Trang 05 tiếp theo “Phẩm Thiện Hiện”
Lại nữa, Thiện Hiện! Ngã cho đến người thấy vô sở hữu, nên biết nhãn thức giới cho đến ý thức giới lần lượt cũng vô sở hữu. Nhãn thức giới cho đến ý thức giới vô sở hữu, nên biết hư không cũng vô sở hữu. Hư không vô sở hữu, nên biết Ðại thừa cũng vô sở hữu. Ðại thừa vô sở hữu, nên biết vô lượng, vô số, vô biên lần lượt cũng vô sở hữu. Vô lượng, vô số, vô biên vô sở hữu, nên biết tất cả pháp cũng vô sở hữu. Do nghĩa như vậy, cho nên nói Ðại thừa ví như hư không, có thể dung nạp khắp vô lượng, vô số, vô biên hữu tình. Vì sao? Vì hoặc ngã cho đến người thấy, hoặc nhãn thức giới cho đến ý thức giới, hoặc hư không, hoặc Ðại thừa, hoặc vô lượng, vô số, vô biên, hoặc tất cả pháp, tất cả như vậy đều vô sở hữu, bất khả đắc.
Lại nữa, Thiện Hiện! Ngã cho đến người thấy vô sở hữu, nên biết nhãn xúc cho đến ý xúc lần lượt cũng vô sở hữu. Nhãn xúc cho đến ý xúc vô sở hữu, nên biết hư không cũng vô sở hữu. Hư không vô sở hữu, nên biết Ðại thừa cũng vô sở hữu. Ðại thừa vô sở hữu, nên biết vô lượng, vô số, vô biên lần lượt cũng vô sở hữu. Vô lượng, vô số, vô biên vô sở hữu, nên biết tất cả pháp cũng vô sở hữu. Do nghĩa như vậy, cho nên nói Ðại thừa ví như hư không, có thể dung nạp khắp vô lượng, vô số, vô biên hữu tình. Vì sao? Vì hoặc ngã cho đến người thấy, hoặc nhãn xúc cho đến ý xúc, hoặc hư không, hoặc Ðại thừa, hoặc vô lượng, vô số, vô biên, hoặc tất cả pháp, tất cả như vậy đều vô sở hữu, bất khả đắc.
Lại nữa, Thiện Hiện! Ngã cho đến người thấy vô sở hữu, nên biết các thọ do nhãn xúc làm duyên sanh ra, cho đến các thọ do ý xúc làm duyên sanh ra lần lượt cũng vô sở hữu. Các thọ do nhãn xúc làm duyên sanh ra, cho đến các thọ do ý xúc làm duyên sanh ra vô sở hữu, nên biết hư không cũng vô sở hữu. Hư không vô sở hữu, nên biết Ðại thừa cũng vô sở hữu. Ðại thừa vô sở hữu, nên biết vô lượng, vô số, vô biên lần lượt cũng vô sở hữu. Vô lượng, vô số, vô biên vô sở hữu, nên biết tất cả pháp cũng vô sở hữu. Do nghĩa như vậy, cho nên nói Ðại thừa ví như hư không, có thể dung nạp khắp vô lượng, vô số, vô biên hữu tình. Vì sao? Vì hoặc ngã cho đến người thấy, hoặc các thọ do nhãn xúc làm duyên sanh ra, cho đến các thọ do ý xúc làm duyên sanh ra, hoặc hư không, hoặc Ðại thừa, hoặc vô lượng, vô số, vô biên, hoặc tất cả pháp, tất cả như vậy đều vô sở hữu, bất khả đắc.
Lại nữa, Thiện Hiện! Ngã cho đến người thấy vô sở hữu, nên biết địa giới cho đến thức giới lần lượt cũng vô sở hữu. Ðịa giới cho đến thức giới vô sở hữu, nên biết hư không cũng vô sở hữu. Hư không vô sở hữu, nên biết Ðại thừa cũng vô sở hữu. Ðại thừa vô sở hữu, nên biết vô lượng, vô số, vô biên lần lượt cũng vô sở hữu. Vô lượng, vô số, vô biên vô sở hữu, nên biết tất cả pháp cũng vô sở hữu. Do nghĩa như vậy, cho nên nói Ðại thừa ví như hư không, có thể dung nạp khắp vô lượng, vô số, vô biên hữu tình. Vì sao? Vì hoặc ngã cho đến người thấy, hoặc địa giới cho đến thức giới, hoặc hư không, hoặc Ðại thừa, hoặc vô lượng, vô số, vô biên, hoặc tất cả pháp, tất cả như vậy đều vô sở hữu, bất khả đắc.
Lại nữa, Thiện Hiện! Ngã cho đến người thấy vô sở hữu, nên biết nhân duyên cho đến tăng thượng duyên lần lượt cũng vô sở hữu. Nhân duyên cho đến tăng thượng duyên vô sở hữu, nên biết hư không cũng vô sở hữu. Hư không vô sở hữu, nên biết Ðại thừa cũng vô sở hữu. Ðại thừa vô sở hữu, nên biết vô lượng, vô số, vô biên lần lượt cũng vô sở hữu. Vô lượng, vô số, vô biên vô sở hữu, nên biết tất cả pháp cũng vô sở hữu. Do nghĩa như vậy, cho nên nói Ðại thừa ví như hư không, có thể dung nạp khắp vô lượng, vô số, vô biên hữu tình. Vì sao? Vì hoặc ngã cho đến người thấy, hoặc nhân duyên cho đến tăng thượng duyên, hoặc hư không, hoặc Ðại thừa, hoặc vô lượng, vô số, vô biên, hoặc tất cả pháp, tất cả như vậy đều vô sở hữu, bất khả đắc.
Lại nữa, Thiện Hiện! Ngã cho đến người thấy vô sở hữu, nên biết vô minh cho đến lão tử lần lượt cũng vô sở hữu. Vô minh cho đến lão tử vô sở hữu, nên biết hư không cũng vô sở hữu. Hư không vô sở hữu, nên biết Ðại thừa cũng vô sở hữu. Ðại thừa vô sở hữu, nên biết vô lượng, vô số, vô biên lần lượt cũng vô sở hữu. Vô lượng, vô số, vô biên vô sở hữu, nên biết tất cả pháp cũng vô sở hữu. Do nghĩa như vậy, cho nên nói Ðại thừa ví như hư không, có thể dung nạp khắp vô lượng, vô số, vô biên hữu tình. Vì sao? Vì hoặc ngã cho đến người thấy, hoặc vô minh cho đến lão tử, hoặc hư không, hoặc Ðại thừa, hoặc vô lượng, vô số, vô biên, hoặc tất cả pháp, tất cả như vậy đều vô sở hữu, bất khả đắc.
Lại nữa, Thiện Hiện! Ngã cho đến người thấy vô sở hữu, nên biết bố thí Ba-la-mật-đa cho đến Bát-nhã ba-la-mật-đa lần lượt cũng vô sở hữu. Bố thí Ba-la-mật-đa cho đến Bát-nhã ba la mật vô sở hữu, nên biết hư không cũng vô sở hữu. Hư không vô sở hữu, nên biết Ðại thừa cũng vô sở hữu. Ðại thừa vô sở hữu, nên biết vô lượng, vô số, vô biên lần lượt cũng vô sở hữu. Vô lượng, vô số, vô biên vô sở hữu, nên biết tất cả pháp cũng vô sở hữu. Do nghĩa như vậy, cho nên nói Ðại thừa ví như hư không, có thể dung nạp khắp vô lượng, vô số, vô biên hữu tình. Vì sao? Vì hoặc ngã cho đến người thấy, hoặc bố thí Ba-la-mật-đa cho đến Bát-nhã ba-la-mật-đa, hoặc hư không, hoặc Ðại thừa, hoặc vô lượng, vô số, vô biên, hoặc tất cả pháp, tất cả như vậy đều vô sở hữu, bất khả đắc.
Lại nữa, Thiện Hiện! Ngã cho đến người thấy vô sở hữu, nên biết pháp nội Không cho đến pháp vô tính tự tính Không lần lượt cũng vô sở hữu. Pháp nội Không cho đến pháp vô tính tự tính Không vô sở hữu, nên biết hư không cũng vô sở hữu. Hư không vô sở hữu, nên biết Ðại thừa cũng vô sở hữu. Ðại thừa vô sở hữu, nên biết vô lượng, vô số, vô biên lần lượt cũng vô sở hữu. Vô lượng, vô số, vô biên vô sở hữu, nên biết tất cả pháp cũng vô sở hữu. Do nghĩa như vậy, cho nên nói Ðại thừa ví như hư không, có thể dung nạp khắp vô lượng, vô số, vô biên hữu tình. Vì sao? Vì hoặc ngã cho đến người thấy, hoặc pháp nội Không cho đến pháp vô tính tự tính Không, hoặc hư không, hoặc Ðại thừa, hoặc vô lượng, vô số, vô biên, hoặc tất cả pháp, tất cả như vậy đều vô sở hữu, bất khả đắc.
Lại nữa, Thiện Hiện! Ngã cho đến người thấy vô sở hữu, nên biết Thánh đế khổ cho đến Thánh đế đạo lần lượt cũng vô sở hữu. Thánh đế khổ cho đến Thánh đế đạo vô sở hữu, nên biết hư không cũng vô sở hữu. Hư không vô sở hữu, nên biết Ðại thừa cũng vô sở hữu. Ðại thừa vô sở hữu, nên biết vô lượng, vô số, vô biên lần lượt cũng vô sở hữu. Vô lượng, vô số, vô biên vô sở hữu, nên biết tất cả pháp cũng vô sở hữu. Do nghĩa như vậy, cho nên nói Ðại thừa ví như hư không, có thể dung nạp khắp vô lượng, vô số, vô biên hữu tình. Vì sao? Vì hoặc ngã cho đến người thấy, hoặc Thánh đế khổ cho đến Thánh đế đạo, hoặc hư không, hoặc Ðại thừa, hoặc vô lượng, vô số, vô biên, hoặc tất cả pháp, tất cả như vậy đều vô sở hữu, bất khả đắc.
Lại nữa, Thiện Hiện! Ngã cho đến người thấy vô sở hữu, nên biết bốn niệm trụ cho đến tám chi thánh đạo lần lượt cũng vô sở hữu. Bốn niệm trụ cho đến tám chi thánh đạo vô sở hữu, nên biết hư không cũng vô sở hữu. Hư không vô sở hữu, nên biết Ðại thừa cũng vô sở hữu. Ðại thừa vô sở hữu, nên biết vô lượng, vô số, vô biên lần lượt cũng vô sở hữu. Vô lượng, vô số, vô biên vô sở hữu, nên biết tất cả pháp cũng vô sở hữu. Do nghĩa như vậy, cho nên nói Ðại thừa ví như hư không, có thể dung nạp khắp vô lượng, vô số, vô biên hữu tình. Vì sao? Vì hoặc ngã cho đến người thấy, hoặc bốn niệm trụ cho đến tám chi thánh đạo, hoặc hư không, hoặc Ðại thừa, hoặc vô lượng, vô số, vô biên, hoặc tất cả pháp, tất cả như vậy đều vô sở hữu, bất khả đắc.
Lại nữa, Thiện Hiện! Ngã cho đến người thấy vô sở hữu, cho nên biết bốn tịnh lự, bốn vô lượng, bốn định vô sắc lần lượt cũng vô sở hữu. Bốn tịnh lự, bốn vô lượng, bốn định vô sắc vô sở hữu, nên biết hư không cũng vô sở hữu. Hư không vô sở hữu, nên biết Ðại thừa cũng vô sở hữu. Ðại thừa vô sở hữu, nên biết vô lượng, vô số, vô biên lần lượt cũng vô sở hữu. Vô lượng, vô số, vô biên vô sở hữu, nên biết tất cả pháp cũng vô sở hữu. Do nghĩa như vậy, cho nên nói Ðại thừa ví như hư không, có thể dung nạp khắp vô lượng, vô số, vô biên hữu tình. Vì sao? Vì hoặc ngã cho đến người thấy, hoặc bốn tịnh lự, bốn vô lượng, bốn định vô sắc, hoặc hư không, hoặc Ðại thừa, hoặc vô lượng, vô số, vô biên, hoặc tất cả pháp, tất cả như vậy đều vô sở hữu, bất khả đắc.
Lại nữa, Thiện Hiện! Ngã cho đến người thấy vô sở hữu, nên biết pháp môn giải thoát không, vô tướng, vô nguyện lần lượt cũng vô sở hữu. Pháp môn giải thoát không, vô tướng, vô nguyện vô sở hữu, nên biết hư không cũng vô sở hữu. Hư không vô sở hữu, nên biết Ðại thừa cũng vô sở hữu. Ðại thừa vô sở hữu, nên biết vô lượng, vô số, vô biên lần lượt cũng vô sở hữu. Vô lượng, vô số, vô biên vô sở hữu, nên biết tất cả pháp cũng vô sở hữu. Do nghĩa như vậy, cho nên nói Ðại thừa ví như hư không, có thể dung nạp khắp vô lượng, vô số, vô biên hữu tình. Vì sao? Vì hoặc ngã cho đến người thấy, hoặc pháp môn giải thoát không, vô tướng, vô nguyện, hoặc hư không, hoặc Ðại thừa, hoặc vô lượng, vô số, vô biên, hoặc tất cả pháp, tất cả như vậy đều vô sở hữu, bất khả đắc.
Lại nữa, Thiện Hiện! Ngã cho đến người thấy vô sở hữu, nên biết tám giải thoát, chín định thứ đệ lần lượt cũng vô ở hữu. Tám giải thoát, chín định thứ đệ vô sở hữu, nên biết hư không cũng vô sở hữu. Hư không vô sở hữu, nên biết Ðại thừa cũng vô sở hữu. Ðại thừa vô sở hữu, nên biết vô lượng, vô số, vô biên lần lượt cũng vô sở hữu. Vô lượng, vô số, vô biên vô sở hữu, nên biết tất cả pháp cũng vô sở hữu. Do nghĩa như vậy, cho nên nói Ðại thừa ví như hư không, có thể dung nạp khắp vô lượng, vô số, vô biên hữu tình. Vì sao? Vì hoặc ngã cho đến người thấy, hoặc tám giải thoát, chín định thứ đệ, hoặc hư không, hoặc Ðại thừa, hoặc vô lượng, vô số, vô biên, hoặc tất cả pháp, tất cả như vậy đều vô sở hữu, bất khả đắc.
Lại nữa, Thiện Hiện! Ngã cho đến người thấy vô sở hữu, nên biết Cực hỷ địa cho đến Pháp vân địa lần lượt cũng vô sở hữu. Cực hỷ địa cho đến Pháp vân địa vô sở hữu, nên biết hư không cũng vô sở hữu. Hư không vô sở hữu, nên biết Ðại thừa cũng vô sở hữu. Ðại thừa vô sở hữu, nên biết vô lượng, vô số, vô biên lần lượt cũng vô sở hữu. Vô lượng, vô số, vô biên vô sở hữu, nên biết tất cả pháp cũng vô sở hữu. Do nghĩa như vậy, cho nên nói Ðại thừa ví như hư không, có thể dung nạp khắp vô lượng, vô số, vô biên hữu tình. Vì sao? Vì hoặc ngã cho đến người thấy, hoặc Cực hỷ địa cho đến Pháp vân địa, hoặc hư không, hoặc Ðại thừa, hoặc vô lượng, vô số, vô biên, hoặc tất cả pháp, tất cả như vậy đều vô sở hữu, bất khả đắc.
Lại nữa, Thiện Hiện! Ngã cho đến người thấy vô sở hữu, nên biết Tịnh quán địa cho đến Như Lai địa lần lượt cũng vô sở hữu. Tịnh quán địa cho đến Như Lai địa vô sở hữu, nên biết hư không cũng vô sở hữu. Hư không vô sở hữu, nên biết Ðại thừa cũng vô sở hữu. Ðại thừa vô sở hữu, nên biết vô lượng, vô số, vô biên lần lượt cũng vô sở hữu. Vô lượng, vô số, vô biên vô sở hữu, nên biết tất cả pháp cũng vô sở hữu. Do nghĩa như vậy, cho nên nói Ðại thừa ví như hư không, có thể dung nạp khắp vô lượng, vô số, vô biên hữu tình. Vì sao? Vì hoặc ngã cho đến người thấy, hoặc Tịnh quán địa cho đến Như Lai địa, hoặc hư không, hoặc Ðại thừa, hoặc vô lượng, vô số, vô biên, hoặc tất cả pháp, tất cả như vậy đều vô sở hữu, bất khả đắc.
Lại nữa, Thiện Hiện! Ngã cho đến người thấy vô sở hữu, nên biết pháp môn Đà-la-ni, pháp môn Tam-ma-địa lần lượt cũng vô sở hữu. Pháp môn Ðà-la-ni, pháp môn Tam-ma-địa vô sở hữu, nên biết hư không cũng vô sở hữu. Hư không vô sở hữu, nên biết Ðại thừa cũng vô sở hữu. Ðại thừa vô sở hữu, nên biết vô lượng, vô số, vô biên lần lượt cũng vô sở hữu. Vô lượng, vô số, vô biên vô sở hữu, nên biết tất cả pháp cũng vô sở hữu. Do nghĩa như vậy, cho nên nói Ðại thừa ví như hư không, có thể dung nạp khắp vô lượng, vô số, vô biên hữu tình. Vì sao? Vì hoặc ngã cho đến người thấy, hoặc pháp môn Đà-la-ni, pháp môn Tam-ma-địa, hoặc hư không, hoặc Ðại thừa, hoặc vô lượng, vô số, vô biên, hoặc tất cả pháp, tất cả như vậy đều vô sở hữu, bất khả đắc.
Lại nữa, Thiện Hiện! Ngã cho đến người thấy vô sở hữu, nên biết năm loại mắt, sáu phép thần thông lần lượt cũng vô sở hữu. Năm loại mắt, sáu phép thần thông vô sở hữu, nên biết hư không cũng vô sở hữu. Hư không vô sở hữu, nên biết Ðại thừa cũng vô sở hữu. Ðại thừa vô sở hữu, nên biết vô lượng, vô số, vô biên lần lượt cũng vô sở hữu. Vô lượng, vô số, vô biên vô sở hữu, nên biết tất cả pháp cũng vô sở hữu. Do nghĩa như vậy, cho nên nói Ðại thừa ví như hư không, có thể dung nạp khắp vô lượng, vô số, vô biên hữu tình. Vì sao? Vì hoặc ngã cho đến người thấy, hoặc năm loại mắt, sáu phép thần thông, hoặc hư không, hoặc Ðại thừa, hoặc vô lượng, vô số, vô biên, hoặc tất cả pháp, tất cả như vậy đều vô sở hữu, bất khả đắc.
Lại nữa, Thiện Hiện! Ngã cho đến người thấy vô sở hữu, nên biết mười lực Như Lai cho đến mười tám pháp Phật bất cộng lần lượt cũng vô sở hữu. Mười lực Như Lai cho đến mười tám pháp pháp Phật bất cộng vô sở hữu, nên biết hư không cũng vô sở hữu. Hư không vô sở hữu, nên biết Ðại thừa cũng vô sở hữu. Ðại thừa vô sở hữu, nên biết vô lượng, vô số, vô biên lần lượt cũng vô sở hữu. Vô lượng, vô số, vô biên vô sở hữu, nên biết tất cả pháp cũng vô sở hữu. Do nghĩa như vậy, cho nên nói Ðại thừa ví như hư không, có thể dung nạp khắp vô lượng, vô số, vô biên hữu tình. Vì sao? Vì hoặc ngã cho đến người thấy, hoặc mười lực Như Lai cho đến mười tám pháp Phật bất cộng, hoặc hư không, hoặc Ðại thừa, hoặc vô lượng, vô số, vô biên, hoặc tất cả pháp, tất cả như vậy đều vô sở hữu, bất khả đắc.
