ĐỊA TẠNG BỒ TÁT BỔN NGUYỆN KINH KHOA CHÚ
Đường Tam Tạng sa-môn Thật Xoa Nan Đà dịch
Cổ Diêm Khuông Am Thanh Liên bật-sô Linh Thừa soạn

Chuyển ngữ: Bửu Quang Tự đệ tử Như Hòa

 

3.2. Chánh Thuyết Phần

          Chia thành bốn đoạn:

          – Phẩm Phân Thân Tập Hội, nói về vị hóa chủ.

          – Ba phẩm Nghiệp Duyên, Nghiệp Cảm, Vấn Ngục nói rõ những căn cơ được hóa độ.

          – Ba phẩm Như Lai Tán Thán, Lợi Ích Tồn Vong, và Diêm La Tán Thán nói về duyên độ thoát.

          – Hai phẩm Xưng Danh Hiệu Phật và Giảo Lượng Bố Thí nói về cái nhân thành Phật.

3.2.1. Kinh đề (tên gọi của phẩm kinh)

(Kinh) Phân thân tập hội, phẩm đnhị.

()分身集會品第二

(Kinh: Phẩm thứ hai: Phân thân tập hội).

3.2.1.1. Phẩm văn (kinh văn trong phẩm này)

3.2.1.1.1. Địa Tạng lai nghi (Địa Tạng Bồ Tát đến dự pháp hội)

3.2.1.1.1.1. Tự phân thân Địa Tạng (trần thuật phân thân của Địa Tạng Bồ Tát)

          (Kinh) Nhĩ thời, bách thiên vạn ức bất khả tư, bất khả nghị, bất khả lượng, bất khả thuyết, vô lượng A-tăng-kỳ thế giới, sở hữu địa ngục xứ, phân thân Địa Tạng Bồ Tát, câu lai tập tại Đao Lợi thiên cung.

          ()爾時百千萬億不可思不可議不可量不可說無量阿僧祇世界所有地獄處分身地藏菩薩俱來集在忉利天宮    
          (Kinh: Lúc bấy giờ, phân thân của Địa Tạng Bồ Tát ở tất cả các chỗ có địa ngục trong trăm ngàn vạn ức bất khả tư, bất khả nghị, bất khả lượng, bất khả thuyết[1], vô lượng A-tăng-kỳ thế giới, đều nhóm
 đến  cung trời Đao Lợi).

          “Nhĩ thời” (Lúc bấy giờ) chính là lúc đức Như Lai mỉm cười, phóng quang, mây quang minh phát ra âm thanh, trời, rồng, quỷ, thần cùng tụ tập. Bởi lẽ, phân thân của đức Địa Tạng trong các cõi nước khắp mười phương nhiều như cát, đã trông thấy quang minh và nghe âm thanh, liền cùng đại chúng nhóm đến. Chỉ là không nói rõ ngay, cho nên thành ra nói có trước sau, chẳng phải là [đức Phật và ngài Văn Thù] hỏi đáp xong xuôi mới đến. “Trăm ngàn vạn ức” là số lượng. Theo toán kinh (sách dạy tính toán) của Chấn Đán (Trung Hoa), bắt nguồn từ thời Hoàng Đế, số đếm có đến mười mấy loại: Ức, triệu, kinh, tỷ, cai, nhưỡng, câu, giản, chánh, tải. Nói theo thói quen thì từ ngàn sanh ra vạn (萬), vạn sanh ức (億), ức sanh triệu (兆), triệu sanh kinh (京), kinh sanh tỷ (秭), tỷ sanh cai (垓), cai sanh nhưỡng (壤), nhưỡng sanh câu (溝), câu sanh giản (澗), giản sanh chánh (正), chánh sanh tải. Tải (載) [ngụ ý] “đất chẳng thể chở nổi!” Nay nói rõ về bốn con số đầu tiên. Ức chia thành bốn loại:

          1) Mười vạn là một Ức.

          2) Một trăm vạn là một Ức.

          3) Một ngàn vạn là một Ức.

          4) Một vạn vạn là một Ức.

          Ở đây, Ức được hiểu theo cách thứ tư, [kinh nói là] “bách thiên vạn ức”. Con số như vậy còn khó thể thấu hiểu cùng tận được, huống hồ còn nói là trong “trăm ngàn vạn ức bất khả tư, bất khả nghị, bất khả lượng, bất khả thuyết vô lượng A-tăng-kỳ thế giới, phàm là tất cả các chỗ có địa ngục, phân thân trong mỗi ngục đều đến nhóm hội”, đông đảo lắm thay! Điều này tỏ rõ thế giới khó lường, càng thấy rõ địa ngục rất nhiều! Địa ngục đã nhiều, càng tỏ rõ phân thân khó lường; đấy là cơ sở cho những lời vấn đáp kế tiếp. Đây chính là chuyện chẳng thể nghĩ bàn của bậc đại Bồ Tát, ngay cả Thanh Văn, Duyên Giác còn chẳng thể biết, huống hồ những địa vị thấp hơn và phàm phu mà có thể suy lường, nhận biết nổi ư!

          Như sách Quảng Dư[2] ghi chép, vào niên hiệu Chí Đức (756-758) đời Đường, xứ Tân La (Silla)[3] có một vị Tăng, tên là Kim Địa Tạng, vượt biển tìm đến [Trung Hoa], dừng lại ở núi Cửu Hoa, huyện Thanh Dương, thuộc Trực Lệ[4] Trì Châu Phủ. Sư thường lấy đất trắng giữa vách núi trộn lẫn với cơm mà ăn. Mọi người đều lấy làm lạ. Lúc Ngài chín mươi chín tuổi, bỗng triệu tập đồ chúng cáo biệt, ngồi trong hộp qua đời. Ba năm sau, [đồ chúng] lại mở ra xem, thấy diện mạo như lúc còn sống. Nâng [thi thể của Ngài] lên, các khớp xương vẫn chuyển động được. Đấy cũng là một phân thân của Ngài.

