HỒI KÝ PHÙNG PHÙNG
Hạnh Đoan biên dịch
LINH NĂNG CÙNG TÁI THẾ
Phật giáo tin nhân quả, giảng luân hồi, có nhiều câu chuyện về vấn đề này được Phật giáo giải thích; đa số mọi người đều biết, nên tôi không cần bàn. Hiện tại tôi chỉ thu thập một số khảo cứu mới nhất của Tây phương để chia sẻ thôi.
Chuyện đầu tiên, có một nữ tiến sĩ Thụy Sĩ tên là Elisabeth Kübler Ross, tháng 7 năm nay bà đã đến Vancouver, diễn giảng tại đại hí viện trứ danh Orpheum Canada suốt 6 tiếng.
Thính chúng bỏ ra 35 đô Canada mua vé để nghe bà giảng về “Sự sống sau khi chết”, nhiều báo đài tranh nhau phỏng vấn bà, đây là tin tức chấn động thời đó. Nữ Tiến sĩ Kübler Ross là một học giả có hai bằng cấp: Tiến sĩ Vật lý và Bác sĩ, nổi danh toàn cầu. Luận về bản thân, bà vốn là một người không dễ tin, nay lại chuyển thành một học giả nổi danh, nồng nhiệt ủng hộ thuyết “Có sự sống sau khi chết”. Bà sáng lập một Viện nghiên cứu, thu hút nhiều học giả Âu Mỹ tham gia. Bà và các bạn bè trong Viện nghiên cứu này đã thu thập gần 5 ngàn sự kiện về “Luân hồi và tái sinh” ở khắp mọi miền trên thế giới, các nhân vật này thảy đều có địa chỉ, họ tên… đủ làm bằng chứng.
Lần này đến Canada diễn giảng, dù giá vé tới 35 đô, thậm chí còn cao hơn giá vé của vũ đoàn Ba lê lúc qua Nga diễn xuất, mà dù vé vào để nghe bà giảng có giá cao ngất ngưỡng như thế, song vẫn bị cháy vé, xem như toàn đại hí viện chật ních không còn chỗ. Mấy ngàn thính giả sau khi nghe bà kể các câu chuyện có thực về luân hồi rồi, họ xúc động lệ rơi như mưa, tất cả đều nói rằng: Giá vé 35 đô không hề cao, nếu so với những bài học quý họ vừa thu thập được về chân đế nhân sinh, thì việc bỏ ra một số tiền để đóng góp, ủng hộ duy trì Viện nghiên cứu là việc rất xứng đáng, nên làm.
Nữ Tiến sĩ không nhận mình là Phật giáo đồ, nhưng những gì bà giảng tôi nghe cảm thấy rất gần với tư tưởng Phật giáo, có thể đoán bà chịu ảnh hưởng tư tưởng Phật giáo rất sâu, hoặc có thể nói thế này: Cho dù bà không phải là Phật giáo đồ, nhưng vì tư tưởng Phật giáo là chân lý vũ trụ, quy kết “Tất cả duy tâm”, mà nhân quả và luân hồi thực ra vốn là chân lý vĩnh hằng trong vũ trụ.
Nữ Tiến sĩ nhờ truy cầu chân lý chí thành, mà vô tình đến gần Phật lý.
Sự thực, giới trí thức Thụy Sĩ trong những năm gần đây, họ đối với Phật giáo đã bỏ công nghiên cứu càng lúc càng nhiều. Xa hơn nữa là nhà văn nổi tiếng: Cố tác giả Herman Hesse từng đoạt giải thưởng Nobel văn học.
Thụy Sĩ có Viện nghiên cứu tích cực về Phật giáo, nhưng chẳng biết nữ sĩ có là một thành viên trong đó hay không? Hay bà chỉ chịu ảnh hưởng thôi? Chẳng qua, bà có thanh minh là: Ngay điểm khởi đầu không hề liên quan đến tôn giáo Tây phương.
Nữ Tiến sĩ trích dẫn từ các đoạn trong di cảo của Einstein (cố Vật lý gia kiêm nhà Toán học vĩ đại), chứng minh rằng ông có liên quan đến thuyết nhân quả, vì ông tin là “Có sự sống sau khi chết”. Tiếc là bà nói quá nhanh, mà thổ âm tiếng Đức quá nặng, khiến tôi hơi khó hiểu nên không nhớ kịp các đoạn trích dẫn của bà. Bà nói năm nay sẽ cho ra một cuốn sách chuyên viết về đề tài “Sinh mệnh sau khi chết và luân hồi”, hi vọng sau khi phát hành mọi người sẽ tìm đọc, tôi rất quan tâm điều này.
