ĐỊA TẠNG BỒ TÁT BỔN NGUYỆN KINH KHOA CHÚ
Đường Tam Tạng sa-môn Thật Xoa Nan Đà dịch
Cổ Diêm Khuông Am Thanh Liên bật-sô Linh Thừa soạn
Chuyển ngữ: Bửu Quang Tự đệ tử Như Hòa
3.2.2.1.2.2.2.2.2.1.2.2.2.2. Biệt minh Vô Gián (nói riêng về Vô Gián)
3.2.2.1.2.2.2.2.2.1.2.2.2.2.1. Chánh minh nghiệp báo (nói thẳng vào nghiệp báo)
3.2.2.1.2.2.2.2.2.1.2.2.2.2.1.1. Chánh khai (nói thẳng vào vấn đề)
3.2.2.1.2.2.2.2.2.1.2.2.2.2.1.1.1. Thị ngục thành danh xuất (dạy về thành quách trong địa ngục, nêu ra danh hiệu)
(Kinh) Vô Gián ngục giả, kỳ ngục thành châu táp bát vạn dư lý. Kỳ thành thuần thiết, cao nhất vạn lý. Thành thượng hỏa tụ, thiểu hữu không khuyết. Kỳ ngục thành trung, chư ngục tương liên, danh hiệu các biệt. Độc hữu nhất ngục, danh viết Vô Gián.
(經)無間獄者,其獄城周匝八萬餘里。其城純鐵,高一萬里。城上火聚,少有空缺。其獄城中,諸獄相連,名號各別。獨有一獄,名曰無間。
(Kinh: Địa ngục Vô Gián, thành ngục giáp vòng hơn tám vạn dặm. Thành ấy thuần bằng sắt, cao một vạn dặm. Lửa trùm trên thành ít có chỗ nào chừa sót. Trong thành địa ngục, các ngục kề nhau, danh hiệu mỗi ngục mỗi khác. Chỉ có một ngục tên là Vô Gián).
Theo kinh Vấn Địa Ngục, bốn phía thành của vua Diêm La đặt các địa ngục. Khi một người mạng chung, đã bỏ Tử Ấm (thân trước khi chết), chưa có Sanh Ấm (thân trong đời sau), mang thân Trung Ấm vào thành Nê Lê (Hán dịch là Ký Điều Thành (寄條城), còn gọi là Bế Thành, 閉城). Trong khi chưa thọ tội, [Trung Ấm thân] cùng tụ tập tại chỗ ấy. Xảo phong thổi qua, tùy theo nghiệp nhẹ hay nặng mà thọ thân lớn hay nhỏ. Gió thối thổi qua, thành tựu hình dạng tội nhân thô kệch, xấu xí. Gió thơm thổi qua, thành tựu thân thể vi tế của của người có phước. Dựa theo đó, kẻ chịu khổ trong thành đều có hình tướng thô kệch, xấu xí. Kẻ sanh lên trời, thân thể đều thanh tịnh vi tế.
“Chư ngục tương liên” (Các ngục liên tiếp) tức là bảy ngục lớn như Đẳng Hoạt v.v… và ngục thứ tám là ngục Vô Gián, được gọi là “tám địa ngục nóng”. Mỗi ngục đều có những ngục phụ thuộc liên tiếp. “Độc hữu nhất ngục” (Chỉ có một ngục) là nói thẳng vào ngục Vô Gián. Do vậy, luận Câu Xá nói: “Do ở trong ấy thọ khổ chẳng gián đoạn, chẳng giống như bảy đại Nại Lạc Ca[1] kia không luôn luôn thọ khổ. Vì thế, gọi là Vô Gián”. Do vậy, dùng “độc hữu nhất ngục” để chỉ bày.
3.2.2.1.2.2.2.2.2.1.2.2.2.2.1.1.2. Minh ngục tướng, hiển báo (nói rõ tướng địa ngục, hiển thị quả báo)
3.2.2.1.2.2.2.2.2.1.2.2.2.2.1.1.2.1. Thị Tướng (chỉ bày tướng trạng)
3.2.2.1.2.2.2.2.2.1.2.2.2.2.1.1.2.1.1. Thị (chỉ bày)
3.2.2.1.2.2.2.2.2.1.2.2.2.2.1.1.2.1.1.1. Ngục hỏa tướng (tướng lửa trong ngục)
(Kinh) Kỳ ngục châu táp vạn bát thiên lý, ngục tường cao nhất thiên lý, tất thị thiết vi. Thượng hỏa triệt hạ, hạ hỏa triệt thượng. Thiết xà, thiết cẩu, thổ hỏa trì trục, ngục tường chi thượng, đông tây nhi tẩu.
(經)其獄周匝萬八千里,獄牆高一千里,悉是鐵為。上火徹下,下火徹上。鐵蛇,鐵狗,吐火馳逐,獄牆之上,東西而走。
(Kinh: Ngục ấy giáp vòng một vạn tám ngàn dặm, tường ngục cao một ngàn dặm, đều là bằng sắt. Lửa từ trên lan xuống dưới, lửa từ dưới bốc lên trên. Rắn sắt, chó sắt phun lửa chạy đuổi nhau trên tường ngục, rảo chạy đông tây).
