ĐỊA TẠNG BỒ TÁT BỔN NGUYỆN KINH KHOA CHÚ
Đường Tam Tạng sa-môn Thật Xoa Nan Đà dịch
Cổ Diêm Khuông Am Thanh Liên bật-sô Linh Thừa soạn

Chuyển ngữ: Bửu Quang Tự đệ tử Như Hòa

 

(Kinh) Hoặc hiện thiên đế thân, hoặc hiện Phạm vương thân, hoặc hiện Chuyển Luân Vương thân, hoặc hiện cư sĩ thân, hoặc hiện quốc vương thân, hoặc hiện tể phụ thân, hoặc hiện quan thuộc thân.

          ()或現天帝身或現梵王身或現轉輪王身或現居士身或現國王身或現宰輔身或現官屬身。

          (Kinh: Hoặc hiện thân thiên đế, hoặc hiện thân Phạm vương, hoặc hiện thân Chuyển Luân Vương, hoặc hiện thân cư sĩ, hoặc hiện thân quốc vương, hoặc hiện thân tể phụ, hoặc hiện thân quan lại).

          “Thiên đế” là như xưa kia Đế Thích cùng với a-tu-la La Ha giao chiến, do sức từ nhẫn mà Đế Thích chiến thắng. Xưa kia [đức Phật] làm Phạm vương ngồi dưới gốc cây Trú Độ (Pāracitra, Ba Lợi Chất Đa La) thành đạo. Từ ngữ Chước Ca La Phạt Lạt Để Hạt La Xà (Chakravartin-rājah) trong tiếng Phạn, được cõi này dịch là Chuyển Luân Vương. Thi Thiết Túc Luận[1] nói phải nên phân biệt có kim, ngân, đồng, thiết luân vương theo thứ tự. Tính ngược theo thứ tự trên đây thì các vua ấy sẽ lần lượt thống lãnh một, hai, ba, bốn đại châu (theo kinh Xử Thai, trong vô số A-tăng-kỳ kiếp, [Bồ Tát] lần lượt làm Đại Phạm Thiên, Đế Thích, Luân Vương, mỗi địa vị là ba mươi sáu lần, độ chúng sanh chẳng đọa vào Nhị Thừa hay đường ác).

          Ca La Việt (Kulapati) [trong tiếng Phạn] được dịch là Cư Sĩ, tức là người thích nói những lời danh ngôn, trụ trong hạnh thanh tịnh. Phàm là người tích chứa nhiều của cải, hàng hóa, sản nghiệp sung túc thì đều được gọi bằng danh xưng này. “Quốc vương” chính là Túc Tán Vương[2]. Đất phong của chư hầu gọi là Quốc, từ chữ Vi (囗) bỏ Hoặc (或) vào trong [thì thành chữ Quốc (國)] nhằm minh thị mỗi vị [chư hầu] có lãnh thổ được phân phong, hãy đời đời gìn giữ, đừng xâm phạm lẫn nhau. “Vương” là người đứng đầu Tam Tài. Từ chữ Cổn (丨) xuyên thấu chữ Tam (三) [thành Vương (王)], lập thành đạo “thiên, địa, nhân”. Như vua Đại Quang Minh xả đầu, vua Nguyệt Quang xả mắt, vua Ca Thi phá ngực moi tim, vua Kiên Ý xả tay v.v…

          “Tể” (宰) là chủ, là nấu nướng. Đó là danh xưng chỉ sự nêm nếm các món ăn ngon. Theo Châu Lễ, Trủng Tể (冢宰)[3] có thể điều hòa các quan, nên gọi là Tể. Phụ (輔) có nghĩa gốc là hai thanh gỗ kẹp hai bên thành xe. Trong triều đình có bốn vị “phụ quan” (quan phù tá) gọi là Tả Phụ, Hữu Bật, Tiền Điện, và Hậu Thừa. Do vậy, vị chủ tể quần tịch (群辟, chư hầu bốn phương và trăm quan), giúp đỡ cho sự giáo hóa của vua, như trong quan chế của nhà Châu, Thái Sư, Thái Phó, và Thái Bảo là Tam Công. Kinh Thư chép: “Duy tư tam công, luận đạo kinh bang” (Chỉ có ba vị thuộc ngôi tam công ấy nghiên cứu đạo trị quốc, giúp cho việc cai trị, phát triển nước nhà). Đức Phật từng làm đại thần Cù Tần, chia Diêm Phù Đề thành bảy phần để chấm dứt sự tranh chấp.

          “Quan” (官) là “hoạn” (宦, [nghĩa gốc là] bầy tôi, tôi tớ trong một gia đình. Người làm quan là tôi tớ của vua nên làm quan gọi là “hoạn”. Thái giám là người hầu phục dịch vua, nên cũng gọi là “hoạn quan”), hoặc là “công” (公). “Thuộc” (屬) là quan liêu, bộ khúc[4]. Chức vị của các chư hầu và trăm quan đều thuộc quyền cai quản của Tam Công. Từ thời Hán – Ngụy đến nay, Tam Sư (Tam Công) đều mở phủ, đặt ra các liêu thuộc. Trên đây đều là những người chưa tiếp nhận đạo. Dưới đây toàn là những địa vị đã tiếp nhận đạo.

          (Kinh) Hoặc hiện tỳ-kheo, tỳ-kheo-ni, ưu-bà-tắc, ưu-bà-di thân, nãi chí Thanh Văn, La Hán, Bích Chi Phật, Bồ Tát đẳng thân, nhi dĩ hóa độ.

          ()或現比丘比丘尼優婆塞優婆夷身乃至聲聞羅漢辟支佛菩薩等身而以化度。

          (Kinh: Hoặc hiện thân tỳ-kheo, tỳ-kheo-ni, ưu-bà-tắc, ưu-bà-di, cho đến thân Thanh Văn, La Hán, Bích Chi Phật, Bồ Tát v.v… để hóa độ).

