Giảng Giải
Phẩm Phổ Môn
Sâm Hạ Đại Viên
Dịch từ Nhật văn qua Hán văn: Đại sư Tinh Vân
Dịch từ Hán văn qua Việt văn: Thích nữ Hạnh Huệ
KỆ TỤNG PHẨM PHỔ MÔN
1- Hạnh Nguyện Đại Bi
Mặt trước đã nói qua, phẩm Phổ Môn chia ra hai loại thể tài: Trường hàng thể văn xuôi và kệ tụng thể văn vần. Trường hàng giải thích xong rồi, dưới đây giải về kệ tụng.
Về kệ tụng của phẩm này, Tam tạng pháp sư Cưu-ma-la-thập đời Diêu Tần đầu tiên lược đi chưa phiên dịch, đến đời Tùy Văn Đế, có hai Hòa thượng từ Bắc Thiên Trúc đến, một vị là Xà-na-quật-đa, một vị là Đạt-ma-cấp-đa, kệ tụng này chính là do hai người này dịch ra và thêm vào.
Kệ tụng còn được gọi là Trùng tụng, là phần văn xuôi đã nói qua ở trước, trong kệ tụng dùng văn vần thuật lại một lần nữa. “Kệ” tiếng Phạn là Già-đà, đây dịch là “Tụng”. Hoa Phạn gọi chung, do đó gọi là Kệ tụng. Là một loại ca hay, liên hợp lời đẹp mà ca tụng ra. Kệ tụng được gọi ở đây, chính là ngang với thi ca.
Nhĩ thời Vô Tận Ý Bồ-tát dĩ kệ vấn viết.
Ngay lúc Phật Thích-ca nói đến đây, Bồ-tát Vô Tận Ý lại dùng giọng điệu văn vần ra hỏi.
“Thế Tôn diệu tướng cụ
Ngã kim trùng vấn bỉ
Phật tử hà nhân duyên
Danh vi Quán Thế Âm?”
Cụ túc diệu tướng tôn
Kệ đáp Vô Tận Ý.
“Thế Tôn diệu tướng cụ”, đây là câu Bồ-tát Vô Tận Ý tán thán Phật. “Thế Tôn” là gọi chung mười loại đức hiệu của Phật. Ý là bậc tôn trọng không gì hơn ở thế giới Ta-bà. “Diệu tướng cụ”, đây là nói Thế Tôn trong thì đủ muôn đức, ngoài hiển 32 tướng tốt 80 vẻ đẹp. Nên có lời khen rằng: “Trên trời dưới trời không ai bằng Phật, mười phương thế giới cũng không sánh được, tôi thấy hết mọi thứ trên thế gian, tất cả không có gì bằng Phật”.
“Ngã” là Vô Tận Ý tự xưng.
“Trùng” ở văn xuôi trước đã thưa hỏi, nay hỏi lại. “Bỉ” chỉ Bồ-tát Quán Thế Âm.
“Phật tử” cũng chỉ Bồ-tát Quán Thế Âm. Tất cả chúng sanh trong ba cõi, đều là đệ tử của Phật Thích- ca Mâu-ni, do đó Quán Thế Âm cũng là Phật tử. Bồ-tát Vô Tận Ý hỏi Bồ-tát Quán Thế Âm do nhân duyên nào mà được tên này, tuy chỗ hỏi giống như ở văn xuôi, nhưng Thế Tôn trả lời lại có điểm khác. Ở văn xuôi, thì chuyên biểu thị diệu lực từ bi của Bồ-tát Quán Thế Âm, mà ở kệ tụng lại hiển thị nguyện và hạnh của Bồ- tát Quán Thế Âm, do đó hơi có điểm bất đồng. “Nhân duyên”, ở văn xuôi chỉ giải thích là lý do gì. Ở kệ tụng nói Bồ-tát Quán Thế Âm cách vô lượng kiếp trước phát nguyện thanh tịnh lớn là nhân, chúng sanh có khổ không vui là duyên. Vậy là đại nguyện chính mình hành hóa là nhân, lấy chúng sanh làm duyên. Nương theo nhân và duyên này, khắp ở thế gian ứng hiện hóa độ.
“Bồ-tát Quán Thế Âm ngay đây có thể tiếp nối huệ mạng Phật-đà, do nhân duyên gì mà được tên ấy?” – Bồ-tát Vô Tận Ý hỏi như thế. Thế Tôn dùng kệ tụng trả lời:
Nhữ thính Quán Âm hạnh
Thiện ứng chư phương sở
Hoằng thệ thâm như hải
Lịch kiếp bất tư nghì
Thị đa thiên ức Phật
Phát đại thanh tịnh nguyện.
“Nhữ”, chỉ Bồ-tát Vô Tận Ý. Vô Tận Ý tuy nghe qua Bồ-tát Quán Thế Âm do nhân duyên gì mà được tên. Nhưng vì hiển thị Bồ-tát Quán Thế Âm tu hành thế nào, do đó Phật lại khiến Ngài hãy nên lắng nghe diệu hạnh của Quán Thế Âm. Giảng đến tu hành chứng giác xưa nay vốn chẳng phải hai, nhưng từ phàm phu tu hành đến chứng giác thì nên chia ra để nói. Một mặt gương trong tâm chúng sanh, vốn là thanh tịnh sáng suốt (đây ý nghĩa tương đồng với Bản giác) nhưng lúc để bụi bặm vô minh phiền não che lấp sanh tăm tối thì cần phải dùng sức tu hành lau chùi bụi bặm tối đen trên gương (đây gọi là Thủy giác) để tiện khôi phục làm hiện ra ánh sáng thanh tịnh xưa nay. Đạt đến sự hợp nhất tu hành và chứng giác, đây gọi là thủy – bản không hai. Do đó bước đầu tiên tu hành tức là bước đầu chứng giác. Đến như Bồ-tát Quán Thế Âm vốn đã đứng trên chứng giác, sự tu hành của Ngài, chẳng qua là sự biểu hiện của chứng giác mà thôi. Chứng giác của Ngài, chẳng qua là sự vận dụng của tu hành mà thôi. Do đó, tuy nói là tu hành, dường như không đồng với tu hành của phàm phu, mà là tu hành trên chứng giác, tức chỗ nói “tu chứng không hai”, tu tức chứng, chứng tức tu.
Bồ-tát Quán Thế Âm khéo ứng các nơi chốn, cũng là tu hành dưới giáo hóa chúng sanh. Tâm Bồ-tát trên chứng giác của Quán Âm, chính là biểu hiện tâm từ bi lớn. “Phương sở” là chỉ các thế giới mười phương. Dùng cõi Phật mà nói: là cõi pháp tánh, cõi thọ dụng, cõi biến hóa. Dùng thân Phật mà nói: là Pháp thân, Báo thân, Ứng thân.
Cõi pháp giới là Tịnh độ của pháp thân Phật, bủa khắp trong thời gian vô hạn, không gian vô hạn, cả vũ trụ này là cõi pháp giới, chỗ nói “Thúy trúc hoàng hoa vô phi Bát-nhã, nhất sắc nhất hương giai thị trung đạo” (Trúc biếc hoa vàng không gì chẳng phải Bát nhã, một sắc một hương đều là trung đạo), ở không gian là khắp tất cả chỗ, ở thời gian là sinh mệnh vĩnh hằng.
Cõi Thọ dụng là Tịnh độ mà Báo thân Phật thọ dụng.
Cõi Biến hóa là quốc độ của Ứng thân Phật ứng với căn cơ chúng sanh, hiện các thứ thân mà tế độ.
Nhân vì muốn tế độ chúng sanh cõi này, Bồ-tát bèn hiện 33 thân, đây như trước đã nói, nhân đây gọi là khéo ứng các nơi chốn.
“Hoằng thệ thâm như hải” là nói Bồ-tát Quán Thế Âm thệ nguyện sâu như biển lớn. Phàm là Bồ-tát đều có đủ bốn thệ nguyện lớn.
“Chúng sanh vô biên thệ nguyện độ”. Đây là căn bản của bốn thệ nguyện lớn, chúng sanh là cái vô biên, thệ nguyện phát ra chính là muốn tế độ chúng sanh vô lượng vô biên phổ biến này.
“Phiền não vô tận thệ nguyện đoạn” là nói phiền não vô tận tôi thệ nguyện đoạn chúng.
“Pháp môn vô lượng thệ nguyện học” là nói pháp môn tuy vô lượng, tôi thệ nguyện đến học tập.
“Phật đạo vô thượng thệ nguyện thành”, Phật đạo tuy là cao tột vô thượng, nhưng tôi phát thệ nguyện lớn muốn hoàn thành Phật đạo.
Nguyện thứ nhất trong bốn hoằng thệ nguyện là lợi tha, nguyện thứ hai và ba là tự lợi, nguyện thứ tư là hai lợi kết thành.