Nếu những chuyện thực bà nêu lên kể ra, mà tôi chưa kịp hiểu hết, thì đành phải chờ khi bà xuất bản sách mà tìm đọc thôi.
Quan sát hàng ngàn thính chúng đang chăm chú nghe giảng, tôi phát hiện: Đại đa số đều là phần tử trí thức, không ít vị là kiến trúc sư, kỹ sư, bác sĩ, luật sư, học giả, giảng sư đại học… mà tôi quen biết; những vị khác đa phần là sinh viên, một số ít là nhân vật có tiếng tăm trong xã hội.
Nhìn khán phòng không còn chỗ trống, đủ hiểu phần tử trí thức Tây phương ưa chuộng triết học nồng hậu.
Tình hình này so với những nghĩ tưởng của một số người ở Hương Cảng, Đài Loan hoàn toàn bất đồng. Đa số người cho rằng xã hội phương Tây chịu ảnh hưởng tôn giáo phương Tây, mà chẳng hề biết giới trí thức Tây phương đã được đánh thức và tỉnh giác, nên dần dần họ đã tách khỏi tư tưởng duy vật lẫn quan niệm thần quyền, vì hai thuyết này không thỏa mãn khát vọng tìm hiểu triết học của họ nên họ đã chuyển sang tìm kiếm chân lý, chân tri, chân thật.
Rõ ràng là ngày càng có nhiều thanh niên trí thức Tây phương tìm đến, tiếp cận, tham khảo tư tưởng Phật giáo, hễ sách Anh văn nào mà có liên quan đến Thiền tông, dù là sâu hay cạn, xuất bản tại Hoa Kỳ, Canada… thảy đều trở thành loại sách bán chạy nhất.
Tiếc là các nhân sĩ Phật giáo tu luyện, cày cấy, gieo trồng hạt giống Phật tại Hoa Kỳ, Canada… vẫn chưa đủ, nên chưa thể phổ biến giúp họ thâm nhập sâu rộng, trong đây đương nhiên bao gồm khả năng kinh tế, cộng thêm nhiều yếu tố khác, mà tôi chẳng tiện nêu lên thảo luận trong bài viết này.
Tóm lại, một số tư tưởng xã hội Tây phương bị rơi vào vào mù mịt hoang mang, trong trạng thái tinh thần cảm thấy trống vắng, người ta dễ ngả vào sa đọa ăn chơi, hoặc chạy theo trào lưu híp-pi, hay tiêm nhiễm thói bạo lực, phóng túng tình dục si cuồng! Nếu như giáo lý từ bi hòa bình của Phật có thể phổ biến đầy đủ và kịp thời để họ hiểu về nếp sống chuẩn mực trong xã hội, thì tệ trạng tất nhiên sẽ đổi tốt, rất mong chư đại đức nhân sĩ Phật giáo nên phát tâm truyền bá đạo pháp nhiều hơn!
Nữ Tiến sĩ đề cập đến định luật “Vật chất bất diệt”, cô nói vật chất trong vũ trụ tuyệt không tiêu diệt thực sự, mà chỉ là chuyển đổi sang hình thái và đặc tính bất đồng. Điểm này thì tôi hiểu rõ.
Thí như nói: Sau khi đốt xăng sẽ sản xuất nhiệt và CO2, thì xăng không phải tiêu diệt, chỉ là tan khắp trong không khí, qua một dạng hình thái khác. Giống như một tờ giấy sau khi đốt đi rồi, cũng sản sinh ra nhiệt năng và carbon, hình thức giấy ta thấy có tiêu mất, nhưng nhiệt năng phát tán carbon dioxide vẫn tồn tại. Chẳng qua giấy đã biến thành trạng thái du ly (phân ly tự do) thôi.
Bất kể vật chất nào cũng thế, chúng chỉ chuyển vị, chứ tuyệt không tiêu diệt, đây là vật lý mà bất kỳ ai cũng biết.
Sinh mệnh sinh vật cũng do các nguyên tố thô tạo thành, trong nước có H2O và oxy, trong máu có chất sắt, trong xương có chất vôi, canxi, phốt-pho…
Còn có các nguyên tố khác như, Magnesium, đồng… và hàng chục, hàng trăm, nghĩa là vô số chủng loại tồn tại trong thiên nhiên. Đã biết nguyên tố tuyệt không bất đồng. Những nguyên tố này, từ vô cơ hóa làm hữu cơ, cấu thành sinh mạng; sau đó lại phân hủy, quay về tự nhiên, thành là nguyên tố vô cơ của cõi tự nhiên.
