HỒI KÝ PHÙNG PHÙNG
Hạnh Đoan biên dịch
THỦY TRIỀU ĐỎ
Năm 1970 lần đầu tiên một ký giả Nhật cho đăng một tấm hình ở Yomiuri Shimbun, khơi gợi rất nhiều tranh luận. Tấm hình này lưu truyền ra, được in tại Anh quốc và trên các báo Âu Châu đã khơi gợi rất nhiều hiếu kỳ. Các chuyên gia xôn xao bay đến Trường Kỳ (là thành phố Nagasaki ở phía Tây Nam – đảo Kyushu), họ thuê một chiếc thuyền, chờ đêm đến trăng lên thì đi ra ngoài biển để quan sát một hiện tượng lạ vô phương giải thích xảy ra tại một vùng thuộc phía nam bờ biển cách Nagasaki chưa đến 80 dặm. Thế hiện tượng lạ này là gì?
Theo những gì tôi nhìn thấy trong bộ phim Anh quốc trình chiếu, thì vào ban đêm: Trên mặt biển tối đen bỗng xuất hiện vầng xạ quang sáng rỡ, giống như có hàng trăm triệu ánh huỳnh quang tập trung tụ hội, nổi trên mặt biển, chu vi rộng đến mấy mươi dặm, vầng ánh sáng này lúc thì lưu chuyển thành khối, lúc thì biến hóa kỳ ảo thành ức, triệu… đóm lửa chen chúc… dày đặc như sao.
Cảnh tượng cũng giống như khi tôi ở trên núi nhìn xuống Hương Cảng, thấy vô số ánh đèn sáng lấp lánh trên biển. Nhưng có khác chăng là: Cảnh đèn biển ở Hương Cảng lấp lánh mang đủ màu sắc, pha lẫn ánh đèn xe hơi chạy ngang qua phản chiếu xuống… nghĩa là ánh đèn sáng mang đủ màu, đủ sắc thái. Nhưng riêng tại nơi đây ánh sáng nơi mặt biển chỉ có hai màu: Màu bạch tang tóc và màu lục u buồn.
Theo chú thích thì ánh sáng bạch lục thần bí này thường xuất hiện vào khuya ngày rằm tháng 11, thỉnh thoảng cũng xuất hiện vào mùng 8, mùng 9. Mỗi lần xuất hiện chúng tồn tại từ một đến ba tiếng không nhất định.
Còn nữa, ánh hải quang này, tuyệt không phải mới xuất hiện gần đây, mà chúng đã có từ thời trung cổ cho đến tận bây giờ. Do ngư dân đảo Cửu Châu (Kyushu) từng chứng kiến qua rồi nên họ đã quen và cho đây là chuyện thường, chẳng hề ngạc nhiên.
Nhưng mãi đến mấy năm gần đây, trên thế giới mới bắt đầu biết đến hiện tượng hải quang này.
Mấy chuyên gia Tây phương trong lúc quay hình, mỗi người tự phát biểu giả thuyết riêng. Người thì nói là do phốt-pho; (là lân chất trong biển), người thì đổ là: Do trong biển có loài vi sinh vật Plankton trôi nổi (vì thân thể chúng chứa nhiều lân chất) và các vi sinh vật này nương theo sóng biển trôi giạt đến, rồi giữa cảnh tối đen thân chúng phát ra ánh lân quang, nên ta thấy sáng vậy thôi, tình trạng này cũng giống như dạng huyết triều trong biển vậy.
Huyết triều là gì? Tôi nhìn thấy trong phim chiếu cảnh thủy triều dưới ánh mặt trời, dòng nước biển dài suốt mấy trăm dặm đều biến thành màu đỏ giống như máu, nhìn rất đáng sợ.
Tôi nhớ hình như trong kinh Cựu Ước có miêu tả cảnh tượng giống vậy xuất phát từ Ai Cập? Khi nhà tiên tri Moses vừa vung gậy chỉ xuống, thì nước biển biến thành máu đỏ, những sông biển Ai Cập sở hữu đều biến thành máu hết nên không thể dùng. Cá tôm đều thối nát, khiến Pha-ra-ông (vua Ai Cập cổ) hoảng sợ hết hồn.
