TỊNH ĐỘ ĐẠI THỪA TƯ TƯỞNG LUẬN
Nguyên Tác: Đại Sư Ấn Thuận
Dịch Giải: Thích Đức Niệm
CHƯƠNG NĂM
TỊNH ĐỘ
Cõi Tịnh độ hay cõi cực lạc của đức Phật A Di Đà làm giáo chủ đã được các kinh điển đại thừa như Hoa Nghiêm, Pháp Hoa, Lăng Nghiêm, Vô Lượng Thọ, Quán Vô Lượng Thọ, A Di Đà v.v… nói đến rất nhiều. Quan hệ về trang nghiêm Tịnh độ và thánh chúng cư trú nơi đó thì có nhiều cách trình bày khác nhau nhưng đặc sắc nhứt là Huệ Viễn Đại Sư.
Thời Đông Tấn, ngài Huệ Viễn ở núi Lô Sơn chuyên tu tịnh nghiệp, uyên thâm giáo điển, tinh chuyên hành trì về pháp môn Tịnh độ, đã phân định Tịnh độ làm ba loại: Sự Tịnh độ, Tướng Tịnh độ và Chơn Tịnh độ, nhằm mục đích luận định sự sai biệt cao thấp mỗi cảnh giới. Theo quan niệm này thì hạng phàm phu cư trú nơi Sự Tịnh độ, hàng Nhị thừa và Bồ tát hóa độ chúng sanh thì cư trú nơi Tướng Tịnh độ, còn hàng sơ địa Bồ tát trở lên thì cư trú nơi Chơn Tịnh độ.
I. PHÂN LOẠI TỊNH ĐỘ
1- Sự Tịnh độ: Sự Tịnh độ là chỉ cho cảnh giới của phàm phu hữu lậu tu tịnh nghiệp mà được sở đắc. Cõi Tịnh độ này do các vật thanh tịnh quý báu cấu tạo hình thành cảnh giới trang nghiêm khiến cho cảnh vật sự tướng nơi cõi này trang nghiêm tuyệt đẹp, nên gọi là Sự Tịnh độ. Nói một cách khác, phàm phu khi phát khởi nhơn địa tu hành còn tâm phân biệt, nên khi cảm thọ quả báo theo đó cũng có phân hạng Tịnh độ. Ngoài ra do hành giả tu Tịnh độ thủ tướng bất đồng, nên khi sanh về cõi nước Tịnh độ các tướng trang nghiêm cũng theo đó mà có sự không đồng. Nói cách tổng quát thì có hai điều sai biệt:
-Thứ nhất khi phàm phu khởi tâm tu tịnh nghiệp cầu được sở đắc Tịnh độ, như cõi chư thiên thì đây là do tu bồi thiện nghiệp mà thọ dụng cõi Tịnh độ của chư thiên. Bởi do tâm hữu lậu cầu được sở đắc, nên tuy sanh trong cõi Tịnh độ của chư thiên mà vẫn còn mang ba nghiệp phiền não tham sân si, nên không đạt được trọn vẹn đạo xuất thế thoát khỏi vòng luân hồi.
-Thứ hai phàm phu khi khởi tâm tu cầu tịnh nghiệp xuất thế, nên kết quả cảm thọ cõi Tịnh độ xuất thế, như cõi nước cực lạc, cõi nước Chúng Hương v.v… Hành giả một khi đã gieo cái nhơn tịnh nghiệp xuất thế thì nhất định sẽ được cảm thọ cái quả diệu dụng xuất thế. Còn ở đây nói đến cõi trời là chủ yếu chỉ về cõi trời Đâu Suất. Hai thứ Tịnh độ được đề cập ở đây là cõi trời Đâu Suất và cõi cực lạc Tịnh độ dành cho những hành giả phát tâm tu tịnh nghiệp.
