Tổ Đình Minh Đăng Quang
PHẬT HỌC TỪ ĐIỂN – BUDDHIST DICTIONARY
Thiện Phúc
PHỤ LỤC (APPENDICES)
PHỤ LỤC H
PHẬT THUYẾT KINH PHẠM VÕNG
THE BUDDHA SPEAKS THE BRAHMA NET SUTRA
Hán dịch: Cưu Ma La Thập
Việt dịch: H.T. Thích Trí Tịnh
Bấy giờ Ðức Phật Tỳ Lô Giá Na vì trong đại chúng lược giảng “Tâm Ðịa” như chừng đầu sợi lông trong số trăm nghìn hằng hà sa bất khả thuyết pháp môn—At that time, Vairocana Buddha began speaking in general about the Mind-Ground for the benefit of the Great Assembly. What he said represents but an infinitesimal part, the tip of a hair, of His innumerable teachings, as numerous as the grains of sand in the river Ganges.
Ngài kết luận: “Tâm Ðịa đây chính là lời của tất cả Phật thời quá khứ đã giảng, tất cả Phật thời vị lai sẽ giảng và tất cả Phật thời hiện tại đương giảng. Cũng là pháp môn mà tất cả Bồ Tát đã học, sẽ học và đương học. Ta đã từng trăm A Tăng Kỳ kiếp tu tập tâm địa nầy, do đó ta được hiệu là Tỳ Lô Xá Na. Chư Phật! Các Ngài đem lời giảng của ta đây hầu mở con đường tâm địa cho hết thảy chúng sanh.”—He concluded: “The Mind-Ground has been explained , is being explained and will be explained by all the Buddhas past, present, and future. It is also the Dharma Door or cultivation method (method of development) that all the Bodhisattvas of the past, present, and future have studied, are studying and will study. I have cultivated this Mind-Ground for hundreds of eons. My name is Vairocana. I request all Buddhas to transmit my words to all sentient beings, so as to open this path of cultivation to all.”
Liền đó từ trên tòa Thiên Quang Sư Tử rực rỡ nơi thế giới Liên Hoa Ðài tạng, Ðức Phật Tỳ Lô Xá Na phóng ra những tia sáng, trong tia sáng ấy có tiếng nói với chư Phật đang ngự trên nghìn cánh sen báu: “Các Ngài thọ trì phẩm Tâm Ðịa Pháp Môn của ta đây, rồi tuần tự đem giảng lại cho nghìn trăm ức Thích Ca cùng tất cả chúng sanh. Ai nấy đều nên thọ trì đọc tụng và nhứt tâm vâng làm—At that time, from his Lion’s Throne in the Lotus Treasury World, Vairocana Buddha emitted rays of light. A voice among the rays is heard telling the Buddha seated on thousands of lotus petals, “You should practice and uphold the Mind Ground Dharma Door and transmit it to the innumerable Sakyamuni Buddhas, one after another, as well as to all sentient beings. Everyone should uphold, read, recite, and singlemindedly put its teachings into practice.
Sau khi lãnh thọ phẩm Tâm Ðịa Pháp Môn, chư Phật đang ngự trên nghìn cánh sen báu cùng nghìn trăm ức Ðức Thích Ca đồng đứng dậy rời khỏi tòa Sư Tử. Toàn thân của các Ngài chiếu ra vô số tia sáng. Trong mỗi tia sáng ấy đều hóa hiện vô lượng Ðức Phật, đồng thời tung lên vô lượng hoa đẹp xanh, vàng, đỏ, trắng để cúng dường Ðức Phật Tỳ Lô Xá Na. Cúng dường xong, chư Phật từ tạ trở về—After receiving the Dharma-door of the Mind Ground, the Buddhas seated atop the thousands of lotus flowers along with the innumerable Sakyamuni Buddhas all arose from their Lion Seats, their bodies emitting innumerable rays of light. In each of these rays appeared innumerable Buddhas who simultaneously made offerings of green, yellow, red and white celestial flowers to Vairocana Buddha. They then slowly took their leave.
