ĐỊA TẠNG BỒ TÁT BỔN NGUYỆN KINH KHOA CHÚ
Đường Tam Tạng sa-môn Thật Xoa Nan Đà dịch
Cổ Diêm Khuông Am Thanh Liên bật-sô Linh Thừa soạn
Chuyển ngữ: Bửu Quang Tự đệ tử Như Hòa
3.1.2.2.2.2.2. Chánh tập đại chúng (đại chúng vân tập)
Phần này chia thành ba đoạn:
– Đại chúng trời, rồng v.v…
– Hết thảy các vị thần.
– Các vị đại Quỷ Vương.
3.1.2.2.2.2.2.1. Thiên long đẳng chúng (đại chúng trời, rồng v.v…)
3.1.2.2.2.2.2.1.1. Biệt liệt tam giới thiên chúng (kể riêng các vị trời trong tam giới)
Diệu Pháp Liên Hoa Kinh Huyền Nghĩa nói: “Người thuộc địa vị Thiên Thừa tu Thập Thiện đạo tùy ý thuần thục, đều là cái nhân để sanh thiên. Nếu tu thêm Thiền Định, sẽ thăng tấn vào cõi cao hơn”. Quả trời trong ba cõi cao thấp khác nhau, tu nhân ắt có sâu, cạn sai khác. Trong phần này, lại chia thành ba tiểu đoạn:
3.1.2.2.2.2.2.1.1.1. Lục Dục Thiên
Kinh Lăng Nghiêm dạy: “Như thị lục thiên, hình tuy xuất động, tâm tích thượng giao. Tự thử dĩ hoàn, danh vi Dục Giới” (Sáu tầng trời như thế, tuy về hình (tức sắc thân khi sanh lên cõi trời) đã thoát khỏi sự dao động của dục vọng (tức là không do cha mẹ hành dâm sanh ra, không ở trong thai tạng, hoàn toàn là hóa sanh), nhưng tâm vẫn có dấu vết dính mắc cảnh (chưa hoàn toàn thoát khỏi dục niệm). Từ đó trở xuống, gọi là Dục Giới)[1]. Vì thế, luận Câu Xá nói: “Sáu tầng trời cõi Dục [lần lượt từ thấp lên cao] lấy chuyện giao phối, ôm nhau, nắm tay, nhìn nhau cười là hành dâm” (Sách Phụ Hành giải thích: “Địa Cư Thiên thật sự giao phối, Đao Lợi coi chuyện gió thoát ra [từ thân thể sau khi hành dâm] là xong, Dạ Ma thì ôm ấp, Đâu Suất thì nắm tay, Hóa Lạc là nhìn nhau cười, trời Tha Hóa chỉ cần nhìn nhau”). Tuy giữ lấy cảnh khác nhau, nhưng đều là chưa lìa tình dục! Vì thế, gọi chung là Lục Dục Thiên.
(Kinh) Sở vị: Tứ Thiên Vương Thiên, Đao Lợi Thiên, Tu Diễm Ma Thiên, Đâu Suất Đà Thiên, Hóa Lạc Thiên, Tha Hóa Tự Tại Thiên.
(經)所謂:四天王天,忉利天,須燄摩天,兜率陀天,化樂天,他化自在天。
(Kinh: Đó chính là Tứ Thiên Vương Thiên, Đao Lợi Thiên, Tu Diễm Ma Thiên, Đâu Suất Đà Thiên, Hóa Lạc Thiên, Tha Hóa Tự Tại Thiên).
Tứ Thiên Vương Thiên (Caturmahārājakāyikā) là cõi trời đầu tiên khi thăng lên thiên giới, là tầng trời thứ nhất so với hạ giới, ở ngang lưng núi Tu Di, gần mặt trời, mặt trăng. [Thiên vương trong tầng trời này] là ngoại thần (bầy tôi bên ngoài của Đế Thích), tức là bốn vương gia trấn giữ bốn phương. Danh tự của họ sẽ được giải thích trong phần sau. Kinh Trường A Hàm nói: “Tứ Thiên Vương đều kết hôn, hành dục giống như loài người (nam nữ căn tiếp xúc), con thơ hóa sanh ở trên đầu gối như đứa trẻ năm tuổi (trời Đao Lợi thì đứa bé hóa sanh ấy như trẻ sáu tuổi, cho đến trời Tha Hóa thì như mười tuổi). Chẳng lâu sau, tự nhiên đồ đựng bằng chất báu cảm trăm vị, nó ăn chất cam lộ của cõi trời. Ăn xong, thân hình nó to bằng chư thiên”. Thân lượng và thọ mạng của chư thiên trong sáu tầng trời như trong Câu Xá Tụng đã nói: “Dục Thiên câu-lô-xá, tứ phần nhất nhất tăng” (ý nói: Một phần tư của Câu-Lô-Xá (Krośa) là nửa dặm. Trong tầng trời thứ nhất, thân cao nửa dặm, năm tầng trời sau đó, cứ lên cao hơn một tầng thì cao thêm nửa dặm). Năm mươi năm trong nhân gian bằng một ngày một đêm trong tầng trời thấp nhất (Tứ Thiên Vương Thiên). Theo cách tính đó, họ thọ năm trăm năm. Năm tầng trời trên đó lần lượt gấp bội lần lên (Tứ Thiên Vương Thiên thọ năm trăm năm, mà năm mươi năm trong nhân gian bằng một ngày trong cõi đó. Cho đến Tha Hóa Thiên thọ mười sáu ngàn năm, coi một ngàn sáu trăm năm trong nhân gian là một ngày. Họ cũng lấy ba mươi ngày làm một tháng, mười hai tháng làm một năm). Nếu bố thí, giữ giới chẳng giết chóc, thanh tịnh thù thắng đôi chút, chán nhàm gia nghiệp, ưa thích nghe pháp, cúng dường người lành, sẽ sanh vào Tứ Thiên Vương
Thiên.
Đao Lợi Thiên như đã nói trong phần trên. Đại Luận nói: “Thích Ca Đề Bà Nhân Đề (Śakra-Devānām-Indra), Hán dịch là Năng Thiên Chúa. Lúc làm người đã bố thí, lại còn giữ giới chẳng trộm cắp, cúng dường, và tôn trọng cha mẹ, tâm mong cầu thù thắng, sanh vào Tam Thập Tam Thiên, ở trên đỉnh núi Tu Di. Bốn phía đỉnh núi có ba mươi hai cõi trời”. Đối với hai tầng trời trên đây, chỉ tu Thượng Phẩm Thập Thiện là được sanh vào đó.
