ĐỊA TẠNG BỒ TÁT BỔN NGUYỆN KINH KHOA CHÚ
Đường Tam Tạng sa-môn Thật Xoa Nan Đà dịch
Cổ Diêm Khuông Am Thanh Liên bật-sô Linh Thừa soạn
Chuyển ngữ: Bửu Quang Tự đệ tử Như Hòa
Địa Tạng Bồ Tát Bổn Nguyện Kinh Khoa Chú
Quyển Thượng
Đại lược chia thành ba phần:
- Giải thích tên kinh
Giải thích cặn kẽ thì như trong phần trên đã nói.
- Người dịch
Đường, Vu Điền quốc, Tam Tạng sa-môn Thật Xoa Nan Đà dịch.
唐,于闐國,三藏沙門,實叉難陀,譯。
(Đời Đường, Tam Tạng sa-môn Thật Xoa Nan Đà người xứ Vu Điền dịch).
Đường là tên triều đại do họ Lý đặt sau khi có được thiên hạ. Do họ khởi nghiệp tại Tấn Dương là kinh đô cũ của Đào Đường Thị[1], nên
lấy quốc hiệu là Đường (ông nội của Lý Uyên là Lý Hổ, phù tá Châu Mẫn Đế (Vũ Văn Giác) thời Tây Ngụy [trước khi Mẫn Đế làm vua nhà Châu], được nhà Tây Ngụy truy tặng tước Đường quốc công. Lý Hổ sanh ra Lý Bỉnh, Lý Bỉnh sanh Lý Uyên, đều được kế tập, phong là Đường Công, bèn dùng phong hiệu ấy để lập quốc).
Vu Điền (Khotan), đọc đúng âm phải là Cù Tát Đát Na (Gos-thana)[2], Hán dịch là Địa Nhũ (sữa của đất). Do vua chưa có con nối dõi, liền cầu đảo trước tượng Tỳ Sa Môn (Vaiśravaṇa, Đa Văn thiên vương). Từ trên trán [tượng thần] bèn nứt ra, sanh một đứa bé, chẳng uống sữa người. Đất trước tượng thần bỗng đùn lên giống như một cái vú, đứa con của thần bú mút sữa từ đó cho đến khi trưởng thành. Vì thế, đặt tên nước như thế. [Vu Điền] lại còn gọi là Hoán Na, Ư Độn, Hoát Thư, hoặc Khuất Đan, đều là những cách phiên âm khác nhau của nước này. Trong Đại Tập Nguyệt Tạng Kinh, đức Thế Tôn phó chúc Nan Thắng Thiên Tử và một ngàn quyến thuộc, cùng với Tán Chi Đại Dạ Xoa (Pāñcika, Samjñeya) v.v… [cũng như] Tỳ Sa Môn thiên vương cùng hộ trì nước Vu Điền, vì xứ ấy có nhiều bậc thánh hiền xuất hiện. Đấy chính là sanh quán của vị dịch sư.
Tam Tạng tiếng Phạn là Câu Xá, cõi này dịch là Tạng, như kho tàng trong cõi đời để chất chứa tiền tài. Tam Tạng trong Phật pháp để chứa đựng văn nghĩa. Tam Tạng bao gồm ba danh xưng, mỗi danh xưng đều chứa đựng hết thảy văn lý, cho nên gọi là Tạng. A Hàm (Āgama) tức là Định Tạng, Tỳ Ni (Vinaya) tức là Giới Tạng, A Tỳ Đàm (Abhida-harma) tức là Huệ Tạng.
Sa-môn (Śramaṇa), âm đúng là Thất-ma-na-noa, cõi này dịch là Công Lao, ý nói người tu đạo có công, lại nhiều vất vả. Còn dịch là Tức Tâm (息心, dứt lòng vọng tưởng). Kinh Thụy Ứng nói: “Tức tâm đạt bổn nguyên, cố hiệu vi Sa-môn” (Dứt lòng thấu đạt nguồn cội căn bản, cho nên hiệu là Sa-môn) là nói tới ý này. Nhưng các vị dịch kinh đều được gọi là Pháp Sư. Nay xưng là Sa-môn tức là đức khiêm cung của vị dịch chủ.
Thật Xoa Nan Đà (Śikṣānanda), Hán dịch là Học Hỷ (學喜). Thuở ấy nhằm lúc Thiên Hậu (Vũ Tắc Thiên)[3] đề cao, tuyên dương Phật nhật, kính trọng Đại Thừa, do các xứ và các hội trong bản dịch cũ của kinh Hoa Nghiêm (bản dịch đời Tấn, tức Lục Thập Hoa Nghiêm) chưa hoàn bị, nghe nói xứ Vu Điền có bản tiếng Phạn của kinh ấy, bèn sai sứ nghênh thỉnh. Ngài Thật Xoa và kinh cùng đến [Trung Hoa]. Sư đến đất Lạc Dương dịch lại [kinh Hoa Nghiêm].
- Tùy văn diễn nghĩa (thuận theo kinh văn mà diễn giải ý nghĩa)
Gồm ba phần: Tự, Chánh Tông, và Lưu Thông:
– Phẩm thứ nhất là Tự Phần.
– Chín phẩm từ phẩm Phân Thân Tập Hội đến phẩm Giảo Lượng Bố Thí là phần Chánh Thuyết (Chánh Tông).
– Ba phẩm từ phẩm Địa Thần Hộ Pháp cho đến hết kinh là phần Lưu Thông.
Hỏi: Mỉm cười, phóng quang có thể gọi là Phát Khởi, phần vấn đáp nhân địa (hạnh nguyện khi còn đang tu nhân), trưởng giả phát tâm, thánh nữ cứu mẹ, theo đúng lý thì thuộc phần Chánh Tông. Còn như Địa Thần hộ pháp, và thấy nghe được lợi ích, đáng lẽ phải thuộc vào kinh văn của phần Chánh Tông, chỉ có phẩm Chúc Lụy đáng gọi là Lưu Thông. Nay chẳng [phán định] như vậy là do căn cứ vào nghĩa nào?
Đáp: Tổ của chúng ta là ngài Trí Giả dạy: “Phân đoạn kinh văn vốn thuộc về tình chấp của con người. Theo thói quen, người ta cho phần Tự chưa biện định đạo, phần Lưu Thông là để kết thúc, chẳng luận nhân quả. Thế nhưng ba đoạn (Tự, Chánh Tông, Lưu Thông) chẳng thể đứt rời, cách tuyệt! Phần Tự vốn là để dẫn nhập phần Chánh Tông. Phần Chánh Tông vốn là để trình bày những pháp chánh yếu cho phần Tự và Lưu Thông. Phần Lưu Thông khiến cho phần Chánh Tông và Tự được lưu truyền thông suốt. Mỗi đoạn đều có ba nghĩa “sơ, trung, hậu thiện” (chặng đầu, chặng giữa và chặng cuối đều tốt lành). Nếu chúng bị đứt đoạn, cách biệt, há còn gọi là Thiện nữa chăng? Sao có thể chấp nhận phần Tự vô vị, phần Lưu Thông chỉ là kết thúc kinh ư?”
