TÂY VỰC KÝ
Thích Như Điển
Nguyễn Minh Tiến
Việt dịch và chú giải
QUYỂN 10 – (17 nước)
- Nước Y-lan-noa-bát-phạt-đa
- Nước Chiêm-ba
- Nước Yết-chu-ốt-kỳ-la
- Nước Bôn-na-phạt-đàn-na
- Nước Ca-ma-lâu-ba
- Nước Tam-ma-đát-trá
- Nước Đam-ma-lật-để
- Nước Yết-la-noa-tô-phạt-lạt-na
- Nước Ô-đồ
- Nước Cung-ngự-đà
- Nước Yết-lăng-già
- Nước Kiêu-tát-la
- Nước Án-đạt-la
- Nước Đà-na-yết-trách-ca
- Nước Châu-lợi-da
- Nước Đạt-la-tỳ-đồ
- Nước Mạt-la-củ-trá
1. Nước Y-lan-noa-bát-phạt-đa
Nước Y-lan-noa-bát-phạt-đa chu vi khoảng 980 km, phía bắc kinh thành giáp với sông Căng-già, chu vi khoảng 6.5 km. Nơi đây đồng lúa phì nhiêu, cây trái tốt tươi, khí hậu ôn hòa dễ chịu, phong tục thuần hậu chân chất.
Trong nước có mười mấy ngôi chùa với hơn 4.000 tăng sĩ, đa số tu tập theo phái Chính lượng thuộc Tiểu thừa. Có hơn 20 đền thờ Phạm thiên, các phái ngoại đạo cùng chung sống lẫn lộn. Gần đây có vị vua ở nước bên cạnh mang quân đánh phế vua nước này, rồi lấy đất kinh thành dâng cúng chư tăng, nhân đó xây dựng trong kinh thành hai ngôi chùa, mỗi chùa có gần 1.000 tăng sĩ, tất cả đều tu học theo phái Thuyết nhất thiết hữu thuộc Tiểu thừa.
Kế bên kinh thành có núi Y-lan-noa nhìn ra sông Căng-già. Trên núi thường có nhiều khói mây bao phủ, che khuất cả mặt trời mặt trăng. Từ xưa đến nay, các vị tiên nhân hiền thánh nối tiếp nhau chọn nơi đây làm chỗ dưỡng thần tu luyện, chưa từng gián đoạn. Hiện nay còn đền thờ Phạm thiên ở nơi đây, vẫn duy trì được những nghi quỹ thuở trước. Ngày xưa đức Như Lai cũng từng đến nơi này, vì hàng trời người mà rộng thuyết diệu pháp.
Phía nam kinh thành có một ngọn tháp, là nơi đức Như Lai đã từng thuyết pháp trong 3 tháng. Bên cạnh còn có di tích nơi kinh hành và ngồi thiền của ba vị Phật quá khứ.
Cách đó không xa về phía tây có một ngọn tháp, là nơi sinh của tỳ-kheo Thất-lũ-đa-tần-thiết-để-câu-chi.
Thuở xưa trong thành này có một vị trưởng giả cực kỳ giàu có, nhưng tuổi đã xế chiều vẫn chưa có con nối dõi. [Đến khi vợ ông vừa sinh con,] có người vội chạy đến báo tin, liền được ông thưởng cho 200 ức tiền vàng. Nhân đó đứa con được đặt tên là Thất-lũ-đa-tần-thiết-để-câu-chi, có nghĩa là “nghe tin [liền thưởng] 200 ức”. Cậu bé này từ thuở nhỏ đến lúc trưởng thành chưa từng phải đặt chân xuống đất, cho nên lòng bàn chân có lông dài ra đến hơn 30 cm, mềm mại tươi sáng, có màu như vàng ròng.
Cậu bé được nuông chiều nuôi dưỡng bằng đủ loại món ngon vật lạ. Từ ngôi nhà cậu ở lên đến tận Tuyết sơn, hai bên đường đều có các trạm truyền tin với khoảng cách đủ thông tin cho nhau, người phục vụ qua lại đầy đường, mỗi khi cậu bé cần đến một món thuốc quý [trên Tuyết sơn] thì yêu cầu lập tức được truyền đi để thực hiện, nên từ lúc yêu cầu cho đến khi nhận được chưa từng trễ nãi. Sự giàu có của ông trưởng giả này đến mức như thế.
Đức Thế Tôn biết căn lành của Văn Nhị Bá Ức đã sắp thành tựu, liền bảo ngài Một-đặc-già-la tử đến để hóa độ. Ngài Một-đặc-già-la tử đến trước cửa nhà ông trưởng giả nhưng không cách gì báo cho ông biết được. Nhân ông trưởng giả này thờ thần mặt trời, mỗi buổi sáng đều quay về hướng đông lễ bái, Tôn giả Một-đặc-già-la tử liền vận sức thần thông hiện ra từ giữa mặt trời rồi hạ xuống đứng ngay trước mặt ông trưởng giả, khiến ông ngỡ rằng đây là thần mặt trời, liền mang cơm nấu bằng loại gạo quý cực thơm ra dâng cúng. Tôn giả nhận cơm rồi quay về. Mùi thơm của cơm này tỏa ra khắp thành Vương Xá. Vua Tần-tỳ-sa-la ngửi thấy mùi thơm này hết sức ngạc nhiên, liền ra lệnh cho người truy tìm nguồn gốc, biết được đó là loại cơm thơm do Tôn giả Một-đặc-già-la tử khất thực từ nhà ông trưởng giả kia mang về tinh xá Trúc Lâm, cũng nhân đó biết được chuyện lạ về Văn Nhị Bá Ức có lông bàn chân dài và đẹp. Vua lập tức sai sứ giả đến nhà triệu vào cung [để xem].
Ông trưởng giả nhận lệnh vua triệu Văn Nhị Bá Ức vào cung, liền lo lắng suy nghĩ tìm cách để con đi cho an toàn. [Ông nghĩ], nếu chèo thuyền đi thì có nguy cơ gặp sóng to gió lớn, nếu ngồi xe hoặc cưỡi voi đi cũng có nguy cơ voi ngựa quỵ té, vấp ngã giữa đường. [Cuối cùng, ông quyết định] đào một đường kênh nhỏ từ nhà đến tận thành Vương Xá, đổ đầy hạt cải xuống lòng kênh, rồi [cha con cùng] ngồi trên một chiếc thuyền, sai người trên bờ dùng dây kéo thuyền trượt đi trên đó.
Đến thành Vương Xá rồi, trước hết ông liền [đưa con]đến đảnh lễ đức Thế Tôn. Đức Thế Tôn bảo Văn Nhị Bá Ức rằng: “Vua Tần-tỳ-sa-la cho triệu con vào cung, chẳng qua chỉ là muốn xem lông bàn chân của con. Khi vua bảo muốn xem lông bàn chân, con nên ngồi kiết già ngửa hai bàn chân lên là được. Nếu con đứng mà đưa bàn chân về phía vua thì phạm tội thất lễ, ắt sẽ bị xử tội chết.”
Văn Nhị Bá Ức ghi nhớ lời Phật dạy rồi liền vào hoàng cung yết kiến đức vua. [Quả nhiên,] đức vua bảo muốn xem lông bàn chân, cậu liền ngồi xuống theo tư thế kiết già, hai lòng bàn chân ngửa lên. Vua thấy vậy khen là người biết lễ nghi, hết sức yêu thương quý trọng, cho ra về. Văn Nhị Bá Ức liền quay lại lễ Phật. Khi ấy, đức Như Lai liền thuyết pháp, răn dạy, Văn Nhị Bá Ức nghe pháp tỉnh ngộ, liền xin xuất gia.
Từ đó, Văn Nhị Bá Ức rất siêng năng tu tập, muốn cầu chứng quả, kinh hành không ngừng nghỉ đến nỗi chảy máu dưới lòng bàn chân. Đức Thế Tôn liền hỏi: “Này con, lúc còn ở nhà con có biết đàn không?” Văn Nhị Bá Ức thưa: “Dạ biết.”
Đức Phật dạy: “Nếu đã biết đàn thì ta sẽ cho con một thí dụ. Dây đàn căng quá thì thanh âm không hòa hợp, nếu như chùng quá thì nghe không hay, cho nên phải không căng không chùng thì âm thanh nghe mới hòa hợp êm tai. Đối với người tu hành cũng vậy. Căng thẳng quá thì thân tâm mệt mỏi, còn trì trệ quá thì tâm chí buông thả.”
Văn Nhị Bá Ức vâng lời Phật dạy, cố gắng tu sửa y theo như vậy, không bao lâu liền chứng thánh quả.
Biên giới phía tây nước này là sông Căng-già, qua sông đi về hướng nam đến một ngọn núi nằm lẻ loi, với hai đỉnh núi vút cao chót vót. Thuở xưa đức Phật đã từng an cư ở đây ba tháng, hàng phục quỷ dược-xoa Bạc-câu-la (Bakula). Dưới sườn núi phía đông nam có một tảng đá lớn, trên mặt đá vẫn còn dấu tích nơi đức Phật ngồi, lún sâu vào đá khoảng hơn 3.5 cm, chiều dài 173 cm, chiều ngang 70 cm, trên đó có xây lên một ngọn tháp. Kế bên đó về phía nam trên mặt đá có dấu tích nơi đức Phật đặt bình quấn-trĩ-ca, dấu hằn vào đá khoảng 3.5 cm, có hoa văn hình hoa sen tám cánh.
Từ chỗ có dấu tích đức Phật ngồi, về phía nam không xa lại có dấu chân quỷ dược-xoa Bạc-câu-la, chiều dài khoảng 50-55cm, bề ngang khoảng 23-27 cm, lún sâu vào đá khoảng 6 cm. Phía sau dấu chân quỷ dược-xoa có một tượng Phật ngồi bằng đá cao khoảng 2-2.3 mét. Tiếp đến về phía tây không xa có di tích nơi Phật kinh hành. Trên đỉnh núi có hang động trước đây quỷ dược-xoa cư ngụ. Tiếp theo phía bắc có dấu chân Phật, bề dài khoảng 60 cm, bề ngang khoảng hơn 20 cm, lún sâu vào đá khoảng 10 cm, phía trên có xây dựng một ngọn tháp. Thuở xưa đức Như Lai hàng phục dược-xoa, dạy quỷ không được giết người ăn thịt. Dược-xoa cung kính vâng lời Phật dạy, sau được sinh về cõi trời.