Sinh mệnh tiếp tục được hấp thu, trực tiếp hoặc gián tiếp, tái lặp lại thành tân sinh mệnh, chúng tuần hoàn bất tuyệt. Chỉ là tỷ lệ cùng trạng thái có khác, nên có thể gọi là chuyển vị, chứ không thể gọi là tiêu diệt. Đây chính là khoa học thường thức, vô cùng khách quan.
Chẳng qua các loại nguyên tố thiên nhiên hợp thành sinh mệnh hữu cơ rồi, sẽ sản sinh cảm giác và tri giác mẫn cảm, chính là một loại năng lực và nhiệt cùng tĩnh điện, cuộc sống sản sinh so với nguyên tố vô cơ mẫn cảm hơn. Vật vô cơ cũng có cảm tri, chỉ có chúng ta cho rằng chúng không có đủ. Nguyên tố nếu vô tri vô cảm, sao lại có vận động của chất proton? Nếu gọi là đặc tính vật chất, thì đặc tính cũng là phản ứng của tri giác. Tóm lại, bất kể là hữu tình sinh hoặc vô tình sinh, đều là nghĩa rộng của sinh mệnh, đều hữu tri hữu cảm, có khác biệt chăng là là trình độ tri cảm mà thôi.
Khi chúng ta đốn chặt một cây, đều cho là cây không than đau, thực sự nó không có kêu đau ư? Hãy quán sát tỉ mỉ mà xem! Dùng kính hiển vi thôi cũng có thể nhìn thấy cơ thể của nó đang run rẩy trong thống khổ, cũng nhìn thấy huyết dịch nó đang tuôn trào, tuy màu không đỏ như máu nóng, nhưng hiện nay các nhà Thực vật học đã phát hiện ra: Thực vật cũng có tình cảm và phản ứng phát ra âm thanh. Khi chúng ta cắt hay đập vỡ một khối nham thạch, nếu dùng kính hiển vi điện tử, thì sẽ thấy các nguyên tử của nó trong lúc bị chia cắt cũng có phản ứng kịch liệt, chỉ là chúng ta không hiểu được biểu lộ thống khổ của nó mà thôi!
Vì vậy tôi tuyệt không muốn làm tổn thương một mạng hay một vật nào. Phật đã dạy chúng ta: Không nên sát sinh. Theo cảm thọ của tôi mà nói, là bao gồm cả hai loại sinh mệnh: Hữu tình lẫn Vô tình! Tôi tôn trọng những sinh mệnh đã có lâu đời hơn chúng ta, tôi cũng cảm nhận được sự thống khổ từ cây, đá phát ra.
Bất kể mẹ tôi ăn thứ gì, bà đều hết sức quý tiếc và lưu tâm bảo tồn hạt giống, luôn tận dụng hết sức để tìm cơ hội tạo sinh mệnh giúp cho chúng.
Sinh mệnh do nguyên tố hợp thành, sản sinh năng lượng, cũng tuần hoàn chuyển hóa trong hư không vũ trụ. Năng lượng cùng vật chất đồng bất diệt giống nhau, chỉ là chuyển vị thôi. Theo nhãn quang hạn hẹp của ta thì cho rằng chỉ địa cầu này mới có sinh mệnh và nghĩ là chỉ có hô hấp hit thở không khí thì mới có mạng sống. Thực ra thì tại địa cầu riêng lẻ này mà nói, đã có rất nhiều sinh mệnh lại hô hấp thán khí carbon, mà có rất nhiều thực vật cũng vậy.
Chúng ta nghĩ rằng trong vũ trụ hư không nếu thiếu khí oxy thì không có sinh mệnh ư? Các nhà Thiên văn học Anh Quốc gần đây đã tuyên bố: Họ phát hiện các tinh tú trong vũ trụ đa số đều chứa khí hydro và carbon, hợp thành sinh mệnh hữu cơ A-mi-nô; NH2. Chúng đều có cảm giác, động thái.
Các sinh mệnh có đầy trong vũ trụ, thì sao có thể bảo là sinh mệnh chỉ hạn cuộc nơi địa cầu này được chứ? Xác thân chúng ta tuy chẳng thể lìa không khí và thực vật để sinh tồn, nhưng là loại “năng” ít chịu hạn chế không gian, “năng” là một phần của mạng sống chúng ta, tri giác là một loại “năng”.
Bất kể chúng ta phàm phu tục tử, tầm thường như thế nào, trong cơ thể mọi người đều sản sinh “nhiệt” và “năng”. Mới hôm qua tôi còn nghe một nhà khoa học Canada thuyết giảng trên truyền hình rằng: Mỗi người chúng ta đều có (Micro-Wave) phóng xạ vi ba, phân lượng có lớn nhỏ, một số người tính trung bình là một phần ngàn watt.
Có một nhà khoa học Liên Xô đã công bố qua phim ảnh như sau: Dùng hồng nội tuyến chụp ảnh ngón tay người, thấy phún ra điện quang nửa thốn.
