọ ký cho sau này sẽ thành Phật, hiệu là Ta La Thọ Vương…

Còn như trong Kinh Hoa Nghiêm, phẩm Nhập Pháp giới ngài Thiện Tài đi học Bồ Tát đạo ở nơi hơn năm mươi vị đại thiện trí thức. Và những bước đường tu học của ngài thường đều là thuộc lộ trình Giả quán, quán chiếu Như Huyễn và Trung đạo song chiếu.

Vì sao vậy?

Là vì, lúc ban đầu, ngài đã gặp được Đức Văn Thù chỉ điểm cho. Gặp Đức Văn Thù, NHÌN THẤY

Đức Văn Thù, tức là đã mở được Tâm nhãn tịnh diệu, lọt được vào Tàng thức, nghĩa là đã thành tựu Không quán rồi.

Là vì phẩm ấy có tên là Nhập pháp giới. Và Nhập pháp giới có nghĩa là: quán chiếu Như Huyễn và Trung đạo song chiếu để đồng hóa thân tâm mình với pháp giới…