Khi rời khỏi thế giới Liên Hoa Ðài Tạng, chư Phật vào chánh định Thể Tánh Hư Không Hoa Quang, mỗi Ngài trở về lại chốn cũ, dưới cội Bồ Ðề nơi cõi Diêm Phù. Sau khi ra khỏi chánh định Thể Tánh Hư Không Hoa Quang, đức Phật mới ngự trên tòa Kim Cương Thiên Quang Vương và Diệu Quang Ðường mà giảng về Thập Thế Giới Hải—The Buddhas then disappeared from the Lotus Treasury World, entered the Essence-Nature Empty Space Floral Brilliance Samadhi and returned to their former places under the Bodhi-tree in this world of Jambudvipa. They then arose from their samadhi, sat on their Diamond Throne in Jambudvipa and the Heaven of the Four Kings, and preached the Dharma of the “Ten Oceans of Worlds.”
Rồi Ðức Phật giảng pháp Thập Trụ nơi cung trời Ðế Thích, giảng pháp Thập Hạnh nơi cung trời Diệm Ma, giảng pháp Thập Hồi Hướng nơi cung trời Ðâu Suất, giảng pháp Thập Thiền Ðịnh nơi cung trời Hóa Lạc, giảng pháp Thập Ðịa nơi cung trời Tha Hóa, giảng pháp Thập Kim Cương nơi cõi Sơ Thiền, giảng pháp Thập Nhẫn nơi cõi Nhị Thiền, giảng pháp Thập Nguyện nơi cõi Tam Thiền. Sau cùng nơi cõi Tứ Thiền trong cung của Ðại Tự Tại Thiên Vương, giảng phẩm Tâm Ðịa Pháp Môn mà thuở trước Ðức Phật Tỳ Lô Xá Na đã giảng ở thế giới Liên Hoa Ðài Tạng—Thereupon, they ascended to Lord Sakya’s palace and expounded the Ten Dwelling; proceeded to the Suyama Heaven and taught the Ten Practices; proceeded further to the Fourth Heaven and taught the Ten Dedications; proceeded further to the Transformation of Bliss Heaven and taught the Ten Dhyana Samadhi; proceeded further to the Heaven of Comfort From Others’ Emanations and taught the Ten Grounds; proceeded further to the First Dhyana Heaven and taught the Ten Vajra Stages; proceeded further to the Second Dhyana Heaven and taught the Ten Patiences and proceeded further to the Third Dhyana Heaven and taught the Ten Vows. Finally, in the Fourth Dhyana Heaven, at Lord Mahesvara’s Pa’ace, they taught the Mind Ground Dharma-Door chapter, which Vairocana Buddha, in eons past, expounded in the Lotus Treasury World or the Cosmos.
Tất cả nghìn trăm ức Ðức Thích Ca ở nơi thế giới của mình, đều giảng nói như thế—All the other innumerable transformation Sakyamuni Buddhas did like these in their respective worlds.
THÍCH CA MÂU NI PHẬT—SAKYAMUNI BUDDHA
Bấy giờ, Ðức Phật Thích Ca Mâu Ni, từ lúc sơ khởi hiện thân nơi thế giới Liên Hoa Ðài Tạng, rồi qua phương Ðông đến tại cung của Thiên Vương, diễn nói kinh “Ma Thọ Hóa.” Sau đó, Ngài giáng sanh nơi cõi Nam Diêm Phù Ðề tại nước Ca Tỳ La Vệ, vua Bạch Tịnh là thân phụ, và Hoàng hậu Ma Gia là sinh mẫu. Nhủ danh của Ngài là Tất Ðạt Ða. Xuất gia bảy năm, ba mươi tuổi thành đạo, hiệu Ngài là Thích Ca Mâu Ni Phật—At that time, Sakyamuni Buddha, after first appearing in the Lotus Treasury World, proceeded to the east and appeared in the Heavenly King’s palace to teach the “Demon Transforming Sutra.” He then descended to Jambudvipa to be born in Kapilavastu, his name being Siddhartha and his father’s name Suddhodana. His mother was Queen Maya. He achieved Enlightenment at the age of thirty, after seven years of cultivation, under the name of Sakyamuni Buddha.