Tu Diễm Ma Thiên (Suyāma, Dạ Ma Thiên): Đại Luận nói: “Tên của Dạ Ma Thiên vương được dịch sang tiếng Hán là Diệu Thiện, do vua luôn kêu ‘sung sướng quá’, tuy hưởng thụ cảnh ngũ dục, nhưng biết thời hạn. Đấy là do bố thí, cộng thêm trì giới chẳng dâm, tâm ý nhu hòa, bèn sanh vào Dạ Ma Thiên. Lại do khi còn ở trong nhân gian, động ít, tĩnh nhiều; sau khi mạng chung, an trụ rành rành trong hư không. Quang minh của mặt trời và mặt trăng còn chẳng chiếu tới. Những vị trời ấy tự có quang minh”. Đây là tầng trời đầu tiên thuộc về Không Cư Thiên.
Đâu Suất Đà Thiên (Tuṣita), dịch theo lối mới[2] là Đổ Sử Đa. Đại Luận nói: “Tên của San Đâu Suất Đà thiên vương được dịch sang tiếng Hán là Diệu Túc, do đối với ngũ dục bèn biết đủ mà ngưng nghỉ. Do xưa kia bố thí, cộng thêm giữ cho miệng chẳng phạm bốn lỗi, ưa thích đa văn, phân biệt tốt, xấu, yêu chuộng Niết Bàn, nhưng tâm chấp vào công đức. Sau khi mạng chung, thăng lên cõi tinh vi, chẳng tiếp nhận cảnh nhân thiên thuộc những cõi dưới. Cho đến khi Kiếp Hoại, Tam Tai không gây hại tới. Đấy là chỗ ở của bậc Bổ Xứ Bồ Tát. Vì thế, Phật Địa Luận gọi [cõi trời này] là Hỷ Túc vì hậu thân Bồ Tát giáo hóa trong ấy, phần nhiều tu Hỷ Túc”. “Tam Tai không lan tới nơi ấy” là nói theo Nội Viện, chứ Ngoại Viện của cõi trời ấy vẫn hứng chịu Tam Tai.
Hóa Lạc Thiên (Nirmāṇarati): Đại Luận nói: “Tu Niết Mật Đà, dịch sang tiếng Hán là Hóa Lạc, vì tự hóa hiện ngũ trần để hưởng vui sướng. Đấy là do tâm bố thí sâu xa, trì giới, đa văn, tự lực sinh hoạt, sẽ sanh vào Hóa Lạc Thiên”.
Tha Hóa Tự Tại Thiên (Para-nirmita-vaśa-vartin): Tiếng Phạn là Bà Xá Bạt Đề. Do chư thiên cõi này đoạt lấy sự biến hóa của người khác để tự hưởng vui sướng [nên gọi là Tha Hóa Tự Tại]. Do xưa kia, lúc bố thí thanh tịnh, trì giới càng sâu, ưa chuộng đa văn, nhưng có lắm tình kiến quý trọng chính mình, chẳng thể tự chịu khổ, cầu sự vui sướng từ kẻ khác, lòng luôn suy nghĩ siêng tu tập phương tiện hòng đoạt lấy ngũ dục do người khác biến hóa ra để chính mình hưởng thụ tự tại. Vì thế, Biệt Hành Sớ viết: “[Cõi trời này] là cõi trời cao nhất của Dục Giới, biến những thứ do người khác tạo tác thành sự vui sướng của chính mình, tức là Ma Vương”. Sách Thùy Dụ Ký[3] lại chép: “Trên tầng trời thứ sáu, có một cõi trời dành riêng cho Ma La ở, thuộc Tha Hóa Thiên”. Kinh luận nói khác nhau [như vậy đó].
Bốn cõi trời Không Cư trên đây, tu thượng phẩm Thập Thiện, kiêm tọa Thiền chưa đắc Định, bèn được sanh vào trong các cõi ấy. Sách Tướng Luật Cảm Thông Truyện[4] chép: “Đế Thích là chúa các tầng trời Địa Cư. Ma Vương là chúa tầng trời lục dục. Đế Thích và bốn thiên vương muốn hành Phật pháp, ma không chế ngự được!”
Hỏi: Hai cõi trời Địa Cư chủ yếu trụ trên đỉnh núi, các bầy tôi sống ở chân núi. Bốn tầng trời thuộc Không Cư dựa vào đâu để an lập?
Đáp: Theo Đại Luận, đất bảy báu của các cõi trời như Dạ Ma v.v… ở trong hư không, có phong luân giữ cho chúng an trụ. Cho đến trời Tịnh Cư cũng giống như thế. Nghiệp Sớ[5] lại nói: “Trên Đệ Tứ Thiền, mây phủ nhẹ mỏng, rải rác như sao, chẳng tụ tập dầy đặc như các tầng trời phía dưới”. Do vậy biết: Tuy là Không Cư, ắt phải nương vào mây, nhờ vào gió để duy trì. Do phước nghiệp mà được như vậy đấy!
3.1.2.2.2.2.2.1.1.2. Sắc Giới Thiên
Có tất cả mười tám cõi trời, chia thành Tứ Thiền. Sơ, Nhị, Tam Thiền, mỗi Thiền Thiên có ba tầng trời, Tứ Thiền có chín tầng trời. Đã lìa dục thô tán, nhưng chưa ra khỏi lồng giam của Sắc, cho nên gọi là Sắc Giới (Rūpadhātu). Do tọa Thiền đắc Định, nên gọi là Thiền. Thân chánh báo [trong Sắc Giới Thiên] là sắc thanh tịnh, chẳng phải là sắc thân cấu nhiễm như trong Dục Giới.
(Kinh) Phạm Chúng Thiên, Phạm Phụ Thiên, Đại Phạm Thiên.
(經)梵眾天,梵輔天,大梵天。
(Kinh: Phạm Chúng Thiên, Phạm Phụ Thiên, Đại Phạm Thiên).
Đại Luận nói: “Dục Giới tâm tán loạn, hành giả nương vào địa nào, do phương tiện nào để đắc? Hãy nên nương vào các môn Thiền Định thuộc Sắc Giới và Vô Sắc Giới. Đối với Tứ Vô Lượng Tâm, Bát Bội Xả, Bát Thắng Xứ, Cửu Thứ Đệ Định, Thập Nhất Thiết Xứ Thí Tâm, biết nhu nhuyễn tự tại có như ý hay không? Ví như người huấn luyện thử ngựa, [cho đến khi ngựa đã] có thể điều khiển tùy ý, thì mới dùng nó để ra trận. Vì thế, thế gian và xuất thế gian dùng những món Thiền ấy làm căn bản”.
