ĐỊA TẠNG BỒ TÁT BỔN NGUYỆN KINH KHOA CHÚ
Đường Tam Tạng sa-môn Thật Xoa Nan Đà dịch
Cổ Diêm Khuông Am Thanh Liên bật-sô Linh Thừa soạn
Chuyển ngữ: Bửu Quang Tự đệ tử Như Hòa
3.2.2.1.2.2.2.2.2.1.2.2.2.2.2.2.2.3. Khổ vô gián (khổ sở chẳng gián đoạn)
(Kinh) Tam giả, tội khí xoa, bổng, ưng, xà, lang, khuyển, đối, ma, cứ, tạc, tỏa chước, hoạch thang, thiết võng, thiết thằng, thiết lư, thiết mã.
(經)三者,罪器叉,棒,鷹,蛇,狼,犬,碓,磨,鋸鑿,剉斫,鑊湯,鐵網,鐵繩,鐵驢,鐵馬。
(Kinh: Ba là dụng cụ để trị tội như chĩa ba, gậy, chim ưng, rắn, sói, chó, cối giã, cối xay, cưa, đục, chém, chặt, vạc nấu sôi, lưới sắt, dây sắt, lừa sắt, ngựa sắt).
Đây là nói đến những món dụng cụ dùng để hành hình, không vật gì chẳng sẵn đủ. Vì thế, Nê Lê được dịch là Khổ Cụ (苦具, dụng cụ để trị tội, hành hình). Kinh Lăng Nghiêm nói: “Trá tập giao dụ, phát ư tương điều, dẫn khởi bất trụ. Cố hữu nữu, giới, già, tỏa, tiên, trượng, trá, bổng chư sự” (Do tập khí gian trá trong quá khứ nay lại phát khởi hiện hành, giao xen dẫn dụ tập khí trong hiện tại mà phát khởi. Cho nên có các chuyện gông, cùm, xiềng, xích, roi, trượng, đòn vọt). Chim ưng, sói, chó, lừa sắt, ngựa sắt, những thứ ấy do xúc báo chiêu cảm, dẫn khởi như trong phần trước và phần sau có giải thích.
Giã, xay, cưa, đục là do tập khí gây oan uổng và tập khí sân hận cảm vời. “Đối” (碓, cối giã) tức địa ngục Đảo Đối (搗碓, nghiền giã). Lập Thế A Tỳ Đàm Luận nói: “Khi ấy, ngục tốt nói với đồng bạn: ‘Ta nay cùng với ngươi, trong một cái khảy ngón tay, giã, nghiền tội nhân’. Liền bắt các tội nhân, bỏ vào trong thuyền sắt nóng, dùng chày sắt nóng nghiền nát thân họ trong khoảng một cái khảy ngón tay. Người ấy thọ năm trăm năm”. Xay, cưa, chặt, chém đều như trong phần sau [sẽ giải thích]. Trong kinh Tội Nghiệp Báo Ứng, Tín Tướng Bồ Tát bạch Phật rằng: “Kim hữu thọ tội chúng sanh, vị chư ngục tốt tỏa chước trảm thân, tùng đầu chí túc, nãi chí kỳ đảnh. Trảm chi dĩ ngật, xảo phong xuy hoạt, nhi phục trảm chi, hà tội sở trí? Phật ngôn: – Dĩ tiền thế thời, sanh bất tín tam tôn, bất hiếu phụ mẫu, đồ nhi khôi khoái, trảm tiệt chúng sanh, cố hoạch tư tội” (“Nay có chúng sanh thọ tội, bị các ngục tốt băm, vằm, chém thân, từ đầu đến chân, cho đến đỉnh đầu. Chém xong rồi, xảo phong thổi cho sống lại, rồi lại bị chém. Do tội gì mà đến nỗi như thế?” Đức Phật dạy: “Do trong đời trước, lúc sống chẳng tin Tam Bảo, chẳng hiếu thảo với cha mẹ, làm đồ tể, đao phủ cắt, chặt chúng sanh, cho nên mắc phải tội ấy”).