Lại nữa, Thiện Hiện! Ngã cho đến người thấy vô sở hữu, nên biết pháp không quên mất, tánh luôn luôn xả lần lượt cũng vô sở hữu. Pháp không quên mất, tánh luôn luôn xả vô sở hữu, nên biết hư không cũng vô sở hữu. Hư không vô sở hữu, nên biết Ðại thừa cũng vô sở hữu. Ðại thừa vô sở hữu, nên biết vô lượng, vô số, vô biên lần lượt cũng vô sở hữu. Vô lượng, vô số, vô biên vô sở hữu, nên biết tất cả pháp cũng vô sở hữu. Do nghĩa như vậy, cho nên nói Ðại thừa ví như hư không, có thể dung nạp khắp vô lượng, vô số, vô biên hữu tình. Vì sao? Vì hoặc ngã cho đến người thấy, hoặc pháp không quên mất, tánh luôn luôn xả, hoặc hư không, hoặc Ðại thừa, hoặc vô lượng, vô số, vô biên, hoặc tất cả pháp, tất cả như vậy đều vô sở hữu, bất khả đắc.
Lại nữa, Thiện Hiện! Ngã cho đến người thấy vô sở hữu, nên biết trí nhất thiết, trí đạo tướng, trí nhất thiết tướng lần lượt cũng vô sở hữu. Trí nhất thiết, trí đạo tướng, trí nhất thiết tướng vô sở hữu, nên biết hư không cũng vô sở hữu. Hư không vô sở hữu, nên biết Ðại thừa cũng vô sở hữu. Ðại thừa vô sở hữu, nên biết vô lượng, vô số, vô biên lần lượt cũng vô sở hữu. Vô lượng, vô số, vô biên vô sở hữu, nên biết tất cả pháp cũng vô sở hữu. Do nghĩa như vậy, cho nên nói Ðại thừa ví như hư không, có thể dung nạp khắp vô lượng, vô số, vô biên hữu tình. Vì sao? Vì hoặc ngã cho đến người thấy, hoặc trí nhất thiết, trí đạo tướng, trí nhất thiết tướng, hoặc hư không, hoặc Ðại thừa, hoặc vô lượng, vô số, vô biên, hoặc tất cả pháp, tất cả như vậy đều vô sở hữu, bất khả đắc.
Lại nữa, Thiện Hiện! Ngã cho đến người thấy vô sở hữu, nên biết Dự lưu, Nhất lai, Bất hoàn, A-la-hán, Ðộc giác, Bồ-tát, Như Lai lần lượt cũng vô sở hữu. Dự lưu cho đến Như Lai vô sở hữu, nên biết hư không cũng vô sở hữu. Hư không vô sở hữu, nên biết Ðại thừa cũng vô sở hữu. Ðại thừa vô sở hữu, nên biết vô lượng, vô số, vô biên lần lượt cũng vô sở hữu. Vô lượng, vô số, vô biên vô sở hữu, nên biết tất cả pháp cũng vô sở hữu. Do nghĩa như vậy, cho nên nói Ðại thừa ví như hư không, có thể dung nạp khắp vô lượng, vô số, vô biên hữu tình. Vì sao? Vì hoặc ngã cho đến người thấy, hoặc Dự lưu cho đến Như Lai, hoặc hư không, hoặc Ðại thừa, hoặc vô lượng, vô số, vô biên, hoặc tất cả pháp, tất cả như vậy đều vô sở hữu, bất khả đắc.
Lại nữa, Thiện Hiện! Ngã cho đến người thấy vô sở hữu, nên biết Thanh văn thừa, Ðộc giác thừa, Như Lai thừa lần lượt cũng vô sở hữu. Thanh văn thừa, Ðộc giác thừa, Như Lai thừa vô sở hữu, nên biết hư không cũng vô sở hữu. Hư không vô sở hữu, nên biết Ðại thừa cũng vô sở hữu. Ðại thừa vô sở hữu, nên biết vô lượng, vô số, vô biên lần lượt cũng vô sở hữu. Vô lượng, vô số, vô biên vô sở hữu, nên biết tất cả pháp cũng vô sở hữu. Do nghĩa như vậy, cho nên nói Ðại thừa ví như hư không, có thể dung nạp khắp vô lượng, vô số, vô biên hữu tình. Vì sao? Vì hoặc ngã cho đến người thấy, hoặc Thanh văn thừa, Ðộc giác thừa, Như Lai thừa, hoặc hư không, hoặc Ðại thừa, hoặc vô lượng, vô số, vô biên, hoặc tất cả pháp, tất cả như vậy đều vô sở hữu, bất khả đắc.
Lại nữa, Thiện Hiện! Như cõi Niết-bàn có thể dung nạp khắp vô lượng, vô số, vô biên hữu tình. Ðại thừa cũng vậy, có thể dung nạp khắp vô lượng, vô số, vô biên hữu tình. Do nhân duyên này nên nói: Ví như hư không, có thể dung nạp khắp vô lượng, vô số, vô biên hữu tình. Ðại thừa cũng vậy, có thể dung nạp khắp vô lượng, vô số, vô biên hữu tình.
Lại nữa, Thiện Hiện! Theo lời ông nói: Hư không, không đến, không đi, không trụ có thể thấy. Ðại thừa cũng vậy, không đến, không đi, không trụ có thể thấy. Đúng vậy! Đúng vậy! Đúng như lời ông nói. Vì sao? Vì tất cả pháp không đến, không đi cũng lại không trụ. Vì sao? Vì tất cả pháp hoặc động, hoặc trụ, bất khả đắc. Do nhân duyên này, nên Ðại thừa cũng không có chỗ đến, không chỗ đi, không chỗ trụ có thể đắc. Vì sao? Vì sắc cho đến thức không đến, không đi, cũng lại không trụ. Bản tánh của sắc cho đến thức không đến, không đi, cũng lại không trụ. Chơn như của sắc cho đến thức không đến, không đi, cũng lại không trụ. Tự tánh của sắc cho đến thức không đến, không đi, cũng lại không trụ. Tự tướng của sắc cho đến thức không đến, không đi, cũng lại không trụ. Vì sao? Vì bản tánh, chơn như, tự tánh, tự tướng của sắc cho đến thức hoặc động, hoặc trụ, bất khả đắc.
Lại nữa, Thiện Hiện! Nhãn xứ cho đến ý xứ không đến, không đi, cũng lại không trụ. Bản tánh của nhãn xứ cho đến ý xứ không đến, không đi, cũng lại không trụ. Chơn như của nhãn xứ cho đến ý xứ không đến, không đi, cũng lại không trụ. Tự tánh của nhãn xứ cho đến ý xứ không đến, không đi, cũng lại không trụ. Tự tướng của nhãn xứ cho đến ý xứ không đến, không đi, cũng lại không trụ. Vì sao? Vì bản tánh, chơn như, tự tánh, tự tướng của nhãn xứ cho đến ý xứ, hoặc động, hoặc trụ, bất khả đắc.
Lại nữa, Thiện Hiện! Sắc xứ cho đến pháp xứ không đến, không đi, cũng lại không trụ. Bản tánh của sắc xứ cho đến pháp xứ không đến, không đi, cũng lại không trụ. Chơn như của sắc xứ cho đến pháp xứ không đến, không đi, cũng lại không trụ. Tự tánh của sắc xứ cho đến pháp xứ không đến, không đi, cũng lại không trụ. Tự tướng của sắc xứ cho đến pháp xứ không đến, không đi, cũng lại không trụ. Vì sao? Vì bản tánh, chơn như, tự tánh, tự tướng của sắc xứ cho đến pháp xứ, hoặc động, hoặc trụ, bất khả đắc.
Lại nữa, Thiện Hiện! Nhãn giới cho đến ý giới không đến, không đi, cũng lại không trụ. Bản tánh của nhãn giới cho đến ý giới không đến, không đi, cũng lại không trụ. Chơn như của nhãn giới cho đến ý giới không đến, không đi, cũng lại không trụ. Tự tánh của nhãn giới cho đến ý giới không đến, không đi, cũng lại không trụ. Tự tướng của nhãn giới cho đến ý giới không đến, không đi, cũng lại không trụ. Vì sao? Vì bản tánh, chơn như, tự tánh, tự tướng của nhãn giới cho đến ý giới, hoặc động, hoặc trụ, bất khả đắc.
Lại nữa, Thiện Hiện! Sắc giới cho đến pháp giới không đến, không đi, cũng lại không trụ. Bản tánh của sắc giới cho đến pháp giới không đến, không đi, cũng lại không trụ. Chơn như của sắc giới cho đến pháp giới không đến, không đi, cũng lại không trụ. Tự tánh của sắc giới cho đến pháp giới không đến, không đi, cũng lại không trụ. Tự tướng của sắc giới cho đến pháp giới không đến, không đi, cũng lại không trụ. Vì sao? Vì bản tánh, chơn như, tự tánh, tự tướng của sắc giới cho đến pháp giới, hoặc động, hoặc trụ, bất khả đắc.
Lại nữa, Thiện Hiện! Nhãn thức giới cho đến ý thức giới không đến, không đi, cũng lại không trụ. Bản tánh của nhãn thức giới cho đến ý thức giới không đến, không đi, cũng lại không trụ. Chơn như của nhãn thức giới cho đến ý thức giới không đến, không đi, cũng lại không trụ. Tự tánh của nhãn thức giới cho đến ý thức giới không đến, không đi, cũng lại không trụ. Tự tướng của nhãn thức giới cho đến ý thức giới không đến, không đi, cũng lại không trụ. Vì sao? Vì bản tánh, chơn như, tự tánh, tự tướng của nhãn thức giới cho đến ý thức giới, hoặc động, hoặc trụ, bất khả đắc.
Lại nữa, Thiện Hiện! Nhãn xúc cho đến ý xúc không đến, không đi, cũng lại không trụ. Bản tánh của nhãn xúc cho đến ý xúc không đến, không đi, cũng lại không trụ. Chơn như của nhãn xúc cho đến ý xúc không đến, không đi, cũng lại không trụ. Tự tánh của nhãn xúc cho đến ý xúc không đến, không đi, cũng lại không trụ. Tự tướng của nhãn xúc cho đến ý xúc không đến, không đi, cũng lại không trụ. Vì sao? Vì bản tánh, chơn như, tự tánh, tự tướng của nhãn xúc cho đến ý xúc, hoặc động, hoặc trụ, bất khả đắc.
Lại nữa, Thiện Hiện! Các thọ do nhãn xúc làm duyên sanh ra, cho đến các thọ do ý xúc làm duyên sanh ra không đến, không đi, cũng lại không trụ. Bản tánh của các thọ do nhãn xúc làm duyên sanh ra, cho đến các thọ do ý xúc làm duyên sanh ra không đến, không đi, cũng lại không trụ. Chơn như của các thọ do nhãn xúc làm duyên sanh ra, cho đến các thọ do ý xúc làm duyên sanh ra không đến, không đi, cũng lại không trụ. Tự tánh của các thọ do nhãn xúc làm duyên sanh ra, cho đến các thọ do ý xúc làm duyên sanh ra không đến, không đi, cũng lại không trụ. Tự tướng của các thọ do nhãn xúc làm duyên sanh ra, cho đến các thọ do ý xúc làm duyên sanh ra không đến, không đi, cũng lại không trụ. Vì sao? Vì bản tánh, chơn như, tự tánh, tự tướng của các thọ do nhãn xúc làm duyên sanh ra, cho đến các thọ do ý xúc làm duyên sanh ra, hoặc động, hoặc trụ, bất khả đắc.
Lại nữa, Thiện Hiện! Ðịa giới cho đến thức giới không đến, không đi, cũng lại không trụ. Bản tánh của địa giới cho đến thức giới không đến, không đi, cũng lại không trụ. Chơn như của địa giới cho đến thức giới không đến, không đi, cũng lại không trụ. Tự tánh của địa giới cho đến thức giới không đến, không đi, cũng lại không trụ. Tự tướng của địa giới cho đến thức giới không đến, không đi, cũng lại không trụ. Vì sao? Vì bản tánh, chơn như, tự tánh, tự tướng của địa giới cho đến thức giới, hoặc động, hoặc trụ, bất khả đắc.
Lại nữa, Thiện Hiện! Nhân duyên cho đến tăng thượng duyên không đến, không đi, cũng lại không trụ. Bản tánh của nhân duyên cho đến tăng thượng duyên không đến, không đi, cũng lại không trụ. Chơn như của nhân duyên cho đến tăng thượng duyên không đến, không đi, cũng lại không trụ. Tự tánh của nhân duyên cho đến tăng thượng duyên không đến, không đi, cũng lại không trụ. Tự tướng của nhân duyên cho đến tăng thượng duyên không đến, không đi, cũng lại không trụ. Vì sao? Vì bản tánh, chơn như, tự tánh, tự tướng của nhân duyên cho đến tăng thượng duyên, hoặc động, hoặc trụ, bất khả đắc.
Lại nữa, Thiện Hiện! Vô minh cho đến lão tử không đến, không đi, cũng lại không trụ. Bản tánh của vô minh cho đến lão tử không đến, không đi, cũng lại không trụ. Chơn như của vô minh cho đến lão tử không đến, không đi, cũng lại không trụ. Tự tánh của vô minh cho đến lão tử không đến, không đi, cũng lại không trụ. Tự tướng của vô minh cho đến lão tử không đến, không đi, cũng lại không trụ. Vì sao? Vì bản tánh, chơn như, tự tánh, tự tướng của vô minh cho đến lão tử, hoặc động, hoặc trụ, bất khả đắc.
Lại nữa, Thiện Hiện! Chơn như cho đến cảnh giới bất tư nghì không đến, không đi, cũng lại không trụ. Bản tánh của chơn như cho đến cảnh giới bất tư nghì không đến, không đi, cũng lại không trụ. Chơn như của chơn như cho đến cảnh giới bất tư nghì không đến, không đi, cũng lại không trụ. Tự tánh của chơn như cho đến cảnh giới bất tư nghì không đến, không đi, cũng lại không trụ. Tự tướng của chơn như cho đến cảnh giới bất tư nghì không đến, không đi, cũng lại không trụ. Vì sao? Vì bản tánh, chơn như, tự tánh, tự tướng của chơn như cho đến cảnh giới bất tư nghì, hoặc động, hoặc trụ, bất khả đắc.
Lại nữa, Thiện Hiện! Cảnh giới đoạn, cảnh giới ly, cảnh giới diệt, cảnh giới an ổn, cảnh giới tịch tĩnh, cảnh giới vô sanh, cảnh giới vô diệt, cảnh giới vô nhiễm, cảnh giới vô tịnh, cảnh giới vô tác, cảnh giới vô vi không đến, không đi, cũng lại không trụ. Bản tánh của cảnh giới đoạn cho đến cảnh giới vô vi không đến, không đi, cũng lại không trụ. Chơn như của cảnh giới đoạn cho đến cảnh giới vô vi không đến, không đi, cũng lại không trụ. Tự tánh của cảnh giới đoạn cho đến cảnh giới vô vi không đến, không đi, cũng lại không trụ. Tự tướng của cảnh giới đoạn cho đến cảnh giới vô vi không đến, không đi, cũng lại không trụ. Vì sao? Vì bản tánh, chơn như, tự tánh, tự tướng của cảnh giới đoạn cho đến cảnh giới vô vi, hoặc động, hoặc trụ, bất khả đắc.
Lại nữa, Thiện Hiện! Pháp nội Không cho đến pháp vô tính tự tính Không không đến, không đi, cũng lại không trụ. Bản tánh của pháp nội Không cho đến pháp vô tính tự tính Không không đến, không đi, cũng lại không trụ. Chơn như của pháp nội Không cho đến pháp vô tính tự tính Không không đến, không đi, cũng lại không trụ. Tự tánh của pháp nội Không cho đến pháp vô tính tự tính Không không đến, không đi, cũng lại không trụ. Tự tướng của pháp nội Không cho đến pháp vô tính tự tính Không không đến, không đi, cũng lại không trụ. Vì sao? Vì bản tánh, chơn như, tự tánh, tự tướng của pháp nội Không cho đến pháp vô tính tự tính Không, hoặc động, hoặc trụ, bất khả đắc.
Lại nữa, Thiện Hiện! Thánh đế khổ, tập, diệt, đạo không đến, không đi, cũng lại không trụ. Bản tánh của Thánh đế khổ, tập, diệt, đạo không đến, không đi, cũng lại không trụ. Chơn như của Thánh đế khổ, tập, diệt, đạo không đến, không đi, cũng lại không trụ. Tự tánh của Thánh đế khổ, tập, diệt, đạo không đến, không đi, cũng lại không trụ. Tự tướng của Thánh đế khổ, tập, diệt, đạo không đến, không đi, cũng lại không trụ. Vì sao? Vì bản tánh, chơn như, tự tánh, tự tướng của Thánh đế khổ, tập, diệt, đạo, hoặc động, hoặc trụ, bất khả đắc.
Lại nữa, Thiện Hiện! Bố thí Ba-la-mật-đa cho đến Bát-nhã ba-la-mật-đa không đến, không đi, cũng lại không trụ. Bản tánh của bố thí Ba-la-mật-đa cho đến Bát-nhã ba-la-mật-đa không đến, không đi, cũng lại không trụ. Chơn như của bố thí Ba-la-mật-đa cho đến Bát-nhã ba-la-mật-đa không đến, không đi, cũng lại không trụ. Tự tánh của bố thí Ba-la-mật-đa cho đến Bát-nhã ba-la-mật-đa không đến, không đi, cũng lại không trụ. Tự tướng của bố thí Ba-la-mật-đa cho đến Bát-nhã ba-la-mật-đa không đến, không đi, cũng lại không trụ. Vì sao? Vì bản tánh, chơn như, tự tánh, tự tướng của bố thí Ba-la-mật-đa cho đến Bát-nhã ba-la-mật-đa, hoặc động, hoặc trụ, bất khả đắc.
Lại nữa, Thiện Hiện! Bốn niệm trụ cho đến tám chi thánh đạo không đến, không đi, cũng lại không trụ. Bản tánh của bốn niệm trụ cho đến tám chi thánh đạo không đến, không đi, cũng lại không trụ. Chơn như của bốn niệm trụ cho đến tám chi thánh đạo không đến, không đi, cũng lại không trụ. Tự tánh của bốn niệm trụ cho đến tám chi thánh đạo không đến, không đi, cũng lại không trụ. Tự tướng của bốn niệm trụ cho đến tám chi thánh đạo không đến, không đi, cũng lại không trụ. Vì sao? Vì bản tánh, chơn như, tự tánh, tự tướng của bốn niệm trụ cho đến tám chi thánh đạo, hoặc động, hoặc trụ, bất khả đắc.
Lại nữa, Thiện Hiện! Bốn tịnh lự, bốn vô lượng, bốn định vô sắc không đến, không đi, cũng lại không trụ. Bản tánh của bốn tịnh lự, bốn vô lượng, bốn định vô sắc không đến, không đi, cũng lại không trụ. Chơn như của bốn tịnh lự, bốn vô lượng, bốn định vô sắc không đến, không đi, cũng lại không trụ. Tự tánh của bốn tịnh lự, bốn vô lượng, bốn định vô sắc không đến, không đi, cũng lại không trụ. Tự tướng của bốn tịnh lự, bốn vô lượng, bốn định vô sắc không đến, không đi, cũng lại không trụ. Vì sao? Vì bản tánh, chơn như, tự tánh, tự tướng của bốn tịnh lự, bốn vô lượng, bốn định vô sắc, hoặc động, hoặc trụ, bất khả đắc.