          Tỳ-kheo (Bhikṣu) gọi là Khất Sĩ, sống cuộc đời thanh tịnh. Kinh Tịnh Danh dịch tỳ-kheo thành Trừ Cẩn (除饉, trừ khử đói kém), tức bậc xuất gia có giới hạnh, là ruộng phước tốt, có thể sanh ra vật tốt lành, trừ sự đói kém, thiếu hụt về nhân quả! “Ni” (尼) là nữ. Đại Luận nói: “Ni đắc vô lượng luật nghi, kém hơn tỳ-kheo”.

          “Ưu-bà-tắc, Ưu-bà-di”: Tây Vực Ký[5] phiên âm là Ổ Ba Sách Ca (Upāsaka), dịch sang tiếng Hán là Cận Sự Nam (近事男). Ồ Ba Tư Ca (Upāsikā) là Cận Sự Nữ (近事女), ý nói họ thân cận, thừa sự pháp của chư Phật.

          A La Hán (Arhat) dịch là Sát Tặc, Ứng Cúng, hay Bất Sanh. Như trong kinh A Bạt thì dịch là Ứng Chân (應真), kinh Thụy Ứng dịch là Chân Nhân (真人), toàn là dùng ý nghĩa Vô Sanh để giải thích từ ngữ A La Hán. Thanh Văn là như trong phần trước [đã giải  thích]. Câu “nhi  dĩ

hóa độ” (để hóa độ) xuyên suốt cả những câu kinh văn trước đó.

          (Kinh) Phi đản Phật thân, độc hiện kỳ tiền.

          ()非但佛身獨現其前。

          (Kinh: Không chỉ là riêng một thân Phật hiện trước mặt họ).

          Câu “phi đản Phật thân” (chẳng phải chỉ có thân Phật) nhằm chỉ rõ không chỉ có một thân tướng hiển hiện, tức là: Há có phải chỉ hiện riêng một thân Phật hiện trước các căn cơ, mà là thuận theo sự cơ cảm của chúng sanh để hiện khắp các sắc thân. Kinh Bảo Vũ nói: “Như Lai thành tựu vô lượng sắc thân, nhược chư hữu tình ưng dĩ Như Lai sắc thân nhi giáo hóa giả, Như Lai tức năng ư nhất sát-na (danh cực thiểu, thời cực thiểu), hoặc nhất Lạp Phược (tức Ca La, nhất thiên lục bách sát-na danh nhất Ca La), nhất Mâu Hô Lật Đa (lục thập Ca La danh Mâu Hô Lật Đa), các các ư bỉ hữu tình chi sở, thị hiện Như Lai sắc thân chi tướng. Nhược ưng kiến chủng chủng biệt loại hữu tình thân tướng, Như Lai tức ư nhất sát-na, nãi chí thị hiện chủng chủng biệt loại hữu tình sắc thân chi tướng” (Như Lai thành tựu vô lượng sắc thân. Nếu các hữu tình đáng nên dùng sắc thân Như Lai để giáo hóa, Như Lai liền có thể trong một sát-na (kṣaṇa, tức là ít nhất, trong khoảng thời gian ít nhất), hoặc một Lạp Phược (Lava, tức Ca La (Kala), một ngàn sáu trăm sát-na gọi là một Ca La), hoặc một Mâu Hô Lật Đa (Muhūrta, sáu mươi Ca La gọi là Mâu Hô Lật Đa), mỗi mỗi đều ở chỗ hữu tình ấy, thị hiện tướng sắc thân của Như Lai. Nếu đáng nên thấy các thứ thân tướng của các loại hữu tình khác biệt, Như Lai sẽ liền trong một sát-na, cho đến thị hiện đủ mọi tướng sắc thân của các loại hữu tình khác nhau), đấy chính là ý được nói trong đoạn kinh [Địa Tạng Bổn Nguyện] này, đều là do thần trí của chư Phật cảm vời.

3.2.1.1.2.1.2.2. Phó chúc vị điều chúng sanh (phó chúc [Bồ Tát hãy độ thoát những] chúng sanh chưa được điều phục)

3.2.1.1.2.1.2.2.1. Sắc quán lũy kiếp độ sanh (sắc truyền hãy quán chuyện đức Phật độ sanh trong bao kiếp)

          (Kinh) Nhữ quán ngô lũy kiếp cần khổ, độ  thoát  như  thị  đẳng nan hóa cang cường tội khổ chúng sanh.

          ()汝觀吾累劫勤苦度脫如是等難化剛強罪苦眾生。

          (Kinh: Ông hãy xem ta bao kiếp siêng khổ, độ thoát bọn chúng sanh tội khổ ương ngạnh khó giáo hóa như thế đó).

