KINH BI HOA
(Lịch sử đức Phật A Di Đà và các Bồ Tát)
Hán dịch: Đời Bắc Lương, Tam Tạng Pháp Sư Đàm Vô Sấm, Người Thiên Trúc
Việt dịch: Ni viện Diệu Quang, Nha Trang, Thích nữ Tâm Thường
Chứng nghĩa và Nhuận Văn: Tỳ kheo Thích Đỗng Minh, Tỳ kheo Tâm Hạnh
Quyển Thứ Sáu
PHẨM THỨ TƯ
GUỒN NGỐC CÁC BỒ TÁT ĐƯỢC THỌ KÝ
(Phần 4)
Bấy giờ, năm người liền đến chỗ Phật, đem vật vừa nhận được cúng dường Thế Tôn và Tỳ kheo Tăng. Cúng dường xong, họ bạch Phật:
Bạch đức Thế Tôn! Cúi xin Như Lai thọ ký cho con thành Chánh Giác vào Hiền kiếp.
Thiện nam tử! Khi ấy, Bảo Tạng Như Lai liền thọ ký cho năm người thành Chánh Giác bằng lời dạy:
– Thủ Long! Ở đời sau, trong Hiền kiếp, ông sẽ thành Phật hiệu là Kiên Âm Như Lai, mười hiệu đầy đủ. Sau khi Kiên Âm Như Lai Bát Niết Bàn, Lục Long kế tiếp sẽ thành Phật hiệu là Khoái Lạc Tôn Như Lai, đầy đủ mười hiệu. Sau khi Phật Khoái Lạc Tôn Bát Niết Bàn, Thủy Long kế tiếp sẽ thành Phật hiệu là Đạo Sư Như Lai, đầy đủ mười hiệu. Sau khi Phật Đạo Sư Bát Niết Bàn, Khi Không Long kế tiếp sẽ thành Phật hiệu là Ái Thanh Tịnh Như Lai, đầy đủ mười hiệu. Sau khi Phật Ái Thanh Tịnh Như Lai Bát Niết Bàn, Diệu Âm Long kế tiếp sẽ thành Phật hiệu là Na La Diên Thắng Diệp Như Lai, đầy đủ mười hiệu.
Thiện nam tử! Sau khi Bảo Tạng Như Lai thọ ký cho năm người này vào Hiền kiếp thành Phật, Phạm chí Bảo Hải lại bảo Trì Đao Kiện Tật:
– Thiện nam tử! Ông có thể nhận vô số thế giới trang nghiêm tịnh diệu. Tùy theo sự ưa thích, ông có thể phát nguyện ban cho tất cả chúng sanh pháp vị cam lồ, chuyên tâm siêng năng hành đạo Bồ Tát, cẩn thận chớ suy nghĩ về kiếp số dài lâu.
Thiện nam tử! Khi ấy Phạm chí đưa Trì Đao Kiện Tật đến gặp Phật và bạch:
– Bạch đức Thế Tôn! Đời vị lai, trong Hiền kiếp có bao nhiêu Phật xuất thế sau đức Như Lai?
Phật bảo Trì Đao Kiện Tật:
– Thiện nam tử! Trong nửa Hiền kiếp có một ngàn bốn trăm vị Phật xuất hiện ở đời.
Trì Đao Kiện Tật thưa:
– Bạch đức Thế Tôn! Trong Hiền kiếp kia, chư Phật Thế Tôn Bát Niết bàn xong, Diệu Âm Long thành Chánh Giác sau cùng, hiệu là Na La Diên Thắng Diệp.
– Bạch đức Thế Tôn! Con nguyện vào lúc đó tu đạo Bồ Tát, tu tất cả các hạnh khổ như: trì giới, bố thí, đa văn, tinh tấn, nhẫn nhục, ái ngữ, phước đức, trí tuệ, vô số trợ đạo. Chư Phật ở Hiền kiếp, khi sắp thành Phật, nguyện cho con được dâng cúng thức ăn uống trước tiên. Sau khi chư Phật Niết bàn, con thân nhận xá lợi và dựng tháp cúng dường, hộ trì chánh pháp. Thấy người hủy giới, khuyến hóa họ giữ gìn giới luật. Người xa lìa chánh kiến, đọa tà kiến thì con khuyến hóa họ sống theo chánh kiến. Với người tâm toán loạn thì con khuyến hóa họ an trụ định tâm. Người không oai nghi thì con khuyến hóa họ an trụ oai nghi của bậc thánh. Nếu có chúng sanh muốn tu hành thiện căn, con sẽ chỉ dạy thiện căn cho họ. Sau khi các đức Thế Tôn kia Niết bàn, chánh pháp sắp diệt, lúc bấy giờ con sẽ ở ngay trong thế giới đó, đốt đèn chánh pháp, hộ trì làm cho không đoạn tuyệt; trong kiếp đao binh con sẽ giáo hóa tất chúng sanh giữ giới, chẳng sát hại lẫn nhau, cho đến được chánh kiến, giúp chúng sanh thoát khỏi mười điều ác, an trụ trong mười điều lành, diệt các tối tăm, mở bầy thiện pháp. Con sẽ diệt hết kiếp trược, kiến trược, phiền não trược, chúng sanh trược, mạng trược. Nơi kiếp đói khát, con sẽ khuyến hóa tất cả chúng sanh tu tập bố thí Ba la mật, cho đến trí tuệ Ba la mật cũng như vậy. Khi chúng sanh an trụ vào sáu Ba la mật, dứt hết các sự đói khát, hắc ám, dơ nhớp, oán tặc, đấu tranh và các thứ phiền não của họ, con sẽ làm cho họ được tịch diệt, con sẽ giáo hóa làm cho tất cả chúng sanh an trụ trong pháp Lục hòa, bốn nhiếp pháp và diệt trừ hết những tật bệnh tối tăm cho chúng sanh.
– Vào nửa Hiền kiếp, sau khi một ngàn bốn trăm vị Phật ra đời, nhập Niết bàn và lúc chánh pháp ấy diệt hết thì con sẽ thành Chánh Giác. Như là tuổi thọ và đệ tử Thanh Văn của một ngàn bốn trăm vị Phật kia, tuổi thọ và đệ tử Thanh Văn của con cũng lại như vậy. Như sự điều phục chúng sanh của một ngàn bốn trăm đức Phật trong nửa Hiền kiếp, con nguyện cũng điều phục chúng sanh ở nửa Hiền kiếp. Đệ tử Thanh Văn của chư Phật trong nửa Hiền kiếp, phá hủy cấm giới, rơi vào các tà kiến, đối với chư Phật không trung chính, sanh tâm sân hận não hại, phá Pháp, hoại Tăng, phỉ báng Hiền Thánh, hủy hoại chánh pháp, tạo tội nghịch ác.
– Bạch đức Thế Tôn! Khi con thành chánh giác, con sẽ vét sạch hết bùn nhơ sanh tử, làm cho họ được vào trong thành Niết bàn, không sợ hãi. Sau khi con Bát Niết bàn, chánh pháp cùng một lúc diệt hết theo Hiền kiếp. Nếu con Niết bàn, Hiền kiếp và chánh pháp diệt hết thì xương, răng của con cùng với xá lợi sẽ biến hóa làm hình tượng Phật với ba mươi hai trang nghiêm nơi thân, trong mỗi tướng có tám mươi vẻ đẹp thứ lớp trang nghiêm khắp vô lượng vô biên thế giới của chư Phật trong mười phương. Mỗi hóa Phật dùng ba thừa giáo hóa vô lượng vô biên chúng sanh, làm cho không thối chuyển.
– Nếu thế giới kia, khi kiếp bệnh phát sanh, không có Phật pháp thì hóa Phật này cũng sẽ đến đó giáo hóa chúng sanh như đã nói ở trước.