Bồ-tát Quán Thế Âm không những có bốn hoằng thệ nguyện này mà lại có “Quán Âm thập đại nguyện văn” tế độ chúng sanh. Văn này và bốn hoằng thệ nguyện đối chiếu như sau:
Quán Âm hằng nguyện sâu như biển cho dù anh nghĩ đến bao giờ cũng không thể nghĩ hết. Nhân vì thệ nguyện lớn rất sâu khó lường, do đó nói nhiều kiếp chẳng nghĩ nghì. “Kiếp” là thời gian rất dài, tức nghĩa như trên nói dù thời gian dài thế nào cũng khó mà nghĩ đến.
“Thị đa thiên ức Phật” là nói theo hầu Phật không hạn lượng mà thọ giáo.
“Phát đại thanh tịnh nguyện” là chỉ phát mười nguyện thanh tịnh lớn như bốn hoằng thệ nguyện.
Không những cách nhìn khách quan về sự tu hành của Bồ-tát Quán Thế Âm như thế, tại chủ quan trong tâm chúng ta còn có tâm đại từ bi, mà ngày ngày chỗ thấy nghe lại hoàn toàn là giáo huấn của Phật. Chiếu theo đó mà nhớ nghĩ, phản tỉnh, thệ học, nguyện phát ra sẽ không lười biếng, thì chúng ta cũng có thể cho là thể hội được tâm của Bồ-tát Quán Thế Âm.
2- Niệm Bỉ Quán Âm Lực
Ngã vị nhữ lược thuyết
Văn danh cập kiến thân
Tâm niệm bất không quá
Năng diệt chư hữu khổ.
Chúng sanh muốn sanh tâm thanh tịnh, đầu tiên cần chuyên nhất tâm mình, đuổi trừ tất cả tạp niệm vọng tưởng. Nếu muốn tiêu trừ tạp niệm vọng tưởng, thì chắc chắn miệng phải thường niệm danh hiệu Quán Thế Âm, ý thường suy nghĩ nguyện hạnh của Quán Âm, thân thường lễ bái hình tượng từ bi của Quán Âm, để khiến ba nghiệp thân miệng ý hợp làm một.
Ba nghiệp cần đầy đủ, thiếu một không được, tỉ như đem thân làm việc, đem miệng giảng nói, nếu không nhất trí, hoặc lấy miệng nói việc, lấy ý suy nghĩ mà mâu thuẫn lẫn nhau thì sao gọi là nhất tâm được. Về ba nghiệp ở trước tuy đã trình bày qua, bây giờ lại từ mặt bên nói rõ. Nghe tên Quán Âm, thấy tượng Quán Âm, nếu như một lòng xưng niệm, đó sẽ không bị luống qua, đó nhất định có thể tiêu diệt tất cả các khổ.
“Ngã” là chỉ Phật Thích-ca Mâu-ni, “nhữ” là chỉ Bồ-tát Vô Tận Ý. “Lược thuyết”, vì ở văn xuôi đã nói kỹ lưỡng qua rồi, đến ở nhiều kiếp thệ rộng rất sâu, nguyện lớn thanh tịnh không thể nghĩ nghì, muốn nói ra triệt để thực không thể nói hết, do đó ở đây chỉ có thể nói chỗ trọng yếu.
“Văn danh cập kiến thân”, “danh văn” tức là nghe danh hiệu Nam mô Đại bi Quán Thế Âm Bồ-tát. Nghe xong trong miệng nhất định muốn xưng niệm. Đây là khẩu nghiệp xưng niệm của ba nghiệp.
“Kiến thân”, đối với tượng gỗ khắc vẽ Quán Âm, nếu có thể xem thấy tướng đẹp của Ngài, bèn muốn dùng thân lễ bái cúng dường. Đây là thân nghiệp lễ bái trong ba nghiệp. Có người cho rằng lễ bái khúc gỗ hay trang giấy đâu có gì đáng nói? Đây thực là nghĩ lầm rất lớn.
Lấy thí dụ ra nói: Như dùng lá vỏ tre có thể làm thành giày cỏ mang vào chân, có thể làm thành nón trúc đội trên đầu. Đây tuy là một cội cây, một tờ giấy, nếu như làm thành tượng Phật, vẽ thành hình Phật thì giá trị được lễ bái, cần lễ bái. Cây hay giấy tuy là không chia tôn ti, nhưng tâm hiện ở trên đó thì có thể là vật quý báu!
Bậc đại đức của Thiền tông có nói: Không tại Phật cầu, không tại Pháp cầu, không tại Tăng cầu; lễ bái, chỉ có đem kiến thức này lễ bái, mới có ý nghĩa khắc sâu. Nhưng ý nghĩa khắc sâu này, chẳng phải người thường có thể lãnh hội được!
“Tâm niệm bất không quá” do nhất tâm không để cho luống qua, trong kinh Mười Câu Quan Âm nói: “Sáng niệm Quán Thế Âm, chiều niệm Quán Thế Âm, niệm niệm từ tâm khởi, niệm niệm chẳng rời tâm.” Đây chính là tâm niệm không luống qua, đây là ý nghiệp chí thành lễ bái.
Chỗ nói “Niệm niệm chẳng rời tâm”, chỗ nói “Tâm niệm chẳng luống qua” của ý nghiệp, nói cách khác chính là bất kể lúc nào, muốn cho Quán Âm chẳng rời mình, cần làm đến “Sáng sáng cùng Phật dậy, đêm đêm ôm Phật ngủ”, cần làm đến bất kể ở đâu đều cùng ở với Quan Âm. Nói tóm lại, chính là cần có niềm tin cùng sống với Quan Âm. Người có niềm tin này, do ba nghiệp thân miệng ý thường niệm Bồ-tát, thì thân miệng ý chính mình tự nhiên cũng sẽ thành hành vi của Bồ-tát.
Chính mình cùng sanh với Quan Âm, tất cả cùng tồn tại với Quan Âm, thân này bèn thành thân Quan Âm mà chẳng phải thân của ta; ý này bèn thành ý của Quan Âm mà chẳng phải ý của ta. Đại sư Thừa Dương nói: “Sanh mạng một ngày này, là sanh mạng đáng quý, là hình hài đáng quý. Có thân tâm hành trì này, thường sẽ tự yêu tự kính.” Suy nghĩ kỹ lưỡng câu này, lý do thân đáng quý bèn càng được hiển rõ.
Nếu như chính mình nghĩ như thế, tự mình bèn là thân của Quan Âm, không thể không trịnh trọng, không thể không kính yêu. Mỗi ngày niệm cảm tạ phụng trì càng tha thiết, thì chẳng dám buông lung. Làm sao lại có “chư hữu khổ”? Hoặc dù có khổ vật chất, cũng có thể nhìn thấu ra, lại có thống khổ nào để nói?
Thân này nếu như là thân Quan Âm, thì tay chân miệng cũng không thể không phải của Ngài. Như thế, tay này chẳng thể trộm cắp, miệng này chẳng thể mắng người, từ đây dùng tay để chắp, dùng miệng xưng niệm Nam-mô Đại Bi Quán Thế Âm Bồ-tát, đây là ba nghiệp nhất trí, tự nhiên diệt trừ chư hữu khổ.
“Chư hữu” của “Năng diệt chư hữu khổ” là chỉ ba cõi. Chia ra cũng có thể gọi 25 hữu, chính là 3 cõi sáu đường gọi đó là hữu, tức là gọi tắt của hữu lậu. Hữu lậu là phiền não, căn bản là 3 độc thường nói. Từ 3 độc này sinh ra 3 cõi, 3 cõi này là cõi khổ của 3 độc phiền não. Chỉ cái khổ của 3 độc này gọi là “chư hữu khổ”.
Như 3 nghiệp có thể thanh tịnh, lúc ta và Bồ-tát có thể hợp làm một, bèn có thể trụ ở cõi giải thoát diệt 3 độc mà ra khỏi 3 cõi.
Đây là đáp chung, 7 nạn ở dưới là đáp riêng.
Giả sử hưng hại ý
Thôi lạc đại hỏa khanh
Niệm bỉ Quán Âm lực
Hỏa khanh biến thành trì
Hoặc phiêu lưu cự hải
Long ngư chư quỷ nạn
Niệm bỉ Quán Âm lực
Ba lãng bất năng một.
Đây là trùng tụng, hoặc đem điều đã nói ở trước, nói lại lần nữa; hoặc đem chỗ sót mà thuyết minh bổ sung.
Hai bài kệ này tương đương với nạn lửa và nạn nước đã giảng ở trước, như đem giết hại, hại cho bị thương ra nói, đó là bị đẩy vào hầm lửa lớn, lúc đó nếu niệm (nghĩ đến) sức của Bồ-tát Quan Âm, thì hầm lửa lập tức biến thành ao mát mẻ, lửa tự nhiên cũng tiêu diệt, mà người cũng được cứu. Nếu như trôi trong biển lớn mênh mông, gặp tai nạn rồng cá và các ác quỷ, lúc đó nếu niệm sức Quan Âm kia, ngay cho sóng mòi mạnh mẽ thế nào cũng chẳng thể làm chìm đắm chúng ta.
