THẾ GIỚI QUAN PHẬT GIÁO
THÍCH MẬT THỂ
- 01. Tựa
- 02. Phật Giáo
- 03. Phật Giáo Với Vấn Đề Nhân Sinh
- 04. Phật Thích Ca Là Hiện Thân Cứu Khổ Của Nhân Loại
- 05. Nhận Thức Luận
- 06. Phật Thân Luận
- 07. Kết Luận
PHẬT THÂN LUẬN
Do những chương trên, ta đã nhận thấy vũ trụ có một bản thể rộng lớn và trí tuệ của ta có thể thực chứng được bản thể ấy. Song trạng thái sau khi ngộ nhập bản thể như thế nào là cái không không, không gì cả, hay là một cảnh giới quang minh vô hạn trong đó ta sẽ hưởng được cảnh giới vô biên.
Nghiên cứu vấn đề này tức là bàn tới Phật Thân và Phật Độ (cõi Phật).
Muốn hiểu Phật Thân như thế nào? Ta phải hiểu nghĩa chữ Thân.
Chữ Thân có hai nghĩa:
1) Bản thể
2) Tập hợp
Bản thể là nương tựa để cho cái khác nương tựa vào đó mà có. Ví dụ như thân cây là bản thể cho những hoa lá nương tựa vào đấy mà được nảy nở; Thân người là bản thể cho tóc, răng, móng tay… nương tựa vào đấy mà sinh trưởng.
Nghĩa thứ hai là tập hợp tức chứa nhóm, hoặc kết tụ. Như thân cây do nhiều nguyên tử, tế bào hợp lài mà thành (theo nghĩa khoa học) cho đến thân người cũng thế, phải do nhân duyên hoà hợp chứa nhóm mà sinh.
Phật Thân có 3:
1._ Pháp Thân
2._ Báo Thân
3._ Hoá Thân
Thế nào là Pháp Thân? – Pháp thân tức là bản thể rộng lớn vô biên của vũ trụ, bản thể ấy là nương tựa, hay là căn nguyên sinh ra các pháp (tức vạn hữu theo nghĩa phổ thông của Phật gọi là pháp) nên gọi Pháp thân. Lại theo ý nghĩa từng nơi trong Phật giáo còn dùng những danh từ: Pháp giới, Chân như. Thật tế, Phật tính, Tự tính, Thanh tịnh tâm, Vô lượng quang, Như thị v.v. để chỉ rõ về bản thể ấy.
Bản thể pháp thân tất cả chúng sanh đều có. Như trong kinh Phật dạy:”Hết thảy chúng sanh đều có Phật Tánh“.
Lại trong Kinh Pháp Hoa nói:”pháp ấy bình đẳng không có cao thấp“. Pháp ấy là gì ? – Tức là Bản thể, là Pháp thân, chẳng qua trí thức ta đã bị nhiều lớp vô minh che phủ khiến không có trí tuệ thấu triệt rộng khắp để ngộ nhập bản thể, mê và ngộ khác nhau ở chỗ đó, mà cũng vì thế phải lưu chuyển sinh tử.
Thế nào gọi là Báo Thân? – Báo nghĩa là đáp lại, hễ cái gì đã có nhân thì tất có quả; Nhân lành thì quả tốt, nhân dữ thì quả xấu. Quả tức là sự đáp lại của nhân, nhân là cái để sinh ra quả. – Các đức Phật nguyên trước cũng là chúng sinh , song các Ngài biết mình có bản thể pháp thân, đó là cái nhân chân chính để thành Phật, nên căn cứ vào đấy mà tu tập, trải qua bao số kiếp tiêu sạch những mê vọng ám chướng, phúc tuệ đầy đủ, chứng được bản thể chân như, cảm được báo thân tốt đẹp trang nghiêm, như trong kinh nói: “Thân của Phật là từ trong pháp giới trong sạch thanh tịnh tâm mà sinh ra, từ vô lượng công đức trí tuệ mà sinh ra, từ sáu phép ba-la-mật mà sinh ra, từ từ bi, hỷ xã mà sinh ra“.
Vậy cho biết thân của Phật bởi kết tụ bao nhiêu trí tuệ, đức tính lành tốt trong vô lượng kiếp, mà Ngài đã xả thân vì Đạo, hy sinh vì lợi ích cho chúng sanh, ấy là phúc quả đáp lại của cái nhân tu hành chân chính. Nhân đã căn cứ vào bản thể rộng lớn vô biên thì quả cũng sẽ cùng thời gian vô cùng vô tận! mà đã có thân ắt có độ. Nên cõi Phật là cõi thanh tịnh trang nghiêm, là cảnh giới siêu phàm đầy sự an lành giải thoát.