Trong Bộ phim Thập Giới (mười điều răn) của Hollywood có quay một đoạn: Cảnh nước biển biến thành màu máu rất thần kỳ, nhưng đó là do họ dùng thuốc nhuộm tạo thành thôi.
Còn cảnh trong phim tài liệu do các nhà Khoa học Anh Quốc tự quay và đang cho trình chiếu hiện thời tuyệt không phải là cảnh do con người ngụy tạo, mà là bộ phim ký sự nghiên cứu được quay rất trung thực. Cảnh nước biển có màu máu này, ở Địa Trung Hải cũng từng gặp qua.
Tôi thấy các chuyên gia múc nước trong biển máu lên, họ nhỏ mấy giọt lên kính hiển vi, thì thấy có hằng ngàn, hằng vạn vi khuẩn huyết hồng, hình dáng giống vi sinh vật trong từng giọt nước đang bơi lội chuyển động. Những vi sinh vật này cũng có tên khoa học Latin (tiếc là tôi không nhớ để ghi ra), các vi sinh vật sắc đỏ này giống như tế bào Amoeba đơn, do ức ức triệu triệu con cùng kết hợp lại, tạo thành làn sóng biển máu, đặc biệt là một khi huyết triều này hiện đến, thì không một sinh vật nào có thể thoát chết: Tất cả loài thủy tộc cá tôm hiện có, ngay khi đó đều bị vi sinh hồng huyết này giết chết, hút lấy tinh hoa, chỉ còn lại thi thể nổi trên mặt nước, tạo ra cảnh: Có hàng ngàn hằng vạn xác vật chết, bị thối rữa tấp vào bãi biển. Cảnh thi thể thủy tộc tắp vào bãi biển như vậy, từng thấy xảy ra ở khắp nơi.
Cảnh tượng này hơn mười năm trước cũng đã xuất hiện tại quần đảo Bành Hồ Đài Loan. Còn ở Phi Luật Tân, Mê Hi Cô, Ai Cập, Ý Đại Lợi, Úc châu, Nam Mỹ, cũng từng xuất hiện qua. Những ngư dân có kinh nghiệm đều rất sợ hãi, không ai dám vớt các thây cá này ăn.
Tôi chỉ tình cờ nhắc đến kinh Cựu Ước và các tôn giáo khác thôi (vì tôi từng nghe và xem phim nên mới trích giải như thế) nhưng theo tôi, mỗi người đều có thể tùy ý giải thích theo chủ kiến của mình, tôi tôn trọng tất cả các tôn giáo, chứ không phải vì mình là Phật giáo đồ mà cho các tôn giáo khác là không đúng!
Ở đây tôi chỉ nêu lên những điều mà khoa học phát hiện ra chứ không hề phủ nhận những lý thuyết tôn giáo. Vì những khám phá khoa học tuy có thể đặt giả thuyết về các hiện tượng này, song vẫn thất bại, vì không thể giải thích các năng lực bí ẩn đã tạo nên hiện tượng này. Những phát hiện của khoa học tuy có thể giải thích, song vẫn không đạt được kết quả chính xác: Rốt cuộc là có lực lượng thần bí nào đã tạo nên cảnh tượng kia.
Vậy khi mặt biển Trường Kỳ (Nagasaki) xuất hiện hải quang, thì loại này có giống như cảnh các khoa học gia đang quay kia không?
Trong phim, các khoa học gia chưa đưa ra kết luận, họ chỉ phát biểu là: Có khả năng như thế mà thôi!
Tôi thấy có một nhà Thần bí học đưa ra giả thuyết rằng: Đây là hiện tượng “Đăng hải thần bí” (ông cho là dưới đáy biển có hai thế giới, và chính ánh sáng của thành phố siêu nhân đã phóng ra phản chiếu lên mặt biển).
Các nhà nghiên cứu này cũng từng được Hải quân Nhật hỗ trợ, gửi tàu ngầm, cho sử dụng máy định vị bằng sóng âm thanh và nhiều dụng cụ thí nghiệm khoa học khác, thậm chí còn mời tàu ngầm Canada lặn xuống sâu hàng ngàn mét để thám thính, nhưng không thấy gì. Trong phim quay trực tiếp chỉ thấy xuất hiện những cảnh đáy biển thông thường.
