ĐỊA TẠNG BỒ TÁT BỔN NGUYỆN KINH KHOA CHÚ
Đường Tam Tạng sa-môn Thật Xoa Nan Đà dịch
Cổ Diêm Khuông Am Thanh Liên bật-sô Linh Thừa soạn

Chuyển ngữ: Bửu Quang Tự đệ tử Như Hòa

 

3.1.2.2.3.2.2.2.2.1.1.2.2.2.2.2. Quỷ vương nghênh tán (Quỷ vương đón tiếp, tán thán)

          (Kinh) Hữu nhất Quỷ Vương, danh viết Vô Độc, khể thủ lai nghênh, bạch thánh nữ viết: “Thiện tai Bồ Tát! Hà duyên lai thử?”

          ()有一鬼王名曰無毒稽首來迎白聖女曰善哉菩薩何緣來此

          (Kinh: Có một Quỷ Vương, tên là Vô Độc, đảnh lễ đến đón tiếp, bạch với thánh nữ: – Lành thay Bồ Tát! Do duyên gì mà đến nơi đây?)

          “Độc” (毒) là hại. Trong cõi đời, có một loài cỏ hại người, được gọi là Đồ Mãng (荼莽, thuộc loại dây leo dại), pháp hại người được gọi là Tam Độc. Vị quỷ vương này ôm lòng thương xót chúng sanh, quyền biến hiện thân quỷ, tâm chẳng độc hại, nên có danh hiệu tốt lành ấy để biểu thị. Nhưng trong kinh văn phần trước có [danh hiệu quỷ vương] Nhiếp Độc, phần sau có Ác Độc. Tuy cùng tên là Độc, nhưng dụng ý đều khác biệt; bởi lẽ, họ vốn lợi người, chẳng sai khác!

Lễ Ký chép: “Hú chi, ẩu chi, Xuân Hạ sở dĩ sanh trưởng dã. Sương chi, tuyết chi, Thu Đông sở dĩ thành thục dã, mạc phi thiên chi giáo dã” (Sở dĩ Xuân và Hạ ấm áp là vì [để cho muôn vật] sanh trưởng. Thu Đông có sương, tuyết để [ngũ cốc, trái cây] chín muồi, không gì chẳng là sự dạy bảo của trời vậy).  

          “Khể thủ” (稽首) là dùng đầu chạm đất (dập đầu lạy) trong chốc lát. Quỷ Vương lạy để tiếp đón vì trông thấy thánh nữ hình tướng phi phàm, oai nghi khác hẳn mọi người, suy đoán người này chẳng do mang tội mà đến, ắt là nhờ thần thông mà tới. Vì thế nói: “Lành thay Bồ Tát! Do duyên gì mà đến nơi đây?” Chữ Sa Độ (Sadhu) trong tiếng Phạn, cõi này dịch là Thiện Tai (lành thay), chính là pháp môn của Hoan Hỷ Vương Bồ Tát. Nếu hành nhân hằng ngày đối trước Phật xưng niệm một ngàn lượt, sẽ đạt được tâm thanh tịnh, được hết thảy Như Lai khen ngợi, tất cả các pháp đều được thành tựu. Chuyện này được chép tường tận trong bộ Thí Thực Thuyên Thứ Hương Nhũ Ký.

3.1.2.2.3.2.2.2.2.1.1.2.2.2.2.3. Vấn đáp ngục xứ (hỏi đáp về nơi chốn của địa ngục)

3.1.2.2.3.2.2.2.2.1.1.2.2.2.2.3.1. Thông vấn địa ngục hữu vô (hỏi chung là có địa ngục hay không)

3.1.2.2.3.2.2.2.2.1.1.2.2.2.2.3.1.1. Lược vấn đáp (hỏi đáp đại lược)

          (Kinh) Thời, Bà-la-môn nữ, vấn Quỷ Vương viết: “Thử thị hà xứ?” Vô Độc đáp viết: “Thử thị Đại Thiết Vi sơn, Tây diện đệ nhất trùng hải”.  

          ()婆羅門女問鬼王曰此是何處無毒答曰此是大鐵圍山西面第一重海。

          (Kinh: Khi ấy, cô gái Bà-la-môn hỏi Quỷ Vương rằng: “Đây là chỗ nào?” Vô Độc đáp rằng: “Đây là tầng biển thứ nhất ở phía Tây núi Đại Thiết Vi”).

          Trước hết, thánh nữ hỏi [nơi đây] là chỗ nào, là lời lẽ kinh nghi, vì nơi này khác với [những nơi chính mình] thường thấy. Kế đó, Quỷ Vương đáp lời. Chữ Chá Ca La (Cakravāda-parvata) trong tiếng Phạn, được dịch là Luân Sơn, hoặc dịch theo lối cũ là Thiết Vi. “Vi” (圍) có nghĩa là “vây quanh”. Theo kinh Trường A Hàm, hoặc kinh Khởi Thế v.v… chính giữa bốn đại châu là núi Tu Di (Sumeru). Bên ngoài núi Tu Di có tám rặng núi khác. Cho đến ngoài núi là biển nước mặn, rộng rãi không ngằn mé. Ngoài biển có núi, chính là Đại Thiết Vi sơn. Theo Lập Thế A Tỳ Đàm Luận, ngoài biển nước mặn lớn có núi, tên là Thiết Vi, [chân] núi chìm sâu trong nước đến ba trăm mười hai do-tuần, phần nổi lên trên mặt nước cũng thế, cũng rộng dường ấy. Từ phía Nam của Diêm Phù Đề, cách núi Thiết Vi ba ức sáu vạn sáu trăm sáu mươi ba do-tuần. Từ núi Thiết Vi, nước mở rộng đến phía cực Tây, vùng nước được bao bọc bởi núi Thiết Vi có đường kính là mười hai ức hai ngàn tám trăm hai mươi lăm do-tuần. Chu vi của vùng nước vây phủ núi Thiết Vi là ba mươi sáu ức tám ngàn bốn trăm bảy mươi lăm do-tuần. Tầng biển thứ nhất nằm ở trong đó (theo các kinh luận, cung của vua Diêm La ở ngoài ranh giới, cho nên biển nghiệp cũng thế, tức là Hàm Thủy Nê Lê được nói trong kinh Nê Lê vậy).

3.1.2.2.3.2.2.2.2.1.1.2.2.2.2.3.1.2. Quảng vấn đáp (hỏi đáp chi tiết)

3.1.2.2.3.2.2.2.2.1.1.2.2.2.2.3.1.2.1. Vấn đáp địa ngục hữu vô (hỏi đáp địa ngục có hay không)

3.1.2.2.3.2.2.2.2.1.1.2.2.2.2.3.1.2.1.1. Vấn đáp địa ngục sự thật phủ (hỏi đáp địa ngục có phải là sự thật hay không)

          (Kinh) Thánh nữ vấn viết: “Ngã văn Thiết Vi chi nội, địa ngục tại trung, thị sự thật phủ?” Vô Độc đáp viết: “Thật hữu địa ngục”.

          ()聖女問曰我聞鐵圍之內地獄在中是事實不無毒答曰實有地獄。

          (Kinh: Thánh nữ hỏi rằng: “Tôi nghe nói trong núi Thiết Vi, địa ngục ở trong đó, có phải là sự thật hay không?” Vô Độc đáp rằng: “Thật có địa ngục”).