“Hoạch thang” (鑊湯, vạc sôi) sẽ giải thích trong phần sau. “Thiết võng” (鐵網, lưới sắt): Trong ngục có bảy tầng lưới sắt giăng phủ bên trên. Ngục tốt lấy lưới sắt nóng quấn chặt thân tội nhân, đốt nóng [khiến cho thân thể tội nhân] bị đốt cháy tan nát. “Thiết thằng” (鐵繩, dây sắt): Kinh Trường A Hàm nói: “Ngục tốt tróc bỉ tội nhân, phác nhiệt thiết thượng, dĩ nhiệt thiết thằng, bính chi sử trực. Dĩ nhiệt thiết phủ, trục thằng đạo, chước tội nhân tác bách thiên đoạn. Phục dĩ thiết thằng, bính cứ cứ chi. Phục huyền nhiệt thiết thằng, giao hoành vô số, khu bách tội nhân, sử hành thằng gian. Ác phong bạo khởi, xuy chư thiết thằng lịch lạc kỳ thân, thiêu bì, triệt nhục, tiêu cốt, phí tủy” (Ngục tốt bắt tội nhân, quăng lên sắt nóng, dùng dây sắt nóng buộc cho thẳng. Dùng búa sắt nóng, căn theo đường dây mà chặt tội nhân làm trăm ngàn khúc. Lại dùng dây sắt, buộc vào cưa để cưa. Lại treo dây sắt nóng, giăng ngang dọc vô số, xua ép tội nhân chạy vào khoảng giữa các dây. Gió dữ nổi lốc, thổi các dây sắt chằng néo thân họ, đốt da, thấu thịt, tiêu xương, sôi tủy).
(Kinh) Sanh cách lạc thủ, nhiệt thiết kiêu thân. Cơ thôn thiết hoàn, khát ẩm thiết trấp. Tùng niên cánh kiếp, số na-do-tha. Khổ sở tương liên, cánh vô gián đoạn, cố xưng Vô Gián.
(經)生革絡首,熱鐵澆身。饑吞鐵丸,渴飲鐵汁。從年竟劫,數那由他。苦楚相連,更無間斷,故稱無間。
(Kinh: Da sống niềng đầu, sắt nóng rưới thân. Đói nuốt hòn sắt, khát uống nước sắt. Từ năm đến kiếp, số đến na-do-tha. Khổ sở liên tiếp, trọn chẳng gián đoạn, vì thế gọi là Vô Gián).
“Sanh cách lạc thủ” (Da sống niềng đầu): Kinh Trường A Hàm nói: “Ngục tốt tróc tội nhân, bác thủ kỳ bì, triền tội nhân thân, trước hỏa xa thượng, luân triển nhiệt địa, châu hồi vãng phản. Thân thể toái lạn, bì nhục đọa lạc. Ký dĩ sanh cách lạc thủ, phục dĩ thiết trấp kiêu thân, sử linh tật trì” (Ngục tốt bắt tội nhân, lột lấy da họ để bó chặt thân họ, bỏ lên xe bốc lửa, bánh xe nghiền họ trên đất nóng, xoay vần qua lại. Thân thể tan nát, da thịt rơi rụng. Đã dùng da sống niềng đầu, lại dùng nước sắt nung chảy để rưới lên thân khiến cho họ rảo chạy).