2- Tướng Tịnh độ : Tướng Tịnh độ là cảnh giới do hàng Nhị thừa và các Bồ tát tu tập các thứ duyên quán đối trị các bệnh hữu lậu mà được. Cảnh giới này biểu lộ diệu tướng trang nghiêm, ly cấu thanh tịnh, nên gọi là Tướng Tịnh độ. Cõi này tuy nói là thanh tịnh, nhưng chưa hoàn toàn tuyệt đối. Bởi còn vọng thức vi tế sanh khởi, như cảnh trong mộng, như hoa hư không, hư giả chẳng thật, bởi hiển tướng bên ngoài trong sạch thanh tịnh, nên mới gọi là Tướng Tịnh độ. Kỳ thực, cõi Tướng Tịnh độ này là do khi hành giả Nhị thừa và các Bồ tát tu tập tâm không hạn cuộc, nên khi thọ quả báo ở cõi nước cũng không có phương sở hạn cuộc. Lại nữa, nhơn khi tu hành tâm không chấp vào ý niệm cảnh giới nào nhất định, nên khi được quả báo cảnh giới cũng tùy tâm mà chuyển biến, chứ không có tướng nhất định. Tuy nhiên cõi nước này cũng có hai thứ sai biệt:
Thứ nhất hành giả Nhị thừa vì thiện căn tư lợi mà được Tịnh độ hư tịch vô ảnh giống như cõi Trời Vô Sắc Giới. Luận Đại Trí Độ nói “ Hữu Diệu Tịnh độ xuất quá tam giới, La Hán sanh trung, văn Pháp Hoa trung”. Nghĩa là cõi Tịnh độ Hữu Diệu vượt ngoài ba cõi Dục giới, Sắc giới và Vô Sắc giới, các bậc La hán sanh về trong đó nghe kinh Pháp Hoa. Hữu diệu là ý nói cõi nước và chúng sanh đang sinh hoạt trong đó, y báo vi diệu thanh tịnh không có thô tướng như cõi trần gian. Nghĩa là cõi Tịnh độ này phần lớn do tư lợi thiện căn tuyệt trần mà được, nên khi thọ dụng chỉ sanh tâm tư lợi, nhàm chán xa lìa việc lành, tự nhiên không thể sanh tâm thực hành các hạnh từ bi lợi tha hoằng pháp. Thảng hoặc khi muốn sanh khởi tâm lợi tha tất phải thấu qua thần lực của Phật Bồ tát giáo hóa, tuyệt đối không phải là thừa thọ thần lực cảnh giới.
Thứ hai Bồ tát giáo hóa những chúng sanh có căn lành mà cảm thọ cõi Tịnh độ. Cõi này do tâm nguyện của những hành giả không xả bỏ chúng sanh, theo đó mà đắc thọ. Như kinh Duy Ma Cật nói: Hình dung trượng thất của Duy Ma Cật là do tâm nguyện độ hóa thiện căn của chúng sanh mà thành. Thế nên khi thọ dụng cảnh giới Tịnh độ thì tự nhiên sanh khởi hạnh lành lợi tha.
3- Chơn Tịnh độ: Cõi Tịnh độ này là cảnh giới an trụ của Sơ Địa Bồ tát trở lên và các đức Phật. Cõi Chơn Tịnh độ do các đức Phật và các đại Bồ tát thực chứng thiện căn mà được. Cõi nước này do thực tánh duyên khởi, xa lìa cấu uế nhiễm ô mà đạt thành vi diệu thanh tịnh, hằng thường bất biến, nên gọi là Chơn Tịnh độ. Đây là do khi tu hành tâm không duyên niệm, đối với cõi nước cũng không có duyên niệm cư trú, cõi nước không có mảy may tướng trạng, nên cõi này còn có tên là Vô Tướng Diệu Trang Nghiêm. Lại nữa, do tâm không định chấp, không phân biệt nên cõi nước không có chỗ nhất định, không còn quan niệm ta, người, nhơn, ngã; không có kia, đây. Bởi vì nếu đúng trên lập trường hư vọng mà nói thì có thể phân làm hai trạng thái là Ly Vọng Chơn và Thuần Tịnh Chơn.