Thời điểm này Canada phát minh tàu ngầm được xem như đứng đầu thế giới, tàu có thể lặn sâu mấy ngàn mét thám thính, từng khiến cho Liên Xô chú ý, muốn đặt mua, do bị Mỹ phản đối, nên Canada cũng chẳng hứa bán cho. Đến nay vẫn được xếp hạng là tàu ngầm lặn sâu, chịu đựng tốt nhất thế giới. Năm ngoái Canada còn công khai triển lãm tàu ngầm…
Tôi đã đến Bắc Vancouver chiêm ngưỡng, nhưng không được phép chụp hình, trông dáng vẻ bên ngoài thì thấy tàu chẳng có gì đặc biệt, nhưng nghe kể nó được chế tạo bằng hợp kim đặc biệt, có thể đề kháng áp suất nước sâu, khống chế được khí nén trong tàu, giúp người dùng không bị nguy hại.
Về thuyết “Đăng hải thần bí” , việc điều tra đến nay chưa có kết quả nên đã bị đình chỉ. Tương lai họ có tái thám thính nữa không thì chưa biết.
Tôi đã ghé qua Nagasaki, nhưng chưa có dịp ra biển để ngắm xem hiện tượng kỳ lạ này. Nghe nói tại Nagasaki, các nhân sĩ quốc tế vẫn thường ngồi thuyền ra biển tham quan vào các đêm rằm tháng mười một và rằm tháng giêng.
Tôi nhớ trong cuốn tự truyện Hòa thượng Hư Vân có kể vào thời Thanh mạt, ngài ngồi thuyền đi Hạ Môn giữa đêm trăng tròn tại eo biển Đài Loan và đã nhìn thấy trên mặt biển sáng lấp lánh, do trong sách văn từ miêu tả khó hiểu, mà cũng không có giải thích.
Song kiểm lại những thấy nghe tôi từng trải qua, đem so với lời tự thuật của ngài, thấy cũng có điểm giống nhau.
Tôi lên du thuyền để đi thăm Shimonoseki nằm ở phía Tây biển Nhật Bản. Tại Hạ Quan tàu du lịch cập bến tại eo biển Đông Hải.
Ngay trong đêm theo đoàn du khách trở về, lúc về rồi, tôi lại thấy khó ngủ. Thế nên vào lúc hai ba giờ khuya, khi toàn bộ khách trên thuyền đã ngủ hết, một mình tôi vẫn còn lang thang trên boong tàu, đứng tựa vào lan
can nhìn ngắm mông lung…
Lúc này mặt biển đầy sương mù, xa xa có những ánh đèn yếu ớt lập lòe, cổng thành phố nằm đối diện ở trên bờ cũng đang chìm trong giấc ngủ.
Cây cầu ở Shimonoseki rất cao, cũng im vắng vì không còn người xe qua lại, cầu trông đẹp hùng vĩ, không hề thua kém cây cầu Golden Gate Bridge vĩ đại của Hoa Kỳ.
Giữa đêm khuya này, mây đen bỗng giăng phủ bốn bề, mưa phùn tầm tã, bầu trời giờ không trăng sao, khiến ngọn núi xa xa trở thành tối đen, bởi sương phủ dày mịt, hiện tại có gì đẹp đâu để mà thưởng ngoạn ngắm cảnh chứ? Vậy mà tôi cứ đi loanh quanh trên boong tàu, không chịu xuống. Đã vậy, trong lòng bỗng trào dâng một cảm giác bi ai, cô đơn, lạnh lẽo, thê lương rất lạ lùng và khó hiểu.
Đột nhiên, tôi thấy từ phía Đông, mặt biển bỗng xuất hiện một phiến lân quang màu lục trông rất buồn thảm, quầng sáng này dần dần phát triển rộng càng lúc càng nhiều, cho đến khi mặt biển toàn là ánh bích quang nhấp nháy… nhìn cảnh trạng giống như… có ánh sáng từ đáy biển tỏa chiếu hắt ngược lên trên vậy.
Toàn biển bây giờ tràn đầy ánh lân quang nhấp nháy, xuyên suốt; chứng kiến cảnh nước biển giống như đang bị nấu trên lò, cứ cuồn cuộn, sôi sục không ngừng, tôi ngạc nhiên vô kể.