“Đói nuốt hoàn sắt”: Theo như kinh Khởi Thế nói: “Tùng Ngũ Xoa tiểu địa ngục xuất, nghệ hướng Cơ Ngạ địa ngục trung. Thủ ngục giả tức vấn: ‘Nhữ đẳng hà dục?’ Đáp ngôn: ‘Ngã đẳng cơ ngạ’. Thủ ngục giả tức tiện thủ địa ngục chúng sanh, phác trước xí nhiên nhiệt thiết địa thượng, linh kỳ ngưỡng ngọa. Tiện dĩ thiết kiềm, khai trương kỳ khẩu. Dụng nhiệt thiết hoàn, trịch trước khẩu trung, thần khẩu ứng thời thiêu nhiên. Thứ đệ thiêu thiệt, thiêu ngạc, nãi chí kinh quá tiểu tràng, hướng hạ nhi xuất, kỳ hoàn thượng xích. Tùng Cơ Ngạ địa ngục xuất, nghệ hướng Tiêu Khát địa ngục trung, thủ ngục giả vấn ngôn: ‘Nhữ đẳng kim hà sở tu?’ Đáp ngôn: ‘Ngã kim thậm khát’, tức thủ phác trước nhiệt thiết địa thượng, tại mãnh diễm trung, ngưỡng nhi ngọa chi, tiện thủ thiết kiềm, khai trương kỳ khẩu, dung xích đồng trấp, quán kỳ khẩu trung. Thần khẩu tức tiện tiêu lạn. Nãi chí thiêu tràng, thiêu vị, trực phá tiểu tràng, hướng hạ nhi xuất. Do vãng tích sở tạo nhược nhân phi nhân thân trung nhất thiết ác nghiệp, ư ngục trung thứ đệ nhi thọ, độc thống bất khả nhẫn. Nê Lê trung như thị cần khổ, kinh na-do-tha kiếp, lược vô ty hào lạc gian, danh Vô Gián dã” (Từ tiểu địa ngục Ngũ Xoa thoát ra, đi vào trong địa ngục Cơ Ngạ (đói). Kẻ giữ ngục liền hỏi: “Các ngươi muốn gì?” Đáp: “Chúng tôi đói bụng”. Kẻ giữ ngục bèn bắt lấy chúng sanh trong địa ngục, quăng lên chỗ đất bằng sắt nóng đang cháy bừng bừng, ép họ nằm ngửa, liền dùng kìm sắt banh miệng họ ra. Dùng hòn sắt nóng, quăng vào trong miệng, miệng, môi ngay lập tức cháy xém. Lần lượt đốt lưỡi, đốt vòm họng, cho đến đi qua ruột non, theo phía dưới thoát ra, hòn sắt ấy vẫn còn nóng đỏ. Từ địa ngục Cơ Ngạ thoát ra, đi vào trong địa ngục Tiêu Khát (khát khô cổ), kẻ giữ ngục hỏi: “Nay các ngươi cần gì?” Đáp rằng: “Chúng tôi khát quá!” [Ngục tốt] liền bắt họ quăng lên chỗ đất bằng sắt nóng, ở trong lửa dữ, nằm ngửa ra, liền lấy kìm sắt banh miệng họ ra, nước đồng chảy nóng đỏ rót vào trong miệng họ. Môi, miệng liền cháy nát, cho đến đốt trụi ruột, đốt dạ dày, phá toang ruột non, theo phía dưới thoát ra. Do hết thảy các ác nghiệp đã tạo trước kia khi làm thân người hoặc chẳng phải người mà lần lượt thọ tội trong các ngục, đau đớn chẳng thể chịu đựng được. Ở trong Nê Lê khổ sở như thế, trọn chẳng có mảy may vui sướng nào, nên gọi là Vô Gián).
3.2.2.1.2.2.2.2.2.1.2.2.2.2.2.2.2.4. Quả vô gián (quả báo chẳng gián đoạn)
(Kinh) Tứ giả, bất vấn nam tử, nữ nhân, khương, hồ, di, địch, lão, ấu, quý, tiện, hoặc long, hoặc thần, hoặc thiên, hoặc quỷ, tội hạnh nghiệp cảm, tất đồng thọ chi, cố xưng Vô Gián.
(經)四者,不問男子女人,羌胡夷狄,老幼貴賤,或龍 或神,或天或鬼,罪行業感,悉同受之,故稱無間。
(Kinh: Bốn là chẳng cần biết là nam, nữ, khương, hồ, di, địch[1], già, trẻ, sang, hèn, hoặc rồng, hoặc thần, hoặc trời, hoặc quỷ, do hạnh nghiệp tội lỗi chiêu cảm, đều cùng thọ tội, vì thế gọi là Vô Gián).