Nay [trong phẩm thứ nhất], ngài Văn Thù do đại chúng nhóm họp đông đảo, bèn hỏi về hạnh nguyện xưa, đức Thế Tôn giải đáp chuyện ấy, chính là phần dẫn khởi cho chuyện phân thân nhóm họp, há có thể nói [phẩm thứ nhất chẳng] thuộc về Tự ư? Địa Thần hộ pháp, lợi ích do thấy nghe chính là điều trọng yếu trong Lưu Thông, sao lại nói vẫn thuộc về phần Chánh Tông, chẳng xét đến lời đại sư đã nói vậy? Chúng sanh đắc đạo, căn tánh bất định! Trong phần Tự nói đến Chánh thì cũng chẳng ngăn ngại gì! Trong phần Lưu Thông có [những nghĩa lý đáng thuộc phần] Chánh Tông, sẽ càng thêm đốc thúc, khích lệ [học nhân] tuyên dương, hành trì, chẳng trái nghịch ý kinh. Nay chuẩn theo lời Tổ răn dạy, há nên thuận theo thói đời ư?
3.1. Giải thích phẩm Tự
3.1.1. Giải thích tên gọi và nội dung chánh yếu của phẩm kinh này
(Kinh) Đao Lợi thiên cung thần thông, phẩm đệ nhất.
(Kinh: Phẩm thứ nhất: Thần thông trên cung trời Đao Lợi).
Giải thích [tên gọi và nội dung] của phẩm này như trong phần Luân Quán. Những phần sau sẽ phỏng theo lệ này.
3.1.2. Tự phần
3.1.2.1. Thông Tự
Do các kinh đều có [phần này, nên gọi là Thông Tự], còn gọi là Chứng Tín Tự, gồm có năm chuyện ấy thì người ta mới tin tưởng. Cũng gọi là Kinh Tiền Tự (phần tựa trước hết của kinh), vì được nêu ra đầu tiên trong một bản kinh. Lại còn gọi là Kinh Hậu Tự vì do các vị kết tập xếp đặt. Từ “nhĩ thời thập phương” (lúc bấy giờ, mười phương…) là Biệt Tự, tức lời tựa riêng của kinh này, còn gọi là Phát Khởi Tự, nhằm khởi đầu cho phần chánh thuyết.
Chứng Tín Tự lại gồm hai phần:
– Nêu ra năm sự để chứng tín.
– Nêu ra những gì đức Phật đã làm trong ba tháng an cư tại cung trời Đao Lợi.
3.1.2.1.1. Nêu ra năm sự để chứng tín
3.1.2.1.1.1. Sở văn pháp thể (pháp thể của cái được nghe)
(Kinh) Như thị.
(經)如是。
(Kinh: Như thế).
Đại sư (Trí Giả đại sư) ngộ sâu xa kinh Pháp Hoa, xiển dương, tỏ rõ ý chỉ mầu nhiệm, dùng năm tầng để giải thích tựa đề kinh, dùng bốn cách giải thích để chú giải từng câu kinh văn. Nay kinh này đã cùng thuộc vị đề-hồ, lời giải thích há sơ sài được ư? Huống hồ pháp được xướng suất đứng đầu các kinh chính là lời luận đàm cùng tột của Pháp Hoa. Ngài Nam Nhạc [Huệ Tư] chuyển đọc kinh văn ba lượt, Thiên Thai nhất niệm quán trọn đủ. Lý đã là một Thể, văn gồm bốn phen. Xét vì người đời sau quen thói đơn giản, kẻ căn độn đời Mạt ngại phiền; vì thế, nay tôi chọn cách trung dung, chỉ [chọn lọc] ba, hai, hoặc một ý [từ cách giải thích của cổ nhân], cốt sao [người đọc] lãnh hội ý nghĩa, đỡ phải tốn công bút mực!
Như Thị là Tín Thành Tựu. Biển cả Phật pháp, do Tín có thể nhập. Tâm có tịnh tín (niềm tin trong sạch) bèn có thể vào biển pháp. Vì thế, kẻ không tin bèn nói “sự bất như thị” (chuyện chẳng phải là như thế), như da trâu chưa mềm, chẳng thể gập lại được! Kẻ đã tin bèn nói “sự như thị” (chuyện đúng như thế đó), như da trâu đã mềm, có thể tùy ý sử dụng. Đã tin thì sẽ thuận theo Lý được nói, hễ thuận thì đạo giữa thầy trò được thành. Vì thế, nêu ra điều này trước hết.
Lại nữa, Như là “chẳng khác”, Thị là “không sai”. Ngài A Nan truyền lại kinh viên mãn do đức Phật đã nói, ví như rót nước từ bình này sang bình khác chẳng khác [chẳng sót một giọt]. Những nghĩa lý trong kinh văn thích đáng, không sai, cho nên Văn thì Như (chẳng khác gì chính lời đức Phật đã nói) mà Lý thì Thị (chẳng sai); cho nên nói là Như Thị. Chỉ là Như Thị (đúng như thế ấy), không gì chẳng đều tương đồng. Do tánh thức chẳng thể nghĩ bàn chính là Thật Tướng của các pháp. Thể lìa bốn câu (Có, Không, Cũng Có Cũng Không, Chẳng Phải Có Chẳng Phải Không), tướng tuyệt bách phi; tâm, Phật, chúng sanh, cả ba chẳng sai biệt. Huống chi đầu các kinh do đức Phật để lại đều là như thế, vậy thì đầu bản kinh này cũng phải giống như thế. Đại Luận nói: “Quá khứ pháp như, tức là vị lai, hiện tại pháp như. Hiện tại pháp như, tức là quá khứ, vị lai pháp như. Vị lai pháp như, tức là quá khứ, hiện tại pháp như. Vì cớ sao vậy? Do giống hệt như nhau, chẳng khác”. Vì thế, đức Địa Tạng Bồ Tát từ lúc mới phát tâm ban đầu cho đến nay vâng lãnh lời phó chúc trên cung trời, đều là do Như Thị viên mãn mà tự tu, cũng dùng Như Thị viên mãn để lợi tha, gieo chủng tử, thành thục các căn cơ để họ thoát khỏi tam đồ, luôn luôn chẳng phế bỏ, không chuyện gì chẳng đều giống hệt như những chuyện thuộc về Bổn Tích của đức Phật thì mới gọi là sự Như Thị được hiển lộ trong kinh này. Hành nhân có thể dùng Chánh Đế viên thường này để quán cái tâm “một niệm trọn đủ”. Từ ngay cái tâm trọn đủ ấy mà dấy lên tu ác thì là tánh ác, được gọi là “ác pháp giới”, không pháp nào chẳng gồm thâu. Thể là Tam Đức, còn gọi là Tam Đế. Quán tương xứng với Đế, chiếu cảnh chẳng sai khác, thì gọi là Như. Cảnh và Quán cùng mất, vĩnh viễn dứt tuyệt lầm lỗi, sai trái thì gọi là Thị. Tin như thế thì Tín được thành tựu!
