Giảng Giải
Phẩm Phổ Môn

Sâm Hạ Đại Viên
Dịch từ Nhật văn qua Hán văn: Đại sư Tinh Vân
Dịch từ Hán văn qua Việt văn: Thích nữ Hạnh Huệ

 

B- LỢI ÍCH HIỂN

1- Ba Mươi Ba Thân

a- Thân Thánh

Vô Tận Ý Bồ-tát bạch Phật ngôn: “Thế Tôn! Quán Thế Âm Bồ-tát vân hà du thử Ta-bà thế giới? Vân hà nhi vị chúng sanh thuyết pháp? Phương tiện chi lực, kỳ sự vân hà ?

Ở trước mở đầu là nêu câu hỏi về danh hiệu và nhân duyên của Bồ-tát Quán Thế Âm. Thế Tôn trả lời là xưng danh, thường niệm, lễ bái, thì có thể được cảm ứng, do đó nó là lợi ích ngầm. Đoạn này Bồ-tát Vô Tận Ý hỏi về ba nghiệp thân miệng ý của Bồ-tát Quán Thế Âm.

Ba nghiệp thân miệng ý này, là nói việc gì? Đây là ở trên hiện tượng hữu hình mà nói. Thí dụ như đức Phật trả lời: “Nếu người do thân Phật mà được độ, liền hiện thân Phật mà vì họ nói pháp”. Đây gọi là lợi ích hiển. Nhân vì quyền hóa của Bồ-tát Quán Thế Âm, do đó không khác biệt lắm với chỗ giảng ở trước.

Ở đây Bồ-tát Vô Tận Ý hỏi có chủ ý, chia làm ba điểm quan trọng:

– Hỏi Bồ-tát Quán Thế Âm đến thế giới Ta-bà này thế nào? Hiện thân ra sao?

Ta-bà là tiếng Phạn, dịch là nhẫn độ (cõi nhẫn). Kinh Bi Hoa giải thích: “Gọi là Ta-bà, các chúng sanh này chịu ba độc và các phiền não, hay nhẫn các ác ấy nên gọi là nhẫn độ.” Đức Phật Thích-ca sở dĩ rủ dấu vết ứng hiện ở Ta-bà để giáo hóa, chính là muốn cho chúng sanh giải thoát khổ não của cõi này.

– Hỏi lại khẩu nghiệp của Bồ-tát Quán Thế Âm là làm sao vì chúng sanh diễn thuyết diệu pháp?

– Lại ngước hỏi ý nghiệp của Bồ-tát Quán Thế Âm, sức phương tiện độ chúng sanh, rốt cuộc là thế nào?

“Phương tiện” ở đây nói, phương là phương pháp, tiện là thích nghi. Tế độ chúng sanh phải dùng phương pháp thích nghi, gọi là phương tiện. Đây không phải chỉ sự hư ngụy dối trá mà thế tục dùng, gọi là “phương tiện”. Trong Pháp Hoa Văn Cú, có ba lối giải thích ý nghĩa phương tiện:

– Phương là cách, tiện là dùng, tùy thuận tâm ý chúng sanh, dùng các thứ phương pháp dạy dỗ họ.

– Phương tiện là cửa, dùng phương tiện này mà có thể dẫn vào cửa Phật. Hoặc là tùy tâm ý chúng sanh, hoặc là tùy ý của mình, dùng các thứ phương tiện dạy dỗ chúng

– Phương là bí, tiện là diệu, không dám đo đoán ý người, chiếu theo suy nghĩ của mình, thuyết pháp khiến người được lợi ích.

Tùy theo ý người hoặc theo ý mình, hay gồm cả hai, dùng phương pháp như thế cứu giúp chúng sanh, chỉ đúng là sức phương tiện.

Hiện tại hỏi: Bồ-tát Quán Thế Âm rốt cuộc dùng sức phương tiện gì ở thế giới Ta-bà giáo hóa chúng sanh? Về vấn đề này, đức Phật đáp dùng hiện 33 thân, 19 thuyết pháp. Trong 33 thân tức gồm có 19 thuyết pháp, 19 thuyết pháp cũng chính là thị hiện 33 thân.

Phật cáo Vô Tận Ý Bồ-tát: “Thiện nam tử! Nhược hữu quốc độ chúng sanh, ưng dĩ Phật thân đắc độ giả, Quán Thế Âm Bồ-tát tức hiện Phật thân nhi vị thuyết pháp.”

Phật trả lời câu hỏi của Bồ-tát Vô Tận Ý: “Trên thế giới Ta-bà, nếu có chúng sanh cần phải dùng thân Phật đến cứu giúp, thì Bồ-tát Quán Thế Âm sẽ hiển thân Phật mà nói pháp cho họ.” Đây là hiển thị bậc nhất dùng thân Phật thuyết pháp.

“Đắc độ” là ý được độ thoát. Độ tức là qua sông, tức là từ bờ này phiền não, đưa qua bến bờ kia Bồ-đề. Đây chính là nghĩa bỉ ngạn, bờ kia.

Nói đến thân Phật là chỉ cái gì? Thân Phật có thể chia làm ba loại thuyết pháp: 1- Pháp thân, 2- Báo thân. 3- Ứng hóa thân.

Thân Phật được nói ở đây là chỉ Ứng thân vì căn cơ của chúng sanh mà ứng hiện.

“Pháp thân” là nhân cách hóa chân lý vũ trụ, phổ cập không gian vô cùng và thời gian vô tận, không chỗ nào chẳng khắp, không thời gian hạn chế, tức là pháp thân Phật Tỳ-lô-giá-na.

“Tỳ-lô-giá-na” nghĩa là khắp tất cả chỗ, nhân lấy dụ ánh mặt trời trừ tối, sáng khắp, do đó còn gọi là Đại Nhật Như Lai.

“Báo thân” là người thể nhận được chân lý vũ trụ, cùng là một với chân lý vũ trụ không phải là hai, đứng ở cảnh đại giác. Nói theo không gian, đầy khắp mười phương, gọi là Vô Ngại Quang; nói theo thời gian, chứng được sinh mạng vĩnh hằng, đó là Vô Lượng Thọ. Có đủ Vô Lượng Quang và Vô Lượng Thọ tức là đồng thể với Phật A-di-đà.

“Ứng thân” vì thương xót chúng sanh đời uế trược, ứng hiện đến thế giới Ta-bà này, như Phật Thích-ca giáng sanh, xuất gia, tu hành, thành đạo, thuyết pháp. Bất kể vị Phật nào, đều có đủ ba thân này, ba thân tức là một, là cái không thể tách biệt.

Lấy một thí dụ, pháp thân giống như y học, bác sĩ nghiên cứu y học là báo thân; người ứng dụng y học để trị bệnh, nghe thuốc mà thi hành y thuật là ứng thân.

Hiện tại, Bồ-tát Quán Thế Âm vì người cần thân Phật để được độ, Ngài liền hiện thân Phật vì họ nói pháp, do đó có thể xem thế này: Đức Thích-ca hiện ở thế giới Ta-bà này thuyết pháp độ chúng sanh, cũng là thị hiện của Bồ-tát Quán Thế Âm.

Vì Bồ-tát Quán Thế Âm là chân lý của vũ trụ, quyền hóa của từ bi, mà sự xuất hiện của Phật Thích-ca chính là hiển thị chân lý của vũ trụ, quyền hóa của từ bi. Về điểm này, bèn nói Thích-ca là Quán Thế Âm, Quán Thế Âm là Thích-ca, tôi nghĩ cũng được.

Ưng dĩ Bích Chi Phật thân đắc độ giả, tức hiện Bích Chi Phật thân nhi vị thuyết pháp; ưng dĩ Thanh văn thân đắc độ giả, tức hiện Thanh văn thân nhi vị thuyết pháp.

“Bích Chi Phật” tiếng Phạn là “Tất-lặc-tử-để ca”, giải thích là Duyên giác hoặc Độc giác, Ngài không chờ đợi sự phụ tá của người khác, có thể riêng mình hướng đến đường giải thoát. Do đó, trước lúc Phật ra đời, hoặc ở chỗ Phật chưa truyền giáo, có thể thể hội được bộ phận của chân lý vũ trụ, thì gọi là Bích Chi Phật. Có thể nói triết gia Hy Lạp, Thánh nhân Trung Quốc đều là Bích Chi Phật.

Đây là chỗ hay đặc biệt của Phật giáo. Trong Phật giáo không hề có tư tưởng hẹp hòi không được Phật Thích-ca chỉ dạy thì không thể giải thoát. Không đợi nhận giáo pháp của Phật Thích-ca cũng có thể giác ngộ một mình – Độc giác.

Hiện tại Bồ-tát Quán Thế Âm, người cần dùng thân Phật Bích Chi được độ, liền hiện thân Phật Bích Chi vì họ nói pháp. Do đó, Socrate cũng tốt, Platon cũng tốt, Khổng Tử cũng tốt, Jésus cũng tốt, Mohamet cũng tốt, đều có thể xem là ứng hiện của Bồ-tát Quán Thế Âm.

Bồ-tát Quán Thế Âm tựa như một vầng trăng sáng trên trời trong, bất luận ở sông, ngòi, biển, bể đều có thể hiện ra. Chân lý là một, thể hiện chân lý vũ trụ lại bất đồng. Do đó thích ứng với thời đại hay đất đai bất đồng mà hiện thân giáo hóa chúng sanh. Đây là đặc sắc của Phật giáo, phải cần phát huy thêm.

Đương nhiên, Phật Bích Chi này là Duyên giác. Nhưng ngay trong Duyên giác cũng có hai loại: Duyên giác của Duyên giác và Thanh văn của Duyên giác. Duyên giác của Duyên giác là người không chịu sự giáo hóa của Phật Thích-ca, có thể quán sát đạo lý nhân duyên sanh tử mà ngộ nhập. Nhưng nói đến Thanh văn của Duyên giác, thì phải gặp đức Thích-ca ra đời, nghe mười hai nhân duyên sanh tử mới có thể ngộ nhập. Do đó từ quá khứ đến vị lai, chúng ta ở trong nhân duyên sanh tử, con mắt trí tuệ bị mờ, không thể thấy được chân lý sáng rỡ. Đó là do vô minh mà sanh ra hành, nhân hành mà sanh ra thức và phân biệt, cái thức này liên lạc với ngoại cảnh bèn sanh danh sắc; danh sắc này giao thiệp với ngoại giới sanh ra lục nhập: mắt, tai, mũi, lưỡi, thân, ý; do lục nhập này tiếp xúc với ngoại cảnh sanh ra xúc; do xúc mà cảm thọ; do thọ mà sanh ái; do ái mà chấp trước sanh thủ; y thủ mà nghĩ giữ gìn cái mình có; cuối cùng cảm thọ cái khổ sanh và già chết. Y theo quả sanh mạng này, lại sanh khởi vô minh, nương vô minh mà có hành (nghiệp); có hành nên có khổ, có khổ nên có hoặc; như thế cả ba hoặc – nghiệp – khổ như vòng tròn không đầu mối.