          “Câu tập thiên cung” (Cùng nhóm đến cung trời): Như kinh Tâm Địa Quán nói: “Dĩ thân thường xử ư địa ngục, phi bất thân cận đại từ tôn. Dĩ thân thường xử ư luân hồi, phi bất thân văn vi diệu pháp. Dĩ thị nhân duyên chư Phật tử, hệ tâm thường niệm Thiên Nhân Sư” (Do thân thường ở trong địa ngục, chẳng phải là không thân cận đức đại từ tôn. Do thân thường ở trong luân hồi, chẳng phải là không đích thân nghe pháp vi diệu. Do nhân duyên này, chư Phật tử tâm khăng khăng thường niệm đấng Thiên Nhân Sư). Do vậy, [phân thân của Bồ Tát cùng đại chúng] bèn nhóm họp nhiều như mè, tràn ngập cung trời Đao Lợi; đúng là chuyện hiếm lạ, đặc biệt, xưa nay chưa từng nghe đến!

3.2.1.1.1.2. Tự nghiệp đạo chúng cơ (trần thuật căn cơ của chúng sanh trong các nghiệp đạo)

3.2.1.1.1.2.1. Suất chúng đồng lai cúng Phật (dẫn đại chúng cùng đến cúng dường Phật)

          (Kinh) Dĩ Như Lai thần lực cố, các dĩ phương diện, dữ chư đắc giải thoát tùng nghiệp đạo xuất giả, diệc các hữu thiên vạn ức na-do-tha số, cộng trì hương hoa, lai cúng dường Phật.

          ()以如來神力故各以方面與諸得解脫從業道出者亦各有千萬億那由他數共持香華來供養佛。

          (Kinh: Do thần lực của Như Lai, mỗi phân thân đều từ mỗi phương, cùng với những người đã được giải thoát từ nghiệp đạo thoát ra, số lượng cũng đều là ngàn vạn ức na-do-tha tại mỗi phương, cùng cầm hương hoa đến cúng dường đức Phật).

          [Trong đoạn kinh văn trên đây], chữ Dĩ (以) trước nhằm giới thiệu cái nhân, chữ Dĩ sau nhằm nói đến những người cùng đi theo các phân thân. Do sức thần thông trọn khắp từ các vầng mây âm thanh của đức Phật, cho nên mỗi vị phân thân đều cùng với chúng sanh được Ngài hóa độ từ bốn phương nhóm đến. Giải thoát có lớn và nhỏ sai khác. Theo như trong phần sau là “bất thoái A Nậu Bồ Đề” thì hoàn toàn là đại giải thoát chẳng thể nghĩ bàn! “Trì hương hoa cúng dường” (Cầm hương hoa cúng dường). Chữ Kiện Đạt (Gandha) trong tiếng Phạn được cõi này dịch là Hương. Theo kinh Giới Đức Hương thì có căn hương (hương trích từ rễ cây), chi hương (hương trích từ tinh dầu gỗ hay vỏ của cành cây), và hoa hương (hương phối chế từ tinh dầu của các loại hoa) khác nhau. Chữ Bố Sắt Ba (Puṣpa) trong tiếng Phạn, cõi này dịch là Hoa. Theo kinh Đại Phẩm Bát Nhã, có thiên hoa (hoa trên cõi trời), sanh hoa (hoa trong nhân gian), và tâm hoa (hoa do tâm vận tưởng, hay hoa do giới đức) khác nhau. Nay người cầm [hương, hoa] cúng dường, biểu thị đã trọn đủ Bồ Tát đạo, nguyện thành tựu Như Lai hương, trong sạch, lan xa, ngầm thông, quả và nhân khế hợp nhất trí. Theo kinh Thập Luân, cúng dường có ba thứ:

          1) Một là lợi ích, tức là dùng tứ sự (thức ăn, quần áo, đồ trải nằm, thuốc men) v.v…

          2) Hai là kính tâm (tâm tôn kính), dùng hoa để biểu lộ tâm ý.

          3) Ba là tu hành. Nếu có ai vâng giữ, truyền nói [lời  Phật  dạy] thì

chính là cúng dường.

          [Những điều ấy] đều nhằm biểu lộ lòng thành kính vậy.

3.2.1.1.1.2.2. Nhân hóa bất thoái Bồ Đề (do được Bồ Tát giáo hóa mà chẳng thoái chuyển đạo Bồ Đề)

          (Kinh) Bỉ chư đồng lai đẳng bối, giai nhân Địa Tạng Bồ Tát giáo hóa, vĩnh bất thoái chuyển ư A Nậu Đa La Tam Miệu Tam Bồ Đề.

          ()彼諸同來等輩皆因地藏菩薩教化永不退轉於阿耨多羅三藐三菩提。

          (Kinh: Những người cùng đến ấy đều do Địa Tạng Bồ Tát giáo hóa mà vĩnh viễn chẳng thoái chuyển nơi Vô Thượng Chánh Đẳng Chánh Giác).

