SEN BÚP DÂNG ĐỜI
Nguyễn Minh Tiến soạn dịch
Tiểu sử Đại sư Thật Hiền
Lời dẫn
Vào đời Thanh, Bành Tế Thanh thu thập các trước tác, di thư của Đại sư Thật Hiền, khắc in thành Tỉnh Am Pháp sư ngữ lục (省菴法師語錄), gồm 2 quyển, hiện còn trong Vạn tân toản Tục tạng kinh, Tập 62, kinh số 1179, bắt đầu từ trang 232, tờ c, dòng thứ 6.
Cuối quyển 2 của bản ngữ lục này có phụ đính Tỉnh Am Pháp sư truyện (省菴法師語錄), bắt đầu từ trang 259, tờ a, dòng thứ 12.
Đại sư viên tịch vào năm 1734, niên hiệu Ung Chính thứ 12 đời Thanh. Tiểu truyện này được biên soạn vào niên hiệu Càn Long thứ 10 (1745), chỉ 11 năm sau khi Đại sư qua đời, nên rất đáng tin cậy. Tham khảo nhiều tài liệu khác viết về cuộc đời Đại sư thì thấy dường như phần lớn các chi tiết đều xuất phát từ bản văn này. Vì thế, ở đây chúng tôi chuyển dịch trọn vẹn bản tiểu truyện này để độc giả tiện tham khảo.
Tỉnh Am Pháp sư truyện (省庵法師傳)
Đại sư tên húy là Thật Hiền (實賢), tên tự Tư Tề (思齊), pháp hiệu Tỉnh Am (省庵), thuộc dòng họ Thời ở Thường Thục. Gia đình vốn nhiều đời truyền nối theo Nho học. Ngài sinh ra đã không chịu ăn thức ăn mặn hôi tanh, tuổi còn thơ ấu đã sớm nuôi chí thoát tục.
Cha ngài mất sớm, mẹ là người họ Trương, biết ngài sẵn đủ căn lành đời trước nên khuyến khích xuất gia. Năm 7 tuổi đã đến am Thanh Lương lạy ngài Dung Tuyển làm thầy. Ngài thông tuệ minh mẫn, hết thảy Kinh điển đã đọc qua đều nhớ kỹ không quên. Năm 15 tuổi chính thức xuống tóc, lìa tục xuất gia, khi ấy đã tinh thông hết thảy sách vở thế gian, biết làm thơ và giỏi môn thư pháp. Các bậc tiền bối [tài danh đương thời] như Tiền Ngọc Hữu, Hứa Dương Cốc đều muốn cùng ngài kết giao [bàn chuyện thơ văn], nhưng không một giây phút nào ngài xao lãng việc lớn là thoát vòng sinh tử.
Ngài một lòng hiếu thảo. Khi mẹ mất, ngài quỳ trước bàn Phật tụng kinh Báo ân đủ 49 ngày. Sau đó mỗi dịp kỵ giỗ hằng năm đều cung kính thiết cúng.
Một hôm đến chùa Phổ Nhân, nhìn thấy có vị tăng đột ngột ngã lăn ra đất chết, ngài hốt nhiên nhận rõ được ý nghĩa vô thường trong kiếp sống, nên càng tự thúc giục mình nỗ lực tu tiến mãnh liệt hơn.
Năm 24 tuổi, ngài thọ giới Cụ túc tại chùa Chiêu Khánh, nghiêm cẩn học tập giữ theo Giới luật, không rời y bát, mỗi ngày chỉ ăn một bữa, tỉnh giác đến mức không lúc nào đặt lưng xuống chiếu, luôn noi theo như thế làm sự hành trì thường nhật.
Đến năm Canh Dần, ngài theo Pháp sư Cừ Thành nghe giảng kinh Pháp Hoa, rồi tìm đến ra mắt Pháp sư Thiệu Đàm nghe giảng về Duy Thức, Lăng Nghiêm, Chỉ Quán… Ngài học tập nghiên cứu cả ngày đêm, chưa được ba năm mà các yếu chỉ Tam quán, Thập thừa của tông Thiên Thai, cùng với các môn học phân biện về tánh và tướng đều thông suốt. Pháp sư Thiệu Đàm liền thọ ký cho ngài là truyền nhân đời thứ tư của phái Linh Phong, thuộc Thiên Thai chánh tông.
Vào năm Giáp Ngọ, ngài đến lễ Hòa thượng Linh Thứu tại Sùng Phúc, tham câu thoại đầu “ai là người niệm Phật”. Ngài miên mật nắm giữ thoại đầu ấy, ròng rã qua bốn tháng trời, hốt nhiên có sự khế ngộ, tự nói ra rằng: “Mộng ta đã tỉnh rồi.”
Kể từ đó ngài hành xử ứng biến tùy cơ không ngăn ngại, biện tài dọc ngang tự tại. Hòa thượng Linh Thứu muốn giao phó truyền thừa, ngài không nhận, từ biệt ra đi, rồi đến ẩn cư nơi chùa Chân Tịch, ban ngày đọc Tam tạng Kinh điển, đêm hành trì niệm danh hiệu Phật A-di-đà. Đủ kỳ hạn ba năm, tăng chúng trong chùa cung thỉnh giảng kinh Pháp Hoa, ngài lên tòa khai giảng, lời lời đều như sông tuôn suối trào, lưu loát không ngăn ngại.