Thanh văn nghe lời dạy dỗ của Phật mà thấy được căn bản của khổ (Khổ đế), là ác nghiệp của thân – miệng – ý tích chứa (Tập đế) mà thành, chỉ cần đem cái này đoạn dứt, tức có thể được ngộ (Diệt đế), nhưng đoạn tập, chứng ngộ, ắt phải tu đạo (Đạo đế). Phật từng nói: Quả của mê là khổ, nhân của mê là tập; quả của ngộ là diệt, nhân của ngộ là đạo. Một nhóm chúng sanh nghe đạo lý Tứ đế Khổ – tập – diệt – đạo này được khai ngộ gọi là Thanh văn, nói tắt là đệ tử Phật. Tư tưởng căn bản của Phật giáo chính là Tứ đế này. Từ Phật giáo Nguyên thủy cho đến Phật giáo Hậu kỳ, cũng tức là từ Tiểu thừa đến Đại thừa, tất cả kinh điển đều từ Tứ đế này khai triển ra. Do đó nghe tiếng Phật, hoàn toàn không nhất định phải sanh vào đời Phật, đích thân nghe tiếng Phật. Phật tại thế là có Phật thuyết pháp; Phật diệt độ rồi, thì có pháp của Phật lưu truyền. Giáo pháp lưu truyền là kinh điển do tôn giả A-nan theo hầu Phật rất lâu, đích thân nghe tiếng Phật, tụng ra, các phương đều có phiên dịch lưu truyền, đây đều là pháp âm của Phật.

Nhân đây, tuy là Thanh văn cũng không nhất định sanh vào thời Phật ra đời. Mà Thanh văn tức là đệ tử Phật, đây chính là chỉ rất nhiều đệ tử Phật theo giáo pháp của Phật xuất gia tu trì thành đạo. Người dùng kiểu gì có thể độ thoát, thì hiện loại thân đó đến độ thoát họ.

Từ cách nhìn này mà nói, Bồ-tát Mã Minh, Bồ- tát Long Thọ và Tổ sư Đạt-ma ở Ấn Độ; Đại sư Trí Giả của tông Thiên Thai, Quốc sư Hiền Thủ của tông Hoa Nghiêm, Đại sư Huệ Viễn, Đại sư Thiện Đạo của tông Tịnh Độ; Đại sư Truyền Giáo, Đại sư Hoằng Pháp, thượng nhân Nhật Liên của Nhật Bản, đều dùng thân xuất gia mà vì chúng sanh thuyết pháp, do đó cũng có thể xưng hiện thân Thanh văn.

Như dạng này mà nói, những vị này đều là Bồ- tát Đại thừa, nói họ là Thanh văn, hoặc giả không đúng cũng chẳng thể biết. Nhưng Thanh văn này, có người tự cam phận Tiểu thừa, gọi là Ngu Pháp Thanh Văn; có người tiến tu Đại thừa, gọi là Quảng Tuệ Thanh Văn. Chẳng những như thế, ngay Bồ-tát Đại thừa, người có thể hiện thân Thanh văn mà độ được, liền hiện thân Thanh văn, loại đại từ bi của Bồ-tát Quán Thế Âm này, bèn từ tinh thần này biểu hiện ra.

Thân Phật, thân Phật Bích Chi, thân Thanh văn ở trên đều là bậc Thánh khai ngộ, do đó gọi là thân Tam thánh.

b- Thân Trời, thân Người

Ưng dĩ Phạm vương thân đắc độ giả, tức hiện Phạm vương thân nhi vị thuyết pháp; ưng dĩ Đế Thích thân đắc độ giả, tức hiện Đế Thích thân nhi vị thuyết pháp; ưng dĩ Tự Tại Thiên thân đắc độ giả, tức hiện Tự Tại Thiên thân nhi vị thuyết pháp.

Văn trên đã nói hiện thân ba bậc Thánh thuyết pháp, độ những chúng sanh đáng độ. Bây giờ là giảng hiện thân Phạm vương, Đế Thích, thân trời Tự Tại thuyết pháp. Đối với việc hiện thân thuyết pháp ở đây, cần phải từ mấy phương tiện mà khảo sát.

Lúc cho là thích hợp dùng thân Phạm vương được độ, chẳng những là hiện thân Phạm vương, mà cần phải hiện tâm Phạm vương; lúc nên dùng thân Đế Thích được độ, chẳng những hiện thân Đế Thích, còn cần có tâm của Đế Thích. Vì để đồng hóa đối tượng, tự thân hiện ra tướng giống như đối tượng, đây có thể xem là vận dụng đồng sự nhiếp của Bồ-tát.

“Đồng sự”, là phương tiện giáo hóa của Bồ-tát Đại thừa. Ông có hình dạng gì, Ngài liền hiện hình mạo đồng dạng để giáo hóa, cùng ông làm việc chung một nơi, đây thực tại là từ bi của Bồ-tát.

Giống như lúc người mẹ định gọi con thơ ăn món gì, ngay miệng của bà ta bất giác cũng há ra. Bồ-tát Đại thừa vì muốn giáo hóa chúng sanh, thương xót hộ niệm chúng sanh, do đó mới hiện thân giống như chúng sanh.

Từ góc độ khác mà nhìn, Bồ-tát Quán Thế Âm muốn cho tâm chúng ta thành Phạm vương, hoặc tâm của Đế Thích như thế, ở trong lòng bèn cần phản tỉnh nhìn vào trong, khiến sự thị hiện giống y như lòng đại từ bi của Bồ-tát. Đây là ở trên sự tu dưỡng rất khiến người ta phải suy nghĩ.

Bây giờ, phương tiện thị hiện ứng hóa của Bồ-tát Quán Thế Âm, chiếu theo sự thuyết minh ở trên mà nhìn, chúng ta phải nên luôn luôn phản tỉnh nhìn vào nội tâm, cần phải thấy được Quán Thế Âm trong tâm chính mình.

“Đại Phạm vương” hoặc là “Trời Đế Thích” là đối tượng được tín ngưỡng từ xưa đến nay ở Ấn Độ. Nếu dùng ánh mắt Phật giáo mà nhìn, những vị này đều là các vị thần của Bà-la-môn, người do những thần này mà có thể an tâm lập mạng được tiến vào đại đạo cũng không ít. Do đó trong Phật giáo, quyết không bài xích những thần này; chẳng những không bài xích mà người đầu tiên nhất tín ngưỡng những thần này, về sau quay về hết lòng với Phật giáo cũng rất nhiều. Do đó bèn tôn những vị thần ấy làm thần ủng hộ Phật giáo. Vì những thần này tuy không thể tu dưỡng thành Phật, nhưng đều ở trên phàm phu chúng ta.

Trong Phật giáo do truyền thuyết của Ấn Độ từ xa xưa, nói thế giới này chia làm ba cõi Dục giới, Sắc giới, Vô sắc giới. “Ba cõi bất an giống như nhà lửa”.

Mục đích tu học Phật pháp, chính là có thể vượt khỏi ba cõi này. Cõi thứ nhất trong ba cõi là Dục giới, trong Dục giới có sáu đường địa ngục, ngạ quỷ, súc sanh, A-tu-la, nhân gian, cõi trời.

Trong các trời, cách chúng ta không xa là trời Dục giới, trong trời Dục giới có trời ở đất và trời ở trên không. Trời ở mặt đất không rời khỏi đất, còn trời ở trên không thì đã rời khỏi mặt đất.

Trời ở dưới đất, căn cứ theo truyền thuyết Ấn Độ cổ đại, chính là do núi Tu-di thành lập. Tu-di sơn tiếng Phạn là Tu-mê-lô, nơi bốn phương có người ở: phương Đông gọi là Phất-bà-đề châu, phương Tây gọi là Câu-da-ni châu, phương Bắc gọi là Uất-đơn-việt châu, phương Nam gọi là Diêm-phù-đề châu. Châu Diêm-phù-đề chính là đất chúng ta ở. Phần bụng của núi Tu-di có Tứ thiên vương: Đông phương Trì Quốc Thiên Vương, Tây phương Quảng Mục Thiên Vương, Nam phương Tăng Trưởng Thiên Vương, Bắc phương là Đa Văn Thiên Vương. Đây là khởi điểm của Dục giới. Lại lên trên là trời Đao Lợi, trời này ở trên đỉnh núi Tu-di; bốn phương, mỗi phương có tám trời, bốn lần tám là ba mươi hai trời; trung ương có trời Đế Thích, cộng chung lại gọi là trời Tam thập tam.

Từ đây tiến vào trời ở không trung, thấp nhất là trời Dạ-ma, trên là trời Đâu-suất, trời Hóa Lạc, trời Tha Hóa Tự Tại, đến đây là chung điểm của Dục giới, cộng có sáu trời, trên nữa là Sắc giới.

Dục giới, là chưa có đoạn trừ hoàn toàn Dục tình, đến Sắc giới, là hoàn toàn không có dục tình, ở đó có mười tám trời.

Thứ nhất là Sơ thiền thiên, ở cõi trời này có trời Phạm phụ và trời Phạm chúng, trên nữa là trời Đại Phạm. Trên Sơ thiền thiên là Nhị thiền thiên, trong Nhị thiền thiên có ba trời. Trên Nhị thiền thiên là Tam thiền thiên, Tam thiền thiên có ba trời. Trên Tam thiền thiên có Tứ thiền thiên, Tứ thiền thiên có chín trời. Cộng chung Sắc giới có mười tám trời.

Trên Sắc giới là Vô sắc giới. Vô sắc giới không những là không có dục tình, ngay cả nhục thể cũng không có, do đó bốn trời Vô sắc giới gọi là trời Không vô biên xứ, trời Thức vô biên xứ, trời Vô sở hữu xứ, trời Phi tưởng phi phi tưởng xứ.

Đây là hai mươi tám trời của ba cõi.

Những giai cấp như thế có thể xem là giai đoạn ở lúc tĩnh tư tĩnh lự, đạt đến tinh thần nhàn tịch của chúng ta.

“Trời”, trong luận Bà-sa nói: “Ánh sáng chiếu rọi gọi là trời.” Phật giáo nói ánh sáng, chẳng kể khi nào đều là tỉ dụ trí tuệ, do đó ở nhân gian nếu không mờ mịt đối với dục tình, thì có thể vận dụng trí tuệ. Giai cấp Tứ thiên vương tuy vẫn chưa lìa bỏ dục tình, nhưng đã nhạt mỏng; đến trời Đế Thích, nhục dục đã không có nữa, chỉ còn có ái tình trên tinh thần. Như thế dần dần lên đến Phạm Thiên là tương đương với Sơ thiền thiên của Sắc giới. Nhân vì hay lìa dâm dục của Dục giới, tịch tĩnh thanh tịnh, thường sanh tâm lành, do đó gọi là Phạm Thiên. Lớn hơn Phạm Thiên thì gọi là Đại Phạm Thiên. Kinh Lăng Nghiêm nói: “Thân tâm diệu viên, oai nghi chẳng thiếu sót, cấm giới thanh tịnh, để mà minh ngộ; người này đúng thời có thể thống lãnh Phạm chúng, làm Đại phạm vương, một loại như thế gọi là Đại Phạm Thiên.”

“Trời Đế Thích” cũng là đại thiện thần, ở trung ương trời Đao Lợi, là chúa của 32 trời, cai quản rất nhiều trời và nhân dân, thủ hộ Phật pháp.

“Trời Tự Tại” là trời Tha Hóa Tự Tại, trời thứ 6 cao nhất của Dục giới, tiếng Phạn gọi là “Bà-la-duy- ma-bà-xa-bạt-đề”, Đại Trí Độ Luận quyển 9 nói: “Trời này đoạt chỗ biến hóa của người khác, mà tự vui chơi, nên nói là Tha Hóa Tự Tại.” Câu Xá Luận Sớ, phẩm Thế Gian quyển 1 nói: “Trời Tha Hóa Tự Tại, ở trong sự biến hóa của người khác được tự tại.” Trời này chính là chẳng cần tự mình vui vì biến hiện đủ loại, mà thích hóa làm trời cõi dưới, mượn việc vui của người khác, tự tại dạo chơi, mới gọi là trời Tha Hóa Tự Tại. Trời này cùng với trời Ma-ê-thủ-la (trời Đại Tự Tại trong trời Tứ thiền) đều là trời Ma vương phá hoại chánh pháp. Ở giữa có cung điện Ma vương. Nhân đây, thường thường sai chúng ma đến thế gian của chúng ta, khiến chúng ta tăng thêm nhiều khổ nạn, đều do những đại ác thần này.

