ĐỊA TẠNG BỒ TÁT BỔN NGUYỆN KINH KHOA CHÚ
Đường Tam Tạng sa-môn Thật Xoa Nan Đà dịch
Cổ Diêm Khuông Am Thanh Liên bật-sô Linh Thừa soạn
Chuyển ngữ: Bửu Quang Tự đệ tử Như Hòa
3.2.2.1. Thị nghiệp duyên sai biệt (dạy về nghiệp duyên sai biệt)
3.2.2.1.1. Phẩm đề (tên gọi của phẩm kinh)
(Kinh) Quán chúng sanh nghiệp duyên, phẩm đệ tam.
(經)觀眾生業緣,品第三。
(Kinh: Phẩm thứ ba: Quán chúng sanh nghiệp duyên).
3.2.2.1.2. Phẩm văn (kinh văn trong phẩm này)
3.2.2.1.2.1. Thánh mẫu khải vấn (thánh mẫu thưa hỏi)
(Kinh) Nhĩ thời, Phật mẫu Ma Da phu nhân, cung kính hiệp chưởng, vấn Địa Tạng Bồ Tát ngôn: “Thánh giả! Diêm Phù chúng sanh tạo nghiệp sai biệt, sở thọ báo ứng, kỳ sự vân hà?”
(經)爾時,佛母摩耶夫人,恭敬合掌,問地藏菩薩言:聖者!閻浮眾生造業差別,所受報應,其事云何?
(Kinh: Lúc bấy giờ, Phật mẫu Ma Da phu nhân chắp tay cung kính, hỏi Địa Tạng Bồ Tát rằng: “Thưa thánh giả! Chúng sanh trong Diêm Phù tạo nghiệp sai khác, hứng chịu báo ứng, chuyện ấy là như thế nào?”)
Thánh mẫu nghe nói “chúng sanh mỗi người mỗi khác, cho nên đức Như Lai phân thân độ thoát”. Lại nghe ngài Địa Tạng thưa “[kính mong Thế Tôn] đừng lo nghĩ vì chúng sanh ác nghiệp đời sau”, cho nên mới thừa cơ thưa hỏi. Nhưng thánh mẫu đứng ra hỏi đầu tiên là vì Như Lai lên cung trời chính là vì thánh mẫu [thuyết pháp]. Huống hồ mẹ của đức Phật thì càng đáng nên đứng đầu đại chúng. Chữ A Ly Dã (Ārya) trong tiếng Phạn được cõi này dịch là Thánh Giả. Không chuyện gì chẳng thông suốt thì gọi là Thánh. Khổng Tử nói với Lỗ Ai Công[1]: “Được gọi là thánh nhân là do trí thông suốt đại đạo, ứng biến không cùng tận, suy lường được tình và tánh của muôn loài”. Nay ngài Địa Tạng dùng phương tiện chẳng thể nghĩ bàn, ứng biến không ngằn mé, cho nên được gọi là “thánh giả”. Từ “Diêm Phù chúng sanh” trở đi chính là lời lẽ trình bày mối nghi: Hết thảy chúng sanh do tự chuyển theo nghiệp mà có thượng, trung, hạ sai khác. Trong kinh Chiêm Sát, Địa Tạng Bồ Tát đã nói: “Sở quán tam thế quả báo thiện ác chi tướng, hữu nhất bách bát thập cửu tướng” (Quán tướng thiện ác của quả báo ba đời thì có một trăm tám mươi chín tướng). Người tu hãy nên tự tra cứu!
3.2.2.1.2.2. Địa Tạng kính đáp (Địa Tạng kính cẩn đáp)
3.2.2.1.2.2.1. Thông thị chư giới nghiệp duyên (chỉ dạy chung về nghiệp duyên của các giới)
(Kinh) Địa Tạng đáp ngôn: “Thiên vạn thế giới, nãi cập quốc độ, hoặc hữu địa ngục, hoặc vô địa ngục. Hoặc hữu nữ nhân, hoặc vô nữ nhân. Hoặc hữu Phật pháp, hoặc vô Phật pháp. Nãi chí Thanh Văn, Bích Chi Phật, diệc phục như thị, phi đản địa ngục tội báo nhất đẳng”.
(經)地藏答言:千萬世界,乃及國土,或有地獄,或無地獄。或有女人,或無女人。或有佛法,或無佛法。乃至聲 聞,辟支佛,亦復如是,非但地獄罪報一等。
(Kinh: Địa Tạng đáp rằng: – Ngàn vạn thế giới cho đến quốc độ, hoặc có địa ngục, hoặc không có địa ngục. Hoặc có nữ nhân, hoặc không có nữ nhân. Hoặc có Phật pháp, hoặc không có Phật pháp. Cho đến Thanh Văn, Bích Chi Phật cũng [sai biệt] giống như thế, không chỉ riêng tội báo trong địa ngục sai khác mà thôi).
Phàm chủ khách xướng họa, như đe và búa đập vào nhau, nay hỏi và đáp chẳng phù hợp, là vì lẽ nào? Ấy là vì lời hỏi của thánh mẫu có chỗ chưa thấu triệt. Bởi lẽ, thế giới vô biên, quốc độ vô lượng, chúng sanh vô tận, nghiệp quả không ngằn mé. Nay chỉ hỏi nghiệp báo sai biệt của chúng sanh trong Diêm Phù, chẳng phải là quá hạn cuộc ư? Trước tiên, Bồ Tát trả lời [bằng cách nói đến] ngàn vạn thế giới, dụng ý ấy suy ra sẽ biết ngay. Có địa ngục là như Sa Bà; không có địa ngục là như Cực Lạc. Cõi A Súc Phật tuy có nữ nhân, nhưng chẳng có ý tưởng tà dục. Quốc độ Cực Lạc và [như các] kinh Bát Dương Thần Chú, kinh Bát Cát Tường, kinh Bát Phật Danh Hiệu, [đều nói trong quốc độ] của tám vị Phật ở phương Đông, trong mỗi cõi đều chẳng có nữ nhân. Trong cõi nước không có nữ nhân, sẽ là thanh tịnh nhất. Đại Trí Độ Luận nói: “Bồ Tát quán dục có đủ mọi thứ bất tịnh. Trong các thứ suy bại, suy bại vì nữ nhân là nặng nhất. [Sánh ví nữ nhân như] dao đánh lửa, sấm chớp, sét đánh, oán gia, rắn độc thì vẫn là tạm gần giống. Nữ nhân keo kiệt, đố kỵ, sân hận, siểm khúc, lẳng lơ, uế ác, tranh chấp, tham lam, ghen ghét, chớ nên thân cận”.