3.1.2.1.1.2. Năng văn chi nhân (người nghe)
(Kinh) Ngã văn.
(經)我聞。
(Kinh: Tôi nghe).
Ngã Văn là Văn Thành Tựu. Đây là ngài A Nan tự biểu lộ chính mình được đích thân truyền thừa, vĩnh viễn khác với ngoại đạo. Ngã ở đây có nghĩa là “chủ tể”. Ngã đứng đầu mười sáu thứ Kiến, là nguồn cội của năm Lợi Sử. Cho nên trong Nhân và Pháp, phàm phu và hàng Tiểu Thừa chấp Ngã, còn ngài A Nan là bậc Bồ Tát truyền pháp, trong hội Pháp Hoa được dự vào những vị được thọ ký, truyền bộ kinh viên mãn này, khéo thuận với Nhị Không (Nhân Không và Ngã Không), sao cũng nói là Ngã? Cần phải biết hàng phàm phu trọn đủ ba thứ Ngã Kiến, Ngã Mạn, và Ngã Danh Tự, ngài A Nan đã chẳng có Kiến và Mạn, chỉ thuận theo tên gọi trong thế tục. Do không Ngã và không Nghe thì đạo giáo hóa bị dứt tuyệt. Vì thế, tuy biết là Vô Ngã, nhưng vì truyền thừa hóa đạo mà thuận theo cách nói giả danh của thế gian. Như trong cách mua bán, đem tiền bạc đổi lấy đồng, chẳng ai cười cợt.
Văn (nghe) là Nhĩ Căn chẳng hoại, tiếng ở nơi có thể nghe. Vận tâm lắng nghe, nhân duyên hòa hợp, cho nên có thể nghe. Đáng lẽ phải nói là “tai nghe”, nhưng vì Ngã là chủ thể của cái Nghe, Nghe là Dụng của Ngã. Chủ là giả nhân (do mỗi người là Tứ Đại và Ngũ Uẩn hòa hợp mà có, nên “người” là giả pháp), Dụng là thật pháp. Nếu hiểu ý nghĩa của Chủ, nghĩa của chữ Văn sẽ tự hiển lộ; nhưng Chủ là tổng luận duyên khởi, [nói] Văn chính để phân biệt với Thính Thuyết (nghe nói), không gì chẳng sai khác đôi chút. [Văn là] nay ngài A Nan thẳng thừng dấy khởi Chân Ngã trong pháp tánh để nghe bằng cái tâm, khiến cho kẻ khác thẳng thừng ngộ nhập. Nhưng Chân Ngã chẳng có ngã và ngã sở; tâm nghe thì không có nghe và chẳng nghe. Vì lưu truyền, giáo hóa bất tuyệt, nên nói là Ngã Văn, Văn đã được thành tựu!
3.1.2.1.1.3. Văn trì chi thời (lúc nghe nói, thọ trì)
(Kinh) Nhất thời.
(經)一時。
(Kinh: Một thời).
Điều này tương ứng với chuyện ghi chép năm tháng; nay nói “nhất thời” là do Chánh Sóc (正朔, ngày đầu năm) của hai cõi (Trung Hoa và Ấn Độ) không giống nhau! [Thời điểm] nói kinh có trước, có sau sai khác; do vậy, dùng “nhất thời” để thâu nhiếp chung. Nhưng Nhất chính là thống thể (bản thể chung) của đạo, là thiên đức tinh thuần, là nguồn cội của hình và khí, là khởi điểm của số, là điều lạ lùng nơi Dịch. Sanh trời, sanh đất, vạn vật nhờ vào nó, chẳng có gì không khởi đầu từ Nhất. Vì thế, trong Hào và Quái của Phục Hy, trong văn tự của Thương Hiệt[4], đều bắt đầu từ Nhất. Nhất là đại mẫu của chữ, ở trên thì như hình dáng che chở của trời. Ở dưới thì như hình thể đất nâng chở. Ở giữa thì dường như hình thể con người gánh vác.
“Thời” là biến đổi. Tạo hóa ngầm chuyển dời, loài người nhận biết, cái [thay đổi] có thể thấy ngay được thì không gì bằng ngày. Cho nên phải dùng ngày để tính toán, tức là [chữ Thời (時) có chữ Nhật (日)] thuộc loại hội ý. Do bản thể của trời quá lớn, điều mầu nhiệm nằm ở chỗ vận dụng ngay nơi ngày. Vào thời đức Phật, nói đến Thời thì có hai loại:
1) Một là Ca La (Kalā), tức là Đoản Thời, hoặc Thật Thời, để dạy hàng nội đệ tử theo đúng thời mà dùng cơm, gìn giữ minh tướng[5] v.v…
2) Hai là Tam Ma Da (Samaya), tức là Trường Thời, hoặc Giả Thời. Ngoại đạo chấp Thời là thật; vì thế, hiển thị Thời là giả.
Sách Phụ Hành nói: “Các kinh ghi chép, phần nhiều nói chung là Nhất Thời, nhằm dẹp sạch [các tình chấp] dài, ngắn, nhiếp trọn sự tinh, thô” là nói về ý này. Nay nói pháp vận của đức Giác Hoàng sắp chấm dứt, nhằm thuở pháp hội cao đẹp chốn thiên cung, người nghe cảm đức Phật thuyết pháp cho họ, người nói ứng cơ mà luận đàm. Nghe và nói xong xuôi, gọi chung là Nhất Thời. Tóm lại, chính là lúc khiến cho những chúng sanh căn cơ chín muồi trong lục đạo quy về nhất tâm. Đại sư nói: “Nếu là trước nghĩ, sau giác, thì đấy là hai, chẳng phải là một. Suy nghĩ, giác lẫn vọng đều đoạn thì là lúc hoát nhiên khai ngộ”, nay [Nhất Thời] ở đây cũng thế.