Nhưng Bồ-tát Quán Thế Âm, chẳng quản anh là Thiện thần, đại Ma vương, trời Đế thích hoặc là Ác thần Tự Tại Thiên, đều tế độ như thường. Đây có thể xem Bồ-tát Quán Thế Âm ở thế gian, người thiện thì dùng thiện dẫn dụ, người ác thì dùng ác cảnh giác.

Do đó phương tiện ứng hóa của Bồ-tát, có hai môn nhiếp thọ và chiết phục. Hoặc dùng yêu thương bao dung nhiếp thọ, hoặc dùng sức trừng phạt ngăn cấm chiết phục. Muốn độ chúng sanh tất yếu phải có cả hai phương diện này. Nếu chỉ có ái mà không có lực, thì khó để tuân phục; chỉ có lực mà không có ái, thì dễ vời sự phản kháng.

Nhân đây, ái và lực, nhiếp thọ và chiết phục đều rất trọng yếu. Người mà thiện thần có thể hóa độ, liền hiện thiện thần hóa độ; người mà ác thần có thể hóa độ, liền hiện ác thần hóa độ.

Có loại người nghe được việc lành của người khác, có thể phát khởi cái lành của chính mình, hoặc thấy cái ác của người khác, dễ dàng phản tỉnh cái ác của mình; căn cơ của chúng sanh rất nhiều, do đó ứng hiện của Bồ-tát cũng mỗi mỗi bất đồng.

Tâm nếu thanh tịnh, trí tuệ thì giác sẽ mạnh mẽ xuất hiện. Đây là Bồ-tát Quán Thế Âm hóa làm Đại Phạm vương thị hiện ở trong tâm chính mình; tâm nếu không sát sanh, không trộm cắp, không tà dâm, không nói dối, không hai lưỡi, không ác khẩu, không nói lời vô ích, không xan tham, không sân hận, không tà kiến…, mười đường lành sanh ra, đây là Quán Thế Âm hiện trời Đế Thích để giáo hóa; tâm nếu sanh khởi tà niệm, vọng tưởng, mê mờ trí tuệ của chính mình, thì Bồ-tát Quán Thế Âm hiện thân Đại Tự Tại Thiên đến để phản tỉnh, khiến chúng ta phải tự giác như thế. Một đoạn thuyết pháp này, là phải nên suy đi nghĩ lại.

Ưng dĩ Đại Tự Tại Thiên thân đắc độ giả, tức hiện Đại Tự Tại Thiên thân nhi vị thuyết pháp; ưng dĩ Thiên đại tướng quân thân đắc độ giả, tức hiện Thiên đại tướng quân thân nhi vị thuyết pháp; ưng dĩ Tỳ-sa-môn thân đắc độ giả, tức hiện Tỳ- sa-môn thân nhi vị thuyết pháp.

“Tự Tại Thiên” ở trước là trời thứ sáu cao nhất Dục giới, là đại ác thần. “Đại Tự Tại Thiên” ở đây là trời cao nhất Sắc giới, cũng là đại ác thần. Nhưng Bồ- tát Quán Thế Âm vì sao phải hiện thân ma vương? Về vấn đề này, cư sĩ Duy-ma nói là cứu tà khiến vào Phật đạo. Trong phẩm Bất Tư Nghì ở kinh Duy-ma nói: “Bấy giờ Duy-ma-cật nói với ngài Đại Ca-diếp: Này nhân giả! Trong vô lượng vô số thế giới ở mười phương, người làm ma vương phần nhiều là Bồ-tát trụ giải thoát bất khả tư nghì, giáo hóa chúng sanh nên hiện làm ma vương.”

Cư sĩ Duy-ma, chúng ta đương nhiên có thể xem là Bồ-tát Quán Thế Âm hiện thân cư sĩ mà thuyết pháp. Đoạn văn này chính là bài thuyết pháp của Bồ- tát Quán Thế Âm. Bồ-tát Quan Thế Âm hiện làm Tự Tại Thiên hay làm Đại Tự Tại Thiên, đều như đoạn kinh Duy-ma này nói. Diệu lực bất khả tư nghì giải thoát của Bồ-tát Quán Thế Âm, không độ hết cõi ma, quyết không ngừng nghỉ. Đây đều là nêu cao bi nguyện.

“Đại Tự Tại Thiên” tiếng Phạn là Ma-ê-thủ-la Thiên, là trời thứ mười tám trong 18 cõi trời Sắc giới, ở đỉnh cao nhất của Sắc giới; hoặc gọi là trời Sắc Cứu Cánh hoặc trời A-ca-ni-trá, cũng gọi là trời Ma-ê-thủ- la. Đại Tự Tại Thiên vương, là thiên chủ của trời này, cỡi trâu trắng 3 mắt 8 chân, Ấn Độ cho vị này là bản thể sáng tạo thế giới, là chúa tạo ra muôn loài, do đó được người sùng bái.

Hiện tại âm thanh vi diệu từ bi thuyết pháp của Bồ-tát Quán Thế Âm, tiến vào cõi trời để hóa độ. Nhưng chẳng kể là cõi tịnh của Phạm Thiên, Đế Thích, cũng chẳng kể là cõi ma của Tự Tại Thiên, Đại Tự Tại Thiên. Đây chẳng phải cõi trời nào xa tít, mà là trên thân của chính chúng ta.

“Thiên đại tướng quân” là gia tướng của trời Đế Thích. Lúc Đế Thích và A-tu-la đánh nhau, đại lực sĩ tiên phong ra trận chính là Thiên đại tướng quân, còn gọi là Na-la-diên tướng quân, Kiên Cố Lực Sĩ; Lộ Hình Thần, Kim Cang Lực Sĩ.

Cửa sơn môn của chùa chiền có hai vua, bên trái là Na-la-diên Kiên Cố Lực Sĩ; bên phải chính là Na- mật-giá Kim Cang Lực Sĩ, đều gọi là Thiên đại tướng quân.

Bây giờ theo văn kinh mà xem, đây là thị hiện tâm đại dũng mãnh của Quan Âm, đức dũng mãnh của Ngài, dùng sự xuất hiện của Thiên đại tướng quân mà giữ trách nhiệm thủ hộ Phật pháp. Từ sức đại từ, đại trí và đại dũng dẫn phát, Bồ-tát Quan Âm có ba đức viên mãn này, thật là đối tượng được sùng tín trong lý tưởng của chúng ta.

“Tỳ-sa-môn” còn gọi là trời Tỳ-sa-môn hay Thiên chủ Tỳ-sa-môn, tiếng Phạn chính âm là Xá-la-noa, dịch là Biến văn, Phổ văn. Giáo đồ Bà-la-môn gọi vị này là thần tài, là thần gìn giữ tài bảo vàng bạc.

Thần này ngồi trấn tại 9 cung thủy tinh tầng thứ tư ở núi Tu-di. Vì quản lý Dạ-xoa, La-sát do đó còn gọi là Bắc Phương Đa Văn Thiên. Đây là thần đã quay về tin phụng Phật giáo. Trong kinh Tỳ Sa Môn Thiên Vương, những vị này rất có phước đức tiếng tăm. Chân Ngôn Tông và Thiên Thai Tông cũng rất tôn sùng vị thần này. Như thế phước đức của họ từ đâu tới? Y cứ theo kinh Tỳ-sa-môn Thiên Vương thì Thiên Vương này có 10 phước đức là:

1- Phước vô tận.

2- Phước mạng sống dài lâu.

3- Phước quyến thuộc, ở trên là quả đức do bố thí.

4- Phước thiện thức, đây là quả đức do trì giới.

5- Phước được yêu kính, đây là quả đức do nhẫn nhục.

6- Phước thắng quân.

7- Phước ruộng tốt.

8- Phước tàm thực, đây là quả đức của tinh tấn.

9- Phước Phật quả, đây là quả đức của thiền định.

10- Phước trí huệ, đây là ánh sáng trí huệ từ thiền định phóng

Y theo đây mà xem, phước của Tỳ-sa-môn thiên quyết không phải từ ngoài đến, là quả báo nương theo đại hạnh Bồ-tát sáu ba-la-mật mà tu, tự nhiên cảm ứng được. Do đó bất kể là ai, chỉ cần tu hạnh Lục độ là có thể được đủ 10 phước này.

Trong 10 phước này, phước vô tận là thứ nhất, còn gọi là phước biết đủ, là phước thường biết đủ. Một người biết đủ là điều trọng yếu nhất.

Ưng dĩ Tiểu vương thân đắc độ giả, tức hiện Tiểu vương thân nhi vị thuyết pháp; ưng dĩ Trưởng giả thân đắc độ giả, tức hiện Trưởng giả thân nhi vị thuyết pháp; ưng dĩ cư sĩ thân đắc độ giả, tức hiện cư sĩ thân nhi vị thuyết pháp, ưng dĩ Tể quan thân đắc độ giả, tức hiện T quan thân nhi vị thuyết pháp; ưng dĩ Bà-la-môn thân đắc độ giả, tức hiện Bà-la-môn thân nhi vị thuyết pháp.

“Tiểu vương” là khác với các Phạm Thiên, Đế Thích, Tỳ-sa-môn ở trước, đây là vua trong nhân gian, do đó gọi là Tiểu vương, còn có thể gọi là Túc tán vương.

“Túc Tán Vương” là nói số Tiểu vương nhiều, nhiều như lúa rải, hoặc là cõi nước do Tiểu vương thống lãnh tên là nước Túc Tán, nhân vì so với vũ trụ to lớn của cõi trời, nó nhỏ như một hạt thóc rải trên đất, vị vua thì gọi là “Túc Tán Vương”.

Vua của trời gọi là Thiên chủ, vua của người gọi là Nhân vương. Trong các vua của người, vua nước lớn gọi là Đại vương, vua nước nhỏ gọi là Tiểu vương. Hoặc là Đại vương còn gọi là Phụ vương, Tiểu vương còn gọi là Thái tử. Tóm lại chẳng kể là đại vương, tiểu vương đều là người chi phối nhân dân.

Kinh Thủ Lăng Nghiêm nói: “Nếu các chúng sanh thích làm nhân vương, ta ở trước họ, hiện thân nhân vương mà thuyết pháp cho, khiến họ thành tựu.”

Đây chính là nghĩa quốc vương là người thống trị, người chi phối, dùng sự dũng mãnh lớn, trí tuệ lớn đến giáo hóa nhân dân. Chiếu theo ý này, Thánh chúa minh quân xưa nay đều có thể nói là hiện thân của Quan Âm, do đó có người tán thán quân chủ Thánh Minh là hiện thân của Bồ-tát Quán Thế Âm.

Kính lễ Cứu thế Quán Thế Âm Truyền đăng Đông phương Túc Tán Vương Giá tùng Tây phương lai đản sanh

Diễn thuyết diệu pháp độ chúng sanh.

Nếu như nói tiểu vương là Thánh chúa minh quân giống như vua A-dục ở Ấn Độ; Tùy Văn Đế, Đường Thái Tông, Minh Thái Tổ, Thanh Thuận Trị Đế của Trung Quốc đều là người hộ pháp trung thực của Phật giáo, đều có thể xem là hiện thân của Quán Thế Âm. Nếu như nói tiểu vương theo nghĩa Thái tử, chính như thái tử Chiêu Minh đời Lương của Trung Quốc, thái tử Thánh Đức của Nhật Bản hoằng dương chánh pháp dốc hết sức lực cũng có thể xem là hóa thân của Bồ-tát Quán Thế Âm.