Sắt được gọi là “hắc kim”, tánh chất cứng mà lạnh, biểu thị kẻ ác tàn nhẫn, tánh cứng cỏi, tâm lạnh lùng. Cho nên chỗ cảm báo đều thuần bằng sắt. “Lửa bốc lên cao, lan xuống thấp”: Kinh Khởi Thế nói: “Dĩ bất thiện báo cố, Đông phương hữu đại hỏa tụ xuất sanh. Nam, Tây, Bắc phương, tứ duy, thượng, hạ, các các như thị. Tùng Đông bích xuất đại hỏa diễm, trực xạ Tây bích, đáo dĩ nhi trụ. Tây bích xuất hỏa, xạ Bắc bích. Bắc bích xuất hỏa, xạ Nam bích. Tùng hạ ư thượng, tự thượng ư hạ, tung hoành tương tiếp, thượng hạ giao xạ. Cố triệt hạ, triệt thượng dã” (Do quả báo bất thiện, phương Đông sanh ra đống lửa. Phương Nam, Tây, Bắc, bốn phương, trên, dưới, mỗi phương đều như thế. Từ vách phía Đông sanh ra ngọn lửa lớn bắn thẳng vào vách phía Tây, bắn đến nơi, bèn ngưng ở đó. Vách phía Tây xẹt lửa, bắn vào vách phía Bắc. Vách phía Bắc xẹt lửa, bắn vào vách phía Nam. Từ dưới lên trên, từ trên xuống dưới, ngang dọc tiếp giáp, trên dưới bắn lẫn nhau. Vì thế, lửa từ trên lan xuống dưới, từ dưới bốc lên trên).
“Rắn sắt, chó sắt”: Kinh Quán Phật Tam Muội Hải nói: “Thiết thành nhị cách gian, hữu bát vạn tứ thiên thiết mãng đại xà, thổ độc hỏa trung, thân mãn thành nội. Kỳ xà hào hống, như thiên chấn lôi, vũ đại thiết hoàn. Tứ giác hữu tứ đại đồng cẩu, quảng trường tứ thập do-tuần. Mục như xế điện, nha như kiếm thụ, xỉ như đao sơn, thiệt như thiết thích. Nhất thiết thân mao giai nhiên mãnh hỏa, kỳ yên xú ác. Ký thổ độc hỏa, phục tranh trì tương trục ư ngục tường chi thượng, Đông Tây cấp tẩu, sử chư tội nhân, úy tỵ vô sở” (Thành sắt có hai ngăn, có tám vạn bốn ngàn đại mãng xà sắt, phun lửa độc, thân đầy chật cả thành. Những con rắn ấy gào thét như tiếng trời nổi sấm, tuôn ra những hòn sắt to. Bốn góc thành có bốn con chó lớn bằng đồng, cao rộng bốn mươi do-tuần. Mắt như chớp xẹt, nanh như cây cối đầy gươm, răng như núi đao, lưỡi như dùi sắt. Hết thảy lông trên thân đều cháy bừng lửa mạnh, mùi khói hôi thối. Đã phun ra lửa độc, lại còn giành nhau đuổi chạy trên tường ngục, rảo chạy đông tây, khiến cho các tội nhân sợ hãi mà không có chỗ tránh né).
3.2.2.1.2.2.2.2.2.1.2.2.2.2.1.1.2.1.1.2. Ngục sàng tướng (tướng trạng của giường trong địa ngục)
(Kinh) Ngục trung hữu sàng, biến mãn vạn lý. Nhất nhân thọ tội, tự kiến kỳ thân, biến ngọa mãn sàng. Thiên vạn nhân thọ tội, diệc các tự kiến, thân mãn sàng thượng.
(經)獄中有牀,遍滿萬里。一人受罪,自見其身,遍臥滿牀。千萬人受罪,亦各自見,身滿牀上。
(Kinh: Trong ngục có giường trọn khắp vạn dặm. Một người chịu tội tự thấy thân mình nằm chật cả giường. Ngàn vạn người chịu tội, ai nấy cũng tự thấy thân chật cả giường).
Như trong phần Thiết Sàng ở đoạn sau sẽ nói.
3.2.2.1.2.2.2.2.2.1.2.2.2.2.1.1.2.1.2. Kết (tiểu kết)
(Kinh) Chúng nghiệp sở cảm, hoạch báo như thị.
(經)眾業所感,獲報如是。
(Kinh: Do các nghiệp cảm vời mà đạt được báo như thế).
Kinh Thập Luân nói: “Hữu Ngũ Nghịch tội, vi tối cực ác. Cố tâm sát phụ mẫu, sát A La Hán, phá hoại Thanh Văn hòa hợp tăng sự, nãi chí ác tâm xuất Phật thân huyết, thị danh Ngũ Nghịch. Phục hữu tứ chủng đại tội, đồng ư Tứ Nghịch, phạm căn bản tội. Sát Bích Chi Phật, thị danh sát sanh, phạm căn bản tội. Dâm A La Hán tỳ-kheo-ni, thị danh tà dâm, phạm căn bản tội. Nhược nhân xả tài dữ Phật, Pháp, Tăng, chủ chưởng thử vật nhi triếp dụng chi, thị danh đạo, phạm căn bản tội. Nhược nhân đảo kiến, phá hoại tỳ-kheo tăng, thị danh phá tăng, phạm căn bản tội. Kỳ nhân ký phạm nghịch tội, hựu phạm căn bản tội, thí như thiết hoàn, tuy trịch không trung, chung bất tạm trụ, tốc tật đầu địa. Như thị Ngũ Nghịch, phạm tứ trọng cấm, cập nhị chủng chúng sanh, hủy hoại chánh pháp, phỉ báng hiền thánh. Như thị đẳng thập nhất chủng nhân, phạm nhất nhất tội giả, thân hoại mạng chung, giai đọa Vô Gián ngục trung” (Có tội Ngũ Nghịch là nặng nề nhất. Cố ý giết cha mẹ, giết A La Hán, phá hoại sự hòa hợp của Thanh Văn Tăng, cho đến ác tâm làm thân Phật chảy máu, thì gọi là tội Ngũ Nghịch. Lại có bốn loại đại tội, giống như Tứ Nghịch, phạm căn bản tội: Giết Bích Chi Phật, thì gọi là sát sanh, phạm căn bản tội. Dâm ô A La Hán, tỳ-kheo-ni thì gọi là tà dâm, phạm căn bản tội. Nếu có người xả tiền của để cúng cho Phật, Pháp, Tăng, những kẻ trông nom những vật ấy bèn tùy tiện sử dụng, thì gọi là Trộm, phạm căn bản tội. Nếu kẻ nào kiến giải điên đảo, phá hoại tỳ-kheo tăng, thì gọi là phá tăng, phạm căn bản tội. Kẻ ấy đã phạm tội nghịch, lại phạm tội căn bản, ví như hòn sắt, dẫu quăng lên không trung, trọn chẳng ngừng chút nào mà sẽ nhanh chóng rơi xuống đất. Phạm Ngũ Nghịch, bốn trọng cấm, và hai loại chúng sanh hủy hoại chánh pháp, phỉ báng hết thảy hiền thánh như thế. Mười một loại người như thế đó, phạm mỗi một tội thì khi thân hoại, mạng chung, đều đọa vào địa ngục Vô Gián). Há chẳng phải là do các nghiệp cảm vời mà mắc phải quả báo như thế hay chăng?