“Có Phật pháp, không có Phật pháp”: Đại Luận viết: “Hỏi: Vì sao coi trọng thế giới có Phật, coi thường cõi nước không có Phật? Đáp: Phật là trang nghiêm thế giới chủ. Nếu chư Phật chẳng xuất thế, ắt chẳng có đạo tam thừa Niết Bàn. Nếu cõi đời có Phật, chúng sanh thường thoát khỏi lao ngục tam giới. Chúng sanh biết có tội phước, thọ Tam Quy, Ngũ Giới, Bát Trai, và có năm chúng xuất gia v.v… các thứ thiện pháp. Nếu một cõi nước chẳng có Phật, thì ngay cả trời, người cũng chẳng thể tu thiện”.
“Nãi chí Thanh Văn” (Cho đến Thanh Văn) là từ ngữ nói giản lược. Theo kinh Bi Hoa, hoặc là có thế giới thuần là các Bồ Tát, chẳng có danh xưng Thanh Văn, Duyên Giác, hoặc là có Thanh Văn và Bích Chi Phật Thừa, hay là có hoặc không có Phật, Bồ Tát, Thanh Văn, Duyên Giác, hoặc là Ngũ Trược tệ ác, hoặc là thanh tịnh vi diệu, hoặc là hèn tệ, thô lậu, bất tịnh, hoặc trang nghiêm thanh tịnh diệu hảo, hoặc thọ mạng vô lượng, hoặc thọ mạng ngắn ngủi, đủ mọi thứ sai khác. Vì thế nói là “nãi chí”. Do đó, biết lời hỏi của thánh mẫu chưa trọn vẹn cho mấy!
3.2.2.1.2.2.2. Đích thị Diêm Phù ác thú (dạy đích xác về đường ác trong Diêm Phù)
3.2.2.1.2.2.2.1. Thánh mẫu trùng bạch (thánh mẫu lại thưa bày)
(Kinh) Ma Da phu nhân trùng bạch Bồ Tát: “Thả nguyện văn ư Diêm Phù tội báo, sở cảm ác thú”.
(經)摩耶夫人重白菩薩:且願聞於閻浮罪報,所感惡趣。
(Kinh: Ma Da phu nhân lại thưa cùng Bồ Tát: “Vẫn mong nghe về tội báo trong Diêm Phù chiêu cảm đường ác”).
“Thả” (且) là từ ngữ diễn tả sự trình bày thô thiển, đại lược, chưa rốt ráo. Ý nói: “Không phải là tôi chẳng muốn nghe chuyện trong các quốc độ. Tôi nay đã nghe về tội báo của chúng sanh trong Diêm Phù, bèn hỏi Nam Châu cảm vời đường ác như thế nào đó thôi!”
3.2.2.1.2.2.2.2. Địa Tạng tái đáp (ngài Địa Tạng lại trả lời)
3.2.2.1.2.2.2.2.1. Bỉ thử khiêm cung (đôi bên khiêm cung lẫn nhau)
(Kinh) Địa Tạng đáp ngôn: “Thánh mẫu! Duy nguyện thính thọ, ngã thô thuyết chi”. Phật mẫu bạch ngôn: “Nguyện thánh giả thuyết”.
(經)地藏答言:聖母!唯願聽受,我麤說之。佛母白言:願聖者說。
(Kinh: Ngài Địa Tạng đáp rằng: “Thưa thánh mẫu! Xin hãy nghe nhận, tôi sẽ nói thô thiển về chuyện đó”. Phật mẫu bạch rằng: “Mong thánh giả hãy nói”).
“Nguyện thính thọ”: Mong thánh mẫu hãy đại diện cho các chúng sanh [mà lắng nghe]. “Thô thuyết” có hai ý:
1) Một là danh hiệu địa ngục quá nhiều, chuyện khổ vấn vít. Nếu muốn nói cặn kẽ, dẫu suốt một kiếp vẫn chẳng thể hết được.
2) Hai là nói Không, Vô Tướng v.v… thì gọi là từ ngữ mềm mỏng, dịu dàng; nói những chuyện trong địa ngục thì gọi là từ ngữ thô tháp.
“Nguyện thuyết”: Vì tôi thật sự mong mỏi Ngài nói về chuyện này, xin đừng cố sức khiêm tốn nữa!
3.2.2.1.2.2.2.2.2. Đáp minh tội báo (đáp rõ về tội báo)
3.2.2.1.2.2.2.2.2.1. Địa Tạng tường thị (ngài Địa Tạng dạy rõ)
3.2.2.1.2.2.2.2.2.1.1. Tổng thị (chỉ dạy tổng quát)
(Kinh) Nhĩ thời, Địa Tạng Bồ Tát bạch thánh mẫu ngôn: – Nam Diêm Phù Đề tội báo, danh hiệu như thị.