          Trước tiên là thánh nữ hỏi: “Tôi nghe kinh nói trong núi Thiết Vi có địa ngục, có phải là thật hay không?” Kế đó, Quỷ Vương đáp: “Chuyện ấy chân thật chẳng dối”. Ấy là vì địa ngục vốn hư huyễn, con người tự biến địa ngục thành thật! Như trong kinh Thiết Thành Nê Lê, đức Phật răn các sa-môn rằng: “Ngã dĩ thiên nhãn, thị thiên hạ nhân sanh tử hảo xú, đắc hảo đạo giả, đắc ác đạo giả, nhân ư thế gian, thân tác ác, khẩu ngôn ác, tâm niệm ác, thường háo phanh sát, từ tự quỷ thần giả, thân tử đương nhập Nê Lê trung” (Ta dùng thiên nhãn thấy người trong thiên hạ sống chết, tốt, xấu, được sanh vào đường lành, được sanh vào đường ác là vì người ta ở trong thế gian, thân làm ác, miệng nói lời ác, tâm nghĩ chuyện ác, thường thích giết chóc để nấu nướng, cúng tế quỷ thần, thân chết đi sẽ vào trong Nê Lê), há chẳng phải là tự biến địa ngục thành sự thật ư?

3.1.2.2.3.2.2.2.2.1.1.2.2.2.2.3.1.2.1.2. Vấn đáp ngã hà đáo ngục (hỏi đáp vì sao tôi đến địa ngục được)

          (Kinh) Thánh nữ vấn viết: “Ngã kim vân hà đắc đáo ngục sở?” Vô Độc đáp viết: “Nhược phi oai thần, tức tu nghiệp lực. Phi thử nhị sự, chung bất năng đáo”.

          ()聖女問曰我今云何得到獄所無毒答曰若非威神即須業力。非此二事終不能到。

          (Kinh: Thánh nữ hỏi rằng: “Nay tôi vì sao đến chỗ địa ngục?” Vô

Độc đáp rằng: “Nếu chẳng do oai thần, thì phải do nghiệp lực. Chẳng do hai chuyện ấy, trọn chẳng thể đến được”).

          Thoạt đầu, thánh nữ kinh nghi, tự nghĩ địa ngục là chốn lao ngục bắt giữ tội nhân. Tôi tự xét lòng, kính tin Tam Bảo, một thân vô tội, do duyên gì mà nay tôi cũng đến chốn địa ngục này? Kế đó, Quỷ Vương đáp: “Phàm những ai đến đây thì có hai loại người: Một là người có oai đức, thần thông, hoặc vì cứu độ, hoặc vì đến thăm. Hai là kẻ ác nghiệp chín muồi, đáng chịu thân địa ngục, do vậy mà đến. Trừ hai loại đó ra, trọn chẳng có ai có thể đến được!”

3.1.2.2.3.2.2.2.2.1.1.2.2.2.2.3.1.2.1.3. Vấn đáp ngục hải khổ cảnh (hỏi đáp về cảnh khổ trong biển địa ngục)

3.1.2.2.3.2.2.2.2.1.1.2.2.2.2.3.1.2.1.3.1. Ước cảnh nghi vấn (xét theo cảnh mà nổi lòng nghi hỏi han)

          (Kinh) Thánh nữ hựu vấn: “Thử thủy hà duyên, nhi nãi dũng phí, đa chư tội nhân, cập dĩ ác thú?”

          ()聖女又問此水何緣而乃涌沸多諸罪人及以惡獸

          (Kinh: Thánh nữ lại hỏi: Do duyên gì mà nước biển sôi sùng sục, có nhiều tội nhân và ác thú vậy?)

          Đây là trần thuật cảnh giới trông thấy tại ven biển. [Hỏi về] nước biển là hỏi chung. “Hà duyên” (Duyên gì) là từ ngữ nghi vấn. [Thánh nữ] nghi hoặc, một là do duyên gì mà nước này sôi trào? Hai là nghi do duyên gì mà trong nước biển có nhiều tội nhân? Ba là nghi do duyên gì mà tại ven nước biển có nhiều loài ác thú? Theo kinh Thủ Lăng Nghiêm, đấy đều là do tự nghiệp của các chúng sanh ấy cảm vời, tạo mười tập nhân (tập khí làm cái nhân), thọ sáu giao báo. Nước sôi sùng sục vì mạn tập (tập khí kiêu mạn), phát khởi thành sự dựa dẫm, rong ruổi chẳng ngơi. Vì thế có chuyện tung vọt lên, rảo chạy, tích sóng thành nước; cũng do tập khí cuồng ngạo khinh khi lẫn nhau, đến nỗi có các chuyện như chết chìm, tung quật, bay lên, rơi xuống, phiêu giạt. Ác thú là do xúc báo mà chuốc vời ác quả. Vì thế dẫn đến thần thức [của tội nhân] trông thấy, nhận biết [địa ngục có các hình tướng như] thành sắt lớn, rắn lửa, chó lửa, hổ, sói, sư tử v.v… là do như thế đó.

3.1.2.2.3.2.2.2.2.1.1.2.2.2.2.3.1.2.1.3.2. Cứ sự trực đáp (theo sự việc mà trả lời thẳng thừng)

3.1.2.2.3.2.2.2.2.1.1.2.2.2.2.3.1.2.1.3.2.1. Chánh đáp (đáp thẳng vào câu hỏi)          

          (Kinh) Vô Độc đáp viết: “Thử thị Diêm Phù Đề, tạo ác chúng sanh, tân tử chi giả, kinh tứ thập cửu nhật hậu, vô nhân kế tự, vị tác công đức, cứu bạt khổ nạn. Sanh thời hựu vô thiện nhân, đương cứ bổn nghiệp, sở cảm địa ngục, tự nhiên tiên độ thử hải”.

          ()無毒答曰此是閻浮提造惡眾生新死之者經四十九日後無人繼嗣為作功德救拔苦難。生時又無善因當據本業所感地獄自然先渡此海。

          (Kinh: Vô Độc đáp rằng: – Đây là chúng sanh tạo ác trong Diêm Phù Đề, là những kẻ mới chết, sau bốn mươi chín ngày mà không có người nối dõi vì họ làm công đức để cứu dẹp khổ nạn. Lúc sống lại chẳng có nhân lành, cứ theo nghiệp của họ mà cảm vời địa ngục, tự nhiên qua cái biển này trước).

          “Diêm Phù Đề”: Kinh Trường A Hàm nói: “Tu Di sơn Nam, hữu thiên hạ danh Diêm Phù Đề, kỳ thổ Nam hiệp, Bắc quảng, tung quảng thất thiên do-tuần. Hữu đại thụ vương, danh Diêm Phù Đề, vi thất do-tuần, cao bách do-tuần, chi diệp tứ bố ngũ thập do-tuần” (Phía Nam núi Tu Di có thiên hạ gọi là Diêm Phù Đề. Cuộc đất ấy phía Nam hẹp, phía Bắc rộng, kích thước là bảy ngàn do-tuần. Có một thụ vương to tên là Diêm Phù Đề, chu vi bảy do-tuần, cao một trăm do-tuần, cành lá xòe ra bốn phía, rộng năm mươi do-tuần). Kinh Khởi Thế nói hơi khác. “Tạo ác chúng sanh” tức là kẻ tạo đủ Thập Ác. Chữ Cưu Na La (Kunāla) trong tiếng Phạn được cõi này dịch là Ác Nhân, cũng chẳng phải là người tốt. Có thể diệt các căn thì gọi là Tử. Vì thế, kinh Niết Bàn nói: “Tử giả, xả sở thọ thân, hữu nhị chủng: Nhất giả, mạng tận tử, hữu tam: Nhất, mạng tận, phi thị phước tận. Nhị, phước tận, phi thị mạng tận. Tam, phước mạng câu tận. Nhị giả, ngoại duyên tử, diệc hữu tam: Nhất, phi phận tự hại tử. Nhị, hoạnh vi tha tử. Tam, câu tử. Phục hữu tam chủng tử: Nhất, phóng dật tử. Nhị, phá giới tử. Tam, hoại mạng căn tử” (Chết là bỏ cái thân đã thọ. Có hai loại: Một là chết vì mạng đã hết, [trong loại này] lại có ba loại: Một là mạng hết, chẳng phải là phước hết. Hai là phước hết, chẳng phải là mạng hết. Ba là phước lẫn mạng đều hết. Hai là do ngoại duyên mà chết, cũng có ba loại: Một là chẳng phải đến số mà tự hại chết. Hai là chết ngang xương vì bị kẻ khác hại chết. Ba là chết vì cả hai nguyên nhân ấy. Lại có ba loại chết: Một là chết vì buông lung. Hai là chết vì phá giới. Ba là chết vì mạng căn bị hư hoại).