Từ nơi đây đi về phía tây có khoảng sáu, bảy suối nước nóng, nước suối rất nóng. Biên giới phía nam của nước này là một vùng núi cao rừng sâu, trong đó có rất nhiều voi rừng, thân hình hết sức to lớn.
Từ nơi đây xuôi theo bờ phía nam của sông Căng-già, đi về hướng đông hơn 98 km thì đến nước Chiêm-ba thuộc miền Trung Ấn.
2. Nước Chiêm-ba
Nước Chiêm-ba chu vi khoảng 1.300 km. Kinh thành phía bắc giáp với sông Căng-già, chu vi khoảng 13 km. Đất đai thấp trũng, lúa má tươi tốt, khí hậu ấm nóng, phong tục thuần hậu chân chất.
Trong nước có mấy chục ngôi chùa, đa phần đều nghiêng đổ, hư hoại. Tăng chúng chừng hơn 200 vị, đều tu học theo giáo pháp Tiểu thừa. Có hơn 20 đền thờ Phạm thiên, các phái ngoại đạo sống chung lẫn lộn.
Tường thành xây bằng gạch cao lên hơn 6-7 mét, phần nền móng cũng cao rộng vững chãi, dùng để phòng ngự chống lại quân địch.
Vào thuở kiếp sơ, thế giới mới hình thành, con người cùng muôn vật sống chung, cư trú nơi hang hốc hoang dã, chưa biết đến nhà cửa phòng ốc. Sau đó có một vị thiên nữ giáng trần sống giữa loài người, dạo chơi đến sông Căng-già, xuống tắm dưới dòng nước, tự thấy đam mê thân thể của chính mình, nhân đó liền có thai rồi sinh ra bốn người con, liền phân chia ra cai trị bốn vùng ở châu Thiệm-bộ, mỗi người đều xây dựng kinh thành, xóm ấp, xác lập biên giới. Nơi đây là kinh thành của một trong bốn người con ấy, là kinh thành đầu tiên trong tất cả các thành ở châu Thiệm-bộ.
Phía đông kinh thành khoảng 45-50 km, về phía nam sông Căng-già có một chỗ nước bao quanh hòn đảo nhỏ, trên đảo có núi cao, vách núi hiểm trở, có một đền thờ Phạm thiên, nhiều sự linh ứng. [Nơi đây, người ta] đục vách đá làm thành phòng ốc, dẫn nước làm thành hồ, có nhiều loại hoa thơm cây lạ, đá tảng to lớn, đỉnh núi cao vời, là nơi cư ngụ của những người nhân hậu trí tuệ, ngắm xem phong cảnh quên cả chuyện quay về.
Miền nam nước này là một vùng rừng núi, trong đó voi rừng, thú dữ sống thành bầy đàn, [mỗi bầy có đến] hơn ngàn con.
Từ nơi đây đi về hướng đông hơn 130 km thì đến nước Yết-chu-ốt-kỳ-la thuộc miền Trung Ấn.
3. Nước Yết-chu-ốt-kỳ-la
Nước Yết-chu-ốt-kỳ-la chu vi khoảng 652 km, đất đai thấp trũng, trồng lúa rất tốt, khí hậu ấm áp, phong tục hòa thuận, tôn trọng hiền tài, khuyến khích xem trọng việc học các tài nghề.
Trong nước có sáu, bảy ngôi chùa, tăng chúng hơn 300 vị. Có 10 đền thờ Phạm thiên, các phái ngoại đạo sống lẫn lộn. Từ mấy trăm năm nay, dòng vua nước này đã không có người nối dõi, phải thần thuộc nước kế bên, cho nên thành quách đều bỏ hoang phế, đa phần dân chúng sống nơi thôn ấp. Vì vậy, khi vua Giới Nhật tuần du miền Đông Ấn đến nơi đây cần hành cung để xử lý việc nước liền cho xây dựng tạm, dùng cỏ tranh lợp mái, đến lúc rời đi thì phóng hỏa thiêu rụi.
Miền nam nước này có nhiều voi rừng. Miền bắc cách sông Căng-già không xa, có một đài lớn rất cao được xây bằng đá với gạch, nền móng cao rộng, chạm trỗ, điêu khắc cực kỳ tinh xảo. Chung quanh đài bốn mặt đều chạm trỗ nhiều thánh tượng, trong đó tượng Phật và chư thiên được khắc họa phân biệt rất rõ ràng.
Từ nơi đây đi về hướng đông, qua sông Căng-già, đi tiếp gần 200 km nữa thì gặp nước Bôn-na-phạt-đàn-na.
4. Nước Bôn-na-phạt-đàn-na
Nước Bôn-na-phạt-đàn-na chu vi khoảng 1.300 km, chu vi kinh thành khoảng 11 km, dân cư đông đúc phồn thịnh, ao hồ, hàng quán, hoa lá cây cảnh xen nhau khắp chốn. Đất đai thấp trũng, lúa má xanh tốt. Nơi đây có nhiều trái cây ban-hồ-sa, có giá trị cao. Loại trái cây này lớn như trái bí, khi chín chuyển thành màu đỏ pha vàng, bổ ra bên trong có đến mấy chục múi nhỏ, kích thước bằng như trứng chim hạc, lại cắt ra nữa thì múi quả tươm mật màu đỏ pha vàng, vị rất ngon ngọt. Loại cây này kết quả trên thân cây giống như các loại cây khác, nhưng cũng kết quả ở gốc cây, giống như loại nấm phục linh mọc ra [nơi gốc cây] trong đất vậy.
Khí hậu nơi đây ôn hòa dễ chịu, phong tục ưa chuộng sự học hỏi. Trong nước có hơn 20 ngôi chùa với hơn 3.000 tăng sĩ, tu tập theo cả Đại thừa lẫn Tiểu thừa. Có khoảng 100 đền thờ Phạm thiên, các phái ngoại đạo sống chung hỗn tạp. Riêng phái Ni-kiền lõa thể rất đông đảo.
Phía tây kinh thành, cách xa khoảng 6.5 km có chùa Bạt-thủy-bà (Vasibha), kiến trúc cao rộng thoáng đãng, lầu gác trang nghiêm. Tăng chúng nơi đây hơn 700 vị, thảy đều tu học theo giáo pháp Đại thừa. Các bậc danh tăng tài cao học rộng của miền Đông Ấn, phần nhiều đều quy tụ ở chùa này.
Cách chùa không xa có một ngọn tháp do vua Vô Ưu xây dựng, là nơi ngày xưa đức Như Lai đã từng vì hàng trời người mà thuyết pháp trong 3 tháng. Vào những ngày trai, tháp này thường có hào quang tỏa chiếu. Bên cạnh còn có di tích nơi bốn vị Phật ngồi thiền và kinh hành. Cách đó không xa lại có một tinh xá, bên trong có tượng Bồ Tát Quán Tự Tại, thần sắc thiêng liêng lộ rõ, thường có nhiều sự linh ứng, người người ở khắp gần xa thường về đây để tuyệt thực và cầu nguyện.
Từ nơi đây đi về hướng đông hơn 290 km, qua một con sông lớn thì đến nước Ca-ma-lâu-ba, thuộc miền Đông Ấn.
5. Nước Ca-ma-lâu-ba
Nước Ca-ma-lâu-ba chu vi hơn 3.260 km, chu vi kinh thành hơn 10 km, đất đai thấp trũng, lúa má gieo trồng theo thời vụ. Trái cây có các loại ban-hồ-sa, na-la-kê-la, tuy trồng rất nhiều nhưng vẫn có giá trị cao. Sông ngòi, ao hồ xen lẫn khắp nơi trong thành ấp. Khí hậu ôn hòa dễ chịu, phong tục thuần hậu chân chất. Người dân có thân hình nhỏ bé, dung mạo đen đủi. Ngôn ngữ cũng không khác nhiều với miền Trung Ấn. Tánh người hung bạo nhưng có ý chí siêng năng, chuyên cần học tập. Người dân tin tưởng thờ phụng thiên thần, không tin Phật pháp. Cho nên từ thời đức Phật lập giáo đến nay chưa từng xây dựng chùa chiền, quy tụ tăng sĩ. Cũng có một số ít người có lòng tin [Phật pháp], nhưng chỉ giấu kín trong lòng mà thôi. Có đến mấy trăm đền thờ Phạm thiên, tín đồ ngoại đạo đến mấy vạn người.
Đức vua hiện tại vốn dòng dõi thần Na-la-diên (Nārāyaṇa), thuộc giai cấp bà-la-môn, tên là Bà-tắc-yết-la-phạt-ma, hiệu là Câu-ma-la. Từ ngày dòng họ này nắm quyền đến nay, đời đời truyền nối, tính ra đã được ngàn đời. Đức vua là người hiếu học, dân chúng đều phục tùng sự cai trị, những người tài đức từ phương xa đều ngưỡng mộ tìm đến thăm viếng. Tuy vua không thuần tín Phật pháp nhưng rất kính trọng bậc sa-môn học cao hiểu rộng.
Lúc vua mới vừa nghe tin có sa-môn người Trung Hoa đang ở tại chùa Na-lạn-đà, nước Ma-yết-đà, là người từ phương xa đến, có kiến thức Phật học rất thâm sâu, liền lập tức ân cần sai người mời thỉnh, đã ba lần mà [Huyền Trang] chưa nhận lời. Khi ấy, Luận sư Thi-la-bạt-đà-la bảo [Huyền Trang] rằng: “Muốn báo ân Phật phải rộng truyền Chánh pháp. Ông nên đi đến đó, đừng ngại đường xa. [Dòng dõi] vua Câu-ma-la đã nhiều đời tin theo ngoại đạo, nay thỉnh sa-môn là điều rất tốt lành. Nhân cơ hội này, nếu làm thay đổi được [niềm tin của vua] thì phúc đức, lợi ích vô cùng to lớn. Trước đây ông đã phát khởi tâm nguyện rộng lớn, nhân đó mới một thân một mình dấn bước đường xa xứ lạ, quên thân cầu pháp. Muốn rộng độ chúng sinh, lẽ đâu lại hạn cuộc nơi xứ này nước nọ? Nên quên đi chuyện được mất, vinh nhục [của bản thân mình], [chỉ một lòng] tuyên dương Thánh giáo, mở bày Chánh đạo cho chúng sinh mê lầm, tự đặt mình ra sau người khác, quên đi danh phận để hoằng dương Chánh pháp.”