Đầu xuân năm Mậu Tuất, Đại sư dừng chân ở chùa Long Hưng, Hàng Châu, Pháp sư Thiệu Đàm bảo thay ngài giảng giải Kinh, Luật, đại chúng người người đều ngợi khen xưng tán.
Mùa xuân năm Kỷ Hợi, ngài đến chiêm bái xá-lợi Phật trong tháp thờ ở núi Tứ Minh. Ngài đốt ngón tay cúng Phật trước sau 5 lần. Mỗi năm đến ngày kỷ niệm Phật nhập Niết-bàn đều diễn giảng hai kinh Di Giáo và Di Đà, nêu rõ ý nghĩa tâm này là Phật, nhờ đó mà căn cơ ba bậc đều được dắt dẫn, Chánh pháp giáo hóa rộng khắp mọi nơi; tăng ni, cư sĩ toàn vùng Giang Chiết đều hướng tâm quy ngưỡng. Trải qua mười năm, pháp tòa càng thêm hưng thịnh, rộng truyền đến khắp muôn phương. Đại sư cũng nhận lời cung thỉnh đến các chùa Vĩnh Phúc, Phổ Khánh và Hải Vân. Mỗi lần ngài đến đâu thì khuôn phép nơi ấy được chấn chỉnh tươi mới, thanh quy được nghiêm túc kính tuân. Mỗi khi giảng các kinh Lăng Nghiêm, Pháp Hoa… người đến nghe và thưa hỏi nghĩa kinh luôn tụ tập chen chúc nhau dưới pháp tòa.
Không bao lâu, Đại sư lại lui về chùa Tiên Lâm thuộc Hàng Châu ẩn tu, đóng cửa chuyên tâm, ra sức tu tập Tịnh độ.
Mùa đông năm Kỷ Dậu, cư sĩ Hàng châu gồm các ông Mao Tĩnh Viễn, Diệp Thăng, Hoàng Phủ Tử Nghi, Lý Chấp Ngọc, cùng các thầy Giám viện là Tỉnh Cung, Nhất Vi… đồng đến cung thỉnh ngài trụ trì chùa Phạm Thiên ở núi Phụng Sơn. Từ đó, ngài dứt hết muôn duyên, chỉ toàn nêu cao Tịnh độ, đặt kỳ hạn tu tập lâu dài, lập quy ước nghiêm túc cho mọi người, ngày đêm sáu thời cùng hỗ trợ, khuyên nhắc, thúc giục nhau gắng sức tu tập. Người người đều cho rằng ngài là Đại sư Vĩnh Minh tái thế.
Ngài giữ cương vị trụ trì các chùa trước sau hơn mười năm, đệ tử được hóa độ xuất gia cùng cư sĩ quy y thọ giới có đến mấy trăm người. Trong số đó, những ai theo học văn thơ thì ngài thống thiết khuyên răn, dạy rằng: “Mạng người chỉ trong hơi thở, sao có thể nhàn rỗi theo học chữ nghĩa thế tục? Chỉ một chút sai lầm đã rơi ngay vào đời khác, [khi ấy] muốn thoát ra thật khó lắm thay!”
Vào ngày lễ Phật Thành đạo năm Quí Sửu, ngài nói với đệ tử: “Năm sau, ngày 14 tháng 4 ta đi xa rồi.” Từ đó, ngài đóng cửa ẩn tu, giữ lòng thanh tịnh, đặt kỳ hạn mỗi ngày đêm niệm đủ mười vạn câu Phật hiệu.
Sang năm sau, Giáp Dần, mồng hai tháng tư, ngài mở cửa ra thất. Đến ngày 12 nói với đại chúng: “Trước đây mười ngày ta đã nhìn thấy Tây phương Tam Thánh giáng hạ giữa hư không. Nay lại thấy lần nữa. Đã đến lúc ta sinh về Tịnh độ.” Liền dặn dò công việc trong chùa, lại đi từ biệt khắp hết những cư sĩ hộ pháp trong thành. Thị giả thỉnh lưu kệ, ngài viết:
身在華中佛現前。
佛光 來照紫金蓮。
心隨諸佛往生去。
無去來中事 宛然。
Thân tại hoa trung, Phật hiện tiền,
Phật quang lai chiếu tử kim liên.
Tâm tùy chư Phật vãng sinh khứ,
Vô khứ lai trung sự uyển nhiên.
Dịch nghĩa:
Thân sinh ra giữa đóa hoa, Phật hiện trước mặt,
Hào quang Phật soi chiếu, hoa sen màu vàng sắc tía.
Tâm nương theo chư Phật được vãng sinh rồi,
Trong chỗ không đến đi, mọi việc đều hiển nhiên rõ ràng.
Tạm dịch:
Thân giữa hoa, Phật hiện tiền,
Phật quang tỏa rạng tòa sen chói ngời.
Tâm nương Phật vãng sinh rồi,
Đến đi dứt bặt, mặc tình chiếu soi.
Viết kệ xong, ngài bảo đệ tử: “Vào ngày mười bốn, ta định vãng sinh, các ông hãy vì ta tập hợp đại chúng cùng niệm Phật.”