– Các thế giới nào không có trân bảo, con nguyện làm như ý ma ni bảo châu, mưa các trân bảo, tự nhiên phát ra kho chứa toàn vàng.
– Các thế giới nào có các chúng sanh lìa các căn lành, bị các khổ trói thân, ở đó con sẽ làm mưa hương Ưu đà sa, vô số các hương ngưu đầu, trầm thủy, làm cho chúng sanh hết các bệnh phiền não, các bệnh tà kiến, bệnh thân tứ đại, làm cho tâm ý họ siêng năng tu hành ba loại phước, và khi qua đời được sanh vào cõi trời.
– Bạch đức Thế Tôn! Khi con hành đạo Bồ Tát, làm lợi ích chúng sanh như vậy; khi thành Chánh Giác, con sẽ làm Phật sự lợi ích chúng sanh như vậy; sau khi con Bát Niết bàn, xá lợi sẽ đến vô lượng thế giới, làm lợi ích chúng sanh như vậy.
– Bạch đức Thế Tôn! Nếu nguyện của con chẳng thành tựu, bản thân con chẳng được lợi ích, con không thể làm Đại Y vương, không làm lợi ích cho các chúng sanh, thì con đã dối trá với chư Phật Như Lai đang ở khắp vô lượng vô biên thế giới trong mười phương, và các Ngài cũng không nên thọ ký cho con thành Chánh Giác. Thế Tôn đối với vô lượng vô biên vô số chúng sanh được Phật thọ ký cho thành Chánh Giác, con cũng không được thấy những vị đó, cũng không được nghe âm thanh Phật, Pháp, Tăng, âm thanh hành thiện pháp và thường bị đọa trong địa ngục A Tỳ.
– Bạch đức Thế Tôn! Nếu nguyện của con được thành tựu, bản thân con được lợi ích thì lúc này Như Lai sẽ khen ngợi con. Khi ấy, Phật liền khen ngợi Trì Đao Kiện Tật:
– Lành thay! Lành thay! Thiện nam tử! Ông ở đời sau làm Đại Y vương, làm cho các chúng sanh lìa các khổ não, do đó nên tên ông là Hỏa Tịnh Dược Vương.
Phật bảo Hỏa Tịnh Dược Vương:
– Vào đời sau, trải qua một hằng hà sa a tăng kỳ kiếp, vào đệ nhị hằng hà sa đẳng a tăng kỳ kiếp, giai đoạn cuối cùng của Hiền kiếp, có một ngàn bốn trăm đức Phật sắp thành Chánh Giác, ông sẽ được dâng cúng thức ăn cho tất cả các Ngài như nguyện của ông ở trên.
Sau khi Phật Na La Diên Thắng Diệp Bát Niết bàn, chánh pháp diệt xong, ông sẽ thành Chánh Giác hiệu là Lâu Chí Như Lai, Ứng Cúng, Chánh Biến Tri, Minh Hạnh Túc, Thiện Thệ, Thế Gian Giải, Vô Thượng Sĩ, Điều Ngự Trượng Phu, Thiên Nhân Sư, Phật Thế Tôn, sống lâu nửa kiếp, có các đệ tử Thanh Văn giống như đệ tử Thanh Văn của một ngàn bốn trăm đức Phật. Sự giáo hóa chúng sanh sau khi Bát Niết bàn, chánh pháp diệt cùng với Hiền kiếp, xá lợi, xương, răng hóa ra hình tượng Phật, cho đến… sanh vào trong cõi thiên, cũng lại như trước đã nói.
Bấy giờ, Bồ Tát Hỏa Tịnh Dược Vương bạch Phật:
– Bạch đức Thế Tôn! Nếu nguyện con thành tựu, bản thân con được lợi ích, cúi xin Như Lai đưa tay sắc vàng với trăm phước trang nghiêm xoa trên đảnh đầu con.
Thiện nam tử! Khi ấy Bảo Tạng Như Lai đưa tay với trăm phước trang nghiêm xoa trên đảnh đầu Hỏa Tịnh Dược Vương.
Thiện nam tử! Bồ Tát
Hỏa Tịnh Dược Vương được việc này xong, tâm rất hoan hỷ, liền lạy Phật, lui đứng một bên.
Bấy giờ, Phạm chí Bảo Hải đem y trời đẹp trao cho Bồ Tát Hỏa Tịnh Dược Vương và khen:
– Lành thay! Lành thay! Thiện nam từ! Nguyện của ông hết sức đặc biệt, hết sức kỳ lạ. Từ nay về sau không cần phải sách tấn ông nữa, ông thường được tự tại tu tập hạnh an lạc.
Bấy giờ, Phật bảo Bồ Tát Tịch Ý:
– Thiện nam từ! Khi ấy, Phạm chí Bảo Hải suy nghĩ: “Ta đã khuyên vô lượng vô biên trăm ngàn ức na do tha chúng sanh, làm cho an trụ Vô Thượng Chánh Đẳng Chánh Giác. Ta thấy các Đại Bồ Tát này, mỗi ngài đều phát nguyện nhận cõi Tịnh Độ, chỉ trừ Bà Do Tỷ Nựu. Các Bồ Tát khác trong Hiền kiếp này cũng xa lìa ngũ trược, trong đời cuối cùng ta sẽ đem pháp vị chơn chánh ban cho chúng sanh. Ta cũng sẽ làm các nguyện lành trang nghiêm bền vững như sư tử rống, khiến cho tất cả Bồ Tát nghe rồi rất lấy làm kỳ lạ, thán phục là việc chưa từng có. Lại khiến tất cả đại chúng: trời, rồng. quỷ, thần, càn thát bà, a tu la, ca lâu la, khẩn na la, ma hầu la già, ngươi và phi nhân chắp tay cung kính cúng dường ta, làm cho Phật Thế Tôn khen ngợi ta và thọ ký cho ta, làm cho chư Phật ở khắp vô lượng vô biên trong mười phương đang giảng thuyết chánh pháp mà khi nghe ta rống tiếng sư tử đều khen ngợi, thọ ký cho ta thành Chánh Giác và cũng sai sứ giả đi đến nơi làm cho đại chúng đều được thấy. Nay ta phát thệ nguyện lớn sau cùng là thành tựu hết thảy tâm đại bi của Bồ Tát, cho đến thành Chánh Giác xong, nếu có chúng sanh nào nghe danh hiệu đại bi của ta đều sanh tâm thán phục. Sau này, nếu có Bồ Tát nào thành tựu đại bi cũng sẽ nguyện nhận thế giới như vậy. Trong thế giới này có chúng sanh nào không biết chánh pháp, mờ mịt, không có mắt trí tuệ, ở trong bốn dòng nước dữ, các Bồ Tát này sẽ cứu hộ và thuyết pháp cho họ. Cho dến khi ta đã nhập Niết bàn, trong vô lượng vô biên các thế giới khắp mười phương trong hiện tại, chư Phật đều khen ngợi danh hiệu ta giữa các Bồ Tát và đại chúng, và cũng thuyết về thiện nguyện của ta, làm cho Bố Tát kia dùng đại bi xông ướp tâm. Sau khi chuyên tâm lắng nghe việc này thì họ rất kinh ngạc, khen chưa từng có, làm cho từ bi đã có thêm rộng lớn. Như ta đã nguyện nhận cõi bất tịnh, các Bồ Tát đây đều như ta, nơi thế giới bất tịnh thành Chánh Giác, cứu chúng sanh ra khỏi bốn dòng bạo lưu”, làm cho tu tập theo ba thừa, cho đến đắc Niết bàn.