Ly Vọng Tịnh độ là cõi nước mà trong đó chỉ có từ Sơ Địa trở lên đến Thập Địa Bồ tát cư trú. Cõi này còn hợp với vọng, nghĩa là chưa hoàn toàn xa lìa vọng cảnh. Vì vậy cho nên tùy theo quả vị cao thấp mà có tốt xấu chẳng đồng. Đây chẳng khác nào như sương mù tiêu dần dần, hư không hiển lộ; mỗi quả địa, mỗi quả địa lìa vọng thì cảnh vọng theo đó diệt từng phần, và đồng thời chơn cảnh cũng theo đó mà từng phần tăng trưởng. Sở kiến của cảnh giới Nhị Địa thù thắng hơn Sở Kiến của Sơ Địa. Như thế đó, cho nên sở kiến của cảnh giới Thập Địa đương nhiên thắng diệu hơn cảnh giới của Cửu Địa. Trong đó sự ưu liệt khác biệt cũng y cứ theo cảnh giới tu hành tự nhiên sanh khởi. Thế cho nên mới gọi là Ly Vọng Tịnh độ. Cõi Thuần Tinh độ là nơi cư trú của chư Phật Như Lai. Đó là cõi thuần chơn không tạp như cõi tịnh hư không, cõi chơn thanh tịnh.
Cõi Thuần Chơn Tịnh độ của Phật lại có thể phân làm hai: Ấy là Chơn Độ và Ứng Độ hoặc có chỗ nói phân làm ba cõi là Pháp Tánh Độ, Thật Báo Độ và Viên ứng Độ.
Trước tiên nói về hai cõi Chơn Tịnh độ và Ứng Tịnh độ. Chính cõi nước đức Phật an trú gọi là Chơn Tịnh độ. Rồi tùy thuận cơ cảm của chúng sanh mà thị hiện ra các chủng loại cõi nước, gọi đó là Ứng Tịnh độ. Cõi Chơn Tịnh độ thì thuộc cõi Tịnh độ Pháp Môn Bình Đẳng, hình tướng không có chỗ nhất định, không chỗ nào mà không có, biến khắp tất cả, ly tướng diệu tịch như hư không, vốn thuộc nơi tánh duyên khởi tác dụng, thuận ứng hóa sở hiện, cũng có thể nói vạn vật y đó mà sanh khởi. Cõi nước Chơn Tịnh độ còn được gọi là Ly Tướng Diệu Tịch này có thể hàm hữu đầy đủ các nghĩa thanh diệu, vì vậy gọi đó là Chơn Tịnh độ. Còn cõi Ứng Tịnh độ thì tùy thuận các tình tự của chúng sanh mà thị hiện, có phương sở và phần hạng nhất định, có đầy đủ khu biệt tướng trạng thiện ác nhiễm tịnh và các tướng trang nghiêm sai biệt. Do cõi Chơn Tịnh độ của chư Phật có đủ hai đặc tánh Chơn Tịnh độ và Ứng Tịnh độ, nên nếu chúng ta muốn khảo sát nhơn địa chủ yếu của nó từ đâu mà được đặc tánh này, thì chúng ta sẽ thấy rõ ấy là nhơn hạnh của Trí và Bi mà hình thành.
Trí là y không mà thành tựu. Dùng trí để nhiếp hành, nên chỗ sở hành đều lìa tướng. Vì vậy mà sở đắc Tịnh độ là Chơn Tịnh độ Diệu Tịch Ly Tướng. Bi là tùy chỗ phát tâm bất đồng mà sanh, dùng bị để nhiếp hành thì chỗ sở hành là vật. Thế cho nên chỗ sở đắc Tịnh độ là tùy căn cơ mà hiện sai biệt nên gọi là Ứng Tịnh độ.
Nếu nay lại căn cứ vào ba cõi Tịnh độ mà luận thì:
1- Pháp Tánh Độ: Đây là chỉ cho bổn tánh Tịnh độ, các nghĩa đồng thể, dung thông vô ngại, chúng sanh bổn tánh thuần nhiên bởi do vọng tưởng chấp trước mà tự thành trở ngại. Con người sau khi thành Phật thì vọng tưởng dứt tuyệt, thật tánh của cõi pháp tánh Tịnh độ tự nhiên hiển hiện mà thành tựu diệu dụng tự tại. Nếu đem thực tánh hiển hiện của cõi này mà nói thì gọi đó là Pháp tánh độ hay nói cho đủ là cõi Tịnh độ Pháp tánh, tức là bản thể chơn tâm thường hằng.