Tôi rất muốn vào trong gọi mọi người cùng ra xem, nhưng lạ thay, lúc này toàn thân tôi bỗng cứng đơ như bị tê liệt, không thể bước, cảm giác giống như mình đang bị đóng băng, cứ dính chặt ngay tại chỗ mình đứng. Lúc đó miệng tôi rất muốn kêu lên, nhưng không bật ra được âm thanh nào.
Trong khoảnh khắc, nơi chỗ phát ra ánh sáng lục buồn thảm trên mặt biển, bỗng phát ra vang vọng tiếng người rên xiết, kêu gào rất thê lương, làm ầm náo cả một vùng: Có tiếng nam nhân quát giết… và tiếng phụ nữ khóc lóc rên rỉ, nghe bi thảm không cùng. Rồi dãy ánh sáng màu lục buồn thảm trên mặt biển chợt lay động, hiện ra một cảnh tượng cực kỳ bi thảm ngoài sức tưởng:
Tôi thấy có vô số thuyền buồm thời cổ đại chở đầy binh lính, đang giao đấu hỗn loạn trên biển. Có hằng ngàn hằng vạn võ sĩ mặc cổ trang, hung hăng chém giết trước thuyền, thương giáo múa sáng lòe, tên bay như mưa; ánh thép của mũi đao vung loạn xạ, tạo nên cảnh máu văng thịt bay… Phụ nữ và trẻ em không một ai thoát nạn: Nếu không thành vong linh dưới cơn mưa đao kiếm, thì cũng phải nhảy xuống biển chết chìm. Ánh lửa tàu cháy sáng rực trời, khói bốc cuồn cuộn mịt mù che cả vầng trăng. Máu loang đầy biển, nhuộm đỏ khắp chốn, cảnh trạng thê thảm khốc liệt này, quả thực vô phương hình dung, vô phương mô tả. Tôi chỉ có thể khẳng định là: Bất kỳ bộ phim chiến tranh bom tấn nào trên thế giới, cũng thua xa thực tế kinh hoàng khủng khiếp mà tôi đang chứng kiến ở đây.
Lúc đó tôi nhìn mà lòng đau đớn vạn phần, lệ rơi đầy mặt, cổ họng nghẹn ngào. Tôi biết đây tuyệt không phải là ảo cảnh, tôi hiểu những điều mình thấy trước mắt, chính là cảnh tượng hoàn toàn có thật vào thời xa xưa.
Cảnh chém giết bi thảm này tất nhiên là xảy ra vào thời cổ đại, do vong linh thống khổ chưa tan, nên khi gặp được người tâm linh có thể giao cảm với cõi âm, thì cảnh bi thương kia liền tái hiện. Tôi cũng đoán mình không phải là kẻ duy nhất chứng kiến qua cảnh tượng này! Trong tương lai, chắc chắn sẽ có người nhìn thấy hệt như tôi đang chứng kiến hiện giờ.
Lúc đó trong lòng tôi vô cùng bi thống, kinh hoảng; may mà tôi còn nhớ niệm Phật, dù tâm đang sợ hãi run rẩy, tôi vẫn chí thành niệm: Nam mô A Di Đà Phật, rồi tụng chú Đại Bi. Tôi tụng liên tục không ngừng, tôi chắp tay trì chú mà mắt cứ dán chặt vào thảm cảnh trên biển, còn nghĩ thầm: Trì vậy chứ không biết có hiệu nghiệm hay không?
Một lúc lâu, thảm trạng trên biển dần tiêu tan, chỉ còn ánh sáng lân tinh trôi nổi…
Tâm tôi bình ổn trở lại, nhưng vẫn trì chú liên tục, lại rất lâu sau đó, những đốm lửa lân tinh trên biển dần tiêu mất, vùng ánh sáng chiếu lấp lánh trên biển, dần dần mờ đi, cuối cùng chỉ còn một vùng đốm lửa yếu ớt lập lòe… kết thành hàng thành đoàn, nhìn giống một đội ngũ dài dằng dặc. Những đốm lửa này vươn lên nhấp nháy nhiều lần, nhìn giống như trong lửa có gió thổi, nhưng cuối cùng thì tất cả đột ngột biến mất không còn tung tích. Mặt biển lại phủ đầy sương như cũ, không còn cảnh tượng kỳ lạ nào nữa.