Từ Bửu Tòa Kim Cương Hoa Quang, nơi đạo tràng tịch diệt nhẫn đến nơi cung của Ðại Tự Tại Thiên Vương, trong mười nơi ấy Ðức Phật tuần tự ngự đến thuyết pháp—The Buddha spoke in ten assemblies from the Diamond Seat at Bodhgaya to the palace of Maheshvara.
Lúc đó nhơn khi xem bửu tràng mành lưới của Ðại Phạm Thiên Vương, Ðức Phật vì đại chúng mà giảng Kinh Phạm Võng. Ngài dạy rằng: “Vô lượng thế giới dường như là lổ lưới. Mỗi thế giới đều khác nhau cả, khác nhau đến số vô lượng. Giáo pháp của Phật cũng như vậy—At that time, he contemplated the wonderful Jewel Net hung in Lord Brahma’s palace and praised the Brahma Net Sutra for the Great Assembly. He said: “The innumerable worlds in the cosmos are like the eyes of the net. Each and every world is different, its variety infinite. So too are the Dharma-Doors or methods of cultivation taught by the Buddhas.
Ðức Phật đã tám nghìn lần đến thế giới Ta Bà nầy, ngự trên Bửu Tòa Kim Cương Hoa Quang nhẫn đến ngự nơi cung của Ðại Tự Tại Thiên Vương, lược giảng “Tâm Ðịa Pháp Môn” cho cả thảy đại chúng trong những pháp hội ấy—I have come to this world eight thousand times. Based in this saha World, seated upon the Jewel Diamond Seat in Bodhgaya and all the way up to the palace of Lord Maheshvara, I have spoken in general about the Mind Ground Dharma Door for the benefit of the great multitude.
Sau đó từ cung của Thiên Vương, Ðức Phật trở xuống ngự dưới cội Bồ Ðề nơi cõi Diêm Phù Ðề, vì tất cả chúng sanh trên quả đất nầy, hạng người phàm phu ngu tối mà giảng một Giới Pháp Kim Cương Quang Minh Bửu Giới. Giới pháp nầy là lời thường trì tụng của Phật Tỳ Lô Xá Na, khi Ngài mới phát tâm Bồ Ðề trong thời kỳ tu nhơn của Ngài. Giới Pháp nầy cũng chính là bổn nguyện của tất cả Phật, là bổn nguyện của tất cả Bồ Tát và là chủng tử của Phật tánh—Thereafter, I descended from Lord Maheshvara’s palace to Jambudvipa, the Human World. I have preached the Diamond Illuminated Jeweled Precepts or the Bodhisattva precepts from beneath the Bodhitree for the sake of all sentient beings on earth, however, dull and ignorant they may be. These precepts were customarily recited by Vairocana Buddha when he first developed the Bidhi Mind in the causal stages. They are precisely the original source of all Buddhas and all Bodhisattvas as well as the seed of the Buddha Nature.
Tất cả chúng sanh đều có Phật tánh. Tất cả ý thức, sắc, tâm, là tình, là tâm đều vào trong phạm vi giới pháp Phật tánh. Vì chắc chắn thường có chánh nhơn, nên chắc chắn Pháp thân thường trụ—All sentient beings possess Buddha-Nature. All with consciousness, form and mind are encompassed by the precepts of the Buddha Nature. Sentient beings possess the correct cause of the Buddha Nature and therefore, they will assuredly attain the ever-present Dharma Body.
