ĐỊA TẠNG BỒ TÁT BỔN NGUYỆN KINH KHOA CHÚ
Đường Tam Tạng sa-môn Thật Xoa Nan Đà dịch
Cổ Diêm Khuông Am Thanh Liên bật-sô Linh Thừa soạn

Chuyển ngữ: Bửu Quang Tự đệ tử Như Hòa

 

3.1.2.2.1.2.2. Các khiển thị giả vấn tấn (chư Phật đều sai thị giả thưa hỏi)

          (Kinh) Các khiển thị giả, vấn tấn Thế Tôn.

          ()各遣侍者問訊世尊。

          (Kinh: Mỗi vị Phật đều sai thị giả thưa hỏi đức Thế Tôn).

          “Thị giả” (侍者) là người thân cận vâng mạng mà làm việc. Trường A Hàm gọi Thị Giả là Chấp Sự (執事), tức là “chư đồng bộc” (các tôi tớ) trong kinh Pháp Hoa. Sớ nói: “Đồng bộc là những người hầu hạ. Ví như phương tiện tri kiến, đều đã đầy đủ, hòa quang trong lục đạo, khéo tùy thuận mọi căn cơ, tức là đồng bộc của Thật Trí vậy. Do Thật Trí làm chủ bên trong, cho nên có thể sai khiến. Quyền Trí ở bên ngoài, cho nên bị sai khiến”.

          “Vấn tấn” (問訊): “Vấn” là hỏi về cuộc sống thường ngày, “Tấn” là hỏi han mọi chuyện.  

Như [trong hội Pháp Hoa], phân thân chư Phật đều sai thị giả, thưa hỏi rằng: “Thiểu bệnh, thiểu não, khí lực an lạc, cập Bồ Tát, Thanh Văn chúng tất an ổn phủ?” (Ít bệnh, ít não, khí lực an lạc, và đại chúng Bồ Tát, Thanh Văn đều an ổn hay không?) Do cùng ứng hiện trong đời ác ngũ trược, cho nên hỏi về chuyện bệnh tật, phiền não, khí lực, vì Phật thị hiện giống như loài người vậy.

3.1.2.2.2. Hiện tướng tập chúng (hiện tướng thần thông, triệu tập đại chúng)

3.1.2.2.2.1. Hiện thụy (hiện điềm tốt lành)

          “Thụy” (瑞, điềm lành) chỉ là tướng. Quả báo bí mật là Thụy, khác lạ là Tướng. Tướng biểu thị điều gì? Chỗ sâu kín của diệu lý, rất khó diễn tả. Con người vốn quen thói hời hợt, chẳng thể tôn trọng. Đáng cần phải dấy động thần thông, hiện ra thụy tướng, ngầm biểu thị Lý. Người đời cứ nghĩ nhện giăng tơ là sắp có chuyện vui, chim khách hót tức là có người từ xa đến; chuyện nhỏ nhặt mà còn có điềm báo, chuyện lớn sao chẳng có tướng lành? Dùng gần để biểu thị xa, cũng đáng nên như thế. Hiện tướng lành chia làm hai phần:

          – Tỏa mây quang minh.

          – Phát ra âm thanh vi diệu.

          [Những điều này nhằm] biểu thị đức Phật hiện thân thuyết pháp, do muốn diễn bày duyên do của đức Địa Tạng, bèn trước hết dùng thần thông để [đại chúng] kinh hãi, chấn động; sau đó, dùng trí huệ biện tài để tuyên dương.

3.1.2.2.2.1.1. Phóng quang minh vân (tỏa ra mây quang minh)

3.1.2.2.2.1.1.1. Tổng thị (nêu chung)

 

          (Kinh) Thị thời, Như Lai hàm tiếu, phóng bách thiên vạn ức đại quang minh vân.

          () 是時如來含笑放百千萬億大光明雲。

          (Kinh: Lúc bấy giờ, đức Như Lai mỉm cười, tỏa ra trăm ngàn vạn ức mây đại quang minh).

          “Thị thời” (Khi ấy) là cảm ứng đạo giao, phát khởi Tích để hiển thị Bổn, là dịp để đức Như Lai phó chúc, Đại Sĩ vâng mạng nhận lãnh trách nhiệm cứu vớt, nay đúng phải lúc. Như hoa Ưu Đàm đúng thời bèn hiện; nay đã đúng thời, cho nên đức Phật mỉm cười, phóng quang.

          “Hàm” (含) là ngậm lại, tức ngậm miệng lại. Theo Đại Luận, Cười là từ miệng phát ra, hết thảy các lỗ chân lông đều mở ra, cho nên gọi là Cười. Do miệng cười hoan hỷ, hết thảy các lỗ chân lông đều mở ra. Nhưng vị Phật nào cũng đều có Thường Quang, Phóng Quang là trong những trường hợp riêng biệt. Thường Quang là bốn phía của thân Phật có quang minh chiếu xa một trượng, vừa sanh ra đã có tướng này. Đó là một trong ba mươi hai tướng, được gọi là Trượng Quang Tướng (丈光相, tướng quang minh chiếu xa một trượng). Các cõi khác thì Thường Quang vô lượng; do [trong cõi Sa Bà này], chúng sanh bạc phước không thể chịu nổi ánh sáng ấy, nên Phật Thích Ca nhận lấy thân tỏa quang minh một trượng. [Phóng quang minh] trong đoạn kinh văn này là Phóng Quang, nhằm biểu thị ứng theo căn cơ mà lập ra giáo pháp, phá Hoặc trừ nghi, từ Thể khởi Dụng.

          Nhưng trong các kinh, [thường thấy là] đã tỏa ra quang minh xong, ắt sẽ thâu lại quang minh; nay không thấy đoạn kinh văn nói đức Phật thâu lại quang minh; vì phóng quang chiếu sự trong hiện tại, thâu quang minh nhằm thể hiện chuyện trong tương lai. Nay kinh nói về chuyện trong hiện tại của đức Địa Tạng, nên lược đi phần nói về thâu quang. Sách Kim Quang Minh Kinh Huyền Nghĩa nói: “Bà-pha-bà (Prabhā) dịch là Quang. Uất-đa-ma (Uttama) dịch là Minh”.