          Đây là nêu ra ý nghĩa cúng dường. Bởi lẽ, những người cầm hương hoa cúng dường đều do Địa Tạng Bồ Tát giáo hóa mà được vĩnh viễn chẳng thoái chuyển nơi A Nậu Bồ Đề. Bất Thoái Chuyển sẽ được giải thích trong phần sau. A dịch là Vô, Nậu Đa La dịch là Thượng. Tam Miệu dịch là Chánh. Tam là thiên (thiên vị), hoặc Đẳng (bình đẳng). Bồ Đề dịch là Giác. Ngài Cô Sơn nói: “Do cực quả có cái nhân siêu việt nên nói là Vô Thượng, Chánh là Chánh Quán Trung Đạo. Đẳng là cùng chiếu hai bên; đấy chính là ba trí nơi quả vậy”. Kinh Bi Hoa quyển bốn chép: “Nguyện ngã đắc Thủ Lăng Nghiêm tam-muội. Dĩ tam-muội lực cố, hóa tác địa ngục chi thân, nhập địa ngục trung, dữ địa ngục chúng sanh thuyết vi diệu pháp, khuyến linh phát Bồ Đề tâm. Bỉ chúng văn thị pháp dĩ, tầm phát Bồ Đề chi tâm, tức tiện mạng chung, sanh ư nhân trung. Tùy sở sanh xứ, thường đắc trị Phật, thính pháp, tức đắc bất thoái chuyển địa. Càn Thát Bà, nãi chí nhân phi nhân đẳng, thiên, long, quỷ thần, nãi chí súc sanh, ngạ quỷ đẳng chúng, diệc phục như thị, giai linh phát Bồ Đề tâm” (Nguyện tôi đắc Thủ Lăng Nghiêm tam-muội. Do sức của tam-muội, hóa ra thân địa ngục, vào trong địa ngục để nói pháp vi diệu cho chúng sanh trong địa ngục, khuyên họ phát Bồ Đề tâm. Các chúng sanh ấy nghe pháp đó xong, liền phát Bồ Đề tâm. Họ lập tức mạng chung, sanh trong loài người. Sanh ở bất cứ nơi đâu, thường được gặp Phật, nghe pháp, liền đạt được địa vị Bất Thoái Chuyển. Đối với Càn Thát Bà cho đến nhân, phi nhân v.v… trời, rồng, quỷ thần, cho đến các loài súc sanh, ngạ quỷ v.v… cũng đều như vậy, đều khiến cho họ phát Bồ Đề tâm). Đấy chính là những chúng sanh trong nghiệp đạo do được Địa Tạng Bồ Tát giáo hóa mà chẳng thoái chuyển đạo Bồ Đề.

3.2.1.1.1.2.3. Chí thiên, tâm hỷ quán Phật (tới cõi trời, tâm hoan hỷ quán Phật)

          (Kinh) Thị chư chúng đẳng, cửu viễn kiếp lai, lưu lãng sanh tử, lục đạo thọ khổ, tạm vô hưu tức.

          ()是諸眾等久遠劫來流浪生死六道受苦暫無休息。

          (Kinh: Các chúng sanh ấy từ kiếp lâu xa đến nay trôi lăn trong sanh tử, chịu khổ trong sáu đường chưa từng được tạm ngơi).

          Kinh văn [trong phần này] được chia thành ba tiểu đoạn:

          [Tiểu đoạn thứ nhất], trước hết, nói về sự lưu chuyển trong lục đạo là do trái nghịch cái giác tâm ấy. Bởi lẽ, giác tâm ấy chính là diệu đạo do chư Phật đã chứng, là cội nguồn mà chúng sanh đã mê hoặc. Phàm phu từ kiếp lâu xa đến nay, trôi giạt trong sanh tử là do chẳng phát cái tâm ấy. Sự lưu chuyển ấy có bốn thứ: Một là Kiến Lưu (kiến chấp về tam giới), hai là Dục Lưu (các Hoặc trong Dục Giới, trừ Kiến và Si), ba là Hữu Lưu (các Hoặc trong hai giới trên, tức Sắc Giới và Vô Sắc Giới, trừ Kiến và Si), bốn là Vô Minh Lưu (Si trong tam giới).

          Từ ngữ Xà Đề Xà (Jātika) trong tiếng Phạn được cõi này dịch là “sanh tử”. Kinh Thắng Man nói: “Sanh giả tân, chư căn sanh. Tử giả cố, chư căn diệt” (Sanh là mới vì các căn được sanh ra. Chết là cũ vì các căn đã diệt mất). Do sóng gió ấy, trồi hụp mãi trong sanh tử. Vì thế, kinh Niết Bàn nói: “Ngã tích dữ nhữ đẳng, bất kiến Tứ Chân Đế. Thị cố cửu lưu chuyển, sanh tử đại khổ hải” (Xưa kia ta và các ngươi do chẳng thấy bốn Chân Đế, cho nên lưu chuyển đã lâu trong biển khổ sanh tử lớn). Theo Đại Luận, chúng sanh có ba thứ khổ: Một là thân khổ, tức già, bệnh, chết. Hai là tâm khổ, tức tham, sân, si. Ba là hậu khổ (nỗi khổ trong thân đời sau), tức  địa  ngục, quỷ, súc  sanh. Vì  thế, cầu  được  tạmngưng dứt trong ba sự khổ ấy, há có được chăng?

          (Kinh) Dĩ Địa Tạng Bồ Tát, quảng đại từ bi, thâm thệ nguyện cố, các hoạch quả chứng.

          ()以地藏菩薩廣大慈悲深誓願故各獲果證。

          (Kinh: Do Địa Tạng Bồ Tát từ bi rộng lớn, thệ nguyện sâu xa, cho nên ai nấy đều được chứng quả).

          Kế đó, [trong tiểu đoạn thứ hai, chỉ rõ những người ấy] do Địa Tạng Bồ Tát mà được chứng quả. Đấy là nói chúng sanh trong lục đạo, xưa kia thì muôn loài trầm mê, trôi lăn trong ba đường. Nay thì ngộ giải vượt hẳn Thập Lực, chứng tam thân viên thông. Đó là công sức của ai? Đều là do lòng vô duyên từ bi, sức thệ nguyện vô tác của đức Địa Tạng vậy.

          (Kinh) Ký chí Đao Lợi, tâm hoài dũng dược, chiêm ngưỡng Như Lai, mục bất tạm xả.

          ()既至忉利心懷踊躍瞻仰如來目不暫捨。

          (Kinh: Đã tới trời Đao Lợi, ôm lòng hớn hở, chiêm ngưỡng Như Lai, mắt chẳng tạm rời).