          Đây là đức Phật tự nói khi Ngài còn thuộc địa vị Bồ Tát, trong ba đại A-tăng-kỳ kiếp, đã siêng khổ vô lượng. Đại Kinh nói: “Ngã ư vãng tích chủng chủng khổ hạnh, kim đắc như thị vô thượng phương tiện, vị nhữ đẳng cố, vô lượng kiếp trung xả thân, thủ, túc, đầu, mục, tủy, não” (Ta trong quá khứ đã tu tập đủ mọi khổ hạnh, nay đạt được phương tiện vô thượng như thế, đã vì các ngươi mà trong vô lượng kiếp xả thân, chân, tay, đầu, mắt, tủy, óc). Lời Sớ viết: “Thân mạng thì có ai mà chẳng coi trọng. Ta coi nhẹ sống chết, dẫu so với núi, với đất thì hài cốt [đã thí xả] vẫn nhiều gấp bội. Dẫu so với sông, với biển, thì tủy, não [đã thí xả] chẳng thể sánh ví nổi. Huống hồ vợ, con, quốc thành đã buông bỏ vô số. Ân đức như thế chỉ vì các ngươi buông lung, chẳng thẹn, bị giam chặt trong nhà tù, chẳng được giải thoát!” Há chẳng phải là đã bao kiếp siêng khổ chỉ nhằm độ thoát bọn chúng sanh tội khổ ương ngạnh khó giáo hóa như thế ư? Như Ương Quật Ma La (Angulimala) nghe theo lời dạy của tà sư [mà giết chết bao người, cắt lấy xương ngón tay làm chuỗi đeo], đức Phật bèn dùng thần lực hóa độ, ông ta liền bỏ tà đạo, [theo Phật] xuất gia. Phạm vương tán thán: “Lạ thay, đấng Điều Ngự Thiên Nhân Sư, đức Như Lai khéo điều phục Ương Quật Ma La, ví như rắn độc thấy vị thầy giỏi chú thuật bèn phun khí nhả độc [mà vị thầy giỏi chú thuật] chẳng sợ hãi”.

          Đối với tội khổ, Đại Luận chỉ ra hai thứ:

          – Gậy gộc đánh đập, lạnh, nóng… là thân khổ.

          – Sót thừa, tàn tạ là tâm khổ.

          Các vị thánh nhân do sức trí huệ, chẳng có những nỗi khổ trong tâm như ưu sầu, ganh tỵ, sân hận v.v…, nhưng có những nỗi khổ nơi thân như già, bệnh, đói khát, nóng, lạnh v.v… (ngài Xá Lợi Phất khổ vì bệnh phong nhiệt, ngài Tất Lăng Già Bà Tha (Pilinda-vatsa) khổ vì chứng đau mắt, ngài La Bà Na Bạt Đề (Lakuņţaka Bhaddiya) khổ vì bệnh trĩ). Nhưng nỗi khổ nơi thân cũng nhẹ, ít; như người biết mình mắc nợ người khác thì phải trả, chẳng thấy đó là khổ. Kẻ phàm phu chẳng nhớ đã mang nợ. Vì thế, thân tâm đều chịu nỗi khổ trong hiện tại, thân sau lại có nỗi khổ trong tam đồ. Do vậy nói là “tội khổ chúng sanh”.

3.2.1.1.2.1.2.2.2. Linh ức thiên cung phó chúc (dạy hãy nhớ sự phó chúc trên cung trời)

          (Kinh) Kỳ hữu vị điều phục giả, tùy nghiệp báo ứng. Nhược đọa ác thú, thọ đại khổ thời.

          ()其有未調伏者隨業報應。若墮惡趣受大苦時。

          (Kinh: Có những kẻ chưa điều phục theo nghiệp báo ứng. Nếu khi họ đọa vào đường ác, chịu khổ to lớn).

          Bốn câu đầu nói đến bọn nghiệp nặng trên đây. “Tùy nghiệp” (Theo nghiệp) là như kinh Ngũ Mẫu Tử nói: “Thế gian nhân bất tri hữu hậu thế sanh, đản ngôn tử nhĩ. Tác thiện tự đắc phước, tác ác tự đắc ương, nhập ác đạo trung, hối vô sở cập, hồn thần không khứ. Tùy kỳ thi hành, nghiệp báo thọ khổ, như ảnh tùy hình” (Người thế gian chẳng biết có đời sau, chỉ nói chết [là hết]. Làm lành tự được phước, làm ác mắc ương họa, vào trong đường ác, hối hận chẳng kịp, hồn thần trơ trọi. Tùy theo những gì mình đã làm mà chịu khổ bởi nghiệp báo như bóng theo hình) là nói về ý này.

          (Kinh) Nhữ đương ức niệm ngô tại Đao Lợi thiên cung, ân cần phó chúc, linh Sa Bà thế giới, chí Di Lặc xuất thế dĩ lai chúng sanh, tất sử giải thoát, vĩnh ly chư khổ, ngộ Phật thọ ký.

          ()汝當憶念吾在忉利天宮殷勤付囑令娑婆世界至彌勒出世已來眾生悉使解脫永離諸苦遇佛授記。

          (Kinh: Ông hãy nên nghĩ nhớ ta ở tại cung trời Đao Lợi đã ân cần phó chúc khiến cho chúng sanh trong thế giới Sa Bà cho đến khi Di Lặc xuất thế đều được giải thoát, vĩnh viễn lìa các khổ, gặp Phật thọ ký).

          Từ “nhữ đương” (ông hãy nên) trở đi là đức Phật căn dặn, giao phó: Sau khi ta diệt độ, khi hạng người ấy đọa lạc, chịu khổ, ông hãy nên nghĩ nhớ, tưởng niệm: “Xưa kia, ta ở tại cung trời Đao Lợi, đích thân được đức Thế Tôn ân cần ra rả căn dặn, giao phó: Trong tiểu kiếp thứ mười nơi thế giới Sa Bà, cho đến khi ngài Di Lặc xuất thế thành đạo, trong khoảng ấy, đối với những kẻ đã từng được giáo hóa, hoặc chưa giáo hóa, hãy đều khiến cho họ được giải thoát khỏi ác đạo, vĩnh viễn lìa khỏi các nỗi khổ trong tam đồ, bát nạn. [Đối với những kẻ] cơ duyên chín muồi, gặp Phật thọ ký, hãy [giúp cho họ] tự nên khăng khăng vâng giữ, chẳng để đến nỗi mất đi, đọa lạc”. Sách Tây Vực  Ký  nói  Di  Lặc[6][trong tiếng Phạn, chánh âm là] Mai Lý Lệ Da (Maitreya), Hán dịch là Từ Thị. Trong quá khứ, Ngài làm vua tên là Đàm Ma Lưu Chi (Dharmaruci, cõi này dịch là Pháp Hy (法希), cũng dịch là Pháp Lạc), dùng lòng Từ nuôi dưỡng dân trong nước. Từ ấy đến nay, Ngài thường có tên là Từ Thị.