Do vậy [Huyền Trang] không sao từ chối được nữa, liền cùng sứ giả lên đường hội kiến nhà vua.
[Lúc gặp nhau,] vua Câu-ma-la nói: “Trẫm tuy bất tài nhưng thường ngưỡng mộ những bậc học rộng tài cao. Nghe danh ngài là người học rộng, đức độ cao vời, trẫm hết sức kính ngưỡng nên mới mạo muội thỉnh ngài từ xa đến đây.”
[Huyền Trang] đáp rằng: “Tôi tài trí thô thiển, thật xấu hổ để đại vương nghe đến tên mình.”
Vua Câu-ma-la nói: “Lành thay! Ngài là người cầu pháp, hiếu học, xem nhẹ thân mình, vượt qua trùng trùng nguy hiểm, dấn bước đường xa xứ lạ. Trẫm cho rằng đó hẳn cũng nhờ phong hóa của nhà vua xứ ngài, nên phong tục xứ ấy xem trọng việc học. Hiện nay các nước ở vùng Ấn Độ này có rất nhiều người ca tụng khúc hát ‘Tần vương phá trận’ của nước Chí-na, trẫm được nghe đến đã lâu. Nước ấy có phải là quê hương của đại đức hay chăng?”
[Huyền Trang] đáp: “Vâng, đúng vậy. Khúc hát ấy là ca ngợi đức độ của vua nước tôi.”
Vua Câu-ma-la nói: “Thật không ngờ đại đức lại là người nước ấy. Trẫm từ lâu vẫn hướng về phương đông mà ngưỡng mộ phong hóa xứ ấy, chỉ vì núi sông cách trở, không có cách nào để biểu lộ sự cung kính của mình.”
[Huyền Trang] thưa rằng: “Vua nước tôi đức độ nhuần thấm nơi xa, lòng nhân từ phủ trùm khắp chốn, những nước ở vùng xa xôi đều về thần phục rất nhiều.”
Vua Câu-ma-la nói: “[Đức độ] che chở rộng khắp như vậy thì ngay như trẫm đây cũng muốn được về triều cống. Nay vua Giới Nhật đang ở nước Yết-chu-ốt-kỳ-la, sắp lập đàn đại thí để vun bồi cội gốc phúc đức trí tuệ, tất cả các vị sa-môn, bà-la-môn có học vấn khắp năm vùng Ấn Độ đều được triệu tập. Nay [vua Giới Nhật] đã sai sứ giả đến đây thỉnh mời, xin đại đức cùng trẫm đi đến đó.”
[Huyền Trang] liền cùng đi với vua.
Miền đông nước Ca-ma-lâu-ba đồi núi liên tiếp nhau, không có đô thành lớn. Phía tây nam tiếp giáp với vùng mọi rợ, nên người ở đây hình thể cũng gần giống như mọi rợ. [Huyền Trang] hỏi kỹ người ở đây thì biết rằng từ nơi đây nếu đi trong 2 tháng thì có thể vào được vùng tây nam của đất Thục. Tuy nhiên, [đường đi như thế] núi sông hiểm trở, rừng sâu khí độc, rắn độc, cây cỏ độc nguy hại vô cùng.
Miền đông nam nước Ca-ma-lâu-ba nhiều voi rừng sống thành bầy hung bạo. Cho nên trong [quân đội] nước này tượng binh (quân dùng voi chiến) đặc biệt phát triển.
Từ nơi đây đi về hướng nam khoảng 400-435 km thì đến nước Tam-ma-đát-trá, thuộc miền Đông Ấn.
6. Nước Tam-ma-đát-trá
Nước Tam-ma-đát-trá chu vi khoảng 980 km, nằm gần biển lớn nên đất đai thấp trũng. Chu vi kinh thành khoảng 6.5 km. Nơi đây đồng lúa tốt tươi, cây trái rậm rạp xanh tốt. Khí hậu ôn hòa, phong tục thuận hợp, người dân tánh khí cứng cỏi, thân hình nhỏ bé, màu da đen, chuyên cần hiếu học.
Về tín ngưỡng thì có người tin Phật, cũng có kẻ tin theo tà đạo. Trong nước có hơn 30 ngôi chùa, tăng chúng hơn 2.000 vị, hết thảy đều tu tập theo Thượng tọa bộ. Có 100 đền thờ Phạm thiên, các phái ngoại đạo chung sống lẫn lộn, riêng phái Ni-kiền lõa thể đặc biệt rất đông tín đồ.
Cách kinh thành không xa có một ngọn tháp do vua Vô Ưu xây dựng, là nơi ngày xưa đức Như Lai đã vì chư thiên và loài người thuyết pháp trong bảy ngày. Bên cạnh vẫn còn di tích nơi bốn vị Phật quá khứ kinh hành và ngồi thiền. Cách đó không xa có một ngôi chùa, bên trong có pho tượng Phật bằng ngọc xanh cao 264 cm, đầy đủ tướng hảo trang nghiêm, có nhiều linh ứng.
Từ nơi đây nhìn về hướng đông bắc là bờ biển lớn, nằm lọt trong vùng khe núi là nước Thất-lợi-sai-đát-la. Về hướng đông nam, nơi góc biển lớn là nước Ca-ma-lang-ca. Về phía đông là nước Đọa-la-bát-để. Cũng về phía đông có nước Y-thưởng-na-bổ-la. Lại cũng về phía đông có nước Ma-ha-chiêm-ba, người Trung Hoa gọi là nước Lâm Ấp. Về phía tây nam có nước Diêm-ma-na-châu. Đối với sáu nước này, vì đường đi có núi sông ngăn trở nên [Huyền Trang] không đi vào, nhưng về phong tục, thổ nhưỡng, ranh giới, đều được nghe qua nên có thể biết.
Từ nước Tam-ma-đát-trá đi về hướng tây hơn 290 km thì đến nước Đam-ma-lật-để, thuộc miền Đông Ấn.
7. Nước Đam-ma-lật-để
Nước Đam-ma-lật-để chu vi khoảng 460-490 km. Chu vi kinh thành hơn 3.2 km, nằm gần bờ biển, đất thấp trũng, lúa thóc gieo trồng theo mùa, hoa quả tốt tươi, khí hậu ấm nóng, phong tục nóng nảy, người dân tính khí rắn rỏi, mạnh mẽ, có người tin Phật pháp, cũng có người theo tà đạo.
Trong nước có hơn 10 ngôi chùa, tăng sĩ hơn 1.000 vị. Có hơn 50 đền thờ Phạm thiên, các phái ngoại đạo chung sống hỗn tạp. Nước này có bờ biển, giao thông thủy bộ đều về nơi đây nên những vật quý báu hiếm lạ phần nhiều đều quy tụ về, do vậy mà người dân trong nước phần đông đều giàu có.
Kế bên kinh thành có một ngọn tháp do vua Vô Ưu xây dựng. Bên cạnh đó là di tích nơi bốn vị Phật quá khứ kinh hành và ngồi thiền.
Từ đây đi đến hướng tây bắc hơn 230 km thì đến nước Yết-la-noa-tô-phạt-lạt-na thuộc miền Đông Ấn.
8. Nước Yết-la-noa-tô-phạt-lạt-na
Nước Yết-la-noa-tô-phạt-lạt-na có chu vi khoảng 460-490 km. Chu vi kinh thành hơn 6.5 km. Dân cư đông đúc, cuộc sống sung túc, giàu có. Đất đai trũng thấp, lúa thóc gieo trồng theo mùa, có nhiều loại hoa tươi tốt, trồng nhiều loại trái cây quý. Khí hậu điều hòa dễ chịu, phong tục thuần hậu. Người dân ưa thích và xem trọng việc học các tài nghề. Có người tin Phật, cũng có người tin theo tà đạo.
Trong nước có hơn 10 ngôi chùa với hơn 2.000 tăng sĩ, tu tập theo giáo pháp của phái Chính lượng thuộc Tiểu thừa. Có hơn 50 đền thờ Phạm thiên, rất nhiều các phái ngoại đạo. Riêng có ba ngôi chùa không dùng các món sữa vì theo lời dạy của Đề-bà-đạt-đa.
Bên cạnh kinh thành có chùa Lạc-đa-vị-tri, kiến trúc cao rộng, lầu gác trang nghiêm. Trong nước có bao nhiêu bậc tài cao học rộng, thông minh mẫn tiệp được biết đến đều quy tụ về đây, cùng răn nhắc nhau nghiêm trì giới luật, trau giồi đạo đức.
Trước đây khi dân chúng nước này chưa tin theo Phật pháp, ở vùng Nam Ấn có một người ngoại đạo dùng lá đồng mỏng nịt chặt quanh bụng, trên đầu đội một ngọn đuốc sáng, tay chống gậy đi vào thành này, đánh trống gọi mời người đến tranh luận.
Có người hỏi rằng: “Đầu và bụng của ông sao khác lạ như vậy?”
Người ấy đáp rằng: “Ta học được quá nhiều tài năng nên sợ bụng [không chứa nổi] sẽ vỡ ra, [vì vậy phải dùng lá đồng nịt lại.] Ta thương những kẻ ngu si ám muội nên [trên đầu đội ngọn đuốc] để soi sáng.”
Trải qua 10 ngày, không có ai đến tranh luận. [Đức vua sai người] tìm kiếm nhân tài khắp nơi nhưng không có kết quả, liền nói với mọi người rằng: “Trong nước ta lẽ nào không có bậc minh triết? Khách [từ xa] đến [thách thức,] thật khó mà không ứng đối, vì như vậy sẽ là mối nhục lớn của quốc gia. Nay phải cố gắng tìm cầu lần nữa, hãy tìm đến cả những nơi xa xôi ẩn khuất.”
Lúc ấy có người tâu lên: “Trong rừng sâu có một bậc dị nhân, tự xưng là sa-môn, suốt ngày chỉ thấy chuyên cần tu học, sống ẩn dật như vậy đã rất lâu rồi. Nếu không phải là thể nhập được đạo pháp, phù hợp với đức lớn, làm sao có thể sống như thế được?”