          Tiểu đoạn thứ ba, nói rõ [những người ấy] cảm kích ân sâu của đức Phật. Đã được nương vào thần lực của Như Lai, nên được theo ngài Địa Tạng cùng đến. Trong tâm họ hớn hở sâu xa, bộc lộ ra bên ngoài thành dáng vẻ chiêm ngưỡng ân cần. “Chiêm” (瞻) là [ngắm nhìn] tướng hảo vi diệu, xem ngắm chẳng chán! “Ngưỡng” (仰) là đối với trí huệ sâu xa bèn ngưỡng mộ, mong mỏi. Đại Luận nói: “Đức Phật ngồi trên tòa sư tử, hiện thân tối thắng, quang minh, sắc tượng, oai đức vòi vọi, dùng thần lực ấy cảm động chúng sanh. Nếu có ai tin tưởng, sẽ đều đạt tới A Nậu Bồ Đề”. Đấy là “chiêm ngưỡng, chẳng thể tạm rời” vậy!

3.2.1.1.2. Thích Ca chiếu cáo (đức Thích Ca truyền dạy, bảo ban)

3.2.1.1.2.1. Như Lai ma đảnh phó chúc (Như Lai xoa đầu giao phó, căn dặn)

3.2.1.1.2.1.1. Kinh gia tự thông (người trùng tuyên kinh tường thuật)

          (Kinh) Nhĩ thời, Thế Tôn thư kim sắc tý, ma bách  thiên  vạn  ức bất khả tư, bất khả nghị, bất khả lượng, bất khả thuyết, vô lượng A-tăng-kỳ thế giới, chư phân thân Địa Tạng Bồ Tát Ma Ha Tát đảnh.

          ()爾時世尊舒金色臂摩百千萬億不可思不可議不可量不可說無量阿僧祇世界諸分身地藏菩薩摩訶薩頂。

          (Kinh: Lúc bấy giờ, đức Thế Tôn duỗi cánh tay sắc vàng, xoa đỉnh đầu của các vị phân thân Địa Tạng Bồ Tát Ma Ha Tát trong trăm ngàn vạn ức bất khả tư, bất khả nghị, bất khả lượng, bất khả thuyết, vô lượng A-tăng-kỳ thế giới).

          Đức Phật dùng một cánh tay Mẫu Đà La[5], tay Đâu La Miên mà xoa trọn khắp đỉnh đầu của vô lượng A-tăng-kỳ phân thân Địa Tạng Bồ Tát đã vân tập; đấy chính là thần lực chuyển biến từ Thánh Như Ý Thông. Vì thế, một tay mà có thể xoa trọn khắp vô lượng đỉnh đầu để úy lạo, vỗ về. Đại Luận nói: “Trong tay có chữ Đức, trang nghiêm bằng màng lưới, sẽ dùng cánh tay ấy để an ủi chúng sanh, khiến cho họ chẳng sợ hãi” chính là nói về chuyện này.

3.2.1.1.2.1.2. Phát ngôn phó chúc (thốt lời giao phó, căn dặn)

3.2.1.1.2.1.2.1. Minh kỷ sở hóa chúng (nói về chuyện giáo hóa chúng sanh của chính mình)

3.2.1.1.2.1.2.1.1. Tổng thị hóa môn điều cơ (dạy chung về cách giáo hóa, điều phục các căn cơ)

          (Kinh) Nhi tác thị ngôn: – Ngô ư Ngũ Trược ác thế, giáo hóa như thị cang cường chúng sanh, linh tâm điều phục, xả tà quy chánh, thập hữu nhất, nhị, thượng ác tập tại.

          ()而作是言吾於五濁惡世教化如是剛強眾生令心調伏捨邪歸正十有一二尚惡習在。

          (Kinh: Mà nói như sau: – Ta ở trong đời ác Ngũ Trược, giáo hóa chúng sanh ương bướng như thế, khiến cho tâm họ điều phục, bỏ tà quy chánh, mười phần thì có một hai phần vẫn còn tập khí ác).

          Đấy là nói đức Phật điều phục các căn cơ trong đời ác trược. Như trong kinh Hiền Ngu, người huấn luyện voi tên Tán Xà đã nói: “Phật Thế Tôn giả, nhị chủng tánh sanh: Nhất giả, trí huệ. Nhị giả, đại bi. Cần hành lục sự, sở vị Lục Ba La Mật. Công đức, trí huệ tất cụ túc dĩ, hiệu chi vi Phật. Ký tự năng điều, diệc điều chúng sanh. Cố vân ngã thị Vô Thượng Điều Ngự Sư, chuyển chánh pháp luân châu thế giới, hóa độ vô lượng chư chúng sanh” (Phật Thế Tôn sanh từ hai chủng tánh: Một là trí huệ, hai là đại bi. Siêng hành sáu sự, tức là sáu Ba La Mật. Công đức và trí huệ đều đã trọn đủ, thì gọi là Phật. Đã có thể tự điều phục, lại còn điều phục chúng sanh. Vì thế nói: “Ta là Vô Thượng Điều Ngự Sư, chuyển chánh pháp luân trọn khắp thế giới, hóa độ vô lượng các chúng sanh”). Hãy nên biết: Do ngộ tâm địa quán, nên có thể điều phục chúng sanh ương ngạnh, tức là dùng Tứ Đế để chỉ, dùng Tam Học để dạy, dùng Giới điều phục thân họ, dùng Định và Huệ điều phục tâm họ. Đã tu Tam Học, tự đoạn hai thứ Hoặc.

          Sách Phụ Hành viết: “Xưa kia do không được lưỡi câu Tín móc lấy, đến nỗi tạo trọng tội. Như voi cuồng không có móc sắt [của người luyện voi], không thể khống chế được. Nay lấy móc câu Hổ Thẹn để móc lấy con voi ‘tâm không hổ thẹn’. Vì thế nói là khiến cho cái tâm điều phục”.