Lại nữa, Thiện Hiện! Tám giải thoát, chín định thứ đệ không đến, không đi, cũng lại không trụ. Bản tánh của tám giải thoát, chín định thứ đệ không đến, không đi, cũng lại không trụ. Chơn như của tám giải thoát, chín định thứ đệ không đến, không đi, cũng lại không trụ. Tự tánh của tám giải thoát, chín định thứ đệ không đến, không đi, cũng lại không trụ. Tự tướng của tám giải thoát, chín định thứ đệ không đến, không đi, cũng lại không trụ. Vì sao? Vì bản tánh, chơn như, tự tánh, tự tướng của tám giải thoát, chín định thứ đệ, hoặc động, hoặc trụ, bất khả đắc.
Lại nữa, Thiện Hiện! Pháp môn giải thoát không, vô tướng, vô nguyện không đến, không đi, cũng lại không trụ. Bản tánh của pháp môn giải thoát không, vô tướng, vô nguyện không đến, không đi, cũng lại không trụ. Chơn như của pháp môn giải thoát không, vô tướng, vô nguyện không đến, không đi, cũng lại không trụ. Tự tánh của pháp môn giải thoát không, vô tướng, vô nguyện không đến, không đi, cũng lại không trụ. Tự tướng của pháp môn giải thoát không, vô tướng, vô nguyện không đến, không đi, cũng lại không trụ. Vì sao? Vì bản tánh, chơn như, tự tánh, tự tướng của pháp môn giải thoát không, vô tướng, vô nguyện, hoặc động, hoặc trụ, bất khả đắc.
Lại nữa, Thiện Hiện! Cực hỷ địa cho đến Pháp vân địa không đến, không đi, cũng lại không trụ. Bản tánh của Cực hỷ địa cho đến Pháp vân địa không đến, không đi, cũng lại không trụ. Chơn như của Cực hỷ địa cho đến Pháp vân địa không đến, không đi, cũng lại không trụ. Tự tánh của Cực hỷ địa cho đến Pháp vân địa không đến, không đi, cũng lại không trụ. Tự tướng của Cực hỷ địa cho đến Pháp vân địa không đến, không đi, cũng lại không trụ. Vì sao? Vì bản tánh, chơn như, tự tánh, tự tướng của Cực hỷ địa cho đến Pháp vân địa, hoặc động, hoặc trụ, bất khả đắc.
Lại nữa, Thiện Hiện! Tịnh quán địa cho đến Như Lai địa không đến, không đi, cũng lại không trụ. Bản tánh của Tịnh quán địa cho đến Như Lai địa không đến, không đi, cũng lại không trụ. Chơn như của Tịnh quán địa cho đến Như Lai địa không đến, không đi, cũng lại không trụ. Tự tánh của Tịnh quán địa cho đến Như Lai địa không đến, không đi, cũng lại không trụ. Tự tướng của Tịnh quán địa cho đến Như Lai địa không đến, không đi, cũng lại không trụ. Vì sao? Vì bản tánh, chơn như, tự tánh, tự tướng của Tịnh quán địa cho đến Như Lai địa, hoặc động, hoặc trụ, bất khả đắc.
Lại nữa, Thiện Hiện! Pháp môn Ðà-la-ni, pháp môn Tam-ma-địa không đến, không đi, cũng lại không trụ. Bản tánh của pháp môn Đà-la-ni, pháp môn Tam-ma-địa không đến, không đi, cũng lại không trụ. Chơn như của pháp môn Đà-la-ni, pháp môn Tam-ma-địa không đến, không đi, cũng lại không trụ. Tự tánh của pháp môn Đà-la-ni, pháp môn Tam-ma-địa không đến, không đi, cũng lại không trụ. Tự tướng của pháp môn Đà-la-ni, pháp môn Tam-ma-địa không đến, không đi, cũng lại không trụ. Vì sao? Vì bản tánh, chơn như, tự tánh, tự tướng của pháp môn Đà-la-ni, pháp môn Tam-ma-địa, hoặc động, hoặc trụ, bất khả đắc.
Lại nữa, Thiện Hiện! Năm loại mắt, sáu phép thần thông không đến, không đi, cũng lại không trụ. Bản tánh của năm loại mắt, sáu phép thần thông không đến, không đi, cũng lại không trụ. Chơn như của năm loại mắt, sáu phép thần thông không đến, không đi, cũng lại không trụ. Tự tánh của năm loại mắt, sáu phép thần thông không đến, không đi, cũng lại không trụ. Tự tướng của năm loại mắt, sáu phép thần thông không đến, không đi, cũng lại không trụ. Vì sao? Vì bản tánh, chơn như, tự tánh, tự tướng của năm loại mắt, sáu phép thần thông, hoặc động, hoặc trụ, bất khả đắc.
Lại nữa, Thiện Hiện! Mười lực Như Lai cho đến mười tám pháp Phật bất cộng không đến, không đi, cũng lại không trụ. Bản tánh của mười lực Như Lai cho đến mười tám pháp Phật bất cộng không đến, không đi, cũng lại không trụ. Chơn như của mười lực Như Lai cho đến mười tám pháp Phật bất cộng không đến, không đi, cũng lại không trụ. Tự tánh của mười lực Như Lai cho đến mười tám pháp Phật bất cộng không đến, không đi, cũng lại không trụ. Tự tướng của mười lực Như Lai cho đến mười tám pháp Phật bất cộng không đến, không đi, cũng lại không trụ. Vì sao? Vì bản tánh, chơn như, tự tánh, tự tướng của mười lực Như Lai cho đến mười tám pháp Phật bất cộng, hoặc động, hoặc trụ, bất khả đắc.
Lại nữa, Thiện Hiện! Pháp không quên mất, tánh luôn luôn xả không đến, không đi, cũng lại không trụ. Bản tánh của pháp không quên mất, tánh luôn luôn xả không đến, không đi, cũng lại không trụ. Chơn như của pháp không quên mất, tánh luôn luôn xả không đến, không đi, cũng lại không trụ. Tự tánh của pháp không quên mất, tánh luôn luôn xả không đến, không đi, cũng lại không trụ. Tự tướng của pháp không quên mất, tánh luôn luôn xả không đến, không đi, cũng lại không trụ. Vì sao? Vì bản tánh, chơn như, tự tánh, tự tướng của pháp không quên mất, tánh luôn luôn xả, hoặc động, hoặc trụ, bất khả đắc.
Lại nữa, Thiện Hiện! Trí nhất thiết, trí đạo tướng, trí nhất thiết tướng không đến, không đi, cũng lại không trụ. Bản tánh của trí nhất thiết, trí đạo tướng, trí nhất thiết tướng không đến, không đi, cũng lại không trụ. Chơn như của trí nhất thiết, trí đạo tướng, nhất thiế tướng trí không đến, không đi, cũng lại không trụ. Tự tánh của trí nhất thiết, trí đạo tướng, trí nhất thiết tướng không đến, không đi, cũng lại không trụ. Tự tướng của trí nhất thiết, trí đạo tướng, trí nhất thiết tướng không đến, không đi, cũng lại không trụ. Vì sao? Vì bản tánh, chơn như, tự tánh, tự tướng của trí nhất thiết, trí đạo tướng, trí nhất thiết tướng, hoặc động, hoặc trụ, bất khả đắc.
Lại nữa, Thiện Hiện! Bồ-tát, pháp Bồ-tát không đến, không đi, cũng lại không trụ. Bản tánh của Bồ-tát, pháp Bồ-tát không đến, không đi, cũng lại không trụ. Chơn như của Bồ-tát, pháp Bồ-tát không đến, không đi, cũng lại không trụ. Tự tánh của Bồ-tát, pháp Bồ-tát không đến, không đi, cũng lại không trụ. Tự tướng của Bồ-tát, pháp Bồ-tát không đến, không đi, cũng lại không trụ. Vì sao? Vì bản tánh, chơn như, tự tánh, tự tướng của Bồ-tát, pháp Bồ-tát, hoặc động, hoặc trụ, bất khả đắc.
Lại nữa, Thiện Hiện! Bồ-đề Phật-đà không đến, không đi, cũng lại không trụ. Bản tánh của Bồ-đề Phật-đà không đến, không đi, cũng lại không trụ. Chơn như của Bồ-đề Phật-đà không đến, không đi, cũng lại không trụ. Tự tánh của Bồ-đề Phật-đà không đến, không đi, cũng lại không trụ. Tự tướng của Bồ-đề Phật-đà không đến, không đi, cũng lại không trụ. Vì sao? Vì bản tánh, chơn như, tự tánh, tự tướng của Bồ-đề Phật-đà, hoặc động, hoặc trụ, bất khả đắc.
Lại nữa, Thiện Hiện! Hữu vi, vô vi không đến, không đi, cũng lại không trụ. Bản tánh hữu vi, vô vi không đến, không đi, cũng lại không trụ. Chơn như hữu vi, vô vi không đến, không đi, cũng lại không trụ. Tự tánh hữu vi, vô vi không đến, không đi, cũng lại không trụ. Tự tướng hữu vi, vô vi không đến, không đi, cũng lại không trụ. Vì sao? Vì bản tánh, chơn như, tự tánh, tự tướng của hữu vi, vô vi, hoặc động, hoặc trụ, bất khả đắc.
Thiện Hiện nên biết: Do nghĩa như vậy, nên nói cũng như hư không, không đến, không đi, không trụ, có thể thấy. Ðại thừa cũng vậy, không đến, không đi, không trụ, có thể thấy.
Lại nữa, Thiện Hiện! Theo lời ông nói: Như hư không, khoảng trước, sau, giữa đều bất khả đắc. Ðại thừa cũng vậy, khoảng trước, sau, giữa đều bất khả đắc. Như vậy cho đến của bình đẳng ba đời vượt khỏi ba đời, cho nên gọi là Ðại thừa. Đúng vậy! Đúng vậy! Đúng như lời ông nói.
Vì sao? Ðời quá khứ, đời quá khứ Không. Ðời vị lai, đời vị lai Không. Ðời hiện tại, đời hiện tại Không. Ba đời bình đẳng, ba đời bình đẳng Không. Vượt qua ba đời, vượt qua ba đời bình đẳng Không. Ðại thừa, Ðại thừa Không. Bồ-tát, Bồ-tát Không. Vì sao? Này Thiện Hiện! Vì Không, không có các tướng một, hai, ba, bốn, năm, sáu, bảy, tám, chín, mười, cho đến trăm ngàn v.v… Cho nên, Ðại thừa bình đẳng của ba đời, vượt qua ba đời.
Thiện Hiện nên biết: Trong Ðại thừa đây tướng đẳng, bất đẳng đều bất khả đắc. Tướng tham, bất tham, tướng sân, bất sân, tướng si, bất si, tướng mạn, bất mạn cũng đều bất khả đắc. Như vậy, cho đến tướng thiện, phi thiện, tướng hữu ký, vô ký, tướng hữu lậu, vô lậu, tướng hữu tội, vô tội, tướng tạp nhiễm, thanh tịnh, tướng thế gian, xuất thế gian, tướng có nhiễm, ly nhiễm, tướng sanh tử, Niết-bàn cũng bất khả đắc. Tướng thường, vô thường, tướng khổ, phi khổ, tướng ngã, vô ngã, tướng tịnh, phi tịnh, tướng tịch tĩnh, bất tịch tĩnh, tướng viễn ly, bất viễn ly cũng bất khả đắc. Tướng ở cõi Dục, vượt ngoài cõi Dục, tướng ở cõi Sắc, vượt ngoài cõi Sắc, tướng ở cõi Vô sắc, vượt ngoài cõi Vô sắc, các tướng như thế cũng bất khả đắc. Vì sao? Vì trong Ðại thừa này, tự tánh các pháp bất khả đắc.
Thiện Hiện nên biết: Sắc uẩn cho đến thức uẩn ở quá khứ, vị lai, hiện tại. Tự tánh của sắc uẩn cho đến thức uẩn ở quá khứ, vị lai, hiện tại đều Không. Trong Không đó, sắc uẩn cho đến thức uẩn ở quá khứ, vị lai, hiện tại đều bất khả đắc. Vì sao? Vì sắc uẩn cho đến thức uẩn ở quá khứ, vị lai, hiện tại tức là Không. Tánh Không cũng là Không. Tánh Không trong Không còn bất khả đắc, huống gì trong Không có tự tánh của sắc uẩn cho đến thức uẩn ở quá khứ, vị lai, hiện tại có thể đắc ư.
Thiện Hiện nên biết: Nhãn xứ cho đến ý xứ ở quá khứ, vị lai, hiện tại. Tự tánh của nhãn xứ cho đến ý xứ ở quá khứ, vị lai, hiện tại đều Không. Trong Không đó, nhãn xứ cho đến ý xứ ở quá khứ, vị lai, hiện tại đều bất khả đắc. Vì sao? Vì nhãn xứ cho đến ý xứ ở quá khứ, vị lai, hiện tại tức là Không. Tánh Không cũng là Không. Tánh Không trong Không còn bất khả đắc, huống gì trong Không có tự tánh của nhãn xứ cho đến ý xứ ở quá khứ, vị lai, hiện tại có thể đắc ư.
Thiện Hiện nên biết: Sắc xứ cho đến pháp xứ ở quá khứ, vị lai, hiện tại. Tự tánh của sắc xứ cho đến pháp xứ ở quá khứ, vị lai, hiện tại đều Không. Trong Không đó, sắc xứ cho đến pháp xứ ở quá khứ, vị lai, hiện tại đều bất khả đắc. Vì sao? Vì sắc xứ cho đến pháp xứ ở quá khứ, vị lai, hiện tại tức là Không. Tánh Không cũng là Không. Tánh Không trong Không còn bất khả đắc, huống gì trong Không có tự tánh của sắc xứ cho đến pháp xứ ở quá khứ, vị lai, hiện tại có thể đắc ư.
Thiện Hiện nên biết: Nhãn giới cho đến ý giới ở quá khứ, vị lai, hiện tại. Tự tánh của nhãn giới cho đến ý giới ở quá khứ, vị lai, hiện tại đều Không. Trong Không đó, nhãn giới cho đến ý giới ở quá khứ, vị lai, hiện tại đều bất khả đắc. Vì sao? Vì nhãn giới cho đến ý giới ở quá khứ, vị lai, hiện tại tức là Không. Tánh Không cũng là Không. Tánh Không trong Không còn bất khả đắc, huống gì trong Không có tự tánh của nhãn giới cho đến ý giới ở quá khứ, vị lai, hiện tại có thể đắc ư.
Thiện Hiện nên biết: Sắc giới cho đến pháp giới ở quá khứ, vị lai, hiện tại. Tự tánh của sắc giới cho đến pháp giới ở quá khứ, vị lai, hiện tại đều Không. Trong Không đó, sắc giới cho đến pháp giới ở quá khứ, vị lai, hiện tại đều bất khả đắc. Vì sao? Vì sắc giới cho đến pháp giới ở quá khứ, vị lai, hiện tại tức là Không. Tánh Không cũng là Không. Tánh Không trong Không còn bất khả đắc, huống gì trong Không có tự tánh của sắc giới cho đến pháp giới ở quá khứ, vị lai, hiện tại có thể đắc ư.
Thiện Hiện nên biết: Nhãn thức giới cho đến ý thức giới ở quá khứ, vị lai, hiện tại. Tự tánh của nhãn thức giới cho đến ý thức giới ở quá khứ, vị lai, hiện tại đều Không. Trong Không đó, nhãn thức giới cho đến ý thức giới ở quá khứ, vị lai, hiện tại đều bất khả đắc. Vì sao? Vì nhãn thức giới cho đến ý thức giới ở quá khứ, vị lai, hiện tại tức là Không. Tánh Không cũng là Không. Tánh Không trong Không còn bất khả đắc, huống gì trong Không có tự tánh của nhãn thức giới cho đến ý thức giới ở quá khứ, vị lai, hiện tại có thể đắc ư.
Thiện Hiện nên biết: Nhãn xúc cho đến ý xúc ở quá khứ, vị lai, hiện tại. Tự tánh của nhãn xúc cho đến ý xúc ở quá khứ, vị lai, hiện tại đều Không. Trong Không đó, nhãn xúc cho đến ý xúc ở quá khứ, vị lai, hiện tại đều bất khả đắc. Vì sao? Vì nhãn xúc cho đến ý xúc ở quá khứ, vị lai, hiện tại tức là Không. Tánh Không cũng là Không. Tánh Không trong Không còn bất khả đắc, huống gì trong Không có tự tánh của nhãn xúc cho đến ý xúc ở quá khứ, vị lai, hiện tại có thể đắc ư.
Thiện Hiện nên biết: Các thọ do nhãn xúc làm duyên sanh ra, cho đến các thọ do ý xúc làm duyên sanh ra ở quá khứ, vị lai, hiện tại. Tự tánh của các thọ do nhãn xúc làm duyên sanh ra, cho đến các thọ do ý xúc làm duyên sanh ra ở quá khứ, vị lai, hiện tại đều Không. Trong Không đó, các thọ do nhãn xúc làm duyên sanh ra, cho đến các thọ do ý xúc làm duyên sanh ra ở quá khứ, vị lai, hiện tại đều bất khả đắc. Vì sao? Vì các thọ do nhãn xúc làm duyên sanh ra, cho đến các thọ do ý xúc làm duyên sanh ra ở quá khứ, vị lai, hiện tại tức là Không. Tánh Không cũng là Không. Tánh Không trong Không còn bất khả đắc, huống gì trong Không có tự tánh của các thọ do nhãn xúc làm duyên sanh ra, cho đến các thọ do ý xúc làm duyên sanh ra ở quá khứ, vị lai, hiện tại có thể đắc ư.
Thiện Hiện nên biết: Địa giới cho đến thức giới ở quá khứ, vị lai, hiện tại. Tự tánh của địa giới cho đến thức giới ở quá khứ, vị lai, hiện tại đều Không. Trong Không đó, địa giới cho đến thức giới ở quá khứ, vị lai, hiện tại đều bất khả đắc. Vì sao? Vì địa giới cho đến thức giới ở quá khứ, vị lai, hiện tại tức là Không. Tánh Không cũng là Không. Tánh Không trong Không còn bất khả đắc, huống gì trong Không có tự tánh của địa giới cho đến thức giới ở quá khứ, vị lai, hiện tại có thể đắc ư.
Thiện Hiện nên biết: Nhân duyên cho đến tăng thượng duyên ở quá khứ, vị lai, hiện tại. Tự tánh của nhân duyên cho đến tăng thượng duyên ở quá khứ, vị lai, hiện tại đều Không. Trong Không đó, nhân duyên cho đến tăng thượng duyên ở quá khứ, vị lai, hiện tại đều bất khả đắc. Vì sao? Vì nhân duyên cho đến tăng thượng duyên ở quá khứ, vị lai, hiện tại tức là Không. Tánh Không cũng là Không. Tánh Không trong Không còn bất khả đắc, huống gì trong Không có tự tánh của nhân duyên cho đến tăng thượng duyên ở quá khứ, vị lai, hiện tại có thể đắc ư.
Thiện Hiện nên biết: Vô minh cho đến lão tử ở quá khứ, vị lai, hiện tại. Tự tánh của vô minh cho đến lão tử ở quá khứ, vị lai, hiện tại đều Không. Trong Không đó, vô minh cho đến lão tử ở quá khứ, vị lai, hiện tại đều bất khả đắc. Vì sao? Vì vô minh cho đến lão tử ở quá khứ, vị lai, hiện tại tức là Không. Tánh Không cũng là Không. Tánh Không trong Không còn bất khả đắc, huống gì trong Không có tự tánh của vô minh cho đến lão tử ở quá khứ, vị lai, hiện tại có thể đắc ư.