Vua nghe như vậy liền đích thân đến thỉnh mời. Vị sa-môn ấy đáp rằng: “Tôi là người vùng Nam Ấn, trên đường đi dừng lại ở nơi đây, học vấn nông cạn, chỉ sợ không được như lời đồn. Nhưng nay đại vương có chỉ ý, chẳng dám cố từ. Nếu tôi tranh luận không thua, chỉ xin đại vương cho xây dựng tự viện, chiêu mộ tăng đồ đến đây, phát triển đạo Phật.”
Vua nói: “Xin cung kính nghe theo, không dám quên đi công đức lớn lao của ngài.”
Vị sa-môn nhận lời thỉnh rồi liền đi đến luận trường. Lúc ấy, ngoại đạo liền nêu lên tông chỉ, đọc tụng hơn ba vạn chữ. Ý nghĩa sâu xa, văn chương súc tích, bao hàm đủ danh xưng tướng trạng, khiến người thấy nghe như bị bao trùm trong thiên la địa võng. Nhưng vị sa-môn vừa nghe qua một lần thì đã nhận hiểu thấu triệt, từ ngữ ý nghĩa đều thông suốt không sai lầm, liền dùng khoảng mấy trăm chữ để trình bày tóm gọn lại và giải thích rõ. Nhân đó mới chất vấn về tông chỉ, ngoại đạo cạn lời đuối lý, ngậm miệng không đáp lại được một lời. Do vậy đành tiêu tan danh tiếng, ôm mối nhục rút lui.
Nhà vua hết sức kính ngưỡng đức độ của vị sa-môn, liền cho xây dựng ngôi chùa này. Từ đó về sau Giáo pháp mới được rộng truyền.
Cách chùa này không xa có một ngọn tháp do vua Vô Ưu xây dựng, là nơi ngày xưa đức Như Lai đã thuyết pháp giảng đạo trong bảy ngày. Bên cạnh đó có một tinh xá, có di tích nơi bốn vị Phật quá khứ kinh hành và ngồi thiền. Lại có mấy ngọn tháp khác, đều là nơi đức Như Lai từng thuyết pháp, cũng đều do vua Vô Ưu xây dựng.
Từ nơi đây đi về hướng tây nam khoảng 230 km thì đến nước Ô-đồ, thuộc miền Đông Ấn.
9. Nước Ô-đồ
Nước Ô-đồ có chu vi khoảng 2.300 km, chu vi kinh thành khoảng 6.5 km. Đất đai màu mỡ, các giống lúa đều tươi tốt. Các loại trái cây ở đây đều cho trái lớn hơn so với các nước khác. Có rất nhiều giống hoa thơm cỏ lạ, không thể kể hết. Khí hậu ấm nóng, phong tục hung bạo. Người ở đây dung mạo khôi ngô, màu da đen sạm. Phong cách ngôn ngữ ở đây khác với miền Trung Ấn. Người dân hiếu học, chuyên cần không mệt mỏi, đa số đều tin theo Phật pháp. Có hơn trăm ngôi chùa với hơn 10.000 tăng sĩ, tất cả đều tu tập theo giáo pháp Đại thừa. Có 50 đền thờ Phạm thiên, các phái ngoại đạo chung sống hỗn tạp. Có mười mấy ngọn tháp do vua Vô Ưu xây dựng, đều là những nơi đức Như Lai từng thuyết pháp.
Ở miền tây nam nước này, trong vùng núi lớn có chùa Bổ-sáp-ba-kỳ-hi, có ngọn tháp bằng đá rất nhiều điều linh dị, vào những ngày trai thường có hào quang tỏa sáng. Những người có lòng tin ở khắp xa gần đều tìm đến, mang theo những vòng hoa đẹp, chen nhau cúng dường. [Điều lạ lùng là] chỉ cần ném vòng hoa lên vị trí bên dưới các thừa lộ bàn hoặc bên trên cấu trúc hình bát úp của tháp thì hoa sẽ tự dính chặt vào đó không rơi xuống, giống như nam châm hút kim sắt vậy.
Phía tây bắc của chùa này, có một chùa khác nằm trong núi, cũng có một ngọn tháp với nhiều điều linh dị giống như ngọn tháp vừa nói. Hai ngọn tháp này đều do quỷ thần dựng lên nên mới có sự linh dị như vậy.
Miền đông nam nước Ô-đồ giáp bờ biển lớn, có thành Chiết-lợi-đản-la với chu vi khoảng 6.5 km. Đây là nơi các khách buôn khởi hành đi đường biển và những khách phương xa qua lại dừng chân. Tường thành xây cao và kiên cố, trong thành có nhiều trân châu kỳ bảo rất quý giá. Bên ngoài thành có 5 ngôi chùa nằm kế cận nhau, mỗi nơi đều xây dựng lầu gác cao rộng, tượng Phật trang nghiêm, được tạo tác công phu tinh xảo.
Phía nam cách xa nước Tăng-già-la khoảng 6.500 km. Những đêm thanh vắng hướng mắt nhìn về nước ấy thấy được bảo châu tỏa sáng phía bên trên ngọn tháp thờ xá-lợi răng Phật, sáng rực như một ngọn đuốc lớn treo lơ lửng giữa không trung.
Từ nơi đây đi về hướng tây nam, xuyên qua rừng rậm, khoảng 390 km thì đến nước Cung-ngự-đà, thuộc miền Đông Ấn.
10. Nước Cung-ngự-đà
Nước Cung-ngự-đà chu vi khoảng 325 km, chu vi kinh thành khoảng 6.5 km, nằm cạnh ven biển, đồi núi rất nhiều, đất bằng thì thấp trũng, lúa thóc gieo trồng theo thời vụ. Khí hậu ấm nóng, phong tục mạnh mẽ. Người dân thân hình cao lớn, nước da đen, có biết qua đôi chút lễ nghĩa, không quá dối trá. Chữ viết cũng giống như miền Trung Ấn nhưng giọng nói, âm điệu có phong cách khác biệt.
Người dân nơi đây tôn sùng ngoại đạo, không tin Phật Pháp. Có hơn 100 đền thờ Phạm thiên, tín đồ ngoại đạo hơn 10.000 người. Trong nước có mấy chục thành nhỏ, vừa dựa vào núi, vừa thông với đường biển, tường thành xây dựng cao rộng, kiên cố, quân đội lại dũng cảm, nên uy thế lấn áp các nước lân cận, không nước nào dám xâm lấn.
Nhờ giáp biển nên trong nước có rất nhiều vật quý hiếm. Họ dùng vỏ sò, ngọc trai làm tiền tệ để mua bán, trao đổi. Nơi đây bán ra loài voi xanh rất lớn, có thể dùng để cưỡi hoặc chở đồ nặng đi xa.
Từ nơi đây đi về hướng tây nam qua một vùng hoang dã mênh mông, rồi đến rừng sâu rậm rạp, cây rừng cao vút che khuất cả mặt trời, khoảng 460-490 km thì đến nước Yết-lăng-già, thuộc miền Nam Ấn.
11. Nước Yết-lăng-già
Nước Yết-lăng-già chu vi khoảng 1.630 km, chu vi kinh thành khoảng 6.5 km. Lúa thóc gieo trồng theo thời vụ, hoa quả rất nhiều và đủ loại. Rừng rậm rất nhiều, trải dài đến hàng mấy trăm dặm. Nước này xuất khẩu loài voi rừng xanh, được các nước lân cận xem là giống voi lạ.
Khí hậu nơi đây nóng bức, phong tục nóng nảy táo bạo, tánh tình người dân phần nhiều nóng nảy hẹp hòi, hung bạo nhưng xem trọng tín nghĩa. Tiếng nói nhẹ mà nhanh, phát âm điều hòa chuẩn xác, phong tục quy tắc có phần khác với miền Trung Ấn. Ít người tin Chánh pháp, đa số theo ngoại đạo. Có hơn 10 ngôi chùa với hơn 500 tăng sĩ, tu tập theo cả giáo pháp Đại thừa và Thượng tọa bộ [thuộc Tiểu thừa]. Có hơn 100 đền thờ Phạm thiên, ngoại đạo rất đông, đa phần là tín đồ phái Ni-kiền.
Thuở xưa có một thời dân cư nước này vô cùng đông đúc, người chen vai, xe chạm trục. Chỉ cần người đi đường cùng đưa tay lên thì ống tay áo chen sát bên nhau đủ tạo thành một bức màn. [Sự đông đúc đến mức như vậy.]
Rồi có một vị tiên nhân đã đạt ngũ thông, ẩn cư trên núi cao để hàm dưỡng tánh hạnh. Có một người xúc phạm đến vị tiên, khiến vị ấy mất hết thần thông. Ông liền dùng chú thuật độc ác tàn sát hết người cả nước. Kẻ già người trẻ đều không để sót, kẻ ngu người hiền cũng đều giết sạch. Từ đó khắp trong nước không còn khói bếp, trải qua rất nhiều năm như vậy. Mãi lâu về sau mới có người nơi khác chuyển đến đây sống, nhưng còn chưa được nhiều. Do đó đến nay dân cư ở đây vẫn còn rất ít.
Phía nam kinh thành, khoảng cách không xa có một ngọn tháp cao khoảng 35 mét, do vua Vô Ưu xây dựng. Bên cạnh có di tích nơi bốn vị Phật quá khứ ngồi thiền và kinh hành.
Nơi biên giới phía bắc nước này, trên đỉnh núi lớn có một ngọn tháp xây bằng đá cao khoảng 35 mét. Vào thuở kiếp sơ khi tuổi thọ con người đến vô số năm, có một vị Phật Độc giác nhập tịch diệt ở nơi này.
Từ nơi đây về hướng tây bắc xuyên qua rừng núi, đi khoảng 600 km thì đến nước Kiêu-tát-la, thuộc miền Trung Ấn.
12. Nước Kiêu-tát-la
Nước Kiêu-tát-la chu vi khoảng 1.960 km, có núi non bao bọc quanh, rừng rậm tiếp nối. Chu vi kinh thành khoảng 13 km. Đất đai màu mỡ, mùa màng thu hoạch dồi dào. Làng mạc nhà cửa san sát, dân cư đông đúc phồn thịnh.