Phật tử Hà Quân ở Vancouver hai tay phóng ra tĩnh điện, trị bệnh cho Phật tử, khiến các học giả tại đại học Harvard Mỹ quốc đã tìm đến chụp hình tình huống thực tế kia. Những loại “năng” này đều có thể truyền, phát ra, hơn nữa năng lượng không diệt, chỉ là chuyển vị thôi! Có thể tập trung hoặc phân tán, ở trong vũ trụ xoay vần không ngừng, sinh sinh bất tuyệt!
Căn cứ vào những hiểu biết thô thiển này, tôi rất dễ dàng tiếp thu giải thích của nữ tiến sĩ, bà nói “sinh mệnh chết rồi”, chẳng qua là ta tuyên bố theo nghĩa hạn hẹp, nhưng thực sự thì sinh mệnh đang chuyển vị hoặc đang thay đổi cải tổ lại. Nguyên tố của sinh mệnh trở về tự nhiên, nhưng “năng” của sinh mệnh lại tiến vào một hình thái khác. Tri giác cùng tính cách cũng tùy theo “năng” mà không diệt. Bà đưa ra rất nhiều thí dụ, kể rõ rằng: Nếu như không dành 20 năm nghiên cứu để phát hiện cho đến cùng, thì lẽ nào tôi dám hi sinh danh dự học thuật quốc tế của mình để tùy tiện tuyên bố rằng “Sinh mệnh vẫn tồn tại sau khi chết!”…
Bà nói rằng “tri” và “năng” có thể rời thể xác, gọi là linh hồn xuất khiếu. Rất nhiều người đã có trạng thái “tợ mộng mà không phải mộng”, khi nhìn thấy mình thoát ra khỏi nhục thể bay đi hay trôi lơ lửng trên ngọn cây, phiêu du nơi khu vực lạ… Cho đến một ngày, bỗng nhiên họ nhớ lại kinh nghiệm từng trải qua. Đây chính là hiện tượng linh hồn thoát ly thể xác.
Bà nói: Lúc sinh thời hồn vẫn có thể lìa xác, và khi nhục thể chết thì đương nhiên hồn càng “năng” ly thể.
Các Luận giả nói: Do tế bào não toàn nương vào không khí để sinh tồn, nên khi nhục thể tử vong thì sự hô hấp cũng đình chỉ, vì khí oxy ngừng cung ứng, xem như chưa đến năm phút, tế bào não đã tử vong. Vậy “năng lực” ở đâu?
Luận giả nói không sai, thế nhưng họ không hiểu một điểm: Tế bào não đã sớm sản sinh năng lực không thể tiêu diệt, “năng” chỉ “chuyển vị” rời đi, phiêu lãng trong vũ trụ. Cho nên nhà Phật khuyên người ta không nên khóc lóc trong lúc thân quyến hấp hối, làm kinh động họ… điều này quả rất có lý! Vì vậy mà Phật khuyên mọi người nên động viên, trấn tĩnh kẻ hấp hối; giúp họ an định tâm trí bằng cách tụng kinh, nhằm hỗ trợ họ tập trung, định tĩnh não lực để thoát ly thể xác trong giờ phút tối hậu. Nếu thân nhân cứ khóc gào thống khổ, (vi phạm các điều cấm kị) để di động, quấy nhiễu, làm cho não lực người sắp chết vô phương tập trung, khiến “năng” bị phân tán. Tuy năng không bị tiêu diệt, nhưng người thân đã vô tình khiến kẻ lâm chung bị mất đi tri giác sung mãn, trong phút giây họ phải rời xác ra đi phiêu lãng (du ly), do bất tri nên họ có thể vì bị mê muội mà gá vào thân xác súc sinh, đầu thai chỗ xấu.
Nữ tiến sĩ bày tỏ: Xin mọi người chớ dùng sự bi thống gây kinh động, quấy nhiễu thân hữu trong giờ phút hấp hối, hầu có thể giúp họ nhẹ nhàng thoát ly thân xác.
Bà kể trong lúc bà phỏng vấn và tìm hiểu mấy ngàn câu chuyện có thực, đã thu được kết quả: Những ai qua đời trong trạng thái bình tĩnh đều có cảm giác nhìn thấy ánh sáng kim sắc nhạt. Thế nhưng những người qua đời trong trạng huống bất an, ắt sẽ nhìn thấy hắc ám!