          “Xả tà quy chánh”: Kinh Nhất Thiết Pháp Cao Vương nói: “Đại tỳ-kheo chúng nhất thiên nhị bách ngũ thập nhân, kỳ tiên tất thị biện phát phạm-chí, chư lậu dĩ tận, vô phục phiền não, nhất thiết tâm đắc tự tại, đáo đệ nhất bỉ ngạn” (Một ngàn hai trăm năm mươi vị đại tỳ-kheo trước kia đều là hàng phạm-chí[6] búi tóc, đã hết các lậu, chẳng còn phiền não, hết thảy tâm được tự tại, đạt đến bờ kia bậc nhất). [Những vị theo Địa Tạng Bồ Tát đến dự pháp hội] đều đã xả tà quy chánh, đã được thọ ký làm Phật. Điều này cho thấy những người đã được điều phục thì trong mười phần có đến bảy tám phần. Những kẻ có tập khí ác sâu nặng, khó thể điều phục, trong mười phần chỉ có một hai phần. Như hội Pháp Hoa vừa mới bắt đầu, năm ngàn người đứng lên bỏ đi, và các đệ tử của Điều Đạt (Đề Bà Đạt Đa), phạm vương Loa Kế v.v… “Tập” (習) là tập khí; chánh sử (正使, các phiền não chánh yếu, tức Thập Sử) tuy đã đoạn, vẫn còn sót lại tập khí. Thân tuy đã điều phục, tâm còn chưa điều phục.

3.2.1.1.2.1.2.1.2. Biệt minh phân thân độ thoát (nói riêng về sự độ thoát của các phân thân)

3.2.1.1.2.1.2.1.2.1. Lược minh (nêu đại lược)

          (Kinh) Ngô diệc phân thân thiên bách ức, quảng thiết phương tiện. Hoặc hữu lợi căn, văn tức tín thọ.

          ()吾亦分身千百億廣設方便。或有利根聞即信受。

          (Kinh: Ta cũng phân thân trăm ngàn ức, rộng lập phương tiện. Nếu có kẻ lợi căn nghe xong liền tin nhận).

          Điều này cũng giống hệt như phương tiện phân thân độ sanh của Địa Tạng Bồ Tát. Vì thế nói là “cũng”. Kinh Phạm Động nói: “Như Lai tự tri sanh tử dĩ tận, sở dĩ hữu thân, vị dục phước độ chư thiên nhân cố. Nhược kỳ vô thân, tắc chư thiên, thế nhân, vô sở thị hỗ. Do như Đa La thụ, đoạn kỳ đầu giả, tắc bất phục sanh. Phật diệc như thị, dĩ đoạn sanh tử, vĩnh bất phục sanh” (Như Lai tự biết sanh tử đã tận, cho nên có thân là vì muốn tạo phước để độ hàng trời, người. Nếu chẳng có thân thì chư thiên, người đời sẽ không có ai để nương cậy! Ví như cây Đa La, hễ chặt ngọn của nó, nó sẽ chẳng mọc lại được. Phật cũng giống như thế, do đã đoạn sanh tử, vĩnh viễn chẳng sanh nữa). Nay sở dĩ phân thân chính là vì hiển thị Như Lai do pháp mà rủ lòng ứng hiện, ứng với các căn cơ lớn hay nhỏ mà hiện thân thù thắng hay kém cỏi. Từ một thân mà phát xuất thành vô lượng thân; gom Dụng về Thể, chẳng lìa một tánh. Đại Luận quyển ba mươi nói: “Nếu nương theo Thiền Định, đắc Tứ Vô Lượng, Bội Xả, Thắng Xứ, thần thông, biện tài v.v… các công đức rất sâu thảy đều trọn đủ, tùy ý mà hành, không gì chẳng thể làm, hóa thành đủ loại thân cầm thú, nhưng chẳng nhận lấy các pháp của chúng nó. Hoặc có lúc thân đầy chật hư không, hoặc có lúc thân như vi trần, hoặc nhẹ như lông hồng, hoặc nặng như Thái Sơn. Sức thần thông biến hóa như thế đều do Thiền mà đạt được”. Đấy là từ Thân Luân mà hiện thần thông.

          “Quảng thiết phương tiện” (Rộng lập phương tiện) tức là Ý Luân soi xét căn cơ, thực hiện tác dụng hay khéo mà không cần mưu tính, quán tánh và tướng của mười pháp giới, và dùng Khẩu Luân để tuyên nói các thứ pháp, khiến cho người căn cơ đã chín muồi sẽ giải thoát, người [căn cơ] chưa chín muồi sẽ chín muồi, người chưa gieo [thiện căn] sẽ gieo. Vì thế, Đại Luận nói: “Thích Ca Mâu Ni Phật hóa ra các thứ thân trong một thế giới, dùng đủ mọi phương tiện để độ chúng sanh”.