“Phạm” (梵) là thanh tịnh, chẳng có dục nhiễm. Mười tám tầng trời đều thanh tịnh, vô dục. Trước tên của các cõi trời này đều có chữ Phạm. Phạm Chúng (Brahma-pāriṣadya-deva) là dân, Phạm Phụ (Brahma-purohita) là quần thần. Phạm Phụ còn gọi là Phạm Phú Lâu, cõi này dịch Tiền Ích Thiên (前益天), do họ thường đi trước Phạm Thiên, luôn suy nghĩ lợi ích của Phạm Thiên. Đại Phạm (Mahā-brahmā) tức là vua. Vì thế, sách Thứ Đệ Thiền Môn[6] nói: “Đức Phật vì các nhân vương nói mười tám cõi trời Phạm, cũng phải nên có dân và chúa khác nhau”. Theo đấy, sau đó cũng nên tách ra thành dân chúng, các quan, và vua. Nhưng sách Pháp Uyển Châu Lâm luận định về chư thiên sang hèn, [từ Tứ Thiên Vương Thiên cho đến các tầng] trời Sắc Giới, chỉ riêng ba cõi trời Sơ Thiền là có sang hèn, Đại Phạm Thiên là vua… Chư thiên từ đây trở lên đều thọ báo bình đẳng như nhau, chẳng có sang hèn. Căn cứ theo đó, đối với ba cõi trời có chữ Quang và ba cõi trời có chữ Tịnh trong Sắc Giới, phải dùng công hạnh để luận định ưu việt hay kém cỏi. Đại Luận quyển chín nói: “Trời Phạm Thế, đối với sanh xứ thì có ba loại: Một là Phạm Chúng Thiên, là nơi sống của các tiểu phạm. Hai là Phạm Phụ Thiên, là chỗ sanh của các Phạm thiên sang quý. Ba là Đại Phạm Thiên, là chỗ sanh của bậc trung gian Thiền”.
Hỏi: Cùng ly dục giống nhau, sao lại có quý hèn khác chỗ?
Đáp: Ba loại trời trong Sơ Thiền: Tu Hạ Thiền sanh vào Phạm Chúng, tu Trung Thiền sanh vào Phạm Phụ, tu Thượng Thiền sanh vào Đại Phạm. Hạnh về lòng Từ cũng như vậy. Dùng đệ nhất thanh tịnh tâm để tu thượng Từ, bèn sanh làm Đại Phạm, thống lãnh đại thiên, làm bậc Thế Chủ (chúa tể của thế gian). Nhưng nói chung, có vạn ức Phạm Vương, nhưng trong cõi đại thiên này, Phạm Vương tên là Thi Khí (Śikhin), dịch sang tiếng Hán là Đảnh Kế (頂髻, búi tóc trên đỉnh đầu), làm chúa cõi đại thiên (đấy là nói theo chiều ngang). Lại nữa, Sơ Thiền vì bên trong có giác quán, cho nên bên ngoài sẽ có ngôn ngữ để thuận tiện thống lãnh các địa vị thấp hơn. Như Ma Hê Thủ La (Maheśvara), tuy được gọi là Đại Tĩnh Vương (ngài Quán Đảnh nói vị thiên vương này có tên là Oai Linh Đế), sống ở trên đỉnh của Sắc Giới, có quả báo thù thắng, cho nên làm chúa, nhưng không có ý nghĩa là một vị vua thống lãnh. Hai tầng Thiền Thiên trên đó không có pháp ngôn ngữ! Vì thế, các Thiền Thiên chỉ coi người có quả báo thù thắng là chúa, chẳng phải là bậc thống lãnh, cai trị (đấy là luận định theo chiều dọc). Như Niết Bàn Sớ viết: “Chúa của thế giới Sa Bà thật sự là Ma Hê Thủ La, Phạm Vương chỉ thống lãnh tiểu thiên mà thôi”. Đấy chính là cách nói của các vị cổ đức, chẳng phải là chánh ý trong tông này. Đại Luận nói: “Có người bố thí, trì giới, khi người ấy tu bố thí, tấm lòng vui sướng. Nếu thí nhiều, niềm vui cũng nhiều. Tư duy như thế, bỏ ngũ dục, trừ ngũ cái, nhập Sơ Thiền; cho đến Phi Hữu Tưởng Phi Vô Tưởng Thiên cũng giống như thế!”
(Kinh) Thiểu Quang Thiên, Vô Lượng Quang Thiên, Quang Âm Thiên.
(經)少光天,無量光天,光音天。
(Kinh: Thiểu Quang Thiên, Vô Lượng Quang Thiên, Quang Âm Thiên).
Nhị Thiền có ba tầng trời: Thiểu Quang (Parīttābha) là do quang minh ít ỏi. Vô Lượng Quang (Apramāṇābha) là quang minh tăng nhiều hơn, chẳng có hạn lượng. Quang Âm (Ābhāsvara, dịch theo lối mới là Cực Quang), vì dùng quang minh làm âm thanh, ngôn ngữ! Đại Luận, quyển thứ ba mươi ba chép: “Như kinh nói tâm thanh tịnh thù thắng hay kém cỏi, cho nên quang minh có thượng, trung, hạ. Tâm chư thiên thanh tịnh, bố thí, trì giới; cho nên thân có quang minh. Lại có người đốt đèn ở chỗ tối, và cũng cúng dường tôn tượng, tháp, chùa. Lại thường tu từ tâm, nghĩ tới trọn khắp chúng sanh. Lại tu Niệm Phật tam-muội, niệm quang minh thần đức của chư Phật. Lại tu Hỏa Nhất Thiết Nhập. Lại dùng quang minh trí huệ giáo hóa chúng sanh ngu ám, tà kiến. Do bởi nhân duyên của nghiệp ấy, đạt được ánh sáng trí huệ trong tâm, thân cũng có quang minh”. Vì thế, A Tỳ Đàm Luận nói: “Tướng báo thân của chư thiên đều chẳng có xương, thịt, cũng chẳng có đại tiểu tiện bất tịnh. Thân tỏa ra quang minh, chẳng phân biệt ngày hay đêm, đạt được quả báo Ngũ Thông, sắc thân không chướng ngại!” Vì thế biết: Luận định về quang minh trong ba cõi trời, nghĩa đã trọn khắp trước sau. Luận về tịnh trong Tam Thiền, ý nghĩa cũng giống như thế. Nói chung là tùy theo hạnh cao hay thấp mà đạt được địa vị cạn hay sâu!