Thiện nam tử! Sau khi tư duy về nguyện đại bi như vậy, Phạm chí Bảo Hải bày vai áo bên phải, đi đến gặp Phật. Bấy giờ có đến trăm ngàn vạn ức chư thiên trong hư không trởi âm nhạc trời, mưa vô số hoa, tất cả đồng thanh khen ngợi:
– Lành thay! Lành thay! Bậc đại trượng phu đang đi đến chỗ Phật để phát nguyện đặc biệt, muốn dùng nước trí tuệ diệt phiền não của chúng sanh trong thế gian.
Bấy giờ, tất cả đại chúng cùng chắp tay cung kính, ở trước Phạm chí đồng thanh lễ kính và khen ngợi:
– Lành thay! Lành thay! Bậc Đại trí tuệ tôn kính. Chúng con đang được lợi ích lớn, có thể lập các nguyện trọn vẹn kiên cố. Chúng con nguyện được nghe tôn ý bằng thiện nguyện của ngài.
Khi ấy, ở ngay trước Phật, Phạm chí vừa quỳ gối bên phài sát đất thì ba ngàn đại thiên thế giới chấn động sáu cách, vô số âm nhạc không đánh tự vang lên, chim bay, thú chạy vang lên âm thanh hòa nhau, tất cả cây cối trổ hoa sái mùa. Trong tam thiên đại thiên thế giới, chúng sanh ở dưới đất đối với Vô Thượng Chánh Đẳng Chánh Giác, hoặc đã phát tâm, hoặc chưa phát tâm, chỉ trừ địa ngục, ngã quỷ, súc sanh hạ liệt. Ngoài ra, tất cả chúng sanh đều sanh tâm lợi ích lớn, tâm thuần thiện, tâm không oán tặc, tâm không uế trược, tâm từ, tâm hy hữu. Chúng sanh trên không đang ở trên hư không đều phát tâm hoan hỷ, dâng vô số hoa, vô số âm nhạc, tràng phan, y phục để cúng dường, âm thanh nhẹ nhàng, vi diệu, ca ngợi Phạm chí… Tất cả đều nhất tâm muốn nghe Phạm chí phát thiện nguyện. Đến như chư thiên trên trời A Ca Ni Tra cũng xuống Diêm Phù Đề, ở trong hư không dâng vô số hoa, hương bột, hương xoa, vô số âm nhạc, tràng phan, y phục để cúng dường. Âm thanh nhẹ nhàng, vi diệu, tán thán, ca ngợi Phạm chí, nhất tâm tinh cần đều muốn nghe Phạm chí phát thệ nguyện.
Khi ấy, Phạm chí Bảo Hải chắp tay cung kính, nói kệ khen Phật:
An trụ thiền định
Như đại Phạm vương
Sáng rực trang nghiêm
Như Thiên Đế Thích
Bố thí tài sản
Như Chuyển Luân Vương
Giữ trân bảo đẹp
Như thần Chủ tàng
Năng lực tự tại
Như Sư tử vương
Không thể lay động
Như núi Tu Di
Tâm luôn ổn định
Như nước biển lớn
Nơi tội không tội
Tâm Ngài như đất
Trừ các phiền não
Như nước trong sạch
Thiêu các kiết tử
Như ngọn lửa mạnh
Không bị các chướng
Như trận gió lớn
Biểu hiện pháp thật
Như Tứ thiên vương
Tuôn mưa pháp vũ
Như đại Long vương
Tràn ngập tất cả
Giống như đang mưa
Phá các ngoại đạo
Như đại Luận sư
Hương thơm tỏa khắp
Như hoa Tu-man
Diệu âm thuyết pháp
Giống như Phạm thiên
Trừ các khổ não
Như Đại Y vương
Tâm bình đẳng khắp
Như mẹ thương con
Hộ vệ chúng sanh
Giống như cha lành
Thân không thể hoại
Như núi Kim cang
Chặt đứt nhánh ái
Giống như dao bén
Vượt biển sanh tử
Giống như thuyền trưởng
Dùng trí vớt người
Giống như ghe thuyền
Sáng chói trong lành
Như trăng tròn đầy
Nở hoa chúng sanh
Như trời mới mọc
Ban cho chúng sanh
Bốn quả Sa môn
Như cây mùa thu
Sanh các quả tốt
Tiên thánh vây quanh
Giống như phượng hoàng
Ý Ngài sâu rộng
Giống như biển lớn
Bình đẳng mọi loài
Giống như cây cỏ
Rõ các pháp tướng
Như xem tay không
Sống đời bình đẳng
Phẳng như mặt nước
Thành tựu diệu tướng
Đầy đủ đại bi
Hay thọ ký cho
Vô lượng chúng sanh
Nay con điều phục
Vô lượng chúng sanh
Cúi xin Như Lai
Thọ ký cho con
Nơi đời vị lai
Thành tựu thắng đạo
Đại tiên Thế Tôn
Trí tuệ vi diệu
Xin dùng diệu âm
Chân thật nói ra
Con nơi đời ác
Siêng tu các nhẫn
Đánh giặc phiền não
Cùng các kiết sử
Cứu độ vô lượng
Tất cả chúng sanh
Sống được an lạc
Trong đạo tịch diệt.
Thiện nam tử! Khi Phạm chí Hải Bảo thuyết kệ tán thán Phật xong, tất cả đại chúng đều khen:
– Lành thay! Lành thay! Đại trượng phu tán thán đức Như Lai pháp vương rất hay.
Khi ấy, Phạm chí lại bạch Phật:
– Bạch đức Thế Tôn! Con đã giáo hóa vô lượng đức chúng sanh phát tâm Vô Lượng Chánh Đẳng Chánh Giác. Các chúng sanh này nguyện nhận thế giới tịnh diệu, lìa cõi bất tịnh, đem tâm thanh tịnh trồng các căn lành, khéo hộ trì chúng sanh để điều phục họ. Đồng tử Hỏa Man, v.v… một ngàn bốn trăm người cùng đọc tụng ngoại điển Tỳ Đà, Như Lai đã vì số người này mà thọ ký cho họ trong Hiền kiếp sẽ được thành Phật. Có các chúng sanh làm nhiều việc tham dâm, sân si, kiêu mạn, sẽ được điều phục tất cả và an trụ trong ba thừa. Một ngàn bốn trăm Phật này đã từ bỏ những phiền não sâu dầy của chúng sanh như là: đời ngũ trược xấu ác hay tạo tội ngũ nghịch, phá hoại chánh pháp, phỉ báng Thánh nhân, thực hành tà kiến, lìa bảy tài sản của Thánh, bất hiếu cha mẹ; đối với Sa môn, Bà la môn không có tâm cung kính; làm những việc không nên làm, việc nên làm lại không làm, không làm việc phước, không sợ đời sau; tâm không muốn thực hành ba loại phước, không cầu quả báo trên trời, trong loài người; siêng làm việc ác hướng đến ba bất thiện, xa lìa thiện tri thức, không biết gần gũi người trí tuệ chân thật; luân hồi ba cõi, ở trong ngục sanh tử, trôi lăn theo bốn dòng dữ, chìm đắm nơi sông tro, bị si mê làm cho tối tăm, xa lìa các nghiệp lành, chuyên làm vị Phật kia xả bỏ nghiệp ác… Chúng sanh như vậy, thế giới của chư Phật không dung nạp, ruồng đuổi, nên đến tập họp ở thế giới này. Do xa lìa nghiệp lành, hành động theo hạnh nghiệp chẳng thiện, tập hợp những tội hết sức xấu xa của tà đạo lại như núi lớn.