          Đấy là chỉ bày tổng quát về phương tiện phân thân, dưới đây là nói riêng về chuyện điều phục các căn cơ khó hay dễ. “Căn’“căn tánh” thuộc về quá khứ. Đời này, căn tánh lợi hay độn, nói chung là do túc chướng nặng hay nhẹ. Nếu xét theo tứ sanh để luận định lợi hay độn thì như trong kinh Xử Thai, đức Phật bảo Hỷ Kiến Bồ Tát: “Như ngã kim nhật tại mẫu thai trung, dữ chư thập phương thần thông Bồ Tát, thuyết bất thoái chuyển nan hữu chi pháp, diệc dĩ thần thông, nhập thiên tứ sanh, địa ngục tứ sanh, ngạ quỷ tứ sanh, súc sanh tứ sanh. Ư tứ sanh trung, thai hóa nhị sanh tận lậu đắc tật, thấp noãn nhị sanh tận lậu sảo trì. Hóa sanh, thai sanh thị lợi căn nhân, thấp sanh, noãn sanh thị độn căn nhân” (Như ta ngày nay ở trong thai mẹ, cùng các vị thần thông Bồ Tát trong mười phương nói pháp bất thoái chuyển khó có, cũng dùng thần thông vào trong thiên tứ sanh, địa ngục tứ sanh, ngạ quỷ tứ sanh, và súc sanh tứ sanh. Ở trong tứ sanh, thai sanh và hóa sanh, đạt được Lậu Tận nhanh chóng, thấp sanh và noãn sanh thì Lậu Tận chậm hơn. Hóa sanh và thai sanh là người lợi căn; thấp sanh và noãn sanh là kẻ độn căn). Vì thế, Đại Luận nói: “Chư Phật trước hết đã quan sát, biết có kẻ hết thảy phương tiện đều chẳng thể độ được; hoặc là có kẻ khó độ, hoặc dễ giáo hóa; hoặc lại có kẻ [tiếp nhận sự giáo hóa] chậm chạp hay nhanh chóng. Hoặc dùng quang minh, hoặc dùng thần túc, đủ mọi nhân duyên để độ chúng sanh” chính là nói về điều này. Nếu xét theo bốn châu để luận định lợi độn thì như thiên nhân Phí Thị đã nói: “Châu ở phía Bắc ít có Phật pháp, Phật pháp hoằng dương rộng lớn ở ba châu kia. Đông thiên hạ và Tây thiên hạ ít có kẻ trí huệ sắc sảo, phiền não khó hóa độ. Một châu ở phương Nam (Nam Diêm Phù Đề) tuy có lắm kẻ phạm tội, nhưng [có thể] giáo hóa khiến cho họ tuân theo điều lành, tâm dễ điều phục” là nói về chuyện này. Theo sách Ma Ha Chỉ Quán, lợi căn là căn cơ pháp hạnh, độn căn là căn cơ tín hạnh. Như nghe nói “hết thảy chúng sanh vốn có Phật tánh”, họ bèn tin lập tức. Đã tin, bèn lập tức tu; Tam Huệ (Văn, Tư, Tu) nhanh chóng thành tựu, đó là hạng lợi căn!

          (Kinh) Hoặc hữu thiện quả, cần khuyến thành tựu.

          ()或有善果勤勸成就。

          (Kinh: Hoặc là kẻ có thiện quả, bèn siêng gắng khuyên lơn khiến họ thành tựu).

          “Hoặc hữu thiện quả, cần khuyến thành tựu” tức là có kẻ  ngưỡngmộ, tin tưởng lý ấy, tư duy, tu tập, Tam Huệ tiến dần dần thì là phường độn căn. Đại Luận nói: “Nếu chúng sanh toan tạo trọng tội, dạy bảo bằng cách tốt lành họ chẳng nghe theo, bèn dùng lời cay đắng để can gián. Tuy họ khởi sân hận, nhưng về sau sẽ được an ổn. Đấy chính là cách để dạy kẻ độn căn”. “Thiện quả” là nói đến Bồ Đề tâm. Các vị như Thân Tử (Xá Lợi Phất) v.v… là kẻ độn căn tột bậc, trải qua trọn đủ năm thời (Hoa Nghiêm, A Hàm, Phương Đẳng, Bát Nhã, và Pháp Hoa) mới nhanh chóng phát khởi ba cái nhân, được thọ ký vậy!

          (Kinh) Hoặc hữu ám độn, cửu hóa phương quy; hoặc hữu nghiệp trọng, bất sanh kính ngưỡng.

          ()或有暗鈍久化方歸或有業重不生敬仰。

          (Kinh: Hoặc có kẻ ám độn giáo hóa lâu ngày thì mới quy hướng; hoặc có kẻ nghiệp nặng, chẳng sanh lòng kính ngưỡng).

          “Ám độn cửu hóa phương quy” (Ám độn, giáo hóa lâu ngày thì mới quy hướng) là như ngài Sa Già Đà (Sāgata, cõi này dịch là Tiểu Lộ Biên Sanh). “Nghiệp nặng chẳng kính ngưỡng” là như Điều Đạt (Đề Bà Đạt Đa, Devadatta) v.v… Đại Luận, quyển thứ hai mươi sáu nói: “Như người chết thì các thứ trang nghiêm dần dần chuyển thành hư nát, trọn chẳng thể khiến cho sống lại. Đề Bà Đạt Đa cũng như thế; Phật hằng ngày giáo hóa đủ mọi cách, ác tâm [của ông ta] càng chuyển thành dữ dội hơn. Ác bất thiện pháp mỗi ngày một tăng thêm, thậm chí tạo tam nghịch tội”. Lại nói: “Thành Xá Vệ có chín ức nhà, có ba ức nhà mắt thấy Phật, ba ức nhà tai nghe nói có Phật, ba ức nhà chẳng thấy, chẳng nghe!” Đức Phật ở tại Xá Vệ (Śrāvastī) hai mươi lăm năm, mà những chúng sanh ấy chẳng nghe, chẳng thấy, huống hồ kẻ ở xa! Lại như bà lão nghèo không có nhân duyên được hóa độ, chẳng được thấy Phật! Nếu có nhiều lòng tin, lợi ích sẽ vô cùng. Đức Phật giáo hóa, điều phục căn cơ còn như thế, cho nên biết đức Địa Tạng phân thân chẳng dễ dàng! Do vậy, [đức Phật] đặc biệt dùng hành vi của chính mình để hiển thị thần lực khó thể nghĩ tưởng của Bồ Tát!

3.2.1.1.2.1.2.1.2.2. Quảng thị (chỉ bày chi tiết)

3.2.1.1.2.1.2.1.2.2.1. Kết tiền khởi hậu (kết lại phần trước để phát khởi phần sau)

          Đấy là do căn cơ của chúng sanh  lợi  độn  khác  nhau, tin  tưởng hay hủy báng chẳng giống như nhau; cho nên ta phân thân độ thoát”, [đức Phật nói những lời ấy] nhằm kết lại đoạn kinh văn trên đây. Cũng do chúng sanh mỗi mỗi sai khác, cho nên ta phân thân hóa hiện thành nam, nữ v.v… nhằm phát khởi đoạn kinh văn tiếp theo.

          (Kinh) Như thị đẳng bối chúng sanh, các các sai biệt, phân thân độ thoát.     