Người ở đây thân hình cao lớn, nước da đen, phong tục cứng cỏi mạnh mẽ, tánh tình mạnh bạo. Có người tin Phật, cũng có kẻ tin theo tà đạo. Nghề nghiệp, học thuật đạt trình độ cao.
Đức vua thuộc dòng sát-đế-lợi, tôn sùng kính ngưỡng Phật pháp, có lòng nhân từ sâu xa. Trong nước có hơn 100 ngôi chùa, tăng sĩ được gần 10.000 vị, đều tu tập theo giáo pháp Đại thừa. Có hơn 70 đền thờ Phạm thiên, các phái ngoại đạo sống chung lẫn lộn.
Cách kinh thành về phía nam không xa có một ngôi chùa cổ, bên cạnh có một ngọn tháp do vua Vô Ưu xây dựng, là nơi ngày xưa đức Như Lai từng hiện đại thần thông nhiếp phục ngoại đạo. Về sau, Bồ Tát Long Mãnh từng đến ở chùa này.
Lúc bấy giờ, đức vua hiệu là Sa-đa-bà-ha rất trân quý, kính trọng Bồ Tát nên cho người bảo vệ chung quanh nơi ngài ở. Khi ấy, Bồ Tát Đề-bà từ nước Chấp Sư Tử đến xin bàn luận nghĩa lý, bảo người gác cửa rằng: “Xin thưa với Bồ Tát, tôi muốn được yết kiến.”
Người gác cửa vào thưa lại. Bồ Tát Long Mãnh trước đã nghe danh Đề-bà, liền cho nước vào đầy bình bát rồi dặn đệ tử: “Ông mang bát nước này đưa cho Đề-bà xem.”
Đề-bà nhìn thấy bát nước, lặng thinh không nói, chỉ bỏ vào đó một cây kim. Người đệ tử mang bình bát trở vào, lòng đầy hoài nghi. Bồ Tát Long Mãnh hỏi: “Ông ấy nói gì?” Thưa rằng: “Ông ấy lặng lẽ không nói gì, chỉ bỏ cây kim vào bát nước mà thôi.” Bồ Tát Long Mãnh nói: “Thật là người trí tuệ sáng suốt! Người này hiểu việc như thần, suy xét chỉ thua bậc thánh. Kẻ tài đức như vậy, hãy mau mau mời vào.”
Người đệ tử thắc mắc: “Như vậy nghĩa là thế nào? Phải chăng đây gọi là biện thuyết mầu nhiệm không lời?”
Bồ Tát giải thích: “Nước [không có hình dạng], tùy theo vật chứa mà thành tròn hay vuông, nước cuốn trôi mọi vật không phân biệt sạch dơ, nước chứa đầy thì không bỏ sót một chỗ nào trống, nước lắng yên sâu thẳm không thể đo lường. Ta đưa cho người ấy xem bát nước đầy là ngụ ý bảo cho biết học vấn của ta đã trọn vẹn đầy đủ như vậy. Ông ấy bỏ cây kim vào [chìm đến đáy nước] nên ngụ ý rằng có thể hiểu đến tận cùng chỗ học vấn của ta. Ông ấy không phải kẻ tầm thường, hãy mau mau đưa vào đây.”
Bồ Tát Long Mãnh phong thái uy nghi nghiêm nghị, người đối diện tự nhiên phải cảm phục cúi đầu. Đề-bà được nghe về Bồ Tát đã lâu, trong lòng khát ngưỡng muốn tìm đến theo học. Lúc mới đến liền phải phô bày tri kiến, nhưng khi được gặp rồi bày tỏ sự kính sợ, lúc vào giảng đường liền chọn chỗ ngồi thấp lệch sang bên. Hai người cùng nhau đàm luận suốt ngày, ý nghĩa thanh cao, lời lẽ nhã nhặn. Bồ Tát Long Mãnh nói: “Học vấn của ông trong hàng hậu học không ai bằng, lý lẽ biện luận khéo léo, làm sáng tỏ được tông chỉ của người đi trước. Ta nay đã già yếu, gặp được người tài trí xuất sắc như ông, quả thật đã có người truyền nối, ngọn đèn Chánh pháp tiếp nối không tắt. Giáo pháp muốn được truyền rộng hẳn phải trông cậy nơi ông. Nay ông có thể đến ngồi ngay trước mặt ta để cùng đàm luận.”
Đề-bà nghe qua lời này, trong lòng có chút tự phụ, [liền đến ngồi phía trước Bồ Tát], chuẩn bị những ý nghĩa diễn giảng, trước tiên nêu chủ đề, lời lẽ tuôn tràn, rồi ngẩng lên nhìn người đối diện để đợi câu chất vấn, chợt thấy dung nhan uy nghi [của Bồ Tát] liền tự nhiên cứng miệng nói không ra lời, lập tức rời khỏi chỗ ngồi, bước xuống nhận lỗi, cầu xin chỉ dạy. Bồ Tát Long Mãnh nói: “Hãy ngồi lại đi. Nay ta sẽ truyền dạy cho ông chân lý mầu nhiệm tột cùng, lời dạy chân thật của đấng Pháp vương.”
Đề-bà sụp lạy năm vóc sát đất, hết lòng quy ngưỡng, thưa rằng: “Từ nay về sau con xin vâng lời thầy.”
Bồ Tát Long Mãnh rất giỏi y thuật, thường ăn uống theo phép dưỡng sinh, sống thọ đến mấy trăm tuổi, dung mạo cũng như tinh thần không hề suy giảm. Vua Dẫn Chánh được dùng diệu dược [của Bồ Tát], cũng sống được mấy trăm tuổi.
Nhà vua có một đứa con trai nhỏ, theo hỏi mẹ rằng: “Như con đến lúc nào được nối ngôi vua?”
Người mẹ đáp: “Theo ta thấy như hiện nay thì chưa thể biết được. Phụ vương con sống được đến mấy trăm tuổi, con cháu đã già chết rất nhiều rồi. Đều là nhờ phúc lực của Bồ Tát Long Mãnh giúp cho, dùng thuốc hay mới được như vậy. Nếu Bồ Tát tịch diệt, phụ vương con ắt cũng sẽ băng hà. Bồ Tát Long Mãnh là bậc trí tuệ rộng xa, lòng từ bi sâu dày, sẵn lòng bố thí cho chúng sinh hết thảy, ngay cả thân mạng mình. Nay con nên đến đó thử xin cái đầu của ngài. Nếu như xin được thì ý nguyện [làm vua] của con có thể thành tựu.”
Vương tử nghe theo lời mẹ liền đến chùa. Người gác cổng kính sợ nên mở cửa cho vào ngay. Lúc ấy Bồ Tát Long Mãnh vừa tụng kinh xong đang kinh hành, chợt thấy vương tử nên đứng lại hỏi: “Vương tử có nguyên nhân gì mà đang đêm tìm đến tăng phòng, dáng vẻ như lo lắng, như sợ sệt, lại gấp rút đến như vậy?”
Vương tử nói: “Tôi vừa bàn luận với mẹ, có nói đến chuyện bậc tu hành thí xả thân mạng. Tôi cho rằng hết thảy chúng sinh đều quý tiếc mạng sống của mình. Kinh điển nói rằng thí xả tất cả, nhưng chưa từng có ai xem nhẹ thân mạng, mang ra thí xả cho người muốn xin. Mẹ tôi nói: ‘Không phải vậy. Những bậc Thiện Thệ mười phương, các đấng Như Lai ba đời [quá khứ, hiện tại, vị lai], từ lúc phát tâm cho đến khi chứng quả, cần cầu Phật đạo, tu tập giới hạnh, nhẫn nhục, hoặc hiến thân cho thú ăn, hoặc cắt thịt cứu chim; vua Nguyệt Quang thí đầu cho bà-la-môn, vua Từ Lực cho dược-xoa đói uống máu của mình. Những việc như thế khó kể ra hết được. Những bậc tầm cầu giác ngộ như vậy, đời nào lại chẳng có?’’ [Tôi nghĩ,] nay Bồ Tát có chí nguyện cao vời [nên tôi có việc cầu xin.] Tôi vốn cần một cái đầu người để có việc dùng, nhưng tìm kiếm suốt nhiều năm nay mà không có ai chịu thí xả cho. Nếu dùng sức mạnh để giết người cướp lấy thì mang lấy tội lỗi chất chồng, ngang ngược giết người vô tội thì chịu tiếng xấu nhơ nhớp. Chỉ có Bồ Tát là bậc tu hành theo Thánh đạo, hướng đến quả Phật, lòng từ phủ khắp chúng sanh, ân huệ ban ra không bờ bến, xem thường mạng sống như cụm mây trôi, đối với thân xác thịt này chỉ xem như gỗ mục, [hy vọng ngài] không làm trái với bản nguyện [từ xưa], sẽ rủ lòng thương mà chấp thuận lời cầu xin của tôi.”
Bồ Tát Long Mãnh đáp: “Đúng vậy. Những lời vương tử vừa nói đó không sai. Ta vốn cầu quả Phật, học theo hạnh thí xả của Phật. Thân [xác thịt] này chỉ như tiếng vọng của âm thanh, chỉ như bọt nước, lưu chuyển trong bốn cách sinh, qua lại trong sáu đường. [Điều này cũng] phù hợp với thệ nguyện rộng lớn từ đời trước của ta là không làm trái sự mong muốn của người khác. Tuy nhiên, vương tử nên biết, có một lý do không nên làm việc này, đó là khi ta chết rồi thì phụ vương của vương tử cũng sẽ chết. Vương tử nên suy nghĩ kỹ lại việc này, liệu có ai cứu được ông ấy chăng?”
[Vương tử lặng thinh không đáp.] Bồ Tát Long Mãnh chần chừ trong giây lát, nhìn quanh để xem sẽ chết bằng cách nào, rồi nhặt lấy một cọng cỏ khô đưa lên tự cắt cổ mình, giống hệt như bị chém bằng gươm bén, đầu ngài lập tức rơi sang một bên. Vương tử nhìn thấy như vậy kinh hãi bỏ chạy về. Người gác cổng liền tâu trình lên đức vua, kể rõ đầu đuôi sự việc. Vua nghe qua xúc động đau lòng, quả nhiên lập tức băng hà.