Mười Ba La Ðề Mộc Xoa như thế xuất hiện trong đời. Giới pháp nầy là chỗ kính trọng thọ trì của tất cả chúng sanh trong ba thuở—For this reason, the ten Pratimoksa or Bodhisattva precepts came into being in this world. These precepts belong to the True Dharma. They are received and upheld in utmost reverence by all sentient beings of the Three Periods of Time, past, present and future.
Giờ đây, Ðức Phật sẽ vì trong đại chúng nầy mà giảng lại Giới Phẩm Vô Tận Tạng, là Giới Phẩm của tất cả chúng sanh, bổn nguyện tự tánh thanh tịnh—Once again, I shall preach for the Great Assembly the chapter of the Inexhaustible Precept Treasury. These are the precepts of all sentient beings, the source of the pure Self-Nature.
Ðại chúng lòng nên tin chắc:
Các người là Phật sẽ thành,
Ta đây là Phật đã thành.
Thường có lòng tin như vậy
Thời giới phẩm đã trọn vẹn.
All of you in the Great Assembly
should firmly believe
That you are the Buddhas of the future
While I am a Buddha already accomplished.
If you should have such faith at all times,
Then this precept code is fulfilled.
Tất cả những người có tâm
Ðều nên nhiếp hộ Phật giới.
Chúng sanh nào thọ Phật giới
Chính là vào hàng chư Phật.
Ðã đồng hàng bậc Ðại Giác
Mới thật là con chư Phật.
All beings with resolve
Should accept and uphold the Buddha’s precepts.
Sentient beings on receiving them
Join forthwith the ranks of Buddhas.
They are in essence equal to the
Buddhas.
They are the true offspring of the Buddhas.
Ðại chúng đều nên cung kính
Chí tâm nghe lời ta tụng.
Therefore, great Assembly,
Listen with utmost reverence
As I proclaim the Bodhisattva Moral Code.
ÐỨC PHẬT KIẾT BỒ TÁT GIỚI—THE BUDDHA RECITING THE BODHISATTVA PRECEPTS.
Thuở ấy Ðức Phật Thích Ca Mâu Ni, lúc mới thành đạo vô thượng chánh giác trong khi ngồi dưới cội Bồ Ðề, Ngài bắt đầu kiết Bồ Tát Giới. Ngài dạy: “Hiếu thuận với cha mẹ, Sư Tăng, Tam Bảo. Hiếu thuận pháp chí đạo. Hiếu gọi là giới, cũng gọi là cấm ngăn.”—At that time, when Sakyamuni Buddha first attained Supreme Enlightenment under the Bodhi tree, he explained the Bodhisattva precepts. The Buddha taught filial piety towards one parents, Elder Masters and the Triple Jewel. Filial piety and obedience, he said, are the Ultimate Path to Buddhahood. Filial piety is called the precepts, thus, it means restraint and cessation.
Liền đó từ nơi miệng, Ðức Phật phóng ra vô lượng tia sáng. Bấy giờ có đến trăm vạn ức đại chúng, các Bồ Tát, mười tám Phạm Thiên, sáu cõi trời dục giới, mười sáu đại Quốc Vương đồng chắp tay chí tâm nghe Ðức Phật tụng giới pháp Ðại thừa của tất cả chư Phật—The Buddha then emitted limitless lights from his mouth. Thereupon, the whole Great Assembly, consisting of innumerable Bodhisattvas, the gods of the eighteen Brahma Heavens, the gods of the six Desire Heavens, and the rulers of the sixteen great kingdoms all joined their palms and listened singlemindedly to the Buddha recite the Mahayana precepts.