3.2.2.1.2.2.2.2.2.1.2.2.2.2.1.1.2.2. Hiển báo
3.2.2.1.2.2.2.2.2.1.2.2.2.2.1.1.2.2.1. Tiêu (nêu ra)
(Kinh) Hựu chư tội nhân, bị thọ chúng khổ.
(經)又諸罪人,備受眾苦。
(Kinh: Lại nữa, các tội nhân chịu đủ các nỗi khổ).
Kinh Trường A Hàm nói: “Kỳ trung tội nhân, cử mục sở kiến, đản kiến ác sắc, nhĩ văn ác thanh, tỵ văn xú khí, thiệt thường ác vị, thân xúc khổ thống, ý niệm ác pháp, đàn chỉ chi khoảnh, vô bất khổ thời, danh Vô Gián địa ngục” (Tội nhân trong ấy, ngước mắt mà nhìn, chỉ thấy sắc ác, tai nghe tiếng ác, mũi ngửi mùi hôi thối, lưỡi nếm vị xấu ác, thân tiếp xúc đau khổ, ý nghĩ đến pháp ác, trong khoảng khảy ngón tay, không có lúc nào chẳng khổ, gọi là địa ngục Vô Gián). Vì thế, tội nhân đến đó, chẳng ai không vướng vào đủ các nỗi khổ!
3.2.2.1.2.2.2.2.2.1.2.2.2.2.1.1.2.2.2. Thích (giải thích)
3.2.2.1.2.2.2.2.2.1.2.2.2.2.1.1.2.2.2.1. Dạ Xoa ác quỷ báo khổ (khổ báo vì Dạ Xoa, ác quỷ)
(Kinh) Thiên bách Dạ Xoa, cập dĩ ác quỷ, khẩu nha như kiếm,
nhãn như điện quang, thủ phục đồng trảo, đà duệ tội nhân. Phục hữu Dạ Xoa, chấp đại thiết kích, trúng tội nhân thân, hoặc trúng khẩu, tỵ, hoặc trúng phúc bối, phao không phiên tiếp, hoặc trí sàng thượng.
(經)千百夜叉,及以惡鬼,口牙如劍,眼如電光,手復銅爪,拖拽罪人。復有夜叉,執大鐵戟,中罪人身,或中口鼻,或中腹背,拋空翻接,或置牀上。
(Kinh: Ngàn trăm Dạ Xoa cùng với ác quỷ, miệng nhe nanh như kiếm, mắt như tia chớp, tay lại có móng đồng, lôi tóm tội nhân. Lại có Dạ Xoa cầm kích sắt lớn đâm vào thân tội nhân, hoặc trúng vào miệng, mũi, hoặc trúng bụng, lưng, quăng nhồi trên không rồi đỡ lấy, hoặc đặt lên giường).
Dạ Xoa chính là quỷ, lại nói đến Ác Quỷ là vì những con quỷ càng ác hơn Dạ Xoa quá đỗi. Kinh Nê Lê gọi [những con quỷ ấy] là Thú Quỷ (獸鬼). Sách Ngũ Khổ Chương Cú gọi chúng là A Bàng (阿旁), đầu trâu, tay người, hai chân có móng trâu, có sức mạnh lật núi, cầm chĩa ba bằng thép. Kinh Quán Phật Tam Muội nói: “Ngục tốt bát đầu, lục thập tứ giác, giác đầu hỏa nhiên, hóa thành đao luân, tại hỏa diễm gian, mãn A Tỳ thành” (Ngục tốt tám đầu, sáu mươi bốn sừng, chót sừng bốc lửa, hóa thành vầng đao ở trong các ngọn lửa đầy khắp thành A Tỳ). “Miệng nhe nanh”: Miêu tả tướng trạng hung ác. “Móng tay bằng đồng” là nói thân lực mạnh mẽ. Do nghiệp lực mà sanh ra điều này. Đại đức Pháp Thiện Hiện nói: “Thường ôm lòng phẫn nộ, độc ác, quen thói thích làm các ác nghiệp, thấy kẻ khác khổ sở liền sanh lòng vui sướng, chết đi sẽ là ngục tốt của Diêm Ma”. Luận Tân Tỳ Bà Sa nói: “Hỏi: Các ngục trong địa ngục thuộc về hữu tình hay là vô tình? Đáp: Nếu dùng xiềng sắt để trói buộc, mới sanh vào địa ngục, đến chỗ Diêm Ma thì thuộc loài hữu tình. Nếu dùng đủ mọi dụng cụ hành hình, ở trong địa ngục hại các hữu tình thì là chẳng thuộc về hữu tình”. Diệu Lạc nói: “Hữu tình và phi tình đều là do cộng nghiệp cảm vời, do tâm biến ra”. Đấy chính là như kinh Lăng Nghiêm nói: “Xúc báo chiêu cảm, dẫn khởi ác quả”. Thần thức tự thấy ngục tốt đầu trâu, La Sát đầu ngựa, tay cầm giáo, mác, lùa [tội nhân] vào Vô Gián.