          “Vân” (雲, mây) là khí của núi sông, là cái được hiển hiện trên bầu trời. Âm Dương tụ lại thành mây, bồng bềnh giăng bủa ở bên trên, tự nhiên tạo thành hình dáng khác biệt. Sách Nội Kinh viết: “Hơi đất bốc lên là mây, khí trời rơi xuống là mưa”. Vì thế, từ chữ Vũ (雨, mưa) và Vân (云), ghép lại thành chữ Vân (雲), giống như hình thái xoay chuyển, biến đổi giáp vòng, biểu thị đức Như Lai hiện thân như mây, thuyết pháp như mưa. Do mây vô tâm mà ra khỏi hang núi, phiêu tán trên không, chẳng để lại dấu tích. Mây phủ dầy đặc, mưa ngọt dầm dề, chính nhằm hiển thị Vô Phân Biệt Trí của Như Lai duyên theo [chúng sanh] cảm mà hiện thân, hễ có căn cơ thích ứng bèn thuyết pháp, khiến cho mầm Bồ Đề của chúng sanh tự nhiên sanh trưởng.

          “Bách thiên vạn ức” (Trăm ngàn vạn ức) là nói số lượng mây quang minh khá nhiều! Đại Luận nói: “Thân Quang là cái gốc của các quang minh. Từ gốc mà tỏa ra vô lượng vô số. Ví như con trùng Ca La Cầu La (Kalākula) thân nó bé tí, nếu trời nổi gió, sẽ chuyển thành to lớn. Quang minh cũng giống như thế, gặp chúng sanh có thể độ, bèn chuyển thành tăng trưởng vô hạn”. Vì thế có trăm ngàn vạn ức. Cần biết quang minh của Như Lai vốn từ trí tâm lưu xuất, vậy thì một niệm tâm của chúng ta vốn sẵn đủ ba ngàn tánh tướng, bách giới, thiên như. Tâm quang lần lượt trọn đủ trăm ngàn vạn ức như thế, chẳng hai, chẳng khác với trí quang của Như Lai. Vì thế, tam thừa đều nhóm đến, lục đạo cùng mở ra, cùng một quang minh này, chẳng thể nghĩ bàn!

3.1.2.2.2.1.1.2. Biệt minh (nói từng quang minh riêng biệt)

          (Kinh) Sở vị: Đại viên mãn quang minh vân.    

          ()所謂大圓滿光明雲。

          (Kinh: Tức là mây quang minh đại viên mãn).

          “Sở vị” (所謂) là từ ngữ dùng để chỉ ra (liệt kê). Xét theo kinh văn ở đây, “sở vị” là nói đến mười loại mây quang minh. Xét theo ý, [mười thứ mây quang minh ấy] là nói về Tánh Đức của chúng sanh, muốn cho chúng sanh quán hình mà biết ý, tận mắt thấy đạo ở chỗ nào, toàn tánh khởi tu, từ ngay nơi nhân mà thành quả, mới thấy đức Tỳ Lô Giá Na Phật trọn khắp hết thảy các chỗ. Tâm, Phật, chúng sanh, ba thứ chẳng sai biệt. Vì thế, trong tông này, thêm vào thập thừa quán pháp [trong sách Ma Ha Chỉ Quán] nhằm đối ứng với mười loại mây quang minh, khiến cho người tu kiếm được cửa, chẳng uổng công nhìn ngó. Vì thế, ngài Tứ Minh nói: “Mười pháp ấy tuy là dường như tổ Trí Giả thay Phật tuyên dương, nhưng nếu lìa mười pháp ấy, sẽ chẳng có pháp nào để tu”. Nay chuẩn theo ý ấy để giải thích kinh văn, ngõ hầu mười pháp trở thành những cỗ xe để chở về chỗ có của báu.

          “Đại viên mãn quang minh vân” đứng đầu mười loại quang minh, lưu xuất chín loại quang minh kia, tương ứng với cảnh chẳng thể nghĩ bàn, đứng đầu mười Thừa, là cái gốc của chín Thừa kia. “Đại viên mãn” là ba thân nơi quả đức của Như Lai, cùng với nhất niệm tam thiên của chúng sanh trọn đủ, chẳng giảm bớt. Từ ngay nơi cảnh ấy, không có pháp chẳng trọn đủ, cho nên nói là “viên mãn”. Cỗ xe lớn trong kinh Pháp Hoa chẳng phải là ở ngay nơi đây hay sao? Vì thế, dùng ngay thừa thứ nhất để đối ứng.

          (Kinh) Đại từ bi quang minh vân.

          ()大慈悲光明雲。

          (Kinh: Mây quang minh đại từ bi).

          Mây quang minh đại từ bi đối ứng với người chân chánh phát Bồ Đề tâm. Đã quán diệu cảnh, dùng gì để phát tâm? Mười pháp này tuy đều là viên thường, nhưng viên nhân (người thuộc căn cơ Viên Giáo) lại có ba loại căn tánh khác nhau. Thượng căn thì một pháp duy nhất, trung căn thì hoặc hai, hoặc bảy; hạ căn thì mới đủ mười. Nay căn cơ trung hạ, quán cảnh chẳng ngộ, cần phải thêm vào phát tâm. Vì thế, nương theo diệu cảnh, phát ra Vô Tác Tứ Hoằng Thệ Nguyện, xót mình, thương người, thượng cầu, hạ hóa, tức là đức Như Lai từ bi dẹp khổ, ban vui, tức là cái tâm Bồ Đề do chúng ta đã phát. Tôi chẳng đối chiếu với kinh Pháp Hoa vì sợ quá rườm rà, những phần dưới đây đều lược đi [không đối chiếu].

          (Kinh) Đại trí huệ quang minh vân.

          ()大智慧光明雲。

          (Kinh: Mây quang minh đại trí huệ).

          Mây quang minh đại trí huệ ứng với thừa thứ ba là “thiện xảo an tâm Chỉ Quán”. Nhân là Chỉ Quán, quả là Định Huệ. Do Huệ từ Định, nên gọi là “đại trí huệ”. Đại Luận nói: “Trí huệ biết trọn khắp, không pháp nào chẳng tận. Trí lớn thì quang minh lớn, như hộp to thì nắp cũng to”. Cho nên biết Phật trí nơi Phật quả là vô lượng, do nhân tâm (cái tâm làm nhân) mà khéo an lập Chỉ Quán. Quả và nhân hiển lộ lẫn nhau, Tu và Chứng thành tựu lẫn nhau. Vì thế, dùng [thừa thứ ba trong thập thừa quán pháp] để đối ứng.