Ðức Phật nói với các vị Bồ Tát: “Nay ta cứ mỗi nửa tháng tự tụng giới pháp của chư Phật. Tất cả hàng Bồ Tát sơ phát tâm, nhẫn đến các Bồ Tát Thập Phát Thú, Thập Trưởng Dưỡng, thập Kim Cương, Thập Ðịa cũng tụng giới ấy. Vì thế nên giới quang từ miệng ta phóng ra. Phóng quang là vì có nguyên do, chớ chẳng phải vô cớ. Giới quang ấy chẳng phải màu xanh, vàng, đỏ, trắng và đen; chẳng phải sắc pháp, cũng chẳng phải tâm pháp, chẳng phải pháp hữu, pháp vô, cũng chẳng phải pháp nhơn, pháp quả. Nó chính là bổn nguyên của chư Phật, là căn bản của chúng Phật tử. Vì thế nên chúng Phật tử phải thọ trì, phải đọc tụng, phải học kỹ giới pháp nầy—The Buddha then said to the Bodhisattvas: “Twice a month I recite the precepts observed by all Buddhas. All Bodhisattvas, from those who have just developed the Bodhi Mind to the Bodhisattvas of the Ten Dwellings, the Ten Practices, the Ten Dedications and the Ten Grounds also recite them. Therefore, this precept-light shines forth from my mouth. It does not arise without a cause. This light is neither blue, yellow, red, white nor black. It is neither form nor thought. It is neither existent nor nonexistent, neither cause nor effect. This precepts-light is precisely the original source of all Buddhas and all members of this Great Assembly. Therefore all you disciples of the Buddha should receive and observe, read, recite and study these precepts with utmost attention.
Disciples of the Buddha listen attentively! Whoever can understand and accept a Dharma Master’s words of transmission can receive the Bodhisattva precepts and be called foremost in purity. This is true whether that person is a king; a prince; an official; a monk; a nun or a god of the eighteen Brahma Heavens; a god of the six Desire Heavens, or a human, a eunuch, a libertine, a prostitute, a slave or a member of the Eight Divisions of Divinities, a Vajra spirit, an animal or even a transformation-being.
MƯỜI GIỚI TRỌNG—THE TEN MAJOR PRECEPTS (see Mười Giới Trọng Của Chư Bồ Tát Trong Kinh Phạm Võng).
ÐỨC PHẬT KIẾT RĂN VỀ MƯỜI GIỚI TRỌNG—BUDDHA CONCLUDES ON THE TEN MAJOR PRECEPTS.
Nầy các Phật tử! Trên đây là mười giới trọng của chư Bồ Tát, các Phật tử cần nên học. Trong mười giới đó không nên trái phạm một giới nào cả, dầu một mảy may nhỏ như vi trần, huống chi phạm đủ cả mười giới ư! Nếu có người nào trái phạm, thời người ấy hiện đời không được phát Bồ Ðề tâm, rồi cũng mất ngôi Quốc Vương, ngôi Chuyển Luân Vương, ngôi Tỳ Kheo, Tỳ Kheo Ni; cũng mất những quả Thập Phát Thú, Thập Trưởng Dưỡng, Thập Kim Cương, Thập Ðịa, tất cả diệu quả Phật tánh thường trú đều mất, đọa trong ba ác đạo, trong hai kiếp, ba kiếp chẳng được nghe danh tự của cha mẹ và Tam Bảo. Vì thế nên không không được phạm một giới nào cả. Tất cả Bồ Tát các ngài đã học, sẽ học và hiện nay học. Mười giới như thế cần nên học, hết lòng kính trọng phụng trì—As a disciple of the Buddha, you should study these ten parajika or major precepts and not break any one of them in even the slightest way, much less break all of them! Anyone guilty of doing so cannot develop the Bodhi Mind in his current life and will lose whatever high position he may have attained, be it that of an emperor, Wheel-Turning King, Bhiksu, Bhiksuni, as well as whatever level of Bodhisattvahood he may have reached, whether the Ten Dwellings, the Ten Practices, the Ten Dedications, the Ten Grounds, and all the fruits of the eternal Buddha Nature, he will lose all of those levels of attainment and descend into the Three Evil Realms, unable to hear the words “parents” or “Triple Jewel” for eons! Therefore, Buddha’s disciples should avoid breaking any one of these major precepts. All of you Bodhisattvas should study and observe the Ten Precepts, which have been observed, are being observed, and will be observed by all Bodhisattvas.