3.1.2.1.1.4. Phật cập trụ xứ (Phật và chỗ Ngài trụ)
(Kinh) Phật tại Đao Lợi Thiên.
(經)佛在忉利天。
(Kinh: Đức Phật tại trời Đao Lợi).
Ngài Thiên Thai đã dạy Lục Tức Phật, nay xét theo nghĩa Cứu Cánh [Tức Phật] thì Phật có ba thứ:
– Nương theo Nhất Thiết Trí bèn có Phật thân cao trượng sáu.
– Nương theo Đạo Chủng Trí bèn có Phật thân tôn quý, đặc biệt, cao một trượng sáu.
– Nương theo Nhất Thiết Chủng Trí bèn có Pháp Thân Phật.
Ba loại Phật chẳng một, chẳng khác, chẳng phải là một hay khác mà chính là một và khác. Nay đã mở toang tạng Tổng Bí Mật, cùng là một vị Phật viên mãn thì một và khác đều mất, tạm thời nói là Tại. Dừng lại ở lâu một nơi nào thì gọi là Trụ, thường là nói như vậy. Nay dựa theo lời giải thích về chữ Trụ trong Đại Luận để giải thích chữ Tại. Trụ là một trong bốn oai nghi. Phật là người có thể trụ (năng trụ), còn cõi trời Đao Lợi là chốn để trụ (sở trụ). Trụ xứ có hai thứ:
– Một là cảnh giới xứ, tức là chỗ để đi qua, là chỗ để giáo hóa tục nhân.
– Hai là y chỉ xứ, tức là chỗ để thống nhiếp chúng xuất gia.
Nay [Xứ ở đây] chính là cảnh giới xứ, nhưng Năng Trụ có bốn loại, tức là Thiên, Phạm, Thánh và Phật:
– Thiên Trụ là cõi trời Lục Dục, cái nhân của trụ xứ này là thiện tâm Thí, Giới.
– Phạm Trụ: Từ Sơ Thiền cho đến Phi Tưởng Phi Phi Tưởng. Cái nhân của trụ xứ này là Tứ Vô Lượng Tâm.
– Thánh Trụ tức những vị thuộc tam thừa (Thanh Văn, Duyên Giác, và Bồ Tát). Cái nhân của trụ xứ này là ba môn tam-muội.
– Phật Trụ, tức Thủ Lăng Nghiêm, một trăm lẻ tám môn tam-muội v.v…
Nhưng ắt phải nương vào Đế mà Trụ, vì thế nói là “thân Phật cao một trượng sáu, trụ Chân Đế”. Toàn thân Phật trụ trong Chân Đế, Pháp Thân Phật thì trụ trong Trung Đạo. Như vậy thì trong nhất tâm, chúng ta tu trọn cả ba Quán, niệm niệm chẳng ngưng nghỉ, luôn luôn trụ trong Tam Đế, tức là Quán Hạnh Trụ. Vì thế biết là có thể thấu hiểu thần diệu tâm tánh, trong mỗi niệm, quả Bồ Đề đều viên mãn, mới khởi ý đôi chút, tác dụng lớn lao đã hiện tiền. Chẳng đạt được, chẳng nương cậy, chẳng lấy, chẳng bỏ, từ Chân mà khởi Hạnh, Thể và Dụng cùng thâu nhiếp, dùng Hạnh để khế hợp Chân, trong lúc cuộn duỗi[6], tâm nào cũng tự nhiên hợp đạo, niệm nào cũng ngầm hợp lẽ Chân. Đối với từ ngữ Đao Lợi Thiên, hãy xem phần giải thích tựa đề của phẩm này [trong phần Luân Quán].
3.1.2.1.2. Điểm tam nguyệt sở vi (chỉ ra những việc đức Phật đã làm trong ba tháng An Cư trên Đao Lợi Thiên)
Lập ra khoa này là vì lẽ nào? Do câu “vì mẹ thuyết pháp” tuy kinh văn thuộc phần Chứng Tín, nhưng lại bao hàm ý nghĩa Phát Khởi. Câu này chẳng thể xếp vào phần Thông Tự, mà cũng chẳng thể coi là thuộc phần Biệt Tự, cho nên lập riêng một khoa. Câu này chính là cội nguồn tông chỉ của việc đức Như Lai thăng lên Đao Lợi, an cư ba tháng, chính là vì để phô rõ đức Địa Tạng đã từng vì mẹ phát nguyện. Một là vì ngăn trở sự hoài nghi, gièm báng của Lục Sư ngoại đạo. Kế đó là phát khởi lòng hiếu thảo cho tứ chúng trong đời sau. Tuy nói đại lược, nhưng ý thật bao la!
(Kinh) Vị mẫu thuyết pháp.
(經)為母說法。
(Kinh: Vì mẹ thuyết pháp).
Theo kinh Quán Phật Tam Muội Hải, phụ vương bạch Phật: “Ngài sẽ tới Đao Lợi Thiên vì mẹ thuyết pháp ư?” Đức Phật bảo: “Sẽ như hành pháp của Luân Vương chào hỏi vị Đàn Việt (thí chủ)”. Theo kinh Tăng Nhất A Hàm, do Đế Thích thỉnh cầu, thưa: “Chư Phật đều thăng lên Đao Lợi vì mẹ thuyết pháp. Đức Như Lai cũng nên vì thánh mẫu thuyết pháp”. Do vậy, đức Như Lai cùng với một ngàn vị tỳ-kheo, ở bên thành Khúc Nữ (Kānyakubja) thuộc nước An Đạt La (Andhra), thăng lên trời Đao Lợi, vì mẹ thuyết pháp nhằm báo ân sanh hạ.
Ma Ha Ma Da (Mahāmāyā) trong tiếng Phạn, Hán dịch là Đại Thuật, hoặc Đại Huyễn; kinh Trường A Hàm dịch là Đại Hóa. Sách Diệu Pháp Liên Hoa Kinh Huyền Nghĩa nói: “Bà Ma Da là mẹ của một ngàn đức Phật, thuộc địa vị Đại Quyền Pháp Thân. Há có phàm phu nào mà có thể hoài thai một vị Na La Diên Bồ Tát ư?” Vì thế, trong kinh Hoa Nghiêm, bản dịch đời Tấn (Lục Thập Hoa Nghiêm), Ma Da phu nhân đã trả lời Thiện Tài rằng: “Ta đã thành tựu pháp môn Đại Nguyện Trí Huyễn. Do đắc pháp môn này, làm mẹ của Lô Xá Na Như Lai. Ở trong cõi Diêm Phù Đề, nơi thành Ca Tỳ La, trong cung vua Tịnh Phạn, từ hông phải sanh ra Thái Tử Tất Đạt, hiển hiện thần lực tự tại chẳng thể nghĩ bàn!” Đấy là cha mẹ [của đức Phật] được nói theo Tiểu Thừa.