Cũng có một người đồng đến diễn giảng cùng bà, đó là một Tiến sĩ hóa học từng trải qua kinh nghiệm “Chết rồi hồi sinh”, (tên ông là gì hiện thời tôi không nhớ). Ông này chết bảy ngày rồi sống lại trong hòm, may mà chưa bị đem chôn, nhờ vậy mà ông gõ quan tài, lên tiếng cầu cứu… và được nhân viên nhà tẩn liệm cứu ra. Tin tức này đã gây chấn động toàn nước Mỹ. Ông kể rằng: Lúc tôi chết rồi, nhìn thấy một làn kim sắc mỏng mờ, tôi rất mừng nên bay đến đó…
Ông cũng tường thuật lại những kinh nghiệm mình trải qua sau khi chết như đã nhìn thấy nhiều cảnh tượng kỳ lạ, quái dị như: Núi băng, lửa cháy… và đao sơn, rất giống cảnh địa ngục mà các kinh Phật thường thuyết.
Giới y học xem chuyện của ông là kỳ tích, một số Linh mục thì cho đây là lừa gạt và phủ nhận sự thực này!
Ông kể sau khi hồi dương, sống lại rồi, hiện tại đối với Phật giáo cảm thấy rất hứng thú muốn nghiên cứu tìm hiểu, tâm trạng này trước đây ông không hề có. Vì lý do này mà ông đã từ bỏ tôn giáo cố hữu của mình.
Đương nhiên tôi chưa rảnh để truy tìm đào sâu tận ngọn nguồn câu chuyện của ông, nhưng hiện giờ ông đang giữ chức vị rất cao: Bản thân là Giáo sư đại học, luôn đứng lớp diễn giảng, ông không ham tiền, không cầu danh lợi, cũng chẳng có ý truyền giáo, ông chỉ muốn báo cáo những gì mình đã đích thân trải qua và muốn thúc đẩy, hỗ trợ xã hội nghiên cứu về cuộc sống, tôi thấy ông rất thành thực, không có bất kỳ sự gian dối nào.
Gần đây Nữ tiến sĩ Elisabeth Kübler Ross cùng hơn 70 học giả là các nhân sĩ trong giới học thuật nổi danh đến từ các nước, họ là những Bác sĩ, các nhà Tâm lý học, Hóa học, Các nhà Vật lí, Điện tử, Quang học v.v… đồng tổ chức hội thảo tại New York, nơi trường đại học… ( hình như là đại học Colombia tôi nhớ không rõ!).
Mọi người thảo luận về linh hồn, cũng chính là “tri” và “năng” dưới sự giám sát của hơn bảy mươi học giả có tiếng tăm.
Sau khi nữ Tiến sĩ được kiểm tra nghiêm nhặt toàn thân xong, thì bà tiến vào một phòng thí nghiệm thủy tinh đóng kín, trong đây không có bất kỳ dụng cụ máy móc nào, chỉ đặt một cái ghế dài cho bà nằm nghỉ. Lúc này có hơn 70 học giả vây quanh bên ngoài phòng pha lê quan sát…
Dưới ánh đèn sáng, nữ Tiến sĩ bắt đầu tĩnh tọa nhắm mắt, không lâu bà mở mắt, ra hiệu với người bên ngoài yêu cầu đàm thoại. Bà nói với hơn 70 học giả đang mục kích rằng: Vừa rồi bà đã hồn lìa khỏi xác, đi đến căn hộ của nữ sĩ A ở San Francisco, thấy cô ta đang làm việc nhà, bà mô tả các loại thức ăn nằm trên bàn và món gì đang nấu trên bếp. Bà kể tường tận tỉ mỉ những gì mình trông thấy…
Lúc này, ngay lập tức cô B là bạn thân của nữ sĩ A hiện đang có mặt bên ngoài phòng thí nghiệm, vốn không hề quen biết gì với nữ Tiến sĩ, cô B liền gọi điện về hỏi thăm cô A để kiểm chứng, và sau đó xác nhận là nữ tiến sĩ đã mô tả hoàn toàn đúng thật, không sai mảy may.
Nữ tiến sĩ nói mình là phàm phu, tuyệt không có công phu tu gì, nhưng bà vẫn có thể phóng thích “năng lực” ra khỏi thể xác xa hơn 5 cây số, thì huống chi những người có công phu tu cao…
Bà nói rằng ai cũng có năng lực bẩm sinh này, nhưng chẳng qua do họ bị vật dục và nhục dục che mờ tâm trí, làm ngăn ngại, chưa kể họ còn bị nhiều ưu tư não phiền phong bế.
Lúc này Ký giả Bancan của đài truyền hình Canada đã hỏi bà:
– Thưa Tiến sĩ, bà thực sự đích thân đến San Francisco ư?
– Không phải thân tôi đi – Mà là “năng” đến đó.
– Thế “Năng” là cái gì?