Tôi xem đồng hồ tay, thấy đã gần 3 giờ. Dù mồ hôi đang tuôn nhỏ giọt, nhưng sự kinh hoảng hiện thời đã được trấn tĩnh, tôi lê bước về phòng mình, cởi áo khoác ra đi ngủ.
Ánh đèn điện chiếu sáng yếu ớt, tôi vẫn khẩn thiết niệm Phật, một trận âm hàn từ cơn mưa lạnh bên ngoài tạt vào. Đèn điện bỗng tỏa sáng trở lại, trong phòng các bạn vẫn ngủ say như heo, ngáy ầm ầm như sấm.
Tôi vẫn một bề trì thầm chú Đại Bi, rồi ngủ thiếp đi lúc nào không hay. Sáng ra, tôi không dám nhắc chi đến chuyện này, lẳng lặng đi ra ngoài ngắm mặt biển, thấy không có gì lạ.
Hôm sau, khi đi ngang qua một tiệm sách, tôi ghé vào hỏi thăm có sách lịch sử bản địa hay chăng, chủ tiệm là một ông già, tiếp đón tôi vô cùng lịch sự lễ phép. Ông hỏi tôi muốn tìm hiểu lịch sử thời đại nào? Tôi bèn hỏi địa danh của eo biển phía đông Shimonoseki (Hạ Quan) này tên gì, có phải tên là cửa biển Chan?
Ông lão đáp:
– Dạ đúng! Dạ đúng! Tiên sinh… đã tới đó rồi ư?
Chiếu ánh mắt tò mò vào tôi, ông hỏi:
– Thế… tiên sinh đã nhìn thấy gì rồi ư?
Tôi thành thật kể ra, ông lão nói:
– Đúng là cửa biển Chan, người bản xứ ai cũng biết hết, bởi cảnh này rất thường xuất hiện!
– Chao ơi, có thật như thế ư?
Lão già kể hồi còn nhỏ ông cũng từng chứng kiến qua một lần, nhưng đó là chuyện thuộc bốn mươi năm về trước.
Ông nói: Nếu ai cố ý tới đó chờ đợi để được xem, thì họ không thấy gì. Đã có rất nhiều người nghe đồn nên tò mò tìm tới, nhưng thảy đều thất vọng quay về.
– Thế… rốt cuộc là có chuyện ma quái gì vậy?
Đó là vào năm Thọ Vĩnh thứ tư (1185), giữa hai gia tộc Bình Thị và Nguyên Thị vì tranh giành địa điểm trọng yếu tại đây nên đã cùng quyết đấu một trận. Thủy quân hai bên hỗn chiến suốt một ngày một đêm, tử vong hơn ba, bốn triệu người. Cuối cùng thì toàn bộ quân Bình Thị bị giết, còn Nguyên Thị thắng trận, chiếm lấy danh vị, trở thành Mộ phủ Tướng quân Nguyên Lại Triều. Đối với những người Bình Thị còn sót lại, ông ra lịnh chặt đầu hoặc đuổi ra biển cho họ chết chìm.
Mẹ Bình Thị ôm ấu chúa tám tuổi nhảy xuống biển vong thân. Ấu chúa tức là An Đức Thiên Hoàng, mẹ Thiên Hoàng 建禮門院君 là Kiên Lễ Môn Viện Quân cũng nhảy biển trầm mình, đây là trận chiến bi thảm nhất giữa hai họ Bình Nguyên. Kể từ đó về sau, tại cửa biển Chan thường có quái cảnh xuất hiện, suốt tám trăm năm nay vẫn nghe nói đến.
– Chà! Té ra là vậy!