          Kinh Di Lặc Hạ Sanh nói: “Di Lặc thành đạo dĩ (chuẩn Xứ Xứ kinh vân: “Di Lặc vị hạ, nhược đương lai hạ, dư hữu ngũ thập ức thất thiên lục bách vạn tuế”), vô lượng thiên vạn ức chúng sanh kiến thế khổ não, giai ư Phật pháp trung xuất gia. Di Lặc kiến chư đại chúng, tác thị niệm ngôn: ‘Thị chư chúng sanh giai ư Phật pháp trung chủng chư thiện căn, Thích Ca Mâu Ni Phật khiển lai phó ngã, ngã kim thọ chi. Thiện tai Thích Ca Mâu Ni Phật, năng thiện giáo hóa như thị đẳng bách thiên vạn ức chúng sanh, kim chí ngã sở’. Như thị tam xưng tán Thích Ca Mâu Ni Phật, nhiên hậu vị thuyết Tứ Đế, văn giả đồng thời đắc đạo. Thời hoa lâm viên, sơ hội thuyết pháp, cửu thập lục ức nhân đắc A La Hán. Đệ nhị hội thuyết pháp, cửu thập tứ ức nhân đắc A La Hán. Đệ tam hội thuyết pháp, cửu thập nhị ức nhân đắc A La Hán” (Di Lặc đã thành đạo (theo kinh Xứ Xứ nói: “Di Lặc chưa giáng thế. Nếu trong tương lai, Ngài giáng thế thì cách hiện tại năm mươi ức bảy ngàn sáu trăm vạn năm”), vô lượng ngàn vạn ức chúng sanh thấy cõi đời khổ não, đều xuất gia trong Phật pháp. Ngài Di Lặc thấy các đại chúng, bèn nghĩ như thế này: ‘Các chúng sanh này đều gieo các thiện căn trong Phật pháp, Thích Ca Mâu Ni Phật giao phó họ cho ta, ta đều tiếp nhận. Lành thay Thích Ca Mâu Ni Phật! Có thể khéo giáo hóa trăm ngàn vạn ức chúng sanh như thế đó, nay đến chỗ ta’. Ba lượt xưng dương, tán thán Thích Ca Mâu Ni Phật như thế. Sau đó, vì họ nói Tứ Đế, những người đã nghe đều đồng thời đắc đạo. Khi ấy, ở trong vườn Hoa Lâm, hội thuyết pháp đầu tiên, chín mươi sáu ức người đắc A La Hán. Hội thuyết pháp thứ hai, chín mươi bốn ức người đắc A La Hán. Hội thuyết pháp thứ ba, chín mươi hai ức người đắc A La Hán).  

Vì thế, trong kinh Xử Thai, đức Phật bảo ngài Di Lặc rằng: “Nhữ sở tam hội nhân, thị ngô tiên sở hóa. Cửu thập lục ức nhân, thọ ngô Ngũ Giới giả. Thứ thị Tam Quy nhân, cửu thập nhị ức giả, nhất xưng Nam-mô Phật, giai đắc thành Phật đạo” (Người trong ba hội [thuyết pháp] của ông là những người được ta hóa độ trước kia. Chín mươi sáu ức người thọ Ngũ Giới của ta; kế đó là chín mươi hai ức người thọ Tam Quy, xưng Nam-mô Phật một lần, đều được thành Phật đạo) chính là nói về ý này.

          Hòa Già Na (Vyākaraṇa) trong tiếng Phạn được cõi này dịch là Thọ Ký (授記). Ngôn thuyết của bậc thánh là Thọ, quả và tâm phù hợp thì gọi là Ký; tức là được huyền ký sẽ đắc Sơ Trụ vậy. Đấy đều là những người được đức Phật ở tại cung trời phó chúc ngài Địa Tạng [hóa độ] cho đến khi ngài Di Lặc xuất thế.

3.2.1.1.2.2. Địa Tạng hợp thân lãnh giáo (ngài Địa Tạng hợp các phân thân lại, vâng nhận lời Phật dạy)

3.2.1.1.2.2.1. Địa Tạng chánh lãnh (Địa Tạng vâng nhận)

3.2.1.1.2.2.1.1. Tự hợp thân tông bổn (trần thuật chuyện hợp các phân thân lại để tỏ rõ cái gốc)

          (Kinh) Nhĩ thời, chư thế giới phân thân Địa Tạng Bồ Tát, cộng phục nhất hình, thế lệ ai luyến.

          ()爾時諸世界分身地藏菩薩共復一形涕淚哀戀

          (Kinh: Lúc bấy giờ, phân thân của Địa Tạng Bồ Tát trong các thế giới cùng hợp thành một thân, ứa nước mắt, buồn thương, quyến luyến).

          Kinh Thập Luân nói: “An nhẫn bất động, do như đại địa” (An trụ, nhẫn nhục bất động ví như đại địa). Nay Địa Tạng đại sĩ từ kiếp số xưa kia nhiều như cát, bụi, đã phát nguyện tiếp nhận lời phó chúc cho đến khi ngài Di Lặc thành đạo, sẽ nhẫn nại ở trong chốn trược uế để hóa độ [chúng sanh trong] Nê Lê, [hạnh an nhẫn ấy] khác nào đại địa?