Thế nào gọi là Hoá Thân? – Hóa là ứng hóa, hoặc biến hiện, các đức Phật sau khi đã tu hành chứng ngộ được chân lý, trở về bản thể pháp thân, tức là trí tuệ và vật chất đã chung hoà lẩn nhau, nên bấy giờ diệu dụng vô cùng, muốn hoá ra thân này thân khác, cùng ngàn muôn ức thân, tùy theo nhu cầu của chúng sinh, căn cơ như thế nào mà thuyết pháp hóa độ, như trong kinh nói: “Đức Phật Thích Ca hiện thuyết pháp ở cõi này, đồng thời ở thế giới khác cũng có hóa thân của Ngài, hoặc đương ngồi ở bên gốc cây bồ đề tọa thiền nhập định, hoặc đương ở pháp toà thuyết pháp giáo hóa v.v.” Ta chớ lấy làm lạ, khi nói hoá thân của Phật hay Bồ tát, mà cho là chuyện huyền hoặc gì đâu, đó chỉ là các Ngài đã đi đến một trình độ tinh vi của vất chất và tư tưởng. Vì tư tưởng và trí tuệ đã sáng suốt và giác ngộ hoàn toàn không còn những ám chướng mê lầm phiền não. Về vật chất thì đã dung hoà với bản thể không có cái hình xác ù lì đầy cặn bã đúc nặng như thân thể của chúng ta bây giờ. Nên mọi sự tác động của các Ngài đã diễn kịp theo sức tư duy không còn có cái gì ngăn ngại nữa. Ví dụ như tôi muốn đi ra Hà Nội để thăm người bà con chẳng hạn. Nếu như thân xác tôi là vật chất ù lì, sự hành động không được mau như ý muốn nên đã mất một ngày rưỡi, ngồi lì trên chiếc tàu hỏa, hay một tháng trường kéo từ Huế ra Hà nội, nếu đi bộ. Trái lại nếu vật chất tôi đã được tinh vi, tác động theo kịp sức tư duy, thì chỉ trong nháy mắt tôi đã tới Hà nội ngay.
Chúng ta đã từng thấy những nhà huyền thuật đứng trước công chúng làm những trò huyễn hoá. Đối với người thông thường không hiều gì, thì mỗi mỗi trò của nhà huyền thuật làm ra đều cho là quái dị và huyễn hoặc lắm. Song nếu ta có thực hành tập trung tư tưởng, hay sự luyện tập như nhà huyền thuật kia, thì những trò huyền thuật ấy có khó gì. Vậy hóa thân chỉ là tác động hay diệu dụng của những bậc tu hành sau khi đã chứng ngộ chân lý.
Chúng ta có pháp thân và có báo thân, có Vị Bồ tát có đủ ba thân, song chưa được viên mãn, chỉ có Phật mới đầy đủ cả ba thân.
Tóm lại, tuy chia ra ba thân là để cho chúng ta dễ hiểu, dễ cảm nhận, chứ thực ba thân vốn là một thể; hóa thân hay báo thân đều là diệu dụng của Chân như, vốn từ trong thể pháp giới thanh tịnh trong sạch mà phát hiện ra, cũng như sóng tức là nước, nước tức là sóng, hai cái không thể rời nhau được.
Như thế tu theo đạo Phật đâu có phải thành cái không không, như người đời thường hiểu lầm Niết bàn là cảnh tiêu vong không gì hết, và người ta sao cứ sợ vẩn vơ. Nếu mà tu theo Phật hết, thì thế giới này sẽ chơ vơ không có con người. Quan niệm ấy thực sai lầm, không có ta ở thế giới này, chớ đâu không có giống khác và lớp người khác. Trong vũ trụ rộng lớn vô biên, có hằng hà sa số thế giới, ta ở thế giới nào lại không được, miễn là an lành giải thoát, sao lại cứ bo bo chấp giữ cái thế giới đầy nhơ bẩn ô trược khổ não này mới thật là của ta?
Trong kinh Phật dạy: “Tùy chúng sinh tâm, ưng sở tri lượng, tùy nghiệp phát hiện”. Nghĩa là nói thế giới cùng bản thân chúng sinh, đều do trình độ của tâm chí mà phát hiện ra. Như Phật là bậc tâm chí đã hoàn toàn giác ngộ, hưởng phúc báo vô cùng ở cảnh Niết bàn, tuy thường hiện thân cứu khổ. Song cũng không vì mê lầm ràng buộc.
Còn chúng sinh đương bị nghiệp chướng lôi kéo, quay cuồng theo sống dục vọng đê hèn, theo từng nghiệp nặng nhẹ hiện ra từng cảnh giới khác nhau, đắm chìm trong bể khổ … Tất thẩy hiện tượng đều là phản ảnh trung thành của tự tâm. Tâm nhiễm thì cảnh giới đầy chông gai khổ sở; tâm thanh tịnh thì cõi Phật thanh tịnh.
Vậy ta chỉ lo tâm không tiến hoá, không thanh tịnh, và chớ lo rằng tu hành rồi thế giới này sẽ bỏ không và sợ Niết bàn chỉ là không tưởng.