“Lão” là người tuổi cao, suy yếu. Bảy mươi thì gọi là Lão; [dùng chữ này làm] cái gốc để chế chữ [diễn tả lòng] yêu thương cha mẹ. Vì thế, [chữ Lão (老)] dùng chữ Hiếu (孝) và Chủy (匕, đây là chữ Hóa thời cổ) để tạo thành. Đã lo vì [cha mẹ] suy yếu, lại lo họ bị chết, thật sự tiếc nuối ngày tháng, há có nguôi lòng? “Ấu” (幼) là đã trẻ lại càng non nớt hơn. Huyết khí chưa đầy đủ, vì thế [chữ Ấu] do Lực (力) và Yêu (幺, ít ỏi) ghép lại, [diễn tả] ý “đã nhỏ lại còn non nớt”. Mười năm đầu trong đời người là Ấu, chính là lúc được cha mẹ yêu thương nhất. “Quý” (貴) là địa vị cao, được tôn trọng. “Tiện” (賤, hèn), tương phản với Quý. [Cả hai chữ Quý và Tiện] đều có bộ Bối (貝, vỏ sò, được dùng làm tiền trong thời cổ) là thứ mọi người đều coi là quý. Chữ Quý do Trung (中) [và Bối ghép lại], lại có chữ Nhất (一) ở chính giữa, như hình dạng người đang gồng gánh, [thể hiện ý] nắm giữ, gồng gánh tiền, mọi người đều tôn trọng; cho nên tôn quý, cao vời. Nếu phải cầm Giáo (tức chữ Qua, 戈) để tranh Bối (tiền bạc) [tức là chữ Tiện (賤) gồm Bối và hai chữ Qua ghép lại] thì mọi người đều ghét, cho nên bị coi rẻ.
“Long, quỷ, thần” vốn thuộc bốn đường, đọa vào địa ngục chẳng có gì là lạ! Thiên cũng đọa là vì lẽ nào? Đại Luận nói: “Chư thiên từ Phi Tưởng Phi Phi Tưởng Xứ Thiên chết đi, sẽ đọa vào trong địa ngục A Tỳ”. Kinh Chánh Pháp Niệm Xứ nói: “Đế Thích phục quán nghiệp quả ư điện trung, Khiếu Hoán đại địa ngục thập bát cách xứ, sát sanh, thâu đạo, tà dâm, vọng ngữ nghiệp, đọa thử địa ngục, cụ thọ chúng khổ” (Đế Thích lại quán nghiệp quả [sau khi mất của chư thiên] trong cung điện, [thấy tội nhân trong] mười tám ngục thuộc đại địa ngục là do các nghiệp sát sanh, trộm cắp, tà dâm, nói dối mà đọa vào địa ngục ấy, thọ đủ các khổ). Vì thế, [địa ngục] chẳng bỏ sót chư thiên! Thành Thật Luận viết: “Hỏi: Người sanh lên trời lìa ác, tích thiện, sau khi báo hết, sao lại vào ngay trong tam đồ? Đáp: Phàm phu từ vô thỉ đến nay, ác nghiệp vô cùng. Một ngày tham, sân, còn chịu tội nơi ngàn thân. Huống hồ ác đã nhiều, tạm chế phục nghiệp kết mà sanh [trong đường lành]. Khi phước do thiện báo đã hết, nghiệp cũ đã đến lúc chín muồi, vẫn đọa vào tam đồ, có gì đáng ngờ?” Kinh Niết Bàn dạy: “Tuy phục đắc Phạm Thiên chi thân, nãi chí Phi Tưởng Phi Phi Tưởng Xứ Thiên, mạng chung chi hậu, hoàn đọa tam ác đạo trung” (Tuy được làm thân Phạm Thiên, thậm chí Phi Tưởng Phi Phi Tưởng Xứ Thiên, sau khi mạng chung, vẫn đọa trong ba ác đạo). Do quả báo chẳng gián đoạn, cho nên gọi là Vô Gián.
3.2.2.1.2.2.2.2.2.1.2.2.2.2.2.2.2.5. Mạng vô gián (mạng chẳng gián đoạn)
(Kinh) Ngũ giả, nhược đọa thử ngục, tùng sơ nhập thời chí bách thiên kiếp, nhất nhật, nhất dạ, vạn tử, vạn sanh, cầu nhất niệm gian, tạm trụ bất đắc, trừ phi nghiệp tận, phương đắc thọ sanh, dĩ thử liên miên, cố xưng Vô Gián.