Khi ấy, thế giới Ta Bà trong Hiền kiếp, người sống một ngàn tuổi, một ngàn bốn trăm đức Phật này không thành tựu đại bi, không nhận đời tệ ác như ở đây, khiến các chúng sanh bị luân chuyển trong sanh tử giống như máy xoay tròn không có người cứu độ, không nơi nương tựa, không nhà cửa, đèn đuốc, chịu các khổ não mà bị các vị Phật kia xả bỏ. Lại đều nguyện nhận lấy thế giới tịnh diệu, chúng sanh trong tịnh độ phải tự hoàn thiện bản thân trước, tâm thanh tịnh xong thì siêng năng tinh tấn trồng căn lành. Đã được cúng dường vô lượng chư Phật, lại được các Ngài hộ trì. Bạch đức Thế Tôn! Có thật các người này là như vậy không?
Thế Tôn bảo với Phạm chí:
– Đúng thật như đã nói. Thiện nam tử! Các người này nhận vô số thế giới trang nghiêm theo sở thích, ta tùy theo sự ưa thích đó mà thọ ký.
Phạm chí lại bạch Phật:
– Bạch đức Thế Tôn! Nay tâm con giao động như là nơi cây hoa. Tâm tất lo buồn, thân tiều tụy. Các Bồ Tát này tuy phát đại bi, không thể nhận thế giới ngũ trược xấu ác này, để cho các chúng sanh kia rơi vào si ám tối tăm.
– Bạch đức Thế Tôn! Đời vị lai trải qua một hằng hà sa a tăngkỳ kiếp, vào dệ nhị hằng hà sa a tăng kỳ kiếp, trong thời gian cuối cùng của Hiền kiếp, loài người thọ một ngàn tuổi, bấy giờ con sẽ hành đạo Bồ Tát, ở mãi trong sanh tử nhận chịu các khổ. Nhờ năng lực Tam muội, nên Bồ Tát sẽ quyết không bỏ chúng sanh.
– Bạch đức Thế Tôn! Từ nay con thực hành sáu Ba la mật, điều phục chúng sanh. Như Phật dạy: đem tài vật bố thí, gọi là bố thí Ba la mật.
– Bạch đức Thế Tôn! Khi con thực hành bố thí Ba la mật, nếu có chúng sanh đời đời theo con cầu xin vật cần dùng, tùy theo sự cầu xin, con sẽ cung cấp đủ thức ăn uống, y phục, vật dụng nằm, thuốc hang, nhà cửa, xóm làng, hương hoa, anh lạc, hương xoa thân, cung cấp thuốc men cho người bệnh, kẻ hầu hạ, tràng phan, bảo cái, tiền tài, lúa gạo, lụa là gấm vóc, voi ngựa, xe cộ, vàng bạc, tiền của, chân châu, lưu ly, pha lê, kha bối, ngọc bích, san hô, vật quý, giống như vật quý, mão trời, cây phất đẹp. Đối với chúng sanh bần cùng, con phát tâm đại bi đem bố thí cho hết cả. Tuy làm việc bố thí như vậy, con không cầu quả báu trên trời hay trong nhân gian, chỉ vì điều phục, cứu giúp chúng sanh. Vì lý do này nên con xả bỏ hết tư hữu của mình. Nếu chúng sanh nào cầu xin quá nhiều, như là cầu xin tôi tớ, xóm làng, thành ấp, vợ con, nam nữ, tay chân, mũi lưỡi, đầu, mặt, da thịt xương máu, thân mạng…, cầu xin vô số vật như vậy, khi ấy con sẽ phát tâm dại bi đem các vật này bố thí, không cầu quả báo, chỉ vì điều phục, cứu giúp chúng sanh.
– Bạch đức Thế Tôn! Khi con bố thí Ba la mật, các Bồ Tát trong quá khứ bố thí Ba la mật không sánh kịp. Thời vị lai, các Bồ Tát phát tâm thành Chánh Giác bố thí Ba la mật cũng không sánh kịp.
– Bạch đức Thế Tôn! Đời vị lai nếu có người muốn hành đạo Bồ Tát, con sẽ giúp họ bố thí Ba la mật như vậy, làm cho không ngừng nghỉ. Khi con bắt đầu trì giới Ba la mật, vì Vô Thượng Chánh Đẳng Chánh Giác nên giữ vô số giới, tu các hạnh khổ như trong bố thí đã nói.
– Con quán vô ngã nên năm căn không bị năm trần làm thương tổn nhờ nhẫn nhục Ba la mật. Con hành nhẫn nhục Ba la mật cũng như đã nói ở trên. Quán pháp hữu vi, xa lìa các tội ác, thấy pháp vô vi vi diệu, vắng lặng, tinh tấn nên tu tập đạo Vô thượng không thối lui. Đây là tinh tấn Ba la mật.
– Con hành tinh tấn Ba la mật như vậy thuận theo tất cả nơi chốn mà tu hành tướng không, được pháp tịch diệt thì gọi đó là thiền định Ba la mật. Nếu hiểu rõ tánh các pháp vốn không sanh, nên không diệt, gọi đó là Bát Nhã Ba la mật.
Trong vô lượng ức a tăng kỳ kiếp, con siêng năng kiên cố tu tập Bát Nhã Ba la mật. Vì sao? – Đời quá khứ có Bồ Tát vì không chứng thành Chánh Giác mà vẫn tu hành Bồ Tát đạo, siêng năng kiên cố tinh tấn tu tập Bát Nhã Ba la mật . Đời vị lai có Bồ Tát vì chưa chứng thành Chánh Giác nên hành đạo Bồ Tát siêng năng kiên cố, tinh tấn tu tập Bát Nhã Ba la mật. Do đó, vào đời vị lai con sẽ tu Bồ Tát đạo, phát tâm thành Chánh Giác, làm cho các pháp lành không đoạn tuyệt.
– Bạch đức Thế Tôn! Khi con mới phát tâm, đã chỉ dạy đại bi cho các Bồ Tát đời vị lai, cho đến Niết bàn. Người nào được nghe tên đại bi của con thì kinh ngạc cho là kỳ lạ và khen là việc chưa từng có. Do đó, đối với việc bố thí con không tự khen ngợi mình, không ỷ lại vào trì giới, không nhớ nghĩ đã nhẫn nhục, không ỷ lại tinh tấn, không đắm các vị ngọt của thiền. Trí tuệ có được không chấp vào ba đời. Tuy thực hành sáu Ba la mật như thế nhưng không cầu quả báo. Có các chúng sanh xa lìa bảy Thánh tài, bị vất bỏ vào thế giới không có Phật, tạo tội ngũ nghịch, hủy hoại chánh pháp, phỉ báng Thánh hiền, thực hành đạo tà, tội ác rất nặng giống như núi lớn, thường bị đạo tà che lấp, cho nên nay con vì các chúng sanh ấy mà chuyên tâm trang nghiêm tinh tấn tu tập sáu Ba la mật. Con cũng sẽ gieo trồng căn lành cho từng chúng sanh. Trong mười trung kiếp, con nguyện vào địa ngục A Tỳ chịu vô lượng khổ, trong ngã quỷ, súc sanh và quỷ thần bần cùng, người trong hạng ti tiện cũng như vậy. Nếu có chúng sanh hoàn toàn không có căn lành, mất chánh niệm, tâm cháy bỏng, con đều bảo hộ để điều phục, làm cho họ trồng căn lành cho đến Hiền kiếp. Vào giữa chừng, con không ước nguyện hưởng thụ các diệu lạc trên trời, trong loài người, chỉ trừ một lần sanh ở cõi trời Đâu Suất, đợi lúc thành Phật.