          (Kinh) Đại Bát Nhã quang minh vân.

          ()大般若光明雲。

          (Kinh: Mây quang minh Đại Bát Nhã).

          Mây quang minh Đại Bát Nhã, đối ứng với pháp thứ tư “phá pháp trọn khắp”. Tức là Tam Quán nhất tâm, không Hoặc (phiền não) nào chẳng phá. Đây là nói lấy Bát Nhã làm chánh tu. Bởi lẽ, pháp môn trong các giáo, đều lấy Vô Sanh làm đầu. Phá trọn khắp các Hoặc, lại dùng Vô Sanh để nhập các môn. Dọc lẫn ngang đều phá, khiến cho biết Thể là trọn khắp. Biết Thể trọn khắp chính là Thật Tướng Bát Nhã. “Nhập các môn” là quán chiếu Bát Nhã. Dọc lẫn ngang đều phá là Văn Tự Bát Nhã. Do vậy, dùng quán pháp này để đối ứng.

          (Kinh) Đại tam-muội quang minh vân.

          ()大三昧光明雲。

          (Kinh: Mây quang minh đại tam-muội).

          Mây quang minh đại tam-muội đối ứng với pháp Quán thứ năm, tức Thức Thông Tắc (biết là Thông hay Tắc). Đây chính là dùng Vương tam-muội, chiếu soi Khổ và Tập trong Tứ Đế, mười hai nhân duyên, cũng như sự bế tắc của sáu thứ ngăn lấp[1], trần sa, vô minh, không gì chẳng đều trở thành Đạo và Diệt. Diệt do duyên theo Trí, Lục Độ, Nhất Tâm Tam Quán thông suốt. Pháp thông bèn gìn giữ, pháp tắc bèn phá trừ. Không pháp bế tắc nào chẳng phá trừ thì gọi là đại tam-muội. Tam-muội ngầm khế hợp Huệ, không pháp tắc nào chẳng thông! Vì thế, dùng pháp Quán này để đối ứng.

          (Kinh) Đại cát tường quang minh vân.

          ()大吉祥光明雲。

          (Kinh: Mây quang minh đại cát tường).

          Mây quang minh đại cát tường đối ứng với pháp Quán thứ sáu là Đạo Phẩm Điều Thích. Đại sư nói: “Cát tường là từ ngữ nói về nghĩa lợi. Lợi ích trong hiện tại là Nghĩa. Lợi ích trong tương lai là Lợi”. Kinh Đại Bi Không Trí nói: “Cát tường là nói tới trí bất nhị”. Nay vô tác đạo phẩm, mỗi mỗi đều được điều hòa thích đáng, tùy nghi tiến nhập. Nay dùng vô lậu Bát Nhã để hướng dẫn Đế duyên hòng độ hết thảy vạn hạnh, hòng đạt đến Tát Bà Nhã (Sarvajña, Nhất Thiết Trí). Bát Nhã hướng dẫn hạnh, tức là do trí Bất Nhị mà đạt đến Tát Bà Nhã, đạt được nghĩa lợi. Vì thế, dùng phép Quán này để đối ứng.

          (Kinh) Đại phước đức quang minh vân.

          ()大福德光明雲。

          (Kinh: Mây quang minh đại phước đức).

          Mây quang minh đại phước đức ứng với phép Quán thứ bảy là Đối Trị Trợ Khai (đối trị để giúp cho chánh đạo được khơi mở). “Phước đức” tức là các trợ đạo như bố thí v.v… Vô Lậu Bát Nhã là chánh đạo. Do chánh đạo có nhiều chướng, viên lý chẳng khai, cần phải tu phước về mặt Sự để giúp khơi mở. Kinh Niết Bàn nói: “Chúng sanh phiền não phi nhất chủng, Phật thuyết vô lượng đối trị môn” (Phiền não của chúng sanh không phải là một loại, đức Phật nói vô lượng môn đối trị). Phàm kẻ nào chẳng tin có cách đối trị, thì hãy nên biết kẻ đó chưa hiểu chánh hạnh. Vì thế, dùng phép Quán này để đối ứng.

          (Kinh) Đại công đức quang minh vân.

          ()大功德光明雲。

          (Kinh: Mây quang minh công đức to lớn).

          Mây quang minh công đức to lớn, đối ứng với pháp Quán thứ tám, tức là Biết Địa Vị và Thứ Tự, ý nói: Người tu hành [phải biết địa vị và thứ tự] hòng tránh khỏi Tăng Thượng Mạn. Bởi mây quang minh này hễ ai trông thấy đều có công năng diệt ác, có đức sanh thiện, chẳng có quán trí cạn hay sâu, sáng suốt hay tăm tối sai khác! Kẻ Tăng Thượng Mạn cho mình đã bằng Phật, thật sự chưa chứng đắc mà tự nói là đã chứng đắc, không chỉ đánh mất địa vị, mà còn đọa vào Nê Lê (địa ngục). Nếu biết chúng sanh và Phật cùng một Thể, nhưng thật sự giống như nhân quả, trước sau chẳng xâm lạm, ắt sẽ trong thì siêng tu tập Tam Quán, ngoài thì thêm pháp Ngũ Hối[2], hòng tránh khỏi Tăng Thượng Mạn, thành tựu công đức to lớn. Vì thế dùng phép Quán này để đối ứng.

          (Kinh) Đại quy y quang minh vân.

          ()大歸依光明雲。

          (Kinh: Mây quang minh đại quy y).

          Mây quang minh đại quy y đối ứng phép Quán thứ chín là Có Thể An Nhẫn, tức là đối với những chuyện nghịch hay thuận, đều an nhiên bất động, sách tấn ngũ phẩm để nhập sáu căn. Do hành nhân viên quán mới dự vào ngoại phàm, ngoài chuốc lấy danh lợi, trong dấy động túc chướng; do vậy, bèn bị phá bại, há có thể tăng tấn nơi đạo ư? Nay thấy mây quang minh thị hiện hình tượng quy y, liền trở về tự tánh, nương cậy Tam Bảo, nhất thể quang nghiêm (trang nghiêm bằng quang minh thanh tịnh nhất thể), an trụ Vô Sanh, mặc lòng mà tiến. Vì thế, dùng phép Quán này để đối ứng.