Kinh Tâm Địa Quán nói, người chi phối đất nước ắt phải có đủ 10 đức. 10 đức này là:

1- Năng chiếu: dùng mắt trí tuệ, soi chiếu thế giới.

2- Trang nghiêm: dùng đại phước trí trang nghiêm nước.

3- Dữ lạc: cho nhân dân an lạc thái hòa.

4- Phục oán: hàng phục tất cả oán định.

5- Ly bố: hay trừ tai nạn, lìa khủng bố.

6- Nhậm hiền: tập hợp các người hiền, chia lo việc nước.

7- Khiến nhân dân ở yên trong nước.

8- Dùng pháp quản lý thế

9- Nghiệp chủ: các nghiệp đều quy về quốc vương.

10- Tất cả nhân dân lấy vua làm chủ.

Ắt phải dùng 10 đức này giáo hóa dân chúng mới có thể xưng là thị hiện của Quán Thế Âm.

“Thân Trưởng giả”, hiện tại rất nhiều địa chủ, phú ông đều xưng là Trưởng giả. Kỳ thực, địa chủ, phú ông hoàn toàn chẳng phải là trưởng giả đúng đắn. Trưởng giả thứ thiệt ắt cũng cần phải đủ 10 đức.

Trong 10 đức này có 5 đức thuộc về thân, 5 đức thuộc về tâm. Đây theo “Phiên Dịch Danh Nghĩa Tập”, thứ tự nêu ra:

Thân đức: tánh quý, vị cao, đại phú, oai mãnh, lớn tuổi.

Tâm đức: trí sâu, hạnh tịnh, lễ đủ, trên khen, dưới phục.

1- Tánh quý: con nhà danh giá, hiển dương bốn phương.

2- Vị cao: cấp bậc công huân thảy đều cao trọng.

3- Đại phú: của cải tài sản, phong phú dồi dào.

4- Oai mãnh: uy nghiêm đầy đủ, người đều kính sợ.

5- Tuổi lớn: tuổi phải tròn 50, đức độ hơn người.

6- Trí sâu: trí lự hơn người, mưu tính sâu

7- Hạnh tịnh: phẩm hạnh thanh tịnh, đáng làm mô phạm.

8- Lễ đủ: lễ nghĩa đầy đủ, không sót điều gì.

9- Trên khen: tin dùng đức vang xa, bậc trên đều khen ngợi.

10- Dưới phục: kẻ bề dưới, ngóng đức mà quy phục.

Cư sĩ tiếng Phạn là Ca-la-việt, theo thói thường gọi tín đồ Phật giáo tại gia là Cư sĩ.

Tổ Đình Sự Uyển nói Cư sĩ ắt phải đủ 4 đức:

1- Không mong làm quan.

2- Ít muốn, nuôi đức.

3- Tài sản giàu có.

4- Giữ đạo tự

Luật Thập Tụng nói: Cư sĩ là trừ vua, vương thần và Bà-la-môn, những người áo trắng ở nhà gọi là Cư sĩ.

Kinh Thủ Lăng Nghiêm nói: Nếu các chúng sanh, thích bàn danh ngôn, sống đời thanh tịnh, ta sẽ ở trước họ, hiện thân cư sĩ mà thuyết pháp khiến họ thành tựu.

Lại cũng kinh trên khi giảng về “Tể quan” tiếp theo, có nói thế này: “Nếu các chúng sanh, ưa trị nước, chia cắt bang ấp, ta sẽ ở trước họ hiện thân Tể quan mà thuyết pháp khiến họ thành tựu.”

“Tể quan” là quan coi về chính trị, có thể xem là tất cả quan sứ. Chính là nghĩa những người nên dùng thân quan sứ mà được độ, tức hiện thân quan sứ đến để tế độ.

Trung Quốc thời xưa có chín phẩm bậc về quan chức, đều là người vâng pháp nước mà trị dân. Đây đều có thể gọi là Tể quan. Do đó trên từ đại thần xuống đến thôn trưởng cũng đều là Tể quan. Tất cả tể quan nếu như tự mình là hóa thân của Quán Thế Âm, thì nước này bèn có thể đại trị rồi vậy.

“Bà-la-môn” là dòng họ tối thượng trong 4 dòng họ của Ấn Độ. Giáo đồ Bà-la-môn cũng gọi là tăng lữ. Ấn Độ có 4 giai cấp:

1- Bà-la-môn (Tăng lữ)

2- Sát-đế-lợi (Đế vương quân nhân)

3- Phệ-xá (thương nhân)

4- Thủ-đà-la (nông dân).

Sự cách biệt của 4 giai cấp này rất không bình đẳng. Đã không thể kết hôn với nhau, cũng không thể hưởng quyền lợi ngang nhau, sang hèn chia ra rất là đáng sợ!

Phật giáo hoàn toàn bác bỏ sai biệt giai cấp bất bình đẳng này. Tại toàn Ấn Độ, chẳng kể thuộc giai cấp nào, đã vào Phật giáo đều gọi là dòng họ Thích. Nhưng, Bồ-tát Quán Thế Âm, nếu có người cần dùng thân Bà-la-môn để được độ liền hiện thân Bà-la-môn mà thuyết pháp. Người tu hành hoặc người truyền đạo ngoài Phật giáo ra, lúc nào thích đáng cần phải tế độ, Ngài liền hiện thân tế độ. Có thái độ bao dung tín đồ tôn giáo khác này, có thể thấy sự vĩ đại của Phật giáo và Bồ-tát Quán Thế Âm. Tức là người dùng thân nhà Nho hay Mục sư để được độ, Bồ-tát Quán Thế Âm cũng có thể hiện nhà Nho hay Mục sư mà thuyết pháp.

Bà-la-môn tiếng Phạn là Brahmana, dịch là Tịnh Hạnh. Đây là người tịnh hạnh cao quý, từ bỏ pháp ác. Họ học rộng biết nhiều, trong 4 dòng họ, là thuộc giai cấp tăng lữ học giả trên hết. Tự xưng là do Phạm Thiên thời thượng cổ sinh ra, là dòng tộc cao nhất, quyền uy của họ trên Sát-đế-lợi, cho là truyền thánh ý của chư thánh chư thần. Dòng tộc một đời tuân giữ giáo quy rất nghiêm khắc, đến khi đứng tuổi, đều phải học thông những kinh luận 4 bộ phệ-đà, 18 đại kinh.

Đến tuổi 40, sợ đoạn dứt việc nối dõi tông đường, trở về nhà cưới vợ, sanh con nối dõi. Đến 50 tuổi, vào núi tu đạo. Dòng Bà-la-môn này chỉ có ở Ngũ Thiên Trúc, các nước khác không có.

Ưng dĩ Tỳ-kheo, Tỳ-kheo ni, Ưu-bà-tắc, Ưu-bà-di thân đắc độ giả, tức hiện Tỳ-kheo, Tỳ-kheo ni, Ưu-bà-tắc, Ưu-bà-di thân nhi vị thuyết pháp.

Tỳ-kheo là đàn ông xuất gia cạo đầu thọ đại giới cụ túc.

Tỳ-kheo là tăng chúng trong bốn chúng đệ tử của đức Phật. Tiếng Phạn chính xác nên đọc là Bí-sô, dịch là Khất sĩ. Ý nghĩa của Khất sĩ là trên theo Như Lai xin pháp để nuôi huệ mạng; dưới đến người đời xin thức ăn để nuôi sắc thân nên gọi là Khất sĩ. Người ăn xin ở đời chỉ xin áo cơm không xin chánh pháp, không gọi là Khất sĩ. Lại theo nguyên ý của Tỳ-kheo mà giải thích nên có 6 nghĩa:

1- Bố ma: Xuất gia rồi, xác lập đạo tâm Bồ-đề, thì các ma sợ hãi.

2- Sát tặc: Đem tâm Bồ-tát tu đạo, có thể giết sạch giặc phiền não.

3- Khất sĩ: Trên xin pháp của chư Phật, dưới xin thức ăn của chúng

4- Ứng cúng: Bậc trên cầu Bồ-đề đáng thọ nhận 4 việc cúng dường của người tại gia.

5- Phá ác: Đạo đức xuất gia có thể giữ 10 cấm giới nặng của Tỳ-kheo, liền có thể phá các niệm ác trong tâm.

6- Vô sanh: Điều đã phá, không cho cảnh giới sanh trở lại.

Tỳ-kheo Ni là âm trại của Bí-sô Ni, dịch là Khất sĩ nữ. Đức Phật xuất gia thành đạo rồi, di mẫu Ma-ha Ba-xà-ba-đề phu nhân là người xuất gia đầu tiên.

Ưu-bà-tắc là nam chúng tại gia đệ tử của Phật thọ trì năm giới nương Phật đạo tu hành, dịch là Cận thiện nam, Cận túc nam, Cận sự nam, nghĩa là thân cận phụng sự Tam bảo. Hoa Nghiêm Sớ Sao giải thích là gần gũi Tỳ-kheo mà thừa sự.

Ưu-bà-di là đệ tử nữ tại gia thọ trì năm giới nương Phật tu hành, dịch là Cận thiện nữ, Thanh tịnh nữ, Cận sự nữ, cũng là nghĩa thân cận phụng sự Tam bảo. Hoa Nghiêm Sớ Sao giải thích là gần gũi Tỳ-kheo ni để thừa sự.

Đệ tử Phật tại gia xuất gia này, cần độ thoát thế nào, sẽ hiện thân như thế mà thuyết pháp.

Thời xưa, đời Lương Võ Đế, đại sư Đạt-ma từ Ấn Độ sang.

– Cái gì là Thánh đế đệ nhất nghĩa? – Lương Võ Đế hỏi đại sư Đạt-ma.

– Rỗng rang không thánh! – Đại sư Đạt-ma đáp.

– Đối diện trẫm là ai?

– Không biết!

Nhân vì lối hỏi đáp này không thể khế hợp căn cơ, đại sư Đạt-ma liền đi đến chùa Thiếu Lâm ở Tung Sơn. Sau Võ Đế quy y với hòa thượng Bảo Chí, bàn đến việc cũ này.

Hòa thượng Chí Công nói:

– Đạt-ma là hóa thân của Bồ-tát Quán Thế Âm, truyền tâm ấn của Phật.

Tại sao lại nói đại sư Đạt-ma là Bồ-tát Quán Thế Âm tái lai? Đây là chứng minh Bồ-tát Quán Thế Âm hiện thân Tỳ-kheo thuyết pháp. Giống như chuyện này, Bồ-tát Quán Thế Âm hóa hiện Tỳ-kheo ni, Ưu-bà- tắc, Ưu-bà-di mà vì chúng sanh thuyết pháp chẳng biết bao nhiêu mà kể!

Ưng dĩ trưởng giả, cư sĩ, tể quan, Bà-la-môn, phụ nữ thân đắc độ giả, tức hiện phụ nữ thân nhi vị thuyết pháp.

Trong Phật giáo, rất nhiều người vì không tôn trọng phụ nữ, như thuyết pháp kiểu này thật là lầm lẫn! Phật giáo chẳng qua chỉ dạy đàn ông tu hành, sợ có chỗ chướng ngại việc tu do đó nói không nên gần gũi đàn bà, chứ không hề có một điểm xem thường đàn bà.

Chính phụ nữ cũng có thể tu đến địa vị Phật, Bồ- tát. Lúc Phật còn tại thế, như phu nhân Thắng Man, đức Phật đều đã chấp nhận lời thuyết pháp của bà. Hiện tại trong Đại Tạng Kinh còn lưu giữ kinh Thắng Man.