“Móng tay đồng lôi, tóm”: Móng tay bằng đồng lôi tóm chưa đủ làm khổ tội nhân; lại lấy kích bằng sắt đâm vào thân khiến họ chịu khổ cùng cực. “Kích” là một thứ binh khí. [Vũ khí cán dài có] một nhánh thì gọi là Qua (戈, giáo), hai nhánh thì gọi là Kích (戟). “Kích” [nghĩa gốc] là “có nhánh”, vì hai bên [lưỡi Kích] có phân nhánh (hai bên đầu cây kích có lưỡi nhọn bè ngang ra, dài sáu tấc. Lưỡi nhọn chính giữa dài bảy tấc rưỡi. Lưỡi kích bè ngang, chỗ giáp với cán kích dài bốn tấc rưỡi, rộng một tấc rưỡi). Ở đây là nói tới cái kích sắt lớn, to, dài, nung đỏ, kích trong thế gian chẳng thể sánh bằng! Chỗ bị kích đâm trúng, đau đớn khó chịu đựng nổi. Lại đem tội nhân quăng ném lên không trung, lật tay đón lấy, bỏ lên giường sắt. Theo kinh Lăng Nghiêm, “do ư oán tập giao hiềm, phát ư hàm hận, nhị tập tương thôn, cố hữu đầu trịch cầm tróc kích xạ phao toát chư sự, tuần nghiệp phát hiện nhĩ” (do tập khí oán hận hiện hành, giao xen với tập khí trong hiện tại, tạo thành sự ghét bỏ, phát sanh thành hận thù trong nội tâm. Do hai thứ tập khí ấy va chạm nhau, cho nên có các chuyện quăng, ném, nắm bắt, đập, bắn, tung, chụp, theo nghiệp mà phát khởi)[2].
3.2.2.1.2.2.2.2.2.1.2.2.2.2.1.1.2.2.2.2. Thiết ưng, thiết xà báo khổ (quả báo khổ sở vì chim ưng sắt, rắn sắt)
(Kinh) Phục hữu thiết ưng, đạm tội nhân mục. Phục hữu thiết xà, kiểu tội nhân cảnh. Bách chi tiết nội, tất hạ trường đinh. Bạt thiệt canh lê, trừu trường tỏa trảm. Dương đồng quán khẩu, nhiệt thiết triền thân.
(經)復有鐵鷹,啗罪人目。復有鐵蛇,繳罪人頸。百肢節內,悉下長釘。拔舌耕犂,抽腸剉斬。烊銅灌口,熱鐵纏身。
(Kinh: Lại có chim ưng sắt, ăn mắt tội nhân. Lại có rắn sắt, xiết cổ tội nhân. Nơi các đốt xương đều đóng đinh dài. Kéo lưỡi ra để cày bừa. Rút ruột bằm chặt. Nước đồng sôi rót vào miệng, sắt nóng quấn thân).
“Ưng” (鷹) là một loài chim dữ; tên gọi khác là Sảng Cưu (鷞鳩). Kinh Nê Lê nói: “Nê Lê hữu điểu, uế như thiết sanh, trác nhân đầu, đạm nhân não, độc thống bất khả nhẫn” (Trong Nê Lê có chim mỏ bằng sắt, mổ đầu người để ăn óc người, đau đớn chẳng thể chịu đựng nổi). “Rắn sắt” như đã nói trong phần trước. Kinh Quán Phật Tam Muội nói: “Thử do ngu si chúng sanh, hủy nhục bố thí, ngôn thí vô báo, khuyến nhân tàng tích; hướng quốc vương, đại thần, nhất thiết chúng sanh, thuyết thí vô nhân, diệc vô quả báo. Cố cảm sanh thử ngục” (Đấy là do chúng sanh, hủy báng, nhục mạ chuyện bố thí, khuyên người khác tom góp, chất chứa, hướng về quốc vương, đại thần, và hết thảy chúng sanh nói bố thí chẳng có nhân [sanh quả lành], mà cũng chẳng có quả báo, cho nên cảm vời sanh trong ngục này).