(經)爾時,地藏菩薩白聖母言:南閻浮提罪報,名號如是。
(Kinh: Lúc bấy giờ, Địa Tạng Bồ Tát bạch cùng thánh mẫu: – Danh hiệu của tội báo trong Nam Diêm Phù Đề là như thế này).
Ý nghĩa đã rõ.
3.2.2.1.2.2.2.2.2.1.2. Biệt minh (nói riêng)
3.2.2.1.2.2.2.2.2.1.2.1. Chánh đáp Diêm Phù tội báo (đáp thẳng vào tội báo của Diêm Phù)
3.2.2.1.2.2.2.2.2.1.2.1.1. Biệt minh tội báo (nói riêng từng tội báo)
3.2.2.1.2.2.2.2.2.1.2.1.1.1. Bất hiếu nhị thân (bất hiếu với song thân)
(Kinh) Nhược hữu chúng sanh, bất hiếu phụ mẫu, hoặc chí sát hại, đương đọa Vô Gián địa ngục, thiên vạn ức kiếp, cầu xuất vô kỳ.
(經)若有眾生,不孝父母,或至殺害,當墮無間地獄,千萬億劫,求出無期。
(Kinh: Nếu có chúng sanh chẳng hiếu thảo với cha mẹ, hoặc còn đến nỗi giết hại, sẽ đọa trong địa ngục Vô Gián ngàn vạn ức kiếp, chẳng có thuở nào mong thoát ra được).
Trước tiên, nêu ra tội đã tạo. Từ “đương đọa” (sẽ đọa) trở đi là nói đến quả báo cảm vời. Những đoạn sau đều phỏng theo lệ này. Trước hết, nêu lên tội bất hiếu cha mẹ, vì thấy tội ấy cực lớn, cực nặng. Đó là vì cha mẹ ví như trời đất. Kinh Ân Trọng nói: “Nhân sanh tại thế, phụ mẫu vi thân, phi phụ bất sanh, phi mẫu bất dục” (Người sống trên cõi đời, cha mẹ là chí thân. Không có cha, sẽ chẳng sanh ra ta, không có mẹ, không người nuôi nấng ta). Do vậy, kinh Nan Báo nói: “Tả kiên trì phụ, hữu kiên trì mẫu, kinh lịch thiên niên, tiện lợi bối thượng, do bất năng báo phụ mẫu chi ân” (Vai trái cõng cha, vai phải cõng mẹ, trải suốt ngàn năm, cha mẹ tiêu tiểu trên lưng, vẫn chẳng thể báo được ân cha mẹ). Hơn nữa, làm con tận hiếu là thiên lý thường hằng, là cội rễ của nhân luân. Nếu làm con mà bất hiếu, ắt cha mẹ chẳng còn mong đợi gì nơi con được nữa, chẳng bằng loài cầm thú, mọi rợ, sao đáng gọi là người ư? Do đó, kinh Chánh Pháp Niệm Xứ nói: “Hữu tứ chủng ân, thậm vi nan báo! Nhất mẫu, nhị phụ, tam Như Lai, tứ thuyết pháp sư. Nhược hữu cúng dường thử tứ chủng nhân, đắc vô lượng phước. Hiện tại vị nhân tán thán, vị lai năng đắc Bồ Đề” (Có bốn thứ ân khó báo đáp nhất. Một là mẹ, hai là cha, ba là Như Lai, bốn là thầy thuyết pháp. Nếu có người cúng dường bốn loại người ấy, sẽ được vô lượng phước. Hiện tại được người khác tán thán, trong tương lai sẽ đắc Bồ Đề).
Nay đã chẳng thể cúng dường, báo ân, tức là đã đánh mất trách nhiệm của kẻ làm con, huống hồ dám làm chuyện đại nghịch đến nỗi giết hại ư? Than ôi! Cha mẹ là người như thế nào? Giết hại họ, đáng gọi là gì đây? Sát (殺) là tru diệt. Có tội mà bị hành hình giết chết thì là theo đúng pháp. “Hại” (害) là tổn thương. Có oán ắt báo, xét về tình còn chưa nên! Nay cha mẹ có tội gì, có oán gì, mà đến nỗi giết hại vậy? Theo kinh Vị Sanh Oán, vua A Xà Thế muốn hại cha. Vua cha nói: “Mỗi khi ngươi bị bệnh, ta lo lắng cháy lòng, muốn dùng thân mạng để cứu nguy thay cho ngươi”. Ân nhân từ của cha mẹ, chỉ có trời là hơn! Ngươi ôm cái tâm gì mà nỡ lòng ác nghịch? Những kẻ giết cha mẹ, chết rồi sẽ vào Thái Sơn [chịu tội][2]. Vì thế kinh nói: “Bất hiếu chi tội, chúng tội chi thượng. Tự ưng đọa Vô Gián ngục trung, thọ khổ thiên vạn ức kiếp, cầu xuất vô kỳ dã” (Tội bất hiếu cao hơn các tội, đáng đọa vào địa ngục Vô Giác, chịu khổ ngàn vạn ức kiếp, chẳng mong có thuở thoát ra).
3.2.2.1.2.2.2.2.2.1.2.1.1.2. Bất kính Tam Bảo
(Kinh) Nhược hữu chúng sanh, xuất Phật thân huyết, hủy báng Tam Bảo, bất kính tôn kinh, diệc đương đọa ư Vô Gián địa ngục, thiên vạn ức kiếp, cầu xuất vô kỳ.
(經)若有眾生,出佛身血,毀謗三寶,不敬尊經,亦當墮於無間地獄,千萬億劫,求出無期。
(Kinh: Nếu có chúng sanh làm thân Phật chảy máu, hủy báng Tam Bảo, chẳng kính trọng kinh điển, cũng sẽ đọa trong địa ngục Vô Gián ngàn vạn ức kiếp, chẳng mong có thuở thoát ra).