          “Bốn mươi chín ngày”: Theo Du Già Sư Địa Luận, người đã chết bèn có thân Trung Hữu (Trung Hữu chính là Trung Ấm Thân (Antarā-bhava). Nếu là người cực thiện liền sanh về Tịnh Độ, hay sanh lên trời. Kẻ cực ác liền đọa địa ngục. [Hai hạng người ấy] đều không trải qua thân Trung Ấm. Nếu thiện ác bất định, liền thọ thân Trung Ấm, phải trải qua các ty trong cõi âm). Nếu chưa có duyên tái sanh, tối đa là [thân Trung Ấm] tồn tại bảy ngày, chết rồi lại sanh [một thân Trung Ấm khác]. Sống chết xoay vần như thế, tới bốn mươi chín ngày, quyết định được tái sanh. Nếu có duyên được sanh [trước khi tròn bốn mươi chín ngày] thì không nhất định. Sách Thích Thị Yếu Lãm nói: “Nay đối với người chết, cứ mỗi bảy ngày, ắt phải lo liệu cỗ chay để tạo phước cho người đã mất, gọi là “trai thất”, khiến cho trong thời gian ấy, [người mất sẽ] có chủng tử chẳng chuyển sanh trong đường ác”. Nay sau khi đã trải qua bốn mươi chín ngày, hoàn toàn chẳng có người kế tục, thừa tự vì người đã mất làm công đức, khiến cho người ấy được diệt ác, sanh thiện, ai sẽ cứu bạt khổ nạn? Đấy là nói những người đã chết, không có người thân vì mình tạo phước trong cõi âm, ắt sẽ đến nỗi đọa trong cảnh khổ.

          Kế đó là nói người đã chết lúc còn sống tự mình chẳng tu mảy may điều thiện nào, ắt sẽ phải đọa trong cảnh khổ. Cho đến khi vua cõi âm tra xét, so lường thiện ác, sẽ căn cứ theo nghiệp [do kẻ ấy] đã tạo từ trước thì kẻ đáng đọa vào địa ngục ắt sẽ vào địa ngục. Kinh Na Tiên Tỳ Kheo Sở Vấn nói: “Nhân sở tác thiện ác tùy nhân, như hình ảnh tùy thân. Nhân tử, đản vong kỳ thân, bất vong kỳ hạnh. Thí như nhiên hỏa dạ thư, hỏa diệt tự tồn, hỏa chí phục thành. Kim thế tác hạnh, hậu thế thành chi” (Chuyện thiện ác do một người đã làm sẽ đi theo người đó, như hình bóng theo thân. Người chết, chỉ mất cái thân, chứ những gì đã làm chẳng mất. Ví như ban đêm đốt lửa viết chữ, lửa tắt, chữ còn. Thắp lửa lên, chữ lại hiện ra. Những gì đời này đã làm sẽ thành [cái quả] trong đời sau) là nói về ý này. “Tự nhiên” [thể hiện] ý nghĩa trọn chẳng có nhờ cậy, miễn cưỡng. Diêm Vương quở trách tội nhân: “Tội do chính ngươi tạo, nay phải hứng chịu”. Kinh Chánh Pháp Niệm Xứ nói: “Nhữ tà kiến ngu si, si quyến sở phược nhân, kim đọa thử địa ngục, tại ư đại khổ hải” (Ngươi tà kiến, ngu si, lưới si trói buộc người, nay đọa trong địa ngục này, ở trong biển khổ lớn). Vì thế nói là “tự nhiên tiên độ thử hải” (tự nhiên trải qua cái biển này trước).

3.1.2.2.3.2.2.2.2.1.1.2.2.2.2.3.1.2.1.3.2.2. Chỉ loại (chỉ dạy các loại địa ngục)

          (Kinh) Hải Đông thập vạn do-tuần, hựu hữu nhất hải, kỳ khổ bội thử. Bỉ hải chi Đông, hựu hữu nhất hải, kỳ khổ phục bội.

          ()海東十萬由旬又有一海其苦倍此。彼海之東又有一海其苦復倍。

          (Kinh: Ở phía Đông của biển này, cách đây mười vạn do-tuần, lại có một cái biển, sự khổ gấp bội nơi đây. Phía Đông của biển đó, lại có một biển nữa, sự khổ gấp bội).

          Trong phần trước đã nói [chỗ thánh nữ gặp quỷ vương Vô Độc] là tầng biển thứ nhất ở phía Tây núi Thiết Vi, đã bao hàm hai tầng này. “Sự khổ tăng gấp bội”: Kinh Nê Lê nói: “Hàm thủy Nê Lê tung hoành sổ thiên lý thủy, hàm thủy như diêm, nhiệt phí dũng dược. Thủy trung hữu điểu, uế như thiết sanh, trác nhân cơ, giảo nhân cốt, nhân bất năng nhẫn thị thống, tiện độ thủy khứ. Thủ Nê Lê quỷ ngôn: ‘Tử ác nhân, nhữ hà đẳng cầu sách?’ Nhân ngôn: ‘Ngã khổ cơ khát’. Quỷ tức dĩ câu, câu kỳ thượng hạ ngân, khẩu giai tha khai. Phục dĩ tiêu đồng, quán nhập khẩu trung, thần thiệt yết phúc giai tiều tận, đồng tiện hạ khứ. Kỳ nhân bất năng phục nhẫn, hoàn nhập phí hàm thủy trung. Kỳ nhân bình sanh, ư thế gian tác ác thậm, cố cầu giải bất đắc giải, tùy ba thượng hạ, hồi phục trầm một. Kỳ khổ bội tăng, khả thắng ngôn tai” (Địa ngục nước mặn có kích thước đến mấy ngàn dặm nước, nước mặn như muối, nóng sôi sùng sục. Trong nước có chim, mỏ như bằng sắt, mổ bắp thịt con người, nhai xương người, tội nhân chẳng thể chịu nổi sự đau đớn ấy, liền vượt nước mà chạy. Quỷ giữ Nê Lê nói: ‘Những kẻ ác đã chết kia, ngươi tìm cầu điều gì?’ Người nói: “Tôi khổ sở vì đói khát”. Quỷ liền dùng cái móc, móc vào nướu răng trên và dưới để vạch miệng [tội nhân] ra, lại dùng nước đồng sôi rót vào trong miệng, môi, lưỡi, họng, bụng đều cháy rụi, nước đồng liền chảy xuống dưới. Người ấy chẳng chịu nổi nữa, lại gieo mình vào nước mặn đang sôi sục. Kẻ ấy khi sống, ở trong thế gian làm ác quá đáng, cho nên cầu được thoát khỏi mà chẳng thể thoát khỏi, dập dềnh theo sóng, nổi lên, chìm xuống. Nỗi khổ  tăng  gấp  bội, sao  có thể nói trọn cho được).

3.1.2.2.3.2.2.2.2.1.1.2.2.2.2.3.1.2.1.3.2.3. Kết danh (kết lại tên gọi)

          (Kinh) Tam nghiệp ác nhân chi sở chiêu cảm, cộng hiệu “nghiệp hải”, kỳ xứ thị dã.

          ()三業惡因之所招感共號業海其處是也。

          (Kinh: Do cái nhân cả ba nghiệp đều ác cảm vời, cùng gọi là “biển nghiệp”, chính là chỗ này vậy).