Ngày 13, ngài thôi không ăn uống, suốt ngày ngồi thẳng người trang nghiêm, mắt khép hờ. Đến canh năm tắm rửa, thay y phục nghiêm trang rồi ngồi kiết già quay mặt về hướng tây. Khoảng giờ tỵ ngày 14, mọi người khắp chốn gần xa cùng tụ tập về, thảy đều gạt nước mắt, quỳ lạy thưa thỉnh: “Mong Đại sư ở lại cõi đời cứu độ muôn người.”
Ngài mở mắt dạy rằng: “Ta đi rồi trở lại ngay. Giải thoát sinh tử là việc lớn, mỗi người hãy tự mình tĩnh tâm niệm Phật.”
Nói xong liền chắp hai tay, niệm danh hiệu Phật rồi thị tịch. Giây lát, nơi lỗ mũi chảy xuống vài giọt nước, dung nhan vẫn tươi nhuận sáng đẹp, cho đến khi liệm vào áo quan cũng không thay đổi.
Trong năm ấy, vào ngày mồng tám tháng chạp, trụ trì chùa Ngu Sơn là Đại sư Vô Trụ [cùng bốn chúng đệ tử] cung kính thỉnh đưa linh cốt ngài về dựng tháp thờ nơi phía tây vách núi Phất Thủy, thuộc Cầm Xuyên.
Niên hiệu Càn Long năm thứ 7, ngày rằm tháng hai, bốn chúng đệ tử vùng Mậu sơn tưởng nhớ đạo hạnh cao vời của ngài, liền cung thỉnh linh cốt về xây dựng tháp thờ bên phải chùa A-dục Vương. Tháp cũ [ở Cầm Xuyên] được dùng làm nơi thờ y bát của ngài.
Đại sư sinh vào ngày mồng 8 tháng 8 năm thứ 24 niên hiệu Khang Hy, 49 tuổi đời, 25 tuổi đạo.
Tác phẩm để lại có 108 bài thơ Tịnh độ, Chú giải Tây phương phát nguyện văn, Tục Vãng sanh truyện, Đông Hải Nhược giải, các bài văn sám Xá-lợi, Niết-bàn… tất cả đều được lưu hành rộng rãi.
Ngày 9 tháng 9 năm Ất Sửu, niên hiệu Càn Long thứ 10, người đồng học là Tây Am Luật Nhiên ghi lại dưới mái hiên bên phải Tam Phong Tịch Chiếu Đường.
Lời phụ của người Việt dịch
Căn cứ theo nội dung của Tỉnh Am Pháp sư ngữ lục (省菴法師語錄) gồm hai quyển, thì Đại sư còn lưu lại được những trước tác sau:
Quyển Thượng
– Khuyến phát bồ đề tâm văn
– Niết-bàn hội phát nguyện văn
– Hồi hướng kệ (kèm bài tựa)
– Niệm Phật kệ
– Niệm Phật khai thị
– Thị thiền giả niệm Phật kệ
– Niệm Phật cảnh sách
– Thị Lữ cư sĩ kệ
– Cảnh thế kệ
– Thích-ca Như Lai xá-lợi bảo tháp tán
– A-di-đà Phật tượng tán
– Quán Âm Đại sĩ tượng tán
– Thị hiện Quán Âm tượng tán (kèm bài tựa)
– Dược Sơn Đại sư thư không đồ tán
– Huyết thư văn thù tượng tán
– Tịnh nghiệp đường minh
– Thốn hương trai minh
– Trai đường minh
– Đông minh
– Tây minh
– Khán kinh minh
– Dục thất minh
– Xí thất minh
– Ngoạ thất minh
– Xá-lợi sám tự
– Trùng kiến Niết-bàn hội tự
– Niết-bàn hội ước tự
– Niết-bàn hội kết đệ nhị tự
– Đảo Linh Man Bồ Tát văn
– Dữ Mao Tĩnh Viễn cư sĩ thư
– Ứng phó thuyết
– Nhiên chỉ vấn biện
– Niệm Phật trước ma biện
– Mai Phương Pháp sư vãng sinh truyện
– Thánh Nhãn Thượng nhân vãng sinh truyện
– Niệm Phật quy ước (kèm lời dẫn)
– Tịnh nghiệp đường quy ước (kèm lời dẫn)
Quyển Hạ
– Khuyến tu Tịnh độ thi (có lời tựa)
– Bát khổ thi
– Phát nguyện kệ
– Bất tịnh quán tụng (kèm lời tựa)
– Tứ niệm xứ tụng (kèm lời tựa)
– Chủng thụ thán
– Đề Lam Điền thúc họa Liên hoa Phật quốc đồ
– Xả thân kì vũ ca (kèm lời tựa)
– Tặng Đông A cư sĩ (nhị thủ)
– Tương phó chiết trung lưu biệt Sóc Phương cư sĩ
– Lộc thủy nang
– Lễ tháp kỷ sự (bát thủ – kèm lời tựa)
– Ngẫu thành tứ thủ
– Niệm Phật thuật hoài
– Từ thế kệ
Hầu hết các tác phẩm nêu trên là những bài thơ, kệ ngắn, có nhiều bài rất ngắn, chỉ bốn hoặc tám câu thơ… được viết ra với nội dung nhắc nhở, sách tấn sự tu tập. Riêng bài Từ thế kệ ở cuối quyển hạ chính là bài kệ Đại sư viết trước khi thị tịch, đã nói ở trên.