Phu nhân Thắng Man là hóa thân của Phật Phổ Quang, nhưng cũng có thể xem bà là hóa thân của Bồ- tát Quán Thế Âm.

Ở đây có trưởng giả, cư sĩ, tể quan, Bà-la-môn, không nhất định phải câu nệ ở văn tự này, tất cả đàn bà tại gia, phụ nữ đã làm vợ người, phụ nữ sắp làm vợ người, người đã làm vợ người mà hiện tại ở góa, tất cả đều có thể gọi chung là đàn bà. Nếu bà ta hiện có đại từ bi, đại trí tuệ, đại dũng mãnh, là có thể xem là Bồ- tát Quán Thế Âm thị hiện thuyết pháp.

Kinh Ngọc Da nói: “Rời hẳn nhà mình, lấy nhà chồng làm nhà, cùng chồng khác thân mà đồng lòng, săn sóc cha mẹ chồng như săn sóc cha mẹ mình, tôn sùng kính cẩn, không có tâm kiêu mạn, khéo điều khiển việc nhà, có thể tiếp khách khứa, làm gia đình phong phú, làm rạng danh gia đình, đây là đạo của đàn bà.”

Phụ nữ đến nhà chồng mới hết đạo làm đàn bà, gọi là quy gia. Nhà của cha mẹ mình là nhà giả tạm thời, tiến đến nhà chồng, mới là trở về nhà chân chính.

Do đó phụ nữ và chồng trưởng giả, cư sĩ, tể quan, Bà-la-môn đều cùng chung nêu ra.

Trong ba đức từ bi, trí tuệ, dũng mãnh, thứ nhất là từ bi, nhân vì đạo của phụ nữ, tuy có nhiều thứ nhưng cái căn bản không ngoài từ bi.

Từ bi là cái trọng yếu nhất trong đức tính, Bồ-tát Quán Thế Âm hiện tướng nữ, chính là vì đức tính này, là đại biểu có khả năng nhất của nữ tánh. Vì thế trong nữ tánh nên lấy đây làm đệ nhất.

Nếu là nữ tánh mà thiếu đức tính này, nói tắt là không có giá trị của nữ tánh.

Phong khí gần đây, hiện tượng biểu hiện trên xã hội là cái gì? Nữ tánh phần nhiều thiếu đức tính từ bi này. Trong đó nhất là quan niệm về trinh tiết rất không được chú ý, chỉ vì tiền bạc, tất cả đều có thể không cần. Tư tưởng Âu Tây không lầm, nhưng toàn là nuốt trọng, cứ mô phỏng trên ngoại hình, trọn là điều nguy hiểm! Đức tính của phụ nữ sở dĩ sa đọa, đại khái chính là vì thế.

Hy vọng phụ nữ từ đây về sau, không thể không nuôi dưỡng đức tính tốt đẹp khiêm nhường. Đây không phải chỉ riêng phụ nữ, đàn ông cũng rất cần thiết. Nhưng khiêm nhường và nhút nhát không thể lẫn lộn. Hiểu lầm khiêm nhường mà thành nhút nhát, thì dễ thành khiếp nhược yếu hèn. Đây cũng là cái không đáng giữ.

Đức của nữ tánh nên chú ý nói năng hành động, rất trọng yếu, là đức tính tốt đẹp không thể thiếu.

Ưng dĩ đồng nam, đồng nữ thân đắc độ giả, tức hiện đồng nam đồng nữ thân nhi vị thuyết pháp.

Đồng nam, đồng nữ, đây là con trai và con gái suốt đời không bị nhiễm ái dục, không nhất định chỉ riêng cho trẻ thơ. Đến 40, 50 tuổi, đàn ông không lấy vợ, đàn bà không lấy chồng đều có thể gọi là đồng nam, đồng nữ. Nhưng lối nói như thế, lại không bằng đem đồng nam đồng nữ rất gần sự thật ấu thơ ra nói tốt hơn. Chuyện hiện thân đồng nam đồng nữ mà độ những chúng sanh ngoan cố rất nhiều, rất nhiều.

Ngày xưa dưới thành Quảng Đảo nước An Nghệ, có một người tên Hồ Binh Vệ. Nhưng mọi người thích gọi ông là Phật Hồ Binh Vệ. Ông ta là một người đánh ngựa thồ, sống đời cùng khốn, nhân vì từ bi nên rất được người tôn kính.

Trước kia, ông vốn là một tên hung ác tham lam tà kiến. Mọi người ghê sợ ông ta như rắn độc, đều gọi ông ta là quỷ Hồ Binh Vệ. Vì sao mà Hồ Binh Vệ thậm chí bị gọi là quỷ, hiện tại lại có thể đổi gọi là Phật Hồ Binh Vệ? Việc này té ra có một đoạn đạo lý sau đây:

Hồ Binh Vệ đánh xe ngựa thồ, có lần bị bệnh, nằm giường rất lâu. Một đêm, vợ ông vỗ lưng người chồng bệnh mà nói:

– Vật có thể bán được đã bán sạch rồi. Bây giờ chẳng có lấy một đồng, không còn cách nào, ngày mai chắc tôi phải đi xin ăn!

Ông chồng nghe xong cũng rơi nước mắt, vợ chồng cùng than thở. Lúc ấy đứa con 8 tuổi tên Vạn Tạng nằm bên đang trùm mền vùng khóc ré lên.

– Vì sao khóc? Nằm mơ thấy gì hả? – Người mẹ hỏi con thơ của mình.

– Không! – Vạn Tạng đáp – Mẹ! Ngày mai con đi đánh xe ngựa thồ, mẹ đừng bắt con đi xin ăn!

Người mẹ chẳng biết con mình nghĩ gì trong lòng, sáng sớm ngày thứ hai, Vạn Tạng dẫn ngựa ra chuẩn bị đi. Vì là một đứa bé thấp lùn, không thể đặt yên lên lưng ngựa. Người mẹ thấy con có tâm thù thắng như thế cũng cảm động, nhân đây giúp con đặt yên, trong lòng một mặt lo lắng, một mặt cũng hối con đi.

Hôm ấy không có việc gì xảy ra. Đến chiều, lúc trở về, chú cầm một chút tiền. Mỗi ngày cứ như thế đi làm.

Lại một hôm trời chiều, quỷ Hồ Binh Vệ lành bệnh, chạy đến chỗ mã phu tụ họp tìm việc, thấy Vạn Tạng cột ngựa ở đó ngồi khóc.

– Ủa! Vì sao cột ngựa ở đây mà khóc? Chẳng lẽ đau bụng hả? Mau lên một chút đi kiếm việc làm!

– Không! Con không phải đau bụng mà khóc, mà vì hôm nay họ chẳng cho con chở gì cả!

– Sao? Vậy mà khóc hả? Đây là việc thường có, có cách nào khác! Con ăn cơm chưa?

– Không ăn, vì không có việc làm, do đó đem cơm về cho cha mẹ.

– Ôi! Vậy sao? Không có việc thì không ăn cơm à!

– Dạ! Đúng vậy! – Vạn Tạng thật tình đáp.

Hồ Binh Vệ nghe xong rất cảm động và bội phục con mình.

– Con sanh trong nhà ta, một chút cơm là cái được ăn!

Hồ Binh Vệ nói xong, dẫn cậu về nhà. Vợ của Hồ Binh Vệ nghe xong rồi cũng rất buồn bực, liền nướng một mâm cá an ủi cậu. Vạn Tạng ăn cơm xong, không ăn cá.

– Ủa! Sao con không ăn cá? – Cha mẹ đều hỏi cậu thế.

– Vì con không muốn ăn, không biết vì Chỉ nhớ trong nhà mình, quá khứ lúc cha mẹ không biết lạy cái gì, một chút cá thịt cũng không ăn, do đó con cũng không ăn.

Hồ Binh Vệ nghe xong cảm động nước mắt tuôn rơi, từ đó về sau, sửa đổi lòng dạ hung bạo thành Phật Hồ Binh Vệ.

Chú bé Vạn Tạng 8 tuổi này, thật có thể xem là hiện thân của Bồ-tát Quán Thế Âm, tâm quỷ của Hồ Binh Vệ chuyển thành tâm Phật, chính là tà chánh nhất như, chỉ cách bề trong và bề ngoài của một trang giấy mà thôi.

Kế đó, nêu thêm hai sự kiện có thật thị hiện thân đồng nữ:

Cuối đời Mãn Thanh, chính là khoảng Minh Trị Đại Chính của Nhật Bản, Lục-áo Tông Quang được coi là nhà ngoại giao bậc nhất của Nhật Bản, lúc chiến tranh Trung Nhật kết thúc, chính phủ phái ông và Y Đằng Bác Văn đại biểu Nhật Bản cùng đại biểu Mãn Thanh Lý Hồng Chương đến Hạ Quan đàm phán giảng hòa. Lúc ấy cô con gái 17 tuổi của ông đang bệnh liệt giường, bất cứ ai nhìn thấy cũng đều cho là tiểu thư của ông bị bệnh bất trị. Tông Quang đã là đại thần của một nước, lại mang trách nhiệm đàm phán giảng hòa, đương nhiên chẳng thể vì việc riêng ở lại săn sóc con gái mà không lo việc đại sự quốc gia.

Thế là, Tông Quang với vài câu an ủi con gái. Lúc ông lên đường, nén đau gọi người trong nhà lại nói, cho dù có tai biến trọng đại nào cũng không cần báo cho ông.

Lại nói cuộc đàm phán giảng hòa sắp đến lúc ký tên đóng dấu, bỗng nét mặt Tông Quang có chút vẻ khó coi hiện ra, Y Đằng trông thấy rất lo, hỏi ông vì sao.

– Không có, không có gì!

Trong lòng Tông Quang dường như có điều khó nói. Y Đằng càng thêm nôn nóng hỏi dồn. Tông Quang đành kể thật:

– Thật là vì con gái tôi mang bệnh bất trị, nghe nói chúng ta đàm phán sắp xong, trong nhà mới nhắn tin con gái tôi cuối cùng không thể cứu được, trước khi lâm chung có một vấn đề muốn hỏi tôi. Nghĩ đến con gái yêu quý của mình đã biết bệnh mình không trị được, mong nói với tôi một lời, nhưng tôi thân mang trọng trách, hôm nay làm sao về được? Trong lòng phiền não dấy lên, đại khái là hiện lên mặt.

Y Đằng nghe xong rất thông cảm nói:

– Đã sắp ký tên đóng dấu rồi, anh có thể ủy thác cho tôi làm, mau về gặp mặt con gái cưng của anh đi.

Tông Quang vui mừng lên đường trở về. Lại nói tiểu thư thấy cha về, hỏi cha:

– Cha ơi! Con đã biết không cứu được rồi, con sắp chết nhưng sau khi chết con sẽ đi về đâu?

Tông Quang tuy là một nhà chính trị lớn, vấn đề này lại không có cách trả lời. Ông nghĩ đến chính mình tại sao xưa nay không nghĩ đến chuyện này? Dùng sức mình tuy muốn kéo dài mạng sống của con một chút mà cũng không thể được. Nhưng đã là cha con, con gái hỏi sau khi chết đi đâu? Câu hỏi này đáp chẳng ra, như thế thật bi ai! Bây giờ phát giác điều này ngay nằm mộng cũng không nghĩ đến, lại không thể trả lời bậy bạ. Ông nghĩ đi nghĩ lại, cuối cùng nói thế này:

– Cha có thể chẳng biết nói đi đâu, nhưng mẹ con bất cứ việc gì, thậm chí đến sanh và tử cũng đều phó thác cho Bồ-tát Quán Thế Âm. Do đó, đây là điều chẳng lầm, hành tung của con nhất định có Bồ-tát Quán Thế Âm dẫn lối!