Theo văn tự mà giải thích, niệm Bồ-tát Quán Thế Âm cố nhiên có thể, nếu theo lý mà nói – như trước đã nói – lửa là lửa sân giận, do lửa sân giận này đốt người đến chẳng biết ngó trước nghĩ sau, bằng với bị hãm trong hầm lửa lớn.
Lúc ấy, nếu niệm đại từ bi của Quán Âm, dùng nước yêu thương mát mẻ tôn trọng đến tiêu diệt lửa giận sân hận, thì trong tâm liền thành ao mát mẻ.
“Cự hải” tức biển lớn phiền não, rồng cá các nạn quỷ, đều là sóng mòi ái dục, sóng mòi ái dục nổi lên trên biển lớn phiền não, đến thẳng trầm luân trong vực sâu luyến ái, vời đến biết bao thống khổ và phiền não.
Thân thể kiều diễm càng đáng sợ hơn rồng cá. Thái độ yêu kiều uyển chuyển so với ác quỷ đáng ớn hơn! Lúc ấy nếu dùng đại trí tuệ của Quán Thế Âm, biết rõ thực tướng các pháp, quán sát tất cả đều là nhân duyên giả hợp thì mê chấp ái dục tự nhiên sẽ tiêu diệt.
Hoặc tại Tu-di phong
Vi nhân sở thôi đọa
Niệm bỉ Quán Âm lực
Như nhật hư không trụ
Hoặc bị ác nhân trục
Đọa lạc Kim Cang sơn
Niệm bỉ Quán Âm lực
Bất năng tổn nhất mao.
“Tu-di sơn” không nhất định phải xem là núi có thật, đây là núi mà người Ấn Độ giả tưởng, nói là nó cao đến trời, nhưng người gần đây khảo cứu cho núi Tu-di tức chỉ núi Hy-mã-lạp-nhã.
Lúc bị đẩy từ trên núi cao này xuống, nếu niệm sức Quán Âm, sẽ như mặt trời trụ ở hư không, không bị rơi xuống. Lại như an trụ trên đỉnh núi cao lại bị người ác rượt đuổi, từ trên núi Kim Cang rơi xuống, nếu niệm sức Quán Âm, một sợi lông cũng không bị tổn thương.
“Kim Cang sơn”, ở vòng ngoài núi Tu-di, ý nói không thể phá hoại. Về núi Tu-di rốt cuộc như thế nào, núi Kim Cang ra sao, ở đây thật không cần đòi hỏi kỹ lưỡng.
Có người cho rằng chúng ta có đem đội trời đạp đất thế nào đều không thể chướng ngại Phật tánh độc lập tự tại. Do đó bèn sanh ý niệm Thích-ca là người nào, Đạt-ma là ai, như sanh niệm này, liền sanh tâm kiêu mạn, biến thành tự chịu đọa lạc, rồi đến nỗi bị đẩy rơi xuống. Nhưng lúc này có thể niệm bình đẳng đại từ bi của Bồ-tát Quán Thế Âm ấy, thì sẽ không khi dễ người khác; niệm đại dũng mãnh của Quán Âm kia thì có thể tưởng lệ chính mình, như mặt trời an trụ tại hư không, tự nhiên có thể thoải mái trong biển rộng trời trong. Chỗ nói:
Phong xuy bất động thiên biên nguyệt
Tuyết áp nan tồi giản để tùng.
Gió thổi không lay trăng ven trời
(Tuyết đè khó đổ tùng đáy khe.)
Chúng ta thấy mặt trời hoặc mặt trăng treo trên hư không, giống như rất nguy hiểm, nhưng chẳng có một chút quan hệ nào.
Núi Tu-di dụ Phật tánh, nghĩa là cao lớn trùm khắp.
Núi Kim Cang là nghĩa không thể phá hoại, không thể lay động, có thể xem là niềm tin trong tâm chúng ta.
Nói hơi phức tạp một chút, có thể chia nó như sau: Núi Tu-di là vị Diệu giác, núi Kim Cang là vị Đẳng giác. Đây chỉ niềm tin của chúng ta, chính là biểu thị bất kể thế nào, không bị sức bên ngoài làm lay động.
Lập được niềm tin, tiến đến phải làm kiên định nó mới được. Vì ở chung quanh chúng ta, đầy dẫy dụ hoặc và bách hại, luôn luôn thừa cơ lay động và đè lấp niềm tin của chúng ta. Đây giống như trạng thái bị người ác truy đuổi sắp sửa rơi xuống, là điều hết sức nguy hiểm, nhưng lúc đó nếu có thể niệm nguyện hạnh đại dũng mãnh của Quán Âm thì tuy ở trong sự dụ hoặc hay bách hại cũng không mất một sợi lông, mà tự do tự tại, đây chính là chỗ nói “tám gió thổi chẳng động”.
Tám gió là gió bốn phương đông, nam, tây, bắc và bốn hướng đông nam, tây nam, đông bắc, tây bắc. Nhưng trong Phật giáo tám gió là lợi, suy, hủy, dự, xưng, cơ, khổ, lạc.
1- Lợi: Hễ cái gì có ích cho mình đều gọi là lợi, hoặc gọi việc như ý là lợi.
2- Suy: Hễ việc gì có tổn giảm cho mình đều gọi là suy, hoặc gọi việc thất ý là
3- Hủy: Vì ghét bỏ người, sau lưng phỉ báng là hủy.
4- Dự: Vì ưa thích người, ngay mặt khen ngợi gọi là dự.
5- Xưng: Trọng vọng người, ở trong đám đông khen tốt cho họ gọi là xưng.
6- Cơ: Ghét bỏ người, vốn không việc mà nói hư dối thực có việc gọi là cơ.
7- Khổ: Nghĩa bức bách, gặp duyên ác cảnh ác, thân tâm đều chịu bức bách gọi là khổ.
8- Lạc: Nghĩa vui vẻ, gặp duyên tốt cảnh tốt, thân tâm vui vẻ gọi là lạc.
Những điều này làm lay động tâm chúng ta, tổn hại niềm tin kim cang kia, nhưng nếu chúng ta có thể kiên định niềm tin, không bị cảnh giới dụ hoặc lay động, thì vàng ròng ngay trước mắt, cũng không thay đổi khí tiết; kiếm bén kề cổ cũng không lay động chủ trương, như thế hủy dự, lợi hại cũng chẳng thể hại chúng ta chút nào.
Hoặc trị oán tặc nhiễu
Các chấp đao gia hại
Niệm bỉ Quán Âm lực
Hàm tức khởi từ tâm
Hoặc tao vương nạn khổ
Lâm hình dục thọ chung
Niệm bỉ Quán Âm lực
Đao tầm đoạn đoạn hại
Hoặc tù cấm già tỏa
Thủ túc bị nữu giới
Niệm bỉ Quán Âm lực
Thích nhiên đắc giải thoát
Chú trớ chư độc dược
Sở dục hại thân giả
Niệm bỉ Quán Âm lực
Hoàn trước ư bổn nhân.
Giảng đoạn này cũng rút ra từ văn xuôi ở trước.
Bốn câu kệ đầu nói về nạn oán tặc, rất nhiều kẻ ác cầm dao đến bức hiếp, tự mình nếu trụ ở tâm đại từ bi của Quán Âm, dùng đại từ bi đối với kẻ ác, hắn cũng sẽ sanh tâm từ bi, chuyện đặc biệt của cao tăng đại đức xưa nay truyền bá trong xã hội rất nhiều như thượng nhân Không Dã ở trước là một ví dụ. Đây là đạo tặc bên ngoài đến, đầu đuôi so ra chỉ là số ít, còn oán tặc trong tâm chính mình chiếm cứ dài lâu, số này đến tám vạn bốn ngàn, mỗi đứa có cầm dao bén, muốn đoạt của báu công đức trong tâm thanh tịnh của chúng ta, chủ nhân ông của oán tặc ấy chính là ngã kiến ngã chấp. Nếu đem đập tan ngã kiến ngã chấp này, trụ ở đại từ bi bình đẳng này thì oán tặc liền sẽ để cho tâm từ bi cảm hóa. Chính như trong “Thái Căn Đàm” nói: “Kiến văn giác tri là giặc ngoài, dục tình ý thức là giặc trong, chủ nhân ông này tỉnh táo chẳng mê mờ thì hóa giặc thành gia nhân.”
Tiếp theo là nói khổ về nạn vua, tương đương với nạn đao trượng ở văn xuôi. Ở thời đại chuyên chế quá khứ, pháp luật là pháp luật của quốc vương, lúc xúc phạm pháp luật sắp bị giết, nếu như niệm sức Quán Âm thì dao tức khắc gãy từng đoạn, không thể chặt được. Thượng nhân Nhật Liên lúc sắp bị chém ở Long Khẩu nói:
– Nếu như có thể lấy kinh Pháp Hoa thay thế cái đầu xấu xí này thì thật rất đáng mừng.