Như Minh Báo Ký[3] chép, đời Đường, tại thành Tào Châu, một binh sĩ tên là Phương Sơn Khai thuở trẻ thích săn bắn, giết chóc vô số. Năm Trinh Quán thứ mười một (637), chết qua một đêm. Lúc sống lại, ông ta nói: “Lúc mới chết, có hai người dẫn lên một quả núi, trèo từng bậc lên tới đỉnh. Chợt có một con chim ưng trắng lớn, mỏ và vuốt bằng sắt, bay tới quặp sứt má trái [của ông ta] bay đi. Lại có một con chim ưng đen, quặp sứt vai phải bay đi. Hai người ấy liền dẫn ông ta đi về phương Nam, tới một cái thành, hết sức hiểm trở, chênh vênh. Hai người gõ cửa thành, cửa Bắc liền mở. Trong thành luôn có lửa cháy dữ dội. Bên cửa có mấy con rắn độc, đều dài mười mấy trượng, đầu to bằng năm cái đấu, trong miệng phun lửa bắn vào người. Sơn Khai hoảng sợ, chỉ dập đầu niệm Phật, cửa liền tự đóng lại. Thấy có một vị quan toan bắt ông ta chịu tội. Người hầu can gián: ‘Gã này chưa đáng chết, chỉ sợ hễ vào thành này, chẳng thể ra được! Chẳng bằng thả ra, cho hắn tu công đức’. Viên quan thả đi, trong khoảnh khắc, bèn sống lại”. [Trên thân ông ta còn hằn] dấu vuốt chim rất sâu, suốt đời chẳng mất. Về sau, ông ta bỏ vợ con xuất gia, biến nhà thành chùa, thường xuyên đọc tụng.
Nhưng ưng mổ, rắn quấn, chịu khổ cùng cực. Tiếp đó, các nỗi khổ đua nhau tụ tập, bức bách khó kham! “Nơi các đốt xương đều đóng đinh dài”: Kinh Trường A Hàm nói: “Thiết đinh địa ngục, ngục tốt phác chi, yển nhiệt thiết thượng, thư quyển kỳ thân, dĩ đinh đinh thủ túc, châu biến thân thể, tận ngũ bách đinh, khổ độc hào ngâm, do bất phục tử” (Địa ngục đinh sắt: Ngục tốt quăng tội nhân đè lên sắt nóng, kéo giãn, cuộn tròn thân họ. Dùng đinh đóng xuống chân, tay, trọn khắp thân thể đóng hết năm trăm cây đinh. [Tội nhân] đau đớn khổ sở rên xiết mà vẫn chẳng chết).
“Bạt thiệt canh lê” (Kéo lưỡi ra để cày bừa trên đó) như trong phần sau [sẽ nói].
“Trừu trường tỏa trảm” (Rút ruột bằm chặt): Đấy chính là địa ngục Rút Ruột Rứt Phổi, đó gọi là “chĩa ba dài đè xương sườn, nghiền giã tim, gan, xé mật, rút ruột, xẻ thân, bằm thịt, băm vằm, [khiến cho] hình dạng [của tội nhân] nát vụn như bột”. Đấy đều là do vọng ngữ gây ra, và do các ác nghiệp khác cảm vời.
“Dương đồng quán khẩu” (Nước đồng sôi rót vào miệng) như trong phần sau [sẽ giải thích].
“Nhiệt thiết triền thân” (Sắt nóng quấn thân) tức Thiết Bề địa ngục (địa ngục lược sắt). Lược sắt nung đỏ trong ngoài xuyên thấu, ghim chặt thân tội nhân. Trong thì rót nước đồng sôi, ngoài thì là sắt nóng, các nghiệp khác chưa hết thì vẫn chưa chết được!
3.2.2.1.2.2.2.2.2.1.2.2.2.2.1.1.2.2.3.1. Sanh tử vạn thiên (ngàn muôn lần sống chết)
(Kinh) Vạn tử thiên sanh, nghiệp cảm như thị.
(經)萬死千生,業感如是。
(Kinh: Vạn lần sống, ngàn lần chết, nghiệp cảm như thế đó).
Tội nhân trong địa ngục hoặc bị ác quỷ nung nấu, chặt, chém mà chết, hoặc tội nhân tự sanh móng tay bằng sắt cấu xé thịt lẫn nhau cho rơi rớt mà chết. Hoặc ngục tốt gọi “sống lại”, hoặc gió lạnh thổi qua mà sống lại. Sanh tử như thế, ngàn vạn lần chẳng cùng tận. Vì thế, kinh Khởi Thế nói: “Nhược nhân thân, khẩu, ý tạo nghiệp, tác dĩ nhập ư ác đạo trung, kinh lịch vô số thiên ức tuế. Tử dĩ, tu du hoàn phục hoạt. Oán thù các các tương báo đối, do thử chúng sanh cánh tương sát. Nhiên kỳ trung thọ khổ giả, tùy kỳ tác nghiệp, các hữu khinh trọng, kinh kiếp số đẳng. Kỳ tối trọng xứ, nhất nhật, nhất dạ, bát vạn tứ thiên sanh tử, kinh kiếp vô lượng. Tác thượng phẩm Ngũ Nghịch Thập Ác giả, cảm thử đạo thân” (Nếu kẻ nào do thân, miệng, ý tạo nghiệp, đã tạo rồi, sẽ vào trong đường ác, trải qua vô số ngàn ức năm. Chết rồi, trong khoảnh khắc sống lại. Mỗi kẻ oán thù đều báo trả nhau. Do vậy, chúng sanh giết chóc lẫn nhau. Nhưng kẻ chịu khổ trong ấy tùy theo tạo nghiệp nặng hay nhẹ mà trải qua kiếp số tương ứng. Chỗ nặng nề nhất thì trong một ngày một đêm, tám vạn bốn ngàn lần sống chết, trải qua vô lượng kiếp. Kẻ tạo Ngũ Nghịch Thập Ác thượng phẩm sẽ cảm thân trong đường này).
3.2.2.1.2.2.2.2.2.1.2.2.2.2.1.1.2.2.3.2. Khổ báo ức kiếp (khổ báo ức kiếp)
(Kinh) Động kinh ức kiếp, cầu xuất vô kỳ. Thử giới hoại thời, ký sanh tha giới. Tha giới thứ hoại, chuyển ký tha phương. Tha phương hoại thời, triển chuyển tương ký. Thử giới thành hậu, hoàn phục nhi lai.