Con gái Tông Quang nghe cha nói có vẻ yên lòng chắp tay hướng Bồ-tát Quán Thế Âm rồi nhắm mắt qua đời.

Từ đây về sau, Tông Quang do động cơ này, quy y Phật giáo, thành một người tu hành vĩ đại. Về việc này, Tông Quang cho rằng Bồ-tát Quán Thế Âm hóa thân mở mắt tâm mê mờ cho ông, Tông Quang tin sâu như thế và đem nó công bố cho mọi người.

Lại có một chuyện liên quan đến tình hình này:

Ngày xưa ở chốn nọ có một cặp vợ chồng rất tham lam bỏn xẻn, trong nhà tài sản rất sung túc nhưng sự tình của công chúng xung quanh, họ keo kiệt không giúp ai được một đồng. Cùng người giao tế, bàn đến việc tốn tiền thì không đến nữa. Việc kiếm ra tiền thì chỉ sợ mình không đến trước được.

Dưới gối của vợ chồng này có một cô con gái, xem như con trai, họ thương yêu như ngọc quý trên tay. Tuy tham lam bỏn xẻn, nhưng ngược lại đối với con gái lại chiều chuộng mềm mỏng. Thật là thích gió có gió, thích mưa có mưa, bất cứ cái gì đều kiếm cách làm tròn ý nguyện của con, chẳng để con cảm thấy đau khổ tí nào trong cuộc sống. Họ cứ thế nuông chiều con gái.

Trên đời rốt cuộc việc không vừa lòng lại nhiều. Con gái nhỏ mắc bệnh nằm liệt giường, vì bệnh của ái nữ, họ tìm thầy thuốc cố nhiên khỏi cần nói, hễ việc gì làm được đều hết sức mà làm, chỉ cần làm được là làm, nhưng đều không kiến hiệu. Lúc thọ mạng sắp hết, đây là việc không cách vãn hồi. Bây giờ cô gái nhỏ biết rằng chỉ còn đợi hơi thở cuối cùng. Vợ chồng keo kiệt thấy con mình sắp tắt thở bèn đến bên gối con nói:

– Con cần gì không? Bất cứ vật gì, chỉ cần con nói là cha mẹ sẽ mua cho con.

Cha cô nói thế, cô nương bé nhỏ nọ lập tức đặt cánh tay ốm yếu lên đầu gối cha:

– Cha mẹ nuôi nấng con không có việc gì không như ý Con vốn rất mãn nguyện, nhưng bây giờ lại có một ước muốn, chỉ cần việc này tròn đủ thì con chẳng mong gì nữa.

– Cái gì? Con hãy nói nghe! – Cha mẹ đều khẩn thiết hỏi cô.

– Như thế thì con nói đây! Lúc còn sống, tất cả của cải cha mẹ đều chịu cho con xài, bây giờ con sắp chết, có cách gì đem theo một chút tài sản đó không?

Bị câu hỏi này, vợ chồng biết rõ không thể mang đi, nhưng lại không thể đáp rõ ràng cho cô. Ngay lúc không biết đáp thế nào, vẻ mặt cô gái nằm trên giường dần dần biến đổi, cô tắt thở.

Đôi vợ chồng này nghĩ tới việc không đáp được vấn đề cuối cùng của con gái, trong lòng ôm lấy nỗi dày vò vô hạn. Họ rất áo não, vì sao quá khứ không chú ý đến việc này chút nào? Vì không chú ý đạo lý, do đó lúc con gái có yêu cầu sau cùng, đã khiến họ bó tay hết cách. Nếu như bình thường nghe một chút Phật pháp, lần này chẳng phải có thể giảng trước mặt con gái sao? Đáng hận quá khứ trong lòng chỉ nghĩ đến tiền, tiền, tích trữ tiền! Ngoài ra không biết gì cả, đây là việc rất đáng buồn! Từ đây vợ chồng họ bèn phát tâm thăm viếng cao tăng học đạo, giống như được sanh lại lần nữa, sau đó trở thành một nhà đại từ thiện.

Cô nương nhỏ bé này chính là dùng thân đồng nữ thuyết pháp cho cha mẹ, đích xác có thể xem là hóa hiện của Bồ-tát Quán Thế Âm.

Phẩm 27 trong kinh Pháp Hoa có ghi hai người là thái tử Tịnh Tạng, Tịnh Nhãn, khuyên cha mẹ tiến vào Phật đạo, dùng đồng nam đồng nữ làm duyên, khiến cha mẹ phát tâm Bồ-đề, điều này kể ra không ít.

c- Thân Bát Bộ, Thân Chấp Kim Cang

Ưng dĩ Thiên, Long, Dạ-xoa, Càn-thát-bà, A-tu-la, Ca- lâu-la, Khẩn-na-la, Ma-hầu-la-già, nhân, phi nhân đẳng thân đắc độ giả, tức giai hiện chi nhi vị thuyết pháp.

Phần trước là thuyết pháp cho người, từ đây là hiện thân thuyết pháp cho Long Ca-la Bộ. Thiên long bát bộ còn gọi là Bát bộ long thần, vì Thiên long đứng đầu trong 8 bộ chúng. 8 bộ là:

– Trời, 2- Rồng, 3- Dạ-xoa. 4- Càn-thát-bà, 5- A- tu-la, 6- Ca-lâu-la, 7- Khẩn-na-la, 8- Ma-hầu-la-già.

Bây giờ giải thích từng bộ như sau:

– Trời: là dịch âm của chữ Đề-bà, có 6 trời cõi Dục và các trời cõi Sắc và Vô sắc.

Pháp Hoa Luận nói: “Thanh tịnh trong sáng, tối tôn tối thắng nên gọi là trời. Đây là gọi chung các Thiên bộ cõi vui ngoài Đế Thích, Tự Tại Thiên, Tỳ sa môn thiên ra.

– Rồng: tiếng Phạn là Na-già, là vua của loài cầm thú dưới nước. Thân rồng ẩn hiện tự tại khắp nơi. Kinh Pháp Hoa có kể tên 8 vua rồng lớn.

– Dạ-xoa: Đây là quỷ mạnh mẽ, quỷ bạo ác, loài quỷ có thể phi hành trên hư không.

– Càn-thát-: Tiếng Phạn là Ngạn-thát-phược, dịch thành nhiều thứ không đồng: tầm hương, thực hương, khướu hương, hương thần, dùng mùi thơm làm thức ăn, tấu kỹ nhạc hầu Đế Thích, thường ở phía Nam núi Tu-di, trong hang Kim Cang, có thể phi hành trên hư không.

– A-tu-la: Chính âm nên đọc là A-tố-lạc, dịch là phi thiên, quả báu của họ giống như trời mà không phải trời là một loại quỷ thần, cũng dịch là không đoan chính, nghĩa là đàn ông thì xấu, đàn bà đẹp đẽ, còn dịch là không rượu, vì đời trước thích rượu, mà không thể tùy thuận ý mình, nên giữ giới không uống rượu. A-tu-la, rất nhiều nơi gọi tắt là Tu-la.

Tu-la đời trước tuy cũng tu Ngũ giới, Thập thiện, nhưng họ có tâm ngã mạn lấn lướt người khác, niệm đố kỵ rất mạnh, sau khi chết liền thành A-tu-la, hay ganh ghét với trời Đao Lợi, nên hằng có chiến đấu, thường chịu khổ vạc đồng, kiếm kích…

Người thế tục dễ dàng nổi giận gọi là bị lửa giận Tu-la thiêu đốt, là từ đây mà ra. Tu-la không nhất định là ở trên trời, loài người khắp nơi đều có Tu-la.

– Ca-lâu-la: là một quái điểu trong thần thoại Ấn Độ, âm tiếng Phạn là Yết-lộ-trà, dịch là Chim cánh vàng hay Diêu xí điểu; còn gọi là Ca-lâu-la vương, tức là vua các loài chim ở trong Đại Thiết Thọ phương bắc núi Tu-di, lông cánh màu vàng, hai đầu cánh cách nhau 336 dặm. Ngày ngày đi tuần 4 thiên hạ ở núi Tu-di, bắt rồng mà ăn. Trên đầu có đeo châu như ý, thường phun lửa mạnh, do đó còn có tên là Ca-lâu-la viêm.

– Khẩn-na-la: Chính âm tiếng Phạn là Kililmara, dịch là Nghi nhân hay Nghi thần vì hình người mà trên đầu có một sừng, người trông thấy thường nghi là giống như người hay không phải người, nên có tên này, là nhạc thần của Đế Thích, hay dùng ca múa hầu hạ Đế Thích, hình dáng hơi giống thân người đầu ngựa, thân chim đầu người.

– Ma-hầu-la-già: chính âm là Mâu-trá-lạc-ca, dịch là Đại Phúc Hành hay Mãng thần, là hình người đầu rắn.

Tám bộ trời rồng đã nói như trên. Những bộ này xưa nay đều xuất phát từ thần thoại Ấn Độ. Vì người Ấn Độ trước khi Phật ra đời, đều lấy những vị này làm đối tượng thờ phượng. Do đó, sau khi Phật thành đạo, quán căn cơ để thuyết pháp, tùy duyên nhiếp hóa, tất cả ác ma, thần, quỷ, tướng trời, trong Phật giáo đều bao dung hết, để ban cho họ cơ hội tiến vào đại đạo chân chính.

Câu “nhân phi nhân đẳng” là gọi chung 8 chúng này. Trong 8 bộ chúng, có chúng giống người mà lại không phải là người như Khẩn-na-la, Ma-hầu-la-già. Có chúng hoàn toàn không phải người như rồng… do đó nói “người và không phải người…”

Ở trên đã nói, chính là hiển thị núi sông đất đai, hữu tình vô tình, bất kể là vật gì đều là đối tượng để Bồ-tát Quán Thế Âm Phổ Môn thị hiện giáo hóa.

Ưng dĩ Chấp Kim Cang thần đắc độ giả, tức hiện Chấp Kim Cang thần nhi vị thuyết pháp.

Chấp Kim Cang thần, tiếng Phạn là Bạt-xà-la ba-nị. Bạt-xà-la dịch là Kim Cang, Ba-nị dịch là Thủ (tay). Vì tay cầm chày Kim Cang, do đó gọi là Chấp Kim Cang thần hoặc gọi là Kim Cang Mật Tích thiên, Kim Cang Thủ, Kim Cang Lực Sĩ… vì thống lãnh 500 Dạ-xoa, do đó còn gọi Kim Cang Dạ-xoa.

Đây có thể gọi là thần thủ hộ Phật giáo. Ở bên cửa lớn của chùa chiền có thờ hai vị vua, bên phải là Kim Cang thần, bên trái là Mật Tích Lực Sĩ. Mặt phải biểu thị thiện, mặt trái biểu thị sự đoạn hoặc. Do đó mặt phải mở miệng thành chữ “A”, mặt trái ngậm miệng thành chữ Hống. Đây gọi là hai tướng A Hống. Kỳ thực là một vua biến hóa, hai vua thực tại là một thể.

Nói tóm lại, ý Bồ-tát Quán Thế Âm hiện tướng vị thần này mà thuyết pháp. Kim Cang là kiên cố, nếu như dùng sự kiên cố này đoạn trừ lậu hoặc sanh thiện thì tinh thần nhất trí, việc gì chẳng thành? Mặc cho khó khăn thế nào, sức kiên cố kim cang cũng phá tan được.

Chấp Kim Cang chỉ là biểu hiện nhân cách kiên nhẫn khó lay chuyển.