Thiện Hiện nên biết: Bố thí Ba-la-mật-đa cho đến Bát-nhã ba-la-mật-đa ở quá khứ, vị lai, hiện tại. Tự tánh của bố thí Ba-la-mật-đa cho đến Bát-nhã ba-la-mật-đa ở quá khứ, vị lai, hiện tại đều Không. Trong Không đó, bố thí Ba-la-mật-đa cho đến Bát-nhã ba-la-mật-đa ở quá khứ, vị lai, hiện tại đều bất khả đắc. Vì sao? Vì bố thí Ba-la-mật-đa cho đến Bát-nhã ba-la-mật-đa ở quá khứ, vị lai, hiện tại tức là Không. Tánh Không cũng là Không. Tánh Không trong Không còn bất khả đắc, huống gì trong Không có tự tánh của bố thí Ba-la-mật-đa cho đến Bát-nhã ba-la-mật-đa ở quá khứ, vị lai, hiện tại có thể đắc ư.
Thiện Hiện nên biết: Bốn niệm trụ cho đến tám chi thánh đạo ở quá khứ, vị lai, hiện tại. Tự tánh của bốn niệm trụ cho đến tám chi thánh đạo ở quá khứ, vị lai, hiện tại đều Không. Trong Không đó, bốn niệm trụ cho đến tám chi thánh đạo ở quá khứ, vị lai, hiện tại đều bất khả đắc. Vì sao? Vì bốn niệm trụ cho đến tám chi thánh đạo ở quá khứ, vị lai, hiện tại tức là Không. Tánh Không cũng là Không. Tánh Không trong Không còn bất khả đắc, huống gì trong Không có tự tánh của bốn niệm trụ cho đến tám chi thánh đạo ở quá khứ, vị lai, hiện tại có thể đắc ư.
Thiện Hiện nên biết: Bốn tịnh lự, bốn vô lượng, bốn định vô sắc ở quá khứ, vị lai, hiện tại. Tự tánh của bốn tịnh lự, bốn vô lượng, bốn định vô sắc ở quá khứ, vị lai, hiện tại đều Không. Trong Không đó, bốn tịnh lự, bốn vô lượng, bốn định vô sắc ở quá khứ, vị lai, hiện tại đều bất khả đắc. Vì sao? Vì bốn tịnh lự, bốn vô lượng, bốn định vô sắc ở quá khứ, vị lai, hiện tại tức là Không. Tánh Không cũng là Không. Tánh không trong Không còn bất khả đắc, huống gì trong Không có tự tánh của bốn tịnh lự, bốn vô lượng, bốn định vô sắc ở quá khứ, vị lai, hiện tại có thể đắc ư.
Thiện Hiện nên biết: Pháp môn giải thoát không, vô tướng, vô nguyện ở quá khứ, vị lai, hiện tại. Tự tánh của pháp môn giải thoát không, vô tướng, vô nguyện quá khứ, vị lai, hiện tại đều là Không. Trong Không đó, pháp môn giải thoát không, vô tướng, vô nguyện ở quá khứ, vị lai, hiện tại đều bất khả đắc. Vì sao? Vì pháp môn giải thoát không, vô tướng, vô nguyện ở quá khứ, vị lai, hiện tại tức là Không. Tánh Không cũng là Không. Tánh Không trong Không còn bất khả đắc, huống gì trong Không có tự tánh của pháp môn giải thoát không, vô tướng, vô nguyện ở quá khứ, vị lai, hiện tại có thể đắc ư.
Thiện Hiện nên biết: Tám giải thoát, chín định thứ đệ ở quá khứ, vị lai, hiện tại. Tự tánh của tám giải thoát, chín định thứ đệ ở quá khứ, vị lai, hiện tại đều Không. Trong Không đó, tám giải thoát, chín định thứ đệ ở quá khứ, vị lai, hiện tại đều bất khả đắc. Vì sao? Vì tám giải thoát, chín định thứ đệ ở quá khứ, vị lai, hiện tại tức là Không. Tánh Không cũng là Không. Tánh Không trong Không còn bất khả đắc, huống gì trong Không có tự tánh của tám giải thoát, chín định thứ đệ ở quá khứ, vị lai, hiện tại có thể đắc ư.
Thiện Hiện nên biết: Tịnh quán địa cho đến Như Lai địa ở quá khứ, vị lai, hiện tại. Tự tánh của Tịnh quán địa cho đến Như Lai địa ở quá khứ, vị lai, hiện tại đều Không. Trong Không đó, Tịnh quán địa cho đến Như Lai địa ở quá khứ, vị lai, hiện tại đều bất khả đắc. Vì sao? Vì Tịnh quán địa cho đến Như Lai địa ở quá khứ, vị lai, hiện tại tức là Không. Tánh Không cũng là Không. Tánh Không trong Không còn bất khả đắc, huống gì trong Không có tự tánh của Tịnh quán địa cho đến Như Lai địa ở quá khứ, vị lai, hiện tại có thể đắc ư.
Thiện Hiện nên biết: Cực hỷ địa cho đến Pháp vân địa ở quá khứ, vị lai, hiện tại. Tự tánh của Cực hỷ địa cho đến Pháp vân địa ở quá khứ, vị lai, hiện tại đều Không. Trong Không đó, Cực hỷ địa cho đến Pháp vân địa ở quá khứ, vị lai, hiện tại đều bất khả đắc. Vì sao? Vì Cực hỷ địa cho đến Pháp vân địa ở quá khứ, vị lai, hiện tại tức là Không. Tánh Không cũng là Không. Tánh Không trong Không còn bất khả đắc, huống gì trong Không có tự tánh của Cực hỷ địa cho đến Pháp vân địa ở quá khứ, vị lai, hiện tại có thể đắc ư.
Thiện Hiện nên biết: Pháp môn Đà-la-ni, pháp môn Tam-ma-địa ở quá khứ, vị lai, hiện tại. Tự tánh của pháp môn Đà-la-ni, pháp môn Tam-ma-địa ở quá khứ, vị lai, hiện tại đều Không. Trong Không đó, pháp môn Đà-la-ni, pháp môn Tam-ma-địa ở quá khứ, vị lai, hiện tại đều bất khả đắc. Vì sao? Vì pháp môn Ðà-la-ni, pháp môn Tam-ma-địa ở quá khứ, vị lai, hiện tại tức là Không. Tánh Không cũng là Không. Tánh Không trong Không còn bất khả đắc, huống gì trong Không có tự tánh của pháp môn Đà-la-ni, pháp môn Tam-ma-địa ở quá khứ, vị lai, hiện tại có thể đắc ư.
Thiện Hiện nên biết: Năm loại mắt, sáu phép thần thông ở quá khứ, vị lai, hiện tại. Tự tánh của năm loại mắt, sáu phép thần thông ở quá khứ, vị lai, hiện tại đều Không. Trong Không đó, năm loại mắt sáu phép thần thông ở quá khứ, vị lai, hiện tại đều bất khả đắc. Vì sao? Vì năm loại mắt, sáu phép thần thông ở quá khứ, vị lai, hiện tại tức là Không. Tánh Không cũng là Không. Tánh Không trong Không còn bất khả đắc, huống gì trong Không có tự tánh của năm loại mắt, sáu phép thần thông ở quá khứ, vị lai, hiện tại có thể đắc ư.
Thiện Hiện nên biết: Mười lực Như Lai cho đến mười tám pháp Phật bất cộng ở quá khứ, vị lai, hiện tại. Tự tánh của mười lực Như Lai cho đến mười tám pháp Phật bất cộng ở quá khứ, vị lai, hiện tại đều Không. Trong Không đó, mười lực Như Lai cho đến mười tám pháp Phật bất cộng ở quá khứ, vị lai, hiện tại đều bất khả đắc. Vì sao? Vì mười lực Như Lai cho đến mười tám pháp Phật bất cộng ở quá khứ, vị lai, hiện tại tức là Không. Tánh Không cũng là Không. Tánh Không trong Không còn bất khả đắc, huống gì trong Không có tự tánh của mười lực Như Lai, cho đến mười tám pháp Phật bất cộng ở quá khứ, vị lai, hiện tại có thể đắc ư.
Thiện Hiện nên biết: Pháp không quên mất, tánh luôn luôn xả ở quá khứ, vị lai, hiện tại. Tự tánh của pháp không quên mất, tánh luôn luôn xả ở quá khứ, vị lai, hiện tại đều Không. Trong Không đó, pháp không quên mất, tánh luôn luôn xả ở quá khứ, vị lai, hiện tại đều bất khả đắc. Vì sao? Vì pháp không quên mất, tánh luôn luôn xả ở quá khứ, vị lai, hiện tại tức là Không. Tánh Không cũng là Không. Tánh Không trong Không còn bất khả đắc, huống gì trong Không có tự tánh của pháp không quên mất, tánh luôn luôn xả ở quá khứ, vị lai, hiện tại có thể đắc ư.
Thiện Hiện nên biết: Trí nhất thiết, trí đạo tướng, trí nhất thiết tướng ở quá khứ, vị lai, hiện tại. Tự tánh của trí nhất thiết, trí đạo tướng, trí nhất thiết tướng ở quá khứ, vị lai, hiện tại đều Không. Trong Không đó, trí nhất thiết, trí đạo tướng, trí nhất thiết tướng ở quá khứ, vị lai, hiện tại đều bất khả đắc. Vì sao? Vì trí nhất thiết, trí đạo tướng, trí nhất thiết tướng ở quá khứ, vị lai, hiện tại tức là Không. Tánh Không cũng là Không. Tánh Không trong Không còn bất khả đắc, huống gì trong Không có tự tánh của trí nhất thiết, trí đạo tướng, trí nhất thiết tướng ở quá khứ, vị lai, hiện tại có thể đắc ư.
Thiện Hiện nên biết: Dị sanh, Thanh văn, Ðộc giác, Bồ-tát, Như Lai ở quá khứ, vị lai, hiện tại. Tự tánh của dị sanh cho đến Như Lai ở quá khứ, vị lai, hiện tại đều Không. Trong Không đó, dị sanh cho đến Như Lai ở quá khứ, vị lai, hiện tại đều bất khả đắc. Vì sao? Vì dị sanh cho đến Như Lai ở quá khứ, vị lai, hiện tại tức là Không. Tánh Không cũng là Không. Tánh Không trong Không còn bất khả đắc, huống gì trong Không có tự tánh của dị sanh cho đến Như Lai ở quá khứ, vị lai, hiện tại có thể đắc ư.
Vì ngã, hữu tình nói rộng cho đến người biết, người thấy bất khả đắc.
Lại nữa, Thiện Hiện! Sắc uẩn cho đến thức uẩn ở giai đoạn trước, sau, giữa đều bất khả đắc. Sắc uẩn cho đến thức uẩn trong ba giai đoạn bình đẳng cũng bất khả đắc. Vì sao? Trong bình đẳng, tự tánh sắc uẩn cho đến tự tánh thức uẩn ở giai đoạn trước, sau, giữa đều bất khả đắc. Vì sao? Vì trong bình đẳng, tánh bình đẳng còn bất khả đắc, huống gì tự tánh sắc uẩn cho đến tự tánh thức uẩn ở giai đoạn trước, sau, giữa có thể đắc ư.
Lại nữa, Thiện Hiện! Nhãn xứ cho đến ý xứ ở giai đoạn trước, sau, giữa đều bất khả đắc. Nhãn xức cho đến ý xứ trong ba giai đoạn bình đẳng cũng bất khả đắc. Vì sao? Vì trong bình đẳng, tự tánh nhãn xứ cho đến tự tánh ý xứ ở giai đoạn trước, sau, giữa đều bất khả đắc. Vì sao? Vì trong bình đẳng, tánh bình đẳng còn bất khả đắc, huống gì tự tánh nhãn xứ cho đến tự tánh ý xứ ở giai đoạn trước, sau, giữa có thể đắc ư.
Lại nữa, Thiện Hiện! Sắc xứ cho đến pháp xứ ở giai đoạn trước, sau, giữa đều bất khả đắc. Sắc xứ cho đến pháp xứ trong ba giai đoạn bình đẳng cũng bất khả đắc. Vì sao? Vì trong bình đẳng, tự tánh sắc xứ cho đến tự tánh pháp xứ ở giai đoạn trước, sau, giữa đều bất khả đắc. Vì sao? Vì trong bình đẳng, tánh bình đẳng còn bất khả đắc, huống gì tự tánh sắc xứ cho đến tự tánh pháp xứ ở giai đoạn trước, sau, giữa có thể đắc ư.
Lại nữa, Thiện Hiện! Nhãn giới cho đến ý giới ở giai đoạn trước, sau, giữa đều bất khả đắc. Nhãn giới cho đến ý giới trong ba giai đoạn bình đẳng cũng bất khả đắc. Vì sao? Vì trong bình đẳng, tự tánh nhãn giới cho đến tự tánh ý giới ở giai đoạn trước, sau, giữa đều bất khả đắc. Vì sao? Vì trong bình đẳng, tánh bình đẳng còn bất khả đắc, huống gì tự tánh nhãn giới cho đến tự tánh ý giới ở giai đoạn trước, sau, giữa có thể đắc ư.
Lại nữa, Thiện Hiện! Sắc giới cho đến pháp giới ở giai đoạn trước, sau, giữa đều bất khả đắc. Sắc giới cho đến pháp giới trong ba giai đoạn bình đẳng cũng bất khả đắc. Vì sao? Vì trong bình đẳng, tự tánh sắc giới cho đến tự tánh pháp giới ở giai đoạn trước, sau, giữa đều bất khả đắc. Vì sao? Vì trong bình đẳng, tánh bình đẳng còn bất khả đắc, huống gì tự tánh sắc giới cho đến tự tánh pháp giới ở giai đoạn trước, sau, giữa có thể đắc ư.
Lại nữa, Thiện Hiện! Nhãn thức giới cho đến ý thức giới ở giai đoạn trước, sau, giữa đều bất khả đắc. Nhãn thức giới cho đến ý thức giới trong ba giai đoạn bình đẳng cũng bất khả đắc. Vì sao? Vì trong bình đẳng, tự tánh nhãn thức giới cho đến tự tánh ý thức giới ở giai đoạn trước, sau, giữa đều bất khả đắc. Vì sao? Vì trong bình đẳng, tánh bình đẳng còn bất khả đắc, huống gì tự tánh nhãn thức giới cho đến tự tánh ý thức giới ở giai đoạn trước, sau, giữa có thể đắc ư.
Lại nữa, Thiện Hiện! Nhãn xúc cho đến ý xúc ở giai đoạn trước, sau, giữa đều bất khả đắc. Nhãn xúc cho đến ý xúc trong ba giai đoạn bình đẳng cũng bất khả đắc. Vì sao? Vì trong bình đẳng, tự tánh nhãn xúc cho đến tự tánh ý xúc ở giai đoạn trước, sau, giữa đều bất khả đắc. Vì sao? Vì trong bình đẳng, tánh bình đẳng còn bất khả đắc, huống gì tự tánh nhãn xúc cho đến tự tánh ý xúc ở giai đoạn trước, sau, giữa có thể đắc ư.
Lại nữa, Thiện Hiện! Các thọ do nhãn xúc làm duyên sanh ra, cho đến các thọ do ý xúc làm duyên sanh ra ở giai đoạn trước, sau, giữa đều bất khả đắc. Các thọ do nhãn xúc làm duyên sanh ra, cho đến các thọ do ý xúc làm duyên sanh ra, trong ba giai đoạn bình đẳng cũng bất khả đắc. Vì sao? Vì trong bình đẳng, tự tánh các thọ do nhãn xúc làm duyên sanh ra, cho đến tự tánh các thọ do ý xúc làm duyên sanh ra ở giai đoạn trước, sau, giữa đều bất khả đắc. Vì sao? Vì trong bình đẳng, tánh bình đẳng còn bất khả đắc, huống gì tự tánh các thọ do nhãn xúc làm duyên sanh ra, cho đến tự tánh các thọ do ý xúc làm duyên sanh ra ở giai đoạn trước, sau, giữa có thể đắc ư.
Lại nữa, Thiện Hiện! Ðịa giới cho đến thức giới ở giai đoạn trước, sau, giữa đều bất khả đắc. Địa giới cho đến thức giới trong ba giai đoạn bình đẳng cũng bất khả đắc. Vì sao? Vì trong bình đẳng, tự tánh địa giới cho đến tự tánh thức giới ở giai đoạn trước, sau, giữa đều bất khả đắc. Vì sao? Vì trong bình đẳng, tánh bình đẳng còn bất khả đắc, huống gì tự tánh địa giới cho đến tự tánh thức giới ở giai đoạn trước, sau, giữa có thể đắc ư.
Lại nữa, Thiện Hiện! Nhân duyên cho đến tăng thượng duyên ở giai đoạn trước, sau, giữa đều bất khả đắc. Nhân duyên cho đến tăng thượng duyên trong ba giai đoạn bình đẳng cũng bất khả đắc. Vì sao? Vì trong bình đẳng, tự tánh nhân duyên cho đến tự tánh tăng thượng duyên ở giai đoạn trước, sau, giữa đều bất khả đắc. Vì sao? Vì trong bình đẳng, tánh bình đẳng còn bất khả đắc, huống gì tự tánh nhân duyên cho đến tự tánh tăng thượng duyên ở giai đoạn trước, sau, giữa có thể đắc ư.
Lại nữa, Thiện Hiện! Vô minh cho đến lão tử ở giai đoạn trước, sau, giữa đều bất khả đắc. Vô minh cho đến lão tử trong ba giai đoạn bình đẳng cũng bất khả đắc. Vì sao? Vì trong bình đẳng, tự tánh vô minh cho đến tự tánh lão tử ở giai đoạn trước, sau, giữa đều bất khả đắc. Vì sao? Vì trong bình đẳng, tánh bình đẳng còn bất khả đắc, huống gì tự tánh vô minh cho đến tự tánh lão tử ở giai đoạn trước, sau, giữa có thể đắc ư.
Lại nữa, Thiện Hiện! Bố thí Ba-la-mật-đa cho đến Bát-nhã ba-la-mật-đa ở giai đoạn trước, sau, giữa đều bất khả đắc. Bố thí Ba-la-mật-đa cho đến Bát-nhã ba-la-mật-đa trong ba giai đoạn bình đẳng cũng bất khả đắc. Vì sao? Vì trong bình đẳng, tự tánh bố thí Ba-la-mật-đa cho đến tự tánh Bát-nhã ba-la-mật-đa ở giai đoạn trước, sau, giữa đều bất khả đắc. Vì sao? Vì trong bình đẳng, tánh bình đẳng còn bất khả đắc, huống gì tự tánh bố thí Ba-la-mật-đa cho đến tự tánh Bát-nhã ba-la-mật-đa ở giai đoạn trước, sau, giữa có thể đắc ư.
Lại nữa, Thiện Hiện! Bốn niệm trụ cho đến tám chi thánh đạo ở giai đoạn trước, sau, giữa đều bất khả đắc. Bốn niệm trụ cho đến tám chi thánh đạo trong ba giai đoạn bình đẳng cũng bất khả đắc. Vì sao? Vì trong bình đẳng, tự tánh bốn niệm trụ cho đến tự tánh tám chi thánh đạo ở giai đoạn trước, sau, giữa đều bất khả đắc. Vì sao? Vì trong bình đẳng, tánh bình đẳng còn bất khả đắc, huống gì tự tánh bốn niệm trụ cho đến tự tánh tám chi thánh đạo ở giai đoạn trước, sau, giữa có thể đắc ư.
Lại nữa, Thiện Hiện! Bốn tịnh lự, bốn vô lượng, bốn định vô sắc ở giai đoạn trước, sau, giữa đều bất khả đắc. Bốn tịnh lự, bốn vô lượng, bốn định vô sắc trong ba giai đoạn bình đẳng cũng bất khả đắc. Vì sao? Vì trong bình đẳng, tự tánh bốn tịnh lự, bốn vô lượng, bốn định vô sắc ở giai đoạn trước, sau, giữa đều bất khả đắc. Vì sao? Vì trong bình đẳng, tánh bình đẳng còn bất khả đắc, huống gì tự tánh bốn tịnh lự, bốn vô lượng, bốn định vô sắc ở giai đoạn trước, sau, giữa có thể đắc ư.