Nếu xét theo Viên Tông, sẽ đều là như huyễn hiện. Như đức Phật bảo thiên tử Nguyệt Thị rằng: “Kỳ Bồ Tát giả, bất niệm ư sanh, diệc vô sở khởi. Dụng bổn nguyện cố, hiện hữu sở sanh. Thiên vấn: ‘Bồ Tát bất niệm sở sanh, diệc bất vãng sanh, vân hà Như Lai thùy niệm sở sanh chi thân, thượng Đao Lợi Thiên, nhất thời tam nguyệt. Như Lai bất vị tùng vương hậu Ma Da nhi do sanh hồ?’ Phật cáo thiên tử: – Bồ Tát bất tùng vương hậu Ma Da sở sanh, tùng Trí Huệ Độ vô cực sanh. Sở dĩ giả hà? Kỳ tam thập nhị đại nhân tướng, Thập Lực, Tứ Vô Sở Úy, Thập Bát Bất Cộng, nãi chí hư không Phật nhãn, thần túc thiện quyền, tư chư công đức, tất vi bất tùng vương hậu Ma Da nhi sanh, tắc tùng Trí Huệ Độ vô cực nhi sanh” (“Bồ Tát chẳng nghĩ tới sanh, cũng chẳng dấy lên [ý niệm thị hiện giáng sanh]. Do dùng bổn nguyện, nên thị hiện được sanh ra”. Vị trời bèn hỏi: “Bồ Tát chẳng nghĩ tới được sanh, mà cũng chẳng sanh đến, cớ sao Như Lai rủ lòng nghĩ tới người sanh ra thân mình mà lên trời Đao Lợi một phen suốt cả ba tháng? Há Như Lai chẳng phải là do vương hậu Ma Da sanh ra hay sao?” Đức Phật bảo thiên tử: “Bồ Tát chẳng từ vương hậu Ma Da sanh ra, mà từ Trí Huệ Độ (Bát Nhã Ba La Mật) vô cực sanh. Vì cớ sao vậy? Ba mươi hai tướng đại nhân, Thập Lực, Tứ Vô Sở Úy, Thập Bát Bất Cộng, cho đến hư không Phật nhãn, thần túc thiện quyền, các công đức ấy đều chẳng do vương hậu Ma Da sanh ra, mà sanh từ Trí Huệ Độ vô cực”). Đấy chính là pháp do đức Phật đã nói khi Ngài thăng lên trời Đao Lợi vì thánh hậu (Ma Da phu nhân) mà thuyết pháp. Kinh có ba quyển, đều là đàm luận xứng với Bổn.
3.1.2.2. Biệt Tự
Kinh văn thuộc phần Phát Khởi do chẳng liên quan đến các kinh khác nên gọi là Biệt. Phần này chia thành ba đoạn:
– Phần thứ nhất là Quả Nhân Tập Tán Tự (Quả (chư Phật) và Nhân (Bồ Tát) vân tập, tán thán Phật Thích Ca).
– Từ “thời Như Lai” (khi ấy, đức Như Lai) trở đi là phần Tự nói về chuyện Hiện Tướng Tập Chúng (hiện tướng thần thông để triệu tập đại chúng).
– Từ chữ “Thích Ca” trở đi là phần Vấn Đáp Thích Nghi (vấn đáp để giải trừ nghi hoặc).
3.1.2.2.1. Quả nhân tập tán tự (Quả (chư Phật) và Nhân (Bồ Tát) vân tập, tán thán Phật Thích Ca)
Nếu xét theo thứ tự lần lượt sanh khởi, thì từ phần chư Phật và các Bồ Tát nhóm họp, tán thán nhân hạnh của đức Phật Thích Ca, nhờ đức Thế Tôn phóng quang, các vị trời, rồng v.v… nhóm họp. Do đại chúng nhóm họp đông đảo, đức Thế Tôn bèn hỏi ngài Văn Thù về số lượng đại chúng. Ngài Văn Thù sanh nghi bèn thưa hỏi, đức Như Lai thuật chuyện xưa. Tức là “vấn đáp giải trừ nghi hoặc” là do “Phật hiện tướng triệu tập đại chúng:” [mà có]; “hiện tướng triệu tập đại chúng” là vì “chư Phật và Bồ Tát vân tập, tán thán Phật Thích Ca”. Nghịch thuận sanh khởi, nối liền nhau như mắt xích. Nếu duyên khởi lật tới lật lui chỉ là như thế, sẽ giống như một căn nhà trống, nhân duyên chưa được giải thích trọn vẹn; chuyện dựa theo Bổn Tích trong giáo để quán tâm sẽ trọn không có chỗ để tiến đến, hướng về được! Cần biết ba phần Tự (trong đoạn Biệt Tự này) thuộc về “tứ nhất”[7] của Chánh Tông và Tự Phần: [Phần kinh văn nói về] “chư Phật và Bồ Tát vân tập tán thán Phật Thích Ca” và “đại chúng [trời, rồng] nhóm họp” nhằm thuật bày “nhân nhất”. Hiện điềm lành nhằm trần thuật “lý nhất”. Nhân quả tán dương lẫn nhau, ngài Văn Thù nẩy sanh nghi niệm là phần trần thuật “hạnh nhất”. Phần vấn đáp [giữa đức Phật và ngài Văn Thù] là “giáo nhất”. Đấy chính là phần giải thích về nhân duyên.
Nếu xét theo Giáo, chẳng phải là Tam Tạng thông hay biệt, mà phần Tự nhằm giới thiệu, dẫn nhập phần Chánh Tông, tức là phần Tự nhằm làm cho phần Chánh Tông được viên mãn. Nếu xét theo Bổn Tích, ngài Địa Tạng từ thuở ban sơ thuộc bất khả thuyết kiếp trước [đã phát nguyện], cho đến nay vâng lãnh lời phó chúc trên cung trời, tùy ý hành “tứ nhất”. Quán tâm [dựa theo đó] cũng sẽ biết, chẳng cần phải nhắc lại.
Hỏi: Pháp Hoa là vua trong các kinh, cho nên có tác dụng “tứ nhất”, nay kinh này sao có thể coi là giống như Pháp Hoa cho được?