Ở trên là 33 thân, 19 thuyết pháp nổi tiếng của Bồ-tát Quán Thế Âm, đến đây đã xong. 33 thân từ hiện thân Phật thứ nhất đến hiện thân thần Chấp Kim Cang cuối cùng, có 33 thân chia làm 19 lần thuyết pháp. Kỳ thực, theo lý mà giảng thì chẳng hạn cuộc ở 33 thân, 33 thân là chỉ ý nghĩa vô tận. 33 thân, 19 thuyết pháp, theo đồ biểu sau:

33 thân, tức 19 thuyết pháp, tức như trên đã nói.

Ở trước đã nói, 33 thân là chỉ số nhiều, không phải chỉ cho 33 thân này. Chúng ta có thể xem là tất cả sự tướng trong vũ trụ cái có thể khai phát chúng ta sanh tâm đại từ bi, đại trí tuệ, đại dũng mãnh, đều là thị hiện của Bồ-tát Quán Thế Âm.

Vô Tận Ý! Thị Quán Thế Âm Bồ-tát, thành tựu như thị công đức. Dĩ chủng chủng hình, du chư quốc độ, độ thoát chúng sanh.

Mặt trước từ hiện thân Phật đến hiện thân thần Chấp Kim Cang là thị hiện sự hiện thân mỗi mỗi chẳng đồng của Bồ-tát Quán Thế Âm, đó gọi là đáp riêng, đoạn này là đáp chung. Đức Phật đáp chung rằng: “Vô Tận Ý! Bồ-tát Quán Thế Âm thành tựu công đức lớn như mặt trước thị hiện, hiện các thứ thân hình, dạo các thế giới mười phương, độ thoát tất cả chúng sanh”.

33 thân là thị hiện số vô lượng. Đến một câu “dùng các thứ thân hình” trong đoạn văn này cũng có thể thấy rõ.

Xưa nay, bản địa của Bồ-tát Quán Thế Âm đã sớm là Phật Chánh Pháp Minh, pháp thân trùm khắp ba ngàn đại thiên thế giới. Quán Thế Âm vốn đã sớm thành Phật, ứng với niệm của chúng sanh, phân thân hóa hiện, vì là xứ xứ thân do đó xứ xứ hiện, giống như một vầng trăng sáng trên bầu trời, muôn sông muôn hiện. Đây tức là nói không những là 33 thân, không những là 19 thuyết pháp, Bồ-tát Quán Thế Âm có thể hiện mấy ngàn mấy trăm ức muôn thân, có thể thuyết mấy ngàn mấy trăm ức muôn pháp. Trong kinh Kim Quang Minh nói: Chân pháp của Phật, giống như hư không, ứng vật hiện hình, như mặt trăng trong nước.

Đây chính gọi là “dùng các thứ thân hình, dạo các cõi nước, độ thoát chúng sanh”.

2- Anh Lạc Cúng Dường

Thị cố nhữ đẳng ưng đương nhất tâm cúng dường Quán Thế Âm Bồ-tát, thị Quán Thế Âm Bồ-tát ma-ha-tát, ư bố úy cấp nạn chi trung. Năng thí vô úy, thị cố thử Ta-bà thế giới, giai hiệu chi vi thí vô úy giả.

“Thế nên” là lời nương ở trên để bắt đầu đoạn dưới, Bồ-tát Quán Thế Âm vì có các thứ công đức như trên, do đó đức Phật khuyên chúng sanh nên một lòng cúng dường Bồ-tát Quán Thế Âm. Cái “một lòng” này như trước đã nói rất là quan trọng.

Nếu như không phải một lòng, thì tinh thần tản mạn chẳng thể được mười phần công đức của Bồ-tát. Tâm nếu chuyên ý thì tinh thần tập trung, cần gì ứng nấy.

Cái “một lòng” này chính là tâm của Bồ-tát Quán Thế Âm. Nếu như miệng thường niệm thánh hiệu Bồ- tát Quán Thế Âm, ý thường suy nghĩ từ bi của Bồ-tát Quán Thế Âm, thân thường có đủ thành ý cung kính lễ bái, thì ba nghiệp thân miệng ý của chúng ta cùng với ba nghiệp thân miệng ý của Bồ-tát Quán Thế Âm nhất trí. Đem Bồ-tát Quán Thế Âm trong tâm chúng ta gọi dậy. Tâm chúng ta và tâm Bồ-tát Quán Thế Âm hợp nhất, đem tâm này để cúng dường.

“Cúng dường” nghĩa là cung cấp giúp nuôi dưỡng, mặt này bao hàm có nhiều cách, bây giờ cái muốn nói là ba nghiệp cúng dường. Trong Pháp Hoa Văn Cú nói: Thân nghiệp cúng dường là lễ bái, khẩu nghiệp cúng dường là xưng tán, ý nghiệp cúng dường là quán tưởng tướng tốt. Trong kinh Đại Đồng lại chia ra lý cúng dường và sự cúng dường. Hiểu lý mà chứng nhập gọi là lý cúng dường, cúng hương hoa quả phẩm… gọi là sự cúng dường. Lý và sự, sự và lý, viên dung vô ngại. Nếu như tâm hội được lý, thì thân hiện sự. Nếu như thân hiện sự thì tâm hội lý. Lý và sự nhất trí, tâm và thân nhất như, mới đủ nghĩa thành ý cung kính.

Tiếp theo là giải thích “Quán Thế Âm Bồ-tát ma- ha-tát”. Ma-ha là lớn, do đó còn gọi Bồ-tát Quán Thế Âm là Đại Bồ-tát. “Bố úy” nghĩa là rất sợ sệt khủng khiếp. “Cấp nạn” là một loại khó khăn rất khó ứng phó. Nếu như lúc chúng ta ở chỗ sợ hãi, bị giam hãm chỗ khó khăn, dưới trạng thái tới lui đều cùng đường, Bồ-tát Quán Thế Âm này sẽ có thể ban cho chúng ta sự không sợ hãi, do đó ở thế giới Ta-bà này, sợ hãi bí lối đầy dẫy trong đây. Trong thế giới sợ hãi quá nhiều này, khiến chúng ta được một chút an tâm đều là do Bồ-tát Quán Thế Âm ban cho. Trong kinh Đại Phật Đảnh Thủ Lăng Nghiêm, Bồ-tát Quán Thế Âm bạch Phật rằng: “Bạch Thế Tôn! Con lại dùng cái nghe này huân văn – tu, Kim Cang tam-muội, Vô tác diệu lực, cùng tất cả chúng sanh trong sáu đường thuộc ba đời ở khắp mười phương đồng bi ngưỡng, khiến các chúng sanh ở thân tâm con được 14 loại công đức vô úy.

Trong 14 loại vô úy này, loại trọng yếu nhất lại là dùng đức đại trí tuệ, đại từ bi, đại dũng mãnh làm tất cả việc. Nếu có thể như thế, tức đã có thể thư thái chẳng sợ.

Nếu dùng trí tuệ, hiểu được đạo lý thật tướng của các pháp. Trên từ bi, có bác ái mình người bình đẳng; trên dũng mãnh có tinh thần chiến thắng bất cứ khó khăn nào. Có sự giác ngộ này, trên thế gian chẳng còn sợ hãi nữa. Bồ-tát Quán Thế Âm có thể khiến chúng sanh đến được an định này, nên gọi là “Thí vô úy”.

Phật giáo nói bố thí chia làm 3 loại:

1- Tài thí: Ban cho vật chất có hình tướng.

2- Pháp thí: Ban cho chân lý vô hình.

3- Vô úy thí: Khiến cho trên vật chất, trên tinh thần được an tâm không sợ sệt.

Bất kể tài thí, pháp thí đều không thể rời vô úy mà đạt được mục đích.

Bồ-tát Quán Thế Âm dùng vô úy này bố thí, có thể khiến chúng ta an thân lập mạng, nên ở đây phải nhất tâm cúng dường.

Vô Tận Ý Bồ-tát bạch Phật ngôn: “Thế Tôn! Ngã kim đương cúng dường Quán Thế Âm Bồ-tát”, tức giải cảnh chúng bảo châu anh lạc giá trị bách thiên lượng kim, nhi dĩ dữ chi, tác thị ngôn: “Nhân giả! Thọ thử pháp khí trân bảo anh lạc.”

Bồ-tát Vô Tận Ý nghe công đức rộng lớn của Bồ-tát Quán Thế Âm như trên đã nói, nhân đây bạch với đức Phật: “Con muốn cúng dường Bồ-tát Quán Thế Âm”. Nói xong, bèn cởi anh lạc giá trị cao quý có gắn bảo thạch dâng lên Bồ-tát Quán Thế Âm, thưa: “Nhân giả! Mong Ngài nhận món pháp thí này!” “Anh lạc” là vật trang sức làm đẹp thân của Ấn Độ . Trên đầu gọi là “anh”, trên thân gọi là “lạc”, phẩm chất y theo thân phận mà có nhiều loại khác nhau. Căn cứ phong tục này, Phật Bồ-tát cũng dùng nó để trang nghiêm.

Nhưng theo lý của đoạn văn kinh này mà quan sát hoàn toàn không phải là chỉ bảo thạch bằng vàng bạc chạm trổ hữu hình, Bồ-tát Vô Tận Ý nhiều kiếp tích lũy công đức vô tận, anh lạc trang điểm trên thân Bồ-tát chẳng qua là lấy để ví dụ mà thôi.

Do đó, Bồ-tát Vô Tận Ý đem anh lạc dâng cho Bồ-tát Quán Thế Âm đều không phải tài thí hữu hình, mà là pháp thí vô hình, nên trong kinh gọi là pháp thí, trân bảo anh lạc trong kinh thường lấy anh lạc dụ cho công đức. Kinh Bổn Nghiệp Anh Lạc nói: “Ánh sáng là trăm vạn a-tăng-kỳ công đức, anh lạc là ánh sáng, trang điểm thân Phật.”

Lại nói: “Tất cả Bồ-tát, dùng anh lạc công đức, trang nghiêm hai loại pháp thân của Bồ-tát.”

Hai loại pháp thân tức là lý pháp thân và trí pháp thân. Trí pháp thân là giác ngộ nương sức tu hành mà mài luyện ra. Lý pháp thân là đức tánh của chân như sẵn có đầy đủ xưa nay. Đức của chân như tuy người người vốn có, chẳng ai không có, nhưng không tu trì thì không thể chứng được. Cái đạt được do nương tánh khởi tu là trí pháp thân.

Lý pháp thân xưa nay là giác, tức là Bản giác, nhưng ánh sáng của Bản giác ẩn dấu, nếu dùng sức tu hành tức được Thủy giác; Trí pháp thân tức là Thủy giác đạt được. Nhưng nếu chứng giác đến thủy – bổn không hai; lý – trí nhất như, hai loại pháp thân này bèn hợp làm một. Hiện tại Vô Tận Ý đại biểu trí tuệ vô tận, Quán Thế Âm hiển thị từ bi rộng lớn, do đó đem công đức của phương tiện trí tuệ tích tụ vô tận, lại hiển hiện cúng dường cho từ bi quảng đại vô biên; cũng chính là dùng trí tuệ của Vô Tận Ý cấp cho Quán Thế Âm đại từ bi.

“Nhân giả” là người muôn hạnh đại bi, tức là Bồ- tát, chỗ này chỉ ngài Quán Thế Âm.

Một tiết Vô Tận Ý đem anh lạc cúng dường, kinh Duy Ma là chú cước bộ Phổ Môn Phẩm này. Giải thoát không nghĩ bàn của Duy-ma chính là sức diệu trí của Quán Thế Âm, Duy-ma-cật chính là Quán Thế Âm hiện thân cư sĩ thuyết pháp. Tiết này cùng lúc cuối của phẩm Bồ Tát thứ tư của kinh Duy-ma, trưởng giả Thiện Đức đem anh lạc tặng cư sĩ Duy-ma, hoàn toàn giống nhau.