“Xuất Phật thân huyết” (Làm thân Phật chảy máu) là như Đề Bà Đạt Đa đẩy núi toan đè chết Phật. Kim Cang Lực Sĩ (tức thần núi Kỳ Xà Quật, tên là Tỳ La) dùng chày Kim Cang từ xa quăng tới, đá vỡ nát văng ra, làm tổn thương ngón chân của Phật. Xe bốc lửa đến đón [Đề Bà Đạt Đa] đọa địa ngục ngay trong khi còn sống. Nếu người đời thiêu đốt kinh, tượng, sẽ bị phán cùng một tội. Hủy báng Tam Bảo là do không có lòng tin. Kinh Thập Luân, quyển bốn nói: “Hữu Sát-đế-lợi Chiên Đồ La vương, tể quan, cư sĩ, trưởng giả, sa-môn, Bà-la-môn đẳng, tùy ác hữu hành, thiện căn vi thiểu, siểm khúc, ngu si, hoài thông minh mạn, ư Tam Bảo sở vô thuần tịnh tâm, bất kiến, bất úy hậu thế ác quả. Tự vị thông mẫn, ư ngã sở thuyết Thanh Văn, Duyên Giác, cập Đại Thừa pháp, hủy tư phỉ báng, bất thính chúng sanh thọ trì, độc tụng, hạ chí nhất tụng. Như thị đẳng nhân, danh vi hủy báng Phật chánh pháp giả, khiêu hoại vô lượng chúng sanh pháp nhãn. Thị nhân bất cửu, tiện đương chi thể phế khuyết, kết thiệt bất ngôn, thọ chư khổ độc, thống thiết nan nhẫn. Mạng chung định sanh Vô Gián đại ngục” (Có loại vua Chiên Đồ La trong dòng Sát-đế-lợi, tể quan, cư sĩ, trưởng giả, sa-môn, Bà-la-môn v.v… làm theo bạn ác, thiện căn kém ít, siểm khúc, ngu si, ôm lòng ngạo mạn, tự cho là thông minh, đối với Tam Bảo chẳng có tâm thuần tịnh, chẳng thấy, chẳng sợ ác quả đời sau, tự cho là thông thái, mẫn tiệp, đối với các pháp Thanh Văn, Duyên Giác và Đại Thừa do ta đã nói bèn hủy báng, chê bai, phỉ báng, chẳng cho phép chúng sanh thọ trì, đọc tụng, dẫu chỉ một bài kệ. Hạng người như thế gọi là kẻ hủy báng chánh pháp của Phật, chọc mù pháp nhãn của vô lượng chúng sanh. Kẻ ấy chẳng bao lâu, các chi thể sẽ bị hư hoại, sứt thiếu, cứng lưỡi chẳng nói được, chịu đựng các thứ khổ độc, đau đớn cùng cực, khó thể chịu đựng nổi! Mạng chung nhất định sẽ sanh vào ngục lớn Vô Gián).
“Bất kính tôn kinh” là như kinh Vấn Sự Phật Cát Hung đã nói: “Hữu nhân sự Phật, bất kính Phật kinh, trì trước tệ khiếp, y phục bất tịnh chi trung, hoặc trước thê tử sàng thượng, bất tịnh chi xứ, hoặc trì quải bích thượng, vô hữu tòa tịch cung kính chi tâm, dữ thế gian phàm thư vô dị” (Có kẻ thờ Phật mà chẳng tôn kính kinh Phật, để kinh trong rương nát, quần áo chẳng sạch, hoặc bỏ trên giường của vợ con là chỗ bất tịnh, hoặc treo móc trên vách, chẳng tôn trọng, cung kính, chẳng khác sách vở tầm thường trong thế gian). A Nan Thỉnh Giới Luật Luận nói: “Hàng tăng ni, bạch y (tại gia cư sĩ) v.v… đọc kinh, luật, luận, đang trong lúc đi và nói mà tay cầm [quyển kinh] lật mở, sẽ tính theo số năm trên trời Đao Lợi [để kết tội kẻ ấy] phạm tội Đột Cát La[3], bàng báo (báo ứng kèm theo) là hai ức năm, đọa làm loài cheo, nai, luôn bị cong gập xương sống, đau khổ khó thể chịu đựng nổi. Vô tâm nói đùa, cầm nắm kinh luật luận [để đùa bỡn], cũng chuốc lấy báo ứng như trên. Hoặc để kinh, tượng ở dưới mái thềm nhà cửa hoặc điện đường, tính theo kiếp số nơi trời Đao Lợi, phạm trọng tội Đột Cát La tám trăm năm, bàng báo hai ức năm, đọa trong loài lợn, chó. Nếu được làm thân người, trong một ức năm, sẽ làm thân ăn nhờ ở đậu lênh đênh, chẳng được tự tại”. Do vậy, nói là “cũng sẽ đọa vào địa ngục Vô Gián” v.v…
3.2.2.1.2.2.2.2.2.1.2.1.1.3. Xâm tổn dâm ô
(Kinh) Nhược hữu chúng sanh, xâm tổn thường trụ, điểm ô tăng ni. Hoặc già lam nội, tứ hành dâm dục, hoặc sát, hoặc hại. Như thị đẳng bối, đương đọa Vô Gián địa ngục, thiên vạn ức kiếp, cầu xuất vô kỳ.
(經)若有眾生,侵損常住,點污僧尼。或伽藍內,恣行婬欲,或殺或害。如是等輩,當墮無間地獄,千萬億劫,求出無期。
(Kinh: Nếu có chúng sanh xâm phạm, tổn hại thường trụ, làm ô uế tăng ni. Hoặc ở trong chốn chùa chiền, phóng túng làm chuyện dâm dục, hoặc giết, hoặc hại. Hạng người như thế sẽ đọa vào địa ngục Vô Gián ngàn vạn ức kiếp, chẳng mong có thuở thoát ra).