– Bạch đức Thế Tôn! Con sẽ ở mãi trong sanh tử với số kiếp như vi trần trong một thế giới Phật, đem các vật cần dùng cúng dường chư Phật, vì từng mỗi một chúng sanh mà trồng căn lành. Đem vô số các thức cúng dường như vi trần trong một thế giới Phật, cúng dường vô lượng vô biên từng đức Phật trong khắp mười phương. Lại đối với vô lượng vô biên các đức Phật khắp mười phương được vô số công đức lành như vi trần trong một thế giới Phật. Ở trước mội đức Phật giáo hóa vô số chúng sanh nhiều như vi trần trong một thế giới Phật, làm cho họ trụ vào đạo Vô thượng Bồ đề; Thanh Văn, Duyên Giác cũng như vậy. Tùy theo nguyện của các chúng sanh mà chỉ dạy. Với thế giới nào chưa có Phật xuất hiện ở đời, nguyện làm Tiên nhơn giáo hóa các chúng sanh, làm cho họ hành theo Thập thiện, được năm thần thông, xa lìa các tà kiến.
– Nếu có chúng sanh thờ trời Đại Tự Tại, con nguyện hóa thân như trời Ma Hê Thủ La để giáo hóa họ, làm cho trú vào thiện pháp. Nếu họ thờ phụng thần Tám tay, con cũng nguyện hóa họ, làm cho trụ vào thiện pháp. Nếu họ thờ phụng thần Nhật Nguyệt Phạm Thiên, con cũng nguyện hóa làm thân Nhật Nguyệt Phạm Thiên để giáo hóa, làm cho họ trụ thiện pháp. Nếu họ thờ phụng chim cánh vàng, cho đến thờ thỏ, con cũng nguyện hóa làm thân thỏ, thân chim để theo giáo hóa, làm cho họ trụ thiện pháp.
– Thấy chúng sanh đói khát, con sẽ đem thân máu thịt bố thí cho họ, làm cho họ được no đủ. Nếu có chúng sanh phạm các tội, con sẽ đem thân mạng chịu tội thay để cứu giúp họ.
– Bạch đức Thế Tôn! Trong đời vị lai có các chúng sanh xa lìa các căn lành, thiêu đốt, tiêu diệt các căn lành, bấy giờ con vì các chúng sanh ấy mà siêng năng tinh tấn hành đạo Bồ Tát, chịu các khổ não ở trong sanh tử. Cho đến trải qua một hằng hà sa a tăng kỳ kiếp, vào đệ hằng hà sa a tăng kỳ kiếp, thời gian cuối cùng, lúc bắt đầu Hiền kiếp, đồng tử Hỏa Man thành Chánh Giác tên là câu Lưu Tôn Như Lai. Khi ấy, con sẽ giáo hóa những chúng sanh nào đã xa lìa các thiện nghiệp, thực hành nghiệp bất thiện, thiêu đốt thiện tâm, lìa bảy Thánh tài, tạo tội ngũ nghịch, phá hoại chánh pháp, phỉ báng Thánh nhân, thực hành tà kiến, tội càng ác giống như núi lớn, thường bị đạo tà che lâp, bị vất bỏ vào thế giới không có Phật, con sẽ khiến cho họ phát tâm thành Chánh Giác, tu hành bố thí Ba la mật, cho đến Bát Nhã Ba la mật, trụ yên nơi địa vị Bất thối chuyển, làm cho thành Phật ở từng cõi Phật khắp mười phương thế giới nhiều như vi trần, chuyển bánh xe chánh pháp, làm cho chúng sanh trồng các căn lành nơi Vô Thượng Chánh Đẳng Chánh Giác, ra khỏi ác đạo, an trụ nơi công đức trí tuệ và pháp trợ Bồ Đề. Nguyện cho khi ấy, con được thấy hết tất cả.
– Bạch đức Thế Tôn! Nếu có chư Phật ở bất cứ nơi nào sai các chúng sanh đến gặp Phật, nhận thọ ký thành Chánh Giác, làm cho được Tam muội nhẫn nhục Đà la ni thì được tuần tự tiến lên địa vị Bồ Tát, được thế giới với vô số trang nghiêm. Mỗi vị được tùy ý nhận Phật độ thanh tịnh như đã nguyện. Những chúng sanh ấy đều do con khuyến hóa. Vào Hiền kiếp, khi Phật Câu Lưu Tôn xuất hiện ở đời, các chúng sanh này cũng ở nơi vô số thế giới chư Phật như vi trần khắp mười phương mà thành Chánh Giác. Sự trụ thế và thuyết pháp của các vị ấy, ở bất kỳ nơi nào con cũng đều được thấy.
– Bạch đức Thế Tôn! Khi Phật Câu Lưu Tôn thành Phật, con đến gặp Ngài và đem đầy đủ thức cúng dường, thưa hỏi vô số pháp xuất gia. Đối với sự trì giới thanh tịnh, học rộng, nghe nhiều, chuyên tu Tam muội, siêng năng tinh tấn, thuyết vi diệu pháp, chỉ trừ Như Lai, ngoài ra không ai có thể hơn con được. Bấy giờ, nếu có chúng sanh nào độn căn, không có các căn lành, bị đọa tà kiến, hành đạo bất chánh, tạo tội ngũ nghịch, hủy báng chánh pháp, phỉ báng Thánh hiền, tội ác rất nặng giống như núi lớn; khi ấy con sẽ vì chúng sanh này thuyết chánh pháp, hộ trì, điều phục. Sau khi mặt trời Phật lặn xong, tự nhiên con sẽ làm vô số Phật sự, kể cả thời Phật Già Na Ca Mâu Ni, Phật Ca Diếp, v.v… trụ thế, thuyết pháp, con cũng tự nhiên làm Phật sự như vậy.
– Đến khi loài người sống một ngàn tuổi, lúc ấy con khuyên các chúng sanh làm ba loại phước. Qua một ngàn tuổi xong, con lại sanh lên cõi trời, vì chư thiên giảng thuyết chánh pháp, làm cho họ được điều phục.