          (Kinh) Đại tán thán quang minh vân.

          ()大讚歎光明雲。

          (Kinh: Mây quang minh đại tán thán).

          Mây quang minh đại tán thán ứng với phép Quán thứ mười là Ly Thuận Đạo Pháp Ái, ý nói: Đừng chấp vào đạo tương tự Thập Tín, cần phải nhập lý Sơ Trụ chân thật. Do đã tu ly ái (lìa ái nhiễm), tiến nhập địa vị Đồng Luân (Thập Trụ), phân thân trong trăm cõi, một và nhiều chính là lẫn nhau, tự nhiên tùy ý lưu nhập biển Tát Bà Nhã, liền được tam thế Như Lai không vị nào chẳng tán thán, an ủi. Vì thế, dùng phép Quán này để đối ứng.

          Hỏi: Mười thứ mây quang minh là Dụng của Quả Giác thần thông. Thập thừa quán pháp là pháp môn để người sơ tâm tấn tu trong Viên Giáo, đem quả đối ứng với nhân thì sự tu chứng đã mâu thuẫn mất rồi!

          Đáp: Phàm luận về quán pháp; nếu chẳng dùng Quả Giác làm Thể, sẽ chẳng phải là viên hạnh. Nếu chẳng dùng ngay tánh của Quả Giác làm cảnh được chiếu thì chẳng phải là diệu cảnh, chẳng phải là lý tột cùng! Nay chẳng chấp nhận sơ tâm và Quả Giác đồng thể, thì mây quang minh của Như Lai liên quan gì đến chúng sanh để rồi trời, rồng, quỷ thần đều nương theo quang minh mà nhóm đến trọn khắp? Nếu biết thuở đầu và lúc sau chẳng hai thì mới tỏ rõ “nhân quả cùng một đường”. Đó gọi là đức Phật nơi Tánh Đức của chúng sanh, chẳng phải tự, chẳng phải tha, chẳng phải nhân, chẳng phải quả, tức là cái Thể viên thường đại giác. Vì thế biết cái Thể viên minh của Quả Phật chính là Tánh Đức mà bọn phàm phu chúng ta vốn sẵn có. Vậy thì nói đến mây quang minh của Quả Phật chẳng phải là diệu dụng của sơ tâm trong Viên Giáo ư?

3.1.2.2.2.1.2. Xuất vi diệu âm (phát ra âm thanh vi diệu)

3.1.2.2.2.1.2.1. Kết tiền khởi hậu (kết phần trước, dẫn khởi phần sau)

          (Kinh) Phóng như thị đẳng bất khả thuyết quang minh vân dĩ, hựu xuất chủng chủng vi diệu chi âm.

          ()放如是等不可說光明雲已又出種種微妙之音。

          (Kinh: Đã tỏa ra bất khả thuyết mây quang minh  như  thế  rồi, lại phát ra các thứ âm thanh vi diệu).

          Từ chữ “phóng” (放) trở đi, kết luận phần trước. Từ chữ “hựu” (又) trở đi, mở ra phần sau. Bà Xà Ni Sa Bà Lâm [trong tiếng Phạn], cõi này dịch là “âm thanh”. Theo kinh Ma Nhiễu Loạn, chữ Tỳ Lâu trong tiếng Phạn dịch là “âm thanh”; sau này dịch là Hồng Âm (洪音, âm thanh to lớn, đây là tên đệ tử của Câu Lâu Tần Phật, tức Krakucchanda Buddha). Sách Bạch Hổ Thông nói: “Thanh là tiếng kêu. Âm là Ẩm (uống). Cứng, mềm, trong, đục, hòa hợp cùng uống”. Tinh Uẩn nói: “Âm là do các tiếng phát triển thành. Lan truyền, phân tán là Thanh. Nếu chẳng phải vậy, sẽ chẳng thể chấn động. Hàm súc có thừa mà chẳng bộc lộ hết thì là Âm. Nếu chẳng phải vậy, nó sẽ chẳng thể hòa quyện vào nhau. Hô hai chữ [âm thanh] sẽ trọn đủ ý nghĩa khai phát và thâu tàng”. Nay [kinh văn] nói đến âm thanh diễn tả các lý, [ở đây, những âm thanh ấy] được gọi là Âm. Tiếng do đức Phật phát ra, ngôn từ thanh nhã, người nghe không chán, nghe mãi chẳng đủ; có thể tạo thành nhân duyên “ban vui, dẹp khổ” cho hết thảy chúng sanh, không gì hữu ích bằng nghe tiếng. Tức là Ngài đã dùng lòng Từ để tu cái miệng, cho nên có “bát âm”: Một là cực hảo âm (âm thanh hay nhất), hai là nhu nhuyễn âm (âm thanh dịu dàng), ba là hòa thích âm (âm thanh hòa hợp, thích đáng), bốn là tôn huệ âm (âm thanh cao quý, tràn đầy trí huệ), năm là bất nữ âm (âm thanh không có giọng nữ), sáu là bất ngộ âm (âm thanh không lầm lạc), bảy là thâm viễn âm (âm thanh vang vọng sâu xa), tám là bất kiệt âm (âm thanh không cạn rè).

          “Chủng chủng vi diệu” (Các thứ vi diệu): Trong đời trước, đức Phật đã gieo nhân duyên âm thanh tốt lành, cho nên đạt được yết hầu có Tứ Đại vi diệu, có thể phát ra các thứ âm thanh xa, gần, mầu nhiệm hay đẹp nhất, trọn khắp mười phương thế giới nhiều như cát sông Hằng. Nay mây quang minh phát ra âm thanh vốn sẵn tuyên dương, lưu bố, dứt bặt các tình kiến thuộc về tâm duyên lự, hiển lộ sự thần thông trí huệ vô phân biệt. Hòa hợp vang vọng lẫn nhau thì gọi là Vi, đây kia chẳng xen tạp là Diệu. Điều này biểu thị đức Địa Tạng tùy loại hiện thân, ứng cơ thuyết pháp. Cảnh đã chẳng phải là một, [cho nên] âm thanh cũng rất nhiều. Kinh Hoa Nghiêm nói: “Chư quang minh trung xuất diệu âm, phổ biến thập phương nhất thiết quốc, diễn thuyết Phật tử chư công đức, năng nhập Bồ Đề chi diệu đạo” (Trong các quang minh phát ra âm thanh mầu nhiệm trọn khắp mười phương hết thảy các cõi, diễn thuyết các công đức của Phật tử (Bồ Tát), có thể nhập đạo mầu Bồ Đề) chính  là nói đến chuyện này!