Lão chủ tiệm lục tìm ra hai cuốn sách, tên là: (四谷怪談,源氏物語)“Tứ Cốc Quái Đàm” và “Nguyên Thị Vật Ngữ”, ông lật một đoạn cho tôi xem, tôi xem qua Nhật Văn, Anh Văn và Trung Văn viết trong sách, thì cũng đoán sơ được đại ý. Sách tôi không mua, vì lúc đó chỉ tạm thời tìm hiểu thôi, bây giờ tôi lục trong trí nhớ mà kể ra nên e là cũng có thiếu sót. Tôi xin lược thuật sơ đại ý như thế này:
Thuở xưa, hai họ Bình Nguyên quyết đấu một trận cuối cùng tại cửa biển Chan, toàn bộ quân Bình Thị bị đánh úp, cả dòng tộc diệt vong, An Đức Thiên Hoàng năm đó mới 8 tuổi, cũng bị quân Nguyên Thị đuổi ra biển, mẹ Bình Thị là Thanh Thịnh Trì Chi Ni cõng ấu chúa nhảy xuống biển trầm mình, tất cả chiến thuyền của họ nếu cập bờ, đều bị quân Nguyên Thị chém đầu hết, không tha cho bất cứ ai. Lúc ấy mặt biển máu nhuộm đỏ, thây nổi đầy. Sau đó địa phương thu dọn thây, ngót cả tháng trời mà vẫn chưa vớt hết. Cửa biển Chan là mồ chôn hơn 40 vạn người, nên đất trời âm u, không gian như có quỷ khóc, đêm đêm thường có ánh lửa ma trơi bay loạn, ai cũng sợ không dám trú ngụ chốn này.
Tại Hạ Quan có một người mù, tên là Bảo Nhất, ông tá túc trong chùa, làm nghề bán lời ca kiếm sống, ông có tài khảy đàn ba dây, thường hát bài ca kể thuật toàn bộ sự việc này rất hay, xa gần đều biết danh.
Do ông mù hai mắt, lại bị mất đôi tai, nên người ta thường gọi ông là “Vô nhĩ Bảo” (tức Bảo không tai).
Còn chuyện vì sao ông bị mất hai lỗ tai, đây thuộc về một uẩn khúc khác.
Bảo Nhất sống cô độc, chỉ biết dùng lời ca hút hồn người để mưu sinh. Khách đến nghe ngày càng đông.
Một tối nọ ông đang ngồi một mình, đột nhiên có hai võ sĩ tới mời thỉnh. Tuy Bảo Nhất không thể nhìn thấy, nhưng rất giỏi phân biệt rõ tiếng đối phương, ông cảm giác là họ rất oai hùng uy vũ, nên thầm đoán: “Chắc là mình đang được quý nhân đến mời, vậy thì thế nào cũng sẽ lãnh thưởng to, nên ông rất mừng, sẵn sàng theo họ ngay.
Hai võ sĩ nọ đưa ông lên kiệu, khiêng đi. Đi được một hồi lâu, ông cảm giác con đường này rất xa và gập gềnh, nhưng chẳng biết là chỗ nào. Chỉ thấy là đi rất lâu… mới tới nơi.
Đến nơi rồi thì có nô bộc ra dìu ông vào, Bảo Nhất tuy mù, nhưng còn xúc giác, ông cố lắng nghe âm thanh chung quanh: Và nhận ra đây là chốn thâm cung, vì ông nghe tiếng sột soạt của quần áo sang quý như nhung gấm, lụa là, ông cảm giác là mình đang ở trong cung, hình như nơi đây nghi lễ cung cách rất nghiêm.
Võ sĩ ra lịnh Bảo Nhất hãy khấu đầu lạy chào, Bảo Nhất nhận ra nền nhà trơn bóng, có trải nệm để ngồi, nhưng không phải nệm cỏ, mà còn nghe có mùi hương thơm phả ra thoang thoảng… rồi có tiếng mệnh phụ thi lễ vái chào nhau, xen lẫn tiếng quở la nơi cung cấm… trong lòng ông kinh nghi, tự hỏi chẳng biết mình lạc vào chốn quý tộc hay vương gia nào – mà uy quyền quá đỗi?
Chốc lát ông lại nghe một nữ quan truyền lệnh, bảo ông:
– Giờ nhà ngươi biểu diễn được rồi!
Ông hỏi:
– Quý ngài muốn tôi hát bài gì đây?
Lệnh trên phán xuống rằng :
– Ông hãy hát khúc nhạc kể về cửa biển Chan.
Giọng ra lệnh nghe thật dịu dàng ấm áp, giống như của một quý phu nhân oai quyền, nhưng không rõ đó là ai?