Đáp: Miệng vàng của đức Như Lai tán thán đức Địa Tạng trí huệ, thần thông v.v… đều chẳng thể nghĩ bàn. Đại sư nói: “Diệu danh chẳng thể nghĩ bàn”. Vậy thì chẳng chấp thuận [kinh Địa Tạng này] trần thuật “tứ nhất” ư? Nếu xét theo phần luận định Bổn và Tích đều có mười thứ diệu trong Diệu Pháp Liên Hoa Kinh Huyền Nghĩa, Bổn Tích trong kinh này cũng đáng phải nên có mười điều chẳng thể nghĩ bàn; nhưng do [chúng sanh] đời Mạt chuộng đơn giản, cho nên tôi để lại đó chẳng bàn tới! Cần phải biết là đối với kinh viên đốn, đừng nên giải thích theo cách nào khác!
Phần Quả Nhân Tập Tán Tự (chư Phật (quả) và các Đại Bồ Tát (nhân) nhóm họp, tán thán đức Phật Thích Ca) này được chia làm hai:
3.1.2.2.1.1. Đồng lai tập hội (những vị cùng đến nhóm họp)
(Kinh) Nhĩ thời, thập phương vô lượng thế giới, bất khả thuyết bất khả thuyết nhất thiết chư Phật, cập đại Bồ Tát Ma Ha Tát giai lai tập hội.
(經)爾時,十方無量世界,不可說不可說一切諸佛,及大菩薩摩訶薩皆來集會。
(Kinh: Lúc bấy giờ, mười phương vô lượng thế giới, bất khả thuyết bất khả thuyết hết thảy chư Phật và các vị đại Bồ Tát Ma Ha Tát đều cùng nhóm đến).
“Nhĩ thời” (爾時, lúc bấy giờ) chính là lúc đức Như Lai vì thánh mẫu thuyết pháp. Chư Phật đông đảo, khó thể biện định từng cõi nước riêng biệt được, cho nên nói chung là “thập phương vô lượng thế giới”. Vô Lượng là chẳng thể đo lường được, làm sao tính toán được? “Thế” (世) là đổi dời, Giới (界) là phương vị. Đông, Tây, Nam, Bắc, trên, dưới là Giới. Quá khứ, vị lai, hiện tại là Thế. Có hai loại: Một là Chúng Sanh Thế Giới, tức chánh báo. Hai là Khí Thế Giới, tức y báo. To lớn thay! Y báo và chánh báo số lượng quá nhiều, chẳng thể nói được! Bất Khả Thuyết[8] là một trong một trăm hai mươi lăm con số được nói trong phẩm A Tăng Kỳ của kinh Hoa Nghiêm.
Trọn khắp là Nhất (一), tột cùng ngằn mé là Thiết (切), chẳng phải một thì là Chư (諸, các), tôn quý tột bậc là Phật. Mỗi vị Phật mang theo một vị đại Bồ Tát làm thị giả, cho nên nói là “cập” (及, cùng với). Bồ (菩, Giác) là đạo, Tát (薩) là tâm, tự hành đạo này, lại có thể hóa độ người khác. Dựa trên địa vị thù thắng mà lập hạnh thù thắng; chính là bậc đại nhân trong Viên Giáo, cho nên nói là Đại Bồ Tát Ma Ha Tát. Chủ và bạn cùng tụ họp, nhân theo quả mà nhóm họp. Chủ chẳng khác bạn, bạn chẳng khác chủ. Chủ chính là bạn, bạn chính là chủ, chẳng khác, chẳng đồng. Đến thì cùng nhau đến, nhóm họp thì cùng nhau tụ họp. Vì thế nói là “giai lai tập hội” (đều cùng nhóm đến). Lúc bấy giờ, giống như quang minh từ các hạt châu nơi cái lưới của Thiên Đế, trùng trùng vô tận; hành nhân một niệm thầm khế hợp trong ấy thì Thỉ Giác Trí và Bổn Giác Trí sẽ dung thông hợp nhất; vô minh tâm và Bồ Đề tâm cùng lưu lộ lẫn nhau; cho nên vô biên cõi nước nhiều như biển chẳng cách biệt mảy lông. Mười đời xưa nay, chẳng lìa một niệm trong hiện tại. Tâm là chủ của tổng trì, viên quán chẳng thể tạm lìa, xin mọi người hãy suy nghĩ!
3.1.2.2.1.2. Cộng thân tán thán (cùng nhau thốt lời tán thán)
3.1.2.2.1.2.1. Đồng tán Thích Ca nan sự (cùng tán thán Phật Thích Ca đã làm những chuyện khó khăn)
(Kinh) Tán thán Thích Ca Mâu Ni Phật, năng ư ngũ trược ác thế, hiện bất khả tư nghị đại trí huệ thần thông chi lực, điều phục cang cường chúng sanh tri khổ lạc pháp.
(經)讚歎釋迦牟尼佛,能於五濁惡世,現不可思議大智慧神通之力,調伏剛強眾生知苦樂法。
(Kinh: Tán thán Thích Ca Mâu Ni Phật có thể ở trong đời ác, hiện sức thần thông đại trí huệ chẳng thể nghĩ bàn, điều phục chúng sanh ương ngạnh khiến cho họ biết pháp khổ và vui).
Thích Ca (Śākya) là họ. Kinh Bổn Khởi dịch thành Năng Nhân (能仁). Theo kinh Trường A Hàm, xưa kia vua Cam Giá (đây là họ), nghe lời sàm tấu của thứ phi, đuổi bốn Thái Tử. Họ tới phía Bắc Tuyết Sơn, tự lập thành quách để ở, dùng đức chiêu mộ đại chúng. Chẳng đầy mấy năm, đất nước hưng thịnh, trở thành cường quốc. Phụ vương sai sứ triệu hồi, bốn người con từ chối không về. Phụ vương ba lượt than thở: “Con ta Thích Ca (có thể dùng lòng nhân nhiếp hóa dân chúng)”. Do vậy, lấy chữ Thích Ca làm họ.
Mâu Ni (Muni) là tên; kinh Bổn Hạnh dịch là Tịch Mặc (寂默). Do
những người họ Thích kiêu mạn, lắm miệng, nhưng hễ trông thấy Thái Tử thảy đều nín lặng. Vua bảo hãy gọi tên tự của [Thái Tử] là “Mâu Ni”. Họ [Thích Ca] là do lòng từ bi lợi lạc chúng sanh; vì thế, chẳng trụ Niết Bàn, còn tên thì mang ý nghĩa trí huệ ngầm khế hợp Lý; do đó, chẳng trụ trong sanh tử. Khởi đầu [chư Phật và các vị đại Bồ Tát] tán thán chữ Năng [trong tên họ Năng Nhân] chính là do ý này.