Các bài tụng Bất tịnh quán và Tứ niệm xứ trong quyển thượng đã được Đại sư Ấn Quang chọn đưa vào khắc in trong phần phụ đính của An Sĩ Toàn thư, nhân đó chúng tôi cũng đã chuyển dịch trọn vẹn sang Việt ngữ và xuất bản chung với bộ Toàn thư này.
Điểm qua các tiêu đề tác phẩm trên cũng đã thấy rõ được tinh thần “văn dĩ tải đạo” trong các trước tác của Đại sư. Mong rằng một ngày nào đó có đủ nhân duyên, chúng tôi sẽ chuyển dịch toàn bộ ngữ lục này sang tiếng Việt để giới thiệu cùng độc giả.
Phần dịch âm – Khuyến phát Bồ-đề tâm văn
Bất tiếu ngu hạ phàm phu tăng Thật Hiền, khấp huyết khể tảng, ai cáo hiện tiền đại chúng, cập đương thế tịnh tín nam nữ đẳng, duy nguyện từ bi, thiểu gia thính sát.
Thường văn nhập đạo yếu môn, phát tâm vi thủ; tu hành cấp vụ, lập nguyện cư tiên. Nguyện lập tắc chúng sinh khả độ, tâm phát tắc Phật đạo kham thành. Cẩu bất phát quảng đại tâm, lập kiên cố nguyện, tắc túng kinh trần kiếp, y nhiên hoàn tại luân hồi; tuy hữu tu hành, tổng thị đồ lao tân khổ. Cố Hoa Nghiêm kinh vân: “Vong thất Bồ-đề tâm, tu chư thiện pháp, thị danh ma nghiệp.” Vong thất thượng nhĩ, huống vị phát hồ? Cố tri dục học Như Lai thừa, tất tiên cụ phát Bồ Tát nguyện, bất khả hoãn dã.
Nhiên tâm nguyện sai biệt, kì tướng nãi đa; nhược bất chỉ trần, như hà xu hướng? Kim vị đại chúng lược nhi ngôn chi. Tướng hữu kỳ bát: sở vị tà, chính, chân, ngụy, đại, tiểu, thiên, viên thị dã.
Vân hà danh vi tà, chính, chân, ngụy, đại, tiểu, thiên, viên da?
Thế hữu hành nhân, nhất hướng tu hành, bất cứu tự tâm, đãn tri ngoại vụ. Hoặc cầu lợi dưỡng, hoặc háo danh văn, hoặc tham hiện thế dục lạc, hoặc vọng vị lai quả báo. Như thị phát tâm, danh chi vi tà.
Ký bất cầu lợi dưỡng danh văn, hựu bất tham dục lạc quả báo, duy vị sinh tử, vị Bồ-đề. Như thị phát tâm danh chi vi chính.
Niệm niệm thượng cầu Phật đạo, tâm tâm hạ hóa chúng sinh. Văn Phật đạo trường viễn, bất sinh thối khiếp; quán chúng sinh nan độ, bất sinh yếm quyện. Như đăng vạn nhận chi sơn, tất cùng kỳ đỉnh; như thượng cửu tằng chi tháp, tất tạo kỳ điên. Như thị phát tâm danh chi vi chân.
Hữu tội bất sám, hữu quá bất trừ, nội trược ngoại thanh, thủy cần chung đãi. Tuy hữu hảo tâm, đa vi danh lợi chi sở giáp tạp; tuy hữu thiện pháp, phục vi tội nghiệp chi sở nhiễm ô. Như thị phát tâm danh chi vi ngụy.
Chúng sinh giới tận, ngã nguyện phương tận; Bồ-đề đạo thành, ngã nguyện phương thành. Như thị phát tâm, danh chi vi đại.
Quán tam giới như lao ngục, thị sinh tử như oán gia; đãn kỳ tự độ, bất dục độ nhân. Như thị phát tâm danh chi vi tiểu.
Nhược ư tâm ngoại kiến hữu chúng sinh, cập dĩ Phật đạo, nguyện độ nguyện thành; công huân bất vong, tri kiến bất mẫn. Như thị phát tâm danh chi vi thiên.
Nhược tri tự tính thị chúng sinh, cố nguyện độ thoát. Tự tính thị Phật đạo, cố nguyện thành tựu. Bất kiến nhất pháp ly tâm biệt hữu. Dĩ hư không chi tâm, phát hư không chi nguyện, hành hư không chi hạnh, chứng hư không chi quả, diệc vô hư không chi tướng khả đắc. Như thị phát tâm danh chi vi viên.
Tri thử bát chủng sai biệt, tắc tri thẩm sát; tri thẩm sát, tắc tri khứ thủ; tri khứ thủ, tắc khả phát tâm.
Vân hà thẩm sát? Vị ngã sở phát tâm, ư thử bát trung, vi tà vi chính? Vi chân vi ngụy? Vi đại vi tiểu? Vi thiên vi viên?
Vân hà khứ thủ? Sở vị khứ tà, khứ ngụy, khứ tiểu, khứ thiên; thủ chính, thủ chân, thủ đại, thủ viên. Như thử phát tâm, phương đắc danh vi chân chính phát Bồ-đề tâm dã.
Thử Bồ-đề tâm, chư thiện trung vương; tất hữu nhân duyên, phương đắc phát khởi. Kim ngôn nhân duyên, lược hữu thập chủng.