          “Hợp các phân thân làm một thân”, một thân chính là gốc của các

thân. Vì thế, hợp các “ngọn” (phân thân) lại để đề cao cái “gốc” (chân thân). Đấy là do khi ngài Địa Tạng hành Bát Nhã, tu thần thông, Ba La Mật, thọ các chuyện như ý, biến một thân thành vô số thân, vô số thân lại trở thành một thân, ẩn hiển tự tại! Nhưng cũng chẳng chấp trước môn Như Ý Thần Thông ấy, do tự tánh là Không, do lìa, do vô sanh, chẳng có “trụ xứ, trong, ngoài, lớn, nhỏ”. Do sức Thiền Định, nhanh chóng [biến ra] trọn khắp các thân, các thân cũng nhanh chóng trở lại [thành một thân]. Trong kinh Trường A Hàm, quyển thứ mười hai, ngài Xá Lợi Phất nói: “Thần Túc chứng giả, tùy tam-muội tâm, tác vô số thần lực, biến nhất thân vi vô số thân, dĩ vô số thân hợp vi nhất thân. Xưng thị thần lực giả, ty lậu hạ liệt phàm phu sở hành, phi thị hiền thánh chi sở tu tập. Ư chư thế gian, ái sắc, bất ái sắc, nhị câu xả dĩ, tu bình đẳng hộ, chuyên niệm bất vong. Tư nãi danh viết hiền thánh thần túc” (Người chứng Thần Túc do tùy tâm tam-muội mà hiện vô số thần lực, biến một thân thành vô số thân, đem vô số thân hợp thành một thân. Gọi đấy là “thần lực” thì [chuyện ấy chỉ] là chuyện làm của hạng phàm phu thô lậu, hèn kém, chẳng phải là chuyện tu tập của bậc hiền thánh. Ở trong các thế gian, yêu sắc, chẳng yêu sắc, hai đằng đều đã bỏ, tu hộ trì bình đẳng, chuyên niệm chẳng quên. Đấy gọi là Thần Túc của bậc hiền thánh).

Tiểu Thừa còn như thế, huống hồ bậc đại Bồ Tát ư? Một vầng trăng in bóng trong hết thảy các chỗ có nước. Hết thảy bóng trăng trong nước gom về một vầng trăng, đấy chính là ý chỉ “hợp các phân thân thành một thân”.  

          “Ứa lệ, đau buồn, quyến luyến” có bốn ý:

          1) Buồn vì lục đạo tạo nghiệp chẳng hối cải.

          2) Buồn vì chúng sanh ương ngạnh khó giáo hóa.

          3) Buồn vì vầng mặt trời Như Lai trí huệ sắp lặn.

          4) Buồn vì phó chúc trên cung trời là chuyện lớn.

          Do vậy, ứa nước mắt, đau buồn, quyến luyến, quả thật là chuyện không thể nào tránh khỏi!

3.2.1.1.2.2.1.2. Thân hóa sự thọ chỉ (thưa trình sự giáo hóa của chính mình, vâng nhận ý chỉ của Phật)

3.2.1.1.2.2.1.2.1. Phật dẫn sử hoạch thông huệ (do được Phật tiếp dẫn mà đạt được thần thông, trí huệ)

          (Kinh) Bạch kỳ Phật ngôn: – Ngã tùng cửu viễn kiếp lai, mông Phật tiếp dẫn, sử hoạch bất khả tư nghị thần lực, cụ đại trí huệ.

          ()白其佛言我從久遠劫來蒙佛接引使獲不可思

議神力具大智慧。

          (Kinh: Bạch cùng đức Phật rằng: – Con từ kiếp lâu xa đến nay, được Phật tiếp dẫn, khiến cho con đạt được thần lực chẳng thể nghĩ bàn, trọn đủ đại trí huệ).

          Ở đây, ngài Địa Tạng tự thuật chính Ngài đạt được thần thông và trí huệ giống như thần thông và trí huệ của Phật. Ngài nói: “Từ nhiều kiếp lâu xa đến nay, con được Phật tiếp dẫn, tế độ, giáo dưỡng, khiến cho con đạt được thần thông và trí huệ như Phật. Nay Phật giao phó chúng sanh đời Mạt cho con, con tự biết đáng nên dùng sự tiếp dẫn giống như Phật để tiếp dẫn họ, khiến cho họ cũng đạt được thần thông và trí huệ ấy. Đấy chính là chuyện thuộc về bổn phận của con. Con phải tự nên nắm vững căn cội huyền nhiệm để dìu dắt những kẻ yếu đuối đang chìm đắm vậy!”

3.2.1.1.2.2.1.2.2. Hóa thân sa giới lợi sanh (hóa thân trong các cõi nhiều như cát để lợi lạc chúng sanh)

3.2.1.1.2.2.1.2.2.1. Phân thân độ nhân (phân thân độ người khác)

          (Kinh) Ngã sở phân thân, biến mãn bách thiên vạn ức Hằng hà sa thế giới. Mỗi nhất thế giới, hóa bách thiên vạn ức thân. Mỗi nhất thân, độ bách thiên vạn ức nhân, linh quy kính Tam Bảo, vĩnh ly sanh tử, chí Niết Bàn lạc.

          ()我所分身遍滿百千萬億恆河沙世界。每一世界化百千萬億身。每一身度百千萬億人令歸敬三寶永離生死至涅槃樂。

          (Kinh: Phân thân của con đầy khắp trăm ngàn vạn ức Hằng hà sa thế giới. Trong mỗi thế giới, hóa hiện trăm ngàn vạn ức thân. Mỗi thân độ trăm ngàn vạn ức người, khiến cho họ quy y, kính ngưỡng Tam Bảo, vĩnh viễn lìa khỏi sanh tử, đạt tới niềm vui Niết Bàn).