Lại nữa, Thiện Hiện! Pháp môn giải thoát không, vô tướng, vô nguyện ở giai đoạn trước, sau, giữa đều bất khả đắc. Pháp môn giải thoát không, vô tướng, vô nguyện trong ba giai đoạn bình đẳng cũng bất khả đắc. Vì sao? Vì trong bình đẳng, tự tánh pháp môn giải thoát không, vô tướng, vô nguyện ở giai đoạn trước, sau, giữa còn bất khả đắc, huống gì tự tánh pháp môn giải thoát không, vô tướng, vô nguyện ở giai đoạn trước, sau, giữa có thể đắc ư.
Lại nữa, Thiện Hiện! Tám giải thoát, chín định thứ đệ ở giai đoạn trước, sau, giữa đều bất khả đắc. Tám giải thoát, chín định thứ đệ trong ba giai đoạn bình đẳng cũng bất khả đắc. Vì sao? Vì trong bình đẳng, tự tánh tám giải thoát, chín định thứ đệ ở giai đoạn trước, sau, giữa đều bất khả đắc. Vì sao? Vì trong bình đẳng, tánh bình đẳng còn bất khả đắc, huống gì tự tánh tám giải thoát, chín định thứ đệ ở giai đoạn trước, sau, giữa có thể đắc ư.
Lại nữa, Thiện Hiện! Tịnh quán địa cho đến Như Lai địa ở giai đoạn trước, sau, giữa đều bất khả đắc. Tịnh quán địa cho đến Như Lai địa trong ba giai đoạn bình đẳng cũng bất khả đắc. Vì sao? Vì trong bình đẳng, tự tánh Tịnh quán địa cho đến tự tánh Như Lai địa ở giai đoạn trước, sau, giữa đều bất khả đắc. Vì sao? Vì trong bình đẳng, tánh bình đẳng còn bất khả đắc, huống gì tự tánh Tịnh quán địa cho đến tự tánh Như Lai địa ở giai đoạn trước, sau, giữa có thể đắc ư.
Lại nữa, Thiện Hiện! Cực hỷ địa cho đến Pháp vân địa ở giai đoạn trước, sau, giữa đều bất khả đắc. Cực hỷ địa cho đến Pháp vân địa trong ba giai đoạn bình đẳng cũng bất khả đắc. Vì sao? Vì trong bình đẳng, tự tánh Cực hỷ địa cho đến tự tánh Pháp vân địa ở giai đoạn trước, sau, giữa đều bất khả đắc. Vì sao? Vì trong bình đẳng, tánh bình đẳng còn bất khả đắc, huống gì tự tánh Cực hỷ địa cho đến tự tánh Pháp vân địa ở giai đoạn trước, sau, giữa có thể đắc ư.
Lại nữa, Thiện Hiện! Pháp môn Ðà-la-ni, pháp môn Tam-ma-địa ở giai đoạn trước, sau, giữa đều bất khả đắc. Pháp môn Ðà-la-ni, pháp môn Tam-ma-địa trong ba giai đoạn bình đẳng cũng bất khả đắc. Vì sao? Vì trong bình đẳng, tự tánh pháp môn Đà-la-ni, pháp môn Tam-ma-địa ở giai đoạn trước, sau, giữa đều bất khả đắc. Vì sao? Vì trong bình đẳng, tánh bình đẳng còn bất khả đắc, huống gì tự tánh pháp môn Đà-la-ni, pháp môn Tam-ma-địa ở giai đoạn trước, sau, giữa có thể đắc ư.
Lại nữa, Thiện Hiện! Năm loại mắt, sáu phép thần thông ở giai đoạn trước, sau, giữa đều bất khả đắc. Năm loại mắt, sáu phép thần thông trong ba giai đoạn bình đẳng cũng bất khả đắc. Vì sao? Vì trong bình đẳng, tự tánh năm loại mắt, sáu phép thần thông ở giai đoạn trước, sau, giữa đều bất khả đắc. Vì sao? Vì trong bình đẳng, tánh bình đẳng còn bất khả đắc, huống gì tự tánh năm loại mắt, sáu phép thần thông ở giai đoạn trước, sau, giữa có thể đắc ư.
Lại nữa, Thiện Hiện! Mười lực Như Lai cho đến mười tám pháp Phật bất cộng ở giai đoạn trước, sau, giữa đều bất khả đắc. Mười lực Như Lai cho đến mười tám pháp Phật bất cộng, trong ba giai đoạn bình đẳng cũng bất khả đắc. Vì sao? Vì trong bình đẳng, tự tánh mười lực Như Lai cho đến tự tánh mười tám pháp Phật bất cộng ở giai đoạn trước, sau, giữa đều bất khả đắc. Vì sao? Vì trong bình đẳng, tánh bình đẳng còn bất khả đắc, huống gì tự tánh mười lực Như Lai cho đến tự tánh mười tám pháp Phật bất cộng ở giai đoạn trước, sau, giữa có thể đắc ư.
Lại nữa, Thiện Hiện! Pháp không quên mất, tánh luôn luôn xả ở giai đoạn trước, sau, giữa đều bất khả đắc. Pháp không quên mất, tánh luôn luôn xả trong ba giai đoạn bình đẳng cũng bất khả đắc. Vì sao? Vì trong bình đẳng, tự tánh pháp không quên mất, tánh luôn luôn xả ở giai đoạn trước, sau, giữa đều bất khả đắc. Vì sao? Vì trong bình đẳng, tánh bình đẳng còn bất khả đắc, huống gì tự tánh pháp không quên mất, tánh luôn luôn xả ở giai đoạn trước, sau, giữa có thể đắc ư.
Lại nữa, Thiện Hiện! Trí nhất thiết, trí đạo tướng, trí nhất thiết tướng ở giai đoạn trước, sau, giữa đều bất khả đắc. Trí nhất thiết, trí đạo tướng, trí nhất thiết tướng trong ba giai đoạn bình đẳng cũng bất khả đắc. Vì sao? Vì trong bình đẳng, tự tánh trí nhất thiết, trí đạo tướng, trí nhất thiết tướng ở giai đoạn trước, sau, giữa đều bất khả đắc. Vì sao? Vì trong bình đẳng, tánh bình đẳng còn bất khả đắc, huống gì tự tánh trí nhất thiết, trí đạo tướng, trí nhất thiết tướng ở giai đoạn trước, sau, giữa có thể đắc ư.
Lại nữa, Thiện Hiện! Dị sanh, Thanh văn, Ðộc giác, Bồ-tát, Như Lai ở giai đoạn trước, sau, giữa đều bất khả đắc. Dị sanh cho đến Như Lai trong ba giai đoạn bình đẳng cũng bất khả đắc. Vì sao? Vì trong bình đẳng, tự tánh dị sanh cho đến tự tánh Như Lai ở giai đoạn trước, sau, giữa đều bất khả đắc. Vì sao? Vì trong bình đẳng, tánh bình đẳng còn bất khả đắc, huống gì tự tánh dị sanh cho đến tự tánh Như Lai ở giai đoạn trước, sau, giữa có thể đắc ư.
Vì ngã, hữu tình, nói rộng cho đến người biết, người thấy bất khả đắc.
Như vậy, Thiện Hiện! Các Đại Bồ-tát an trụ Bát-nhã ba-la-mật-đa, tinh cần tu học ba giai đoạn bình đẳng, mau chóng viên mãn trí nhất thiết trí. Như vậy gọi là tướng Ðại thừa ba giai đoạn bình đẳng của các Đại Bồ-tát. Nếu các Đại Bồ-tát nào an trụ trong tướng Ðại thừa như vậy, thì vượt khắp tất cả thế gian, trời, người, A-tu-la v.v… mau chóng chứng đắc trí nhất thiết trí, làm lợi lạc hữu tình ở đời vị lai.
Bấy giờ Cụ thọ Thiện Hiện bạch Phật:
– Bạch Thế Tôn! Lành thay! Lành thay! Nay Như Lai khéo vì chúng Đại Bồ-tát tuyên thuyết nghĩa Ðại thừa như vậy. Ðại thừa như vậy tối tôn, tối thắng. Chúng Đại Bồ-tát ở đời quá khứ đã học trong đây mà chứng đắc trí nhất thiết trí. Chúng Đại Bồ-tát ở đời vị lai sẽ học trong đây mà chứng đắc trí nhất thiết trí. Tất cả chúng Đại Bồ-tát đời hiện tại ở mười phương vô lượng, vô số, vô biên thế giới đang học trong đây cũng được chứng đắc trí nhất thiết trí. Cho nên Ðại thừa tối tôn, tối thắng, có thể làm nơi nương tựa chơn thật, thù thắng cho trí nhất thiết trí của chúng Đại Bồ-tát.
Phật bảo Thiện Hiện:
– Đúng vậy! Đúng vậy! Đúng như lời ông nói. Chúng Đại Bồ-tát ở đời quá khứ, vị lai, hiện tại có thể dựa vào Ðại thừa mà tinh cần tu học, thì mau chóng chứng đắc trí nhất thiết trí, làm lợi lạc hữu tình nơi đời vị lai. Cho nên Ðại thừa tối tôn, tối thắng, vượt khắp tất cả thế gian, trời, người, A-tu-la v.v… Vì vậy, chúng Đại Bồ-tát phải siêng năng tu học.
Bấy giờ, Mãn Từ Tử bạch Phật:
– Bạch Thế Tôn! Lúc trước Như Lai dạy Tôn giả Thiện Hiện vì chúng Đại Bồ-tát tuyên thuyết Bát-nhã ba-la-mật-đa, sao nay lại thuyết nhiều nghĩa về Ðại thừa?
Lúc đó, Thiện Hiện liền bạch Phật:
– Bạch Thế Tôn! Từ trước đến nay, con nói nhiều nghĩa về Ðại thừa, nhưng không lúc nào trái ý Bát-nhã ba-la-mật-đa?
Phật bảo Thiện Hiện:
– Từ trước đến nay, ông thuyết nhiều nghĩa Ðại thừa đều tùy thuận theo Bát-nhã ba-la-mật-đa không chỗ nào sai trái. Vì sao? Vì tất cả pháp thiện, pháp Bồ-đề phần, pháp Thanh văn, pháp Ðộc giác, pháp Bồ-tát, hoặc pháp Như Lai, tất cả pháp như thế đều thâu nhiếp thâm nhập vào Bát-nhã ba-la-mật-đa sâu xa.
Thiện Hiện lại bạch Phật:
– Bạch Thế Tôn! Những gì là tất cả pháp thiện, pháp Bồ-đề phần, pháp Thanh văn, pháp Ðộc giác, pháp Bồ-tát, hoặc pháp Như Lai, tất cả pháp như thế đều thâu nhiếp thâm nhập vào Bát-nhã ba-la-mật-đa sâu xa?
Phật bảo Thiện Hiện:
– Bố thí Ba-la-mật-đa cho đến Bát-nhã ba-la-mật-đa. Bốn niệm trụ cho đến tám chi thánh đạo. Bốn tịnh lự, bốn vô lượng, bốn định vô sắc. Pháp môn giải thoát không, vô tướng, vô nguyện. Tám giải thoát, chín định thứ đệ. Tịnh quán địa cho đến Như Lai địa. Cực hỷ địa cho đến Pháp vân địa. Tất cả pháp môn Đà-la-ni, pháp môn Tam-ma-địa. Năm loại mắt, sáu phép thần thông. Mười lực Như Lai cho đến mười tám pháp Phật bất cộng. Pháp không quên mất, tánh luôn luôn xả. Trí nhất thiết trí, trí đạo tướng, trí nhất thiết tướng. Thiện Hiện nên biết: Các pháp như vậy đều là thiện pháp, pháp Bồ-đề phần, pháp Thanh văn, pháp Ðộc giác, pháp Bồ-tát, hoặc pháp Như Lai, tất cả pháp như thế đều thâu nhiếp thâm nhập vào Bát-nhã ba-la-mật-đa sâu xa.
Thiện Hiện nên biết: Ðại thừa, Bát-nhã ba-la-mật-đa cho đến bố thí Ba-la-mật-đa. Sắc uẩn cho đến thức uẩn. Nhãn xứ cho đến ý xứ. Sắc xứ cho đến pháp xứ. Nhãn giới cho đến ý giới. Sắc giới cho đến pháp giới. Nhãn thức giới cho đến ý thức giới. Nhãn xúc cho đến ý xúc. Các thọ do nhãn xúc làm duyên sanh ra, cho đến các thọ do ý xúc làm duyên sanh ra. Địa giới cho đến thức giới. Nhân duyên cho đến tăng thượng duyên. Vô minh cho đến lão tử. Dục giới, Sắc giới, Vô sắc giới. Pháp thiện, pháp bất thiện. Pháp hữu ký, pháp vô ký. Pháp học, pháp vô học, pháp chẳng phải học, chẳng phải vô học. Bốn niệm trụ cho đến tám chi thánh đạo. Bốn tịnh lự, bốn vô lượng, bốn định vô sắc. Tám giải thoát, chín định thứ đệ. Pháp môn giải thoát không, vô tướng, vô nguyện. Tịnh quán địa cho đến Như Lai địa. Cực hỷ địa cho đến Pháp vân địa. Tất cả pháp môn Đà-la-ni, pháp môn Tam-ma-địa. Năm loại mắt, sáu phép thần thông. Mười lực Như Lai cho đến mười tám pháp Phật bất cộng. Pháp không quên mất, tánh luôn luôn xả. Trí nhất thiết, trí đạo tướng, trí nhất thiết tướng. Pháp thiện, pháp bất thiện. Pháp hữu ký, pháp vô ký. Pháp hữu lậu, pháp vô lậu. Pháp hữu vi, pháp vô vi. Pháp thế gian, pháp xuất thế gian. Thánh đế khổ, tập, diệt, đạo. Pháp nội Không cho đến pháp vô tính tự tính Không. Chơn như cho đến cảnh giới bất tư nghì. Cảnh giới đoạn cho đến cảnh giới vô vi. Chư Như Lai Ứng Chánh Ðẳng Giác. Pháp luật Phật thuyết. Sự giác ngộ, Bồ-đề, Niết-bàn. Tất cả như thế đều chẳng phải tương ưng, chẳng phải bất tương ưng, vô sắc, vô kiến, vô đối, nhất tướng gọi là vô tướng. Do nhân duyên này nên từ trước đến nay, ông thuyết nhiều nghĩa Ðại thừa đều tùy thuận theo Bát-nhã ba-la-mật-đa không chỗ nào sai trái.
Vì sao? Vì Ðại thừa không khác Bát-nhã ba-la-mật-đa cho đến bố thí Ba-la-mật-đa. Bát-nhã ba-la-mật-đa cho đến bố thí Ba-la-mật-đa cũng không khác Ðại thừa. Vì sao? Vì Ðại thừa, Bát-nhã ba-la-mật-đa cho đến bố thí Ba-la-mật-đa tánh nó không hai, không hai phần.
Ðại thừa không khác bốn niệm trụ cho đến tám chi thánh đạo. Bốn niệm trụ cho đến tám chi thánh đạo cũng không khác Ðại thừa. Vì sao? Vì Ðại thừa, bốn niệm trụ cho đến tám chi thánh đạo, tánh nó không hai, không hai phần.
Ðại thừa không khác bốn tịnh lự, bốn vô lượng, bốn định vô sắc. Bốn tịnh lự, bốn vô lượng, bốn định vô sắc cũng không khác Ðại thừa. Vì sao? Vì Ðại thừa, bốn tịnh lự, bốn vô lượng, bốn định vô sắc, tánh nó không hai, không hai phần.
Ðại thừa không khác tám giải thoát, chín định thứ đệ. Tám giải thoát, chín định thứ đệ cũng không khác Ðại thừa. Vì sao? Vì Ðại thừa, tám giải thoát, chín định thứ đệ, tánh nó không hai, không hai phần.
Ðại thừa không khác pháp môn giải thoát không, vô tướng, vô nguyện. Pháp môn giải thoát không, vô tướng, vô nguyện cũng không khác Ðại thừa. Vì sao? Vì Ðại thừa, pháp môn giải thoát không, vô tướng, vô nguyện, tánh nó không hai, không hai phần.
Ðại thừa không khác Tịnh quán địa cho đến Như Lai địa. Tịnh quán địa cho đến Như Lai địa cũng không khác Ðại thừa. Vì sao? Vì Ðại thừa, Tịnh quán địa cho đến Như Lai địa, tánh nó không hai, không hai phần.
Ðại thừa không khác Cực hỷ địa cho đến Pháp vân địa. Cực hỷ địa cho đến Pháp vân địa cũng không khác Ðại thừa. Vì sao? Vì Ðại thừa, Cực hỷ địa cho đến Pháp vân địa, tánh nó không hai, không hai phần.
Ðại thừa không khác pháp môn Đà-la-ni, pháp môn Tam-ma-địa. Pháp môn Ðà-la-ni, pháp môn Tam-ma-địa cũng không khác Ðại thừa. Vì sao? Vì Ðại thừa, pháp môn Đà-la-ni, pháp môn Tam-ma-địa, tánh nó không hai, không hai phần.
Ðại thừa không khác năm loại mắt, sáu phép thần thông. Năm loại mắt, sáu phép thần thông cũng không khác Ðại thừa. Vì sao? Vì Ðại thừa, năm loại mắt, sáu phép thần thông, tánh nó không hai, không hai phần.
Ðại thừa không khác mười lực Như Lai cho đến mười tám pháp Phật bất cộng. Mười lực Như Lai cho đến mười tám pháp Phật bất cộng cũng không khác Ðại thừa. Vì sao? Vì Ðại thừa, mười lực Như Lai cho đến mười tám pháp Phật bất cộng, tánh nó không hai, không hai phần.
Ðại thừa không khác pháp không quên mất, tánh luôn luôn xả. Pháp không quên mất, tánh luôn luôn xả cũng không khác Ðại thừa. Vì sao? Vì Ðại thừa, pháp không quên mất, tánh luôn luôn xả, tánh nó không hai, không hai phần.
Ðại thừa không khác trí nhất thiết, trí đạo tướng, trí nhất thiết tướng. Trí nhất thiết, trí đạo tướng, trí nhất thiết tướng cũng không khác Ðại thừa. Vì sao? Vì Ðại thừa, trí nhất thiết, trí đạo tướng, trí nhất thiết tướng, tánh nó không hai, không hai phần.
Ðại thừa không khác Thánh đế khổ, tập, diệt, đạo. Thánh đế khổ, tập, diệt, đạo cũng không khác Ðại thừa. Vì sao? Vì Ðại thừa, Thánh đế khổ, tập, diệt, đạo, tánh nó không hai, không hai phần.
Ðại thừa không khác pháp nội Không cho đến pháp vô tính tự tính Không. Pháp nội Không cho đến pháp vô tính tự tính Không cũng không khác Ðại thừa. Vì sao? Vì Ðại thừa, pháp nội Không cho đến pháp vô tính tự tính Không, tánh nó không hai, không hai phần.
Ðại thừa không khác chơn như của cho đến cảnh giới bất tư nghì. Chơn như cho đến cảnh giới bất tư nghì cũng không khác Ðại thừa. Vì sao? Vì Ðại thừa, chơn như cho đến cảnh giới bất tư nghì, tánh nó không hai, không hai phần.
Ðại thừa không khác cảnh giới đoạn cho đến cảnh giới vô vi. Cảnh giới đoạn cho đến cảnh giới vô vi cũng không khác Ðại thừa. Vì sao? Vì Ðại thừa, cảnh giới đoạn cho đến cảnh giới vô vi, tánh nó không hai, không hai phần.
Ðại thừa không khác pháp thiện, pháp bất thiện. Pháp thiện, pháp bất thiện cũng không khác Ðại thừa. Vì sao? Vì Ðại thừa, pháp thiện, pháp bất thiện, tánh nó không hai, không hai phần.