Hà đẳng vi thập? Nhất giả niệm Phật trọng ân cố, nhị giả niệm phụ mẫu ân cố, tam giả niệm sư trưởng ân cố, tứ giả niệm thí chủ ân cố, ngũ giả niệm chúng sinh ân cố, lục giả niệm sinh tử khổ cố, thất giả tôn trọng kỷ linh cố, bát giả sám hối nghiệp chướng cố, cửu giả cầu sinh Tịnh độ cố, thập giả vi linh Chánh pháp đắc cửu trụ cố.
Vân hà niệm Phật trọng ân? Vị ngã Thích-ca Như Lai, tối sơ phát tâm, vị ngã đẳng cố, hành Bồ Tát đạo, kinh vô lượng kiếp, bị thụ chư khổ. Ngã tạo nghiệp thời, Phật tắc ai lân, phương tiện giáo hóa, nhi ngã ngu si, bất tri tín thụ. Ngã đoạ địa ngục, Phật phục bi thống, dục đại ngã khổ, nhi ngã nghiệp trọng, bất năng cứu bạt. Ngã sinh nhân đạo, Phật dĩ phương tiện, linh chủng thiện căn, thế thế sinh sinh, tùy trục ư ngã, tâm vô tạm xả. Phật sơ xuất thế, ngã thượng trầm luân, kim đắc nhân thân, Phật dĩ diệt độ. Hà tội nhi sinh mạt pháp? Hà phúc nhi dự xuất gia? Hà chướng nhi bất kiến kim thân? Hà hạnh nhi cung phùng xá-lợi?
Như thị tư duy, hướng sử bất chủng thiện căn, hà dĩ đắc văn Phật pháp? Bất văn Phật pháp, yên tri thường thụ Phật ân? Thử ân thử đức, khâu sơn nan dụ. Tự phi phát quảng đại tâm, hành Bồ Tát đạo, kiến lập Phật pháp, cứu độ chúng sinh, túng sử phấn thân toái cốt, khởi năng thù đáp? Thị vi phát Bồ-đề tâm đệ nhất nhân duy-ên dã.
Vân hà niệm phụ mẫu ân? Ai ai phụ mẫu, sinh ngã cù lao. Thập nguyệt tam niên, hoài thai nhũ bộ; suy kiền khứ thấp, ân khổ thổ cam, tài đắc thành nhân. Chỉ vọng thiệu kế môn phong, cung thừa tế tự. Kim ngã đẳng ký dĩ xuất gia, lạm xưng Thích tử, thiểm hiệu sa-môn. Cam chỉ bất cung, tế tảo bất cấp; sinh bất năng dưỡng kì khẩu thể, tử bất năng đạo kì thần linh. Ư thế gian tắc vi đại tổn, ư xuất thế hựu vô thật ích. Lưỡng đồ kí thất, trọng tội nan đào. Như thị tư duy, duy hữu bá kiếp thiên sinh, thường hành Phật đạo, thập phương tam thế phổ độ chúng sinh, tắc bất duy nhất sinh phụ mẫu, sinh sinh phụ mẫu, câu mông bạt tế; bất duy nhất nhân phụ mẫu, nhân nhân phụ mẫu, tận khả siêu thăng. Thị vi phát Bồ-đề tâm đệ nhị nhân duyên dã.
Vân hà niệm sư trưởng ân? Phụ mẫu tuy năng sinh dục ngã thân, nhược vô thế gian sư trưởng, tắc bất tri lễ nghĩa; nhược vô xuất thế sư trưởng, tắc bất giải Phật pháp. Bất tri lễ nghĩa, tắc đồng ư dị loại; bất giải Phật pháp, tắc hà dị tục nhân? Kim ngã đẳng thố tri lễ nghĩa, lược giải Phật pháp, ca-sa bị thể, giới phẩm triêm thân. Thử chi trọng ân, tùng sư trưởng đắc. Nhược cầu tiểu quả, cẩn năng tự lợi; kim vi Đại thừa, phổ nguyện lợi nhân, tắc thế xuất thế gian nhị chủng sư trưởng, câu mông lợi ích. Thị vi phát Bồ-đề tâm đệ tam nhân duyên dã.
Vân hà niệm thí chủ ân? Vị ngã đẳng kim giả, nhật dụng sở tư, tịnh phi kỷ hữu. Nhị thời chúc phạn, tứ quý y thường, tật bệnh sở nhu, thân khẩu sở phí, thử giai xuất tự tha lực, tương vi ngã dụng. Bỉ tắc kiệt lực cung canh, thượng nan hồ khẩu; ngã tắc an toạ thụ thực, do bất xứng tâm. Bỉ tắc phưởng chí bất dĩ, do tự gian nan; ngã tắc an phục hữu dư, ninh tri ái tích? bỉ tắc tất môn bồng hộ, nhiễu nhưỡng chung thân; ngã tắc quảng vũ nhàn đình, du du tốt tuế. dĩ bỉ lao nhi cung ngã dật, ư tâm an hồ? Tương tha lợi nhi nhuận kỉ thân, ư lí thuận hồ? Tự phi bi trí song vận, phúc tuệ nhị nghiêm, đàn tín triêm ân, chúng sinh thụ tứ, tắc lạp mễ thốn ti, thù thường hữu phân, ác báo nan đào. Thị vi phát Bồ-đề tâm đệ tứ nhân duyên dã.