“Thường trụ”: Tiếng Phạn là Tăng-kỳ (Sāṃghika), cõi này dịch là Tứ Phương Tăng Vật (vật dụng của tăng chúng bốn phương). Luật Sao[4] nói có bốn loại Thường Trụ:
1) Thường trụ thường trụ (tức là tự xá, cây cối, ruộng, vườn, nô bộc, thú nuôi của tăng chúng, chỉ hạn cuộc trong chỗ chùa chiền ấy, chẳng thông với những nơi khác. [Tăng chúng ở ngôi già-lam ấy] chỉ được thọ dụng, không được chia chác để bán đi. Vì thế, nói trịnh trọng là “thường trụ”).
2) Thập phương thường trụ (những thứ thường ăn để dâng cho chúng tăng trong nhà chùa, áp dụng chung cho mười phương, [quyền sở hữu] chỉ hạn cuộc nơi ấy). Hai thứ này được gọi là Tăng Kỳ Vật.
3) Hiện tiền hiện tiền (những vật được bố thí, chỉ thí cho những tăng chúng đang hiện tiền ở nơi ấy).
4) Thập phương hiện tiền (vật dụng của năm loại tăng chúng đã mất. Nếu chưa bạch Yết Ma [mà tự tiện chiếm dụng] thì mắc tội với thập phương Tăng; đã bạch Yết Ma thì [tự tiện chiếm dụng], sẽ mắc tội với hiện tiền Tăng).
Hai thứ này được gọi là Hiện Tiền Tăng Vật. Kinh Thập Luân nói: “Nhược hữu tứ phương Tăng vật, tư sanh, tạp vật đẳng, trì giới, phá giới, như thị nhân đẳng tất bất dữ chi, mạng chung dĩ hậu, giai đọa A Tỳ địa ngục” (Nếu có vật dụng, đồ dùng cần cho cuộc sống, các vật dụng thông thường v.v… thuộc về tăng chúng bốn phương mà đối với người trì giới hay phá giới đều không chia cho họ, sẽ đều đọa vào địa ngục A Tỳ).
“Điểm ô tăng ni”: Chữ Điểm (點) ở đây giống như Điếm (玷), tức là bôi đen. Tỳ-kheo-ni, thức-xoa-ma-na (học pháp nữ), sa-di-ni chính là hậu duệ của di mẫu đức Phật, kẻ tham dục chẳng biết tội phước, cưỡng bức họ làm chuyện ô nhục, dẫu ngàn đức Phật ra đời, cũng chẳng thể sám hối được!
“Tăng-già-lam” (Sam̐ghārāma) trong tiếng Phạn được dịch là Chúng Viên (眾園, vườn của đại chúng). Tăng Sử Lược[5] nói: “Làm chỗ vườn tược cho mọi người, là chỗ gieo trồng”. Đệ tử Phật chính là [những người đang] gieo trồng mầm đạo, thánh quả. Luật Tứ Phần nói: “Vân hà ư thanh tịnh pháp trung, hành bất tịnh da? Thân hoại, mạng chung, đọa tam ác đạo” (Vì lẽ nào mà ở trong pháp thanh tịnh lại làm chuyện bất tịnh? Thân hư, mạng chết, đọa trong ba đường ác). Trong kinh Ngạ Quỷ Báo Ứng, một con quỷ hỏi ngài Mục Liên rằng: “Nam căn của tôi thường bị lở loét, hư nát, do tội gì mà đến nỗi ấy?” Ngài đáp: “Khi ngươi làm người, đã hành dâm nơi chỗ tháp miếu. Nay chịu hoa báo, quả báo là trong địa ngục”. Xem đó, há nên phóng túng làm ác ư?
“Hoặc là sát hại”: Hoặc là do tham đắm dâm dục mà đến nỗi giết người, hại mạng, sát hại sanh linh. Như vào đời Đường, tại chùa Cảnh Đức ở Lạc Châu, tỳ-kheo-ni Nhậm Ngũ Nương chết đi, em bà ta thường nghe nơi linh tòa (chỗ thờ vong linh bà ta) có tiếng rên siết, bèn hỏi han. Hồn ma nói: “Lúc ta còn sống, đã làm chuyện sai trái trong nhà, ham ăn thịt, sát hại chúng sanh. Lại còn bắt cá sống làm chả, do những chúng sanh bị sát hại đòi mạng, phải thọ thân trong địa ngục Đao Kiếm. Trên thân có bảy chiếc đao gãy, đau thấu xương tủy. Mong em hãy đem bán sạch đồ đạc trong nhà [mà ta sở hữu] khi còn sống, để cầu đại sư Bảo Hiến chùa Tịnh Độ chép bảy quyển kinh Kim Cang, đối trước Phật sám hối”. Em bà ta vâng lời, bán đồ đạc, chép một quyển kinh, đao bèn rút bớt một chiếc. Chép kinh viên mãn, đao bèn rút hết, các sanh linh [bị Ngũ Nương sát hại] bèn thoát sanh vào thiện đạo, Ngũ Nương cũng lìa địa ngục. Xem chuyện này, há có nên vì dâm dục mà sát hại ư? Trong phần sau là nói về quả báo.
3.2.2.1.2.2.2.2.2.1.2.1.1.4. Phá giới cuống nhân (phá giới, lừa gạt người khác)
(Kinh) Nhược hữu chúng sanh, ngụy tác sa-môn, tâm phi sa-môn, phá dụng thường trụ, khi cuống bạch y, vi bội giới luật, chủng chủng tạo ác. Như thị đẳng bối, đương đọa Vô Gián địa ngục thiên vạn ức kiếp, cầu xuất vô kỳ.