          Kinh văn trong đoạn này bao gồm hai ý:

          – Phân thân trong các cõi nhiều như cát, cho thấy thần lực chẳng thể nghĩ bàn.

          – Độ người khác chứng quả, cho thấy trí huệ chẳng thể nghĩ bàn.

          Thần lực và trí huệ là căn bản để phân thân độ người khác. Kinh Thập Luân nói đại lược như sau: “Thử thiện nam tử thành tựu bất khả tư nghị chư công đức pháp, kiên cố thệ nguyện, dũng mãnh, tinh tấn, vị dục thành tựu chư hữu tình cố. Ư thập phương giới, hoặc thời hiện tác Đại Phạm Vương thân, nãi chí hoặc tác địa ngục ngục tốt, chư hữu tình thân. Hiện tác thị đẳng vô lượng vô số dị loại chi thân, vị chư hữu tình như ưng thuyết pháp. Tùy kỳ sở ưng, an trí tam thừa bất thoái chuyển vị” (Vị thiện nam tử này thành tựu các pháp công đức chẳng thể nghĩ bàn, thệ nguyện kiên cố, dũng mãnh, tinh tấn, vì muốn thành tựu các hữu tình. Trong các cõi ở khắp mười phương, [vị thiện nam tử ấy] hoặc có lúc hiện làm thân Đại Phạm Vương, cho đến hoặc làm ngục tốt hay thân các hữu tình trong địa ngục. Hiện làm vô lượng vô số thân dị loại như thế, vì các hữu tình mà thuyết pháp đúng lẽ. Tùy theo căn cơ của họ đáng nên độ như thế nào mà đặt yên họ trong địa vị chẳng thoái chuyển của tam thừa). Vì thế, Đại Luận nói: “Bậc trọn đủ thần thông ở trong các thế giới nhiều như cát sông Hằng khắp mười phương, trong một lúc có thể biến hóa vô lượng thân để cúng dường chư Phật, nghe pháp, thuyết pháp, độ chúng sanh. Những vị như vậy, trừ Phật ra, không ai có thể sánh bằng. Đó là thân cuối cùng của Bồ Tát. Vì thế, có thể rộng độ người ngoài”.      

          “Quy kính Tam Bảo”: Quy (歸) có nghĩa là “quay trở về”; khiến cho họ phản tà quy chánh. “Kính” (敬) có nghĩa là “chuyên thành” (專誠, chuyên ròng chân thành), khiến cho họ bỏ vọng trở về với chân. Tam Bảo chính là trận đầu tiên để trừ ác, là chương đầu tiên để nhập đạo, là tàu thuyền để vượt biển khổ, là đạo trọng yếu để đạt tới Niết Bàn. Vì thế, cần phải quy y. “Vĩnh ly” (永離,vĩnh viễn lìa khỏi) tức là hai thứ sanh tử đều đoạn, ngũ trụ phiền não mất sạch, Tam Đức bí tạng cùng chứng trọn vẹn. Kinh Ngũ Mẫu Tử nói: “Bạt kỳ căn châu, tiện khả đắc thoát. Như nhân bất chủng, đản đương Nê Hoàn, Nê Hoàn khoái lạc” (Nhổ trừ gốc cội, sẽ được giải thoát. Như người chẳng gieo mà đạt được Niết Bàn, hưởng sự vui sướng của Niết Bàn) chính là nói về ý này.

3.2.1.1.2.2.1.2.2.2. Tiểu thiện hoạch lợi (do điều lợi nhỏ mà đạt được lợi ích)

          (Kinh) Đản ư Phật pháp trung, sở vi thiện sự, nhất mao, nhất đế, nhất sa, nhất trần, hoặc hào phát hứa, ngã tiệm độ thoát, sử hoạch đại lợi.

          ()但於佛法中所為善事一毛一渧一沙一塵

毫髮許我漸度脫使獲大利。

          (Kinh: Chỉ cần là họ ở trong Phật pháp làm thiện sự như một sợi lông, một giọt nước, một hạt cát, một hạt bụi, hoặc chừng bằng một mảy tóc, con sẽ dần dần độ thoát, khiến cho họ đạt được lợi ích to lớn).

          Làm lành trong Phật pháp có thù thắng và kém cỏi khác nhau. Nay người làm thiện sự kém cỏi, một sợi lông rất nhẹ, một giọt nước cực ít, một hạt cát rất bé, một hạt bụi cực nhỏ, chừng bằng mảy tóc, điều thiện càng ít ỏi hơn. Nhưng con cũng khiến cho [người đã làm điều thiện nhỏ nhoi ấy] thoát khỏi sanh tử, đạt được lợi ích to lớn. Trong kinh Hiền Ngu, đức Phật bảo ngài A Nan: “Nhược hữu chúng sanh, ư Tam Bảo phước điền trung, chủng thiểu thiểu chi thiện, đắc vô cực quả” (Nếu có chúng sanh từ trong ruộng phước Tam Bảo mà gieo chút ít điều thiện, sẽ đạt được cái quả chẳng có cùng cực). Đấy chính là gom những điều lành nhỏ nhoi của trời, người về Nhất Thừa rộng lớn, tức là giống như kinh Pháp Hoa mở rộng khắp sáu đường, [những ai đối trước Tam Bảo mà] cúi đầu, giơ tay, khảy ngón tay, rải hoa [đều tạo là cái nhân để thành Phật]. Vốn là phước thuộc đường trời người, nay mở rộng ra thành duyên nhân[7] Phật chủng, khiến cho họ đạt được lợi ích to lớn, há còn nghi nữa chăng?

3.2.1.1.2.2.1.3. Ủy Thế Tôn vật lự (an ủi đức Thế Tôn đừng lo lắng)

          (Kinh) “Duy nguyện Thế Tôn, bất dĩ hậu thế ác nghiệp chúng sanh vi lự”. Như thị tam bạch Phật ngôn: “Duy nguyện Thế Tôn, bất dĩ hậu thế ác nghiệp chúng sanh vi lự”.