          “Tam nghiệp ác nhân” chính là ba chi thân, khẩu, ý trong mười ác nghiệp. Do vì cái nhân ấy, chuốc lấy quả báo trong biển địa ngục. Nhưng chiêu là tự chiêu, cảm là tự cảm. Kinh Hưng Khởi Hạnh nói: “Tiên thế tự tạo thử duyên, yếu đương thọ chi, vô khả đào tỵ xứ” (Đời trước đã tự tạo duyên này thì sẽ phải hứng chịu, không có chỗ trốn tránh). Điều này đúng lắm, cũng chẳng do cha làm, mẹ làm, vua làm, trời làm, mà cũng chẳng do sa-môn, Bà-la-môn làm ra; vốn do ta tự tạo, nay tự hứng chịu. Vì thế, đức Phật dạy chúng sanh có hai điều trọng yếu: Một là làm cái gì sẽ hứng chịu cái đó. Hai là chẳng làm cái gì thì không bị hứng chịu cái đó.  

Tội cấu khổ não trong năm đường của tam giới chẳng lìa hành vi tạo tác, hết thảy đều chẳng phải là bỗng dưng mà có! Tội phước đã tạo như bóng theo hình, như tiếng vang ứng với âm thanh, chẳng hề mất đi như râu tóc. Vì thế, ba nơi ấy đều gọi là Nghiệp Hải. Trước kia thánh nữ đã từng nghe nói, nay đích thân đến chỗ này.

3.1.2.2.3.2.2.2.2.1.1.2.2.2.2.3.1.2.2. Vấn đáp địa ngục hà tại (hỏi đáp địa ngục ở chỗ nào)

          (Kinh) Thánh nữ hựu vấn Quỷ Vương Vô Độc viết: “Địa ngục hà tại?” Vô Độc đáp viết: “Tam hải chi nội thị đại địa ngục. Kỳ số bách thiên, các các sai biệt”.

          ()聖女又問鬼王無毒曰地獄何在無毒答曰三海

之內是大地獄。其數百千各各差別。

          (Kinh: Thánh nữ lại hỏi quỷ vương Vô Độc rằng: “Địa ngục ở chỗ nào?” Vô Độc đáp rằng: “Trong ba cái biển là đại địa ngục, số đến trăm ngàn, mỗi ngục mỗi khác”).

          Trước hết, thánh nữ hỏi: “Đã nói trong núi Thiết Vi thật sự có địa ngục, nay vì sao chỉ thấy biển nghiệp, chẳng biết địa ngục lại ở chỗ nào?” Tiếp đó, Quỷ Vương đáp: – Ở trong ba cái biển, chính là đại địa ngục, há có phải là bỏ nơi này mà có nơi nào khác ư? Đấy là do chúng sanh từ trong biển tạng thức nổi gió, cuộn trào sóng Tam Độc, cho nên cảm địa ngục ở ngay trong ba cái biển! Nhưng khảo cứu các kinh luận, [thì thấy] có thể dùng ba loại để gồm thâu trọn hết các thứ địa ngục: Một là nhiệt, hai là hàn, ba là biên. Tám nhiệt ngục ở phía dưới châu Diêm Phù Đề, chất chồng lên nhau, chịu nỗi khổ não vì nóng. Tám hàn ngục ở chân núi Thiết Vi, được sắp xếp ngửa lên, chịu đựng nỗi khổ rét cóng. Biên ngục thì có ba loại: Ở giữa núi, ở trong nước, và nơi đồng hoang, hứng chịu nghiệp báo riêng biệt. Loại này ứng với sự hứng chịu lạnh, nóng xen lẫn! Nay nói “đại ngục mười tám chỗ”, lại nói năm trăm chỗ, trăm ngàn chỗ là vì lẽ nào? Ấy là nói ước định nơi chốn, như trong phần trên đã nói, nói theo chỗ bất định, chẳng ngại cùng nêu chánh ngục và biên ngục, hứng chịu hàn nhiệt xen lẫn. Nếu không, chánh địa ngục và biên địa ngục dùng gì để phân biệt ư? “Ba cái biển” là nói chung. Tám địa ngục lạnh và tám địa ngục nóng, mỗi ngục đều có mười sáu du tăng địa ngục[1], đại lược là một trăm ba mươi sáu ngục, nói rộng thì số đến trăm ngàn!

          “Các các sai biệt” (Mỗi ngục mỗi khác): Tạo nghiệp thì đều có nặng, nhẹ. Nặng thì [chịu tội] trọn khắp [trong mỗi ngục ấy], trung (chẳng nhẹ chẳng nặng) thì chẳng trọn khắp, bậc hạ thì lại giảm bớt. Số kiếp [thọ tội] phải trải qua thì cũng có dài ngắn [khác nhau]!

          (Kinh) Sở vị: Đại giả cụ hữu thập bát, thứ hữu ngũ bách, khổ độc vô lượng. Thứ hữu thiên bách, diệc vô lượng khổ.

          ()所謂大者具有十八次有五百苦毒無量。次有千百亦無量苦。

          (Kinh: Nói tới địa ngục lớn thì có mười tám chỗ. Kế đó có năm trăm chỗ, khổ độc vô lượng. Kế đó có trăm ngàn ngục, cũng là vô lượng khổ).

          Từ “sở vị” trở đi là phần giải thích riêng. “Địa ngục lớn có mười tám chỗ”, có hai cách giải thích:

          – Một là dựa theo kinh Vấn Địa Ngục, mười tám vị vua làm chủ thống lãnh mười tám địa ngục, tức là: Một là Ca Diên cai quản ngục Nê Lê, cho đến vị thứ mười tám là Quán Thân cai quản ngục Dương Đồng (nước Đồng Sôi). Tức là đối với các ngục có kể tên vị chủ ngục thì hạn cuộc trong con số mười tám.

          – Nếu dựa theo kinh Quán Phật Tam Muội Hải, địa ngục A Tỳ có mười tám tiểu địa ngục. Trong mỗi tiểu địa ngục, đều có mười tám hàn băng địa ngục, hắc ám tiểu nhiệt, cho đến Ẩm Đồng (uống nước đồng sôi), mỗi chỗ đều có mười tám ngục. Như vậy là trong đại địa ngục A Tỳ có mười tám địa ngục ấy. Trong mỗi ngục, lại có riêng mười tám ngăn, bắt đầu từ Hàn Băng cho đến Ẩm Đồng, tổng cộng là ba trăm bốn mươi hai ngăn địa ngục.

          Nay do kinh ấy coi địa ngục A Tỳ là lớn nhất, cho nên coi chuyện mỗi ngục có mười tám ngục nhỏ là nhỏ. Nay kinh này nói “lớn thì có mười tám chỗ” thì có lẽ là do chẳng so với A Tỳ, cho nên mỗi ngục đều được gọi là “đại”. Chẳng hạn như các vị vua trong thế gian, nếu chẳng so với thiên tử, ai nấy đều xưng là “đại vương”. Nếu so với bậc chí tôn thì đều xưng là tiểu vương cả. Kinh nói khác nhau, chẳng cần phải giải thích gượng ép. Kế đến có năm trăm ngục, cũng là con số nhất định. Nhưng kinh Quán Phật Tam Muội bèn nói: Năm trăm ức địa ngục Kiếm Lâm (劍林, rừng gươm), Thích Lâm (刺林, rừng đâm thọc, rừng gai góc), Đồng Trụ (銅柱, cột đồng), Thiết Cơ (銕機, máy sắt), Thiết Võng (銕網, lưới sắt), mỗi loại đều là năm trăm ức. Như vậy là số lượng giữa hai kinh khác biệt rất xa, cũng chẳng cần miễn cưỡng dung hội.