3.1.2.2.2.1.2.2. Chánh minh chúng âm (nói rõ các âm thanh)

          (Kinh) Sở vị: Đàn Ba La Mật âm, Thi Ba La Mật âm, Sạn Đề Ba La Mật âm, Tỳ Ly Da Ba La Mật âm, Thiền Ba La Mật âm, Bát Nhã Ba La Mật âm.

            ()所謂檀波羅蜜音,尸波羅蜜音,羼提波羅蜜音,毗離耶波羅蜜音,禪波羅蜜音,般若波羅蜜音。

          (Kinh: Tức là tiếng Đàn Ba La Mật, tiếng Thi Ba La Mật, tiếng Sạn Đề Ba La Mật, tiếng Tỳ Ly Da Ba La Mật, tiếng Thiền Ba La Mật, tiếng Bát Nhã Ba La Mật).

          “Tuyên thuyết Lục Độ” có hai ý:

          – Một là biểu thị thân của Phật, Bồ Tát, tức Pháp Thân, sanh từ công đức của các pháp môn.

          – Hai là biểu thị Phật, Bồ Tát thuyết pháp chẳng ra ngoài pháp môn như Lục Độ v.v… Dùng đại trí huệ để làm sư tử hống, giăng mây, rền sấm, khiến cho muôn vật tươi nhuận, đại chúng nghiêm túc.

          Đàn Na (Dāna) trong tiếng Phạn, Hán dịch là Bố Thí. “Đàn” là kho báu, là phước điền phú quý, an ổn. “Đàn” có thể phá khổ, ví như chiếc bè để đắc đạo Niết Bàn. Do lợi ích đặc biệt nhiều, cho nên dùng mây quang minh để tán thán đầu tiên.

          Thi La (Śīla, Giới) dịch là Tánh Thiện, lại dịch là Chỉ Đắc (止得, ngưng dứt), ý nói “dứt ác, làm lành”. Nếu người nào cầu đại thiện lợi, hãy nên giữ vững giới, như tiếc của báu to lớn, như bảo vệ thân mạng. Ví như đại địa làm chỗ nương tựa cho hết thảy muôn vật, Giới là trụ xứ của hết thảy các thiện pháp. Do vậy, dùng mây quang minh để tuyên dương, lưu truyền.

          Sạn Đề (Kṣānti) dịch là Nhẫn Nhục; có Sanh Nhẫn và Pháp Nhẫn. Bồ Tát hành Sanh Nhẫn, đạt được vô lượng phước đức. Hành Pháp Nhẫn đạt được vô lượng trí huệ. Phước đức và trí huệ trọn đủ, mọi sự đều được như sở nguyện. Vì thế, dùng quang minh và âm thanh để tuyên dương, lưu truyền Nhẫn Độ.

          Tỳ Lê Da (Virya)[3] dịch là Tinh Tấn. Thân tinh tấn, siêng tu  thiện

pháp. Tâm tinh tấn, siêng hành thiện đạo. Ấy là vì muốn thành Phật đạo, thì có hai môn: Một là phước đức, tức Thí, Giới, Nhẫn. Hai là trí huệ, tức Thật Tướng Bát Nhã. Nhập phước đức môn, trừ hết thảy các tội, các sở nguyện đều đạt được. Nhập trí huệ môn, chẳng chán sanh tử, chẳng ưa Niết Bàn. Muốn nhập Bát Nhã thì phải do Thiền Định. Muốn tu Thiền Định, ắt cần phải tinh tấn. Do vậy, dùng mây quang minh để tuyên dương rộng lớn hòng phát khởi mọi người tu tập Tinh Tấn Độ môn.

          Thiền Na (Dhyāna), dịch là Tư Duy Tu. Lúc Bồ Tát hành Thiền, năm Ba La Mật hòa hợp, giúp cho Thiền Độ thành tựu. Trong mỗi môn Thiền, hành đại từ bi, dẹp tội trong vô lượng kiếp, đạt được trí Thật Tướng nơi các pháp. Vì thế, được mười phương chư Phật và đại Bồ Tát hộ niệm. Do đó, dùng quang minh và âm thanh để tuyên diễn hòng phát khởi môn Thiền Định cho mọi người.

          Bát Nhã (Prajñā) dịch là Trí Huệ. Soi tỏ “hết thảy các pháp đều chẳng thể đạt được”, nhưng có thể thông đạt hết thảy vô ngại thì gọi là Trí Huệ. Chư Bồ Tát từ sơ phát tâm cầu Nhất Thiết Chủng Trí, sẽ học hết thảy các pháp, đạt được hết thảy trí huệ. Do vậy, quang minh và âm thanh tuyên dương điều này hòng phát khởi căn cội trí huệ cho chúng sanh.

          Lục Độ tuy thông bốn giáo (Tạng, Thông, Biệt, Viên), nhưng do những Lý Sự vừa được triển khai trên đây, đều cùng trở thành Lục Độ thuần viên thuận lý.

          (Kinh) Từ bi âm, hỷ xả âm.

          ()慈悲音喜捨音。

          (Kinh: Tiếng từ bi, tiếng hỷ xả).

          “Từ bi âm, hỷ xả âm”: Đây là tuyên dương Tứ Vô Lượng Tâm, các vị Bồ Tát thuộc bốn giáo đều tu [bốn tâm vô lượng ấy]. Có thể ban vui cho người khác thì gọi là “từ tâm”. Có thể dẹp khổ cho người khác thì gọi là “bi tâm”. Mừng vì người khác được vui sướng thì là “hỷ tâm”. Chẳng ghét, chẳng yêu, thì gọi là “xả tâm”. Từ có ba loại:

          1) Duyên Chúng Sanh: Quán sát hết thảy chúng sanh, tưởng họ như cha mẹ.

          2) Duyên Pháp: Thấy hết thảy các pháp đều sanh từ duyên.

          3) Vô Duyên: Chẳng trụ vào Pháp Tướng và Chúng Sanh Tướng.