Ðại thừa không khác pháp hữu ký, pháp vô ký. Pháp hữu ký, pháp vô ký cũng không khác Ðại thừa. Vì sao? Vì Ðại thừa, pháp hữu ký, pháp vô ký, tánh nó không hai, không hai phần.
Ðại thừa không khác pháp hữu lậu, pháp vô lậu. Pháp hữu lậu, pháp vô lậu cũng không khác Ðại thừa. Vì sao? Vì Ðại thừa, pháp hữu lậu, pháp vô lậu, tánh nó không hai, không hai phần.
Ðại thừa không khác pháp thế gian, pháp xuất thế gian. Pháp thế gian, pháp xuất thế gian cũng không khác Ðại thừa. Vì sao? Vì Ðại thừa, pháp thế gian, pháp xuất thế gian, tánh nó không hai, không hai phần.
Ðại thừa không khác pháp hữu vi, pháp vô vi. Pháp hữu vi, pháp vô vi cũng không khác Ðại thừa. Vì sao? Vì Ðại thừa, pháp hữu vi, pháp vô vi, tánh nó không hai, không hai phần.
Ðại thừa không khác uẩn, xứ, giới v.v… Uẩn, xứ, giới v.v… cũng không khác Ðại thừa. Vì sao? Vì Ðại thừa, uẩn, xứ, giới v.v… tánh nó không hai, không hai phần.
Thiện Hiện nên biết: Do nghĩa này, cho nên từ trước đến nay ông nói nhiều nghĩa Ðại thừa, đều tùy thuận theo Bát-nhã ba-la-mật-đa, không chỗ nào sai trái. Vậy, thuyết Ðại thừa tức là thuyết Bát-nhã ba-la-mật-đa, thuyết Bát-nhã ba-la-mật-đa tức là thuyết Ðại thừa. Danh và nghĩa cả hai đều không khác.
Bấy giờ, cụ thọ Thiện Hiện bạch Phật:
– Bạch Thế Tôn! Các Đại Bồ-tát trong giai đoạn trước bất khả đắc, giai đoạn sau bất khả đắc, giai đoạn giữa bất khả đắc.
Sắc uẩn cho đến thức uẩn vô biên, nên biết Đại Bồ-tát cũng vô biên.
Nhãn xứ cho đến ý xứ vô biên, nên biết Đại Bồ-tát cũng vô biên.
Sắc xứ cho đến pháp xứ vô biên, nên biết Đại Bồ-tát cũng vô biên.
Nhãn giới cho đến ý giới vô biên, nên biết Đại Bồ-tát cũng vô biên.
Sắc giới cho đến pháp giới vô biên, nên biết Đại Bồ-tát cũng vô biên.
Nhãn thức giới cho đến ý thức giới vô biên, nên biết Đại Bồ-tát cũng vô biên.
Nhãn xúc cho đến ý xúc vô biên, nên biết Đại Bồ-tát cũng vô biên.
Các thọ do nhãn xúc làm duyên sanh ra, cho đến các thọ do ý xúc làm duyên sanh ra vô biên, nên biết Đại Bồ-tát cũng vô biên.
Ðịa giới cho đến thức giới vô biên, nên biết Đại Bồ-tát cũng vô biên.
Nhân duyên cho đến tăng thượng duyên vô biên, nên biết Đại Bồ-tát cũng vô biên.
Vô minh cho đến lão tử vô biên, nên biết Đại Bồ-tát cũng vô biên.
Bố thí Ba-la-mật-đa cho đến Bát-nhã ba-la-mật-đa vô biên, nên biết Đại Bồ-tát cũng vô biên.
Bốn niệm trụ cho đến tám chi thánh đạo vô biên, nên biết Đại Bồ-tát cũng vô biên.
Bốn tịnh lự, bốn vô lượng, bốn định vô sắc vô biên, nên biết Đại Bồ-tát cũng vô biên.
Tám giải thoát, chín định thứ đệ vô biên, nên biết Đại Bồ-tát cũng vô biên.
Pháp môn giải thoát không, vô tướng, vô nguyện vô biên, nên biết Đại Bồ-tát cũng vô biên.
Năm loại mắt, sáu phép thần thông vô biên, nên biết Đại Bồ-tát cũng vô biên.
Mười lực Như Lai cho đến mười tám pháp Phật bất cộng vô biên, nên biết Đại Bồ-tát cũng vô biên.
Pháp không quên mất, tánh luôn luôn xả vô biên, nên biết Đại Bồ-tát cũng vô biên.
Trí nhất thiết, trí đạo tướng, trí nhất thiết tướng vô biên, nên biết Đại Bồ-tát cũng vô biên.
Tất cả pháp môn Đà-la-ni, pháp môn Tam-ma-địa vô biên, nên biết Đại Bồ-tát cũng vô biên.
Tịnh quán địa cho đến Như Lai địa vô biên, nên biết Đại Bồ-tát cũng vô biên.
Cực hỷ địa cho đến Pháp vân địa vô biên, nên biết Đại Bồ-tát cũng vô biên.
Thánh đế khổ, tập, diệt, đạo vô biên, nên biết Đại Bồ-tát cũng vô biên.
Pháp nội Không cho đến pháp vô tính tự tính Không vô biên, nên biết Đại Bồ-tát cũng vô biên.
Chơn như cho đến cảnh giới bất tư nghì vô biên, nên biết Đại Bồ-tát cũng vô biên.
Cảnh giới đoạn cho đến cảnh giới vô vi vô biên, nên biết Đại Bồ-tát cũng vô biên.
Thanh văn, Ðộc giác, Ðại thừa vô biên, nên biết Đại Bồ-tát cũng vô biên.
Lại nữa, bạch Thế Tôn! Đại Bồ-tát cùng với sắc uẩn cho đến thức uẩn vô sở hữu, bất khả đắc. Đại Bồ-tát lìa sắc uẩn cho đến thức uẩn vô sở hữu, bất khả đắc. Như vậy cho đến Đại Bồ-tát cùng với Thanh văn, Ðộc giác, Ðại thừa vô sở hữu, bất khả đắc. Đại Bồ-tát lìa Thanh văn, Ðộc giác, Ðại thừa vô sở hữu, bất khả đắc.
Như vậy, bạch Thế Tôn! Đối với tất cả pháp này, con dùng tất cả loại, tất cả nơi, tất cả thời để cầu Đại Bồ-tát hoàn toàn không chỗ thấy, bất khả đắc. Điều gì đã khiến con dùng Bát-nhã ba-la-mật-đa chỉ dạy, truyền trao cho các Đại Bồ-tát?
Lại nữa, bạch Thế Tôn! Các Đại Bồ-tát chỉ có giả danh, hoàn toàn không tự tánh. Cũng như nói ngã v.v… hoàn toàn không sanh, chỉ có giả danh, nên hoàn toàn không tự tánh. Các pháp cũng vậy, hoàn toàn không sanh, chỉ có giả danh, hoàn toàn không tự tánh.
Bạch Thế Tôn! Những sắc cho đến thức nào hoàn toàn không sanh, nếu hoàn toàn không sanh thì không gọi là sắc cho đến thức? Như vậy cho đến những Thanh văn, Ðộc giác, Ðại thừa nào hoàn toàn không sanh, nếu hoàn toàn không sanh thì không gọi là Thanh văn, Ðộc giác, Ðại thừa.
Bạch Thế Tôn! Con đâu dùng Bát-nhã ba-la-mật-đa hoàn toàn không sanh mà dạy dỗ, truyền trao Đại Bồ-tát hoàn toàn không sanh.
Bạch Thế Tôn! Nếu xa lìa pháp hoàn toàn không sanh thì không có Đại Bồ-tát thực hành quả vị Vô thượng Chánh đẳng Bồ-đề.
Bạch Thế Tôn! Nếu Đại Bồ-tát nào nghe thuyết như vậy, tâm không chìm đắm, cũng không ưu sầu, hối hận, tâm kia cũng không kinh hãi, không hỏang hốt, không sợ sệt, nên biết Đại Bồ-tát này có thể hành Bát-nhã ba-la-mật-đa.
Bấy giờ, cụ thọ Xá-lợi Tử hỏi cụ thọ Thiện Hiện:
– Do duyên gì mà nói các Đại Bồ-tát trong giai đoạn trước bất khả đắc, giai đoạn sau bất khả đắc, giai đoạn giữa bất khả đắc?
Do duyên gì mà nói sắc uẩn cho đến thức uẩn vô biên, nên biết Đại Bồ-tát cũng vô biên? Như vậy cho đến Thanh văn, Ðộc giác, Ðại thừa vô biên, nên biết Đại Bồ-tát cũng vô biên?
Do duyên gì mà nói, Đại Bồ-tát cùng với sắc uẩn cho đến thức uẩn vô sở hữu, bất khả đắc? Đại Bồ-tát xa lìa sắc uẩn cho đến thức uẩn vô sở hữu, bất khả đắc? Như vậy cho đến Đại Bồ-tát cùng với Thanh văn, Ðộc giác, Ðại thừa vô sở hữu, bất khả đắc? Đại Bồ-tát xa lìa Thanh văn, Ðộc giác, Ðại thừa vô sở hữu, bất khả đắc?
Do duyên gì mà nói, đối với tất cả pháp này con dùng tất cả loại, tất cả nơi, tất cả thời để cầu Đại Bồ-tát hoàn toàn không chỗ thấy, bất khả đắc. Điều gì đã khiến con dùng Bát-nhã ba-la-mật-đa để dạy dỗ, truyền trao cho các Đại Bồ-tát?
Do duyên gì mà nói, các Đại Bồ-tát chỉ có giả danh hoàn toàn không tự tánh?
Do duyên gì mà nói: Như nói ngã v.v… hoàn toàn không sanh, chỉ có giả danh nên hoàn toàn không tự tánh?
Do duyên gì mà nói, các pháp cũng vậy hoàn toàn không sanh, chỉ có giả danh nên hoàn toàn không tự tánh?
Do duyên gì mà nói, những sắc cho đến thức nào hoàn toàn không sanh. Như vậy cho đến những Thanh văn, Ðộc giác, Ðại thừa nào hoàn toàn không sanh?
Do duyên gì mà nói, nếu hoàn toàn không sanh thì không gọi là sắc cho đến thức. Như vậy cho đến, nếu hoàn toàn không sanh thì không gọi là Thanh văn, Ðộc giác, Ðại thừa?
Do duyên gì mà nói: Con đâu có thể dùng pháp Bát-nhã ba-la-mật-đa hoàn toàn không sanh mà dạy dỗ, truyền trao cho Đại Bồ-tát hoàn toàn không sanh?
Do duyên gì mà nói, nếu xa lìa pháp hoàn toàn không sanh thì không có Đại Bồ-tát thực hành quả vị Vô thượng Chánh đẳng Bồ-đề?
Do duyên gì mà nói, nếu Đại Bồ-tát nào nghe thuyết như vậy mà tâm không chìm đắm, cũng không ưu sầu, sợ hãi, tâm kia không kinh hãi, không hỏang hốt, không sợ sệt, thì nên biết Đại Bồ-tát này có thể hành Bát-nhã ba-la-mật-đa?
Này cụ thọ! Nay ông nên vì tôi mà diễn thuyết.
Lúc đó, cụ thọ Thiện Hiện trả lời ngài Xá-lợi Tử:
– Thưa Tôn giả! Theo lời ngài hỏi: Do duyên gì mà nói các Đại Bồ-tát trong giai đoạn trước bất khả đắc, giai đoạn sau bất khả đắc, giai đoạn giữa bất khả đắc.
Thưa Tôn giả Xá-lợi Tử! Vì hữu tình vô sở hữu, nên nói các Đại Bồ-tát trong giai đoạn trước, sau, giữa đều bất khả đắc. Vì hữu tình Không, nên nói các Đại Bồ-tát trong giai đoạn trước, sau, giữa đều bất khả đắc. Vì hữu tình xa lìa, nên nói các Đại Bồ-tát trong giai đoạn trước, sau, giữa đều bất khả đắc. Vì hữu tình vô tự tánh, nên nói các Đại Bồ-tát trong giai đoạn trước, sau, giữa đều bất khả đắc.
Xá-lợi Tử! Sắc uẩn cho đến thức uẩn vô sở hữu, nên nói các Đại Bồ-tát trong giai đoạn trước, sau, giữa đều bất khả đắc. Sắc uẩn cho đến thức uẩn Không, nên nói các Đại Bồ-tát trong giai đoạn trước, sau, giữa đều bất khả đắc. Sắc uẩn cho đến thức uẩn xa lìa, nên nói các Đại Bồ-tát trong giai đoạn trước, sau, giữa đều bất khả đắc. Sắc uẩn cho đến thức uẩn không tự tánh, nên nói các Đại Bồ-tát trong giai đoạn trước, sau, giữa đều bất khả đắc.
Xá-lợi Tử! Nhãn xứ cho đến ý xứ vô sở hữu, nên nói các Đại Bồ-tát trong giai đoạn trước, sau, giữa đều bất khả đắc. Nhãn xứ cho đến ý xứ Không, nên nói các Đại Bồ-tát trong giai đoạn trước, sau, giữa đều bất khả đắc. Nhãn xứ cho đến ý xứ xa lìa, nên nói các Đại Bồ-tát trong giai đoạn trước, sau, giữa đều bất khả đắc. Nhãn xứ cho đến ý xứ không tự tánh, nên nói các Đại Bồ-tát trong giai đoạn trước, sau, giữa đều bất khả đắc.
Xá-lợi Tử! Sắc xứ cho đến pháp xứ vô sở hữu, nên nói các Đại Bồ-tát trong giai đoạn trước, sau, giữa đều bất khả đắc. Sắc xứ cho đến pháp xứ Không, nên nói các Đại Bồ-tát trong giai đoạn trước, sau, giữa đều bất khả đắc. Sắc xứ cho đến pháp xứ xa lìa, nên nói các Đại Bồ-tát trong giai đoạn trước, sau, giữa đều bất khả đắc. Sắc xứ cho đến pháp xứ không tự tánh, nên nói các Đại Bồ-tát trong giai đoạn trước, sau, giữa đều bất khả đắc.
Xá-lợi Tử! Nhãn giới cho đến ý giới vô sở hữu, nên nói các Đại Bồ-tát trong giai đoạn trước, sau, giữa đều bất khả đắc. Nhãn giới cho đến ý giới Không, nên nói các Đại Bồ-tát trong giai đoạn trước, sau, giữa đều bất khả đắc. Nhãn giới cho đến ý giới xa lìa, nên nói các Đại Bồ-tát trong giai đoạn trước, sau, giữa đều bất khả đắc. Nhãn giới cho đến ý giới không tự tánh, nên nói các Đại Bồ-tát trong giai đoạn trước, sau, giữa đều bất khả đắc.
Xá-lợi Tử! Sắc giới cho đến pháp giới vô sở hữu, nên nói các Đại Bồ-tát trong giai đoạn trước, sau, giữa đều bất khả đắc. Sắc giới cho đến pháp giới Không, nên nói các Đại Bồ-tát trong giai đoạn trước, sau, giữa đều bất khả đắc. Sắc giới cho đến pháp giới xa lìa, nên nói các Đại Bồ-tát trong giai đoạn trước, sau, giữa đều bất khả đắc. Sắc giới cho đến pháp giới không tự tánh, nên nói các Đại Bồ-tát trong giai đoạn trước, sau, giữa đều bất khả đắc.
Xá-lợi Tử! Nhãn thức giới cho đến ý thức giới vô sở hữu, nên nói các Đại Bồ-tát trong giai đoạn trước, sau, giữa đều bất khả đắc. Nhãn thức giới cho đến ý thức giới Không, nên nói các Đại Bồ-tát trong giai đoạn trước, sau, giữa đều bất khả đắc. Nhãn thức giới cho đến ý thức giới xa lìa, nên nói các Đại Bồ-tát trong giai đoạn trước, sau, giữa đều bất khả đắc. Nhãn thức giới cho đến ý thức giới không tự tánh, nên nói các Đại Bồ-tát trong giai đoạn trước, sau, giữa đều bất khả đắc.
Xá-lợi Tử! Nhãn xúc cho đến ý xúc vô sở hữu, nên nói các Đại Bồ-tát trong giai đoạn trước, sau, giữa đều bất khả đắc. Nhãn xúc cho đến ý xúc Không, nên nói các Đại Bồ-tát trong giai đoạn trước, sau, giữa đều bất khả đắc. Nhãn xúc cho đến ý xúc xa lìa, nên nói các Đại Bồ-tát trong giai đoạn trước, sau, giữa đều bất khả đắc. Nhãn xúc cho đến ý xúc không tự tánh, nên nói các Đại Bồ-tát trong giai đoạn trước, sau, giữa đều bất khả đắc.
Xá-lợi Tử! Các thọ do nhãn xúc làm duyên sanh ra, cho đến các thọ do ý xúc làm duyên sanh ra vô sở hữu, nên nói các Đại Bồ-tát trong giai đoạn trước, sau, giữa đều bất khả đắc. Các thọ do nhãn xúc làm duyên sanh ra, cho đến các thọ do ý xúc làm duyên sanh ra Không, nên nói các Đại Bồ-tát trong giai đoạn trước, sau, giữa đều bất khả đắc. Các thọ do nhãn xúc làm duyên sanh ra, cho đến các thọ do ý xúc làm duyên sanh ra xa lìa, nên nói các Đại Bồ-tát trong giai đoạn trước, sau, giữa đều bất khả đắc. Các thọ do nhãn xúc làm duyên sanh ra, cho đến các thọ do ý xúc làm duyên sanh ra không tự tánh, nên nói các Đại Bồ-tát trong giai đoạn trước, sau, giữa đều bất khả đắc.
Xá-lợi Tử! Ðịa giới cho đến thức giới vô sở hữu, nên nói các Đại Bồ-tát trong giai đoạn trước, sau, giữa đều bất khả đắc. Ðịa giới cho đến thức giới Không, nên nói các Đại Bồ-tát trong giai đoạn trước, sau, giữa đều bất khả đắc. Ðịa giới cho đến thức giới xa lìa, nên nói các Đại Bồ-tát trong giai đoạn trước, sau, giữa đều bất khả đắc. Ðịa giới cho đến thức giới không tự tánh, nên nói các Đại Bồ-tát trong giai đoạn trước, sau, giữa đều bất khả đắc.
Xá-lợi Tử! Nhân duyên cho đến tăng thượng duyên vô sở hữu, nên nói các Đại Bồ-tát trong giai đoạn trước, sau, giữa đều bất khả đắc. Nhân duyên cho đến tăng thượng duyên Không, nên nói các Đại Bồ-tát trong giai đoạn trước, sau, giữa đều bất khả đắc. Nhân duyên cho đến tăng thượng duyên xa lìa, nên nói các Đại Bồ-tát trong giai đoạn trước, sau, giữa đều bất khả đắc. Nhân duyên cho đến tăng thượng duyên không tự tánh, nên nói các Đại Bồ-tát trong giai đoạn trước, sau, giữa đều bất khả đắc.
Xá-lợi Tử! Vô minh cho đến lão tử vô sở hữu, nên nói các Đại Bồ-tát trong giai đoạn trước, sau, giữa đều bất khả đắc. Vô minh cho đến lão tử Không, nên nói các Đại Bồ-tát trong giai đoạn trước, sau, giữa đều bất khả đắc. Vô minh cho đến lão tử xa lìa, nên nói các Đại Bồ-tát trong giai đoạn trước, sau, giữa đều bất khả đắc. Vô minh cho đến lão tử không tự tánh, nên nói các Đại Bồ-tát trong giai đoạn trước, sau, giữa đều bất khả đắc.