          “Khổ độc vô lượng”: Theo kinh Nê Lê, đức Phật dạy: “Dục tri cần khổ tối bất khả nhẫn giả, độc hữu Nê Lê. Nê Lê giả, cực khổ bất khả cụ ngôn. Như thế nghịch tặc, vị trưởng lại sở bộ, tương chí vương tiền, bị tam bách mâu, ninh độc thống phủ? Tỳ-kheo đáp viết: ‘Nhân bị nhất sang, cử thân giai thống, hà hống bị tam bách sang’. Phật ngôn: – Nê Lê trung thống, dữ mâu sang thống, ức ức vạn bội, thượng bất như Nê Lê thống. Địa ngục chi trung, ngục quỷ gia thống, độc vô bất chí dã” (“Muốn biết chỗ khổ sở khó thể chịu đựng nhất thì chỉ có Nê Lê. Nê Lê có nghĩa là khổ sở cùng cực, chẳng thể nói trọn! Như kẻ giặc phản nghịch trong cõi đời, bị quan trên bắt được, đưa tới trước vua, bị đâm ba trăm ngọn mâu, có đau đớn hay không?” Tỳ-kheo đáp rằng: “Người ta bị một vết thương, toàn thân đều đau, huống hồ bị ba trăm vết thương”. Đức Phật dạy: “Nỗi đau đớn trong Nê Lê so với sự đau đớn vết thương do bị mâu đâm ức ức vạn lần, vẫn chẳng bằng nỗi đau trong Nê Lê! Trong địa ngục, nỗi đau do ngục quỷ hành hạ tàn độc không gì chẳng trọn thấu!”). Trăm ngàn ngục cũng là vô lượng khổ, so ra thì nỗi khổ trong năm trăm ngục giảm bớt đôi chút, nhưng nỗi khổ thế gian đem so với nỗi khổ ấy thì vạn phần chẳng bằng, khổ đến vô lượng! Phần hỏi tổng quát về địa ngục có hay không đã xong.

3.1.2.2.3.2.2.2.2.1.1.2.2.2.2.3.2. Chánh vấn ngã mẫu sanh giới (hỏi về chỗ mẹ tôi sanh về)

3.1.2.2.3.2.2.2.2.1.1.2.2.2.2.3.2.1. Thánh nữ vấn mẫu sanh thú (thánh nữ hỏi mẹ sanh về đường nào)

          (Kinh) Thánh nữ hựu vấn đại Quỷ Vương viết: – Ngã mẫu tử lai vị cửu, bất tri hồn thần đương chí hà thú?

          ()聖女又問大鬼王曰我母死來未久不知魂神當至何趣

          (Kinh: Thánh nữ lại hỏi đại Quỷ Vương rằng: – Mẹ tôi chết chưa lâu, chẳng biết hồn thần sẽ đi vào đường nào?)

          Tứ Phần Luật nói: “Nhất thiết chư thế giới, vô hữu bất lão tử, chúng sanh thị thường pháp, sanh sanh giai quy tử” (Trong hết thảy các thế giới, không có thế giới nào chẳng có già, chết. Pháp thường hằng của chúng sanh là đời đời đều sẽ chết). Mẹ tôi tuy chết chưa lâu, trọn chẳng biết hồn thần nay đã đi vào đường nào? Thiên sách Tế Nghĩa [trong Lễ Ký] giảng: “Khí là Thần hưng vượng, Hồn là quỷ hưng vượng”. Kinh Đạo giáo nói: “Hồn là Thần của Khí, Phách là Thần của Tinh, Dương thần là Nhật Hồn, Âm thần là Nguyệt Phách”. Đạo Phật của chúng ta gọi hồn thần là thức thứ tám. Kinh Pháp Cú dạy: “Thị thân vi tử vật, tinh thần vô hình pháp, tự tác thọ khổ lạc, thân tử thần bất táng. Thức thần tạo tam giới, thiện, bất thiện, tam xứ, Ấm hành nhi mặc chí, sở vãng như hưởng ứng” (Thân này là vật chết, tinh thần không hình, pháp. Tự tạo, chịu khổ vui. Thân chết, thức chẳng chết. Thần thức tạo tam giới, thiện, bất thiện, ba chỗ. Ấm, Hành lặng lẽ đến, chỗ đến như tiếng vọng). Do vậy biết là ắt phải theo nghiệp mà đi vậy.

3.1.2.2.3.2.2.2.2.1.1.2.2.2.2.3.2.2.  Quỷ  Vương  trưng  kỳ  lai  lịch (Quỷ Vương gạn hỏi hành vi của bà ta)

3.1.2.2.3.2.2.2.2.1.1.2.2.2.2.3.2.2.1. Vấn đáp hạnh nghiệp (hỏi đáp về hạnh nghiệp)

3.1.2.2.3.2.2.2.2.1.1.2.2.2.2.3.2.2.1.1. Vấn (hỏi han)

          (Kinh) Quỷ Vương vấn thánh nữ viết: – Bồ Tát chi mẫu, tại sanh tập hà hạnh nghiệp?

          ()鬼王問聖女曰菩薩之母在生習何行業

          (Kinh: Quỷ Vương hỏi thánh nữ rằng: – Mẹ của Bồ Tát khi còn sống quen làm hạnh nghiệp gì?)

          “Hạnh” là tiến đến. Nghiệp là tạo tác, tức là ba nghiệp tạo nên chuyện thiện hay ác. Kinh Pháp Cú dạy: “Tùy kỳ sở tạo nghiệp, tội phước hữu quả báo. Ác nghiệp đọa địa ngục, thiện nghiệp sanh thiên thượng. Cao hạnh sanh thiện đạo, đắc vô lậu Niết Bàn” (Tùy theo nghiệp đã tạo, tội phước có quả báo. Ác nghiệp đọa địa ngục, thiện nghiệp sanh lên trời. Cao hạnh sanh thiện đạo, đạt vô lậu Niết Bàn). Chẳng biết mẹ của Bồ Tát làm hạnh nghiệp gì nơi ba nghiệp?

3.1.2.2.3.2.2.2.2.1.1.2.2.2.2.3.2.2.1.2. Đáp

          (Kinh) Thánh nữ đáp viết: – Ngã mẫu tà kiến, cơ hủy Tam Bảo. Thiết hoặc tạm tín, toàn hựu bất kính. Tử tuy nhật thiển, vị tri sanh xứ.

          ()聖女答曰我母邪見譏毀三寶。設或暫信旋又不敬。死雖日淺未知生處。

          (Kinh: Thánh nữ đáp rằng – Mẹ tôi tà kiến chê gièm, hủy báng Tam Bảo. Dẫu có tạm tin, rồi lại bất kính. Tuy chết chưa lâu, chẳng biết sanh về đâu?)

          Thánh nữ đáp rằng: Mẹ tôi chấp trước tà kiến, chê bai, hủy báng Tam Bảo. Thành Thật Luận nói: “Ninh chỉ bất hành, vật hành tà đạo. Thân hoại mạng chung, đọa ư ác thú” (Thà thôi không làm, đừng hành theo tà đạo. Khi thân hoại, mạng hết, sẽ đọa trong đường ác). Hơn nữa, chẳng giữ lòng thường hằng, chẳng lập tánh quyết định, đôi khi nghe theo lời khuyên mà tạm tin tưởng, thoáng chốc lại theo bọn tà mà chê bai, hủy báng. Nay tuy chết chưa lâu, xét ra, ắt sẽ đọa vào nghiệp khổ. Vì thế, tôi nóng lòng muốn tìm biết chỗ mẹ tôi sanh về mà chẳng thể được!