Ngay lúc Ngài đến chỗ hành hình, vì Ngài có đủ tín ngưỡng này, dao bén chặt không thể làm tổn hại. Quốc pháp không thể không tuân thủ, nhưng nó vốn do người định ra. Có lúc cũng không thể không sửa đổi, và không phải cho là hoàn toàn không khiếm khuyết. Chẳng qua, bất cứ thế nào, pháp luật cho dù có khuyết điểm, nhưng pháp luật là cái có lực. Xưa nay, bất cứ ai phạm pháp đều không thể không xử phạt. Nhưng, ở thời đại chuyên chế, người nắm giữ pháp luật tức người đầu não của quốc gia và là người vận dụng pháp. Nhạc Phi chính là nhân 3 chữ “chẳng cần có” mà chết. Người chấp pháp cho dù phạm pháp, đâu từng dùng pháp để chế tài chính mình? Nếu như nói có khuyết điểm, đây cũng có thể nói là khuyết điểm.
Triết gia Socrate chẳng chút sợ hãi tay cầm chén thuốc độc an nhiên mà chết. Đạo Cơ Đốc khi Lộ Thủy (Jessu? bị đóng đinh trên cây thánh giá dường như tiêu diệt; những ví dụ này xưa nay trong ngoài thật ra rất nhiều. Nam Chính Thành sau khi chết, câu văn Kỳ Ấn của ông được truyền xuống, trong đó có năm chữ “Phi lý pháp quyền thiên”. “Phi” không thể hơn “lý”, “lý” không thể hơn “pháp”, “pháp” không thể hơn “quyền”, “quyền” không thể hơn “thiên”. Do đó trên thế giới, cái mạnh nhất lại là trời. “Trời” này tức là chân lý của vũ trụ, chân lý là cái thắng lợi cuối cùng. Chân lý thắng lợi cuối cùng này chính là biểu hiện thấu suốt pháp thân trong thời gian vô hạn. Do đó cho dù thọ mạng của nhục thân có thể dứt, mà huệ mạng của pháp thân không thể đoạn đứt.
Tù đày gông xiềng hay cùm trói đã nói ở trước. Bất kể có tội hay là vô tội mà lúc chịu thống khổ tay khóa chân cùm, dây nhợ trói buộc, nếu có thể niệm sức Quán Âm kia, liền có thể giải thoát. Trên thực tế chúng ta mang cùm tay danh vị, khóa chân tài lợi, lấy chấp trước trói buộc thân mình, nếu như có thể vượt lên đứng ngoài danh lợi, đánh phá giới hạn nhân – ngã, thì chúng ta liền có thể triển khai cảnh tự do tự tại. “Thích nhiên” là hình thức giải thoát. “Giải thoát” chính là được đến cảnh tự do tự tại.
“Chú trớ”, là một loại hành vi muốn hại người khác. Hoặc giả cầu nguyện ác thần giáng tai họa, hoặc giả bện người rơm đóng đinh, hoặc là đốt bùa, đây đều là chú trớ trù ếm.
“Chư độc dược”, hễ là cái thứ uống vào làm tổn thương thân, gọi là độc dược. Các độc dược là chỉ số nhiều.
Cho dù có người dùng chú trớ hoặc độc dược này định gia hại mình, nếu có thể niệm sức Quán Âm kia, chú trớ ấy liền biến thành người kia chịu, độc dược ấy liền ngược lại người kia nuốt.
Loại tâm lý chú trớ ấy, trong tâm chúng ta chẳng lẽ không có sao? Cái tâm đố kỵ cơ hồ không ai không có. Hoặc thấy nhà người có danh tiếng, hoặc thấy sự thành công của nhà người, tự tự nhiên nhiên cũng sẽ có vài câu phê bình người kia, đây là hiển rõ đố kỵ. Lại có một loại thấy người ta thất bại, trong tâm lại rất vui mừng, hoặc giả thậm chí cười cợt rằng: “Điều đó là đương nhiên!” Đây là lòng tật đố, tâm như thế chính là tật đố mà đồng thời lại hàm chứa có chú trớ.
Ly gián người khác, làm tổn thương người khác, có thể nói so với thuốc độc lại muốn tệ hại hơn! Trù ếm người kết quả là ai chịu báo ứng? Kỳ thực người trù ếm tự thân sẽ chịu quả báo! Giống như anh tặng món đồ cho người, người ta không chịu nhận, anh đành phải đem nó về. Người trù ếm cũng vậy. Anh trù ếm người, người ta không biết, hoặc không nhận trù ếm của anh, đó không phải là lại phải trở về với thân mình sao?
Trong sinh hoạt hàng ngày của chúng ta, cho dù là có người tật đố ta, làm tổn thương ta, mà tự chúng ta giữ yên bổn phận nên giữ, không bị cảnh giới này lay động chút nào, trụ trên niềm tin đại bi bình đẳng, chứa nhóm công đức nhẫn nhục, thì quyết sẽ không nhân đây mà chịu lụy.
Trong kinh Tứ Thập Nhị Chương, Phật nói rất hay: “Người ác hại người hiền, như ngước lên trời nhổ, nhổ không đến trời, lại rơi xuống mình; ngược gió tung bụi, bụi không đến người, trở lại dơ thân mình, hiền không thể hủy báng, họa ắt diệt mình.”
Đây có thể xem là giải thích ý nghĩa đoạn này.
Hoặc ngộ ác La-sát
Độc long chư quỷ đẳng
Niệm bỉ Quán Âm lực
Thời tất bất cảm hại
Nhược ác thú vi nhiễm
Lợi nha trảo khả bố
Niệm bỉ Quán Âm lực
Tật tẩu vô biên phương
Ngoan xà cập phúc yết
Khí độc yên hỏa nhiên
Niệm bỉ Quán Âm lực
Tầm thanh tự hồi khứ
Vân lôi cổ xế điện
Giáng bạc chú đại vũ
Niệm bỉ Quán Âm lực
Ứng thời đắc tiêu tán.
“Hoặc ngộ ác La-sát” đến “Thời tất bất cảm hại”, tương đương với “Nhược tam thiên đại thiên… Dạ xoa La-sát dục lai não nhân” ở văn xuôi. Ác quỷ La-sát không cần phải nói lại nữa.
“Quỷ” là nghĩa mong cầu, mong cầu là tâm cầu xin, do đó “tham” gọi là “quỷ”. Trừ quỷ tham ra, lại có một loại quỷ vô minh. Vô minh tức là tâm ngu si, còn gọi là quỷ si. Đây đều là rồng độc chướng ngại việc thiện của chúng ta.
Những thứ này đều là phiền não, nhân vì có phiền não, do đó mới có thể giác ngộ. Phiền não tức Bồ-đề, là căn bản của Đại thừa, do đó nếu đem tâm mê của chúng ta chuyển một phen tức là tâm ngộ. Nhưng vì căn bản của mê là ngã chấp, ngã chấp lại là nguồn của tất cả tội ác. Cái tiểu ngã chấp trước ấy, chúng sanh niệm niệm không quên, do đó ở thời hạn có ngã chấp không thể ngộ được.
Người có phân biệt đây là con tôi, kia là con người, do đó sanh ra tâm yêu ghét hay thiên lệch; lại có phân biệt đây là vật của tôi, kia là vật của người, do đó sanh ra tâm tham lam bỏn xẻn. Nhưng nếu mở cái ta rộng lớn hơn ra, tất cả chúng sanh đều là con của ta, trụ ở ba cõi đều là tâm của ta thì hiển hiện ra công bình, đại từ bi bình đẳng; phiền não lập tức biến thành Bồ-đề không thể hại ta, vị chát của trái hồng chát sẽ biến thành vị ngọt. Vị chát của trái hồng chát là quả xấu của phiền não, được ánh từ quang của Phật nhật chiếu qua, liền thành vị ngọt Bồ-đề. Đây chính là sự thuyết minh hay nhất của “Phiền não tức Bồ-đề”.
Giữa một tâm chuyển biến này, cái sanh ra là sai biệt mê ngộ, sai biệt phàm thánh. Phật giáo chủ yếu là nói có cái tâm chuyển biến này. Ác quỷ, La-sát, rồng độc, các quỷ tất cả là những thứ hại ta, nhưng lúc gặp những thứ này, nhân niệm sức Quán Âm, những ác quỷ ác thú ấy chẳng dám gia hại nữa. Hoặc ác thú bao vây chúng ta giương móng răng nhọn bén bức bách, nếu niệm sức Quán Âm kia thì ác thú sẽ bỏ chạy không còn tung tích.
“Ác thú” tức trạng thái tâm lý từ ngã kiến ngã mạn sanh ra, trong tâm chúng ta dường như có móng vuốt bén nhọn tương tranh. Nhất là ở thời đại cạnh tranh sinh tồn mà chúng ta đang sống ngày nay, rõ ràng như có rất nhiều ác thú bao vây, loài người nghi ngờ lừa gạt lẫn nhau, hễ có cơ hội là muốn dẹp bỏ người khác để chính mình chiếm lấy vị trí cao hơn. Nếu bấy giờ có người có thể niệm tâm đại bi bình đẳng của Bồ-tát Quán Thế Âm thì bốn bể đều là đồng bào của ta, như tay như chân, tương thân tương ái, tất cả ác thú trong tâm và ác thú bên thân đều sẽ tiêu diệt.