(經)若有眾生,偽作沙門,心非沙門,破用常住,欺誑白衣,違背戒律,種種造惡。如是等輩,當墮無間地獄,千萬億劫,求出無期。
(Kinh: Nếu có chúng sanh giả vờ làm sa-môn, tâm chẳng phải là sa-môn, tiêu xài phung phí của thường trụ, gạt gẫm hàng tại gia, trái nghịch giới luật, làm ác đủ thứ. Hạng người như thế sẽ đọa vào địa ngục Vô Gián ngàn vạn ức kiếp, chẳng mong có thuở thoát ra).
Sa-môn (Śramaṇa), theo Du Già Sư Địa Luận, có bốn loại: Một thắng đạo sa-môn, tức Phật v.v… Hai là thuyết đạo sa-môn, tức là người nói chánh pháp. Ba là hoạt đạo sa-môn, tức người tu các thiện phẩm. Bốn là ô đạo sa-môn, tức là kẻ có hành vi bất chánh.
“Ngụy” (偽) là quỷ quyệt, dối trá. Bề ngoài ra vẻ tu hành, trong tâm chất chứa những ý tưởng nhơ nhuốc, tức hạng ô đạo sa-môn vậy. Bốn câu kế đó nhằm giải thích “ngụy” là như thế nào: Lạm dụng vật dụng của thường trụ v.v… Đấy là luật nghi giới. Đại Luận nói: “Luật nghi giới có thể khiến cho các ác chẳng được tự tại, vì dùng giới cấm để ước thúc”.
Tỳ Ni (Vinaya) dịch là Luật Luật (律律), tức là khuôn phép. Phán quyết nặng, nhẹ, khai, giá, trì, phạm, phi pháp, bất định. [Giới luật] là chỗ nương tựa của hết thảy người xuất gia, là nhân duyên đầu tiên để đạt đến Niết Bàn. Vì thế, đức Phật bảo tỳ-kheo Tăng Hộ rằng: “Trì giới tối vi lạc, thân bất thọ chư não, thùy miên đắc an ổn, ngụ tắc tâm hoan hỷ” (Trì giới vui sướng nhất, thân chẳng chịu các não, ngủ nghê được an ổn, tỉnh giấc, tâm hoan hỷ). Nay đã trái nghịch, ắt con đường nhân thiên chấm dứt, cửa địa ngục mở ra, vì thế nói là “sẽ vào trong Vô Gián” v.v… Nhưng thiên nhân Phí Thị nói: “Một châu ở phương Nam tuy có nhiều kẻ phạm tội, nhưng theo thiện, dễ điều phục”. Đức Phật sắp nhập Niết Bàn, [Địa Tạng Bồ Tát] đích thân nhận lãnh phó chúc, lại còn thủ hộ, chẳng để cho ma quấy nhiễu [các đệ tử Phật]. Nếu chẳng thủ hộ kẻ phá giới như thế, có ai hành giáo pháp của ta? Tuy thấy [những kẻ ấy] hủy hoại giới cấm, vẫn xót thương, bảo vệ. Thấy họ có một điều thiện, bèn đối với muôn điều lầm lỗi của họ chẳng quở trách, coi như quên mất tỳ vết, chẳng nghĩ đến lỗi đã qua. Trong ba mươi hai vị tướng [của Tứ Thiên Vương], Vi Tướng Quân (ngài Vi Đà Hộ Pháp) hoằng dương, hộ trì nhiều nhất. Có nhiều ma tử và ma nữ khinh giỡn hàng tỳ-kheo, những người đạo lực yếu ớt hoàn toàn bị chúng nó rối loạn, mê hoặc. Tướng quân (ngài Vi Đà) hoảng hốt xông tới, ứng theo căn cơ mà trừ dẹp, dùng hạnh Đồng Chân bảo vệ chánh pháp.
3.2.2.1.2.2.2.2.2.1.2.1.1.5. Thâu thường trụ vật (ăn cắp đồ đạc của thường trụ)
(Kinh) Nhược hữu chúng sanh, thâu thiết thường trụ tài vật, cốc mễ, ẩm thực, y phục, nãi chí nhất vật bất dữ thủ giả, đương đọa Vô Gián địa ngục, thiên vạn ức kiếp, cầu xuất vô kỳ.
(經)若有眾生,偷竊常住財物,穀米,飲食,衣服。乃至一物不與取者,當墮無間地獄,千萬億劫,求出無期。
(Kinh: Nếu có chúng sanh trộm cắp tài vật, thóc gạo, thức ăn, quần áo của thường trụ. Cho đến một vật chẳng cho mà lấy, sẽ đọa vào địa ngục Vô Gián ngàn vạn ức năm chẳng mong có thuở thoát ra).
“Thâu” (偷) và “thiết” (竊) đều là trộm cắp (Chữ Đạo (盜, trộm cắp) là do chữ Thứ (次, thời cổ có nghĩa là nước miếng) và chữ Mãnh (皿, bát đựng) ghép lại, thể hiện ý nghĩa “con chuột chảy nước rãi trên đồ đựng”), ý nói: Không cho mà lấy. Công khai không cho mà lấy thì gọi là Kiếp (劫, cướp), không cho mà cứ ngấm ngầm trộm lấy thì gọi là Đạo (盜). “Vật” (物) là các đồ dùng cần thiết cho cuộc sống, các món vật dụng thông thường. Phàm sống trong vòng trời đất, có hình mạo, thanh sắc thì đều là “vật”. Nay tài vật là những món để cho Tăng sử dụng. Thóc gạo, đồ ăn thức uống chính là thứ để nuôi sống Tăng. Y phục là để cho Tăng che phủ thân thể. Hoặc là công khai cướp đoạt, hoặc ngấm ngầm lấy trộm, tội này nặng lắm!