3.1.2.2.3.2.2.2.2.1.1.2.2.2.2.3.2.2.2. Vấn đáp tánh thị (hỏi đáp về chủng tánh, họ tên)          

3.1.2.2.3.2.2.2.2.1.1.2.2.2.2.3.2.2.2.1. Vấn

          (Kinh) Vô Độc vấn viết: – Bồ Tát chi mẫu, tánh thị hà đẳng?

          ()無毒問曰菩薩之母姓氏何等

          (Kinh: Vô Độc hỏi rằng: – Mẹ của Bồ Tát chủng tánh, tên họ như thế nào?)

          [Tại Trung Hoa], “tánh” là xét theo trăm đời thuộc về dòng họ nào. “Thị” là để nhận biết nguồn gốc của con cháu[2]. Tại đất Ấn, có bốn tộc tánh (Varṇa, chủng tánh, giai cấp chánh): Một là Sát-đế-lợi (Kṣatriyaḥ), tức dòng dõi vua chúa. Hai là Bà-la-môn (Brahmin), tức tịnh hạnh. Ba là Phệ-xa (Vaishya), cựu dịch là Tỳ-xá, tức thương nhân. Bốn là Tuất-đà-la (Shudra), cựu dịch là Thủ-đà, tức là đại chúng. Hai tộc tánh trước cao quý, hai tộc tánh sau hèn mọn. Nay chẳng rõ mẹ của Bồ Tát thuộc tộc tánh gì, có họ là gì, là hèn hạ hay cao quý. Hiểu rõ tộc tánh và tên họ, sẽ dễ tra xét; do vậy, ắt phải hỏi tộc tánh và dòng họ.

3.1.2.2.3.2.2.2.2.1.1.2.2.2.2.3.2.2.2.2. Đáp

3.1.2.2.3.2.2.2.2.1.1.2.2.2.2.3.2.2.2.2.1. Trực đáp tánh thị (trả lời thẳng về tộc tánh và dòng họ)

          (Kinh) Thánh nữ đáp viết: – Ngã phụ, ngã mẫu, câu Bà-la-môn chủng. Phụ hiệu Thi La Thiện Hiện, mẫu hiệu Duyệt Đế Lợi.

          ()聖女答曰我父我母俱婆羅門種。父號尸羅善現母號悅帝利。

          (Kinh: Thánh nữ đáp rằng: – Cha và mẹ tôi đều thuộc chủng tánh Bà-la-môn. Cha tên là Thi La Thiện Hiện, mẹ là Duyệt Đế Lợi).

          “Phụ” là Phủ (甫)[3] [hàm nghĩa] người khởi đầu sanh ra ta; Mẫu là Mạo (冒) [ý nói] “chứa đựng, sanh dưỡng ta”. [Cha mẹ của thánh nữ] đều thuộc chủng tánh Bà-la-môn, tự nhiên là chấp tà, báng chánh. Ngoại đạo ở Tây Thiên (Ấn Độ) chuyên chấp trước “chủng tánh Bà-la-môn tôn quý bậc nhất”, như kinh Phạm Chí Át Ba La Diên Vấn Chủng Tôn nói: “Bổn sơ khởi địa thượng nhân thời, giai thị ngã tào Bà-la-môn chủng. Ngã tào chủng tối tôn, sơ tùng khẩu trung xuất, thế nhân tùng hạ xuất. Ngã chủng, thị đệ thất Phạm thiên tử tôn. Phật phản ngôn thiên hạ nhất chủng, trì ngã tào chủng dữ Sát-đế-lợi, điền gia, công sư chủng đẳng! Ngã tào tử, giai sanh Phạm Thiên, Phật phản trì ngã tào dữ phàm nhân đẳng? Phật ngôn: – Ngã kinh trung dĩ thi hành vi bổn. Thi hành thiện giả, tối vi đại chủng. Kỳ thiên hạ tôn quý giả, giai thi hành thiện đắc, bất dĩ chủng đắc dã” ([Phạm Chí cật vấn]: “Lúc ban sơ mới có loài người trên mặt đất, đều là chủng tánh Bà-la-môn của chúng tôi. Chủng tánh của chúng tôi tôn quý nhất, thoạt đầu từ miệng [của Đại Phạm Thiên] sanh ra. [Sau đó], các chủng tánh khác sanh từ những phần dưới [của thân Đại Phạm Thiên]. Chúng tôi là con cháu của vị Phạm Thiên thứ bảy, Phật nói ngược ngạo thiên hạ là một chủng tánh, coi chủng tánh của chúng tôi ngang hàng với Sát-đế-lợi, nông dân, thợ thuyền… Chúng tôi chết đi, đều sanh lên trời Phạm Thiên, Phật lại ngược ngạo bảo chúng tôi bình đẳng với những kẻ bình phàm!” Đức Phật dạy: “Trong kinh của ta, coi hành vi là gốc. Kẻ làm lành là chủng tánh tôn quý nhất. Những người tôn quý trong thiên hạ đều do làm lành mà đạt được, chẳng vì chủng tánh của họ!”)

          Thi La (Śīla) trong tiếng Phạn, được dịch là Tánh Thiện, do thích hành thiện đạo, chẳng tự buông lung. Thiện Hiện là chữ Hán, tiếng Phạn là Tu Bồ Đề (Subhūti). Duyệt Đế Lợi chưa rõ. Danh hiệu của họ đều tốt đẹp, nhưng đều giữ lòng tà. Đại Trí Độ Luận nói: “Do tà kiến là tội nặng, dẫu trì giới, thân, khẩu, nghiệp… tốt đẹp, nhưng đều thuận theo ác tâm, tà kiến, như gieo hạt cây đắng, sẽ đều có vị đắng. Kẻ tà kiến dẫu trì giới, tinh tấn, đều thành ác pháp. Chẳng bằng không chấp mà hành huệ thí (bố thí bằng trí huệ)”. Huống hồ mẹ của thánh nữ trong tâm chấp trước tà kiến, bên ngoài thì thường chê bai, hủy báng ư? Nhưng Quỷ Vương hỏi về chủng tánh, tên họ của mẹ, thánh nữ nêu tên cha trước là vì vợ thường được gọi tên theo chồng vậy!

3.1.2.2.3.2.2.2.2.1.1.2.2.2.2.3.2.2.2.2.2. Quỷ Vương ủy thuyết sanh thiên (Quỷ Vương nói tường tận mẹ thánh nữ đã sanh lên trời)

3.1.2.2.3.2.2.2.2.1.1.2.2.2.2.3.2.2.2.2.2.1. Chánh thuyết kỳ do (nói thẳng vào nguyên do)

3.1.2.2.3.2.2.2.2.1.1.2.2.2.2.3.2.2.2.2.2.1.1. Nguyện thánh giả phản bổn (xin đức thánh hãy quay về)

          (Kinh) Vô Độc hiệp chưởng, khải Bồ Tát viết: – Nguyện thánh giả khước phản bổn xứ, vô chí ưu ức bi luyến.

          ()無毒合掌啟菩薩曰願聖者卻返本處無至憂憶悲戀。

          (Kinh: Vô Độc chắp tay thưa với Bồ Tát rằng: – Xin đức thánh hãy trở về chỗ mình, đừng lo âu, thương nhớ, buồn bã, quyến luyến quá mức).

          Chắp tay nhằm biểu hiện oai nghi chúc mừng, an ủi. “Phản bổn xứ”: Chỗ này chẳng phải là nơi Bồ Tát nên ở. Thoạt đầu, Ngài vì mẹ mà tới, nay đã biết rồi, hãy nên lập tức quay về chỗ mình ở, chẳng cần phải lo âu, thương nhớ, xót xa, quyến luyến nữa!

3.1.2.2.3.2.2.2.2.1.1.2.2.2.2.3.2.2.2.2.2.1.2. Minh tội nữ sanh  thiên (nói rõ tội nữ đã sanh lên trời)

          (Kinh) Duyệt Đế Lợi tội nữ, sanh thiên dĩ lai, kinh kim tam nhật. Vân thừa hiếu thuận chi tử, vị mẫu thiết cúng, tu phước bố thí Giác Hoa Định Tự Tại Vương Như Lai tháp tự.