– Đến khi loài người thọ một trăm hai mươi tuổi, bấy giờ chúng sanh ngu si, ngang ngược, tự ỷ xinh đẹp, thuộc dòng sang quý, làm các việc buông lung, keo kiệt, tật đố, đọa đời ác năm trược tối tăm; rất nặng về tham dục, sân hận, ngu si, kiêu mạn, keo kiệt, tật đố, hành động phi pháp, muốn cầu tài sản phi pháp, thi hành tà kiến điên đảo, xa lìa bảy Thánh tài, bất hiếu cha mẹ, đối với các Sa môn, Bà la môn không có tâm cung kính, việc đáng làm không làm, việc không đáng làm lại làm, không thực hành việc phước, không sợ đời sau, không siêng năng tu tập ba loại phước, không thích ba thừa, đối với ba thiện căn không thể tu hành, chuyên làm ba điều ác, không tu mười pháp thiện, siêng làm mười điếu ác, tâm thường bị bốn điên đảo che lấp, sống trong bốn việc phá giới, làm cho bốn ma vương thường được quyền lực, trôi lăn trong bốn dòng nước dữ, năm triền cái che tâm. Trong đời tương lai, chúng sanh như vậy sáu căn buông lung, thi hành tám pháp tà, vào núi tội lớn, bày ra các sự trói buộc, không cầu quả báo trên trời, trong loài người, bị các tà kiến điên đảo, chạy theo đạo tà, gây tội ngũ nghịch, phá hủy chánh pháp, phỉ báng Thánh nhân, xa lìa các thiện căn, bần cùng, hạ tiện, không biế e sợ, không biết ân nghĩa, mất chánh niệm, khinh chê pháp lành, không có trí tuệ, không chịu học hỏi, phá giới, dua nịnh; do tâm ghen ghét nên đối với vật đã có không phân chia cho người, không cung kính, khinh mạn lẫn nhau, thêm lười biếng, trễ nải, các căn thiếu khuyết, thiếu thốn cơm áo, thân thể tiều tụy, gần gũi bạn ác, thất niệm khi trong thai; do chịu vô số khổ não nên nhan sắc xấu xí, tiều tụy, nhìn nhau không biết xấu, không biết hổ, gây sợ hãi nhau cả trong từng bữa ăn; nghiệp thân, khẩu, ý tạo vô lượng vô biên các nghiệp ác. Do hay làm ác nên được khen ngợi. Bấy giờ chúng sanh cùng chuyên tu tập hai thứ: đoạn kiến, thường kiến; tham đắm vào thân ngũ ấm mỏng manh không chắc thật. Đối với năm dục lạc sanh tham luyến sâu nặng, thường phát sanh tâm như giặc cướp, giận dữ muốn hại chúng sanh. Tâm thường nóng giận, khổ não, uế trược, thô lậu; đối với keo kiệt, tham trước, chưa được điều phục, không bỏ pháp quấy, không thể quyết định, sanh cạnh tranh nên sợ hãi lẫn nhau. Do tâm uế trược cùng giết hại nhau, xa lìa thiện pháp nên khởi tâm không lành làm các nghiệp ác, không tin quả báo thiện, chẳng thiện. Tâm trái chống đối với các pháp lành. Pháp lành diệt, tâm sanh hoan hỷ, phát tâm chuyên lành pháp chẳng thiện, tâm không cầu pháp tịch diệt Niết bàn, tâm không cung kính Sa môn, Bà la môn trì giới; phát tâm mong cầu các trói buộc, phát lòng tin nơi lão, bệnh, tử, phát tâm thọ trì các phiền não, phát tâm giữ gìn pháp ngũ nghịch, khởi tâm dẹp bỏ cờ chánh pháp, sanh tâm dựng lập cờ các tà kiến. Thường sanh tâm khinh hủy, trái chống nhau, sanh tâm tranh giành nhau ăn uống. Mọi người cùng trái chống nhau, xâm lăng nhau, giữ gìn tâm oán hận, não loạn. Đối với các dục xấu ác, tâm không hề nhàm chán. Đối với tài vật của người, sanh tâm ghen ghét. Đối với việc thọ ân không có tâm báo đền. Khởi tâm trộm cướp đối với các chúng sanh, khởi tâm chiếm đoạt đối với phụ nữ của người… Bấy giờ trong tất cả tâm của chúng sanh không có ý nguyện lành. Do đó nên thường nghe tiếng địa ngục, ngã quỷ, súc sanh; tiếng tật bệnh, già, chết; tiếng não hại; tám nạn; tiếng gông cùm, xiềng xích trói buộc; tiếng xâm phạm não hại, đoạt tài vật của người; tiếng sân giận. khinh hủy, trách mắng; tiếng phá hoại sự hòa hiệp của mọi người; tiếng binh giáp của nước giặc khác; tiếng đói khát, tiếng trộm cắp thóc lúa, vật quý trọng; tiếng tà dâm, vọng ngữ, cuồng si; tiếng lưỡng thiệt, ác ngôn, ỷ ngữ; tiếng keo kiệt, tật đố, bảo thủ; tiếng đấu tranh do đắm trước về ngã; tiếng yêu, ghét, vừa ý, không vừa ý; tiếng ân ái, biệt ly buồn khổ; tiếng oán ghét mà phải gặp gỡ gây khổ não; tiếng mọi người tôi tớ sợ nhau; tiếng ở trong thai hôi hám, nhơ nhớp; tiếng nóng lạnh, đói khát, mệt nhọc, tiếng cầy bừa trồng trọt mất mùa; tiếng vô số nghề nghiệp mệt nhọc; tiếng tật bệnh, hoạn nạn, khổ đau, ốm gầy, hao tổn… Bấy giờ chúng sanh thường nghe những tiếng như vậy, bỏ mất các thiện căn, xa thiện tri thức, thường sân giận. Chúng sanh như vậy đầy khắp cả thế giới Ta Bà, thế giới mà chư Phật ở phương khác từ bỏ.
– Do nghiệp nặng nên loài người ở trong Hiền kiếp thọ một trăm hai mươi tuổi. Chúng sanh do nhân duyên nghiệp báo nên ở thế giới Ta Bà chịu sự kém cỏi, bị xa lìa hết thảy các căn lành. Đất ở thế giới Ta Bà có nhiều chất mặn, cằn cỗi, xấu xí, với đất cát, đá vụn, núi gò, đồng đất, khe lạch, hang ngòi, ao rãnh hiểm hóc, muỗi mòng, rắn độc; trong đó đầy dẫy những chim thú ác, gió độc thô rít thường nổi lên, thường rơi mưa đá, nước mưa có chất mặn. Do nước mưa này, các cây cối, cỏ thuốc, cây lớn sanh ra với thân cây, nhánh, lá, hoa, quả, trăm loại thực vật đều lẫn lộn chất độc với các vật thô rít, dơ xấu đều bị nhiễm chất độc trái thời này. Chúng sanh ăn xong càng thêm sân giận, nhan sắc tiều tụy không tươi nhuận, không có lòng thương. Các chúng sanh phỉ báng Thánh nhân, mọi người không có tâm cung kính, thường sanh tâm khủng bố, não loạn, tàn hại lẫn nhau, uống máu, ăn thịt, lột da làm áo, cất giữ dao gậy, siêng làm việc sát hại. Tự ỷ hào tộc, tướng mạo sinh đẹp, đọc tụng ngoại điển, học cỡi ngựa, xử dụng rành rẽ giáo, mác, cung tên, sanh tâm ganh ghét quyến thuộc của mình.
– Nếu các chúng sanh tu tập tà pháp thì chịu vô số khổ.
– Bạch đức Thế Tôn! Con nguyện lúc ấy từ cõi trời Đâu Xuất hạ sanh vào nhà Tối Thắng Chuyển Luân Vương, ở trong thai của đệ nhất đại phu nhân của vương gia mà điều phục tâm vương gia. Chúng sanh tu thiện nghiệp nên ngay khi nhập thai, phóng ánh sáng lớn, ánh sáng đó vi diệu chiêu khắp thế giới Ta Bà, từ nền Kim cang lên đến cõi trời A Ca Nị Tra, làm cho các chúng sanh trong thế giới đó, hoặc tại địa ngục, ngã quỷ, súc sanh, hoặc trên trời, trong nhân gian, hoặc có sắc, không sắc, có tưởng, không tưởng, hoặc phi hữu tưởng, phi vô tưởng đều nguyện được thấy ánh sáng vi diệu của con. Nếu ánh sáng chạm thân họ thì cũng nguyện biết được. Do thấy biết ánh sáng nên phân biệt được lỗi lầm sanh tử, siêng cầu Niết bàn tịch diệt vô thượng, cho đến trong một niệm trừ sạch các phiền não. Đó là dậy chúng sanh bắt đầu trồng mầm móng Niết bàn.
– Nguyện con mười tháng ở trong thai biết chọn lựa được tất cả pháp để thâm nhập tất cả pháp môn, đó là: Vô sanh môn, Không môn, Tam muội môn và trong vô lượng kiếp đời vị lai thuyết giảng Tam muội này với tâm hoàn toàn quyết định, không thể hết được. Nếu con ra khỏi thai, thành Chánh Giác xong, con sẽ đưa các chúng sanh kia thoát khỏi sanh tử, làm cho các chúng sanh ấy đều được thấy con. Tuy ở trong thai mẹ đủ mười tháng, nhưng thật ra là ở trong Tam muội trân bảo, ngồi kiết già ngay thẳng, chánh định tư duy. Đủ mười tháng xong, con từ hông bên phải đi ra, đem tất cả công đức thành tựu năng lực Tam muội. Do đó thế giới Ta Bà từ nền Kim cang lên đến trời A Ca Nị Tra đầy chấn động sáu cách. Trong đó, các chúng sanh hoặc ở địa ngục, ngã quỷ, súc sanh, trên trời, trong loài người đều được tỉnh ngộ. Khi ấy, lại có ánh sáng vi diệu chiếu khắp thế giới Ta bà, làm cho vô lượng vô biên chúng sanh đều được tỉnh ngộ. Hoặc có chúng sanh chưa trồng căn lành, con sẽ làm cho trồng căn lành. Đối với Niết bàn đã trồng căn lành xong, con làm cho các chúng sanh này nẩy mầm Tam muội. Từ hông bên phải của mẹ bước ra, khi chân đạp đất, con lại nguyện: thế giới Ta Bà từ nền Kim Cang lên đến trời A Ca Nị Tra chấn động sáu cách, có các chúng sanh sống trên đất, trên nước, trong hư không thuộc noãn sanh, thai sanh, thấp sanh, hóa sanh trong năm cảnh giới đều được tỉnh ngộ.