          ()唯願世尊不以後世惡業眾生為慮。如是三白佛言唯願世尊不以後世惡業眾生為慮。

          (Kinh: “Kính mong đức Thế Tôn chớ nên vì chúng sanh ác nghiệp đời sau mà lo lắng”. Bồ Tát bạch cùng đức Phật ba lần như thế này: “Kính mong đức Thế Tôn chớ nên vì chúng sanh ác nghiệp đời sau mà lo lắng”).

          “Ủy vật lự” (An ủi đừng lo) nhằm nói rõ: Đấy là chuyện thuộc về trách nhiệm của chính mình. Bởi lẽ, những cái gọi là “hết thảy phiền não, sáu mươi hai kiến” v.v… đều là chủng tử của Như Lai, tức là kẻ Nhất Xiển Đề cũng chẳng đoạn tánh thiện. Nếu gặp pháp duyên, thiện căn lại phát khởi. Một điều thiện nếu dấy lên, muôn điều ác sẽ hoàn toàn tiêu! Ví như một đốm lửa đốt rụi củi chất vạn khoảnh, thất độc[8] khiến nhiều người mất mạng! Như kinh Thập Luân nói: “Tùy sở trụ xứ, nhược chư hữu tình, tham, sân, si đẳng giai mãnh lợi cố, tạo tác Thập Ác nghiệp đạo, hữu năng chí tâm xưng danh niệm tụng, quy kính cúng dường Địa Tạng Bồ Tát giả, nhất thiết phiền não tất giai tiêu diệt, viễn ly Thập Ác, thành tựu Thập Thiện. Ư chư chúng sanh, khởi từ bi tâm, cập lợi ích tâm. Thử thiện nam tử thành tựu như thị công đức diệu định oai thần chi lực, dũng mãnh, tinh tấn. Ư nhất thực khoảnh, năng ư vô lượng vô số Phật độ, nhất nhất độ trung, dĩ nhất thực khoảnh, giai năng độ thoát vô lượng vô số Căng Già sa đẳng sở hóa hữu tình, linh ly chúng khổ, giai đắc an lạc. Tùy kỳ sở ưng, an trí sanh thiên Niết Bàn chi đạo” (Ở bất cứ nơi đâu, nếu các hữu tình tham, sân, si v.v… mạnh mẽ, sắc bén, tạo tác Thập Ác nghiệp đạo, mà có kẻ chí tâm xưng danh, niệm tụng, quy y, kính ngưỡng, cúng dường Địa Tạng Bồ Tát thì hết thảy phiền não thảy đều tiêu diệt, xa lìa Thập Ác, thành tựu Thập Thiện. Đối với các chúng sanh, dấy tâm từ bi và tâm lợi ích, thiện nam tử ấy sẽ thành tựu sức công đức diệu định oai thần, dũng mãnh, tinh tấn. Trong khoảng một bữa ăn, có thể trong vô lượng vô số cõi Phật, trong mỗi cõi, dùng khoảng thời gian chừng một bữa ăn, đều có thể độ thoát vô lượng Hằng hà sa các hữu tình đáng hóa độ, khiến cho họ lìa các nỗi khổ, đều được an vui. Tùy theo căn cơ đáng nên độ mà đặt yên họ nơi đường sanh lên trời hoặc Niết Bàn). Vì thế, chẳng còn phải lo sầu cho chúng sanh ác nghiệp trong đời mai sau nữa!

3.2.1.1.2.2.2. Như Lai tán hỷ (Như Lai tán thán, hoan hỷ)

          (Kinh) Nhĩ thời, Phật tán Địa Tạng Bồ Tát ngôn: “Thiện tai! Thiện tai! Ngô trợ nhữ hỷ. Nhữ năng thành tựu cửu viễn kiếp lai, phát hoằng thệ nguyện, quảng độ tương tất, tức chứng Bồ Đề”.

          ()爾時佛讚地藏菩薩言善哉善哉吾助汝喜。

汝能成就久遠劫來發弘誓願廣度將畢即證菩提。

          (Kinh: Lúc bấy giờ, đức Phật tán thán Địa Tạng Bồ Tát rằng: “Lành thay! Lành thay! Ta giúp cho ông được toại nguyện. Ông có thể từ nhiều kiếp lâu xa đến nay, đã phát thệ nguyện rộng lớn, khi độ xong tất cả chúng sanh, ông sẽ liền chứng Bồ Đề”).

          Ngài Địa Tạng đã vâng lãnh lời phó chúc và an ủi đức Phật, đức Như Lai liền tán thán, hoan hỷ phụ trợ. Tán thán “thiện tai” hai lượt là vì:

          1) Bồ Tát có thể thấu hiểu Phật tâm, kính cẩn, vâng theo mệnh lệnh nghiêm cẩn.

          2) Bồ Tát dùng phân thân lợi lạc chúng sanh, chẳng bỏ sót mảy may phước nào.

          Vì thế, đức Phật hoan hỷ, “ông khiến cho tâm ta được toại, nguyện của ông được mãn”. Từ hai chữ “quảng độ” trở đi, chính là lời hứa khả của đức Phật, mà cũng là tự biết đúng thời vậy. Như kinh Phổ Diệu nói: “Bất xử sanh tử, bất trụ Nê Hoàn, tiện thọ Bồ Đề quyết” (Chẳng trụ trong sanh tử, chẳng trụ trong Niết Bàn, liền được thọ ký Bồ Đề). Như vậy là ngài Địa Tạng đã chứng đại Bồ Đề từ lâu, cần gì phải chờ rộng độ chúng sanh xong xuôi nữa ư?