          ()悅帝利罪女生天以來經今三日。云承孝順之子為母設供修福布施覺華定自在王如來塔寺。

          (Kinh: Tội nữ Duyệt Đế Lợi từ khi sanh lên trời đến nay đã là ba ngày. Nghe nói nhờ đứa con hiếu thuận, vì mẹ cúng dường, tu phước bố thí nơi chùa tháp của Giác Hoa Định Tự Tại Vương Như Lai).

          Quỷ Vương đáp rằng: “Thoạt đầu, tôi không biết là ai; chứ nếu là tội nữ Duyệt Đế Lợi thì đã thoát khổ, sanh lên trời được ba ngày rồi!” Sau đó, chỉ ra nguyên do sanh thiên: Do đứa con hiếu thuận cúng dường, tu phước nơi chùa, tháp của Như Lai. Khéo phụng sự cha mẹ là Hiếu, hiếu đứng đầu trăm hạnh, là cái tâm tốt lành chân thật, thiết tha nhất. Thân ta chẳng từ trên trời rơi xuống, chẳng từ dưới đất sanh ra. Vì thế, chẳng thể nào không thân thiết với cha mẹ. Tổ sư nói: “Phụ mẫu phi ngã thân, thùy thị tối thân giả” (Cha mẹ chẳng phải là người thân của ta, ai là người thân thiết nhất). “Thuận” là chẳng trái nghịch. Tăng Tử nói: “Hiếu tử chi dưỡng thân dã, lạc dự kỳ tâm, bất vi kỳ chí, lạc kỳ nhĩ mục, an kỳ tẩm thực” (Con hiếu phụng dưỡng cha mẹ, đoán biết sẵn những điều làm cho cha mẹ vui lòng, chẳng trái nghịch ý chí của họ, khiến cho cha mẹ vui tai, sướng mắt, sắp đặt yên ấm chuyện ăn ngủ cho cha mẹ). Vì thế, kinh Phạm Võng nói: “Hiếu thuận, chí đạo chi pháp” (Hiếu đạo là pháp đạo tột bậc). Sách Hiếu Kinh Viện Thần Khế[4] viết: “Nguyên khí hỗn độn, hiếu ở trong đó. Vì thế, tâm tình kính yêu thân ái đáng nên vâng giữ”. [Nhưng thời cổ, tại Trung Hoa] đạo hiếu chỉ để dạy con trai, chẳng dạy con gái. Nay thánh nữ thoạt đầu khuyên mẹ hãy chánh tín, trong khoảng giữa thì cúng dường cảm Phật, cuối cùng là mẹ nhờ phước được sanh lên trời, có thể nói là cô ta đã có thể khuyên dụ mẹ hướng về đạo, cứu mẹ thoát khổ, một thân trọn đủ pháp thế gian và xuất thế gian, cái danh hiếu thuận trọn khắp pháp giới chẳng mòn, trải bao kiếp nhiều như cát mà chẳng mất vậy!

3.1.2.2.3.2.2.2.2.1.1.2.2.2.2.3.2.2.2.2.2.1.3. Thị đồng tội thọ lạc (chỉ ra những người cùng chịu khổ đều được hưởng vui)

          (Kinh) Phi duy Bồ Tát chi mẫu đắc thoát địa ngục, ưng thị Vô Gián tội nhân, thử nhật tất đắc thọ lạc, câu đồng sanh ngật.

          ()非唯菩薩之母得脫地獄應是無間罪人此日悉得受樂俱同生訖。

          (Kinh: Không chỉ mẹ Bồ Tát được thoát địa ngục, mà ngay cả những tội nhân trong ngục Vô Gián, trong ngày hôm ấy đều được hưởng vui, đều cùng sanh lên trời cả rồi).

          Ngục lớn Vô Gián thành sắt nhốt kín, mờ mịt, âm u, khó có dịp ân xá. Nay do phước lực bố thí giúp cho mẹ của chính mình mà mẹ được sanh lên trời; thiện duyên trong lúc ấy khiến cho những kẻ cùng nghiệp [trong địa ngục] cũng được hưởng vui lây. Lòng hiếu thảo tột cùng, phước lực rộng lớn! Đúng là tấm gương báo đền ân mẹ, thật sự là khuôn phép để giúp cõi âm vậy.

3.1.2.2.3.2.2.2.2.1.1.2.2.2.2.3.2.2.2.2.2.2. Ngôn tất nhi thoái (nói xong bèn lui)

          (Kinh) Quỷ Vương ngôn tất, hiệp chưởng nhi thoái.

          ()鬼王言畢合掌而退。

          (Kinh: Quỷ Vương nói xong, chắp tay lui ra).

          Nói xong, chắp tay, kính trọng, ngưỡng mộ tột bậc, lòng hiếu cảm động người khác sâu xa. Phần nói về những chuyện thuộc nhân hạnh đã xong.

3.1.2.2.3.2.2.2.2.1.2. Hiển sở phát hoằng nguyện (hiển thị hoằng nguyện đã phát)

          (Kinh) Bà-la-môn nữ tầm như mộng quy, ngộ thử sự dĩ, tiện ư Giác Hoa Định Tự Tại Vương Như Lai tháp tượng chi tiền, lập hoằng thệ nguyện: “Nguyện ngã tận vị lai kiếp, ưng hữu tội khổ chúng sanh, quảng thiết phương tiện, sử linh giải thoát”.

          ()婆羅門女尋如夢歸悟此事已便於覺華定自在王

如來塔像之前立弘誓願願我盡未來劫應有罪苦眾生廣設方便使令解脫。

          (Kinh: Cô Bà-la-môn như vừa tỉnh giấc mộng, đã hiểu chuyện ấy rồi, liền đối trước tượng trong tháp thờ đức Giác Hoa Định Tự Tại Vương Như Lai, lập thệ nguyện rộng lớn: “Nguyện con đến hết kiếp vị lai, nếu có chúng sanh tội khổ, con sẽ rộng lập phương tiện khiến cho họ giải thoát”).

          “Tầm” (尋) là vừa mới, [ý nói] trong khoảnh khắc, ngay lập tức trở lại như cũ; tức là trong khoảnh khắc bèn như vừa trở về từ giấc mộng. Mộng là cảnh hiện trong giấc ngủ, bị vô minh che lấp. Nhưng ngủ mơ là do tâm động, động là do Thức ở bên trong, cảnh là do từ bên ngoài huân tập. Nay do cô ta suy tưởng chỗ mẹ sanh về, cho nên cảm Phật hiện thần thông. Đã ngộ sự cảm ứng do mộng, đạo tâm ngay lập tức phát khởi. Vì thế, liền đối trước tôn tượng, lập Tứ Hoằng Thệ Nguyện, từ ngày nay cho đến tột cùng đời vị lai, nếu có ai tạo tội chịu khổ, bất luận kẻ oán hay người thân, tôi đều rộng lập pháp phương tiện, khiến cho họ đều giải thoát khỏi cảnh trầm luân hết cả! Đấy chính là hoằng nguyện tối sơ, là phần dẫn khởi cho phần Chánh Tông.

3.1.2.2.3.2.2.2.2.2. Kết hội cổ kim (kết lại để dung hội xưa và nay)

          (Kinh) Phật cáo Văn Thù Sư Lợi: – Thời Quỷ Vương Vô Độc giả, đương kim Tài Thủ Bồ Tát thị, Bà-la-môn nữ giả, tức Địa Tạng Bồ Tát thị.