BỐN MƯƠI TÁM GIỚI KHINH—THE FORTY-EIGHT SECONDARY PRECEPTS (see Bốn Mươi Tám Giới Khinh in Vietnamese-English Section and Forty-Eight Secondary Precepts which the Buddha taught all Bodhisattvas in the Brahma-Net Sutra in English-Vietnamese Section.
TỔNG KẾT—CONCLUSION
Ðức Phật dạy: “Các Phật tử! Ðó là Bốn Mươi Tám Giới Khinh, các người phải thọ trì. Chư Bồ Tát thuở đời quá khứ đã tụng, chư Bồ Tát thuở đời vị lai sẽ tụng, chư Bồ Tát hiện tại đương tụng. Chư Phật tử hãy lắng nghe! Mười Giới trọng, Bốn Mươi Tám Giới Khinh đây, chư Phật trong ba thuở đã tụng, sẽ tụng và hiện đương tụng. Nay ta cũng tụng như vậy—The Buddha said, “All of you disciples! These are the Forty-eight Secondary Precepts that you should observe. Bodhisattvas of the past have recited them, those of the future will recite them, those of the present are now reciting them. Disciples of the Buddha! You should all listen! These Ten Major and Forty-eight Secondary Precepts are recited by all Buddhas of the Three Periods of Time, past, present, and future. I now recite them as well.
BÁT NHÃ BA LA MẬT ÐA TÂM KINH—THE PRAJNA PARAMITA HEART SUTRA (see Tâm Kinh)
HỒI HƯỚNG—DEDICATIONS
Thính giới công đức thù thắng hạnh
Vô biên thắng phước giai hồi hướng
Phổ nguyện pháp giới chư chúng sanh
Tốc vãng vô lượng quang Phật sát.
Nguyện tiêu tam chướng trừ phiền não
Nguyện đắc trí huệ chơn minh liễu
Phổ nguyện tội chướng tất tiêu trừ
Thế thế thường hành Bồ Tát đạo.
Nguyện sanh Tây phương Tịnh Ðộ trung
Cửu phẩm liên hoa vi phụ mẫu
Hoa khai kiến Phật ngộ vô sanh
Bất thối Bồ Tát vi bạn lữ.
Nguyện dĩ thử công đức
Phổ cập ư nhứt thiết
Ngã đẳng dữ chúng sanh
Giai cộng thành Phật đạo.
Listening to these precepts is an act of supreme virtues;
I dedicate these countless supreme virtues and merits to all sentient beings in the Dharma Realm,
Vowing that they may swiftly achieve rebirth
In the land of the Buddha of Limitless Light.
I vow to eradicate all obstructions and afflictions,
I vow to attain Supreme Enlightenment,
I vow to eradicate all delusive karma,
Thus will I always follow the Bodhisattva Path.
I vow to be reborn in the Western Pure Land,
The Nine Lotus Grades will be my parents;
When the blossoms open, I will see Amitabha Buddha
And awaken to the truth of Non-Birth,
Non-retrogressing Bodhisattvas will be my friends.
I dedicate these merits and virtues
To everyone everywhere
So that all sentient beings and I
Achieve Buddhahood together.
TAM QUY-Y—THREE REFUGES
Tự quy-y Phật, đương nguyện chúng sanh, thể giải đại đạo, phát vô thượng tâm—I take refuge in the Buddha, vowing that sentient beings may understand the Great Way and develop the Supreme Mind.
Tự quy-y Pháp, đương nguyện chúng sanh, thâm nhập kinh tạng, trí huệ như hải—I take refuge in the Dharma, vowing that sentient beings may penetrate all the sutras with wisdom as profound as the oceans.
Tự quy-y Tăng, đương nguyện chúng sanh, thống lý đại chúng, nhứt thiết vô ngại—I take refuge in the Sangha, vowing that sentient beings be in harmony with the Great Assembly, free of all obstructions.