(經)五者,若墮此獄,從初入時至百千劫,一日一夜,萬死萬生,求一念間,暫住不得,除非業盡,方得受生,以此連綿,故稱無間。
(Kinh: Năm là nếu đọa vào ngục này, từ lúc mới vào cho tới trăm ngàn kiếp, một ngày, một đêm, vạn lần chết, vạn lần sống, cầu tạm ngừng trong một niệm chẳng được, trừ phi nghiệp hết mới được thọ sanh, do thọ khổ liên miên, nên gọi là Vô Gián).
Kinh Quán Phật Tam Muội nói: “Địa ngục nhất nhật nhất dạ thọ tội, như Diêm Phù Đề lục thập tiểu kiếp, như thị nhất đại kiếp. Thử đẳng tội nhân, kinh bát vạn tứ thiên đại kiếp” (Thọ tội trong địa ngục một ngày một đêm giống như sáu mươi tiểu kiếp trong Diêm Phù Đề, tức là một đại kiếp như thế. Những tội nhân ấy [chịu tội] trải qua tám vạn bốn ngàn đại kiếp). Kinh Trường A Hàm nói: “Cửu thọ khổ dĩ, tùng Vô Gián xuất, nãi chí Hàn Băng địa ngục, nhĩ nãi mạng chung. Vi trọng tội hành, sanh ác thú nghiệp, cố đọa Vô Gián địa ngục, thọ khổ bất khả xưng kế” (Chịu khổ đã lâu, từ Vô Gián thoát ra, [sanh vào địa ngục khác, lần lượt như thế] cho đến [sanh vào] địa ngục Hàn Băng thì mới mạng chung. Do đã gây tội nặng, tạo nghiệp sanh vào đường ác, cho nên đọa vào địa ngục Vô Gián, chịu khổ chẳng thể tính kể).
Theo kinh Lăng Nghiêm: “Do tư báo chiêu dẫn ác quả, kết xúc, tắc vi nhất nhật trung vạn tử, vạn sanh. Ư nhất thiết thời, vô hữu tu du tạm thọ an lạc như đàn chỉ khoảnh” (Do ý thức tạo nghiệp, chiêu cảm, dẫn khởi ác quả, kết thành Xúc báo, cho nên trong một ngày vạn lần sống, vạn lần chết. Trong hết thảy các thời, chẳng hề được tạm hưởng an vui trong khoảnh khắc chừng bằng một cái khảy ngón tay). Vì thế mới nói: “Nhất niệm tạm trụ bất đắc” (Chẳng tạm ngưng trong một niệm được).
“Nghiệp tận thọ sanh” là từ ngữ nói theo thời gian xa xôi. Theo kinh Thiết Thành Nê Lê, từ Nê Lê thứ nhất thoát ra, cho đến lần lượt vào trong Nê Lê thứ tám. Lại từ Nê Lê thứ tám, trở ngược lại Nê Lê thứ bảy, cho đến ngục thứ nhất là A Tỳ Ma Nê Lê. Đến đó, người ta thấy thành sắt từ xa, đều hoan hỷ hô to “vạn tuế”. Vua Diêm La liền gọi tội nhân đến trước mặt, [phán quyết] “nếu chẳng có oán đối, sẽ cho ngươi đi”. [Người ấy] sẽ lại sanh làm người, sẽ hiếu thuận, sẽ phụng sự lâu năm, sẽ sợ điều răn cấm của đế vương, sẽ thừa sự sa-môn đạo nhân, tâm, miệng, thân đều đoan chánh. Người đắc A La Hán thì các đường Nê Lê đều đóng lấp. Do vậy, từ Nê Lê thoát ra, đều sanh trong đường lành. Vì thế nói là “nghiệp tận thọ sanh”. Do từ thuở đầu cho đến khi nghiệp hết sạch, cứ sanh tử liên miên, cho nên gọi là Vô Gián.
3.2.2.1.2.2.2.2.2.1.2.2.2.2.3. Quảng thuyết bất tận (nói chi tiết thì sẽ chẳng thể nói trọn hết được)
(Kinh) Địa Tạng Bồ Tát bạch thánh mẫu ngôn: “Vô Gián địa ngục thô thuyết như thị. Nhược quảng thuyết địa ngục tội khí đẳng danh, cập chư khổ sự, nhất kiếp chi trung, cầu thuyết bất tận”.