“Ngoan xà cập phúc yết”: hổ mang, rắn, rít, bò cạp, đây có thể xem như gọi chung tất cả loại trùng độc. Ác thú ở trước là dụ cho phiền não lớn; rắn độc, trùng độc ví như phiền não nhỏ.
Phiền não nhỏ nếu không chú ý dần dần sẽ thành phiền não lớn, cái hại của nó chẳng khác rắn độc thú dữ. Nhân đây, trong kinh Pháp Cú nói: “Nước chảy tuy nhỏ, dần dần đầy bình, ác lớn vốn không phải lớn, do nhỏ góp thành, nếu không khinh ác nhỏ, thì chẳng gặp ương họa”.
“Khí độc yên hỏa nhiên”, đây là nói hơi độc giống như lửa hừng thiêu đốt, hình dung sự tệ hại của sân giận.
“Tầm thanh tự hồi khứ” là niệm Quán Âm mà khởi bản tánh thanh tịnh sẵn có trong tâm, đem tâm ác chuyển một phen thì tất cả tội ác đáng sợ liền dường như hạt sương trên lá cỏ, gặp mặt trời lên tự nhiên tan mất.
Từ “Vân lôi cổ xế điện” đến “Ứng thời đắc tiêu tán”, bốn câu này nói: Ví như một khoảng trời trong sáng sủa, chợt ùn lên một cụm mây đen, tiếng sấm vang rền, chớp lòe nhấp nháng, mưa đá trút xuống, mưa to xối xả, cảnh như thế đáng sợ biết nhường nào! Tâm chúng ta cũng y như vậy. Trên tâm xưa nay không có một chút hắc ám, bất ngờ mây một niệm mê sanh ra, niệm kia đây ta người theo đó mà đến, thì tiếng sấm sân giận, ánh chớp phẫn nộ, đập nước tham dục, mưa to tự bạo tự hủy đều đến làm khổ chúng ta. Nhưng, lúc này nếu có thể niệm Bồ-tát Quán Thế Âm, tâm cơ vừa chuyển, mây tan mưa dứt, bầu trời tâm sáng rỡ, tất cả đều thanh tịnh tự tại.
Đối với các khổ nạn trên, niệm sức Quán Âm kia liền có thể chuyển tai họa, chiêu vời phước đức, cứu khổ ban vui. Năm chữ “Niệm sức Quán Âm kia” này thực là một cái chốt cửa chuyển tâm ác hướng thiện và chuyển đường mê hướng ngộ.
Sức của chúng ta là sức tương đối, sai biệt. Sức của Quán Âm là sức tuyệt đối bình đẳng. Đem cái tâm chấp trước sai biệt này chuyển thành bình đẳng, đem cái tâm hệ phược tương đối chuyển thành tuyệt đối, đây chính là nghĩa đệ nhất căn bản của Phật giáo. Kinh này chính là lấy Quán Âm làm trung tâm mà thuyết nghĩa đệ nhất trong nghĩa đệ nhất.
3- Năng Cứu Thế Gian Khổ
Chúng sanh bị khổn ách
Vô lượng khổ bức thân
Quán Âm diệu trí lực
Năng cứu thế gian khổ.
Ở trên là khai 7 nạn thành 12 nạn mà nói lại.
Dưới đây sẽ bao quát 3 độc 2 cầu nói chung.
12 nạn nói trên là nói tai nạn từ ngoài đến bức bách, còn từ trong sanh ra là ba độc hai cầu. Gom chung lại nên nói “Chúng sanh bị khổn ách, vô lượng khổ bức thân”. Khổ của chúng sanh thật là vô lượng vô biên, nhưng căn bản những khổ đó thì là ba độc tham sân si.
Trong Phật giáo, chúng sanh là nhân ba độc mà được tên, do đó trừ ngoài Phật ra là Bồ-tát, Duyên giác, Thanh văn vẫn có ba độc phiền não vi tế, còn tệ hại nhất là chúng sanh trong sáu đường.
Trong sáu đường, sân giận nặng nhất là địa ngục, tham dục nặng nhất là ngạ quỷ, ngu si nặng nhất là súc sanh; sân giận nhẹ hơn là Tu-la, tham dục nhẹ hơn là loài người, ngu si nhẹ hơn là cõi trời, đây là phân loại trên tinh thần. Chúng ta tuy nói tham dục ít hơn ngạ quỷ, nhưng nhân tham dục mà dẫn khởi thống khổ lại như cát sông Hằng. Trong thống khổ như cát sông Hằng, nhất là vì bốn khổ sanh-già-bệnh- chết và sự bi ai của yêu phải xa lìa, sự phiền não của ghét bỏ phải găp gỡ, sự sầu muộn của cầu mà chẳng được, sự lừng lẫy của năm ấm làm khổ hại chúng ta. Do đó nói thế gian này như một biển khổ lớn.
Nhưng sức diệu trí của Quán Âm có thể cứu cái khổ của thế gian này. Cái gì là sức diệu trí của Quán Âm? “Diệu” là không thể nghĩ bàn, do đó có thể nói là sức đại trí huệ mà phàm phu chúng ta không thể nghĩ bàn.
Sức trí huệ này có thể nhổ gốc rễ ba độc, có thể cho chúng ta an lạc. Chúng ta chịu khổ do nguyên nhân nào? Nguyên nhân này chính là khởi ba nghiệp thân miệng ý. Nghiệp gây khổ lại từ đâu đến? Đó là vì con mắt trí huệ bị che mờ, không thể biết đạo lý chân thật là từ hoặc sanh ra. Muốn đoạn hoặc chứng chân thì đầu tiên nên không muốn tạo nghiệp cảm khổ. Không tạo nghiệp thì không có buồn lo khổ não. Do đó trong bài văn niệm lúc sám hối có câu:
Ngày xưa đã tạo bao ác nghiệp
Đều do vô thỉ tham sân si
Từ thân miệng ý phát sanh ra
Tất cả nay con đều sám hối.
Căn bản của tham sân si là hoặc, hoặc là nền ở vô minh, nhân vì có vô minh, do đó mê mờ lý thực tướng của các pháp. Vì từ mê vào mê, nên khởi ba độc tham sân si. Đoạn trừ hoặc căn bản này mà chứng chân lý, là từ mặt tri thức ra tay phụ thêm vào sự tu trì. Bồ-tát Quán Thế Âm dùng sức diệu trí cứu khổ thế gian, là từ bi ở mặt tình cảm thêm vào trí tuệ.
Bồ-tát Quán Thế Âm dùng sức diệu trí này mà hành từ bi, cứu tất cả khổ của thế gian. Mười hai nạn đã giảng ở trên là từ ngoài đến, gọi là nghiệp ngoài. Cứu những khổ này gọi là giải thoát nghiệp ngoài. Bốn câu tụng này là cứu các nghiệp ác từ trong sanh ra nhân tham sân si mà tạo. Đây có thể xem là thị hiện giải thoát nghiệp trong.
4- Tam Nghiệp Tán Thán
Cụ túc thần thông lực
Quảng tu trí phương tiện
Thập phương chư quốc độ
Vô sát bất hiện thân
Chủng chủng chư ác thú
Địa ngục quỷ súc sanh
Sanh lão bệnh tử khổ
Dĩ tiệm tất linh diệt.
Đây là nói chung về 33 thân. Ở trên đã giảng về sức diệu trí có thể cứu khổ thế gian, sức diệu trí này là thể; ứng dụng diệu trí này thành sức thần thông, đây là dụng; các cõi nước ở mười phương, không cõi nào chẳng hiện thân, đây là tướng.
Diệu trí như ánh sáng của gương, sức thần thông như những cái bóng của sum la vạn tượng hiện rõ trong gương, do đó Quán Âm không rời thể-tướng- dụng mà có thể được tự tại.
Sức thần thông là chỉ tự do tự tại do hoạt động của trí tuệ mà được. Phật và Bồ-tát đều có đủ sức thần thông. Việc có thể quán sát kinh nghiệm trên đây của chúng ta gọi là Thiên nhãn thông, Thiên nhĩ thông, hễ việc làm đều được như ý thì gọi là Thần túc thông, xét biết tâm người khác gọi là Tha tâm thông, biết túc mạng đời quá khứ gọi là Túc mạng thông, đoạn sạch tất cả phiền não gọi là Lậu tận thông. Đây đều là chỉ hoạt động siêu phàm của trí tuệ.
Hiện tại Bồ-tát Quán Thế Âm đầy đủ sức thần thông này, độ khắp chúng sanh. “Quảng tu trí phương tiện” là trong dụng thù thắng, vạn hạnh được hưng thịnh, dùng tất cả phương tiện quyền trí hóa độ chúng sanh. “Thập phương chư quốc độ” chỉ chung tất cả thế giới trong hư không. “Vô sát bất hiện thân”, chữ “sát” là cõi nước, tức là không có một cõi nước nào mà không hiện thân thuyết pháp, do đó không phải chỉ có 33 thân.