(經)動經億劫,求出無期。此界壞時,寄生他界。他界次壞,轉寄他方。他方壞時,展轉相寄。此界成後,還復而來。
(Kinh: Trải qua ức kiếp, chẳng mong có thuở thoát ra. Khi cõi này hoại, gởi nhờ sang cõi khác. Đến phiên cõi khác hoại, lại gởi nhờ sang cõi khác. Khi cõi khác hoại, sẽ lần lượt gởi nhờ những cõi khác. Sau khi cõi này hình thành, bèn quay trở lại).
Động đối lập với tĩnh; tâm thể vốn tĩnh, người tự lay động. Luận Khởi Tín nói: “Chẳng biết pháp Chân Như là một, nên động. Hễ động bèn có khổ, do quả chẳng lìa nhân. Nghiệp tướng vừa động, sẽ dần dần dẫn đến khởi Hoặc, tạo nghiệp, thọ báo”. Tự Thư[4] nói: “Lực nặng là động. Phàm phu nghiệp lực quá sâu, cho nên động thành tuổi thọ ức kiếp trong địa ngục!” Trong kinh Khởi Thế, đức Phật dạy: “Như Kiều Tát La quốc hộc lượng hồ ma, mãn nhị thập hộc, cao thịnh bất khái. Hữu nhất trượng phu, mãn bách nhiên dĩ, thủ nhất hồ ma. Như thị thứ đệ, mãn bách niên dĩ, phục thủ nhất lạp, trịch trước dư xứ. Trịch mãn nhị thập hộc hồ ma, tận dĩ, ngã thuyết kỳ thọ do vị tất tận. Như thị nhị thập ngạch phù đà thọ, vi nhất nê la phù đà thọ, nãi chí nhị thập tam ba đầu ma thọ, vi nhất trung kiếp” (Như dùng cái hộc của nước Kiều Tát La để đong mè đen, trọn hai mươi hộc, [số lượng mè chứa lại] cao và nhiều chẳng thể ước lượng được. Có một trượng phu cứ hết một trăm năm, lấy một hạt mè. Theo thứ tự như thế, cứ đủ một trăm năm, lại lấy một hạt, quăng sang chỗ khác. Quăng hết sạch hai mươi hộc mè đen, đã hết rồi, ta nói tuổi thọ của kẻ ấy vẫn còn chưa hết. Tuổi thọ trải qua hai mươi địa ngục Ngạch Phù Đà (Arbuda) như thế là một thọ mạng trong địa ngục Nê La Phù Đà (Nirarbuda), cho đến tuổi thọ trong hai mươi ba ngục Bát Đầu Ma (Padma) là một trung kiếp).
Từ chữ “thử giới” (cõi này) trở đi nhằm giải trừ nghi hoặc, ý nói: Địa ngục đã ở phía dưới châu Diêm Phù, khi kiếp hỏa cháy tan trời Sơ Thiền, địa ngục bị hoại trước, lại chứa tội nhân ở nơi đâu? Giải rằng: Khi hỏa tai xảy ra, kẻ chưa hết tội nghiệp sẽ gởi thân chịu tội trong cõi khác. Lại nghi: Cõi khác cũng có hỏa tai dấy lên, chẳng biết lại đặt [những kẻ ấy] nơi đâu? Lại giải thích: Nếu cõi khác theo thứ tự mà hoại, lại lần lượt gởi họ sang địa ngục trong cõi chưa hoại. Lại nữa, cõi họ được gởi sang đó lại bị hỏa tai dấy lên, sẽ gởi nơi đâu? Lại giải thích: Nếu phương khác hỏa tai cũng dấy lên, thì vẫn giống như trên mà gởi họ sang cõi chưa hư hoại. Lại vặn hỏi ngược lại: Nếu thế giới ở phương này lại hình thành, những tội nhân đã được gởi đi có trở lại thế gian này hay không? Lại giải thích: Thế giới này đã hình thành, tự nhiên [những tội nhân ấy] trở lại địa ngục to lớn trong cõi này để chịu khổ. Đấy là nói theo phía những kẻ chưa thọ hết tội.
Còn như kinh Trường A Hàm nói: “Hỏa tai khởi thời, tùng địa ngục tử, giai sanh nhân trung, tu đệ nhị Thiền. Tùng nhân trung tử, giai sanh Quang Âm Thiên. Thủy phong nhị tai diệc nhiên” (Khi hỏa tai dấy lên, từ địa ngục chết đi, đều sanh trong loài người, tu đệ nhị Thiền. Từ trong loài người chết đi, đều sanh vào Quang Âm Thiên. Thủy tai và phong tai cũng thế). Đấy là nói theo phía những người đã chịu tội xong. Vì thế, kinh Đại Phẩm Bát Nhã nói: “Thị nhân hủy tư tam thế chư Phật Nhất Thiết Trí, khởi phá pháp nghiệp nhân duyên cố, tập vô lượng bách thiên vạn ức tuế, đọa đại địa ngục trung, tùng nhất đại địa ngục, chí nhất đại địa ngục. Nhược hỏa kiếp khởi thời, chí tha phương đại địa ngục trung. Như thị biến thập phương ngục, nãi chí hoàn lai thị gian đại địa ngục trung” (Người ấy do hủy báng, chê bai Nhất Thiết Trí của ba đời chư Phật, dấy lên nhân duyên tạo nghiệp phá pháp, tích tập vô lượng trăm ngàn vạn ức năm, đọa trong đại địa ngục, từ một đại địa ngục này sang một đại địa ngục khác. Nếu khi hỏa kiếp dấy lên, sẽ đến đại địa ngục ở phương khác. Trọn khắp các ngục trong mười phương như thế, cho đến trở lại đại địa ngục trong thế gian này). Do từ một đại địa ngục này đến một đại địa ngục khác, cho nên nói là “động kinh ức kiếp”. Dẫu mong thoát khỏi, chỉ sợ chẳng có thuở nào được ân xá!