()如是等輩眾生各各差別分身度脫。

          (Kinh: Các loại chúng sanh như thế ấy, mỗi mỗi sai biệt, [ta đều] phân thân độ thoát).

          “Phân thân độ thoát” là như trong kinh Xử Thai, đức Phật bảo Trí Tích Bồ Tát: “Ngã túc mạng sở hành, giới đức cứu cụ, đắc thành Phật thân, biến hóa tự tại, vô sở bất nhập; diệc nhập ư Kim Xí Điểu, diệc nhập ư long tử, diệc nhập ư ngư miết, ngoan, đà, sở hóa như thị” (Trong đời trước, ta do đã hành giới đức rốt ráo trọn đủ, được thành thân Phật, biến hóa tự tại, không gì chẳng vào, cũng vào trong loài Kim Xí Điểu, cũng vào trong các loài rồng, cũng vào trong các loài cá, ba ba, đồi mồi, cá sấu, những loài được giáo hóa như thế đó). Vì thế, đức Phật hỏi ngài Di Lặc: “Tâm hữu sở niệm, kỷ niệm, kỷ tướng thức da?” (Tâm có ý niệm thì là bao nhiêu niệm, bao nhiêu thức có hình tướng vậy?) Ngài Di Lặc thưa: “Cử thủ đàn chỉ chi khoảnh, tam thập nhị ức bách thiên niệm. Niệm niệm thành hình, hình hình giai hữu thức” (Trong khoảng giơ tay lên khảy ngón tay, có ba mươi hai ức trăm ngàn niệm. Mỗi niệm thành hình, mỗi hình đều có thức). Thức niệm tột bậc vi tế, chẳng thể chấp trì. Do oai thần của đức Phật mà vào trong thức ấy, đều khiến cho đắc độ. Do thức ấy mà giáo hóa, chẳng phải là không có thức. Vì thế nói: “Đạo sư xuất hiện trong cõi đời, chẳng có duyên, sẽ không giáng thần (hạ sanh trong nhân gian). Do muốn độ kẻ chưa độ, bèn thị hiện tòa thành vô vi”. Như Lai phân thân có thể nghĩ bàn nổi chăng?

3.2.1.1.2.1.2.1.2.2.2. Phổ hiện sắc thân (hiện khắp các sắc thân)

          (Kinh) Hoặc hiện nam tử thân, hoặc hiện nữ nhân thân, hoặc hiện thiên long thân, hoặc hiện thần quỷ thân, hoặc hiện sơn, lâm, xuyên, nguyên, hà, trì, tuyền, tỉnh, lợi cập ư nhân, tất giai độ thoát.

          ()或現男子身或現女人身或現天龍身或現神鬼或現山林川原河池泉井利及於人悉皆度脫。

          (Kinh: Hoặc hiện thân nam tử, hoặc hiện thân nữ nhân, hoặc thân trời, rồng, hoặc hiện thân thần, quỷ, hoặc hiện núi, rừng, sông, đồng bằng, rạch, ao, suối, giếng để lợi lạc cho mọi người đều được độ thoát).

          Đây là nêu ra các căn cơ liên quan đến lòng từ bi của đức Phật. Do sức của Vương tam-muội, tuy pháp tánh bất động mà đến ứng hiện. Như trong kinh Xử Thai, đức Phật bảo những người đến dự hội rằng: “Ngô tùng vô số A-tăng-kỳ kiếp, năng đại, năng tiểu, nhập tế vô ngại, hoặc tại thiên thượng, kiếp số giáo hóa. Hoặc tại nhân trung, đại bỉ thọ khổ. Hoặc tại súc sanh, ngạ quỷ, địa ngục giáo hóa, vô sở bất nhập” (Ta từ vô số A-tăng-kỳ kiếp, có thể lớn, có thể nhỏ, vào những chỗ nhỏ nhặt vô ngại, hoặc ở trên trời giáo hóa bao kiếp. Hoặc ở trong nhân gian, thay họ chịu khổ. Hoặc ở trong súc sanh, ngạ quỷ, địa ngục để giáo hóa, không đâu chẳng vào). Điều này đã hiển lộ diệu dụng hóa thân của Như Lai.

          Trước hết là hiện thân nam tử. Nam là đại trượng phu khỏe mạnh, có gia đình. Người sống trên đời chẳng thể không theo đuổi việc gì. Do vậy, ghép Lực (力, sức mạnh) và Điền (田, ruộng) thành chữ Nam (男), hàm ý [đó là] chức phận phải đảm đương [của nam nhân]. “Tử” (子) là cành nhánh thân thiết. Tử có nghĩa là “sanh”, “thiên khai ư Tý” (trời mở mang từ Tý)[7], tĩnh đến tột bậc mà lại động.

          Kế đó là hiện làm trời, rồng. Kinh Bi Hoa nói: “Nhược hữu chúng sanh, sự Ma Hê Thủ La thiên, ngã nguyện hóa thân như Ma Hê Thủ La. Sự bát tý giả, hóa vi bát tý thiên thân. Sự nhật, nguyệt, Phạm Thiên, diệc hóa vi nhật, nguyệt, Phạm Thiên nhi giáo hóa chi, linh trụ thiện pháp” (Nếu có chúng sanh thờ trời Ma Hê Thủ La (Maheśvara), ta nguyện hóa thân như Ma Hê Thủ La. Có kẻ thờ thần tám tay[8], ta bèn hóa thành thân trời tám tay. Đối với kẻ thờ mặt trời, mặt trăng, Phạm Thiên, ta cũng hóa làm mặt trời, mặt trăng, Phạm Thiên để giáo hóa, khiến cho họ trụ trong thiện pháp). Đại Trí Độ Luận nói: “Như đích thân Bồ Tát từng làm đại lực độc long. Lại làm long vương tên là Mã Kiên, là do đại Bồ Tát vì bổn nguyện mà sanh trong loài rồng”.

