THẾ GIỚI QUAN PHẬT GIÁO
THÍCH MẬT THỂ

Kết luận

 Dù sao chúng tôi cũng không lấy làm thoả mãn với những giòng chữ trong sách này đã được đi ngang qua dưới đôi mắt của các ngài, dầu không được tán thành, song nó cũng đã làm tròn nhiệm vụ một phần nào, ít ra nó cũng gợi thêm hoặc nhắc nhở ở lý trí các ngài về vấn đề suy tìm chân lý.

Vì nó là cái cần thiết hơn tất thảy sự cần thiết trong đời sống của chúng ta. Vì nếu chúng ta tìm hiểu được rõ ràng thấu đáo về vần đề vũ trụ nhân sinh, tức là chúng ta đã tìm thấy đường đi nước bước của mình. Nếu vũ trụ là một vấn đề ta không hiểu biết được, không quan hệ gì đến ta, và nhân sinh chỉ có giá trị trong khoảng thời gian 5, 70 năm, thì ta cũng không cần phát triển năng lực làm gì cho khó nhọc, không cần kiềm thúc lòng ta, bất cứ về một luân lý, đạo đức hay một kỷ luật của một xã hội nào làm gì. Trái lại, nếu vũ trụ với ta có sự quan hệ, lý trí ta có thể hiểu biết được và nhân sinh có thể tiến hoá hơn nữa, để đạt tới mục đích vĩ đại cao thượng thì cần đem bao nhiêu ý chí để phụng sự lý tưởng ấy.

Hiện nay nhân loại đã tiến hoá đến bực nào? Những tư tưởng đại đồng cùng vấn đề tìm hạnh phúc chung cho nhân loại đã được những bậc ưu thời mẫn thế nhắc nhở tìm phương bổ cứu.

Người ta đã khổ sở nhiều và rất chán ghét về chiến tranh, khoa học đã thất bại về vấn đề tìm hạnh phúc cho nhân loại. Triết học từ thế kỷ XVI sắp xuống, đã bị khoa học lột trần, chỉ để còn một môn học hình nhi thượng mà thôi, còn tôn giáo thần quyền thì không thể đứng vững trong thời đại khoa học này được. Chính trị thì phải tuỳ theo tình thế mà biến chuyển luôn luôn. Vả lại, chính trị chỉ là một tác dụng của một chủ nghĩa theo từng xu hướng khác nhau. Từ ý chí cho đến quyền lợi, có nhiều sự chêng lệch. Xã hội chủ nghĩa và tư bản hiện nay đang chống đối nhau, chưa nói được cuộc thắng bại của tương lai ra thế nào; Ngay hiện tại nếu mọi người không cùng một lý tưởng chân chính đủ chí khí can đảm, đức hy sinh vị tha vô ngã chân chính, thì thử hỏi con người có thể đứng vững giữa bao làn sóng đương phập phồng ghê tởm, muốn lôi cuốn nhân loại về nơi đáy biển vô tận không?

Ôi! con đường tương lai của nhân loại; Thật còn đương mịt mù thăm thẳm!!! … Song, dù thế nào, nhân loại còn có diễm phúc, lý tưởng ái hòa đồng điệu, nếu là lý tưởng chung của nhân loại, do lòng nhu cầu tha thiết và thành thật, thì ta cũng có thể đoán biết thế giới tương lai sẽ phản ảnh trung thành của lý tưởng ấy.

Nếu thế văn hoá mới tương lai của nhân loại cũng phải là cái văn hoá ái hòa đồng điệu dung hợp đủ cả hai phương diện : “Lý trí” và “tình cảm”, tràn đầy tư tưởng tự do, bình đẳng và bác ái, chứ không phải như cái văn hoá hiện giờ – Thứ văn hóa thú vật, người bóc lột người, chém giết người v.v. nhưng văn hoá mới ấy tìm ở đâu, nếu không phài là Phật Giáo.

Nói thế chắc các ngài nghĩ rằng : Nhân loại hiện nay hay sau này không phải là lớp nhân loại cách đây hơn 2,000 năm về trước nữa. Vậy Phật Giáo ắt sẽ chết theo, đã tiêu diệt theo chế độ phong kiến ở Tàu và ở ta vậy. Sự nhận xét ấy, đã không khỏi sai lầm, sự thật thì chúng ta cũng không đến nỗi chủ quan chật hẹp, muốn ai cũng bỏ cái học khác, để chuyên về học Phật, mà chỉ muốn cho nhân loại biết chọn lấy con đường sống rộng rãi chính đáng, làm động cơ để hướng dẫn tư tưởng hành vi của mình trong cuộc sống còn khỏi phải sai lạc nguy hiểm.

Ta không thể đem Nho Giáo so sánh với Phật Giáo được, Nho Giáo là phản ảnh xã hội về đời xuân thu chiến quốc bên Tàu, tức là sản phẩm của chế độ phong kiến mà đến Không Tử là một nhà chính trị kiêm luân lý của các chế độ ấy. Đằng này, trái lại Phật Giáo tuy phát nguyên từ Ấn Độ, nhưng không phải là sản phẩm của chế độ, hay một thời đại nào, mà là phản ảnh của mọi sự đau khổ của chúng sinh. Nên Đức Thích Ca không phải là nhà chính trị cốt để gây dựng lên một nước, hay một chế độ nào. Song muốn bảo Ngài là chính trị, thì chính Ngài đã làm chính trị cho tất cả chúng sinh.

Vì tư tưởng của Đức Phật là tư tưởng rộng khắp, bao giờ cũng chủ trương giải cứu cho muôn loài quần sinh thoát khỏi vòng mê lầm, khổ não, hưởng được yên vui an lành giải thoát. Chính trong những buổi thuyết pháp, Ngài thường nói đến tất cả chúng sinh và thế giới, chứ không phải như Khổng Tử, Tu thân, Tế gia, Trị quốc, Bình thiên hạ, với một quan điểm nhỏ hẹp của nước Tàu, cùng các nước chư hầu phong thổ bấy giờ. Nên hễ thế giới, nhân loại còn đau khổ thì Phật Giáo còn là phương thuốc rất cần yếu, và nếu nhân loại đã đến đích đại đồng, thì Phật Giáo là bản đàn du dương nhịp nhàng theo khúc nhạc huyền để ca ngợi cảnh đời giải thoát.

Chẳng qua hạnh phúc hay thế giới ái hòa đồng điệu, mỗi cá nhân chúng ta phải tự làm ra nó, không phải cứ ngồi lì chờ ai đem lại cho mình (?) Nếu có hạnh phúc do một kẻ khác đem lại, thì tưởng hạnh phúc ấy chỉ là cái giả dối tạm thời, chớ đâu phải chân thật vĩnh viễn.

Những kẻ ưa nói suông, hay giữ thái độ thờ ơ, hoặc do dự, chỉ là kẻ hèn nhát, thiếu can đãm là ký sinh trùng của nhân loại mà thôi.

Đức Phật dạy:

Các người hãy tự mình thắp đuốc mà đi“.

Lời thuyết pháp ấy tuy vắn tắt, cũng đủ chứng tỏ Đạo Phật đấy tính độc lập và tự chủ.

Tôi mong rằng thế giới tương lai của nhân loại sẽ là thế giới Phật Giáo, đầy sung sướng, hạnh phúc chân thật an lành vĩnh viễn!!!