3.2.2.1.2.2.2.2.2.1.2.2.2.2.1.2. Kết thị (kết lại lời dạy)
(Kinh) Vô Gián tội báo, kỳ sự như thị.
(經)無間罪報,其事如是。
(Kinh: Tội báo trong Vô Gián là như thế đó).
Hai chữ “như thị” (như thế) diễn tả ý thảm đạm! Cho nên kết lại lời dạy, mong sao mọi người sẽ sớm sợ hãi mà tu thiện.
3.2.2.1.2.2.2.2.2.1.2.2.2.2.2. Trùng thị nghiệp cảm (lại dạy về nghiệp cảm)
3.2.2.1.2.2.2.2.2.1.2.2.2.2.2.1. Tiêu cử (nêu bày)
(Kinh) Hựu ngũ sự nghiệp cảm, cố xưng Vô Gián.
(經)又五事業感,故稱無間。
(Kinh: Lại do có năm sự nghiệp cảm, nên gọi là Vô Gián).
“Ngũ Vô Gián nghiệp” như đã nói trong phần trước. Vô Gián ở tầng thấp nhất trong tám ngục nóng. Theo Tát Bà Đa Bộ (Sarvāsti-vāda, Thuyết Nhất Thiết Hữu Bộ) có tám đại địa ngục. Một là Đẳng Hoạt (等活, Sañjīva, chết đi sống lại), hai là Hắc Thằng (黑繩, Kālasūtra, dây đen), ba là Chúng Hợp (眾合, Saṃghāta, các thứ ép lại), bốn là Khiếu Hoán (叫喚, Raurava, kêu gào), năm là Đại Khiếu Hoán (大叫喚, Mahāraurava, gào to), sáu là Nhiệt (熱, Tapana, nóng), bảy là Chúng Nhiệt (眾熱, Pratāpana, các thứ nóng bức), tám là Vô Trạch (無擇, Avīci, không chọn lựa), còn gọi là Vô Gián. Hễ gieo mình vào lửa khổ, vĩnh viễn chẳng có lúc nào an vui. Đã khổ sở chẳng gián đoạn, có chỗ nào để có thể chọn lựa? Tám địa ngục này ở phía dưới châu Diêm Phù, chồng chất lên nhau mà trụ. Theo Tam Pháp Độ Luận, hai ngục đầu tiên có người chưởng quản, ba ngục kế đó có ít người chưởng quản, ba ngục cuối không có người chưởng quản.
Theo Tân Tỳ Bà Sa Luận: “Hỏi: Ngục lớn ở dưới cùng vì sao gọi là Vô Gián? Đáp: Trong chỗ ấy luôn chịu Khổ Thọ, chẳng có lúc nào hỷ lạc, nên gọi là Vô Gián. Hỏi: Trong các địa ngục khác, há có ca, múa, ăn uống, tiếp nhận sự hỷ lạc dị thục gián ư? Đáp: Trong các địa ngục khác, tuy chẳng có dị thục hỷ lạc, nhưng có đẳng lưu hỷ lạc. Như trong địa ngục Đẳng Hoạt, có lúc gió mát thổi qua, huyết nhục bèn sanh trở lại. Có lúc [ngục tốt] xướng “sống lại”, [tội nhân đã chết] bèn sống lại. Khi huyết nhục sanh trở lại và lúc được sống lại, sẽ là tạm thời hỷ lạc trong khi đang hứng chịu Khổ Thọ, cho nên chẳng gọi là Vô Gián”.
3.2.2.1.2.2.2.2.2.1.2.2.2.2.2.2. Trưng thích (gạn hỏi và giải thích)
3.2.2.1.2.2.2.2.2.1.2.2.2.2.2.2.1. Trưng (gạn hỏi)
(Kinh) Hà đẳng vi ngũ?
(經)何等為五?
(Kinh: Những gì là năm?)
3.2.2.1.2.2.2.2.2.1.2.2.2.2.2.2.2. Thích (giải thích)
3.2.2.1.2.2.2.2.2.1.2.2.2.2.2.2.2.1. Thời vô gián (thời gian chẳng gián đoạn)
(Kinh) Nhất giả, nhật dạ thọ tội dĩ chí kiếp số, vô thời gián tuyệt, cố xưng Vô Gián.
(經)一者,日夜受罪以至劫數,無時間絕,故稱無間。
(Kinh: Một là ngày đêm chịu tội cho đến nhiều kiếp, chẳng có lúc nào gián đoạn, chấm dứt, nên gọi là Vô Gián).
Chịu khổ luôn trọn khắp, chẳng hề có lúc tạm vui. Cựa quậy chẳng được, quấn trói rất nghiêm ngặt. Đông, Tây chằng chéo, cao thấp thông thấu. Trải qua vô lượng kiếp như thế, cho nên gọi là Thời Vô Gián.
3.2.2.1.2.2.2.2.2.1.2.2.2.2.2.2.2.2. Hình vô gián (hình hài chẳng gián đoạn)
(Kinh) Nhị giả, nhất nhân diệc mãn, đa nhân diệc mãn, cố xưng Vô Gián.
(經)二者,一人亦滿,多人亦滿,故稱無間。
(Kinh: Hai là một người cũng chật cả ngục, nhiều người cũng chật cả ngục, vì thế gọi là Vô Gián).