Theo kinh Quán Phật Tam Muội, trộm đồ vật của Tăng Kỳ (thường trụ) còn nặng hơn giết tám vạn bốn ngàn cha mẹ! Hoa Tụ Bồ Tát nói: “Ngũ Nghịch, Tứ Trọng, ngã diệc năng cứu. Đạo tăng vật giả, ngã bất năng cứu” (Tội Ngũ Nghịch, Tứ Trọng ta vẫn có thể cứu được; nhưng trộm cắp vật dụng của Tăng, ta chẳng thể cứu được). Bởi lẽ, lấy trộm bất cứ vật nào đều là [trộm cắp] của mười phương phàm thánh, thuận theo cảnh mà thành vô biên, kết thành tội lỗi vô biên. Đối với những thứ vi tế như vi trần còn biết nổi số, chứ tội này chẳng thể đo lường, suy tính nổi! Cho nên đặc biệt nặng nề!
Phần kế tiếp là chỉ dạy về quả báo. Như trong phẩm Tế Long (phẩm Cứu Rồng của kinh Quán Phật Tam Muội), các con rồng tự nghĩ đến nghiệp của chính mình trong quá khứ: Ở trong Phật pháp, hoặc làm kẻ thế tục, hoặc do nhân duyên nghe pháp mà lui tới [tự viện], đối với tất cả các thứ hoa, quả, thức ăn do người có tín tâm xả thí dâng cho các vị tỳ-kheo, [những con rồng ấy tuy là thân phận tại gia] cứ theo thứ tự mà ăn, ăn hoa, quả, thức ăn của tăng chúng bốn phương v.v… Do nhân duyên của nghiệp ấy, trải vô lượng kiếp trong địa ngục, bị lửa dữ nung đốt, uống nước đồng nung, nuốt hòn sắt. Từ địa ngục thoát ra, đọa vào súc sanh hay ngạ quỷ. Do ác nghiệp chưa hết, sanh vào loài rồng, thường hứng chịu khổ não.
Đức Phật bảo các con rồng: “Ác nghiệp ấy chẳng khác gì ác nghiệp trộm cắp đồ vật của Phật”. Than ôi! Cơn sóng cuồng này cuồn cuộn quá đỗi, ai có thể chế ngự được nổi!
3.2.2.1.2.2.2.2.2.1.2.1.2. Kết hiển đọa khổ (kết lại để chỉ rõ nỗi khổ vì đọa lạc)
(Kinh) Địa Tạng bạch ngôn: – Thánh mẫu! Nhược hữu chúng sanh tác như thị tội, đương đọa Ngũ Vô Gián địa ngục, cầu tạm đình khổ, nhất niệm bất đắc.
(經)地藏白言:聖母!若有眾生作如是罪,當墮五無間地獄,求暫停苦,一念不得。
(Kinh: Địa Tạng bạch rằng: “Thánh mẫu! Nếu có chúng sanh tạo tội như thế, sẽ đọa vào địa ngục Ngũ Vô Gián cầu tạm ngưng khổ trong một niệm cũng chẳng được”).
Năm thứ nghiệp trên đây nói chung là thượng phẩm Thập Ác! Vì thế, kinh Địa Trì nói rộng về nghiệp Thập Ác, ắt đọa vào địa ngục, ngạ quỷ, súc sanh. Được sanh trong loài người, ai nấy đều có quả báo của hai thứ dư nghiệp. Đối với mỗi điều ác, kinh đều nói rõ năm thứ báo. Vì thế, Địa Tạng Bồ Tát trả lời thánh mẫu rằng: “Nếu có chúng sanh trong cõi Diêm Phù Đề mà tạo những tội như đã nói trên đây, sẽ đều đọa vào địa ngục Vô Gián. Trong ngàn vạn kiếp, cầu mong tạm ngưng nỗi chua xót, khổ sở, dẫu chỉ trong một niệm tột bậc ngắn ngủi, há có được hay chăng?” Đại Luận dẫn lời đức Phật dạy: “Ngã thế thế tằng tác tiểu trùng, ác nhân, tiệm tiệm tập chư thiện bổn, đắc đại trí huệ. Kim tự trí tác Phật, thần lực vô lượng, tối thượng, tối đại. Nhất thiết chúng sanh diệc khả đắc nhĩ, vân hà không thọ cần khổ nhi đọa tiểu xứ, tự ưng nỗ lực cần tu, các cầu xuất ly dã” (Ta đã đời đời từng làm tiểu trùng, kẻ ác, dần dần gom góp các cội lành, đạt được đại trí huệ. Nay tự đạt đến mức làm Phật, thần lực vô lượng, tối thượng, tối đại. Hết thảy chúng sanh cũng có thể đạt được, sao lại uổng công siêng khổ để rồi đọa trong chỗ nhỏ hẹp. Hãy tự nên nỗ lực siêng tu, ai nấy cầu xuất ly).
3.2.2.1.2.2.2.2.2.1.2.2. Trùng vấn Vô Gián ngục danh (hỏi lại tên của địa ngục Vô Gián)
3.2.2.1.2.2.2.2.2.1.2.2.1. Thánh mẫu vấn (thánh mẫu thưa hỏi)
(Kinh) Ma Da phu nhân trùng bạch Địa Tạng Bồ Tát ngôn: “Vân hà danh vi Vô Gián địa ngục?”
(經)摩耶夫人重白地藏菩薩言:云何名為無間地獄?
(Kinh: Ma Da phu nhân lại bạch cùng Địa Tạng Bồ Tát rằng: – Vì sao gọi là địa ngục Vô Gián?)