Vân hà niệm chúng sinh ân? Vị ngã dữ chúng sinh, tùng khoáng kiếp lai, thế thế sinh sinh, hỗ vi phụ mẫu, bỉ thử hữu ân. Kim tuy cách thế hôn mê, hỗ bất tương thức, dĩ lí suy chi, khởi vô báo hiệu? Kim chi phi mao đái giác, an tri phi tích vi kì tử hồ? Kim chi nhuyễn động quyên phi, an tri bất tằng vi ngã phụ hồ? Mỗi kiến ấu ly phụ mẫu, trường nhi dung mạo đô vong, hà huống túc thế thân duyên, kim tắc Trương Vương nan ký. Bỉ kỳ hào hô ư địa ngục chi hạ, uyển chuyển ư ngạ quỷ chi trung, khổ thống thùy tri? Cơ hư an tố? Ngã tuy bất kiến bất văn, bỉ tất cầu chửng cầu tế. Phi kinh bất năng trần thử sự, phi Phật bất năng đạo thử ngôn, bỉ tà kiến nhân, hà túc dĩ tri thử? Thị cố Bồ Tát quán ư lâu nghĩ, giai thị quá khứ phụ mẫu, vị lai chư Phật, thường tư lợi ích, niệm báo kỳ ân. Thị vi phát Bồ-đề tâm đệ ngũ nhân duyên dã.
Vân hà niệm sinh tử khổ? Vị ngã dữ chúng sinh, tùng khoáng kiếp lai, thường tại sinh tử, vị đắc giải thoát. Nhân gian thiên thượng, thử giới tha phương, xuất một vạn đoan, thăng trầm phiến khắc. Nga yên nhi thiên, nga yên nhi nhân, nga yên nhi địa ngục, súc sinh, ngạ quỷ. Hắc môn triêu xuất nhi mộ hoàn, thiết quật tạm ly nhi hựu nhập. Đăng đao sơn dã, tắc cử thể vô hoàn phu; phàn kiếm thụ dã, tắc phương thốn giai cát liệt. Nhiệt thiết bất trừ cơ, thôn chi tắc can trường tận lạn; dương đồng nan liệu khát, ẩm chi tắc cốt nhục đô mi. Lợi cứ giải chi, tắc đoạn nhi phục tục; xảo phong xuy chi, tắc tử dĩ hoàn sinh. Mãnh hỏa thành trung, nhẫn thính khiếu hào chi thảm; tiên ngao bàn lý, đãn văn khổ thống chi thanh. Băng đống thủy ngưng, tắc trạng tự thanh liên nhị kết; huyết nhục ký liệt, tắc thân như hồng ngẫu hoa khai. Nhất dạ tử sinh, địa hạ mỗi kinh vạn biến; nhất triêu khổ thống, nhân gian dĩ quá bách niên. Tần phiền ngục tốt bì lao, thùy tín Diêm ông giáo giới? Thụ thời tri khổ, tuy hối hận dĩ hà truy? Thoát dĩ hoàn vô, kỳ tác nghiệp dã như cố.
Tiên lư xuất huyết, thùy tri ngô mẫu chi bi? Khiên thỉ tựu đồ, yên thức nãi ông chi thống? Thực kỳ tử nhi bất tri, Văn vương thượng nhĩ; đạm kì thân nhi vị thức, phàm loại giai nhiên. Đương niên ân ái, kim tác oán gia; tích nhật khấu cừu, kim thành cốt nhục. Tích vi mẫu nhi kim vi phụ, cựu thị ông nhi tân tác phu. Túc mệnh tri chi, tắc khả tu khả sỉ; thiên nhãn thị chi, tắc khả tiếu khả lân. Phẩn uế tùng trung, thập nguyệt bao tàng nan quá; nùng huyết đạo lý, nhất thời đảo hạ khả lân. Thiểu dã hà tri, đông tây mạc biện; trưởng nhi hữu thức, tham dục tiện sinh. Tu du nhi lão bệnh tương tầm, tấn tốc nhi vô thường hựu chí. Phong hỏa giao tiên, thần thức ư trung hội loạn; tinh huyết ký kiệt, bì nhục tự ngoại kiền khô. Vô nhất mao nhi bất bị châm toàn, hữu nhất khiếu nhi giai tùng đao cát. Quy chi tương phanh, kỳ thoát xác dã do dị; thần chi dục tạ, kỳ khứ thể dã bội nan. Tâm vô thường chủ, loại thương cổ nhi xứ xứ tân sĩ; thân vô định hình, tự phòng ốc nhi tần tần thiên tỷ. Đại thiên trần điểm, nan cùng vãng phản chi thân; tứ hải ba đào, thục kế biệt li chi lệ? Nga nga tích cốt, quá bỉ sùng sơn; mãng mãng hoành thi, đa ư đại địa. hướng sử bất văn Phật ngữ, thử sự thùy kiến thùy văn? Vị đổ Phật kinh, thử lý yên tri yên giác?
Kỳ hoặc y tiền tham luyến, nhưng cựu si mê; chỉ khủng vạn kiếp thiên sinh, nhất thác bách thác. Nhân thân nan đắc nhi dị thất, lương thời dị vãng nhi nan truy. Đạo lộ minh minh, biệt ly trường cửu; tam đồ ác báo, hoàn tự thụ chi. Thống bất khả ngôn, thùy đương tương đại? Hưng ngôn cập thử, năng bất hàn tâm?