Chân lý trùm khắp vũ trụ, chỗ nào cũng là nơi Quán Âm hiện thân. Ví như hàng ngày chúng ta thấy nước bốc hơi trong nồi nước sôi, Ngõa-đặc (Watt) trông thấy lại phát minh ra lực lượng của hơi nước; do sợi nhợ của diều giấy, Phú-lan-khắc-lâm biết có điện; nhân một trái táo rơi, Newton nhân đây biết sức hấp dẫn của vạn vật; hoa cỏ ngoài đồng cung cấp cho thi nhân ngâm vịnh; trăng sáng giữa rặng tùng khiến du tử nhớ quê. Người thấy ăn mày nghèo nàn thì sanh lòng từ bi, thấy người già bệnh suy tàn thì cảm được sự vô thường của thế gian. Dường như những điều này không có một việc gì không phải sự thị hiện của Quán Âm.
“Chủng chủng chư ác thú” là chỉ chúng sanh trong sáu đường ngoài bốn bậc thánh ra, đặc biệt cho địa ngục, quỷ, súc sanh trong sáu đường gọi là ba nẻo ác. “Sanh lão bệnh tử khổ” chính là bốn khổ sanh, già, bệnh, chết của đời người, thứ lớp tiêu diệt nó. Chiếu theo mặt chữ thì dường như thuộc sức bên ngoài làm, kỳ thực Phật Bồ-tát dạy ta muốn được giải thoát, chỉ có đem chân trí chính mình ra, quán thấu chân lý thực tướng các pháp, mới có thể diệt các nẻo ác và bốn khổ này. Chỗ nói: “Cá cá diện diện Quán Tự Tại, nhân nhân nhất sanh Phổ Đà Sơn”. Mỗi người mỗi mặt Quán Tự Tại, người người một đời Ngũ Đài Sơn; do đó bất cứ lúc nào, nghĩ đến Quán Tự Tại không phải là người khác, cứ như thế không ngừng tu dưỡng, đây là điều trọng yếu nhất.
Chân quán thanh tịnh quán
Quảng đại trí tuệ quán
Bi quán cập từ quán
Thường nguyện thường chiêm ngưỡng
Vô cấu thanh tịnh quang
Huệ nhật phá chư ám
Năng phục tai phong hỏa
Phổ minh chiếu thế gian.
Bốn câu đầu là tán thán ý nghiệp trong tán thán ba nghiệp, tức sự thù thắng của Quán Âm hiển thị sự hóa độ chúng sanh.
Chơn quán, thanh tịnh quán, quảng đại trí huệ quán, bi quán, từ quán là năm quán của Bồ-tát. Năm quán này có thể nhìn là từ sức Diệu Trí của Quán Âm ở mặt trước mà chia ra. Do đó chia thì thành năm quán mà nhiếp lại thì thành sức Diệu Trí. Ba quán chơn, tịnh và trí trong năm quán xưa nay đều được phối hợp với ba đế KHÔNG GIẢ TRUNG để thuyết minh, nghĩ cho kỹ thực không cần phải câu nệ như thế.
Bồ-tát Quan Âm nhân có sức nhiệm mầu của năm quán, do đó gọi là Quán Tự Tại. Năm quán này hoàn toàn là từ căn bản trí và hậu đắc trí của Quan Âm mà ra. Nói cách khác, chính là cảnh giới đại Niết-bàn mà Quan Âm xưa nay an trụ. Chỉ vì muốn độ sanh, do đó bèn chia ra năm loại diệu dụng.
Chân quán là gì? Có thể xem là căn bản trí mà Quan Âm đại ngộ, cũng có thể nói là trí quán. Trong Truyền Tâm Pháp Yếu của Hoàng Bá nói:
“Tánh linh giác này từ vô thủy đến nay thọ bằng hư không, chưa từng chẳng sanh, chưa từng chẳng diệt, chưa từng chẳng có, chưa từng chẳng không, chưa từng chẳng dơ, chưa từng chẳng sạch, cho đến không nơi chốn, không trong ngoài, không số lượng, không hình tướng, không sắc tướng, không âm thanh, dùng ngôn ngữ không thể được, dùng cảnh vật không thể hội, chư Phật Bồ-tát đồng với tất cả hàm linh, đây là Đại Niết- bàn.”
Quán chính là bản tánh của Đại Niết-bàn.
Thanh tịnh quán, sau khi giác ngộ chơn quán viên mãn rồi, căn bản tâm địa liền là thanh tịnh, do đó ánh hiện muôn vật các duyên, tuy hiện tướng đó mà không nhiễm dính, sự không nhiễm dính tức thanh tịnh quán. Trong kinh Viên Giác nói:
“Vì tâm thanh tịnh, kiến trần thanh tịnh; kiến trần thanh tịnh nên nhãn căn thanh tịnh; như thế cho đến mũi lưỡi thân ý cũng lại như thế. Thiện nam tử! Vì căn bản thanh tịnh, sắc trần thanh tịnh; sắc trần thanh tịnh nên thanh trần thanh tịnh; hương vị xúc pháp cũng lại như thế”
Chiếu theo thứ lớp như thế mà nói, tứ đại đất nước gió lửa, 12 xứ, 18 giới hoặc 25 hữu, cho đến trời đất vũ trụ hoàn toàn là một cõi Viên Giác thanh tịnh. Đây tức là thanh tịnh quán của Quan Thế Âm.
Quảng đại trí huệ quán, đây là nói từ chân quán, thanh tịnh quán mà quán tất cả chúng sanh, rủ lòng đại bi vô duyên mà cứu tế, gọi là đại trí tuệ, do đây tức có thể biểu hiện hậu đắc trí đã chứng. Nhân vì Bồ- tát có chân quán và thanh tịnh quán, bèn tự nhiên sanh lòng cứu độ chúng sanh. Đây tức là quảng đại trí huệ quán.
Nhưng, quảng đại trí huệ quán vì sao mà gọi là đại bi vô duyên? Trong kinh Duy Ma có nói: Tất cả chúng sanh xưa nay là Phật, ái kiến đại bi của quyền thừa, chúng sanh và Phật nhất như mà cho chúng sanh là thật mê trong sanh tử, không phải là đồng bạn với Phật, theo vào tà kiến thực hữu, còn tướng lợi ích. Do đó trong kinh Duy Ma cho đây là đáng chê.
Sự khác biệt giữa đại bi vô duyên và đại bi ái kiến, quốc sư Mộng Song có một thí dụ rất hay:
Ở đầu đường cuối hẻm thường thấy có ăn mày xin ăn. Có người vốn sanh trong nhà bần cùng, từ bé đã sống quá cùng khốn; có người vốn sanh trong nhà phú quý, về sau do nhiều việc xảy ra mà tan nát. Trong hai loại ăn mày này, chúng ta gặp ăn mày vốn sanh trong gia đình phú quý thì rất dễ sanh tâm thương xót. Tâm thương xót này quá hơn thấy ăn mày vốn là nhà bần cùng. Đây thật giống như lòng đại bi của Bồ-tát Đại thừa, thấy tất cả chúng sanh vốn cùng chư Phật đồng thể, không có tướng sanh tử, vì chúng sanh chợt khởi một niệm vô minh, ở trong vốn không sanh tử mà sanh ra tướng sanh tử, đây đều là việc như mộng như huyễn chẳng có thực. Mà Bồ-tát quyền thừa thì không đồng, cho là chúng sanh vốn là ăn mày sanh trong nhà bần cùng, thực có trầm luân ở sanh tử, nhân đó sanh lòng đại bi ái kiến.
Đại bi vô duyên (hoặc gọi là đồng thể đại bi) của Thật đại Bồ-tát cùng với đại bi ái kiến của Quyền đại Bồ-tát khác nhau chỗ này.
Quán Âm đã đạt địa vị cùng cực của Đại thừa, từ chân quán và thanh tịnh quán mà quán chúng sanh, đều thấy cùng chư Phật đồng thể. Vốn là sanh trong nhà phú quý, chỉ nhân một niệm sai, khiến cho gia đình tan nát, lưu lạc làm ăn mày, không thể không sanh lòng đại bi vô duyên lần nữa. Từ lòng đại bi vốn là vô duyên này, sở dĩ chúng sanh sanh tử cũng tốt, phiền não cũng tốt, sanh tử không đáng là sanh tử, phiền não không đáng là sanh tử, muốn độ chúng sanh mà không có chúng sanh có thể độ.
Từng có người hỏi thiền sư Hoàng Bá:
– Chư Phật hành đại từ bi thế nào? Thiền sư Hoàng Bá đáp:
– Chư Phật hành từ bi, nhân vô duyên nên gọi là đại từ bi. Từ, không nên xem có Phật để thành; bi, không nên xem có chúng sanh để độ. Chỗ thuyết pháp không nói, không dạy. Người hỏi pháp không hỏi, không được. Ví như nhà huyễn thuật thuyết pháp cho người huyễn.