Từ nơi đây đi về hướng tây nam hơn 98 km thì đến núi Bạt-la-mạt-la-kỳ-hi, đỉnh núi vút cao ngất trời, chót vót nguy hiểm, không có sườn núi, khe núi, chỉ như một khối đá lớn vươn lên cao. Vua Dẫn Chánh đã vì Bồ Tát Long Mãnh mà cho đục sâu vào núi đá để xây dựng chùa, lại cho đục đá mở đường đi thông suốt từ cách xa núi này khoảng mười mấy dặm, rồi ngay dưới chân núi cho đục đá ngược lên để xây thành chùa, có hành lang dài có mái che, lầu gác cao rộng, gác có 5 tầng, mỗi tầng có 4 viện. Vua cũng cho xây dựng tinh xá, mỗi nơi đều có tượng Phật bằng vàng, kích thước như thân Phật thật, công phu tinh xảo, cực kỳ khéo léo. Ngoài ra, những nơi khác đều trang nghiêm bằng châu báu, vàng ròng.
Từ trên đỉnh núi cao có một suối nước chảy nhanh xuống rồi chảy vòng quanh các tầng lầu gác, giống như một vành đai bao bọc chùa viện. Các cửa sổ [được thiết kế] khi mở ra thì ánh sáng tràn vào khắp bên trong.
Lúc ban đầu, khi vua Dẫn Chánh xây dựng chùa này, sức người cạn kiệt, công khố trống rỗng, công việc chưa xong được nửa phần, nên trong lòng vua hết sức lo lắng. Bồ Tát Long Mãnh [thấy vậy] hỏi: “Đại Vương vì sao ưu sầu như thế?”
Vua đáp: “Trẫm phát tâm nguyện lớn lao, muốn trồng cội phúc thù thắng, mong rằng [chùa này] sẽ tồn tại lâu dài, đợi khi đức Từ Thị [ra đời], công việc chưa xong mà tiền tài đã cạn, đêm nằm nghĩ đến việc này thì lo buồn hối tiếc không sao ngủ được, chỉ có thể ngồi đợi sáng.”
Ngài Long Mãnh nói: “Xin đại vương đừng lo âu. Làm việc phước đức lớn lao tốt đẹp thế này thì lợi ích vô cùng, nên đã phát nguyện lớn đừng lo không xong việc. Hôm nay xin đại vương hãy hồi cung, nghỉ ngơi vui chơi thật thoải mái. Đến sáng ngày mai xuất du, dạo xem qua hết vùng núi non này rồi hãy trở lại đây bàn việc xây dựng.”
Vua nghe lời dạy kính cẩn làm theo. Bồ Tát Long Mãnh dùng một loại thần dược nhỏ giọt lên các tảng đá lớn, tất cả đều hóa thành vàng ròng. [Sáng hôm sau,] trong lúc đi dạo núi vua liền nhìn thấy những khối vàng, trong lòng hết sức mừng vui, lập tức quay lại đến chỗ Bồ Tát Long Mãnh, thưa rằng: “Hôm nay trẫm đi dạo quanh núi, bị quỷ thần mê hoặc, nhìn thấy vàng ròng kết lại thành khối lớn.”
Bồ Tát Long Mãnh nói: “Không phải quỷ thần mê hoặc, đó là do tâm chí thành của đại vương chiêu cảm mà có số vàng ấy. Đại vương có thể lấy về tùy nghi sử dụng để hoàn tất việc xây dựng.”
Sau khi xây dựng xong, số vàng ấy vẫn còn thừa, cho nên bên trong năm tầng lầu, mỗi tầng đều cho đúc bốn tượng Phật lớn bằng vàng. Vẫn còn dư một số vàng nữa, liền cho nhập vào công khố.
Vua Dẫn Chánh cung thỉnh một ngàn vị tăng đến trong chùa tụng kinh thiết lễ. Sau đó Bồ Tát Long Mãnh đem giáo pháp đức Phật Thích-ca đã tuyên thuyết cùng với các bộ luận mà chư vị Bồ Tát đã diễn thuật, biên soạn, sưu tập thành từng bộ riêng biệt, cất chứa trong chùa này. Do vậy nên tầng lầu trên cao nhất chỉ thờ tượng Phật và kinh luận, tầng thấp nhất phía dưới làm chỗ ở cho các cư sĩ giúp việc chùa và cất giữ tài sản cùng các thứ tạp vật linh tinh. Ba tầng còn lại ở giữa là phòng ốc dành cho chư tăng sử dụng.
Đọc trong các ghi chép xưa thấy ghi rằng: “Khi vua Dẫn Chánh xây dựng [chùa này] hoàn tất, kết toán lại [chỉ riêng] tiền mua muối cho công nhân ăn đã mất 900.000 đồng tiền vàng.”
Về sau, trong nội bộ tăng chúng phát sinh tranh chấp mâu thuẫn, cùng đưa đến chỗ nhà vua phân xử. Lúc ấy, các cư sĩ giúp việc chùa nói với nhau rằng: “Tăng chúng tranh cãi, đôi bên đều nói lời trái nghịch nhau, kẻ xấu ác sẽ thừa dịp hủy hoại tự viện.” Nhân đó họ liền đóng chặt cửa từ bên trong, không cho tăng chúng vào lại. Từ đó về sau, chùa không có tăng chúng. Từ xa nhìn kỹ nơi vách đá không biết được lối đi hay cổng vào chùa ở đâu cả. Thỉnh thoảng [những người bên trong] cần đưa thầy thuốc vào để trị bệnh thì họ bịt mắt lúc dẫn vào, dẫn ra, nên [người ngoài] không ai biết được lối đi vào.
Từ nơi đây đi trong rừng rậm về hướng nam hơn 290 km thì đến nước Án-đạt-la thuộc miền Nam Ấn.
13. Nước Án-đạt-la
Nước Án-đạt-la chu vi khoảng 980 km. Kinh thành là Bình-kỳ-la, chu vi khoảng 6.5 km. Đất đai màu mỡ, lúa má tốt tươi, khí hậu ấm nóng, phong tục mạnh mẽ hung bạo. Âm điệu giọng nói khác với miền Trung Ấn. Chữ viết dùng quy tắc giống nhau về đại thể.
Trong nước có hơn 20 ngôi chùa với hơn 3000 tăng sĩ. Có hơn 30 đền thờ Phạm thiên, ngoại đạo rất đông. Cách thành Bình-kỳ-la không xa có một ngôi chùa lớn, lầu gác nhiều tầng, điêu khắc công phu tinh xảo, vô cùng đẹp đẽ. Tượng Phật, Bồ Tát dung nhan tươi sáng, hình tướng trang nghiêm, chạm trổ cực kỳ công phu. Phía trước chùa có một ngọn tháp xây bằng đá cao hơn 70 mét. Chùa và tháp đều do A-la-hán A-chiết-la xây dựng.
Từ ngôi chùa này nhìn về hướng tây nam không xa có một ngọn tháp do vua Vô Ưu xây dựng, là nơi ngày xưa đức Như Lai đã thuyết pháp, hóa hiện các phép thần thông lớn lao, hóa độ vô lượng chúng sinh.
Từ chùa này đi về hướng tây nam khoảng 6.5 km thì gặp một ngọn núi nằm lẻ loi. Trên đỉnh núi có một ngọn tháp xây bằng đá, là nơi Bồ Tát Trần-na soạn ra bộ luận Nhân Minh.
Bồ Tát Trần-na, sau khi Phật nhập diệt [nhiều thế kỷ], xuất gia mặc pháp y, chí nguyện rộng lớn, trí tuệ sâu vững, thương người đời không có [Chánh pháp để] nương theo, nên luôn suy nghĩ việc hoằng dương Thánh giáo, thấy rằng bản luận Nhân Minh [vào thời ấy] lời lẽ sâu xa, ý nghĩa rộng lớn, người học dù mất nhiều công sức cũng khó thành tựu đạo nghiệp, liền ẩn cư chốn non cao, ngưng thần nhập định, quán chiếu chỗ lợi hại của việc thuật tác [luận này], xét kỹ ý nghĩa văn từ từng đoạn rườm rà hay súc tích. Lúc bấy giờ núi khe đều chấn động, khói mây biến hình, sơn thần [hiện thân] nâng Bồ Tát lên cao hàng trăm thước, xướng lên lời rằng: “Ngày xưa đức Phật Thế Tôn vì phương tiện dẫn dắt chúng sinh nên khởi tâm từ bi thuyết dạy luận Nhân Minh này, gồm thâu diệu lý, ngôn từ sâu sắc tinh tế. Từ sau khi Như Lai tịch diệt, ý nghĩa quan trọng ấy dần mai một. Ngày nay Bồ Tát Trần-na phước trí sâu xa, hiểu sâu Thánh giáo, làm cho luận Nhân Minh này lại được rộng truyền.”
Lúc đó, Bồ Tát phóng đại hào quang soi chiếu đến tận những nơi u tối. Đức vua lúc bấy giờ sinh lòng tôn kính sâu xa, thấy hào quang chiếu sáng nên ngỡ rằng [Bồ Tát] đã nhập định Kim cang, nhân đó liền thỉnh Bồ Tát chứng quả vô sanh. Bồ Tát Trần-na đáp: “Ta đã nhập định và quán sát, thấy rằng nếu muốn giải thích ý nghĩa sâu thẳm của kinh điển thì phải phát tâm cầu quả Chánh giác, không nguyện chứng quả vô sanh.
Vua nói: “Các bậc thánh đều vui mừng ngưỡng mộ đối với quả vô sanh, dứt trừ lòng dục trong Ba cõi, khai mở trí tam minh, quả là điều rất tốt lành. Mong ngài hãy nhanh chóng chứng quả ấy.”
Bồ Tát Trần-na khi ấy hoan hỷ với lời thỉnh cầu của vua nên khởi ý sắp chứng quả vô học. Bồ Tát Diệu Cát Tường biết được điều đó nên lấy làm tiếc, muốn nhắc nhở thức tỉnh liền khảy móng tay nói rằng: “Đáng tiếc thay! Vì sao lại từ bỏ tâm nguyện rộng lớn để khởi lên ý chí hẹp hòi, đi theo hướng lợi lạc cho riêng mình mà từ bỏ chí nguyện cứu độ khắp chúng sinh? Nếu muốn làm điều lợi ích tốt đẹp thì nên giảng giải truyền rộng luận Du-già-sư-địa do Bồ Tát Từ Thị làm ra, để dẫn dắt hàng hậu học, lợi ích sẽ vô cùng to lớn.”