Thị cố nghi ưng đoạn sinh tử lưu, xuất ái dục hải; tự tha kiêm tế, bỉ ngạn đồng đăng. Khoáng kiếp thù huân, tại thử nhất cử. Thị vi phát Bồ-đề tâm đệ lục nhân duyên dã.
Vân hà tôn trọng kỷ linh? Vị ngã hiện tiền nhất tâm, trực hạ dữ Thích-ca Như Lai vô nhị vô biệt, vân hà Thế Tôn vô lượng kiếp lai tảo thành Chánh giác, nhi ngã đẳng hôn mê điên đảo, thượng tố phàm phu? Hựu Phật Thế Tôn tắc cụ hữu vô lượng thần thông trí tuệ, công đức trang nghiêm, nhi ngã đẳng tắc đãn hữu vô lượng nghiệp hệ phiền não, sinh tử triền phược. Tâm tính thị nhất, mê ngộ thiên uyên, tĩnh ngôn tư chi, khởi bất khả sỉ? Thí như vô giá bảo châu, một tại ứ nê thị đồng ngõa lịch, bất gia ái trọng. Thị cố nghi ưng dĩ vô lượng thiện pháp, đối trị phiền não. tu đức hữu công, tắc tính đức phương hiển, như châu bị trạc, huyền tại cao tràng, đỗng đạt quang minh, ánh tế nhất thiết. Khả vị bất cô Phật hóa, bất phụ kỷ linh. Thị vi phát Bồ-đề tâm đệ thất nhân duyên dã.
Vân hà sám hối nghiệp chướng? Kinh ngôn: Phạm nhất cát-la, như Tứ thiên vương thọ ngũ bá tuế, đọa nê-lê trung. Cát-la tiểu tội, thượng hoạch thử báo, hà huống trọng tội, kỳ báo nan ngôn! Kim ngã đẳng nhật dụng chi trung, nhất cử nhất động, hằng vi giới luật; nhất xan nhất thủy, tần phạm thi-la. Nhất nhật sở phạm, diệc ưng vô lượng, hà huống chung thân lịch kiếp, sở khởi chi tội, cánh bất khả ngôn hĩ. Thả dĩ ngũ giới ngôn chi, thập nhân cửu phạm, thiểu lộ đa tàng. Ngũ giới danh vi ưu-bà-tắc giới, thượng bất cụ túc, hà huống sa-di, tỉ-khâu, Bồ Tát đẳng giới, hựu bất tất ngôn hĩ. Vấn kì danh, tắc viết ngã tỉ-khâu dã; vấn kì thật, tắc thượng bất túc vi ưu-bà-tắc dã, khởi bất khả quý tai! Đương tri Phật giới bất thụ tắc dĩ, thụ tắc bất khả huỷ phạm; bất phạm tắc dĩ, phạm tắc chung tất đoạ lạc. Nhược phi tự mẫn mẫn tha, tự thương thương tha, thân khẩu tịnh thiết, thanh lệ câu hạ, phổ dữ chúng sinh, cầu ai sám hối, tắc thiên sinh vạn kiếp, ác báo nan đào. Thị vi phát Bồ-đề tâm đệ bát nhân duyên dã.
Vân hà cầu sinh Tịnh độ? Vị tại thử độ tu hành, kỳ tấn đạo dã nan; bỉ độ vãng sinh, kỳ thành Phật dã dị. Dị cố nhất sinh khả trí, nan cố lũy kiếp vị thành. Thị dĩ vãng thánh tiền hiền, nhân nhân thú hướng; thiên kinh vạn luận, xứ xứ chỉ quy. Mạt thế tu hành, vô việt ư thử. Nhiên kinh xưng thiểu thiện bất sinh, đa phúc nãi trí. Ngôn đa phúc, tắc mạc nhược chấp trì danh hiệu; ngôn đa thiện, tắc mạc nhược phát quảng đại tâm. Thị dĩ tạm trì thánh hiệu, thắng ư bố thí bách niên; nhất phát đại tâm, siêu quá tu hành lịch kiếp. Cái niệm Phật bản kỳ tác Phật, đại tâm bất phát, tắc tuy niệm hề vi? Phát tâm nguyên vi tu hành, Tịnh độ bất sinh, tắc tuy phát dị thối. Thị tắc hạ Bồ-đề chủng, canh dĩ niệm Phật chi lê, đạo quả tự nhiên tăng trưởng; thừa đại nguyện thuyền, nhập ư Tịnh độ chi hải, Tây phương quyết định vãng sinh. Thị vi phát Bồ-đề tâm đệ cửu nhân duyên dã.