(Kinh) Thiểu Tịnh Thiên, Vô Lượng Tịnh Thiên, Biến Tịnh Thiên.
(經)少淨天,無量淨天,徧淨天。
(Kinh: Thiểu Tịnh Thiên, Vô Lượng Tịnh Thiên, Biến Tịnh Thiên).
Ba tầng trời thuộc Tam Thiền:
– Thiểu Tịnh (Parīttaśubha), ly hỷ thọ lạc là Tịnh, do chẳng bằng địa vị cao hơn nên là Thiểu.
– Vô Lượng Tịnh (Apramāṇaśubha): Do tịnh thù thắng hơn tầng trời trước (Thiểu Tịnh) chẳng thể lường được.
– Biến Tịnh (Śubhakṛtsna): Lạc thọ tối thắng, tịnh trọn khắp.
Vì sao Tam Thiền được gọi là Tịnh? Đại Luận nói: “Do duyên tịnh, nên là Tịnh. Tám sắc[7] là tịnh pháp, chưa bị luyện sẽ chẳng tịnh. Nay pháp Tam Thiền và Tứ Thiền dấy khởi, đều xúc chạm tám sắc ấy để làm tịnh duyên”. Nói “pháp Tam Thiền, Tứ Thiền” v.v… là nói tới cái sắc cực tịnh trong Sắc Giới, dùng nó để duyên Xúc, tám sắc càng tịnh. Vì thế nói là “do duyên tịnh, cho nên tịnh”. Niềm vui ấy cảm thọ trọn khắp toàn thân, nên biết là Tịnh do Tam Thiền. Sách Ma Ha Chỉ Quán nói: “Niềm vui trong Tam Thiền như đá giữa suối, sanh từ ngay trong nước. Niềm vui do Phạm hạnh cũng giống như thế. Niềm vui trong hai giới chẳng thể hơn [niềm vui trong] Tam Thiền được! Hễ cầu sanh lên trời, hãy lấy lạc làm gốc. Vì thế, gọi lạc thù thắng là Thiên”.
(Kinh) Phước Sanh Thiên, Phước Ái Thiên, Quảng Quả Thiên, Vô Tưởng Thiên, Vô Phiền Thiên, Vô Nhiệt Thiên, Thiện Kiến Thiên, Thiện Hiện Thiên, Sắc Cứu Cánh Thiên.
(經)福生天,福愛天,廣果天,無想天,無煩天,無熱天,善見天,善現天,色究竟天。
(Kinh: Phước Sanh Thiên, Phước Ái Thiên, Quảng Quả Thiên, Vô Tưởng Thiên, Vô Phiền Thiên, Vô Nhiệt Thiên, Thiện Kiến Thiên, Thiện Hiện Thiên, Sắc Cứu Cánh Thiên).
Chín tầng trời thuộc Tứ Thiền: Ba tầng là trụ xứ của phàm phu, là chỗ ở của Vô Tưởng ngoại đạo, năm tầng trời là chỗ ở của [thánh nhân] Tam Quả. Đối với ba tầng trời của phàm phu, kinh luận nói hơi sai khác. Như kinh Nhân Vương nói “cửu Phạm”, tức ba tầng trời được gọi là Tịnh (Thiểu Tịnh, Vô Lượng Tịnh, Biến Tịnh), ba tầng trời được gọi là Quang (Thiểu Quang, Vô Lượng Quang, và Quang Âm), và ba tầng trời Phạm (Phạm Chúng, Phạm Phụ, và Đại Phạm), năm tầng Hỷ Lạc Thiên. Sớ giải lại nói Vô Vân Thiên (Anabhraka) là khởi đầu [của Tứ Thiền], không có Phước Ái Thiên. Nay kinh này và kinh Lăng Nghiêm đều chẳng nhắc tới Vô Vân, mà đều coi Phước Ái là tầng trời thứ hai. Ấy là vì các vị dịch sư dịch thuật hơi sai khác vậy.
Phước Sanh (Puṇyaprasava): Do tướng thô nặng đã diệt, phước tánh thanh tịnh sanh ra. Đặt tên như vậy nhằm nêu tỏ cái nhân. Phước Ái: Xả tâm viên dung, ngộ giải thù thắng thanh tịnh. Trong cái phước chẳng bị ngăn che, đạt được sự tùy thuận mầu nhiệm. Cõi trời trước coi xả lạc là phước; nay xả tâm chuyển biến càng thù thắng hơn, yêu thích phước ấy. So với Phước Sanh, sâu, cạn khác biệt! Quảng Quả (Bṛhatphala): Quả của phàm phu chẳng thể thù thắng hơn được. Vô Tưởng (Asaṃjñasattva): Trong một khoảng thời gian, tâm tưởng chẳng hiện hành.
Kinh Lăng Nghiêm nói: “Tùng thị thiên trung, hữu nhị kỳ lộ. Nhược ư tiên tâm, vô lượng tịnh quang, phước đức viên minh, tu chứng nhi trụ, danh Quảng Quả Thiên. Nhược ư tiên tâm, song yếm khổ lạc, thân tâm câu diệt, kinh ngũ bách kiếp giả, danh Vô Tưởng Thiên. Thử tứ thắng lưu, nhất thiết thế gian chư khổ lạc cảnh, sở bất năng động. Tuy phi vô vi chân bất động địa, hữu sở đắc tâm, công dụng thuần thục, danh vi Tứ Thiền. Thử trung phục hữu ngũ Bất Hoàn Thiên, ư hạ giới trung, cửu phẩm tập khí câu thời diệt tận, khổ lạc song vong, hạ vô bốc cư. Cố ư xả tâm chúng đồng phận trung, an lập cư xử” (Từ trong cõi trời này, có hai con đường rẽ. Nếu đối với cái tâm trước đó, do vô lượng tịnh quang, phước đức viên minh, tu chứng bèn trụ [trong ấy] thì gọi là Quảng Quả Thiên. Nếu đối với cái tâm trước đó, chán ghét cả khổ lẫn lạc, thân lẫn tâm đều diệt, trải qua năm trăm kiếp, thì gọi là Vô Tưởng Thiên. Đối với bốn dòng thù thắng ấy, hết thảy các cảnh khổ vui trong thế gian đều chẳng thể động. Tuy chẳng phải là địa vị bất động vô vi thật sự, nhưng do tâm có sở đắc, công dụng thuần thục, nên gọi là Tứ Thiền. Trong ấy lại có Ngũ Bất Hoàn Thiên, tức là cùng lúc diệt sạch chín phẩm tập khí thuộc về hạ giới, khổ và lạc cùng mất, chẳng chọn lựa chỗ ở trong các cõi dưới đó nữa. Vì thế trong Chúng Đồng Phận của xả tâm mà an lập, ở yên).