2- Thật Báo Độ: Đây là chỉ cho Bồ tát do rộng tu pháp giới tịnh nghiệp vô tận, đồng thời vận dụng năng lực này để huân tập phát huy tịnh nghiệp mà hiển hiện pháp tánh Tịnh độ hiện tiền, lại hay ở chỗ vô biên thanh tịnh pháp giới mà được sự tướng vô lượng trang nghiêm, nên gọi là Thật báo độ hay còn gọi là cõi nước Tịnh độ Thật báo trang nghiêm. Cõi Pháp tánh Tịnh độ ví như tự thể của vàng, còn cõi Thật báo Tịnh độ thì giống như vàng làm ra các thứ loại trang sức, hình thức kỹ xảo, tức là diệu dụng.
3- Viên ứng Độ: Đối với hai độ trước thì cũng như là bảo châu trong sáng hay tùy thuận cơ cảm của chúng sanh mà có các thứ sai khác, thần thông diệu dụng vẫn không thiếu, cho nên gọi là Viên ứng độ hay gọi là Viên ứng Tịnh độ.
Trong ba cõi Tịnh độ trên đây thì cõi Pháp tánh Tịnh độ và Thật báo Tịnh độ do hai cõi độ trước là Chơn độ và Ứng độ mà triển xuất ra. Còn cõi Viên độ và Ứng độ danh xưng trạng thái có hai, đó cũng chỉ là phương tiện, tùy căn nghiệp chúng sanh, chứ cũng là thuộc cõi Ứng độ. Cho nên, đối với ba độ trên đây đem so sánh với Chơn độ và Ứng độ thì đó chẳng qua là phương tiện triển khai dung hợp ứng hiện xem ra có vẻ bất đồng mà thôi. Giờ đây căn cứ vào giả thuyết phương tiện mà phân loại để thuyết minh chỗ sở y của ba thân Phật: một là Pháp tánh Tịnh độ là chỗ sở y của pháp thân, hai là Thật báo Tịnh độ là chỗ sở y của báo thân và ba là Viên ứng Tịnh độ là chỗ sở y của ứng hóa thân.
Nếu luận về nguyên nhơn hình thành của ba cõi Tịnh độ thì vô thỉ pháp tánh là nhơn của Pháp tánh Tịnh độ. Các pháp môn tu hành như Lục độ v.v… là nhơn của Thật báo Tịnh độ. Trong đó còn phân ra có chánh nhơn và duyên nhơn. Pháp tánh Tịnh độ thì lấy vô thỉ pháp tánh làm chánh nhơn, và lấy Lục độ cùng các pháp môn tu hành v.v… làm duyên nhơn. Vì vậy nói Pháp tánh Tịnh độ là tự nó vốn hiển hiện từ trong pháp thể, tuy nhiên điều này có nhơn ẩn hiện có quả hiển lộ không đồng, nhưng mà thể tánh của nó rốt ráo không có tăng giảm, bởi lấy pháp tánh vô thỉ làm chánh nhơn. Nếu lấy Thật báo Tịnh độ mà nói thì xưa nay vốn không có pháp thể. Nhưng đứng trên pháp tánh mà luận bàn thì cái nghĩa có thể sanh ra duyên khởi, nghĩa là gặp duyên thì sanh, do lục độ vạn hạnh huân phát mà thành các thứ sự tướng trang nghiêm, nghĩa là do lục độ vạn hạnh làm chánh nhơn Tịnh độ. Nguyên nhơn hình thành của Viên ứng Tịnh độ vẫn không có tướng nhất định. Đôi khi nhiếp dụng tự thể thì lại không có nhơn. Đây là như bóng theo hình mà có. Cõi Viên ứng Tịnh độ chẳng qua chỉ là bóng dáng của Chơn Tịnh độ. Lìa Chơn Tịnh độ thì không còn có nguyên nhân nào để hình thành Viên ứng Tịnh độ. Nếu đứng trên lập trường thể và dụng mà phân định thì Viên ứng Tịnh độ cũng có nhân đồng loại và khác loại.