Vân hà linh Chánh pháp cửu trụ? Vị ngã Thế Tôn, vô lượng kiếp lai, vị ngã đẳng cố tu Bồ-đề đạo, nan hành năng hành, nan nhẫn năng nhẫn, nhân viên quả mãn, toại trí thành Phật. Ký thành Phật dĩ, hóa duyên chu ngật, nhập ư Niết-bàn. Chánh pháp tượng pháp giai dĩ diệt tận, cận tồn mạt pháp, hữu giáo vô nhân. Tà chính bất phân, thị phi mạc biện; cạnh tranh nhân ngã, tận trục lợi danh. Cử mục thao thao, thiên hạ giai thị. Bất tri Phật thị hà nhân? Pháp thị hà nghĩa? Tăng thị hà danh? Suy tàn chí thử, đãi bất nhẫn ngôn; mỗi nhất tư cập, bất giác lệ hạ. Ngã vi Phật tử, bất năng báo ân. Nội vô ích ư kỷ, ngoại vô ích ư nhân; sinh vô ích ư thời, tử vô ích ư hậu. Thiên tuy cao, bất năng phú ngã; địa tuy hậu, bất năng tải ngã. Cực trọng tội nhân, phi ngã nhi thùy? Do thị thống bất khả nhẫn, kế vô sở xuất. Đốn vong bỉ lậu, hốt phát đại tâm. Tuy bất năng vãn hồi mạt vận ư thử thời, quyết đương đồ hộ trì Chánh pháp ư lai thế. Thị cố giai chư thiện hữu, đồng đáo đạo trường, thuật vi sám-ma, kiến tư pháp hội, phát tứ thập bát chi đại nguyện, nguyện nguyện độ sinh; kỳ bách thiên kiếp chi thâm tâm, tâm tâm tác Phật. Tùng ư kim nhật, tận vị lai tế, tất thử nhất hình, thệ quy An Dưỡng. Ký đăng cửu phẩm, hồi nhập Sa-bà, tỷ đắc Phật nhật trùng huy, pháp môn tái xiển. Tăng hải trừng thanh ư thử giới, nhân dân bị hóa ư Đông phương; kiếp vận vi chi canh diên, Chánh pháp đắc dĩ cửu trụ. Thử tắc khu khu chân thật khổ tâm. Thị vi phát Bồ-đề tâm đệ thập nhân duyên dã.
Như thị thập duyên bị thức, bát pháp chu tri, tắc thú hướng hữu môn, khai phát hữu địa. Tương dữ đắc thử nhân thân, cư ư Hoa Hạ. Lục căn vô dạng, tứ đại khinh an; cụ hữu tín tâm, hạnh vô ma chướng.
Huống kim ngã đẳng, hựu đắc xuất gia, hựu thụ Cụ giới, hựu ngộ Đạo trường, hựu văn Phật pháp, hựu chiêm xá-lợi, hựu tu sám pháp, hựu trực thiện hữu, hựu cụ thắng duyên. Bất ư kim nhật phát thử đại tâm, cánh đãi hà nhật?
Duy nguyện đại chúng, mẫn ngã ngu thành, lân ngã khổ chí, đồng lập thử nguyện, đồng phát thị tâm. Vị phát giả kim phát, dĩ phát giả tăng trưởng; dĩ tăng trưởng giả, kim linh tương tục. Vật úy nan nhi thối khiếp, vật thị dị nhi khinh phù; vật dục tốc nhi bất cửu trường, vật giải đãi nhi vô dũng mãnh. Vật ủy mị nhi bất chấn khởi, vật nhân tuần nhi cánh kì đãi; vật nhân ngu độn nhi nhất hướng vô tâm, vật dĩ căn thiển nhi tự bỉ vô phần. Thí chư chủng thụ, chủng cửu tắc căn thiển nhi nhật thâm; hựu như ma đao, ma cửu tắc đao độn nhi thành lợi. Khởi khả nhân thiển vật chủng, nhậm kỳ tự khô? Nhân độn phất ma, trí chi vô dụng?
Hựu, nhược dĩ tu hành vi khổ, tắc bất tri giải đãi vưu khổ. Tu hành tắc cần lao tạm thời, an lạc vĩnh kiếp; giải đãi tắc thâu an nhất thế, thụ khổ đa sinh. Huống hồ dĩ Tịnh độ vi chu hàng, tắc hà sầu thối chuyển? Hựu đắc vô sinh vi nhẫn lực, tắc hà lự gian nan? Đương tri địa ngục tội nhân, thượng phát Bồ-đề ư vãng kiếp; khởi khả nhân luân Phật tử, bất lập đại nguyện ư kim sinh?
Vô thủy hôn mê, vãng giả ký bất khả gián; nhi kim giác ngộ, tương lai do thượng khả truy. Nhiên mê nhi vị ngộ, cố khả ai lân; cẩu tri nhi bất hành, vưu vi thống tích. Nhược cụ địa ngục chi khổ, tắc tinh tấn tự sinh; nhược niệm vô thường chi tốc, tắc giải đãi bất khởi. Hựu tu dĩ Phật pháp vi tiên sách, thiện hữu vi đề huề; tạo thứ phất ly, chung thân ỷ lại, tắc vô thối thất chi ngu hĩ.
Vật ngôn nhất niệm khinh vi, vật vị hư nguyện vô ích; tâm chân tắc sự thật, nguyện quảng tắc hành thâm. Hư không phi đại, tâm vương vi đại; kim cương phi kiên, nguyện lực tối kiên.
Đại chúng thành năng bất khí ngã ngữ, tắc Bồ-đề quyến thuộc, tùng thử liên nhân; liên xã tôn minh, tự kim đế hảo. Sở nguyện đồng sinh Tịnh độ, đồng kiến Di-đà, đồng hóa chúng sinh, đồng thành Chánh giác. Tắc an tri vị lai tam thập nhị tướng, bách phúc trang nghiêm, bất tùng kim nhật phát tâm lập nguyện nhi thủy dã. Nguyện dữ đại chúng cộng miễn chi. Hạnh thậm hạnh thậm!