Đại Luận gọi [Bất Hoàn Thiên] là Tịnh Sanh Thiên (Śuddhāvāsa). Sắc Giới có năm loại A Na Hàm, Bất Hoàn Thiên là [nơi mà các vị thánh nhân Tiểu Quả sẽ] chẳng trở lại nơi ấy, tức là họ sẽ ở trong ấy mà đắc A La Hán. Tiếng Phạn [gọi Bất Hoàn Thiên] là Thủ Đà Bà (Śuddhāvāsa), dịch sang tiếng Hán là Tịnh Cư Thiên. Vì sao gọi là Tịnh Cư Thiên? Do Tứ Thiền có tám loại thì năm loại là trụ xứ của A Na Hàm, tức là Tịnh Cư, là nơi mà ba loại thánh nhân phàm phu[8] cùng ở. Do Tịnh Cư Thiên thường thương xót chúng sanh, họ thường khuyên thỉnh đức Phật thuyết pháp.
Vô Phiền (Avṛha): Chẳng xen tạp Kiến Tư phiền não, đối với hai đằng khổ và lạc, tâm chẳng có ý tưởng dính dáng đến chúng. Vô Nhiệt (Atapa): Chỉ có dấy khởi hoặc thâu tóm ý niệm, chẳng hề nghiên cứu niệm tâm, hoặc xen tạp ý niệm, chẳng có trái nghịch hay tùy thuận, lìa khỏi nhiệt não. Vô Phiền dứt bặt ngoại cảnh, Vô Nhiệt dứt bặt nội tâm, sâu cạn khác hẳn! Thiện Kiến (Sudarśana): Đối với mười phương thế giới, đều thấy mầu nhiệm viên mãn, lắng trong, mà cũng chẳng có hình bóng trần cảnh, cái Thấy tột bậc sáng suốt, thấu triệt. Thiện Hiện (Sudṛśa): Cái Thấy tinh diệu đã hiện tiền, nặn đúc vô ngại (ý nói sức Định Huệ có thể tùy ý thành tựu vô ngại như người thợ gốm hoặc thợ đúc tùy tâm chế tác các vật), hình sắc càng thù thắng hơn, do có thể khéo biến hóa. Sắc Cứu Cánh (Akaniṣṭha): Hiểu rốt ráo mọi căn cơ, thấy tột cùng tánh của sắc tánh, nhập vô biên tế, là tối cực trong sắc pháp. A Ca Ni Trá, hoặc A Ca Ni Sa trong tiếng Phạn, Hán dịch là Chất Ngại Cứu Cánh (質礙究竟) tức nói về cõi trời này vậy.
(Kinh) Ma Hê Thủ La Thiên.
(經)摩醯首羅天。
(Kinh: Ma Hê Thủ La Thiên).
Ma Hê Thủ La Thiên (Maheśvara), Đại Luận dịch là Đại Tự Tại. Chánh âm là Ma Ha Mạc Hê Y Thấp Phạt La (Mahā-īśvara)[9], tám tay, ba mắt, cưỡi trâu trắng. Nhưng Phổ Môn Sớ nói: “Kinh Lâu Thán gọi [vị trời này] là A Ca Ni Trá, kinh Hoa Nghiêm gọi là Sắc Cứu Cánh Thiên”. Như vậy thì Ma Hê Thủ La chính là Sắc Cứu Cánh Thiên; nay kể riêng biệt thì như kinh Bảo Vũ chép: “Phục hữu Tịnh Cư thiên chúng, Ma Hê Thủ La nhi vi thượng thủ” (Lại có thiên chúng Tịnh Cư, Ma Hê Thủ La làm thượng thủ). Nay kinh này nêu riêng tên vị này, nhằm tôn xưng vị chủ cõi trời ấy. Cũng có người cho rằng Ma Hê Thủ La là chúa cõi trời thứ sáu trong Dục Giới, nhưng các kinh luận phần đông gọi vị này là Đại Tự Tại, [ngự] trên đỉnh của Sắc Giới. Thích Luận nói: “Qua khỏi tám chỗ ấy, có trụ xứ của Thập Trụ Bồ Tát, còn gọi là Tịnh Cư, [vị Bồ Tát ấy] hiệu là Đại Tự Tại thiên vương, là chủ của cõi đại thiên thế giới”. Kinh Thập Trụ nói: “Đại Tự Tại Thiên quang minh thắng nhất thiết chúng sanh. Cố Thế Tôn Niết Bàn hiến cúng, Đại Tự Tại Thiên tối thắng” (Đại Tự Tại Thiên quang minh vượt xa hết thảy chúng sanh. Vì thế, lúc đức Thế Tôn nhập Niết Bàn, Đại Tự Tại Thiên hiến cúng thù thắng nhất). Do vậy biết Đại Tự Tại Thiên chẳng phải là Đệ Lục Thiên. Nay nói đến Tha Hóa Tự Tại thì ông ta nhờ vào những thứ do người khác biến hóa để tự mình hưởng thụ, được đại tự tại nơi cảnh giới, còn Ma Hê Thủ La ở tột đỉnh của Sắc Giới, huân tu Thiền tối thắng, đắc đại tự tại nơi Định. Một đằng là từ thế lực, Ma Vương thuộc vào Lục Thiên. Một đằng là từ Thiền Định, tôn quý tột bậc, đáng nên ngự tại tột đỉnh của Sắc Giới. Huống hồ Ba Tuần (Ma vương) thường cầu đức Thế Tôn nhập diệt, còn Tịnh Cư thường thỉnh Như Lai chuyển pháp luân. Vậy thì danh hiệu Tự Tại cố nhiên là giống như nhau, nhưng chuyện tự tại vĩnh viễn khác biệt. [Đại Tự Tại Thiên] chẳng phải là Lục Dục Thiên, những điều vừa nói đủ làm chứng cớ rồi.