          Bi cũng có ba loại, tên gọi giống như Từ. Đấy là Tứ Vô Lượng Tâm của Như Lai, cho nên mỗi tâm đều gọi là Đại. Thật sự có thể ban vui, dẹp khổ cho những người trên đây, chẳng phải là giả tưởng. Nay kể ra hai âm, [là vì] Từ Bi là căn bản của đạo Phật, Hỷ Xả do từ bi mà sanh, cho nên tách rời, vì thấy Từ Bi là trọng yếu. Nay mây quang minh tuyên nói, chính là vì bốn tâm Quyền Tiểu trên đây đều trở thành tứ đại vô lượng tâm duyên theo Thật Tướng của Như Lai.

          (Kinh) Giải thoát âm, vô lậu âm.

          ()解脫音無漏音。

          (Kinh: Tiếng giải thoát, tiếng vô lậu).

          “Giải thoát âm”: Từ ngữ Mục Đế La trong tiếng Phạn, cõi này dịch là Giải Thoát. Tịnh Danh Sớ nói: “Một là chân tánh, hai là thật huệ, ba là phương tiện”. Kinh dạy: “Chư Phật, Bồ Tát hữu giải thoát, danh Bất Tư Nghị. Nhược Bồ Tát trụ thử giải thoát giả, năng dĩ Tu Di chi cao quảng nạp giới tử đẳng, tức thị tam chủng giải thoát bất tư nghị nghĩa. Hà giả? Bồ Tát giải thoát tức thị chân tánh, Bồ Tát trụ thử tức thị thật huệ. Tu Di nạp giới, tức thị phương tiện” (Chư Phật, Bồ Tát có môn giải thoát tên là Chẳng Nghĩ Bàn. Nếu Bồ Tát trụ trong môn giải thoát ấy, có thể nhét núi Tu Di cao rộng vào trong hạt cải, tức là ý nghĩa “ba loại giải thoát chẳng thể nghĩ bàn”. Vì sao? Giải thoát của Bồ Tát là chân tánh, Bồ Tát trụ trong ấy chính là thật huệ. Tu Di nhét vào trong hạt cải tức là phương tiện). Nay quang minh tuôn ra diệu âm, biểu thị diệu dụng thần thông chẳng thể nghĩ bàn của đức Địa Tạng.

          “Vô lậu âm”: Ở đây, đáng lẽ phải nói là Nhân Duyên Tứ Đế và ba mươi bảy đạo phẩm; nay dùng Vô Lậu để gồm thâu. Ô Ba hoặc Tát Giá trong tiếng Phạn, cõi này dịch là Hữu. Hữu nghĩa là gì? Chính là hết thảy các pháp hữu lậu. Ở đây, chẳng xét theo Sanh Diệt Tứ Đế của Tiểu Thừa, coi Khổ và Tập là nhân quả hữu lậu, Đạo và Diệt là nhân quả vô lậu. Vô Lậu ở đây là Vô Lậu trong Viên Giáo, tức là bảy phương tiện[4] đều gọi là Hữu Lậu! Do lục phàm rơi rớt bên Hữu, lưỡng giáo Nhị Thừa (Thanh Văn và Duyên Giác) rơi rụng bên Không, tam giáo Bồ Tát (Tạng, Thông, Biệt) rơi rớt hai bên. Nay mây quang minh tuyên dương, lưu truyền âm thanh vô lậu chân thật, gom bảy phương tiện đều trụ trong Trung Đạo, vĩnh viễn chẳng rò rỉ, rơi rớt hai bên nữa!

          (Kinh) Trí huệ âm, đại trí huệ âm.

          ()智慧音大智慧音。

          (Kinh: Tiếng trí huệ, tiếng đại trí huệ).

          “Trí huệ âm, đại trí huệ âm”: Trí dùng sự thấu hiểu tột cùng những điều kín nhiệm để đặt tên, Huệ dùng sự chọn lựa dứt khoát để đặt tên. Nêu ra hai âm thanh này vì tiếng trí huệ thông với bảy phương tiện. Như sách Diệu Pháp Liên Hoa Kinh Huyền Nghĩa trong phần luận về “trí diệu” đã nêu ra hai mươi loại trí. “Đại trí huệ âm” là hai trí Quyền và Thật của Như Lai, tức là trí huệ rất sâu vô lượng của chư Phật Như Lai như kinh Pháp Hoa đã nói.

          Hỏi: Trong phần trên đã nói đến Bát Nhã trong tiếng Phạn, Hán dịch là Trí Huệ, nay lại liệt kê Trí Huệ, há chẳng phải là trùng lặp ư?

          Đáp: Kinh Đại Phẩm Bát Nhã đã nói: “Dục đắc Đạo Huệ, Đạo Chủng Huệ, Nhất Thiết Trí, Nhất Thiết Chủng Trí, đương học Bát Nhã Ba La Mật” (Muốn đạt được Đạo Huệ, Đạo Chủng Huệ, Nhất Thiết Trí, Nhất Thiết Chủng Trí, hãy nên học Bát Nhã Ba La Mật); tức là Bát Nhã có thể sanh ra trí huệ. Vì thế, dùng chữ ấy để phiên dịch, tức là ý nghĩa “như mẹ có thể sanh ra con, bèn dùng con để đặt tên cho mẹ”. Sách Phụ Hành nói: “Chủng Trí Bát Nhã tự trọn đủ các pháp, có thể dứt bặt các tướng”. Tức là Bát Nhã vốn có đủ cả ba danh xưng như Thật Tướng v.v… nhưng trí huệ không gì chẳng phải là hai ý nghĩa như “nhân, quả”, “Quyền, Thật” v.v… cho nên chẳng trùng lặp. Nay quang minh và âm thanh tuyên nói pháp này, chính là khơi mở “các trí Quyền, Tiểu, Thiên, không gì chẳng phải là diệu trí như thật của Trung Đạo”. Đại Luận nói: “Mười phương ba đời chư Phật, thân phóng đại quang minh, chiếu trọn khắp mười phương, phá các tối tăm. Tâm tỏa ra quang minh trí huệ, phá vô minh tối tăm của chúng sanh”, chính là vì ý này!

          (Kinh) Sư tử hống âm, đại sư tử hống âm.

          ()師子吼音大師子吼音。

          (Kinh: Tiếng sư tử rống, tiếng sư tử rống lớn).