Như thế mà xem, tất cả chúng sanh xưa nay đồng thể với quý nhân, không có người đáng độ, cũng không có người đáng thành. Như nhà huyễn thuật đối với người huyễn, như giả thuyết pháp, như giả nghe pháp, mới là quảng đại trí huệ quán của Bồ-tát.
Cái chúng sanh và Phật nhất như này gọi là trí quán bình đẳng, dùng đây độ chúng sanh, do đó không phải là đại bi ái kiến mà là đại bi vô duyên.
Bi quán và Từ quán, là từ quảng đại trí huệ quán chia ra, nhổ gốc khổ cho chúng sanh là bi quán, ban cái vui cùng cực do chân quán, thanh tịnh quán, khiến trở về nhà cũ đồng thể với chư Phật, là từ quán. Từ và Bi này thật là đại bi vô duyên.
Nhân đây Quán Thế Âm Bồ-tát có đủ hai trí căn bản và hậu đắc, hai lợi ích đã viên mãn, do đó phải “thường nguyện thường chiêm ngưỡng”. Thường nguyện cứu giúp của lòng đại bi, thường chiêm ngưỡng công đức của lòng đại bi.
Tóm lại, chân quán là căn bản trí khế chứng Niết-bàn, từ chân quán ánh hiện vạn vật mà không nhiễm dính, là thanh tịnh quán.Tiếp theo khởi chúng sanh và Phật nhất như tức là quảng đại trí huệ quán, tức là bi quán và từ quán của lòng từ vô duyên.
“Vô cấu thanh tịnh quang”,là tổng hợp năm quán trước, năm quán mỗi thứ đều là vô cấu thanh tịnh, nhất là chỉ trí quán thanh tịnh không nhiễm dính của Quan Âm làm trí quang thanh tịnh. Trí quang này có thể chiếu phá hắc ám của tất cả phiền não. Trong kinh Vô Lượng Thọ, ánh sáng vượt khỏi mặt trời mặt trăng trong 12 loại ánh sáng của Phật A-di-đà, chính là ánh sáng này. “Huệ nhật phá chư ám” chính là nói ý nghĩa này.
“Năng phục tai phong hỏa”, ngoài hai tai nạn gió lửa ra, cần thêm một nạn nước. Vì sự hạn chế của số chữ trong bài kệ, nên lược bớt. Huệ nhật vô cấu thanh tịnh đó, không những có thể phá các hắc ám, đồng thời còn có thể hàng phục ba tai nạn gió, lửa, nước.
“Phổ minh chiếu thế gian” là nói ánh sáng thanh tịnh vô cấu của Quan Âm giống như mặt trời chiếu soi mặt đất, chiếu cho thế gian sáng sủa trùm khắp, chiếu cho tất cả tai nạn hắc ám đều tiêu diệt.
“Chư ám”, cũng có thể gọi ánh sáng của tâm bị phiền não che bít, hoặc gọi là phong thủy hỏa tai. Muốn cho gió vô minh phiền não, lửa tham dục sân giận, nước ái dục chấp trước đều phá trừ, khiến tâm chúng ta ngời sáng không có một chút ô uế, nếu từ trên tự tâm mà nói, chính là xác thực ngộ đến đạo lý của các pháp, phát giác ra “té ra như thế mới đúng”. Lúc bấy giờ thật là ánh sáng trí tuệ chiếu đến tâm chúng ta, đợi đến lúc biết “ta lầm rồi!” có một niệm sám hối phát sanh, đen tối trong tâm hoàn toàn tiêu mất.
Bi thể giới lôi chấn
Từ ý diệu đại vân
Chú cam lồ pháp vũ
Diệt trừ phiền não diệm.
Đây là tán thán sự thuyết pháp của Quan Âm, tuy là khen ngợi khẩu nghiệp, nhưng nên đem khẩu nghiệp phối hợp với ba nghiệp mà xem. Giới của thể bi, là chỉ khẩu nghiệp thuyết pháp, như tiếng sấm vang rền; ý nghiệp của vị thuyết pháp này như đồng với đám mây lớn hòa ái; thân nghiệp của vị thuyết pháp này như đồng với nhân cách hoàn mỹ.
Bi là cứu khổ làm thể, Quan Âm thấy tất cả chúng sanh bị hãm trong thống khổ của tội nghiệp tích tụ, mà phát tâm đại bi, khiến tất cả chúng sanh biết ngăn trái ngừng ác, luyện tập kiên cố, giống như chấn động của trăm tiếng sấm mà có thể nhiếp phục muôn vật, ý là diệt sạch tất cả cái trái và cái ác.
Từ là có thể ban vui cho tất cả chúng sanh, vĩ đại của Quan Âm ở chỗ Ngài không những cứu khổ chúng sanh mà còn có thể ban vui cho chúng sanh, giống như bầu trời bủa đầy mây từ hòa ái, lại giáng mưa pháp như cam lồ, cam lồ này vị thơm ngon, dụ như pháp thực tướng, chân lý vô thượng, do đây mới có thể diệt trừ lửa hừng phiền não.
Trên tâm của chúng ta, nếu như cũng giữ được tinh thần kiên cố cứu khổ, tâm bi ban cho tất cả chúng sanh khoái lạc, thì chính mình sẽ biết lửa tâm phiền não tự nhiên diệt mất. Điều này ở trên sự tu dưỡng của chúng ta khả dĩ thể nghiệm đến.
Tránh tụng kinh quan xứ
Bố úy quân trận trung
Niệm bỉ Quan Âm lực
Chúng oán tất thối tán.
Trong văn xuôi đã giảng qua rồi, Quan Âm là bậc bố thí sự không sợ hãi. Bây giờ nói lại chỗ này, nếu có chúng sanh tiến vào chỗ quan hoặc trong quân trận, chỉ cần niệm sức Quan Âm kia, tự nhiên sẽ khiến oán địch bẩy nạn ba độc hại ta hoàn toàn lui tan, đến chỗ không còn sợ sệt.
Tránh là tranh luận, tụng là tố tụng. Lúc sanh ra tranh luận, đấu khẩu, tố tụng, hoặc lúc ở trong quân trận gặp đánh nhau phải bỏ mạng, tuy nói có nhiều khủng bố sợ hãi, nhưng nếu lúc đó có thể niệm sức Quan Âm bèn có thể làm lui tan tất cả oán địch. Như so với nội tâm của chúng ta, thường có vô minh phiền não tranh nhau, đánh nhau, không có một khắc an định, nhưng anh nếu có thể nghĩ nhớ chân quán, thanh tịnh quán, quảng đại trí huệ quán của Quan Âm, suy nghĩ từ quán, bi quán của Quán Âm thì không còn sợ gì nữa.
Diệu Âm, Quán Thế Âm
Phạm Âm, Hải Triều Âm
Thắng Bỉ Thế Gian Âm
Thị cố tu thường niệm
Ở trên là nêu năm quán của Quan Âm, bây giờ nói về năm âm. Do năm quán khải phát mà thành năm âm, do đó năm quán là quan niệm, quán sát quán tưởng chủ quan, mà năm âm là âm thanh khách quan nghe được, như diệu âm cũng có thể xem như diệu sắc, diệu hương, diệu vị, diệu xúc, diệu pháp. Nhưng trong sáu căn, theo ý nhĩ căn là bậc nhất mà nói, do đó lấy âm thanh làm đại biểu. Diệu Âm và Quan Thế Âm là dung hòa chân quán và thanh tịnh quán ở trước tiến vào thành quảng đại trí huệ quán. Tuy đồng là quảng đại trí huệ quán, nhưng Diệu Âm là dùng tức không mà quán trung đạo. Đây chính là cái trước là hướng thượng, cái sau là hướng hạ. Cái trước song giá không hữu, cái sau song chiếu không hữu, kết quả là một.
Nếu như biết tâm yếu của kinh Pháp Hoa thì gió núi ngàn, sóng trong ao, không gì chẳng phải là diệu âm, âm thanh mua bán trên đời không gì không phải là pháp âm. Quán Âm tức là dùng diệu trí quán chiếu tiếng xưng tên của chúng sanh khổ não trên thế gian mà tìm theo tiếng để cứu khổ.
Phạm Âm nghĩa là Bồ-tát thuyết pháp thế gian và xuất thế gian đều thanh tịnh vô nhiễm. Ngay trên thanh tịnh quán mà lập muôn pháp. Thắng Bỉ Thế Gian Âm là siêu vượt sai biệt thế gian mà lập chân quán cao thượng. Bồ-tát mắt thấy tai nghe, đều tuyệt đối bình đẳng. Vận dụng điều này mà thành từ quán và bi quán. Bồ-tát dùng từ bi cứu thế, như nước thủy triều trên biển lớn, suốt ngày đều hoạt động mà không một chút dừng nghỉ, đúng giờ, đúng lúc, hoặc đầy hoặc vơi, ứng dụng tự tại, đây tức là Hải triều âm.