Tỳ Bà Sa Luận nói: “Phàm những ai sanh về cõi trời ấy, nếu là kẻ tiến hướng quả A Na Hàm, thân đạt được Tứ Thiền, phát khởi vô lậu, dấy lên huân tập Thiền nghiệp, hoặc khởi một phẩm cho đến chín phẩm thì mới được sanh [về đó]. Phàm phu chẳng được huân tập bởi Thiền nghiệp này, cho nên chẳng được sanh về đó”. Kinh Lăng Nghiêm nói: “Thử Bất Hoàn Thiên, bỉ chư Tứ Thiền tứ vị thiên vương, độc hữu khâm văn, bất năng tri kiến. Như kim thế gian khoáng dã, thâm sơn, thánh đạo tràng địa, giai A La Hán sở trụ trì cố, thế gian thô nhân, sở bất năng kiến dã” (Bất Hoàn Thiên và bốn vị thiên vương thuộc Tứ Thiền đều riêng có thể nghe nhận, vâng hành ý chỉ của Phật, [người khác] chẳng thể thấy biết họ được. Như nơi đồng hoang, núi sâu, hoặc nơi thánh địa đạo tràng, đều có A La Hán duy trì, nhưng kẻ thô thiển trong thế gian chẳng thể trông thấy).
3.1.2.2.2.2.2.1.1.3. Vô Sắc Giới Thiên
Nhàm chán sâu xa cái lồng Sắc, tu Tứ Không Định, sanh vào Tứ Không Thiên, gọi là Vô Sắc Giới (Ārūpya-dhātu). Do bốn cõi trời này chỉ có bốn Uẩn (không có Sắc Uẩn), cho nên gọi tên như vậy. Sách Phụ Hành, quyển sáu có chép: “Từ Đệ Tứ Thiền, muốn nhập Không Xứ, ắt phải hành phương tiện, diệt ba thứ Sắc. Một là Khả Kiến Khả Đối Sắc (Sắc Trần), hai là Bất Khả Kiến Khả Đối Sắc (năm căn, bốn trần), ba là Bất Khả Kiến Vô Đối Sắc (chút phần của pháp nhập, tức là Vô Biểu Sắc)[10]. Ba thứ Sắc này hoàn toàn thuộc trong Sắc Giới, cho nên [Vô Sắc Giới] diệt ba thứ ấy, nhưng chỉ là không có thô sắc, chẳng phải là không có tế sắc”. Vì thế, ngài Diệu Lạc nói: “Vô Sắc tuy chẳng có sắc được tạo ra bởi Tứ Đại, nhưng những gì tạo tác bởi Định quả [trong Tứ Không Định] đều là tường vách” (đại sư dùng chữ “tường vách” trong kinh Pháp Hoa để ví von Ý Thức). Tam giới đều dùng Ý Thức để duy trì. Kinh Lăng Nghiêm nói: “Thị Tứ Không Thiên, thân tâm diệt tận, Định tánh hiện tiền, vô nghiệp quả sắc. Tùng thử đãi chung, danh Vô Sắc Giới” (Tứ Không Thiên thân tâm diệt sạch, Định tánh hiện tiền, là vô nghiệp quả sắc. Từ đó cho đến khi mạng chung thì gọi là Vô Sắc Giới). Ngài Cô Sơn giảng rằng: “[Nói là] vô nghiệp quả sắc, cho thấy có Định quả sắc”.
(Kinh) Nãi chí Phi Tưởng Phi Phi Tưởng Xứ Thiên.
(經)乃至非想非非想處天。
(Kinh: Cho đến Phi Tưởng Phi Phi Tưởng Xứ Thiên).
“Nãi chí” (乃至, cho đến) là từ ngữ chỉ sự tỉnh lược. Trong ấy, đáng lẽ phải kể ra đầy đủ tên của bốn cõi trời, do vì giản tiện, nên nói là “nãi chí”.
Không Xứ Thiên (Ākāśānantyāyatana): Vừa mới lìa ba thứ Sắc, tâm duyên theo hư không, đã tương ứng với Vô Sắc, cho nên gọi là Hư Không Định.
Thức Xứ Thiên (Vijñānānantyāyatana): Xả Không, duyên Thức, lấy Thức làm nơi chốn. Chính là đặt tên theo chỗ sở duyên, cho nên gọi là Thức Xứ.
Vô Sở Hữu Xứ Thiên (Ākiṃcanyāyatana): Hành giả chán nhàm Thức Xứ vô biên. Do vậy, bèn bỏ nó, nhập vào Vô Sở Hữu Xứ, còn gọi là Bất Dụng Xứ. Khi tu môn Định này, chẳng dùng hết thảy cảnh giới trong hay ngoài (ngoại cảnh gọi là Không, nội cảnh gọi là Thức). Bỏ cả hai cảnh ấy, vì thế nói là Bất Dụng Xứ.
Phi Tưởng Phi Phi Tưởng Xứ Thiên (Naivasaṃjñānāsaṃjñāya-tana) là tầng trời thứ tư: Môn Định này chẳng duyên theo Thức Xứ, nên là phi tưởng (chẳng có tưởng); do nó chẳng duyên Bất Dụng Xứ, nên là phi phi tưởng (chẳng phải là không có tưởng). Cổ nhân đối với tầng trời này có nhiều cách hiểu khác nhau. Nay dựa theo sách Ma Ha Chỉ Quán, bèn thấy [Trí Giả] đại sư tuy chưa được xem kinh Lăng Nghiêm, nhưng những điều Ngài giải thích khéo hợp ý kinh. Ngài nói: “Thức tánh bất động, do diệt trừ sự nghiên cứu đến tột cùng, nên là phi tưởng”, há chẳng phải là không duyên theo Thức Xứ ư? “Trong cái vô tận, phát khởi, tuyên thuyết cùng tận tánh, chính là phi phi tưởng”, há chẳng phải là không duyên theo Bất Dụng Xứ ư? Lại nói: “Giống như tồn tại mà chẳng tồn tại, tức là Phi Tưởng. Như là tận mà chẳng tận, tức là Phi Phi Tưởng”. Vì thế, Thiền môn nói: “Trong Định này, chẳng thấy hết thảy tướng mạo; cho nên nói là Phi Tưởng. Nếu cứ bảo là một mực chẳng có tưởng thì chẳng khác gỗ, đá, vì sao có thể biết là vô tưởng, cho nên nói là Phi Phi Tưởng”. Giải thích ý nghĩa như thế, tự nhiên phù hợp khít khao. Nếu [Trí Giả đại sư] chẳng phải là bậc cổ Phật tái lai, sao có thể phát lộ ý nghĩa mầu nhiệm này? Gần đây, có kẻ do thấy đại sư không được xem kinh Lăng Nghiêm, [bèn vội vã cho là] Ngài hiểu sai nghĩa “lục căn” trong kinh Pháp Hoa, thốt lời bắt bẻ, phỉ báng, há chẳng phải là lưỡi [của những kẻ đó] sẽ bị nát trong miệng ư? Sách Phụ Hành, quyển chín nói: “Nếu đối chiếu hai cõi Sắc và Vô Sắc thì Sắc Giới gọi là Thiền, Vô Sắc Giới được gọi là Định. Nếu so sánh chung hai giới trên với Dục Giới ở dưới, thì cả hai giới trên đều được gọi là Định Địa, hạ giới (Dục Giới) là Tán”.