Xá-lợi Tử! Bố thí Ba-la-mật-đa cho đến Bát-nhã ba-la-mật-đa vô sở hữu, nên nói các Đại Bồ-tát trong giai đoạn trước, sau, giữa đều bất khả đắc. Bố thí Ba-la-mật-đa cho đến Bát-nhã ba-la-mật-đa Không, nên nói các Đại Bồ-tát trong giai đoạn trước, sau, giữa đều bất khả đắc. Bố thí Ba-la-mật-đa cho đến Bát-nhã ba-la-mật-đa xa lìa, nên nói các Đại Bồ-tát trong giai đoạn trước, sau, giữa đều bất khả đắc. Bố thí Ba-la-mật-đa cho đến Bát-nhã ba-la-mật-đa không tự tánh, nên nói các Đại Bồ-tát trong giai đoạn trước, sau, giữa đều bất khả đắc.
Xá-lợi Tử! Bốn niệm trụ cho đến tám chi thánh đạo vô sở hữu, nên nói các Đại Bồ-tát trong giai đoạn trước, sau, giữa đều bất khả đắc. Bốn niệm trụ cho đến tám chi thánh đạo Không, nên nói các Đại Bồ-tát trong giai đoạn trước, sau, giữa đều bất khả đắc. Bốn niệm trụ cho đến tám chi thánh đạo xa lìa, nên nói các Đại Bồ-tát trong giai đoạn trước, sau, giữa đều bất khả đắc. Bốn niệm trụ cho đến tám chi thánh đạo không tự tánh, nên nói các Đại Bồ-tát trong giai đoạn trước, sau, giữa đều bất khả đắc.
Xá-lợi Tử! Bốn tịnh lự, bốn vô lượng, bốn định vô sắc vô sở hữu, nên nói các Đại Bồ-tát trong giai đoạn trước, sau, giữa đều bất khả đắc. Bốn tịnh lự, bốn vô lượng, bốn định vô sắc Không, nên nói các Đại Bồ-tát trong giai đoạn trước, sau, giữa đều bất khả đắc. Bốn tịnh lự, bốn vô lượng, bốn định vô sắc xa lìa, nên nói các Đại Bồ-tát trong giai đoạn trước, sau, giữa đều bất khả đắc. Bốn tịnh lự, bốn vô lượng, bốn định vô sắc không tự tánh, nên nói các Đại Bồ-tát trong giai đoạn trước, sau, giữa đều bất khả đắc.
Xá-lợi Tử! Tám giải thoát, chín định thứ đệ vô sở hữu, nên nói các Đại Bồ-tát trong giai đoạn trước, sau, giữa đều bất khả đắc. Tám giải thoát, chín định thứ đệ Không, nên nói các Đại Bồ-tát trong giai đoạn trước, sau, giữa đều bất khả đắc. Tám giải thoát, chín định thứ đệ xa lìa, nên nói các Đại Bồ-tát trong giai đoạn trước, sau, giữa đều bất khả đắc. Tám giải thoát, chín định thứ đệ không tự tánh, nên nói các Đại Bồ-tát trong giai đoạn trước, sau, giữa đều bất khả đắc.
Xá-lợi Tử! Pháp môn giải thoát không, vô tướng, vô nguyện vô sở hữu, nên nói các Đại Bồ-tát trong giai đoạn trước, sau, giữa đều bất khả đắc. Pháp môn giải thoát không, vô tướng, vô nguyện Không, nên nói các Đại Bồ-tát trong giai đoạn trước, sau, giữa đều bất khả đắc. Pháp môn giải thoát không, vô tướng, vô nguyện xa lìa, nên nói các Đại Bồ-tát trong giai đoạn trước, sau, giữa đều bất khả đắc. Pháp môn giải thoát không, vô tướng, vô nguyện không tự tánh, nên nói các Đại Bồ-tát trong giai đoạn trước, sau, giữa đều bất khả đắc.
Xá-lợi Tử! Năm loại mắt, sáu phép thần thông vô sở hữu, nên nói các Đại Bồ-tát trong giai đoạn trước, sau, giữa đều bất khả đắc. Năm loại mắt, sáu phép thần thông Không, nên nói các Đại Bồ-tát trong giai đoạn trước, sau, giữa đều bất khả đắc. Năm loại mắt, sáu phép thần thông xa lìa, nên nói các Đại Bồ-tát trong giai đoạn trước, sau, giữa đều bất khả đắc. Năm loại mắt, sáu phép thần thông không tự tánh, nên nói các Đại Bồ-tát trong giai đoạn trước, sau, giữa đều bất khả đắc.
Xá-lợi Tử! Mười lực Như Lai cho đến mười tám pháp Phật bất cộng vô sở hữu, nên nói các Đại Bồ-tát trong giai đoạn trước, sau, giữa đều bất khả đắc. Mười lực Như Lai cho đến mười tám pháp Phật bất cộng Không, nên nói các Đại Bồ-tát trong giai đoạn trước, sau, giữa đều bất khả đắc. Mười lực Như Lai cho đến mười tám pháp Phật bất cộng xa lìa, nên nói các Đại Bồ-tát trong giai đoạn trước, sau, giữa đều bất khả đắc. Mười lực Như Lai cho đến mười tám pháp Phật bất cộng không tự tánh, nên nói các Đại Bồ-tát trong giai đoạn trước, sau, giữa đều bất khả đắc.
Xá-lợi Tử! Pháp không quên mất, tánh luôn luôn xả vô sở hữu, nên nói các Đại Bồ-tát trong giai đoạn trước, sau, giữa đều bất khả đắc. Pháp không quên mất, tánh luôn luôn xả Không, nên nói các Đại Bồ-tát trong giai đoạn trước, sau, giữa đều bất khả đắc. Pháp không quên mất, tánh luôn luôn xả xa lìa, nên nói các Đại Bồ-tát trong giai đoạn trước, sau, giữa đều bất khả đắc. Pháp không quên mất, tánh luôn luôn xả không tự tánh, nên nói các Đại Bồ-tát trong giai đoạn trước, sau, giữa đều bất khả đắc.
Xá-lợi Tử! Trí nhất thiết, trí đạo tướng, trí nhất thiết tướng vô sở hữu, nên nói các Đại Bồ-tát trong giai đoạn trước, sau, giữa đều bất khả đắc. Trí nhất thiết, trí đạo tướng, trí nhất thiết tướng Không, nên nói các Đại Bồ-tát trong giai đoạn trước, sau, giữa đều bất khả đắc. Trí nhất thiết, trí đạo tướng, trí nhất thiết tướng xa lìa, nên nói các Đại Bồ-tát trong giai đoạn trước, sau, giữa đều bất khả đắc. Trí nhất thiết, trí đạo tướng, trí nhất thiết tướng không tự tánh, nên nói các Đại Bồ-tát trong giai đoạn trước, sau, giữa đều bất khả đắc.
Xá-lợi Tử! Tất cả pháp môn Đà-la-ni, pháp môn Tam-ma-địa vô sở hữu, nên nói các Đại Bồ-tát trong giai đoạn trước, sau, giữa đều bất khả đắc. Tất cả pháp môn Đà-la-ni, pháp môn Tam-ma-địa Không, nên nói các Đại Bồ-tát trong giai đoạn trước, sau, giữa đều bất khả đắc. Tất cả pháp môn Đà-la-ni, pháp môn Tam-ma-địa xa lìa, nên nói các Đại Bồ-tát trong giai đoạn trước, sau, giữa đều bất khả đắc. Tất cả pháp môn Đà-la-ni, pháp môn Tam-ma-địa không tự tánh, nên nói các Đại Bồ-tát trong giai đoạn trước, sau, giữa đều bất khả đắc.
Xá-lợi Tử! Tịnh quán địa cho đến Như Lai địa vô sở hữu, nên nói các Đại Bồ-tát trong giai đoạn trước, sau, giữa đều bất khả đắc. Tịnh quán địa cho đến Như Lai địa Không, nên nói các Đại Bồ-tát trong giai đoạn trước, sau, giữa đều bất khả đắc. Tịnh quán địa cho đến Như Lai địa xa lìa, nên nói các Đại Bồ-tát trong giai đoạn trước, sau, giữa đều bất khả đắc. Tịnh quán địa cho đến Như Lai địa không tự tánh, nên nói các Đại Bồ-tát trong giai đoạn trước, sau, giữa đều bất khả đắc.
Xá-lợi Tử! Cực hỷ địa cho đến Pháp vân địa vô sở hữu, nên nói các Đại Bồ-tát trong giai đoạn trước, sau, giữa đều bất khả đắc. Cực hỷ địa cho đến Pháp vân địa Không, nên nói các Đại Bồ-tát trong giai đoạn trước, sau, giữa đều bất khả đắc. Cực hỷ địa cho đến Pháp vân địa xa lìa, nên nói các Đại Bồ-tát trong giai đoạn trước, sau, giữa đều bất khả đắc. Cực hỷ địa cho đến Pháp vân địa không tự tánh, nên nói các Đại Bồ-tát trong giai đoạn trước, sau, giữa đều bất khả đắc.
Xá-lợi Tử! Thánh đế khổ, tập, diệt, đạo vô sở hữu, nên nói các Đại Bồ-tát trong giai đoạn trước, sau, giữa đều bất khả đắc. Thánh đế khổ, tập, diệt, đạo Không, nên nói các Đại Bồ-tát trong giai đoạn trước, sau, giữa đều bất khả đắc. Thánh đế khổ, tập, diệt, đạo xa lìa, nên nói các Đại Bồ-tát trong giai đoạn trước, sau, giữa đều bất khả đắc. Thánh đế khổ, tập, diệt, đạo không tự tánh, nên nói các Đại Bồ-tát trong giai đoạn trước, sau, giữa đều bất khả đắc.
Xá-lợi Tử! Pháp nội Không cho đến pháp vô tính tự tính Không vô sở hữu, nên nói các Đại Bồ-tát trong giai đoạn trước, sau, giữa đều bất khả đắc. Pháp nội Không cho đến pháp vô tính tự tính Không Không, nên nói các Đại Bồ-tát trong giai đoạn trước, sau, giữa đều bất khả đắc. Pháp nội Không cho đến pháp vô tính tự tính Không xa lìa, nên nói các Đại Bồ-tát trong giai đoạn trước, sau, giữa đều bất khả đắc. Pháp nội Không cho đến pháp vô tính tự tính Không không tự tánh, nên nói các Đại Bồ-tát trong giai đoạn trước, sau, giữa đều bất khả đắc.
Xá-lợi Tử! Chơn như cho đến cảnh giới bất tư nghì vô sở hữu, nên nói các Đại Bồ-tát trong giai đoạn trước, sau, giữa đều bất khả đắc. Chơn như cho đến cảnh giới bất tư nghì Không, nên nói các Đại Bồ-tát trong giai đoạn trước, sau, giữa đều bất khả đắc. Chơn như cho đến cảnh giới bất tư nghì xa lìa, nên nói các Đại Bồ-tát trong giai đoạn trước, sau, giữa đều bất khả đắc. Chơn như cho đến cảnh giới bất tư nghì không tự tánh, nên nói các Đại Bồ-tát trong giai đoạn trước, sau, giữa đều bất khả đắc.
Xá-lợi Tử! Cảnh giới đoạn cho đến cảnh giới vô vi vô sở hữu, nên nói các Đại Bồ-tát trong giai đoạn trước, sau, giữa đều bất khả đắc. Cảnh giới đoạn cho đến cảnh giới vô vi Không, nên nói các Đại Bồ-tát trong giai đoạn trước, sau, giữa đều bất khả đắc. Cảnh giới đoạn cho đến cảnh giới vô vi xa lìa, nên nói các Đại Bồ-tát trong giai đoạn trước, sau, giữa đều bất khả đắc. Cảnh giới đoạn cho đến cảnh giới vô vi không tự tánh, nên nói các Đại Bồ-tát trong giai đoạn trước, sau, giữa đều bất khả đắc.
Xá-lợi Tử! Thanh văn, Ðộc giác, Ðại thừa vô sở hữu, nên nói các Đại Bồ-tát trong giai đoạn trước, sau, giữa đều bất khả đắc. Thanh văn, Ðộc giác, Ðại thừa Không, nên nói các Đại Bồ-tát trong giai đoạn trước, sau, giữa đều bất khả đắc. Thanh văn, Ðộc giác, Ðại thừa xa lìa, nên nói các Đại Bồ-tát trong giai đoạn trước, sau, giữa đều bất khả đắc. Thanh văn, Ðộc giác, Ðại thừa không tự tánh, nên nói các Đại Bồ-tát trong giai đoạn trước, sau, giữa đều bất khả đắc.
Vì sao? Xá-lợi Tử! Vì hữu tình cho đến Ðại thừa vô sở hữu, Không, xa lìa, không tự tánh, nên nói các Đại Bồ-tát trong giai đoạn trước, sau, giữa đều bất khả đắc.
Xá-lợi Tử! Chẳng phải hữu tình cho đến Ðại thừa vô sở hữu, có sai khác. Chẳng phải hữu tình cho đến Ðại thừa Không, có sai khác. Chẳng phải hữu tình cho đến Ðại thừa xa lìa, có sai khác. Chẳng phải hữu tình cho đến Ðại thừa không tự tánh, có sai khác. Chẳng phải Đại Bồ-tát trong giai đoạn trước có sai khác. Chẳng phải Đại Bồ-tát trong giai đoạn sau, có sai khác. Chẳng phải Đại Bồ-tát trong giai đoạn giữa, có sai khác.
Xá-lợi Tử! Hữu tình cho đến Ðại thừa vô sở hữu. Hữu tình cho đến Ðại thừa Không. Hữu tình cho đến Ðại thừa xa lìa. Hữu tình cho đến Ðại thừa không tự tánh. Đại Bồ-tát trong giai đoạn trước, Đại Bồ-tát trong giai đoạn sau, Đại Bồ-tát trong giai đoạn giữa. Tất cả như thế đều không hai, không hai phần.
Xá-lợi Tử! Do nhân duyên này cho nên tôi nói: Các Đại Bồ-tát trong giai đoạn trước, sau, giữa đều bất khả đắc.
Lại nữa, Xá-lợi Tử! Theo lời Tôn giả hỏi: Do duyên gì mà nói sắc uẩn cho đến thức uẩn vô biên, nên biết Đại Bồ-tát cũng vô biên. Như vậy cho đến Thanh văn, Ðộc giác, Ðại thừa vô biên, nên biết Đại Bồ-tát cũng vô biên.
Thưa ngài Xá-lợi Tử! Sắc uẩn cho đến Ðại thừa đều như hư không. Vì sao? Vì hư không Không, khỏang trước, sau, giữa đều bất khả đắc. Do trong vô biên đó bất khả đắc nên gọi là hư không. Sắc uẩn cho đến Ðại thừa cũng như vậy, giai đoạn trước, sau, giữa đều bất khả đắc. Vì sao? Vì sắc uẩn cho đến Ðại thừa đều tánh Không. Trong Không, giai đoạn trước, giai đoạn sau, giai đoạn giữa đều bất khả đắc. Cũng do trong vô biên đều bất khả đắc nên gọi là Không.
Xá-lợi Tử! Do nhân duyên này nên tôi nói: Sắc uẩn cho đến thức uẩn vô biên, nên biết Đại Bồ-tát cũng vô biên. Như vậy cho đến Thanh văn, Ðộc giác, Ðại thừa vô biên, nên biết Đại Bồ-tát cũng vô biên.
Lại nữa, Xá-lợi Tử! Theo lời Tôn giả hỏi: Do duyên gì mà nói Đại Bồ-tát cùng với sắc uẩn cho đến thức uẩn vô sở hữu, bất khả đắc. Đại Bồ-tát xa lìa sắc uẩn cho đến thức uẩn vô sở hữu, bất khả đắc. Như vậy cho đến Đại Bồ-tát cùng với Thanh văn, Ðộc giác, Ðại thừa vô sở hữu, bất khả đắc. Đại Bồ-tát xa lìa Thanh văn, Ðộc giác, Ðại thừa vô sở hữu, bất khả đắc.
Thưa ngài Xá-lợi Tử! Sắc uẩn cho đến Ðại thừa, sắc uẩn cho đến Ðại thừa tánh Không. Vì sao? Vì trong sắc uẩn cho đến Ðại thừa tánh Không, sắc uẩn cho đến Ðại thừa vô sở hữu, bất khả đắc. Cho nên các Đại Bồ-tát cũng vô sở hữu, bất khả đắc.
Xá-lợi Tử! Chẳng phải sắc uẩn cho đến chẳng phải Ðại thừa, chẳng phải sắc uẩn cho đến chẳng phải Ðại thừa tánh Không. Vì sao? Vì trong chẳng phải sắc uẩn cho đến chẳng phải Ðại thừa tánh Không, chẳng phải sắc uẩn cho đến chẳng phải Ðại thừa vô sở hữu, bất khả đắc. Cho nên các Đại Bồ-tát cũng vô sở hữu, bất khả đắc.
Xá-lợi Tử! Do nhân duyên này nên tôi nói: Đại Bồ-tát cùng với sắc uẩn cho đến thức uẩn vô sở hữu, bất khả đắc. Đại Bồ-tát xa lìa sắc uẩn cho đến thức uẩn vô sở hữu, bất khả đắc. Như vậy cho đến Đại Bồ-tát cùng với Thanh văn, Ðộc giác, Ðại thừa, vô sở hữu, bất khả đắc. Đại Bồ-tát xa lìa Thanh văn, Ðộc giác, Ðại thừa vô sở hữu, bất khả đắc.
Lại nữa, Xá-lợi Tử! Theo lời Tôn giả hỏi: Do duyên gì lại nói đối với tất cả pháp này, con dùng tất cả loại, tất cả nơi, tất cả thời để cầu Đại Bồ-tát hoàn toàn không chỗ thấy, bất khả đắc. Điều gì đã khiến con dùng Bát-nhã ba-la-mật-đa mà dạy dỗ, truyền trao cho các Đại Bồ-tát?
Thưa ngài Xá-lợi Tử! Sắc đối với sắc bất khả đắc. Sắc đối với thọ, tưởng, hành, thức cũng bất khả đắc. Thọ đối với thọ bất khả đắc. Thọ đối với sắc, tưởng, hành, thức cũng bất khả đắc. Tưởng đối với tưởng bất khả đắc. Tưởng đối với sắc, thọ, hành, thức cũng bất khả đắc. Hành đối với hành bất khả đắc. Hành đối với sắc, thọ, tưởng, thức cũng bất khả đắc. Thức đối với thức bất khả đắc. Thức đối với sắc, thọ, tưởng, hành cũng bất khả đắc.
Xá-lợi Tử! Nhãn xứ đối với nhãn xứ bất khả đắc. Nhãn xứ đối với nhĩ, tỷ, thiệt, thân, ý xứ cũng bất khả đắc. Nhĩ xứ đối với nhĩ xứ bất khả đắc. Nhĩ xứ đối với nhãn, nhĩ, tỷ, thiệt, thân, ý xứ cũng bất khả đắc. Tỷ xứ đối với tỷ xứ bất khả đắc. Tỷ xứ đối với nhãn, nhĩ, thiệt, thân, ý xứ cũng bất khả đắc. Thiệt xứ đối với thiệt xứ bất khả đắc. Thiệt xứ đối với nhãn, nhĩ, tỷ, thân, ý xứ cũng bất khả đắc. Thân xứ đối với thân xứ bất khả đắc. Thân xứ đối với nhãn, nhĩ, tỷ, thiệt, ý xứ cũng bất khả đắc. Ý xứ đối với ý xứ bất khả đắc. Ý xứ đối với nhãn, nhĩ, tỷ, thiệt, thân xứ cũng bất khả đắc.