Kinh Quán Phật Tam Muội nói: “Phục hữu chúng sanh, phạm tứ trọng cấm, hư thực tín thí, phỉ báng, tà kiến, bất thức nhân quả, đoạn học Bát Nhã, hủy thập phương Phật, thâu Tăng-kỳ vật, dâm dật vô đạo, bức lược tịnh giới ni, tỷ, muội, thân thích, tạo chúng ác sự. Thử nhân tội báo, kinh bát vạn tứ thiên đại kiếp. Phục nhập Đông phương thập bát cách trung, như tiền thọ khổ. Nam, Tây, Bắc phương, diệc phục như thị. Thân mãn A Tỳ ngục, tứ chi phục mãn thập bát cách trung. Địa ngục bất đại, thử thân bất tiểu” (Lại có chúng sanh phạm bốn trọng cấm, luống ăn của tín thí, phỉ báng, tà kiến, chẳng biết nhân quả, không học Bát Nhã, hủy báng mười phương Phật, trộm cắp vật dụng của thường trụ, dâm dật vô đạo, cưỡng bức tỳ-kheo giữ giới thanh tịnh và chị, em, thân thích, gây tạo các chuyện ác. Tội báo của người ấy trải qua tám vạn bốn ngàn đại kiếp. Lại vào trong mười tám ngục[5] ở phương Đông chịu khổ như trên. Phương Nam, Tây, Bắc cũng giống như thế. Thân đầy chật trong ngục A Tỳ, tứ chi cũng đầy ắp trong mười tám ngục. Địa ngục chẳng lớn, thân ấy chẳng nhỏ).
Theo kinh Chánh Pháp Niệm Xứ: “Kỳ thân trường đại, ngũ bách do-tuần, tạo tứ nghịch nhân, tứ bách do-tuần. Nãi chí tạo nhất nghịch nhân, nhất bách do-tuần. Nhất nhân ký nhĩ, đa nhân diệc nhiên, các kiến thân hình vô gián đoạn xứ, danh hình vô gián dã” (Thân [của người tạo tội Ngũ Nghịch] cao to năm trăm do-tuần. Kẻ tạo bốn tội nghịch [cao to] bốn trăm do-tuần. Cho đến kẻ tạo một tội nghịch [thân hình cao] một trăm do-tuần. Một người đã là như vậy, nhiều người cũng thế, mỗi người đều thấy thân hình chẳng có chỗ gián đoạn, cho nên gọi là “hình vô gián”).
ĐỊA TẠNG BỒ TÁT BỔN NGUYỆN KINH KHOA CHÚ
[1] Nại Lạc Ca là phiên âm khác của chữ Nê Lê (Nāraka).
[2] Chúng tôi dịch câu này theo cách diễn giải của pháp sư Viên Anh trong bộ Lăng Nghiêm Kinh Giảng Nghĩa.
[3] Minh Báo Ký là tác phẩm ghi lại những câu chuyện thật về tội phước báo ứng do Đường Lâm biên soạn trong niên hiệu Vĩnh Huy đời Đường Cao Tông.
[4] Tự Thư ở đây chính là bộ Can Lộc Tự Thư do Nhan Nguyên Tôn soạn vào đời Đường. Đây là một loại tiểu tự điển nhằm giúp các sĩ tử nhận biết chữ viết như thế nào là đúng quy cách trong các văn bản chính thức của triều đình và học viện. Do trong đời Đường, mỗi chữ viết thường có ba loại: Chánh (chữ viết đúng quy cách, mẫu mực, dùng cho chiếu, biểu, thông cáo, sắc phong, gia phả, sử liệu, bài thi), Thông (chữ viết theo lối thông dụng để tiện ghi chép, không dùng cho các văn bản chính thức. Đôi khi được sử dụng khi ghi chép, thư từ cho những người cùng hàng, hoặc các bằng khoán, giấy nợ), và Tục (những chữ chỉ dùng trong dân gian, không được phép dùng trong sách vở, ghi chép chính thức). Can Lộc Tự Thư được hình thành nhằm tiêu chuẩn hóa cách viết cho các chữ thông dụng thời bấy giờ.
[5] Mười tám ngục là tám địa ngục nóng (như đã nói trong phần trên, tức Đẳng Hoạt, Hắc Thằng v.v…) và mười địa ngục lạnh: Cụ Pháo (Arbuda, Át Phụ Đà, Ngạch Phù Đà, Hậu Vân), Pháo Liệt (Nirarbuda, Nê La Phù Đà, Vô Vân), A Tra Tra (Aṭaṭa), A Ba Ba (Apapa hoặc Hahava), A Hầu Hầu (Huhuva, hoặc Hahadhara), Thanh Liên (Utpala, Ưu Bát La), Hồng Liên (Padma, Ba Đầu Ma), Đại Hồng Liên (Mahapadma), Bạch Liên (Pundarīka), và Tô Kiện Đà Cố (Soghandhika). Kinh Thập Bát Nê Lê nêu tên mười ngục lạnh hơi khác, tức là Ô Cánh Đô, Nê Lô Đô, Ô Lược, Ô Mãn, Ô Tạ, Ô Hô, Tu Kiện Cù, Mạt Đầu Càn Trực Hộ, Âu Bô Đồ, Thẩm Mạc. Có kinh, luận lại cho rằng chỉ có tám địa ngục nóng và tám địa ngục lạnh. Ngu ý cho rằng do nói tách ra, hay gộp vào bèn có sai khác, tức là như trong phần trước đã nói, có thể kể gộp chung các loại du tăng địa ngục và cô độc địa ngục vào đó mà thành ra mười tám, năm trăm, hoặc trăm ngàn địa ngục.