Bồ Tát Trần-na nhận lời răn dạy ấy, cung kính làm theo. Từ đó suy xét kỹ lưỡng, nghiên cứu sâu xa, tìm hiểu rộng luận Nhân Minh. Vì e rằng người học có thể sợ vì lời văn quá tinh vi, từ ngữ quá súc tích, nên ngài liền nêu rõ những ý nghĩa chính, tóm thâu những lời vi diệu, soạn ra thành bộ luận Nhân Minh để dẫn dắt hàng hậu học.
Từ đó về sau, [ngài Trần-na] chuyên tâm giảng giải truyền rộng luận Du-già-sư-địa, đào tạo được rất nhiều học trò trở thành những những bậc thành danh trong đời.
Từ nơi đây đi xuyên qua rừng hoang về hướng nam hơn 325 km thì đến nước Đà-na-yết-trách-ca (cũng gọi là nước Đại An-đạt-la), thuộc miền Nam Ấn.
14. Nước Đà-na-yết-trách-ca
Nước Đà-na-yết-trách-ca có chu vi gần 2.000 km. Chu vi kinh thành khoảng 13 km. Đất đai màu mỡ, lúa thóc tốt tươi. Có nhiều vùng hoang dã, ít nơi có thôn ấp dân cư. Khí hậu ấm nóng. Người dân có màu da đen sậm, tánh khí mạnh bạo nóng nảy, ham học các tài nghề.
Chùa chiền nơi đây nằm san sát bên nhau, phần lớn đã hoang tàn hư hoại, chỉ còn lại khoảng hơn 20 nơi. Tăng sĩ được hơn 1.000 vị, phần nhiều tu học theo giáo pháp Đại chúng bộ. Có hơn 100 đền thờ Phạm thiên, người theo ngoại đạo rất đông.
Phía đông kinh thành dựa vào núi, có chùa Phất-bà-thế-la; phía tây kinh thành cũng dựa vào núi, có chùa A-phạt-la-thế-la. Cả hai nơi đều do một vị vua đời trước của nước này vì kính Phật mà xây dựng chùa, khơi sông mở đường, đục vách núi dựng lên lầu gác, có hành lang, mái che chạy dài, nối liền theo vách núi hang động.
Nơi đây có thần linh bảo vệ, các bậc hiền thánh vân du thường ghé lại. Trong khoảng 1.000 năm sau khi Phật nhập diệt, mỗi năm nơi đây đều có 1.000 vị phàm tăng cùng an cư kiết hạ. Đến ngày giải hạ an cư thì tất cả đều chứng quả A-la-hán, cùng vận sức thần thông bay lên hư không mà đi. Sau 1.000 thì nơi đây có cả phàm tăng, thánh tăng đồng cư ngụ. Rồi trong khoảng hơn 100 năm gần đây thì chùa không có tăng chúng nữa. Đó là do thần núi biến hình, hoặc có khi hóa làm chó sói, hoặc có khi hóa làm khỉ đột, dọa nạt khủng bố người đi đường, khiến cho hai ngôi chùa này đều trở thành hoang vắng, không có tăng chúng.
Từ kinh thành về phía nam không xa có một ngọn núi lớn, là nơi luận sư Bà-tỳ-phệ-già đang ở trong cung A-tố-lạc để chờ ngày Bồ Tát Từ Thị thành Phật.
Luận sư chí hướng lớn lao, đức hạnh sâu dày, bên ngoài mặc y phục phái Tăng-khư, nhưng bên trong hoằng dương tư tưởng học thuật của Bồ Tát Long Mãnh. Khi nghe Bồ Tát Hộ Pháp thuyết pháp giảng giải ở nước Ma-yết-đà, học trò có đến mấy ngàn người, có ý muốn cùng Bồ Tát đàm luận, liền chống tích trượng tìm sang. Lúc đi đến thành Ba-trá-ly thì biết Bồ Tát Hộ Pháp đang ở nơi cây bồ-đề [chỗ Phật thành đạo], luận sư liền gọi một người đệ tử đến sai bảo rằng: “Ông hãy đến gặp Bồ Tát Hộ Pháp ở chỗ cây bồ-đề nơi Phật thành đạo, chuyển lời của ta rằng: ‘Bồ Tát thuyết giảng Giáo pháp của Thế Tôn truyền lại, dẫn dắt những kẻ mê lầm, [Thanh Biện này] từ lâu đã ngưỡng mộ đức độ của Bồ Tát, nhưng vì có lời nguyện xưa chưa thành tựu, ngăn trở việc đến lễ bái Bồ Tát dưới cội bồ-đề. [Thuở xưa Thanh Biện đã phát] thệ nguyện rằng, một khi gặp cội bồ-đề ắt phải chứng quả Phật, thành bậc Thiên Nhân Sư, nếu không như vậy thì quyết không gặp.”
Bồ Tát Hộ Pháp nhận lời nhắn liền bảo người mang tin đến rằng: “Đời người như mộng ảo, thân mạng như mây trôi, ngày tháng gấp rút trôi qua, [ta] phải hết sức chuyên cần tu tập, chưa có thời gian rảnh rỗi để bàn bạc chuyện trò.”
Hai người thông qua kẻ đưa tin mà trao đổi qua lại, chưa từng gặp mặt nhau. Luận sư [Thanh Biện] sau khi đã trở về quê hương, tĩnh tâm suy nghĩ rằng: “Nếu không phải ngài Từ Thị thành Phật, còn ai có thể dứt được lòng nghi của ta?” Liền đến trước tượng Bồ Tát Quán Tự Tại trì tụng thần chú Tùy tâm, suốt ba năm chỉ uống nước, không ăn. Bồ Tát Quán Tự Tại liền hiển lộ sắc thân mầu nhiệm, hỏi rằng: “Ông có mong muốn gì?”
Thanh Biện thưa: “Con nguyện giữ lại thân này để chờ gặp đức Từ Thị.”
Bồ Tát Quán Tự Tại bảo: “Mạng người mong manh dễ mất, thế gian chỉ là hư ảo, ông nên phát nguyện lành sinh về cõi trời Đổ-sử-đa, sẽ được lễ bái hầu hạ [đức Từ Thị], như vậy mới nhanh chóng được gặp ngài.”
Luận sư [Thanh Biện] thưa rằng: “Chí nguyện không thể gượng ép, phát tâm không thể hai lòng.”
Bồ Tát liền nói: “Nếu vậy thì hãy đến nước Đà-na-yết-trách-ca, nơi phía nam kinh thành có ngọn núi cao, là nơi ở của thần Chấp Kim Cang. [Ông đến đó] chí thành trì tụng thần chú Chấp Kim Cang rồi sẽ được toại nguyện.”
Luận sư [Thanh Biện] vâng lời dạy đến đó trì tụng thần chú, trải qua ba năm thì có vị thần hiện ra hỏi: “Ông mong muốn cầu điều gì mà chuyên cần gắng sức đến như vậy?”
Luận sư đáp: “Tôi muốn giữ thân này lại để chờ gặp đức Từ Thị. Bồ Tát Quán Tự Tại dạy tôi đến đây thỉnh cầu. Phải chăng ngài là vị thần có thể giúp tôi thành tựu tâm nguyện?”
Vị thần liền chỉ bày [cho luận sư] phương pháp bí mật, rồi dặn dò rằng: “Bên trong núi đá này có cung A-tố-lạc. Ông theo đúng phương pháp [ta đã dạy] mà thỉnh cầu thì vách đá sẽ mở ra, hãy đi vào trong đó thì có thể chờ [đến sau này] gặp [đức Từ Thị].”
Luận sư hỏi: “Tôi sống ẩn khuất nơi đây không nhìn thấy [bên ngoài], làm sao biết lúc nào Phật ra đời?”
Thần Chấp Kim Cang nói: “Khi ngài Từ Thị ra đời, ta sẽ đến báo cho ông biết.”
Luận sư vâng theo lời, chuyên tâm tinh cần trì tụng, lại trải qua ba năm nữa mới [đạt đến mức] không còn vọng tưởng, liền trì chú vào hạt cải rồi dùng ném vào vách đá, vách đá liền lập tức mở ra. Lúc bấy giờ có đến trăm ngàn vạn người chứng kiến cảnh ấy, đều mê mải nhìn quên cả việc quay về. Luận sư bước qua chỗ vách đá mở ra, rồi quay lại bảo mọi người rằng: “Ta thỉnh cầu đã lâu, muốn chờ gặp đức Từ Thị, nhờ bậc thánh giúp đỡ nên đến nay đại nguyện mới thành. Mọi người nên cùng ta vào trong này, [sau này] cùng được gặp Phật ra đời.”
Mọi người nghe vậy đều kinh hoảng, không ai dám bước vào, nói rằng đó là hang rắn độc, sợ đi vào sẽ mất mạng. [Luận sư] lặp lại lời kêu gọi ba lần nhưng chỉ có sáu người cùng theo vào. Luận sư ngoái nhìn từ biệt mọi người rồi ung dung đi vào. Khi ngài đã vào rồi, vách đá liền khép lại như cũ. Khi ấy mọi người đều hối tiếc tự trách vì lúc nãy đã trót nói lời sai lầm.
Từ nơi đây đi về hướng tây nam hơn 350 km thì đến nước Châu-lợi-da thuộc miền Nam Ấn.
15. Nước Châu-lợi-da
Nước Châu-lợi-da chu vi khoảng 780-800 km. Chu vi kinh thành hơn 3.2 km. Trong nước nhiều đất hoang đồng trống, đầm bãi hoang vu, dân cư rất ít, trộm cướp công nhiên hoành hành. Khí hậu ấm nóng, phong tục gian giảo. Người dân tánh khí hung bạo, sùng tín ngoại đạo. Chùa chiền đổ nát hư hoại, tăng sĩ rất hiếm hoi. Đền thờ Phạm thiên có mấy chục nơi, đa phần đều là của ngoại đạo lõa thể.