Một chương Thiện Đức trong kinh Duy-ma, Duy- ma-cật là đối thủ của trưởng giả Thiện Đức. Có lần trong nhà trưởng giả Thiện Đức bày 7 hội bố thí cúng dường tất cả Sa-môn, Bà-la-môn và các ngoại đạo, người nghèo, thấp hèn, cô độc, ăn mày, đây là tài thí.

Duy-ma liền hướng trưởng giả Thiện Đức khai thị rộng lớn về lợi ích pháp thí. Trưởng giả Thiện Đức nghe xong sanh tâm thanh tịnh, hoan hỷ vô lượng, liền cởi anh lạc bảo châu giá trị trăm ngàn lạng vàng dâng cho Duy-ma, biểu thị lợi ích lớn do lìa tài dục, ưa thích pháp thí.

Trong bộ Phổ Môn Phẩm này, một tiết Vô Tận Ý cúng dường, Bồ-tát Quán Thế Âm mở cửa đại bi, để dạy pháp thí lớn, do đó Vô Tận Ý bèn sanh lòng cảm tạ, đem anh lạc bảo châu hữu hình của chính mình, dâng Quán Thế Âm. Anh lạc này như mặt trước đã nói, nên xem là công đức tích lũy.

Thời Quán Thế Âm Bồ-tát bất khẳng thọ chi. Vô Tận Ý phục bạch Quán Thế Âm Bồ-tát ngôn: “Nhân giả! Mẫn ngã đẳng cố, thọ thử anh lạc.”

Bồ-tát Vô Tận Ý thành tâm thành ý đặc biệt đem anh lạc tặng cho Bồ-tát Quán Thế Âm, Bồ-tát Quán Thế Âm chẳng chịu tiếp nhận, vì sao mà không chịu nhận? Vì cái người thường mong muốn là tài vật, là danh dự, ở đây Bồ-tát Quán Thế Âm không chịu nhận, một mặt là biểu thị không tham của báu này, tất yếu là Bồ-tát Quán Thế Âm thật không có cầu. Từ phương diện Bồ-tát Quán Thế Âm mà nhìn, Ngài có đủ công đức vô lượng vô biên, công đức của anh lạc ấy sớm đã nghiêm sức thân mình. Ở phương diện con người mà nhìn, bất cứ ai cũng đều có giữ báu Phật tánh vô giá, hoàn toàn không có cái gì cho và nhận để nói. Trên cảnh giới bình đẳng tuyệt đối mà xem thì không có ghét yêu lấy bỏ tương đối nào để nói. Vì để bày rõ lý này, do đó chẳng chịu tiếp nhận.

Nhân đây Bồ-tát Vô Tận Ý lại dâng lên nói: “Vì thương xót chúng con, xin thỉnh Ngài tiếp nhận cho!” cảnh tương đối phân biệt ta và người mà nhìn, Bồ-tát Quán Thế Âm chẳng cần cũng chưa thể biết, nhưng vì thương xót tất cả chúng sanh lại thỉnh Ngài nhận, Ngài cũng nhân đây mới chịu tiếp nhận.

Giáo nghĩa của Phật giáo, là phá trừ cái có sai biệt tương đối, là Giả đế – nhân duyên sanh ra, từ giả đế mà tiến vào Không đế – bình đẳng tuyệt đối, lại từ Không đế đó tiến vào Trung đế – thật tướng của các pháp. Từ “có” tiến đến “không” là cửa Trí tuệ, từ “không” vào “có” là cửa Từ bi, do trí tuệ không nhận cái này, do đó vì sự thỉnh cầu khẩn thiết của chúng sanh mà nhận là hiển thị từ bi.

Nhĩ thời Phật cáo Quán Thế Âm Bồ-tát: “Đương mẫn thử Vô Tận Ý Bồ-tát, cập Tứ chúng, Thiên, Long, Dạ-xoa, Càn-thát-bà, A-tu-la, Ca-lâu-la, Khẩn-na-la, Ma-hầu-la-già, nhân phi nhân đẳng cố, thọ thị anh lạc.” Tức thời Quán Thế Âm Bồ-tát, mẫn chư tứ chúng, cập dữ Thiên long nhân phi nhân đẳng, thọ kỳ anh lạc, phân tác nhị phần: nhất phần phụng Thích-ca mâu-ni, nhất phần phụng Đa Bảo Phật tháp.

Vào lúc này, Phật bảo Bồ-tát Quán Thế Âm: “Nên thương xót Bồ-tát Vô Tận Ý, và bốn chúng Trời, Rồng, Dạ-xoa, Càn-thát-bà, A-tu-la, Ca-lâu-la, Khẩn-na-la, Ma-hầu-la-già, nhân, phi nhân… nhận anh lạc này.”

Bốn chúng tức là Tỳ-kheo, Tỳ-kheo ni, Ưu-bà-tắc, Ưu-bà-di. Trời, Rồng… là tám bộ chúng, mặt trước đã nói qua rồi, ở đây không nói lại nữa.

Tóm lại, đó là Quán Thế Âm vì lợi mình mà không nhận một vật; vì chúng sanh, vì lợi người lại không được từ chối, do đó đành nhận nó. Rồi lại chia làm hai: Một phần dâng cho Phật Thích-ca Mâu-ni, một phần dâng tháp Phật Đa Bảo. Nhưng tháp Phật Đa Bảo này là nói cái gì? Trong phẩm Hiện Bảo Tháp thứ mười của kinh Pháp Hoa, nói từ đại địa vọt lên tháp Phật Đa Bảo, trong đó có Phật tên Đa Bảo.

Tháp Phật Đa Bảo này là pháp thân Phật, bản thể vũ trụ được nhân cách hóa, cũng tức là lý thể. Phật Thích-ca Mâu-ni thể đắc được lý thể này mà hiện sự tướng, do đó một là lý Phật, một là sự Phật. Về nguyên nhân chứng đắc ấy, một là đoạn diệt tất cả phiền não mà tiến nhập Niết-bàn, kế đó là viên mãn nhất thiết chủng trí mà thành tựu Bồ-đề. Theo hai nghĩa sự lý mà nhìn, tháp Phật Đa Bảo là lý Phật của Pháp thân, tức là lý thân của Bản giác; Phật Thích-ca Mâu-ni là sự Phật của Báo thân, tức là trí thân của thủy giác.

Tuy có thể giải thích như thế, nhưng trên thực tế, sự lý là cái không thể chia làm hai, đây là trong thực tướng các pháp viên dung, có chân lý trung đạo. Rõ ràng điều này thì vũ trụ quan là như sau:

Đối với Phật mà nói, có thể xem như sau:

Như trước đã nói lúc thân Phật chia làm ba thân, Phật Thích-ca Mâu-ni là Ứng thân, bây giờ nói Phật Thích-ca Mâu-ni là Báo thân, chẳng khỏi khiến người hoài nghi. Đây vì ứng hiện ở thế giới Ta-bà, khiến Phổ Môn lợi ích chính là Bồ-tát Quán Thế Âm, do đó có thể xem là ngoài thể và tướng có thêm dụng:

Hiện tại anh  lạc  chia làm 2 phần: Một phần dâng tháp Phật Đa Bảo, một dâng Thích-ca Mâu-ni. Bồ-tát Quán Thế Âm là Ứng thân này đem anh lạc dâng cho lý Phật pháp thân, sự Phật báo thân, để biểu thị 3 thân 1 thể, có thể giải thích như thế.

Ở đây có một nghi vấn: Bồ-tát Quán Thế Âm vì bốn chúng tám bộ mà nhận, cần phải chia ra cho bốn chúng tám bộ mới đúng, sao lại đem dâng tháp Phật Đa Bảo và Phật Thích-ca? Phải biết đây đã là vì bốn chúng tám bộ mà nhận, chỉ nhân vì muốn bốn chúng tám bộ thảy đều ngộ nhập lý ba thân tức một, do đó mới chia thành hai phần, từ tay Bồ-tát Quán Thế Âm ứng thân dâng lên tháp Phật Đa bảo pháp thân và Phật Thích-ca Mâu-ni báo thân. Đây tức là tam thân nhất như, không chia kia đây. Từ đồng một tâm Phật này mà nói, trên tâm của chúng ta bèn hiện có ba thân này. Do đó đại sư Lâm Tế nói:

“Ánh sáng thanh tịnh trên một niệm của ông là Phật pháp thân trong nhà ông.

Ánh sáng không sai biệt trên một niệm tâm của ông là Phật báo thân trong nhà ông.

Ánh sáng sai biệt trên một niệm tâm của ông là Phật hóa thân trong nhà ông.”

Ánh sáng thanh tịnh là lý Bản giác bình đẳng. Chúng sanh chúng ta nhân vọng chấp sai biệt mà mờ lý này, không thể chứng được cảnh giới ấy. Trí bình đẳng phá vỡ sai biệt này là ánh sáng không sai biệt. Ánh sáng không sai biệt này lại ở trên tâm bình đẳng, xét xem trở lại sai biệt của chúng sanh mà ứng cơ giáo hóa, là ánh sáng sai biệt. Nhân đây, ánh sáng sai biệt là từ bi, ánh sáng không sai biệt là trí tuệ, do đây mà có thể thành tựu đức của pháp thân.

Tâm, ví như một mặt gương xưa nay có đủ ánh sáng, đây chính là ánh sáng thanh tịnh của Pháp thân. Nhưng nhân vì chúng sanh có tro bụi vô minh phiền não che lấp ánh sáng vốn có của gương. Do đó cần dùng trí tuệ tu hành phủi đi tro bụi kia, cho đến không còn một chút tối tăm, tức là ánh sáng không sai biệt của Báo thân. Nhưng, chỉ có ánh sáng mà không dùng thì cái gương này cần để làm gì? Do đó cái gương cần ánh hiện sai biệt của sum la vạn tượng mới có đủ công dụng của gương. Đây chính là ánh sáng sai biệt của Ứng thân (còn gọi là Hóa thân). Ở trên chân không vô sai biệt, có diệu hữu sai biệt. Đây gọi là “chân không diệu hữu”. Chân không diệu hữu này, chính là trí tuệ của Bồ-tát Quán Thế Âm, chính là từ bi của Bồ-tát Quán Thế Âm.

Vô Tận Ý! Quán Thế Âm Bồ-tát, hữu như thị thần lực, du ư Ta-bà thế giới.

Đức Phật giảng đến đây lại kêu Bồ-tát Vô Tận Ý – người thưa hỏi – mà bảo với Ngài, Bồ-tát Quán Thế Âm dùng thần lực tự do tự tại không thể nghĩ bàn như trên đã nói mà dạo chơi ở thế giới Ta-bà này. Dùng chữ “dạo chơi” của câu “Dạo chơi ở thế giới Ta-bà này” để tóm kết, lại rất có ý nghĩa.

Chúng sanh chúng ta ở thế gian lúc hành từ bi, trọn có chút phần miễn cưỡng, chẳng thể nói dạo thế giới một cách thảnh thơi. Nhưng Bồ-tát lúc hành từ bi, xả bỏ tất cả báo thù, chỉ có hoan hỉ, không có miễn cưỡng, Bồ-tát vui với công tác vì đời vì người. Do đó dùng chữ “dạo chơi” này là thích đáng không gì hơn.

Ở trên là giảng xong trường hàng thể tản văn. Tiếp theo giảng đến kệ tụng thể văn vần. Nhìn chung thì kệ tụng đều là lặp lại văn trường hàng.