          Kế đó, hiện thân thần quỷ. Như Uế Tích Đại Quyền Thần Vương (Vajra Krodha Mahābala Ucchuṣma, Ô Sô Sắt Ma Minh Vương), Đại Lực Minh Vương (Mahābala Vidyārāja) v.v… hoặc như hiện làm đại quỷ để hàng phục quỷ Khoáng Dã v.v… Núi, rừng, sông, đồng bằng, rạch, ao, suối, giếng, đấy là hiện làm y báo để độ người. Như kinh Bi Hoa nói: “Phật nhân trung vị cứu Diêm Phù Đề nhân dân cơ ngạ, tư duy xả thân thể huyết nhục. Trung lộ hữu sơn, danh Thủy Ái Hộ, tự đầu kỳ thân, tức thành nhục sơn, cao nhất do-tuần, nãi chí cao thiên do-tuần” (Trong lúc tu nhân, vì cứu nhân dân trong Diêm Phù Đề bị đói kém, Bồ Tát suy nghĩ xả thân thể huyết nhục. Giữa đường có một quả núi tên là Thủy Ái Hộ, Ngài bèn tự gieo mình, liền trở thành một núi thịt, cao một do-tuần cho đến cao một ngàn do-tuần).

***

[1] Đây đều là những con số lớn. Theo phẩm A Tăng Kỳ trong kinh Hoa Nghiêm, một trăm lạc-xoa (một trăm ngàn) là một câu-chi. Câu-chi lần câu-chi là một A-du-đa. A-du-đa lần A-du-đa là một Na-do-tha, lần lượt như thế cho đến Chí lần Chí là một A Tăng Kỳ. A Tăng Kỳ lần A Tăng Kỳ là một A Tăng Kỳ Chuyển. A Tăng Kỳ Chuyển lần A Tăng Kỳ Chuyển là một Vô Lượng. Vô Lượng lần Vô Lượng là một Vô Lượng Chuyển. Vô Lượng Chuyển lần Vô Lượng Chuyển là một Vô Biên. Vô Biên lần Vô Biên là một Vô Biên Chuyển, Vô Biên Chuyển lần Vô Biên Chuyển là một Vô Đẳng. Vô Đẳng lần Vô Đẳng là một Vô Đẳng Chuyển. Vô Đẳng Chuyển lần Vô Đẳng Chuyển là một Bất Khả Số. Bất Khả Số lần Bất Khả Số là một Bất Khả Số Chuyển. Bất Khả Số Chuyển lần Bất Khả Số Chuyển là một Bất Khả Xưng. Lần lượt tính lên như vậy, ta có các con số Bất Khả Xưng Chuyển, Bất Khả Tư Chuyển, Bất Khả Tư, Bất Khả Tư Chuyển, Bất Khả Lượng, Bất Khả Lượng Chuyển, Bất Khả Thuyết, Bất Khả Thuyết Chuyển.

[2] Sách này có tên gọi đầy đủ là Quảng Dư Ký do Thái Phương Bỉnh biên soạn dưới đời Thanh, hoàn tất bản cảo vào năm Khang Hy 25 (1686), nội dung ghi chép ranh giới, địa hình, sông núi, thổ sản, chùa miếu, các bậc danh thần, nhân vật, liệt nữ v.v… của mười lăm tỉnh và đặc khu: Trực Lệ, Giang Nam, Chiết Giang, Giang Tây, Phước Kiến v.v… Chí Đức là niên hiệu của Đường Túc Tông (Lý Tự Thăng) từ năm 756 đến năm 758.

[3] Tân La là một vương triều tồn tại từ năm 57 trước Công Nguyên cho đến năm 950 công nguyên, có địa bàn thuộc miền Nam và Trung phần của bán đảo Đại Hàn. Cùng với Bách Tế (Baekje) và Cao Câu Ly (Goguryeo), hình thành Tam Hàn (Tam Quốc) trong cổ sử Đại Hàn. Vương triều này do Phác Hách Cư Thế (Park Hyeokgeose) sáng lập. Phật giáo được truyền vào Tân La vào năm 528. Cho đến thế kỷ thứ bảy, tại Tân La đã có các tông phái Niết Bàn, Pháp Tướng, Hoa Nghiêm, Pháp Tánh. Cuối thế kỷ thứ chín, Thiền Tông Tân La đã hình thành chín phái (thường gọi là Cửu Sơn). Ngài Kim Kiều Giác (696-794) thuộc hoàng thất Tân La.

[4] Trực Lệ là một đơn vị hành chánh đặc biệt đặt ra dưới đời Minh, có ý nghĩa “trực thuộc quyền quản trị trực tiếp của trung ương”, không thiết lập chức Thừa Tuyên Bố Chánh Sứ Ty như các tỉnh khác. Dưới thời Minh, Trực Lệ Trì Châu Phủ có phạm vi bao gồm các huyện Trì Châu, Đồng Lăng, Thanh Dương, Thạch Đài, Đông Chí…

[5] Mẫu Đà La (Mudra) là thủ ấn. “Cánh tay Mẫu Đà La” là cánh tay kết ấn. Đâu La Miên là sợi tơ từ Đâu La (Tūla), tức Dương Hoa, hoặc sợi tơ mịn của một loại tằm. Cả hai từ ngữ đều nhằm ca ngợi cánh tay đẹp đẽ luôn ban bố ân đức, mềm mịn của đức Phật.

[6] Phạm Chí (梵志, Brahmacharin) thường được giải thích là “chí hướng Phạm Thiên” tức là những người tu theo đạo Bà La Môn, mong sanh lên trời Phạm Thiên. Đây cũng là từ ngữ chỉ chung các ngoại đạo.

[7] Tử (con) và Tý trong Thiên Can (Tý, Sửu, Dần…) là cùng một chữ “子”.

[8] Bát Tý Thiên (Nārāyaṇa) còn gọi là Na La Diên, hoặc Đại Lực Thiên Thần, là một danh xưng khác của Tỳ Nữu Thiên (Vishnu).


ĐỊA TẠNG BỒ TÁT BỔN NGUYỆN KINH KHOA CHÚ