          Tăng Già (Siha) trong tiếng Phạn, dịch là “tiểu sư tử”. Danh xưng Tăng Già Bỉ trong tiếng Phạn dịch là sư tử, hoặc “đại sư tử”. Đại Luận nói: “Như vua sư tử, sanh trong dòng giống thanh tịnh, ở trong hang to nơi núi sâu”.

          “Hống” (吼) là rít gào. Dùng miệng dũi đất, thể hiện đại oai thế, biểu thị sức mạnh của sư tử vương. Nay kinh nói “sư tử âm” chính là vì tam thừa mà nói pháp Quyền, Tiểu. “Đại sư tử hống” là vì Biệt, Viên mà nói pháp Đại Thừa. Nói chung [sư tử hống] là biểu lộ sự vô úy. Kinh Tân Hoa Nghiêm (Bát Thập Hoa Nghiêm) nói: “Thí như đại sư tử hống, tiểu sư tử văn tất giai dũng kiện. Nhất thiết cầm thú, viễn tỵ, thoán phục. Phật sư tử hống, chư Bồ Tát đẳng nhược văn, tán thán Bồ Đề tâm thanh, trưởng dưỡng Pháp Thân. Vọng kiến chúng sanh, tàm phục thoái tán” (Ví như đại sư tử cất tiếng rống, các sư tử bé nghe tiếng đều mạnh mẽ, cứng cáp. Hết thảy các loài cầm thú tránh xa, ẩn núp. Nếu các vị Bồ Tát được nghe sư tử hống của đức Phật, đều tán thán Bồ Đề tâm thanh, nuôi lớn Pháp Thân. Chúng sanh tình kiến hư vọng đều hổ thẹn, khuất phục, lui tan). Đại Luận nói: “Ví như sư tử có thể khiến cho các loài thú khiếp sợ, khuất phục” là ý này. Nay quang minh tuyên dương, lưu bố, tức là muốn tuyên diễn các pháp như Lục Độ v.v… ắt có đủ đại trí huệ. Đại trí huệ đã đủ, sẽ hiện sư tử hống, chúng sanh [nghe rồi được] nhuần thấm. Vì thế, dùng Vân Lôi Âm để kết thúc [các âm thanh phát ra từ mây quang minh].

          (Kinh) Vân lôi âm, đại vân lôi âm.

          ()雲雷音大雲雷音。

          (Kinh: Tiếng mây sấm, tiếng mây sấm lớn).

          “Vân lôi âm, đại vân lôi âm”: Kinh Pháp Hoa nói: “Thí như đại vân, biến phú nhất thiết, huệ vân hàm nhuận, điện quang hoảng diệu, lôi thanh viễn chấn, linh chúng duyệt dự. Kỳ vũ phổ đẳng, suất thổ sung hiệp” (Ví như mây to che phủ khắp hết thảy, mây trí huệ chứa đựng đầy nước, ánh chớp lóe chói ngời, tiếng sấm rền xa, khiến cho đại chúng vui sướng. Mưa ấy tưới xuống bình đẳng, cả cõi đất đều được thấm đẫm). Mây ví như Ứng Thân nói mười hai bộ loại kinh, nên nói là “huệ vân” (mây trí huệ). Thân tỏa ra quang minh lớn, miệng rền bốn biện tài như chớp lóe sáng, sấm ầm ì, tuyên xối mưa pháp, [khiến cho muôn loài] đều được lợi ích nhuần thấm, nhưng [mỗi loài chúng sanh] đạt được lợi ích sai khác. Vì thế, mây và sấm khác nhau, nhưng đều do cùng một đất sanh ra, một trận mưa thấm đẫm, sai biệt chính là vô sai biệt. Phần Hiện Tướng đã xong.

3.1.2.2.2.2. Tập chúng (triệu tập đại chúng)

3.1.2.2.2.2.1. Kết tiền khởi hậu (kết lại phần trước, mở ra phần sau)

          (Kinh) Xuất như thị đẳng, bất khả thuyết bất khả thuyết âm dĩ, Sa Bà thế giới cập tha phương quốc độ, hữu vô lượng ức thiên, long, quỷ, thần diệc tập đáo Đao Lợi thiên cung.

          ()出如是等不可說不可說音已娑婆世界及他方國土有無量億天龍鬼神亦集到忉利天宮。

          (Kinh: Phát ra bất khả thuyết bất khả thuyết âm thanh như thế xong, thế giới Sa Bà và các quốc độ ở phương khác, có vô lượng ức trời, rồng, quỷ, thần cũng nhóm đến cung trời Đao Lợi).

          Sách Tây Vực Ký chép: “Tam thiên đại thiên quốc độ thuộc thế giới Sách Ha là chỗ nhiếp hóa của một đức Phật; trước kia dịch là Sa Bà”. Kinh Bi Hoa nói: “Hà danh Sa Bà? Thị trung chúng sanh, nhẫn thọ Tam Độc, cập chư phiền não. Năng nhẫn tư ác, cố danh Nhẫn Độ” (Sao gọi là Sa Bà? Chúng sanh trong đó chịu đựng Tam Độc và các phiền não. Do có thể chịu đựng sự ác ấy, nên gọi là Nhẫn Độ). Lại nữa, vào lúc kiếp sơ, có Phạm vương tên là Nhẫn, cho nên đặt tên cõi này theo tên nhà vua ấy. Vì thế, kinh Lăng Già dịch [thế giới này] là Năng Nhẫn (có thể chịu đựng).

          Quốc độ trong tiếng Phạn gọi là Sát-ma, âm đúng là Xế-đa-la (Kṣetra), cõi này dịch là Thổ Điền. Vạn cảnh bất đồng, cũng gọi là Sát (剎), [tức là] lấy sự trang nghiêm sai biệt để đặt tên. “Quốc” (國) là một lãnh thổ, nhỏ thì gọi là Bang (邦), lớn thì gọi là Quốc. Vua thời cổ lập quốc để dân chúng sống, cân nhắc sao cho ứng hợp với trời đất, an định sao cho Âm Dương hòa hợp. Vì thế nói là Quốc Độ. Nhưng Pháp Thân chẳng giống như vậy, há có cuộc đất giả huyễn nào để cư trụ? Do ứng với muôn vật mà có hình tướng, cho nên tùy theo từng nước mà hóa hiện.