3.2.2. Minh sở hóa chi cơ (nói rõ căn cơ được Bồ Tát hóa độ)

          Nói chung [những căn cơ được hóa độ] là lục đạo, nói riêng thì chỉ có tam đồ, đích xác là nói tới địa ngục. Tức là do ba nghiệp thân, miệng, ý, tạo trọn đủ thượng phẩm Thập Ác, cho nên chuốc lấy nỗi khổ địa ngục! Kinh văn chia làm ba phần:

          1) Chỉ dạy nghiệp duyên sai khác.

          2) Chỉ dạy nghiệp cảm sai khác.

          3) Chỉ dạy nghiệp báo sai khác.

          Đấy là theo thứ tự đối ứng với ba đường Hoặc, Nghiệp, Khổ mà luận định căn cơ được giáo hóa.

***

[1] Thi Thiết Túc Luận (施設足論) là một bộ luận do ngài Huyền Trang dịch vào đời Đường, chia thành bảy quyển. Tương truyền tác giả của bộ luận này là tôn giả Ca Chiên Diên, nhưng lại có thuyết khác cho rằng tác giả phải là tôn giả Mục Kiền Liên. Bộ luận này chú thích kinh Lâu Thán trong Trường A Hàm.

[2] Túc Tán Vương (粟散王) là những vị vua hay hoàng đế không phải là Chuyển Luân Vương. Do thế gian có nhiều quốc gia, thậm chí tù trưởng một số bộ tộc hay thị tộc cũng xưng vương. Nhất là trong các quốc gia như Ấn Độ hay Trung Hoa, số lượng vương gia, thân vương, tiểu vương quá nhiều, giống như gạo rải rắc khắp nơi, nên được gọi là Túc Tán Vương.

[3] Trủng Tể là chức quan được đặt ra từ thời Tây Châu, thấp hơn Tam Công (Thái Sư, Thái Phó, Thái Bảo), đứng đầu Lục Khanh (Thái Tể, Thái Tông, Thái Sử, Thái Chúc, Thái Sĩ, Thái Bốc), tức là người đứng đầu các quan. Nói cách khác, đây là người thay thiên tử xử lý thường vụ mọi việc triều chính. Về sau, danh xưng này chuyên chỉ Lại Bộ Thượng Thư và vai trò của Lại Bộ Thượng Thư hoàn toàn chỉ giới hạn trong việc bổ nhiệm, thăng thưởng, cách chức các quan…

[4] Bộ Khúc (部曲) là danh từ có từ thời Ngụy Tấn, còn gọi là Khách, để chỉ những thuộc hạ, chủ yếu là gia binh (binh lính riêng, dũng sĩ hộ vệ riêng của các đại quan, đại gia).

[5] Sách này có tên là Đại Đường Tây Vực Ký gồm mười hai quyển do ngài Huyền Trang biên soạn. Sách được hoàn thành vào năm Trinh Quán 20 (646), ghi chép những điều mắt thấy tai nghe trong cuộc thỉnh kinh kéo dài mười chín năm của ngài Huyền Trang, bao gồm địa lý, khí hậu, sản vật, văn hóa, tín ngưỡng, phong tục, tập quán v.v… của hơn một trăm bốn mươi quốc gia từ Tân Cương cho đến Nam Ấn Độ. Tương truyền, do Đường Thái Tông thường đến đạo tràng dịch kinh của Ngài hỏi han đủ thứ về phong tục Tây Vực, khiến Ngài không thể chuyên tâm dịch kinh được, nên Ngài bèn soạn sách này để nhà vua đọc. Đây là một sử liệu hết sức giá trị đã được các triều đại khắc in rất nhiều lần và đã được dịch sang tiếng Anh, tiếng Pháp, và tiếng Nhật.

[6] Theo tiên sinh Quý Dĩ Lâm, chữ Di  Lặc (彌勒) được  phiên  âm  dựa  theo  từ  ngữ

Metrak trong ngôn ngữ Tocharian, tức là cách đọc trại chữ Maitreya. Tocharian (Tokharian, Thổ Hỏa La ngữ) là ngôn ngữ chánh yếu của các xứ thuộc Tây Vực quanh bồn địa (vùng đất trũng) Tháp Lý Mộc (Tarim Basin thuộc Tân Cương) như Cao Sương (Turpan, Thổ Lỗ Phồn), Quy Tư (Kuche, quê hương của ngài Cưu Ma La Thập) v.v… Đa số các vị cao tăng dịch kinh thời đầu xuất phát từ những xứ này, cho nên mới hình thành cách phiên âm như thế. Sau khi người Uighurs (Duy Ngô Nhĩ, thuộc hệ ngôn ngữ Turkic) và các sắc dân theo Hồi giáo tiến nhập vùng Tân Cương, cùng với sự diệt vong của các quốc gia tại Tây Vực, cũng như dưới sự xâm lấn mạnh mẽ của các sắc dân Hồi giáo, những kẻ thống trị mới cưỡng ép không khoan nhượng dân chúng địa phương cải đạo sang Hồi giáo, ngôn ngữ Tocharian dần dần suy vi và hoàn toàn mất hẳn.

[7] “Duyên nhân” là cái nhân để giúp cho cái nhân chủ yếu (chánh nhân) được thành tựu. Như hạt lúa giống là chánh nhân để sinh ra cây lúa mới, các yếu tố phụ trợ như đất, nước, phân bón, ánh sáng mặt trời, công sức của nông dân v.v… là duyên nhân.

[8] Thất độc là bảy thứ phiền não, tức tham, sân, si, mạn, nghi, tật đố (ganh ghét), và dâm dục.


ĐỊA TẠNG BỒ TÁT BỔN NGUYỆN KINH KHOA CHÚ