Phía đông nam kinh thành không xa, có một ngọn tháp do vua Vô Ưu xây dựng, là nơi ngày xưa Như Lai đã từng hiển lộ các phép thần thông, thuyết giảng giáo pháp sâu xa mầu nhiệm, hàng phục ngoại đạo, hóa độ hàng trời người.
Phía tây kinh thành không xa có một ngôi chùa cổ, là nơi thuở xưa Bồ Tát Đề-bà cùng bàn luận Phật pháp với một vị A-la-hán.
Ban sơ, Bồ Tát Đề-bà nghe ở chùa này có vị A-la-hán Ốt-đát-la đã chứng đắc sáu phép thần thông, đầy đủ tám môn giải thoát, liền từ xa tìm đến, muốn được xem phong thái mẫu mực. Khi đến nơi liền xin với vị A-la-hán cho ngụ lại một đêm. Vị A-la-hán này sống biết đủ, ít ham muốn, nên trong chùa chỉ có duy nhất một cái giường. Khi Đề-bà đến không có chỗ ngồi, ngài liền gom lá cây rụng lại làm chỗ mời ngồi.
A-la-hán nhập định, đến nửa đêm vừa xuất định thì Đề-bà liền trình bày chỗ nghi vấn, thỉnh cầu giải đáp. A-la-hán tùy theo chỗ hỏi mà giải thích, Đề-bà lại tùy theo chỗ đáp mà gạn hỏi tiếp. Đến lần hỏi thứ bảy thì [A-la-hán] im lặng không trả lời được, liền ngấm ngầm vận sức thần thông lên cung trời Đổ-sử-la để thưa hỏi ngài Từ Thị. Ngài Từ Thị giải thích rồi bảo cho biết rằng: “Ông Đề-bà ấy đã tu hành rất nhiều kiếp, trong Hiền kiếp này sẽ tiếp nối quả vị Phật, không phải người mà ông có thể hiểu nổi đâu. Nên phải hết sức kính trọng lễ bái.”
[Sự việc diễn ra] chỉ trong khoảng thời gian khảy móng tay, [A-la-hán đã] quay trở lại chỗ ngồi cũ, tiếp tục giảng rộng những ý nghĩa nhiệm mầu, phân tích chi ly những điều vi tế. Đề-bà [nghe rồi] liền nói: “Những giải thích này là thánh trí của Bồ Tát Từ Thị, đâu lẽ nào nhân giả có khả năng hiểu được?”
Vị A-la-hán đáp: “Đúng vậy! Quả thật đúng như ngài nói.”
Nói rồi liền bước xuống giường, cung kính lễ bái, càng thêm cung kính hơn.
Từ nơi đây đi về hướng nam là tiến vào rừng hoang, khoảng 490-520 km thì đến nước Đạt-la-tỳ-đồ, thuộc miền Nam Ấn.
16. Nước Đạt-la-tỳ-đồ
Nước Đạt-la-tỳ-đồ chu vi gần 2.000 km. Kinh thành là Đãi-chí-bổ-la, chu vi khoảng 10 km. Đất đai màu mỡ, lúa thóc tốt tươi, nhiều cây ăn trái, xuất khẩu các báu vật. Khí hậu ấm nóng, phong tục mạnh mẽ, nóng nảy, người dân tin sâu và xem trọng tín nghĩa, hành xử cao thượng, hiểu biết sâu rộng. Ngôn ngữ, chữ viết không khác biệt nhiều với miền Trung Ấn.
Trong nước có hơn 100 ngôi chùa, tăng sĩ hơn 10.000 vị, tất cả đều tu học theo giáo pháp Thượng tọa bộ. Có hơn 80 đền thờ Phạm thiên, đa số là ngoại đạo lõa thể.
Đức Như Lai khi còn tại thế từng đến đây nhiều lần, thuyết pháp độ người, cho nên vua Vô Ưu đã cho xây dựng tháp ở hết thảy những nơi có thánh tích.
Kinh thành Đãi-chí-bổ-la là nơi sinh của Bồ Tát Đạt-ma-ba-la. Bồ Tát là con trưởng của một vị đại thần nước này. Thuở nhỏ đã có hoài bão lớn lao, lớn lên chí hướng càng thêm sâu rộng. Năm vừa được 20 tuổi, đức vua lệnh gả một người con gái cho ngài. Đêm cử hành hôn lễ, lòng ngài hết sức âu sầu buồn bã, liền đối trước tượng Phật thiết tha cầu nguyện. Do tâm chí thành cảm ứng nên có thần linh mang ngài tránh đi xa mấy trăm dặm đường, đến một ngôi chùa trên núi, đặt ngồi ngay giữa điện thờ Phật. Có một vị tăng vừa mở cửa nhìn thấy nghi là kẻ trộm liền tra hỏi, Bồ Tát trình bày hết sự việc và thỉnh cầu xin được xuất gia [ở chùa này]. Chúng tăng nghe chuyện đều lấy làm kinh dị, cùng chấp thuận chí nguyện của ngài.
Đức vua ngay sau đó ban lệnh tìm kiếm khắp xa gần, mới biết việc Bồ Tát được thần linh mang đi xa. Vua biết chuyện rồi lấy làm lạ, càng thêm kính trọng.
Bồ Tát từ khi [xuất gia] đắp y hoại sắc thì chuyên cần gắng sức học tập. Về phong thái, hành trạng của ngài, phần trước đã có trình bày.
Cách kinh thành về hướng nam không xa có một ngôi chùa lớn, những bậc thông tuệ học rộng trong cả nước đều hội tụ về ở đây. [Nơi đây] có một ngọn tháp cao hơn 33 mét do vua Vô Ưu xây dựng, là nơi ngày xưa đức Như Lai từng thuyết pháp, hàng phục ngoại đạo, rộng độ trời người. Gần đó còn có di tích nơi bốn vị Phật quá khứ ngồi thiền và kinh hành.
Từ nơi đây đi về hướng nam hơn 980 km thì đến nước Mạt-la-củ-trá (cũng gọi là nước Chỉ-mạt-la ), thuộc miền Nam Ấn.
17. Nước Mạt-la-củ-trá
Nước Mạt-la-củ-trá chu vi khoảng 1.630 km, chu vi kinh thành khoảng 13 km. Đất đai bị nhiễm mặn, mùa màng thu hoạch không nhiều, nhưng các loại trân châu ngọc quý thu hoạch từ biển phần lớn đều quy tụ về nước nầy. Khí hậu nóng bức, người dân đa số có màu da đen, tánh khí cứng cỏi, nóng nảy, có người tin Phật, cũng có người tin theo tà đạo, phần đông không ưa chuộng việc học các tài nghề, chỉ giỏi buôn bán.
Có rất nhiều nền móng di tích chùa chiền, nhưng số chùa còn lại rất ít, tăng sĩ cũng hiếm hoi. Đền thờ Phạm thiên có đến mấy trăm chỗ, ngoại đạo rất đông, đa phần là tín đồ đạo lõa thể.
Cách kinh thành về phía đông không xa có một ngôi chùa cổ, sân vườn hoang vu nhưng nền móng vẫn còn. Chùa này do người em trai của vua Vô Ưu là Đại Đế xây dựng. Phía đông [chùa] có một ngọn tháp, nền tháp đã lún xuống sâu nhưng phần kiến trúc hình bát úp phía trên vẫn còn. Tháp này do vua Vô Ưu xây dựng, là nơi ngày xưa đức Như Lai từng thuyết pháp, hiển lộ đại thần thông, hóa độ vô số chúng sinh, nên vua cho xây tháp này để ghi dấu, biểu dương thánh tích. Năm tháng trôi qua càng thêm linh ứng, người đến đây cầu nguyện đều được thỏa nguyện.
Bờ biển phía nam của nước này có núi Mạt-lạt-da. Vách núi cao, đỉnh vươn lên chót vót, có hang rộng khe sâu, trong núi có các loại cây bạch đàn hương, cây chiên-đàn-nhĩ-bà. Hai loại cây này tương tự nhau, không thể phân biệt được, chỉ có thể vào mùa hạ lên nơi cao từ xa quan sát, nếu thấy có rắn lớn quấn quanh trên cây thì biết đó là cây chiên-đàn-nhĩ-bà, vì tính chất loại cây này mát lạnh nên có rắn quấn quanh. Khi biết được rồi thì từ xa dùng tên bắn vào cây ấy để ghi dấu, đợi đến sau mùa rắn ngủ đông mới có thể đốn cây.
Lại có loại cây yết-bố-la hương, thân cây giống cây tùng nhưng lá cây khác biệt, hoa trái cũng đều khác. Cây mới vừa chặt về còn tươi không có mùi, đến khi cây khô, chẻ ra bên trong có một chất thơm hình dạng như khoáng chất, màu trắng như băng tuyết, đó chính là hương long não.
Phía đông núi Mạt-lạt-da có núi Bố-đát-lạt-ca. Đường lên núi rất nguy hiểm, quanh co khúc khuỷu, vách cao khe sâu. Trên đỉnh núi có hồ, nước trong như mặt gương, từ đó chảy xuống thành sông lớn, chảy quanh núi đến hai mươi vòng rồi mới chảy vào biển Nam Hải. Bên cạnh hồ có [động đá gọi là] thiên cung, là nơi Bồ Tát Quán Tự Tại qua lại dừng nghỉ. Người có tâm nguyện muốn gặp Bồ Tát mà chẳng quản thân mệnh, gắng sức lên núi, quên cả hiểm nguy, như vậy thật rất hiếm. Nhưng ở dưới chân núi mà chí thành cầu nguyện, thỉnh cầu được thấy [Bồ Tát, thì cũng có khi Bồ Tát hóa hiện] hình Tự Tại Thiên, hoặc hóa làm ngoại đạo Đồ hôi để an ủi phủ dụ, khiến cho những người ấy được thỏa nguyện.
Từ núi này đi về hướng đông bắc có một thành phố nằm ven biển, nơi đó là [chỗ khởi đầu] đường [vượt biển] đi qua nước Tăng-già-la [nằm ngoài khơi] biển Nam Hải.
Người địa phương cho biết rằng, từ đây đi [theo đường] biển về hướng đông nam hơn 970 km thì đến nước Tăng-già-la, không thuộc lãnh thổ Ấn Độ.