– Giống như sóng vi ba vậy, năng có thể rời khỏi nhục thể đến bất cứ nơi nào trong vũ trụ.
Ký giả bán tín bán nghi, hỏi:
– Vậy bà có thể điều khiển “năng” của mình phi du đến bất kỳ chỗ nào ư?
– Có thể, nhưng mà năng lực của tôi còn rất yếu kém, chưa thể hoàn toàn tùy theo tâm muốn…
– Vậy lúc bà đến thăm căn hộ của nữ sĩ A, bà có làm xê dịch vật gì không?
– Tôi chưa sở hữu được khả năng đó – Bà đáp. Nhưng tôi biết có một số người đã luyện tập được khả năng di chuyển vật.
Là chuyện thần thoại ư? Là lời nói dối ư? Hơn bảy mươi nhà học giả quốc tế đồng làm chứng đây không phải lời dối trá!
Riêng tôi thì tin sâu không nghi, bởi vì tôi cũng tình cờ thần du, năng du. Tôi từng thần du đến Diệu Pháp Tự là chỗ mà xác thân mình chưa từng đến đó bao giờ.
Tôi đã viết một bài tự thuật về chuyện này, liên quan đến sự linh dị của tiểu tượng Quan Âm nơi Diệu Pháp Tự.
Nhưng vị biên tập tạp chí Nội Minh nói rằng: Ông sợ xảy ra tị hiềm vì tuyên dương Diệu Pháp Tự, nên không cho đăng bài này.
Tôi cũng từng thần du trong vũ trụ thái hư, nhìn thấy sự tối tăm vô biên tràn ngập dãy Ngân hà với vũ trụ ngàn sao khác, tôi thấy ngoài vũ trụ cũng có vô tận vũ trụ, vô tận tinh tú, vô số sinh mệnh, thế nhưng tôi lại không biết rõ những việc vụn vặt chung quanh mình, vô phương xử lý sinh hoạt của mình, đêm ngày phải vì cuộc sống, vì hoàn cảnh mà bôn ba phiền não, ngu dại biết bao!
(Ngày 28 tháng 10 báo Tân Văn số 775 phát hành từ Toronto ghi: Linh hồn là có thực, quỷ thần là có thực. Hồn phụ thể, hồn ly thể là có thực!)
Giáo sư Xã hội học của đại học U of
Guelph là tiến sĩ Dr. Ian Currie đã xuất bản tác phẩm (You Cannot Die) “Bạn không hề chết”, nêu lên các chuyện ông thu thập nghiên cứu hơn mười năm, chứng thực là có linh hồn.
Ông Currie là học giả, là tiến sĩ trứ danh tại đại học nổi tiếng Canada, mới đầu ông không hề tin có linh hồn, mười năm trước chỉ vì hiếu kỳ mà ông điều tra thu thập chứng cứ cùng khắp, nhằm phản đối thuyết chứng minh linh hồn không hợp khoa học, nào ngờ sau khi thu thập càng rộng, ông hiểu rõ càng sâu, cuối cùng thì công việc này đã biến ông thành kẻ ủng hộ học thuyết linh hồn.
Trên đài truyền hình Canada, tiến sĩ Curie cho biết cuốn sách mới của ông đưa ra bốn kết luận:
1. Người chết rồi thực có một loại hình thái sinh mệnh khác (tạm gọi là linh hồn).
2. Linh hồn sau khi chết, tiếp tục tồn tại trong vũ trụ không gian, trình độ tri giác cá biệt cùng năng lực sáng tạo mỗi mỗi không đồng.
3. Linh hồn sau khi chết chính xác có tái sinh và luân hồi.
4. Luân hồi không ngừng diễn tiến, nhưng không do ngẫu nhiên, mà tùy thuộc nhân quả, mỗi lần luân hồi đều có liên quan đến kiếp trước và sau đó.
Tiến sĩ Curie là một nhà nghiên cứu khoa học, trước đây ông theo một tôn giáo nọ, nhưng hiện nay đã thay đổi tư tưởng tôn giáo, ông vẫn chưa nói là có hướng theo Phật giáo hay không, nhưng rất hiển nhiên những phát hiện của ông tuy khác đường mà vô tình lại về chung hướng cùng Phật giáo, khách quan gián tiếp chứng minh chân tri (thấy biết chân thực) của Phật đã thuyết hơn mấy ngàn năm nay.
Năm 40 tuổi, ông đã tung ra luận thuyết luân hồi này rồi, tất nhiên ông đã gây nên chấn động dậy sóng và bị nhiều Linh mục Canada phê bình đả kích, phản đối. Tôi nghĩ mình không cần bàn nhiều về chuyện này.