Các đức Như Lai đắc Tịnh độ đã lâu, hiện nay đã viên mãn, nhưng vẫn còn tu các thiện hạnh, đó cũng là để trang nghiêm cõi Phật. Như đức Phật A Di Đà nhơn địa tu hành của Ngài là bốn mươi tám lời nguyện cùng với các pháp môn tu để trang nghiêm thế giới Tây phương cực lạc. Còn tu các thứ nhơn khác thì thường thực hành chơn pháp làm Viên ứng Tịnh độ. Ngoài ra Viên ứng Tịnh độ lại còn có Pháp ứng Tịnh độ và Báo ứng Tịnh độ.
– Pháp ứng Tịnh độ là do khi tu pháp môn Tịnh độ Tam muội mà hiển bày các cõi nước.
– Báo ứng Tịnh độ thì lấy tự thân vốn có đầy đủ đại bi nguyện lực làm nhơn duyên mà thị hiện các thứ Tịnh độ. Điều này có thể rộng xem trong đại thừa Nghĩa Chương quyển thứ mười chín.
Trên đây chúng ta thấy sự phân loại Tịnh độ của Huệ Viễn Đại Sư là căn cứ vào nghiệp nhơn bất đồng mà chiêu cảm cõi Tịnh độ sai biệt.
Sự Tịnh độ là cõi nước của phàm phu do tu tịnh nghiệp hữu lậu mà cảm thọ. Tướng Tịnh độ thuộc hàng Nhị thừa và Bồ tát sở y, do quán duyên đối trị mà sanh vô lậu tịnh nghiệp sở cảm. Chơn Tịnh độ là do nơi Bồ tát và chư Phật Như Lai thực chứng thiện căn mà đạt được. Nhưng cõi Chơn Tịnh độ mà các đức Phật sở đắc lại phân làm hai loại: loại một gồm có Chơn Tịnh độ, Ứng Tịnh độ. Loại hai gồm có Pháp Tánh Tịnh độ, Thật Báo Tịnh độ, Viên ứng Tịnh độ. Nhưng điều chủ yếu trong đây như như kinh Duy Ma Cật nói là: “ Tâm tịnh thì quốc độ tịnh”. Những cõi nước Tịnh độ được trình bày trên đây phần nhiều đều căn cứ vào tư tưởng của hai bộ Thập Địa Kinh Luận và Nhiếp Đại Thừa Luận mà luận giải hình thành. Đặc biệt là trong Tịnh độ Luận thì phân tích trình bày vấn đề cõi nước Tịnh độ hết sức khúc chiết.
Huệ Viễn Đại Sư đặc biệt thuyết minh các thứ Tịnh độ này là thuần túy căn cứ vào duyên do nghiệp nhơn của mỗi cá nhơn mà có chỗ sở cảm bất đồng. Thế nghĩa là từ chúng sanh cho đến các đức Phật chính mỗi người đều tự có nhơn địa Tịnh độ tu hành. Trong khi đó Ngài Cưu Ma La Thập lại nói chúng sanh không có Tịnh độ, chỉ có Phật mới có Tịnh độ. Trái lại ngài Đạo Sanh thì nói các đức Phật không có Tịnh độ chỉ có chúng sanh mới có. Trên đây mỗi ngài đều có quan niệm lập trường và lý luận cho riêng mình không đồng nên chưa hết tình ý triết lý về Tịnh độ.