Do trong các đoạn kinh văn trên đây nhiều lần nói “sẽ đọa vào địa ngục Vô Gián”, chẳng biết tên gọi Vô Gián do dựa theo nghĩa nào mà thành lập?
3.2.2.1.2.2.2.2.2.1.2.2.2. Địa Tạng thích (đức Địa Tạng giải thích)
3.2.2.1.2.2.2.2.2.1.2.2.2.1. Tổng thị chư ngục (dạy chung về các ngục)
(Kinh) Địa Tạng bạch ngôn: – Thánh mẫu! Chư hữu địa ngục tại Đại Thiết Vi sơn chi nội. Kỳ đại địa ngục, hữu nhất thập bát sở. Thứ hữu ngũ bách, danh hiệu các biệt. Thứ hữu thiên bách, danh hiệu diệc biệt.
(經)地藏白言:聖母!諸有地獄在大鐵圍山之內。其大地獄,有一十八所。次有五百,名號各別。次有千百,名號亦別。
(Kinh: Đức Địa Tạng bạch rằng: – Thưa thánh mẫu! Địa ngục trong các Hữu thì đều ở trong núi Đại Thiết Vi. Đại địa ngục thì có mười tám chỗ. Kế đó là có năm trăm chỗ, danh hiệu mỗi ngục mỗi khác. Kế đó có ngàn trăm ngục, danh hiệu cũng khác).
“Chư hữu” là nói chung tất cả các Hữu, nói đích xác là hai mươi lăm Hữu, nhân quả chẳng mất! Kinh Pháp Cú nói: “Sở tác thiện ác, giai hữu nhân quả, kinh cửu bất vong” (Thiện ác đã làm, đều có nhân quả, lâu ngày chẳng mất). Có bài tụng [để dễ ghi nhớ] hai mươi lăm Hữu như sau: “Tứ châu, tứ ác thú, lục dục tịnh Phạm Thiên, Tứ Thiền, Tứ Không Xứ, Vô Tưởng, Ngũ Na Hàm” (Bốn châu, bốn đường ác, lục dục và Phạm Thiên, Tứ Thiền, Tứ Không Xứ, Vô Tưởng, Ngũ Bất Hoàn). Vì thế, trong phần sau có nói: “Bất vấn nam tử nữ nhân, nãi chí tội hạnh nghiệp cảm, tất đồng thọ chi” (Chẳng cần biết là đàn ông hay đàn bà, cho đến do tội hạnh nghiệp cảm, ắt sẽ cùng hứng chịu [giống như nhau]). Vì thế, trong hai mươi lăm Hữu, hễ tạo tội liền có địa ngục, [địa ngục] đều ở trong núi Thiết Vi. Những điều khác như đã giải thích trong phần trên.
ĐỊA TẠNG BỒ TÁT BỔN NGUYỆN KINH KHOA CHÚ
[1] Lỗ Ai Công (508-468) tên thật là Cơ Tương, là vua thứ hai mươi sáu của nước Lỗ (quê hương Khổng Tử). Trong giai đoạn này, nhà vua chỉ có hư vị vì quyền cai trị nước Lỗ nằm trong ba dòng quý tộc (Sử gọi là Tam Hoàn, tức là hậu duệ của ba con trai Lỗ Hoàn Công). Nhà vua cố gắng khôi phục quyền lực, nhưng bị họ tấn công đến nỗi phải lưu vong sang nước Triệu, rồi cuối trốn sang nước Việt rồi chết tại đó.
[2] Theo niềm tin truyền thống của Trung Hoa, Đông Nhạc Đại Đế là thần núi Thái Sơn chưởng quản sanh tử. Tất cả các thành hoàng đều trực thuộc quyền cai quản của Đông Nhạc Đại Đế.
[3] Đột Cát La (Duṣkṛta), còn phiên âm là Đột Sắt Nhi Lý Đa, hoặc Đột Thắng Kiết Lật Đa, hoặc Độc Kha Đa, tức là các tội nhẹ thuộc về làm ác và nói lời ác ngoài Tứ Trọng (giết, trộm, dâm, dối).
[4] Luật Sao là gọi tắt của bộ Tứ Phần Luật Hành Sự Sao do sơ tổ của Nam Sơn Luật Tông là đại sư Đạo Tuyên biên soạn, nhằm giải thích bộ luật Tứ Phần. Bộ sách này lại được rất nhiều người chú thích như Tứ Phần Luật Sao Phê của Đại Giác soạn vào đời Đường, Tứ Phần Luật Hành Sự Sao Sưu Huyền Lục của Chí Hồng soạn vào đời Đường, Tứ Phần Luật Hành Sự Sao Giản Chánh Ký của Cảnh Tiêu soạn, Tứ Phần Luật Hành Sự Sao Tư Trì Ký do Nguyên Chiếu soạn dưới đời Tống…
[5] Bộ sách này có tên gọi đầy đủ là Đại Tống Tăng Sử Lược, do ngài Tán Ninh (930-1001) biên soạn vào đời Tống trong niên hiệu Thái Bình Hưng Quốc thời Tống Thái Tông, nay được đưa vào tập năm mươi ba của bộ Đại Chánh Đại Tạng Kinh. Theo lời tựa, do ngài Tán Ninh không tán đồng cách biên soạn của các bộ sử Phật giáo như Hoằng Minh Tập và Cao Tăng Truyện, nên đã soạn ra bộ sách này, nhằm ghi chép rõ ràng chế độ giáo đoàn, tăng lễ, giới luật, sám pháp, cũng như các chi tiết lịch sử về việc truyền trì Phật giáo từ Thiên Trúc sang Đông Độ, việc phiên dịch kinh luận, quy chế xuất gia, các thể chế cai quản tăng đoàn tại Trung Hoa, tăng phục, quy củ giới đàn, kết xã (các hình thức hiệp hội cộng tu)…