          Đại Luận nêu ra bốn loại Thiên:

          1) Danh Thiên (vị trời chỉ có danh xưng suông). Nay  quốc  vương

xưng là Thiên Tử, đời Châu xưng là Thiên Vương.

          2) Sanh Thiên, tức là các vị sống trên hai mươi tám tầng trời.

          3) Tịnh Thiên: Thánh nhân trong loài người.

          4) Tịnh Sanh Thiên: Các thánh nhân trong Dục Giới Thiên, Tu Đà Hoàn, Tư Đà Hàm, năm loại A Na Hàm trong Sắc Giới, và một loại A Na Hàm trong Vô Sắc.

          Chữ Na Già (Nāga) trong tiếng Phạn, cõi này dịch là Long (rồng), là loài có vảy, thân dài, có thể ẩn, có thể hiện, có thể lớn, có thể bé, có thể dài, có thể ngắn. Tiết Xuân Phân, bèn bay lên trời, tiết Thu Phân bèn xuống vực. Loài rồng có vảy gọi là Giao Long (蛟龍), loài có cánh gọi là Ứng Long (應龍), có sừng gọi là Cầu Long (虬龍), không có sừng là Ly Long (螭龍), chưa bay lên trời thì gọi là Bàn Long (蟠龍). Rồng thuộc về Thiên chúng; vì thế, trong kinh luận, “thiên, long” luôn được nêu chung. Ngũ Phần Luật không tính rồng thuộc loại súc sanh vì nó có thể bảo vệ, giữ an ổn cho người dân trong nước, ủng hộ chánh pháp.

          “Quỷ thần”: Trịnh Huyền[5] nói: “Tinh và Khí của thánh nhân là Thần. Tinh và Khí của hiền nhân là Quỷ”, đây cũng là một cách giải thích. Vì thế, Thi Tử[6] nói: “Thiên thần gọi là Linh, địa thần gọi là Kỳ, nhân thần gọi là Quỷ”. Quỷ (鬼) là quy (歸, trở về), vì cổ nhân coi chết là trở về. Quỷ còn có nghĩa là Úy (畏, sợ), hoặc Oai (威). Bản thân quỷ tự khiếp hãi, nhiều nỗi sợ, lại có thể khiến cho kẻ khác sợ oai của chúng. “Thần” là Năng (能, có khả năng). Thần có sức lớn thì sẽ có thể dời núi, lấp biển, sức nhỏ thì có thể biến hóa ẩn, hiện. [Thần và Quỷ] đều thuộc về quỷ đạo.

          Nhưng các quốc độ ở phương khác chẳng phải là chỗ giáo hóa của đức Phật ta, cớ sao trời, rồng, quỷ thần cũng [từ đó] vân tập? Điều này có hai ý:

          1) Một là do phân thân hóa hiện của đức Địa Tạng chẳng lúc nào ngưng hóa độ mọi người. Những kẻ ấy do thiện căn trong đời trước đã chín muồi, thiên tánh vốn sẵn tương quan. Do vậy, họ trông thấy quang minh, nghe âm thanh, bèn cùng lúc nhóm đến.

          2) Hai là những người ấy được dự pháp hội, hãy nên xét theo bốn câu luận về Thừa và Giới, thiên thần cùng nhóm đến tức là “Thừa và Giới đều gấp”, rồng và quỷ cũng đến, tức là “Thừa và Giới đều hoãn” v.v… Đều cùng là khinh báo Nê Lê, sao chẳng cầu độ thoát? Số ấy chẳng cùng tận, vì thế nói là “hữu vô lượng ức” (có vô lượng ức).

***

[1] Sáu thứ ngăn lấp (Lục Tế): Sáu thứ phiền não che lấp cái tâm thanh tịnh: Tham, phá giới, sân khuể, giải đãi, tán loạn, và ngu si.

[2] Ngũ Hối (五悔): Năm chi của pháp Sám Hối dựa theo tinh thần tu tập Pháp Hoa Tam Muội, bao gồm: Sám Hối (phát lộ tội đã tạo, thề chẳng trái phạm), Khuyến Thỉnh (thỉnh mười phương Như Lai chuyển pháp luân), Tùy Hỷ, Hồi Hướng và Phát Nguyện. Mở rộng ra, về sau, tu bất cứ pháp Quán nào, dù Hiển hay Mật, nghi thức luôn bao gồm Ngũ Hối. Chẳng hạn như Tịnh Độ Sám Nguyện của ngài Từ Vân, hay phương pháp tu Chuẩn Đề hoặc Ngũ Bộ Chú đều có Ngũ Hối.

[3] Ở đây, pháp sư Linh Thừa lại phiên âm chữ này  thành  Tỳ  Lê  Da (毗梨耶), không

phải là Tỳ Ly Da (毗離耶) như trong phần chánh kinh.

[4] Thất Phương Tiện ở đây có thể hiểu theo hai nghĩa:

1. Bảy địa vị Thanh Văn trước khi đạt đến địa vị Kiến Đạo, tức Ngũ Đình Tâm Quán, Biệt Tướng Niệm Trụ, Tổng Tướng Niệm Trụ, Noãn Pháp, Đảnh Pháp, Nhẫn Pháp, Thế Đệ Nhất Pháp.

2. Bảy địa vị chưa rốt ráo ở ngoài Viên Giáo theo cách phán giáo của tông Thiên Thai, tức là nhân thừa, thiên thừa, Thanh Văn Thừa, Duyên Giác Thừa, và các địa vị Bồ Tát thuộc Tạng, Thông, Biệt Giáo.

[5] Trịnh Huyền (127-200), tự là Khang Thành, người huyện Cao Mật, thuộc quận Bắc Hải (nay thuộc tỉnh Sơn Đông), là một bậc kinh học đại sư chuyên chú giải các kinh điển Nho gia trong thời Đông Hán.

[6] Thi Tử (tên thật là Thi Giảo) người nước Tấn, là một triết gia kiêm chính trị gia sống vào thời Xuân Thu Chiến Quốc. Ông vốn là môn hạ của Thương Ưởng (nhà chính khách theo chủ trương Pháp Trị). Thi Tử chủ trương thuyết chánh danh.


ĐỊA TẠNG BỒ TÁT BỔN NGUYỆN KINH KHOA CHÚ