Trên đài truyền hình, ông Curie tường thuật:
Mười năm trước ông qua Detroit, Michigan nước Mỹ, phỏng vấn Nữ giáo sư tiến sĩ Helen Wambach (đương thời bà là chủ nhiệm Sở y tế và Viện nghiên cứu Đại học Tâm lý học). Tiến sĩ Wambach lúc đó đang là chuyên gia nghiên cứu kiếp trước danh vang cái thế, bà dùng nhãn quang tâm lý học để nghiên cứu mấy ngàn nhân sĩ có khả năng biết tiền kiếp.
Ông Currie nói: Dưới sự hướng dẫn hỗ trợ của tiến sĩ Wambach, ông tập trung tinh thần truy tìm về kiếp trước và “thấy” mình nằm trong một lều vải nơi sa mạc, phía sau ngôi biệt thự.
Ông kể: Lúc đó Tiến sĩ Wambach ra lịnh cho tôi nhìn vào hai chân mình, tôi vâng lời và cúi đầu nhìn xuống, thì thấy đôi chân gầy nhỏ: chính xác là đôi chân của phụ nữ! Hai tay tôi sờ vào thân thể thì phát hiện mình là một cô gái xinh đẹp tuổi khoảng 18, trên đầu có mái tóc óng mượt mỹ miều, xỏa dài đến eo.
Và ông phát hiện ra kiếp trước mình mang hình hài một thiếu nữ Pháp, là tình nương của một sĩ quan thời La Mã cổ trước công nguyên. Sau đó ông nhìn sâu thêm vào kiếp trước đó nữa, thì thấy mình là một tên lính vào thời thế chiến đệ nhất, ông bị địch đâm chết tại chiến trường, ông còn có cảm giác mũi nhọn của lưỡi gươm đâm vào dạ dày rất đau, ông nhìn thấy thi thể mình ngã xuống, ông thấy mình vùng vẫy vô cùng khó khăn… mới có thể thoát ra khỏi thân xác.
Sau khi ông trở về Toronto, dưới sự giúp đỡ của một vị học giả tâm linh trứ danh, ông lần lượt truy tìm về kiếp trước và nhớ được hơn sáu kiếp đã qua của mình. Tất cả việc quá khứ dù lớn hay nhỏ, không gì mà không lưu, ông đã ghi lại từng câu chuyện của mình. Một số nhà tâm lý học chỉ trích gắt gao, còn nói ông là hạng phân liệt nhân cách, thần kinh bất thường… Trước những gièm chê báng bổ đó, ông chỉ cười mà thôi.
Ông nói mình biết rõ sự thật đến mức không còn gì có thể thật hơn nữa! Từ đấy ông càng nỗ lực truy tìm bằng chứng và thu thập được hơn ngàn chuyện tái sinh luân hồi có thực, tôi cũng rất mong chờ để xem cuốn sách mới này.
Tiến sĩ Curie cam tâm chấp nhận mọi điều khó kham khi bị giới học thuật cùng xã hội phê bình đả kích, phản đối, báng bổ… Ông vẫn điềm tĩnh công bố, báo cáo những gì mình đã nghiên cứu và trải qua, tôi tin ông hoàn toàn không nói dối.
Ông Currie nói: Luân hồi có chuyển thế làm người, có dầu thai làm vật, tùy theo nghiệp lực thiện ác mỗi người đã tạo.
Ông nói: Phần đông người ta khi chuyển sinh đều quên ký ức bản lai, nhưng vẫn có nhiều người sinh ra vẫn còn nhớ tiền thân và các sự việc đã trải qua. Có kẻ chuyển sinh thân người, có khi mang giới tính khác hẳn kiếp trước, có đời làm nữ, có đời làm nam!
Ông nói: Việc vong quỷ gá vào thể xác cũng là chuyện trăm phần trăm có thật.
Ông kể rằng: Tại một Đại học Canada nọ, có một nam sinh viên đã thuật lại cho ông nghe: Anh ta bị một nữ quỷ dựa xác, ép anh đi tìm nam tử, phát sinh hành vi “tình dục đồng tính”, con quỷ cái này dựa xác anh cảm thấy rất hài lòng, song bản thân anh sinh viên nọ thì cảm thấy rất nhục nhã, nhưng lại vô phương thoát khỏi con quỷ cái kia.
Nhưng khổ cái là khi nghe anh sinh viên này kể ra câu chuyện của mình, thì các nhà tinh thần học lại phê phán gắt gao, bảo là: Anh bị chứng phân liệt nhân cách.
Thực tế thì tinh thần anh sinh viên này rất bình thường, còn có chỉ số IQ cực cao. Chuyện này chỉ có trong lòng anh là hiểu rõ nhất.