          ()佛告文殊師利時鬼王無毒者當今財首菩薩是婆羅門女者即地藏菩薩是。

          (Kinh: Đức Phật bảo ngài Văn Thù Sư Lợi: – Quỷ Vương Vô Độc khi ấy nay là Tài Thủ Bồ Tát, cô gái Bà-la-môn chính là Địa Tạng Bồ Tát).

          “Tài” là thứ được mọi người cùng quý báu, bởi không có tiền tài sẽ nghèo túng. Cổ nhân nói: “Thậm hỹ! Bần chi vi bệnh dã” (Đúng lắm thay! Nghèo là bệnh). Nhưng những món quý báu được phàm tục trân quý chính là thứ chuốc phiền quyến họa; chỉ có pháp bảo từ đầu đến cuối luôn được an ổn. Kinh Tịnh Danh nói: “Phú hữu thất bảo tài, giáo thọ dĩ tư tức. Thất tài giả, nhất Tín, nhị Giới, tam Đa Văn, tứ Xả, ngũ Huệ (thử ngũ vi Bảo), lục Tàm, thất Quý (thử nhị vi thủ tài nhân)” (Giàu có bảy thứ tài bảo, truyền dạy để dứt trừ những [nỗi khổ hoạn] ấy. Thất tài: Một là Tín, hai là Giới, ba là Đa Văn, bốn là Xả, năm là Huệ (năm thứ này là của báu), sáu là Tàm, bảy là Quý (hai thứ này là người gìn giữ tài bảo). Nhưng đối với bảy món tài bảo ấy, Tín đứng đầu. Do Tín nên trì giới, do thiện nên đa văn, do đa văn nên có thể xả, do xả bèn sanh huệ. Vì thế, Tín đứng đầu các thánh tài. Xưa kia, [quỷ vương] có tên là Vô Độc, cố nhiên hành Thập Thiện Đạo. Nay nêu ra danh hiệu Tài Thủ, đủ chứng tỏ Ngài [tối thiểu] thuộc địa vị Thập Tín. Nếu xét theo lục luân trong kinh Anh Lạc để phán định địa vị thì Thiết Luân ứng với Thập Tín, Đồng Luân ứng với Thập Trụ, Ngân Luân ứng với Thập Hạnh, Kim Luân ứng với Thập Hồi Hướng, Lưu Ly Luân ứng với Thập Địa, Ma Ni Luân ứng với Đẳng Giác và Diệu Giác, đều cùng tôn Ma Ni đứng đầu. Như vậy thì Tài Thủ thuộc hàng Đẳng Giác vậy! Vì sao biết thế? Theo kinh Quán Phật Tam Muội, trong đời quá khứ xưa kia có Phật, hiệu là Thích Ca Mâu Ni. Sau khi Ngài diệt độ, có vương tử tên là Kim Tràng, kiêu mạn, tà kiến, chẳng tin Phật pháp. Khi ấy, có tỳ-kheo tên là Định Tự Tại, bảo vương tử rằng: “Trong đời có tượng Phật, tột bậc khả ái, Ngài có thể tạm thời vào tháp xem hình tượng Phật”. Vương tử liền cùng vào trong tháp, thấy tướng hảo của Phật, bạch rằng: “Tượng Phật đoan nghiêm đến thế, huống hồ đức Phật thật!” Tỳ-kheo nói: “Ngài thấy tượng chẳng lễ, hãy nên chắp tay xưng Nam-mô Phật”. Vương tử liền chắp tay xưng Phật. Trở về cung, nghĩ đến tượng, cuối đêm bèn mộng thấy, hoan hỷ bỏ tà kiến, quy y Tam Bảo. Do thiện căn vào tháp xưng niệm Phật, mạng chung gặp chín trăm vạn ức na-do-tha Phật, đạt được Niệm Phật tam-muội rất sâu, chư Phật hiện tiền, vì vương tử thọ ký. Từ đấy trở đi, trải qua trăm vạn A-tăng-kỳ kiếp, chẳng đọa ác đạo. Cho đến ngày nay, đạt được Thủ Lăng Nghiêm Định rất sâu. Vị vương tử xưa kia, nay là Tài Thủ Bồ Tát. Đức Phật đã nói Bồ Tát đắc Thủ Lăng Nghiêm Định rất sâu, nếu chẳng phải là Đẳng Giác thì là gì vậy?

          Xưa kia, cô gái Bà-la-môn do rộng hành hiếu đạo, thành thân Địa Tạng. Vì thế, hạnh hiếu theo chiều dọc tràn lấp trời đất, theo chiều ngang phô khắp bốn biển, thực hiện mãi đến đời sau chẳng phân sáng tối, tỏa rộng tựa hồ biển Đông. Phương Tây, Nam, Bắc cũng giống như thế. Vì thế, trên là từ đế vương, dưới là đến thứ dân, sang, hèn tuy khác, hành hiếu đều giống hệt như nhau. Như đất là chỗ để muôn vật nương tựa, như kho tàng là chỗ để muôn người thọ dụng. Vì thế biết danh hiệu Địa Tạng toàn là danh hiệu hiếu thuận. Đấy là do ngài Văn Thù thưa hỏi nhân địa của ngài Địa Tạng, [đức Phật] bèn nêu đại lược, khái quát đôi nét tiêu biểu như thế, há có thể nói trọn hết được ư?

***

[1] Du tăng địa ngục (游增地獄) là các tiểu địa ngục phụ thuộc tám đại nhiệt địa ngục. Ở ngoài cửa bốn phía đại địa ngục, mỗi phía có bốn ngục nhỏ, tổng cộng là mười sáu tiểu địa ngục. Tội nhân đã chịu tội trong đại địa ngục xong, phải trải qua các tiểu địa ngục này chịu khổ não tiếp nên gọi là Du Tăng (lần lượt trải qua là Du, chịu thêm hình phạt khổ não, nên gọi là Tăng).

[2] Thoạt đầu, Tánh và Thị có sự khác biệt lớn. Thời cổ, Tánh chính là tên của bộ lạc, thường được đặt tên theo đất, hay theo tên của tù trưởng, nhằm phân biệt giữa bộ lạc này với bộ lạc khác. Con cháu về sau, do sinh sôi nảy nở đông nhiều mà có Thị nhằm phân biệt quan hệ trực hệ hay bàng hệ với thủ lãnh, do chi phái nào sinh ra. Dần dần, hình thành những dòng họ riêng. Cho đến hiện thời, hễ nói đến Tánh thì thường bị coi là đồng nghĩa với Thị. Đôi khi, Tánh và Thị dùng để phân biệt giữa họ chồng và họ thật của mình. Chẳng hạn như nếu đèn lồng treo trước cửa nhà có tang, đề là “Diêu môn Ngụy Thị” thì biết người đã mất là phụ nữ, có họ là Ngụy, làm dâu nhà họ Diêu.

[3] Phủ là tiếng để tôn xưng một người nam. Chẳng hạn Khổng Tử được gọi là Ni Phủ vì ngài có tên tự là Trọng Ni. Phủ lại còn là kính từ để gọi cha người khác như tôn phủ, hoặc phủ quân. Do Phủ còn có nghĩa là “vừa mới” nên ngài Linh Thừa dùng chữ này để giải thích chữ Phụ với hàm nghĩa do có cha thì mới chủng tử sanh ra ta, cổ nhân thường nói “cha sanh mẹ dưỡng” là vì lẽ này. “Mạo” ở đây có nghĩa là che trùm. Dùng Mạo để tôn xưng mẹ với hàm ý mẹ mang thai ta, nuôi nấng, che chở ta.

[4] Tác phẩm này do Vô Danh Thị soạn vào đời Hán, thuộc loại sách sấm vĩ, do được biên tập bởi nhiều người khác nhau qua các đời nên có nhiều dị bản.


ĐỊA TẠNG BỒ TÁT BỔN NGUYỆN KINH KHOA CHÚ