Năm âm này có thể xem như năm dây đàn, tuy có những âm thanh khác nhau, nhưng thật là một vật đồng nhất, mà xem từ trước sau phải trái mà thôi. Dùng quan sát khách quan đây hoàn toàn là thanh âm của chân lý vũ trụ phát ra. Dùng quan sát chủ quan thì đều là tiếng nội tại tiên thiên nằm trong tâm chúng ta. Do đó đây không phải là tai nghe mà là tâm nghe, không phải mắt thấy mà là tâm thấy. Cái âm thanh tiên thiên tiềm ẩn trong một tâm thành năm âm của Quan Âm mà hiển hiện, do đó thường phóng ở trên tâm để tư duy.
Niệm niệm vật sanh nghi
Quan Thế Âm tịnh Thánh
Ư khổ não tử ách
Năng vi tác y hộ.
Từ các phương diện trên trình bày công đức của Quan Âm, sợ trên thế gian lại có người sanh nghi nên lại nói niệm niệm chớ sanh nghi, khuyên người nên tin. Như trước đã giảng qua ‘Phật pháp như biển lớn, chỉ tin mới vào được’. Nếu như anh không tin, thì pháp môn có quý báu thế nào, anh cũng không thể tiếp nhận và tiến vào. Niệm niệm là niệm trước và niệm sau trên tâm chúng ta, nghĩa là bất kể lúc nào. Chúng ta có lúc được người dạy dỗ, đích xác cũng có nhất thời sanh lòng tin, nhưng không lâu lại sanh lòng nghi, đảo ngược niềm tin của niệm trước. Nhân đây đức Phật từ bi, luôn luôn dặn dò đinh ninh, răn nhắc chúng sanh, niệm trước tin, niệm sau nghi là người không thực hành. Cần phải niệm niệm thành khẩn tin tưởng, mới có công hieäu. Thiền sư Đạo Nguyên nói: Niềm tin thành tựu thì Phật Tổ thành tựu. Tôn giáo là y niềm tin mà thành lập, tất cả lực lượng vĩ đại đều dựng lập trên niềm tin. Đây cùng với lối học vấn lấy nghi làm điểm xuất phát không đồng.
Nếu nói thế há tôn giáo đi ngược lại với học vấn? Đây cung không đúng. Căn bản của đạo lý lập trên học vấn nhưng đặt niềm tin vào chỗ học vấn không thể đến được. Do đó tôn giáo không phải là ngược hẳn với học vấn mà là vượt khỏi học vấn. Phật giáo so với học vấn thuộc lý trí còn đòi hỏi tình ý thâm nhập rộng khắp hơn, trên toàn thể tinh thần làm chỗ an thân lập mạng.
Chỗ an thân lập mạng này là cơ sở của tín ngưỡng, Bồ-tát Quan Âm, thường ở trong khổ não tử ách đáng sợ, như cha như mẹ, làm chỗ nương tựa cho chúng sanh. Tịnh Thánh là nói Quan Âm không phải là Bồ-tát bình thường đang tu hành. Tại quá khứ lâu xa, đã sớm thành Phật tên Chánh Pháp Minh Như Lai. Ngài là một bậc Thánh thanh tịnh không nhơ, vì cứu giúp chúng sanh, mới chèo chiếc thuyền từ, giáo hóa thế giới Ta-bà này.
Cụ nhất thế công đức
Từ nhãn thị chúng sanh
Phước tụ hải vô lượng
Thị cố ưng đảnh lễ.
Quan Âm đã là Tịnh Thánh cứu đời, mà hiện làm Bồ-tát quyền hóa thì việc Ngài có đủ tất cả công đức không cần phải nói.
‘Tất cả’ là không thể dùng số mà đếm. Như dùng ba đế không giả trung ở trước để nói. Quánn KHÔNG ĐẾ mà thành đức của Pháp thân, quán GIẢ ĐẾ mà được đức của Bát-nhã, quán TRUNG ĐẾ mà hiện đức của Giải thoát. Đây gọi là ba đức Pháp thân, Bát-nhã, Giải thoát. Lại theo phương diện khác mà nói: Quán Không đế mà không chấp trước, đoạn sạch tất cả phiền não, đây gọi là Đoạn đức. Quán Giả đế nên có thể thuận ứng với các sai biệt mà vận dụng trí tuệ, đây gọi là trí đức. Quán Trung đế nên có thể ứng dụng vô ngại, đây gọi là Dụng đức. Đoạn đức, Trí đức và Dụng đức cũng có thể gọi là ba đức.
Tất cả đạo đức, ở trên thân là dừng ác và tu thiện, đối với người là cứu độ chúng sanh. Quán Âm đầy đủ tất cả công đức, dùng mắt từ bi nhìn tất cả chúng sanh, do đó kết quả của công đức ấy có đủ hạnh phúc vô hạn, đồng thời tất cả chúng sanh nhận các phước đức và trí tuệ đầy đủ, cũng đồng như nước biển không thêm không bớt, là cái vô lượng, đem cái này làm cơ sở an lập tinh thần, nếu không quy mạng, đảnh lễ mà báo đền ân đức thì không thể được. Trừ sự cầu mong vô lượng công đức có đủ của Quán Âm bên ngoài đến còn cần nghĩ đến chính mình. Ở trong tâm chúng ta, nương tánh công đức sẵn đủ vô tận của Như Lai Tạng, thì dùng cách nào cũng không hết, chỉ vì đóng chặt cánh cửa Như Lai Tạng này mà không thể hiện, do đó đại sư Hình Khê oán tiếc nói: ‘Thương thay! Bí tạng không hiển lộ, vì bị ba hoặc che, nên vô minh làm mờ pháp tánh, trần sa chướng ngại sự hóa đạo, kiến tư ngăn sự không tịch, mà ba hoặc này thể vốn hư vọng”.
Thể nghiệm đến vô minh hư vọng mà làm rõ pháp tánh thì thành quảng đại trí huệ quán. Trần sa là dụ cho vô trí nhiều, đuổi trừ cái này mà hiển rõ hóa đạo thì hiện thanh tịnh quán. Dẹp chấp trước sai biệt của kiến hoặc, tư hoặc mà minh hiển không tịch thì hiện chân quán. Đây do hiển hiện bí tạng này mà đầy đủ tất cả công đức. Lại dùng từ quán, bi quán mà nhìn tất cả chúng sanh. Như thế, trên tâm thực tại của chính mình hiển hiện phước tụ công đức vô lượng như biển cả của Quán Âm.
Quá khứ đời Tống có Lý Tông hỏi tăng Thiên Trúc:
– Quán Âm cầm xâu chuỗi trên tay là niệm ai? Tăng Thiên Trúc đáp:
– Niệm Quán Âm. Lý Tông hỏi dồn:
– Tự mình vì sao phải niệm danh hiệu của mình? Tăng nhân đáp:
– Cầu người không bằng cầu mình.
Đây là một phương tiện khiến chúng ta thể hội đoạn hỏi đáp này, trên nghĩa gốc việc đảnh lễ Quan Âm.
Trong phẩm Phổ Môn ở bản tiếng Phạn, lại có một đoạn kệ tụng dưới đây:
Năng diệt ưu úy khổ
Đảnh lễ Quán Thế Âm.
Pháp Tạng Tỳ kheo tôn,
Thủ tọa Thế tự tại
Tu hành kỷ bách kiếp
Chứng vô thượng tịnh giác.
Thường thị tả hữu biên
Phiến lương Di Đà tôn
Thị tam muội huyễn lực
Cúng dường nhất thiết Phật.
Tây phương thanh tịnh độ
An Dưỡng Cực lạc quốc
Di Đà trụ bỉ thượng
Điều ngự trượng phu tôn.
Bỉ độ vô nữ nhân
Bất kiến bất tịnh pháp
Phật tử kim vãng sanh
Nãi nhập Liên Hoa tạng
Bỉ Vô Lượng Quang Phật
Tịnh diệu liên hoa đài
Sư tòa phóng bách quang
Như Sa la Thọ vương
Như thị thế gian tôn,
Tam giới vô đẳng luân
Lễ tán tích công đức
Tốc thành tối thắng nhân.
(Hay diệt khổ lo sợ
Đảnh lễ Quán Thế Âm.
Đấng Tỳ-kheo Pháp Tạng
Thủ tọa Thế tự tại,
Tu hành mấy trăm kiếp,
Chứng tịnh giác vô thượng.
Thường hầu ở hai bên
Quạt mát Phật Di-đà
Bày sức huyễn tam muội
Cúng dường tất cả Phật
Cõi thanh tịnh phương Tây
Nước Cực lạc An Dưỡng
Di-đà trụ trên đó
Đấng Điều ngự trượng phu.
Cõi đó không người nữ
Chẳng thấy pháp bất tịnh
Phật tử nay vãng sanh
Bèn vào tạng liên hoa
Phật Vô Lượng Quang ấy
Đài hoa sen tịnh diệu
Tòa sư tử phóng quang
Như Sa-la Thọ vương
Đấng thế gian tôn trọng,
Ba cõi chẳng ai bằng
Lễ tán chứa công đức
Chóng thành nhân tối thắng.)
Kệ tụng đến nay vẫn chưa có người dịch ra, đây cũng xem như là một phát hiện lớn.