Bảo Nhất tằng hắng, khảy đàn rồi cất tiếng ca: Bài hát thuật lại cuộc tử chiến nơi cửa biển Chan. Đàn khảy réo rắt, lời ca thê lương, khi ông ca tới đoạn: Chiến thuyền xông lên quyết đấu, lưỡi kiếm xoay vun vút, máu văng thịt bay, tiếng kêu than vang dậy, ánh lửa tàu cháy mịt trời, khói bốc cao, thây trôi đầy biển… theo lời ca hút hồn của ông: Thảm cảnh lần lượt được tái hiện.
Khi ông ca đến chỗ Lão Thái Quân nhảy xuống nước, Bình Tướng quân tử nạn, vợ ông ôm ấu chúa bị binh Nguyên Thị bao vây tấn công, khung cảnh thảm khốc, hoảng loạn vô cùng.
Lời ca kể: Lúc này, Bình Thái quân kêu to rằng: Lại Triều Tướng Quân, (ông này tức là con trai Nguyên lão tướng), ngài chẳng thể miễn chết cho tôi cùng ấu chúa sao? Ngài chẳng nghĩ tình ngày xưa tôi đã từng cứu mạng ngài hay sao ?
Đúng là trước đây Nguyên Lại Triều theo cha quyết đấu với Bình Thị bị bại trận, nên cha của ông bị giết, Lại Triều năm ấy mới 14 tuổi, bị bắt làm tù binh. Tất nhiên tướng Bình Thanh đã hạ lệnh đem trảm ngay, nhưng may nhờ Thái Quân mẹ của Bình đại tướng quân thương xót can ngăn, cứu mạng… nhờ vậy mà Lại Triều được sống.
Hai mươi năm sau, anh em Nguyên Lại Triều đem binh tới báo thù, quyết tiêu diệt sạch dòng Bình Thị, đuổi cùng đuổi tận giết sạch Bình Thị, lúc này Lại Triều hoàn toàn không nhớ gì đến ân Bình Thái quân đã cứu mạng mình ngày xưa, nhất quyết không tha ân nhân nên ông làm lơ, coi như không nghe, buộc bà phải nhảy xuống biển mà chết, những bi thảm ở nhân gian làm sao hơn cảnh trạng này ?
Trong lúc ông mù cất lời ca du dương thuật lại cảnh: Bình thái quân ôm ấu chúa nhảy xuống biển chết thảm, âm điệu diễn tả rất thê lương. Mới đầu thính chúng lắng nghe còn im lặng, sau đó thì một loạt tiếng khóc nức nở sụt sùi vang lên, chất chứa niềm ai oán không dứt. Bên ngoài cửa, các võ sĩ cũng đều rơi lệ, nghẹn ngào…
Bấy giờ trong cung lẫn bên ngoài ai cũng đều khóc rất lâu, chập sau, lệnh bề trên phán xuống, giọng vẫn còn tức tửi nghẹn ngào:
– Thôi cho ông dừng lại, tối mai hãy đến ca tiếp!
Sau đó ông mù được ban thưởng rất nồng hậu và đưa về tận chùa.
Hôm sau Sư phụ trong chùa thấy ông mù tinh thần ủ rũ, nên ngạc nhiên hỏi thăm.
Mới đầu ông không chịu nói, Sư liền bảo :
Tôi xem bộ dạng ông vướng âm khí quá nặng, chắc là đã dây dưa dính dáng gì với với chúng quỷ rồi. Nếu ông cứ nín khe, một bề không há miệng chịu khai hết ra, thì chúng tôi sẽ không thể cứu được ông đâu!
Nghe vậy ông mù thất kinh, vội khai ra hết và nói:
– Xin Sư phụ cứu mạng! Bọn họ nói tối nay sẽ tới đón con đi nữa…
Sư bảo :
– Đám người này chắc chắn là oan hồn của dòng Bình Thị rồi, do chỗ ông cư ngụ là chỗ các oan linh cửa biển Chan đóng trú, Còn người được gọi là chúa thượng kia ắt là Bình Thái Quân Trì Thị Ni rồi.
Sư liền ban phù chú cho ông mù, dặn dò ông đêm nay nếu có nghe thấy gì, nhất định cũng không được trả lời, nếu làm được vậy thì sẽ thoát qua nguy ách. Sư còn vẽ phù thư (gồm toàn chữ Phật) lên khắp thân ông mù. Nhưng lại sơ ý quên không viết nơi vành lỗ tai ông.