Ông Currie nói: Chúng tôi thường gặp vong quỷ, đa phần liên hệ tới những vong không nhận ra mình đã chết. Hoặc là những vong không cam tâm chịu nhận là mình chết. Hay do vì còn quá lưu luyến, quá nuối tiếc mà chưa buông bỏ được thân nhân. Có nhiều vong vẫn còn đeo bám tại nhân gian, sống vất vưởng bơ vơ, hoàn toàn không biết rõ “hậu nhục thể” vẫn có cuộc sống mang hình thái sinh mệnh khác… Cũng có một số vong hồn trong lòng hiểu rõ minh bạch, còn quay lại an ủi thân nhân, khuyên người đừng sợ hãi khi xác thân tử vong.
Một Bác sĩ khác tên Stevenson, ông kể đã có dịp tiếp xúc với một cô gái Miến Điện khi sinh ra bàn tay mặt bị cụt cả năm ngón.
Cô gái này đã nhớ rõ tiền kiếp mình: “lúc ấy cháu là một người đàn ông đã gây đau khổ nhiều cho vợ khiến người vợ phải tự vẫn. Mẹ vợ căm thù nên đã thuê một kẻ giết mướn đâm chết người con rể và chặt đứt lìa năm ngón tay y. Hình ảnh 5 ngón tay bị đứt ra xem như là dấu tích luân hồi. Khi hỏi cảm tưởng thì cô gái cho biết là cô không căm giận người mẹ vợ ấy, trái lại cô muốn sống một cuộc đời hiền lương trọn kiếp này để chuộc những tội lỗi đã gây ra từ kiếp trước.
Trở lại hồi đầu, nữ tiến sĩ Kubler-Ross đã kể ra một câu chuyện có thực như sau: Có một cô gái Ấn sống ở Mỹ, bị xe tông trên đường cao tốc, lúc lâm chung may được một nam thanh niên xa lạ chở đi cấp cứu và cô đã ký thác di ngôn: Nhờ anh này mang lời trăn trối của mình chuyển đến mẫu thân cô giùm. Thiếu nữ nói:
– Xin anh khuyên mẹ tôi đừng bi ai, sầu khổ… bởi vì phụ thân tôi đã đến tương hội cùng tôi!
Anh thanh niên kia lái xe đi ngàn dặm để tìm cho ra địa chỉ nhà mẫu thân cô gái bất hạnh và chuyển giao lời trăn trối. Lúc này người mẹ vui mừng bảo anh ta rằng: Phụ thân con bé đã chết rồi. Tính theo chứng cứ thời gian, thì cha cô gái này đã tắt thở trước con gái họ khoảng một tiếng.
Nữ tiến sĩ nói, quả thực có kỳ nhân, kỳ sự… việc này đủ chứng minh linh hồn con người thực sự tồn tại và có thể lìa khỏi thể xác.
Ngôi sao điện ảnh trứ danh Glenn Ford gần đây đã thoái hưu, ở tuổi già, ông công bố bản thân mình có thể nhớ sáu tiền kiếp đã qua.
Có một kiếp vào năm 1.800, khi đó ông làm chủ Nông trường, đến ba mươi tuổi thì bị người bắn chết. Kiếp kế nữa thuộc năm 1840, ông là nghệ sĩ Piano, bị bệnh phổi chết đi lúc 38 tuổi. Kiếp khác nữa ông là sĩ quan Ngự lâm quân nước Pháp. Tới năm 24 tuổi vì tranh giành mỹ nữ nên đã quyết đấu cùng người và bị giết chết. Kiếp khác nữa ông là thủy thủ Anh quốc, chết năm 1666. Kiếp kế nữa thuộc thế kỷ thứ ba, lúc đó ông là tín đồ Cơ đốc giáo thời La Mã cổ đại bị ném vào đấu trường cho sư tử ăn…
Nữ minh tinh Also Feierdina năm ngoái được giải Kim Tượng trên đài truyền hình, đã công khai thừa nhận mình nhớ được kiếp trước. Tiền thân cô là nam tử, một nhà soạn kịch vào thế kỷ 17, do vậy mà đến 32 tuổi thì cô đột nhiên có thể viết kịch bản bằng tiếng Anh cổ.
Những danh nhân này đều đã công thành danh toại, họ không cần phải diễn trò huyền hoặc làm chi. Họ chấp nhận bị búa rìu dư luận gièm chê, báng bổ…. và dám đem danh dự bản thân bảo đảm, dám công khai tuyên bố là mình nhớ đời trước. Tôi tin là họ rất chân thật.
Những chuyện lẻ tẻ vụn vặt có rất nhiều, chẳng qua tôi chỉ muốn cung cấp một số bằng chứng cụ thể, chia sẻ cho mọi người cùng hiểu mà thôi.