– Nếu chúng sanh nào chưa được Tam muội, nguyện họ đạt được và làm cho an trụ địa vị Bất thối chuyển trong pháp ba thừa. Sau khi sanh xong, con làm cho chư thiên, Phạm vương, ma thiên, chư thiên Đao Lợi và Nhật Nguyệt thiên, Tứ thiên vương thiên, chư Đại Long vương, Càn thát bà, A tu la, Ca lâu la, Khẩn na la, Ma hầu la già, thần tiên hóa sanh, dạ xoa, la sát ở thế giới Ta Bà, tất cả cùng đến cúng dường con.
– Nguyện cho con sanh xong liền đi bảy bước. Sau khi đi đủ bảy bước, đem năng lực Tam muội lựa chọn công đức ra thuyết chánh pháp, làm cho các đại chúng tâm hoan hỷ trụ vào ba thừa. Ở trong chúng này, có chúng sanh nào học về Thanh Văn, nguyện hết đời này liền được giải thoát. nếu có người học tập Duyên Giác Đại thừa được Tam muội Chấp trì Kim cang ái hộ đại hải. Nhờ sức Tam muội này nên họ đạt đến địa thứ ba.
– Ngay khi con mong sự tắm rửa, nguyện có Đại Long vương tối thắng đến tắm rửa cho con, chúng sanh nào thấy được liền trụ vào ba thừa, đạt được công đức như nói ở trên.
– Khi con làm đồng tử cỡi xe dê, có thể thị hiện vô số kỹ thuật. Để làm cho tất cả chúng sanh tỉnh ngộ nên đang ở trong cung điện cùng vợ con, thể nữ vui tươi ngũ dục, con thấy các lỗi lầm, nửa đêm vượt thành, cởi bỏ anh lạc và các vật tốt đẹp đang trang sức trên thân.
– Vì muốn phá hoại các ngoại đạo sư, ni kiền tử, v.v… cung kính về y phục nên con mặc ca sa đến dưới cây Bồ đề. Thấy con ở dưới gốc cây Bồ đề, tất cả chúng sanh đều phát nguyện: muốn con mau dùng tất cả công đức để thành tựu sức Tam muội và thuyết pháp ba thừa. Ai nghe pháp này xong, sanh tâm tôn trọng sâu sắc đối với ba thừa, muốn siêng năng thực hành tinh tấn. Nếu người nào đã phát tâm Thanh Văn thừa thì con làm cho họ thoát phiền não, chỉ cần một đời nhờ nơi con mà được điều phục, Nếu người nào đã phát Duyên Giác thừa thì con làm cho tất cả đều được Nhật Hoa nhẫn nhục. Nếu người nào phát tâm Đại thừa thì được chấp trì Tam muội Kim cang ái hộ đại hải. Do năng lực Tam muội này nên vượt đến địa thứ tư. Con tự nhận cỏ, trải tòa Kim cang dưới gốc cây Bồ đề, ngồi kiết già, thân tâm ngay thẳng, buộc niệm nơi A phả Tam muội. Do năng lực Tam muội nên làm cho hơi thở ra vào an trú vào vắng lặng. Khi tu định này, trong một ngày một đêm, ăn nửa hạt mè, nửa hạt gạo, đem nửa hạt còn lại bố thí cho người khác. Con tu tập khổ hạnh lâu xa như vậy, từ thế giới Ta Bà lên đến trời A Ca Nị Tra, ai nghe tên con đều đến cúng dường. Con tu khổ hạnh như vậy, các chúng sanh ấy đều sẽ chứng minh cho con. Có chúng sanh nào trồng thiện căn nơi Thanh Văn thừa, bạch đức Thế Tôn, con nguyện làm cho các chúng sanh ấy không còn các tâm phiền não. Nếu chỉ còn một đời là giải thoát, cần phải đến gặp con, con sẽ điều phục, đối với Duyên Giác, Đại thừa cũng vậy.
– Nếu có các rồng, quỷ, thần, Càn Thát Bà, A Tu La, Khẩn Na La, Ma Hầu La già, ngã quỷ, tỳ xá giá, ngũ thông thần tiên… đi đến chỗ con để cúng dường, con tu khổ hạnh như vậy, các chúng sanh ấy đều làm chứng cho. Nếu người nào đã học Thanh Văn, Duyên Giác và Đại Thừa thì cũng nhu vậy.
– Nếu có chúng sanh trong tứ thiên hạ tu theo khổ hạnh ngoại đạo, ăn uống thô sơ, có các phi nhân đi đến gặp vị đó, nói: “Các ngươi không thể tu hết các hạnh khổ, cũng không được quả báo lớn, không phải là hy hữu, trong địa phận của ta có vị Nhất sanh Bồ Tát thực hành khổ hạnh lại nhập thiền định vi diệu; thân, khẩu, ý nghiệp đều vắng lặng như hơi thở vào ra, một ngày một đêm chỉ ăn nửa hạt mè, nửa hạt gạo. Khổ hạnh như vậy thì được quả báo lớn, được lợi ích lớn, được giáo hóa rất nhiều, người khổ hạnh như vậy không lâu sẽ thành Chánh Giác. Nếu ngươi không tin lời ta, hãy đi đến chỗ đó chiêm ngưỡng việc làm của vị ấy”.
– Bạch đức Thế Tôn! Con nguyện các người này bỏ cách tu của mình, đi đến chiêm ngưỡng sự khổ hạnh của con, hoặc có chúng sanh đã học Thanh Văn cho đến Đại thừa cũng như trên.
– Nếu có các quốc vương, đại thần, nhân dân, tại gia, xuất gia, thấy con tu khổ hạnh như vậy, đều đi đến chỗ con cúng dường. Hoặc có chúng sanh đã học Thanh Văn, Duyên Giác, Đại thừa cũng như vậy.
– Nếu có người nữ thấy con khổ hạnh, đi đến chỗ con cúng dường. Các người nữ này được thọ thân phần, tức là thân nữ cuối cùng. Nếu có chúng sanh đã học Thanh Văn, Duyên Giác, Đại thừa cũng như vậy.
– Nếu có các cầm thú thấy con khổ hạnh cũng đến chỗ con, các cầm thú này qua đời ở đây không còn trở lại thân súc sanh. Nếu có người đã phát tâm Thanh Văn thừa, chỉ còn một đời, phải đi đến gặp con để điều phục. Nếu có người đã phát tâm Duyên Giác cũng như vậy, cho đến ngã quỷ, trùng nhỏ vi tế cũng như vậy.
– Con ngồi kiết già tu khổ hạnh lâu xa như vậy, khi ấy có trăm ngàn ức na do tha vô lượng chúng sanh chứng minh cho con. Vô lượng chúng sanh này ở vô lượng vô biên a tăng kỳ kiếp trồng hạt giống giải thoát.