“Ngũ trược ác thế”: Ví như nước trong, ném bụi đất vào, trở thành đục ngầu, thì gọi là Trược (濁). Trược có năm tướng, tức là Kiếp Trược (Kiếp Trược không có cái Thể riêng, do bốn thứ trược kia mà thành tên), Kiến Trược (năm Lợi Sử làm Thể), Phiền Não Trược (năm Độn Sử làm Thể), Chúng Sanh Trược (do lấy quả báo của Kiến, Mạn mà đặt tên), Mạng Trược (liên tục giữ sắc và tâm làm Thể). Ngũ Trược lấy phiền não và Kiến làm căn bản. Từ hai thứ Trược này mà hình thành chúng sanh. Từ chúng sanh mà có thọ mạng được duy trì liên tục; khi đã có bốn thứ Trược ấy thì gọi là Kiếp Trược. Kiếp Trược loạn thời, chúng sanh cấu (phiền não) nặng nề, keo kiệt, tham lam, ganh ghét, thành tựu các bất thiện căn; vì thế gọi là Ác Thế.
Trong kinh Bi Hoa, Tịch Ý Bồ Tát hỏi: “Kim ngã Thế Tôn, hà nhân, hà duyên xử tư bất tịnh, ngũ trược ác thế chi trung, thành A Nậu Bồ Đề, thuyết tam thừa pháp. Hà duyên bất thủ thanh tịnh thế giới, viễn ly ngũ trược ác thế? Phật cáo Tịch Ý: – Bồ Tát dĩ bổn nguyện cố, thủ tịnh diệu quốc; diệc bổn nguyện cố, thủ bất tịnh độ. Bồ Tát thành tựu đại bi, thủ tư tệ ác bất tịnh độ nhĩ. Thị cố, ngã dĩ bổn nguyện, xử thử bất tịnh uế ác thế giới, thành A Nậu Bồ Đề” (“Nay đức Thế Tôn do nhân duyên gì mà ở trong cõi bất tịnh, đời ác ngũ trược này, thành Vô Thượng Chánh Đẳng Chánh Giác, nói pháp tam thừa? Do duyên gì mà chẳng lấy cõi thế giới thanh tịnh, xa lìa đời ác ngũ trược?” Đức Phật bảo Tịnh Ý Bồ Tát: “Bồ Tát do bổn nguyện mà lấy cõi nước tịnh diệu, cũng do bổn nguyện mà giữ lấy cõi bất tịnh. Bồ Tát thành tựu đại bi, giữ lấy cõi tệ ác, bất tịnh này. Vì thế, ta do bổn nguyện, ở trong thế gian bất tịnh, dơ bẩn, xấu ác này, thành Vô Thượng Chánh Đẳng Chánh Giác”). Đại Luận nói: “Lòng đại bi của chư Phật thấu triệt xương, tủy, chẳng vì thế giới tốt hay xấu, tùy theo người đáng độ mà giáo hóa; như từ mẫu thương con, tuy con chìm lỉm trong hầm cầu, vẫn siêng gắng tìm cách cứu vớt, chẳng ngại bẩn thỉu!” Vì thế, chư Phật, Bồ Tát tán thán [Phật Thích Ca] có thể ở trong đời ác ngũ trược điều phục bọn chúng sanh ương ngạnh!
“Hiện” là nói theo hóa nghi (hình thức, phương pháp giáo hóa chúng sanh), vốn là thân trưởng giả đeo toàn anh lạc mà hiện thân xấu xí, dơ bẩn, tức là trụ trong Đại để hành Tiểu vậy. Xét theo ý Phật, vốn là Viên Phật, mà hiện tướng mới thành Phật trong Tam Tạng (tức tướng thành Phật theo Tiểu Giáo), chính là ẩn Thật để hành Quyền. “Đại trí huệ thần thông”: Theo Đại Luận thì “có thể hàng phục các vị thầy luận nghị hàng đầu của ngoại đạo và Thích Phạm thiên vương, cho nên gọi là đại trí huệ”. Theo kinh Hiền Ngu, đức Phật hàng phục lục sư xong, Bình Sa Vương (Bimbisāra, Tần Bà Sa La) bạch Phật: “Bọn lục sư là lũ mê, chẳng biết lượng sức mình, cứ đòi đức Thế Tôn thi đấu thần lực”. Đức Phật hiện thần biến mầu nhiệm khó nghĩ bàn! Bọn lục sư bó tay, chẳng thể thi thố một pháp thuật nào, gieo mình xuống nước mà chết, đồ đệ của họ tan tác. Vì thế gọi là Đại Thần Thông. “Lực” là sức công đức nơi thân Phật, vượt xa mười vạn bạch hương tượng bảo. Đấy là sức nơi thân thể do cha mẹ sanh ra. Nếu là sức thần thông công đức, sẽ là vô lượng, vô hạn. Sức thần thông đại trí huệ như thế, tam thừa chẳng biết, nhân thiên khó suy đoán, cho nên gọi là “bất khả tư nghị” (chẳng thể nghĩ bàn).
Dùng sức trí huệ thần thông này để điều phục chúng sanh ương ngạnh. Cư sĩ Duy Ma nói: “Thử độ chúng sanh kiên cường nan hóa, cố Phật vị thuyết cang cường chi ngữ dĩ điều phục chi. Ngôn thị địa ngục, thị súc sanh, thị ngạ quỷ, nãi chí thị ngu si, thị ngu si báo đẳng, dĩ nan hóa chi nhân, tâm như viên hầu, hựu như tượng, mã, long lệ bất điều. Gia chư sở độc, nãi chí triệt cốt, nhiên hậu điều phục như thị cang cường nan hóa chúng sanh. Cố dĩ nhất thiết khổ thiết chi ngôn, nãi khả nhập luật. Cố ngã Phật, xưng Điều Ngự Thiên Nhân Sư” (Chúng sanh trong cõi này ương ngạnh, khó giáo hóa, cho nên đức Phật phải nói lời cứng rắn để điều phục họ. Ngài nói họ là địa ngục, là súc sanh, là ngạ quỷ, cho đến là ngu si, là quả báo của ngu si v.v… Bởi lẽ, kẻ khó giáo hóa tâm như khỉ vượn, lại như voi, ngựa, rất hung ác. Phải hành hạ chúng, thậm chí đánh đòn tới thấu xương, thì sau đó mới điều phục được bọn chúng sanh ương ngạnh, khó giáo hóa như thế. Vì vậy, [đức Phật] dùng hết thảy lời lẽ khổ sở, thống thiết [để răn dạy] thì họ mới đi vào khuôn phép được. Do đó, đức Phật ta được gọi là bậc Điều Ngự Thiên Nhân Sư).