Những điều giải thích trên đây từ Tứ Thiên Vương cho đến Phi Phi Tưởng tuy phân biệt là Định hay Tán, nhưng sanh tử chẳng khác gì nhau, há tránh khỏi luân chuyển trong tam đồ, khó trốn khỏi thăng trầm trong bảy đường! Tuy dùng hai môn Hân Yếm (ưa thích Tịnh Độ, chán nhàm Sa Bà), vừa thấy tướng lành của mây quang minh, liền như chim ưng, chim cắt (falcons peregrinus) bay liệng, cùng nhóm đến cung trời!
3.1.2.2.2.2.2.1.2. Tổng chỉ bát bộ đẳng chúng (nói chung về đại chúng như thiên long bát bộ v.v…)
(Kinh) Nhất thiết thiên chúng, long chúng, quỷ thần đẳng chúng, tất lai tập hội.
(經)一切天眾,龍眾,鬼神等眾,悉來集會。
(Kinh: Hết thảy đại chúng trời, rồng, quỷ thần v.v… đều cùng nhóm đến).
Đây là nói chung đại chúng thuộc bát bộ ở trong cõi này và các phương khác để kết lại phần vân tập này. Chữ Sa Bà (Sarva) trong tiếng Phạn, dịch sang tiếng Hán là Nhất Thiết (一切, hết thảy) có hai loại: Một là Danh Tự Nhất Thiết, hai là Thật Nhất Thiết; nay gồm thâu cả hai loại ấy. Trời, rồng, quỷ thần là giả danh. Danh mà có Ngũ Ấm thì là thật pháp. “Chúng” (眾) nghĩa là “đông nhiều”. Cổ nhân dùng ý nghĩa “công cộng” để áp dụng vào chữ “𥅫” (chữ Chúng theo lối cổ). Vì thế, Chúng (眾) là do Ngâm (乑) và Mục (目, mắt) ghép thành, [hàm nghĩa] “mọi người đều cùng thấy”. Thiên chúng có năm loại:
1) Thiên vương trên thượng giới như Ma Hê Thủ La v.v…
2) Chư thiên dạo chơi trong hư không như Nhật Thiên Tử (thần cai quản mặt trời) v.v…
3) Chư thiên sống trong hư không như Ma Vương v.v…
4) Địa Cư Thiên như chủ tạng thiên v.v…
5) Địa Hạ Thiên[11] như Phược La Hứ Thiên (縛囉呬天) v.v…
Mỗi loài đều có vô lượng thiên nam, thiên nữ, các quyến thuộc v.v…
“Long chúng”: Biệt Hành Sớ nói: “Có bốn loại rồng: Một là loài giữ gìn cho cung trời khỏi rơi xuống. Hai là loại nổi mây tuôn mưa, có ích cho loài người. Ba là địa long, đào sông, khơi ngòi. Bốn là loài chuyên canh giữ kho tàng thuộc về phước báo của Chuyển Luân Vương”. Mỗi loài đều có rồng con, rồng cháu, các quyến thuộc.
“Quỷ thần đẳng chúng”: Theo kinh Chánh Pháp Niệm Xứ, nói chung là có ba mươi sáu loài quỷ đói. Kinh Ma Ni La Đàn Chú liệt kê tên của chín mươi ba loại quỷ. Do hạnh nhân khác nhau, thọ báo mỗi loài mỗi khác. Sách Thuận Chánh Lý[12] lại nói [ngạ quỷ có ba loại] là Vô Tài, Thiểu Tài, và Đa Tài[13], trong mỗi loại lại có ba loại. Vì thế, sách Trích Hoa Sao[14] nói [ngạ quỷ] gồm ba phẩm, chín loại. Du Già Sư Địa Luận nói [ngạ quỷ] gồm Nội Chướng, Ngoại Chướng, và Vô Chướng, mỗi loài đều có quyến thuộc thống thuộc.
Nay nói “bát bộ” (Aṣṭasenā) thì do bộ loại khác nhau, bèn nói đại lược là tám bộ:
– Một là Trời (Devas).
– Hai là rồng (Nāga).
– Ba là Dạ Xoa (Yakşa).
– Bốn là Càn Thát Bà (Gandharva).
– Năm là A Tu La (Asura, Hán dịch là Vô Đoan Chánh).
– Sáu là Ca Lâu La (Garuḍa, dịch sang tiếng Hán là Kim Xí (金翅) – cánh vàng).
– Bảy là Khẩn Na La (Kiṁnara, dịch sang tiếng Hán là Nghi Thần (疑神), do đầu có sừng, khiến cho người ta sanh nghi [chẳng biết họ có phải là thần hay không]. Họ là thần tấu âm nhạc của Thiên Đế).
– Tám là Ma Hầu La Già (Mahoraga, dịch sang tiếng Hán là Đại Phúc Hành (大腹行, loài trùng lớn đi bằng bụng), tức là loài địa long bò trườn).