– Bạch đức Thế Tôn! Con tu khổ hạnh như vậy, trong quá khứ chưa từng có chúng sanh nào thực hành được. Ngoài ra, Thanh Văn, Duyên Giác, Đại thừa ngoại đạo cũng không thể làm được các khổ hạnh như vậy.
– Bạch đức Thế Tôn! Con khổ hạnh như vậy, chúng sanh đời vị lai cũng không thể làm được. Ngoài ra, Thanh Văn, Duyên Giác, Đại thừa ngoại đạo cũng không có thể khổ hạnh như vậy.
– Khi con chưa thành Chánh Giác đã có thể làm Phật sự lớn, con nguyện phá ma phiền não, nghĩa là phá hoại ma vương và quyến thuộc của chúng. Thành Chánh Giác xong, làm cho một chúng sanh an trụ trong quả A La Hán thắng diệu, tùy theo họ mà thọ thân với quả báo của dư nghiệp. Như vậy, con làm cho chúng sanh thứ hai an trụ A La Hán. Thứ ba, thứ tư, dư nghiệp cũng như vậy. Con vì mỗi mỗi chúng sanh thị hiện vô lượng trăm ngàn thần túc, muốn làm cho họ an trụ trong chánh kiến, vì mỗi chúng sanh mà thuyết trăm ngàn vô lượng nghĩa pháp môn, tùy khả năng lãng thọ của họ mà làm cho đạt được thánh quả. Dùng trí tuệ Kim cang phá tất cả các núi phiền não của chúng sanh. Vì các chúng sanh thuyết pháp ba thừa, vì mỗi một chúng sanh nên đi qua trăm ngàn do tuần mà không dùng thần lực, đến đó để thuyết pháp cho chúng sanh, làm cho an trụ vô sở úy. Hoặc có những người muốn xuất gia trong pháp của con thì nguyện của họ không bị chướng ngại, nghĩa là không bị yếu kém, thất niệm, cuồng loạn, kiêu mạn, sợ hãi, ngu si không trí tuệ, nhiều trói buộc, tâm tán loạn. Nếu có người nữ muốn xuất gia trong pháp con để học đạo, thọ đại giới thì thành tựu nguyện lớn. Bốn chúng tỳ kheo, Tỳ kheo ni, Ưu bà tắc, Ưu bà di của con đều được cúng dường. Nguyện cho chư thiên và các quỷ thần được Tứ thánh đế. Các rồng, A Tu La và súc sanh khác thọ trì tám trai giới, tu phạm hạnh thanh tịnh.
– Bạch đức Thế Tôn! Khi con thành Chánh Giác xong, nếu chúng sanh nào sanh lòng sân hận với con; hoặc dùng dao gậy, hầm lửa và vô số các thứ khác muốn tàn hại con; hoặc khắp cả mười phương dùng lời mắng nhiếc, hủy báng, khinh chê; hoặc đem thức ăn độc cho con ăn, dư nghiệp như vậy con nhận hết. Khi con thành Chánh Giác, những chúng sanh oán tặc với con từ xưa, sanh tâm hại, nói vô số lời ác, dùng các thức ăn có trộn các chất độc, làm thân con ra máu. Khi những người như vậy đem ác tâm đi đến chỗ con, con sẽ dùng giới, đa văn Tam muội, đại bi huân tập tâm, tiếng Phạm âm vi diêu thuyết pháp cho họ, khiến cho những người kia nghe xong tâm liền thanh tịnh, trụ vào thiện pháp. Đối với các nghiệp đã tạo, họ lập tức xin sám hối, hoàn toàn không tạo trở lại, làm cho tất cả được sanh lên trời, trong loài người, không có chướng ngại, sanh trong chư thiên được giải thoát tốt đẹp, an trụ thắng quả, lìa các ác dục, sạch nghiệp, đoạn hẳn các dòng chướng ngại. Nếu có chúng sanh có nghiệp dư tàn đều được dứt hết.
– Bạch đức Thế Tôn! Khi con thành Chánh Giác xong, tất cả các lỗ chân lông nơi thân hằng ngày thường xuất hiện các vị hóa Phật có ba mươi hai tướng tốt, tám mươi vẻ đẹp, thứ tự trang nghiêm thân. Con sẽ sai đến thế giới không có Phật, thế giới có Phật và cõi ngũ trược. Nếu thế giới kia có người ngũ nghịch, hủy hoại chánh pháp, hủy báng thánh nhân, cho đến diệt mất các thiện căn. Có người học Thanh Văn, Duyên Giác, Đại thừa mà phá hủy các giới, tùy tội lớn thiêu đốt và tiêu diệt tâm lành, diệt mất thiện đạo, đọa trong sanh tử, ở trong đồng hoang vu, rừng chằm mà hành các đạo tà, bước lên núi tội. Chúng sanh như vậy có trăm ngàn vạn ức nên mỗi hóa Phật trong mỗi ngày đều thuyết pháp cho tất cả họ. Hoặc có người phụng thờ Ma Hê Thủ La, tùy theo đó con hiện thân hình để thuyết pháp cho họ. Cũng ngay khi ấy có tiếng xưng danh hiệu của con để khen ngợi. Nguyện chúng sanh này nghe khen ngợi con, tâm sanh hoan hỷ, trồng các thiện căn, được sanh về thế giới của con.
– Bạch đức Thế Tôn! Nếu khi các chúng sanh này lâm chung, con không ở trước họ thuyết pháp, làm cho tâm họ được thanh tịnh, đời vị lai con sẽ không thành Chánh Giác. Nếu chúng sanh kia sau khi qua đời, đọa trong ba đường ác, không sanh trong nước của con, không thọ thân người, thì vô lượng chánh pháp mà con hiểu biết sẽ diệt mất, các Phật sự không thành tựu.
– Với người thờ phụng Na La Diên cũng vậy.
– Bạch đức Thế Tôn! Khi con thành Chánh Giác xong, nguyện cho người ngũ nghịch ở thế giới phương khác, cho đến thi hành các đạo tà, bước lên núi tội, chúng sanh như vậy khi sắp qua đời đều được đến tập họp sanh vào thế giới của con, tùy theo tướng cũ mà thọ thân với mầu sắc tái mét không tươi nhuận, mặt mày xấu xí như Tỳ xá giá. Do thất niệm, phá giới, nhơ nhớp, đoản mạng…, các ác này tổn giảm thân mạng; của cải giúp cho đời sống thường bị thiếu hụt. Vì chúng sanh này nên con ở nơi tứ thiên hạ, trong thế giới Ta Bà, vào một lúc nọ, từ cõi Đâu Suất hạ xuống, thụ hiện ở trong thai mẹ, cho đến làm đồng tử học các kỹ thuật, xuất gia tu khổ hạnh, phá dẹp các ma, thành đạo Vô thượng, chuyển bánh xe chánh pháp, sau khi Bát Niết bàn lưu bố xá lợi, thị hiện vô số Phật sự như vậy khắp cả trăm ức các cõi tứ thiên hạ như ở đây.
Hết quyển thứ sáu
1 bạo lưu = Tứ lưu (Từ điển Phật học Hán Việt)
Tứ lưu gồm:
1)Kiến lưu:chỉ kiến hoặc của Tam giới
2)Dục lưu:chỉ tất cả các hoặc của Dục giới trừ “kiến” và “vô minh”
3)Hữu lưu:chỉ tất cả các hoặc của 2 giới trên, trừ “kiến” và “vô minh”.
Hữu có nghĩa là quả báo sinh tử chẳng mất. Tam giới tuy thông, nhưng
nay phân biệt mà gọi là “hai giới trên”
4)Vô minh lưu:chỉ vôminh của Tam giới, hữu tình vì bốn pháp này mà trôi nổi chẳng dứt, nên gọi là lưu