“Khổ lạc”: Tức là Sanh Diệt Tứ Đế trong Tam Tạng. Do mê Chân nặng nề, thuận theo những gì đã làm mà hứng chịu [quả báo] tương xứng. Nhưng Khổ Tập là một pháp, do phân định theo nhân quả bèn thành hai. Đạo Diệt cũng thế. Do hai Đế (Khổ và Tập) là nhân quả của sự khổ trong thế gian, hai Đế (Đạo và Diệt) là nhân quả của xuất thế lạc;
vì thế, chỉ nói là “khổ, lạc”.
“Pháp” có nghĩa là quỹ trì (軌持, khuôn khổ, pháp tắc). Do pháp Tứ Đế chẳng do Phật, trời, người, sa-môn, Bà-la-môn tạo ra. Chỉ là do cái tâm vô minh điên đảo trong quá khứ, tạo tác các hành, đương nhiên là có thể tạo ra khổ quả nơi lục đạo trong đời này, tự nhiên là tốt xấu khác nhau!
“Tri” (知, biết): Tức là khi tam chuyển pháp luân nơi Lộc Uyển, [đức Phật] đã hiện tướng mà nói: “Đây là Khổ, các ngươi nên biết”. Đấy là lúc Tiểu Giáo và Thỉ Giáo mới được thành lập, trước hết là hành phương tiện để điều phục căn tánh tam thừa. Dùng Tứ Đế để điều phục Thanh Văn, dùng nhân duyên để điều phục Duyên Giác, dùng Lục Độ để điều phục Bồ Tát. Đế, duyên, và hoằng thệ đều nương theo Tứ Đế. Vì thế, nói chung là “tri khổ lạc pháp” (biết pháp khổ và vui). Đấy là bản lãnh của đức Phật Thích Ca, cho nên Phật và Bồ Tát cùng nhau tán thán.
***
[1] Đào Đường Thị (陶唐氏) vốn là tên gọi chánh quyền của Đế Nghiêu (con trai thứ
hai của Đế Khốc và Khánh Đô). Vua Nghiêu họ Y Kỳ, tên là Phóng Huân. Năm mười ba tuổi, vua Nghiêu đã phù tá Đế Chí, do có công, nên lúc mười lăm tuổi, được phong ở đất Đào rồi chuyển sang đất Đường (nay là Lâm Phần tỉnh Sơn Tây). Vì thế, sử gọi chánh quyền của vua Nghiêu là Đào Đường Thị.
[2] Đây cũng là cách đọc biến âm, âm nguyên thủy là Godana hoặc Godaniya rồi diễn biến thành Khotan.
[3] Trong giai đoạn đầu, khi Đường Cao Tông (Lý Trị) bạc nhược, lười biếng chánh sự, Vũ Tắc Thiên đã giúp vua phê duyệt tấu chương. Càng về sau, nhà vua càng bị bà ta chi phối, hoàn toàn trở thành con rối trong tay bà ta. Cho đến năm Hiển Khánh thứ năm (660), khi đi tuần du ở quê nhà, Đường Cao Tông phát bệnh, đau đầu rất nặng. Do vậy, bà ta đã dùng danh nghĩa của nhà vua để xuống chiếu cho phép chính mình ngồi song song với vua nghe các quan tấu trình khi lâm triều. Sử gọi giai đoạn này là Nhị Thánh Lâm Triều cho đến khi Cao Tông chết (năm 683). Trong giai đoạn đó, vào năm Thượng Nguyên nguyên niên (674), tháng Tám, dưới sự đạo diễn của Vũ Hậu, Đường Cao Tông xuống chiếu, tự xưng là Thiên Hoàng, gọi Vũ Hậu là Thiên Hậu.
[4] Theo thần thoại Trung Hoa, Thương Hiệt (倉頡) là người sáng tạo chữ Hán, nên ông được người đời xưng tụng là Thương Hiệt tiên sư, hoặc Thương Hiệt thánh nhân, Thương Hiệt Chí Thánh, Hữu Sử Sáng Thánh Nhân v.v… Tương truyền, ông làm quan Hữu Sử của Hoàng Đế, sáng chế văn tự để ghi chép những sự việc quan trọng trong thời đó, thay cho lối thắt nút để ghi nhớ sự kiện trước đó. Theo thần thoại, do nhìn vào vết chân chim (có thuyết nói là do nhìn vào các đường vằn trên mai rùa) mà Thương Hiệt dấy khởi ý nghĩ sáng chế văn tự.
[5] Minh Tướng (tướng trời sáng): Thường được tính từ lúc trời sáng có thể trông thấy rõ đường chỉ trên bàn tay cho đến lúc trời xẩm tối. Hàng đệ tử Phật không được dùng bữa điểm tâm trước khi trời có minh tướng.
[6] Cuộn duỗi ở đây phải hiểu là lúc khởi tác dụng (duỗi) và trở về tịch tĩnh (cuộn).
[7] Tứ Nhất là một khái niệm do tông Thiên Thai đề ra nhằm đề cao đặc tánh độc đáo siêu việt của kinh Pháp Hoa:
1. Tất cả những lời dạy trong kinh Pháp Hoa nhằm xiển dương, chỉ dạy Nhất Thừa, đó là Giáo Nhất.
2. Các hạnh được dạy trong kinh Pháp Hoa đều là hạnh của Đại Thừa Bồ Tát, đó là Hạnh Nhất.
3. Tất cả những lời dạy đều nhằm khiến cho thính chúng đều khai thị ngộ nhập tri kiến của Phật, tức là trở thành cùng một căn tánh, đều hành Bồ Tát đạo, đó là Nhân Nhất.
4. Do tu theo kinh Pháp Hoa, sở chứng là lý Thật Tướng, đó là Lý Nhất.
[8] Bất Khả Thuyết Bất Khả Thuyết lại là một con số gấp bội lần của Bất Khả Thuyết. Bất Khả Thuyết lần Bất Khả Thuyết là một Bất Khả Thuyết Chuyển, Bất Khả Thuyết Chuyển lần Bất Khả Thuyết Chuyển là một Bất Khả Thuyết Bất Khả Thuyết. Một Bất Khả Thuyết Bất Khả Thuyết là sau số 1 sẽ có 18.609.191.940.988.822.220.653. 298.843.924.824.064 con số 0.
ĐỊA TẠNG BỒ TÁT BỔN NGUYỆN KINH KHOA CHÚ