Đến nửa đêm, hai võ sĩ lại tới mời ông mù, họ tìm khắp nhưng không thấy, bèn gọi lớn tên ông. Ông mù không dám trả lời. Cẩn trọng tuân theo lời sư dặn, nên nín im thin thít. Ông cứ ngồi yên chờ đợi, hai võ sĩ tìm một lúc lâu, đột nhiên họ nhìn thấy hai lỗ tai ông, bèn la lên: Ở đây nè! – Và bảo nhau:
– Hãy lấy vật này mang về trình báo!
Thế là họ cắt phăng hai lỗ tai ông.
Khi đó Bảo Nhất đau đớn vô cùng, nhưng vẫn cắn răng chịu đựng, đợi hai võ sĩ kia đi mất rồi, ông mới dám la lên cầu cứu, Tăng trong chùa vội đốt đèn tới xem, thấy ông mù mất bị đi đôi tai, đang té nằm trong vũng máu.
Sư phụ vội cấp cứu chữa trị cho, bảo: Đây là lỗi của ta!
Ông mù mất đôi tai rồi, tiếng tăm càng nổi, người đến nghe ca càng đông, họ đều gọi ông là: Ông Bảo không tai. Những lúc có cảnh lạ xuất hiện nơi cửa biển Chan, dân Hạ Quan đều biết, nhưng không ai dám tới đó.
Loài cua Hạ Quan sinh ra, trên mai hiện rõ mặt người rất dữ, mọi người đồn đó là tinh hồn các võ sĩ…
Đây là tôi dựa theo ký ức viết lại, tất nhiên cùng nguyên văn có khác, tôi chỉ lược ghi đại ý thôi.
Việc này tôi không thể xem như đọc truyện cổ hoặc nói là chuyện xưa tích cũ. Vì xem ra, ở chỗ đó vẫn còn đầy u hồn chưa tan?
Hạ Quan nay đã là thành phố công nghiệp, trên biển có trăm ngàn thuyền tàu nườm nượp ra vào. Tôi cũng vô phương giải thích: Vì sao mình có thể nhìn thấy hiện tượng cảnh lạ kỳ quái kia?
Thí như những cảnh lạ mà tôi nhìn thấy ở Nagasaki (trường kỳ) và 鹿兒島 (Lộc Nhi đảo) Kagoshima là đồng dạng, thì có thể giải thích những hiện tượng kỳ quái tại các nơi khác trên biển.
Tiếc là tôi không có dịp đi quan sát thực tế, mà chỉ xem trên phim chiếu nên cũng khó nhìn ra là nơi trong phim trình chiếu có u linh hay không, tôi thông qua cảnh mình nhìn thấy mà suy đoán thôi.
Kỹ thuật trinh thám hình sự của nước Mỹ và Canada, đã có thể chế tạo và sử dụng camera hồng ngoại đặc biệt, nghĩa là ngay trong đêm tối họ có thể chụp ra hình ảnh mà mắt người không nhìn thấy, cũng có thể chụp ảnh các vụ giết người nơi hiện trường, dù việc đã xảy ra đã mấy tuần, song họ vẫn có thể chụp được và tìm ra, vì nơi trống không cũng xuất hiện hình ảnh người chết. Thậm chí họ còn có thể chụp lại cả tình hình của hung thủ trong lúc đó.
Nhưng hình ảnh xem ra vẫn còn mơ hồ không rõ, nên chỉ giúp cung cấp thông tin tham khảo, chứ chẳng thể lấy để làm chứng cứ dùng cho pháp đình.
Theo khoa học giải thích, thì đây là một loại năng lượng hay nhiệt lượng chưa tan hết, còn đọng lại ở chốn đó. Như vậy thì không thể nói linh hồn là mê tín hay không có thực.
Các hàng quán ở trên phố Hạ Quan (Shimonoseki), hiện có bán loại cua (trên mai hiện mặt người, tướng mạo nhìn rất hung ác). Nghe nói cua mặt người này ăn rất ngon, nên được nhiều người hỏi thăm, lùng kiếm.
Nhưng mà hạng ăn chay trường như tôi thì hoàn toàn cạch mặt, không bao giờ dám hỏi tới.