(經)地藏菩薩白聖母言:無間地獄麤說如是。若廣說地獄罪器等名,及諸苦事,一劫之中,求說不盡。
(Kinh: Địa Tạng Bồ Tát bạch thánh mẫu rằng: “Nói thô thiển về địa ngục Vô Gián như thế đó. Nếu nói cặn kẽ về tên gọi của những dụng cụ hành tội và các sự khổ trong địa ngục thì suốt cả một kiếp, chẳng mong nói trọn hết được”).
Vì sao những chuyện như tên gọi của các dụng cụ hành tội nói suốt một kiếp chẳng tận? Do các tội nhân lúc sống, ác tâm trọn khắp, ngày đêm liên tục, đến nỗi đọa vào địa ngục, sẽ theo nghiệp mà [các chuyện đày đọa] hiện ra, tự nhiên những dụng cụ để hành tội và các chuyện khổ sẽ rộng nhiều, khó thể trọn hết được! Than ôi! Người sa vào Nê Lê, khổ sở, cay đắng muôn mối. Ai nấy hãy tự suy nghĩ, cũng đều nên làm lành vậy thay!
3.2.2.1.2.2.2.2.2.2. Thánh mẫu lễ thoái (thánh mẫu làm lễ, lui ra)
(Kinh) Ma Da phu nhân văn dĩ, sầu ưu hiệp chưởng, đảnh lễ nhi thoái.
(經)摩耶夫人聞已,愁憂合掌,頂禮而退。
(Kinh: Ma Da phu nhân nghe xong, lo sầu, chắp tay, đảnh lễ, lui ra).
Đây là người trùng tuyên kinh điển trần thuật thánh mẫu nghe xong, lui ra, buồn vì tội nhân chịu khổ chẳng cùng tận, lo vì sức mình cứu giúp chẳng xuể. “Chắp tay” biểu thị tự tâm chẳng tán loạn. “Đảnh lễ” là bái tạ Địa Tạng Bồ Tát [là đấng] có thể tuyên thuyết. Lại còn lui khỏi chỗ ngồi để âm thầm suy nghĩ, vẫn mong do duyên sau sẽ lại diễn nói.
ĐỊA TẠNG BỒ TÁT BỔN NGUYỆN KINH KHOA CHÚ
[1] Khương, Hồ, Di, Địch là các sắc dân thiểu số. Khương (còn gọi là Nhĩ Mã) là sắc dân thiểu số sống ở vùng Tây Nam Trung Hoa. Ngôn ngữ của họ thuộc hệ Hán – Tạng, nhưng văn tự đã thất truyền. Họ theo ngả Tây Bắc di cư vào Trung Hoa dưới đời Tần. Trong lịch sử, một lãnh tụ người Khương là Diêu Trành đã sáng lập vương triều Hậu Tần (sử thường gọi là nhà Diêu Tần). Hồ là tiếng chỉ chung các sắc dân ngoại lai tại Trung Á và Tây Á. Do vậy, trong lịch sử, các sử gia Trung Hoa đã phân biệt người Hồ thành Sơn Nhung, Khuyển Nhung, Đông Hồ, Nhục Chi, Ô Hoàn, Tiên Ty, Hung Nô, Đê, Yết, Đột Quyết, Hồi Hột v.v… Di là những người thiểu số ở phía Đông Trung Hoa. Vua khai sáng nhà Châu là Châu Văn Vương thuộc tộc Đông Di. Từ đời Hán trở đi, chữ Di dùng để chỉ người Đại Hàn, Oa nhân (người Nhật), Ốc Thư (Okjeo, một sắc dân tại Đại Hàn), dân cư trên đảo Lưu Cầu (Ryukyu), và thổ dân tại Đài Loan. Địch là từ ngữ chỉ các sắc dân sống ở phía Bắc Trung Hoa mà không phải là người Hán. Thời Xuân Thu, người Địch chia thành Bạch Địch, Xích Định, và Trường Địch.