Xá-lợi Tử! Sắc xứ đối với sắc xứ bất khả đắc. Sắc xứ đối với thanh, hương, vị, xúc, pháp xứ cũng bất khả đắc. Thanh xứ đối với thanh xứ bất khả đắc. Thanh xứ đối với sắc, hương, vị, xúc, pháp xứ cũng bất khả đắc. Hương xứ đối với hương xứ bất khả đắc. Hương xứ đối với sắc, thanh, vị, xúc, pháp cũng bất khả đắc. Vị xứ đối với vị xứ bất khả đắc. Vị xứ đối với sắc, thanh, hương, xúc, pháp xứ cũng bất khả đắc. Xúc xứ đối với xúc xứ bất khả đắc. Xúc xứ đối với sắc, thanh, hương, vị, pháp xứ cũng bất khả đắc. Pháp xứ đối với pháp xứ bất khả đắc. Pháp xứ đôi sắc, thanh, hương, vị, xúc xứ cũng bất khả đắc.
Xá-lợi Tử! Nhãn giới đối với nhãn giới bất khả đắc. Nhãn giới đối với nhĩ, tỷ, thiệt, thân, ý giới cũng bất khả đắc. Nhĩ giới đối với nhĩ giới bất khả đắc. Nhĩ giới đối với nhãn, tỷ, thiệt, thân, ý giới cũng bất khả đắc. Tỷ giới đối với tỷ giới bất khả đắc. Tỷ giới đối với nhãn, nhĩ, thiệt, thân, ý giới cũng bất khả đắc. Thiệt giới đối với thiệt giới bất khả đắc. Thiệt giới đối với nhãn, nhĩ, tỷ, thân, ý giới cũng bất khả đắc. Thân giới đối với thân giới bất khả đắc. Thân giới đối với nhãn, nhĩ, tỷ, thiệt, ý giới cũng bất khả đắc. Ý giới đối với ý giới bất khả đắc. Ý giới đối với nhãn, nhĩ, tỷ, thiệt, thân giới cũng bất khả đắc.
Xá-lợi Tử! Sắc giới đối với sắc giới bất khả đắc. Sắc giới đối với thanh, hương, vị, xúc, pháp giới cũng bất khả đắc. Thanh giới đối với thanh giới bất khả đắc. Thanh giới đối với sắc, hương, vị, xúc, pháp giới cũng bất khả đắc. Hương giới đối với hương giới bất khả đắc. Hương giới đối với sắc, thanh, vị, xúc, pháp giới cũng bất khả đắc. Vị giới đối với vị giới bất khả đắc. Vị giới đối với sắc, thanh, hương, xúc, pháp giới cũng bất khả đắc. Xúc giới đối với xúc giới bất khả đắc. Xúc giới đối với sắc, thanh, hương, vị, pháp giới cũng bất khả đắc. Pháp giới đối với pháp giới bất khả đắc. Pháp giới đối với sắc, thanh, hương, vị, xúc giới cũng bất khả đắc.
Xá-lợi Tử! Nhãn thức giới đối với nhãn thức giới bất khả đắc. Nhãn thức giới đối với nhĩ, tỷ, thiệt, thân, ý thức giới cũng bất khả đắc. Nhĩ thức giới đối với nhĩ thức giới bất khả đắc. Nhĩ thức giới đối với nhãn, tỷ, thiệt, thân, ý thức giới cũng bất khả đắc. Tỷ thức giới đối với tỷ thức giới bất khả đắc. Tỷ thức giới đối với nhãn, nhĩ, thiệt, thân, ý thức giới cũng bất khả đắc. Thiệt thức giới đối với thiệt thức giới bất khả đắc. Thiệt thức giới đối với nhãn, nhĩ, tỷ, thân, ý thức giới cũng bất khả đắc. Thân thức giới đối với thân thức giới bất khả đắc. Thân thức giới đối với nhãn, nhĩ, tỷ, thiệt, ý thức giới cũng bất khả đắc. Ý thức giới đối với ý thức giới bất khả đắc. Ý thức giới đối với nhãn, nhĩ, tỷ, thiệt, thân thức giới cũng bất khả đắc.
Xá-lợi Tử! Nhãn xúc đối với nhãn xúc bất khả đắc. Nhãn xúc đối với nhĩ, tỷ, thiệt, thân, ý xúc cũng bất khả đắc. Nhĩ xúc đối với nhĩ xúc bất khả đắc. Nhĩ xúc đối với nhãn, tỷ, thiệt, thân, ý xúc cũng bất khả đắc. Tỷ xúc đối với tỷ xúc bất khả đắc. Tỷ xúc đối với nhãn, nhĩ, thiệt, thân, ý xúc cũng bất khả đắc. Thiệt xúc đối với thiệt xúc bất khả đắc. Thiệt xúc đối với nhãn, nhĩ, tỷ, thân, ý xúc cũng bất khả đắc. Thân xúc đối với thân xúc bất khả đắc. Thân xúc đối với nhãn, nhĩ, tỷ, thiệt, ý xúc cũng bất khả đắc. Ý xúc đối với ý xúc bất khả đắc bất khả đắc. Ý xúc đối với nhãn, nhĩ, tỷ, thiệt, thân xúc cũng bất khả đắc.
Xá-lợi Tử! Các thọ do nhãn xúc làm duyên sanh ra, đối với các thọ do nhãn xúc làm duyên sanh ra bất khả đắc. Các thọ do nhãn xúc làm duyên sanh ra, đối với các thọ do nhĩ, tỷ, thiệt, thân, ý xúc làm duyên sanh ra cũng bất khả đắc. Các thọ do nhĩ xúc làm duyên sanh ra, đối với các thọ do nhĩ xúc làm duyên sanh ra bất khả đắc. Các thọ do nhĩ xúc làm duyên sanh ra, đối với các thọ do nhãn, tỷ, thiệt, thân, ý xúc làm duyên sanh ra cũng bất khả đắc. Các thọ do tỷ xúc làm duyên sanh ra, đối với các thọ do tỷ xúc làm duyên sanh ra bất khả đắc. Các thọ do tỷ xúc làm duyên sanh ra, đối với các thọ do nhãn, nhĩ, thiệt, thân, ý xúc làm duyên sanh ra cũng bất khả đắc. Các thọ do thiệt xúc làm duyên sanh ra, đối với các thọ do thiệt xúc làm duyên sanh ra bất khả đắc. Các thọ do thiệt xúc làm duyên sanh ra, đối với các thọ do nhãn, nhĩ, tỷ, thân, ý xúc làm duyên sanh ra cũng bất khả đắc. Các thọ do thân xúc làm duyên sanh ra, đối với các thọ do thân xúc làm duyên sanh ra bất khả đắc. Các thọ do thân xúc làm duyên sanh ra, đối với các thọ do nhãn, nhĩ, tỷ, thiệt, ý xúc làm duyên sanh ra cũng bất khả đắc. Các thọ do ý xúc làm duyên sanh ra, đối với các thọ do ý xúc làm duyên sanh ra bất khả đắc. Các thọ do ý xúc làm duyên sanh ra, đối với các thọ do nhãn, nhĩ, tỷ, thiệt, thân xúc làm duyên sanh ra cũng bất khả đắc.
Xá-lợi Tử! Ðịa giới đối với địa giới bất khả đắc. Địa giới đối với thủy, hỏa, phong, không, thức giới cũng bất khả đắc. Thủy giới đối với thủy giới bất khả đắc. Thủy giới đối với địa, hỏa, phong, không, thức giới cũng bất khả đắc. Hỏa giới đối với hỏa giới bất khả đắc. Hỏa giới đối với địa, thủy, phong, không, thức giới cũng bất khả đắc. Phong giới đối với phong giới bất khả đắc. Phong giới đối với địa, thủy, hỏa, không, thức giới cũng bất khả đắc. Không giới đối với không giới bất khả đắc. Không giới đối với địa, thủy, hỏa, phong, thức giới cũng bất khả đắc. Thức giới đối với thức giới bất khả đắc bất khả đắc. Thức giới đối với địa, thủy, hỏa, phong, không giới cũng bất khả đắc.
Xá-lợi Tử! Nhân duyên đối với nhân duyên bất khả đắc. Nhân duyên đối với đẳng vô gián duyên, sở duyên duyên, tăng thượng duyên cũng bất khả đắc. Ðẳng vô gián duyên đối với đẳng vô gián duyên bất khả đắc. Đẳng vô gián duyên đối với nhân duyên, sở duyên duyên, tăng thượng duyên cũng bất khả đắc. Sở duyên duyên đối với sở duyên duyên bất khả đắc. Sở duyên duyên đối với nhân duyên, đẳng vô gián duyên, tăng thượng duyên cũng bất khả đắc. Tăng thượng duyên đối với tăng thượng duyên bất khả đắc. Tăng thượng duyên đối với nhân duyên, đẳng vô gián duyên, sở duyên duyên cũng bất khả đắc.
Xá-lợi Tử! Vô minh đối với vô minh bất khả đắc. Vô minh đối với hành, thức, danh sắc, lục xứ, xúc, thọ, ái, thủ, hữu, sanh, lão tử cũng bất khả đắc. Hành đối với hành bất khả đắc. Hành đối với vô minh, thức, danh sắc, lục xứ, xúc, thọ, ái, thủ, hữu, sanh, lão tử cũng bất khả đắc. Thức đối với thức bất khả đắc. Thức đối với vô minh, hành, danh sắc, lục xứ, xúc, thọ, ái, thủ, hữu, sanh, lão tử cũng bất khả đắc. Danh sắc đối với danh sắc bất khả đắc. Danh sắc đối với vô minh, hành, thức, lục xứ, xúc, thọ, ái, thủ, hữu, sanh, lão tử cũng bất khả đắc. Lục xứ đối với lục xứ bất khả đắc. Lục xứ đối với vô minh, hành, thức, danh sắc, xúc, thọ, ái, thủ, hữu, sanh, lão tử cũng bất khả đắc. Xúc đối với xúc bất khả đắc. Xúc đối với vô minh, hành, thức, danh sắc, lục xứ, thọ, ái, thủ, hữu, sanh, lão tử cũng bất khả đắc. Thọ đối với thọ bất khả đắc. Thọ đối với vô minh, hành, thức, danh sắc, lục xứ, xúc, ái, thủ, hữu, sanh, lão tử cũng bất khả đắc. Ái đối với ái bất khả đắc. Ái đối với vô minh, hành, thức, danh sắc, lục xứ, xúc, thọ, thủ, hữu, sanh, lão tử cũng bất khả đắc. Thủ đối với thủ bất khả đắc. Thủ đối với vô minh, hành, thức, danh sắc, lục xứ, xúc, thọ, ái, hữu, sanh, lão tử cũng bất khả đắc. Hữu đối với hữu bất khả đắc. Hữu đối với vô minh, hành, thức, danh sắc, lục xứ, xúc, thọ, ái, thủ, sanh, lão tử cũng bất khả đắc. Sanh đối với sanh bất khả đắc. Sanh đối với vô minh, hành, thức, danh sắc, lục xứ, xúc, thọ, ái, thủ, hữu, lão tử cũng bất khả đắc. Lão tử đối với lão tử bất khả đắc. Lão tử đối với vô minh, hành, thức, danh sắc, lục xứ, xúc, thọ, ái, thủ, hữu, sanh cũng bất khả đắc.
Xá-lợi Tử! Bố thí Ba-la-mật-đa đối với bố thí Ba-la-mật-đa bất khả đắc, bố thí Ba-la-mật-đa đối với tịnh giới v.v… Ba-la-mật-đa cũng bất khả đắc. Như vậy cho đến Bát-nhã ba-la-mật-đa đối với Bát-nhã ba-la-mật-đa bất khả đắc. Bát-nhã ba-la-mật-đa đối với bố thí Ba-la-mật-đa cũng bất khả đắc.
Xá-lợi Tử! Bốn tịnh lự đối với bốn tịnh lự bất khả đắc. Bốn tịnh lự đối với bốn vô lượng, bốn định vô sắc cũng bất khả đắc. Bốn vô lượng đối với bốn vô lượng bất khả đắc. Bốn vô lượng đối với bốn tịnh lự, bốn định vô sắc cũng bất khả đắc. Bốn định vô sắc đối với bốn định vô sắc bất khả đắc. Bốn định vô sắc đối với bốn tịnh lự, bốn vô lượng cũng bất khả đắc.
Xá-lợi Tử! Bốn niệm trụ đối với bốn niệm trụ bất khả đắc. Bốn niệm trụ đối với bốn chánh đoạn v.v… cũng bất khả đắc. Như vậy cho đến, tám chi thánh đạo đối với tám chi thánh đạo bất khả đắc. Tám thánh đạo đối với bốn niệm trụ v.v… cũng bất khả đắc.
Xá-lợi Tử! Tám giải thoát đối với tám giải thoát bất khả đắc. Tám giải thoát đối với tám thắng xứ, chín định thứ đệ, mười biến xứ cũng bất khả đắc. Tám thắng xứ đối với tám thắng xứ bất khả đắc. Tám thắng xứ đối với tám giải thoát, chín định thứ đệ, mười biến xứ cũng bất khả đắc. Chín định thứ đệ đối với chín định thứ đệ bất khả đắc. Chín định thứ đệ đối với tám giải thoát, tám thắng xứ, mười biến xứ cũng bất khả đắc. Mười biến xứ đối với mười biến xứ bất khả đắc. Mười biến xứ đối với tám giải thoát, tám thắng xứ, chín định thứ đệ cũng bất khả đắc.
Xá-lợi Tử! Pháp môn giải thoát không đối với pháp môn giải thoát không bất khả đắc. Pháp môn giải thoát không đối với pháp môn giải thoát vô tướng, vô nguyện cũng bất khả đắc. Pháp môn giải thoát vô tướng đối với pháp môn giải thoát vô tướng bất khả đắc. Pháp môn giải thoát vô tướng đối với pháp môn giải thoát không, vô nguyện cũng bất khả đắc. Pháp môn giải thoát vô nguyện đối với pháp môn giải thoát vô nguyện bất khả đắc. Pháp môn giải thoát vô nguyện đối với pháp môn giải thoát không, vô tướng cũng bất khả đắc.
Xá-lợi Tử! Năm loại mắt đối với năm loại mắt bất khả đắc. Năm loại mắt đối với sáu phép thần thông cũng bất khả đắc. Sáu phép thần thông đối với sáu phép thần thông bất khả đắc. Sáu phép thần thông đối với năm loại mắt cũng bất khả đắc.
Xá-lợi Tử! Mười lực Như Lai đối với mười lực Như Lai bất khả đắc. Mười lực Như Lai đối với bốn điều không sợ v.v… cũng bất khả đắc. Như vậy cho đến, mười tám pháp Phật bất cộng đối với mười tám pháp Phật bất cộng bất khả đắc. Mười tám pháp Phật bất cộng đối với mười lực Như Lai v.v… cũng bất khả đắc.
Xá-lợi Tử! Pháp không quên mất đối với pháp không quên mất bất khả đắc. Pháp không quên mất đối với tánh luôn luôn xả cũng bất khả đắc. Tánh luôn luôn xả đối với tánh luôn luôn xả bất khả đắc. Tánh luôn luôn xả đối với pháp không quên mất cũng bất khả đắc.
Xá-lợi Tử! Trí nhất thiết đối với trí nhất thiết bất khả đắc. Trí nhất thiết đối với trí đạo tướng, trí nhất thiết tướng cũng bất khả đắc. Trí đạo tướng đối với trí đạo tướng bất khả đắc. Trí đạo tướng đối với trí nhất thiết, trí nhất thiết tướng cũng bất khả đắc. Trí nhất thiết tướng đối với trí nhất thiết tướng bất khả đắc. Trí nhất thiết tướng đối với trí nhất thiết, trí đạo tướng cũng bất khả đắc.
Xá-lợi Tử! Pháp nội Không đối với pháp nội Không bất khả đắc. Pháp nội Không đối với pháp ngoại Không v.v… cũng bất khả đắc. Như vậy cho đến, pháp vô tính tự tính Không đối với pháp vô tính tự tính Không bất khả đắc. Pháp vô tính tự tính Không đối với pháp nội Không v.v… cũng bất khả đắc.
Xá-lợi Tử! Chơn như đối với chơn như bất khả đắc. Chơn như đối với pháp giới v.v… cũng bất khả đắc. Như vậy cho đến, cảnh giới bất tư nghì đối với cảnh giới bất tư nghì bất khả đắc. Cảnh giới bất tư nghì đối với chơn như v.v… cũng bất khả đắc.
Xá-lợi Tử! Cảnh giới đoạn đối với cảnh giới đoạn bất khả đắc. Cảnh giới đoạn đối với cảnh giới ly v.v… cũng bất khả đắc. Như vậy cho đến, cảnh giới vô vi đối với cảnh giới vô vi bất khả đắc. Cảnh giới vô vi đối với cảnh giới đoạn v.v… cũng bất khả đắc.
Xá-lợi Tử! Thánh đế khổ đối với Thánh đế khổ bất khả đắc. Thánh đế khổ đối với Thánh đế tập, diệt, đạo cũng bất khả đắc. Thánh đế tập đối với Thánh đế tập bất khả đắc. Thánh đế tập đối với Thánh đế khổ, diệt, đạo cũng bất khả đắc. Thánh đế diệt đối với Thánh đế diệt bất khả đắc. Thánh đế diệt đối với Thánh đế khổ, tập, đạo cũng bất khả đắc. Thánh đế đạo đối với Thánh đế đạo bất khả đắc. Thánh đế đạo đối với Thánh đế khổ, tập, diệt cũng bất khả đắc.
Xá-lợi Tử! Pháp môn Ðà-la-ni đối với pháp môn Đà-la-ni bất khả đắc. Pháp môn Đà-la-ni đối với pháp môn Tam-ma-địa cũng bất khả đắc. Pháp môn Tam-ma-địa đối với pháp môn Tam-ma-địa bất khả đắc. Pháp môn Tam-ma-địa đối với pháp môn Đà-la-ni cũng bất khả đắc.
Xá-lợi Tử! Dị sanh địa đối với dị sanh địa bất khả đắc. Dị sanh địa đối với Chủng tánh địa v.v… cũng bất khả đắc. Như vậy cho đến, Như Lai địa đối với Như Lai địa bất khả đắc. Như Lai địa đối với dị sanh địa v.v… cũng bất khả đắc.
Xá-lợi Tử! Cực hỷ địa đối với Cực hỷ địa bất khả đắc. Cực hỷ địa đối với Ly cấu địa v.v… cũng bất khả đắc. Như vậy cho đến, Pháp vân địa đối với Pháp vân địa bất khả đắc. Pháp vân địa đối với Cực hỷ địa v.v… cũng bất khả đắc.
Xá-lợi Tử! Dự lưu đối với Dự lưu bất khả đắc. Dự lưu đối với Nhất lai v.v… cũng bất khả đắc. Như vậy cho đến, Chánh đẳng giác đối với Chánh đẳng giác bất khả đắc. Chánh đẳng giác đối với Dự lưu v.v… cũng bất khả đắc.
Xá-lợi Tử! Đại Bồ-tát đối với Đại Bồ-tát bất khả đắc. Đại Bồ-tát đối với Bát-nhã ba-la-mật-đa dạy dỗ, truyền trao cũng bất khả đắc. Bát-nhã ba-la-mật-đa đối với Bát-nhã ba-la-mật-đa bất khả đắc. Bát-nhã ba-la-mật-đa đối với Đại Bồ-tát dạy dỗ, truyền trao cũng bất khả đắc. Dạy dỗ, truyền trao đối với dạy dỗ, truyền trao bất khả đắc. Dạy dỗ, truyền trao đối với Đại Bồ-tát, Bát-nhã ba-la-mật-đa cũng bất khả đắc.
Vì sao? Xá-lợi Tử! Vì các pháp như vậy hoặc ngã, hoặc tự tánh Không của ngã.
Xá-lợi Tử! Do nhân duyên này cho nên tôi nói: Đối với tất cả pháp này, tôi dùng tất cả loại, tất cả nơi, tất cả thời để cầu Đại Bồ-tát hoàn toàn không chỗ thấy, bất khả đắc. Điều gì đã khiến tôi dùng Bát-nhã ba-la-mật-đa dạy dỗ, truyền trao cho các Đại Bồ-tát?