Nêu ra trời và rồng trước hết vì họ tôn quý, có thế lực lớn, quỷ thần đáng nên xếp thành sáu bộ sau đó, vì thấy hạnh của họ thua kém, cho nên thuộc địa vị thấp hơn. Sở dĩ nêu ra tám bộ này vì đức Phật ta rủ lòng giáo hóa, hướng dẫn, cứu vớt trăm loài hàm linh, thuyết pháp lợi người, lòng Từ trưởng dưỡng muôn phẩm. Ngài đi ra thì Đế Thích Thiên dẫn đường đằng trước; vào thì Phạm Vương đi theo đằng sau. Tả phụ đại tướng, hữu bật Kim Cang, tam thừa hiền thánh đều quy phục, tám bộ quỷ thần chầu hầu, bảo vệ. Người từ các phương khác thấy mây lành bèn như các loài chim về rừng. Người trong cõi này nghe âm thanh phát ra từ quang minh mà như nước dồn vào hang nguồn. Do nay được cảm vời mà đều cùng đến, do cái duyên xưa kia mà nhóm họp trọn khắp.
***
[1] Chúng tôi dịch câu này theo cách giảng của pháp sư Tịnh Giới.
[2] Dịch theo lối mới (Tân Dịch), tức là tuân theo cách phiên âm và dịch nghĩa do ngài Huyền Trang đề xướng; những cách phiên âm chữ Phạn trước thời ngài Huyền Trang gọi là Cựu Dịch.
[3] Thùy Dụ Ký là tác phẩm do pháp sư Cô Sơn Trí Viên biên soạn để chú thích bộ Tịnh Danh Lược Sớ của Tổ Thiên Thai.
[4] Tướng Luật Cảm Thông Truyện do ngài Đạo Tuyên Luật Sư biên soạn vào đời Đường, ghi chép về những vấn đáp giữa ngài Đạo Tuyên và một vị trời thị giả của Ngài.
[5] Nghiệp Sớ là tên gọi tắt của bộ Tứ Phần Luật Yết Ma Sớ do Sơ Tổ của Nam Sơn Luật Tông là ngài Đạo Tuyên soạn dưới đời Đường Thái Tông. Do Yết Ma (Karma) còn dịch là Nghiệp, nên bộ Sớ này thường được gọi tắt là Nghiệp Sớ.
[6] Sách này có tên gọi đầy đủ là Thích Thiền Ba La Mật Thứ Đệ Pháp Môn do tổ Trí Giả đại sư trước tác, chia thành mười chương, phân tích Thiền Ba La Mật theo quan điểm của tông Thiên Thai.
[7] Tám sắc theo tổ Thiên Thai trong Thiền Môn Pháp Yếu là địa, thủy, hỏa, phong, xanh, vàng, đỏ, trắng.
[8] Sở dĩ gọi là “thánh nhân phàm phu” vì từ Sơ Trụ Bồ Tát trở lên mới được coi là thánh nhân xuất thế gian.
[9] Vị này chính là thần Shiva trong Ấn Độ giáo.
[10] Theo Đại Thừa Quảng Ngũ Uẩn Luận, “Đối” có nghĩa là ngăn ngại. Như vậy, Khả Kiến Khả Đối Sắc là những thứ Sắc có thể thấy bằng mắt thường, nhưng khi bị vật chất ngăn ngại thì sẽ không thấy. Chẳng hạn như một quyển sách nếu được bọc kín trong bao bì, ta không thể thấy được; nhưng khi lột bỏ bao bì, ta có thể thấy quyển sách. Do vậy, sách là Khả Kiến Khả Đối Sắc. Bất Khả Kiến Khả Đối Sắc là những sắc chất không thể thấy bằng mắt thường, nhưng chúng có thể bị ngăn ngại. Chẳng hạn như mùi hương hay âm thanh đều là sắc chất, không thể thấy bằng mắt thường, nhưng chúng có thể bị ngăn ngại. Bất Khả Kiến Vô Đối Sắc là những sắc chất không thể thấy bằng mắt thường, không bị các sắc chất khác ngăn ngại. Loại này còn gọi là Vô Biểu Sắc, sanh bởi hữu biểu nghiệp, tức là những nghiệp có thể biểu hiện qua thân và ngữ.
[11] Địa Hạ Thiên là những vị thần sống dưới mặt đất như các loài rồng, các vị thần kỳ, Diêm Vương v.v…
[12] Thuận Chánh Lý là tên gọi tắt của bộ A Tỳ Đạt Ma Thuận Chánh Lý Luận (Abhidharma-Nyāyānusāriṇī) do ngài Chúng Hiền (Saṃghabhadra) thuộc Nhất Thiết Hữu Bộ trước tác. Bộ luận này được ngài Huyền Trang dịch sang tiếng Hán thành hai mươi chín quyển trong niên hiệu Vĩnh Huy đời Đường.
[13] Vô Tài Ngạ Quỷ: Loại ngạ quỷ này hoàn toàn không ăn uống được, hoàn toàn bị vây hãm trong sự đói khát triền miên. Dẫu có được thức ăn, vừa muốn ăn thì thức ăn bèn biến thành lửa cháy hừng hực. Vô Tài Ngạ Quỷ lại chia thành ba loại: 1) Cự Khẩu (Diệm Khẩu, nuốt thức ăn vào miệng bèn biến thành lửa). 2) Châm Khẩu (bụng rất to, cổ họng nhỏ tí như cái kim). 3) Xú Khẩu (miệng lở loét, hư nát, hôi thối).
Thiểu Tài Ngạ Quỷ chỉ ăn được thức ăn rất ít, lại là thức ăn bất tịnh, nên gọi là Thiểu Tài. Loại này lại chia thành ba loại: 1) Châm Mao (loài quỷ thân có lông cứng nhọn như kim). 2) Xú Mao là loài quỷ thân đầy lông, rất hôi thối, tỏa sức nóng thiêu đốt ruột gan. 3) Anh Quỷ tức loài ngạ quỷ cổ họng sanh bướu lớn, nung đốt, đau đớn khó kham.
Đa Tài Quỷ lại chia thành ba loại: 1) Hy Từ Quỷ là các quỷ có phước đức, được loài người cúng tế thực phẩm, tiền giấy… 2) Hy Khí Quỷ là các quỷ hưởng dụng những thứ vật thực do người ta vất đi, hoặc ăn những thứ đờm rãi, ói mửa, tinh khí của con người. 3) Đại Thế Quỷ là hàng đại lực quỷ vương như Dạ Xoa, La Sát v.v… Họ có thần thông và phước đức, có thể giáng họa, ban phước cho loài người.
[14] Trích Hoa Sao là tên gọi tắt của tác phẩm Vu Lan Bồn Kinh Trích Hoa Sao do ngài Cô Sơn Trí Viên biên soạn.
ĐỊA TẠNG BỒ TÁT BỔN NGUYỆN KINH KHOA CHÚ