Riêng Huệ Viễn Đại sư khi thuyết minh về Tịnh độ của Phật thì gồm có Chơn Tịnh độ, Ứng Tịnh độ, Pháp Tánh Tịnh độ, Thật Báo Tịnh độ và Viên ứng Tịnh độ. Bằng vào những cõi Tịnh độ này, Ngài Huệ Viễn đã trình bày rõ về sự quan hệ hỗ tương giữa thân Phật và cõi Phật thật là hợp lý. Đồng với quan điểm này, ngay ở Ấn độ cũng phải đợi đến ngài Thân Quang tạo thành bộ Phật Địa Kinh Luận mới lập thuyết chư tướng xương minh được cái nghĩa Tứ Thân Tứ Độ, tức là bốn thân Phật bốn cõi nước Tịnh độ. Phật Địa Kinh Luận của Thân Quang và Tịnh độ Luận của Huệ Viễn không có sự ảnh hưởng tương quan nào. Nhưng đích xác thẩm định về thân Phật và bốn cõi nước Phật thì lại có sự tương quan trùng hợp. Nhưng đặc biệt luận giải về sự tương quan giữa thân Phật và cõi Tịnh độ một cách trác việt rốt ráo hiển chơn minh lý thì phải nói là trí đắc thần bút của Huệ Viễn Đại Sư. Nhưng trong khi luận giải cõi Tịnh độ, trong đó có nói đến cả Trời Dục Giới cũng được gọi là cõi Tịnh độ, thì đây có thể là vì nhơn duyên hành giả thích sanh lên cõi Trời Đâu Suất, và chỉ cõi Trời Đâu Suất mà thôi. Nhưng Huệ Viễn gọi các cõi Trời là cõi Tịnh độ thì điều này đích thực trong các kinh điển đại thừa chưa từng thấy xác định bao giờ. Lập luận của Huệ Viễn gọi cõi Trời đâu Suất là Tịnh độ, có lẽ vì các Bồ tát cư trú nơi đây hầu hết là nhất sanh bổ xứ, giáo hóa chúng sanh, nên Huệ Viễn gọi đó là Tướng Tịnh độ.
II. LUẬN VỀ CÕI TỊNH ĐỘ PHẬT A DI ĐÀ
Với sự nhận định của Huệ Viễn Đại Sư thì cõi Tịnh độ của Phật A Di Đà là do phàm phu tu hữu lậu nghiệp cảm thọ, cho nên cõi Tịnh độ này thâu nhiếp tất cả chúng sanh, gọi đó là Sự Tịnh độ. Nếu đứng về chư Phật mà nói thì cõi nước Tịnh độ tương ưng với nhơn địa tu hành mà được, nên gọi là Ứng Tịnh độ. Luận về nghĩa của Tịnh độ thì trong bộ đại thừa Nghĩa Chương đã có luận giải khá rõ ràng. Điều này trong bộ Quán Kinh Sớ cũng có nói đến, chẳng những thế mà còn phân định Tịnh độ có thô có diệu. Cõi thô Tịnh độ là cõi mà trong đó có phàm phu tu hữu lậu tịnh nghiệp phân đoạn sanh tử[1] được vãng sanh. Còn cõi diệu Tịnh độ là cõi của thánh nhơn biến dịch sanh tử[2] cư trú. Nhưng trong Quán Kinh Sớ lại nói rằng cõi Tịnh độ Phật A Di Đà đang giáo hóa kia chính là cõi thô Tịnh độ. Còn chính do phước báo của đức Phật A Di Đà thì đặc biệt có cõi diệu Tịnh độ. Cõi diệu Tịnh độ nhiệm mầu vi diệu an trụ trong cõi thô Tịnh độ. Còn chính do phước báo của đức Phật A Di Đà thì đặc biệt có cõi diệu Tịnh độ. Điều vi diệu này không mấy hành giả liễu đạt mà chỉ Phật với Phật mới cảm thông. Bởi đa phần căn cứ vào lời văn tổng thể của kinh A Di Đà nói: “ Thế cho nên cõi Tịnh độ A Di Đà là cõi thô Tịnh độ”. Do đó, trong Quán Kinh Sớ có mật nhiệm thuyết minh rằng, đức Phật A Di Đà cõi Tây phương cực lạc là ứng thân Phật, là chơn thân thọ mạng thường trụ không có diệt độ. Mà ứng thân thọ mạng thì bất định, hoặc ngắn hoặc dài, tùy theo tâm nguyện cùng thuận duyên của chúng sanh. Đức Phật A Di Đà thọ mạng rất lâu, mà trí lượng phàm phu Nhị thừa không thể nào lường được, nên gọi là Vô Lượng Thọ Phật. Y cứ vào kinh Quán Thế Âm Vô Lượng Thọ Ký thì : Đức Phật A Di Đà sau khi diệt độ, tiếp đó Quán Thế Âm và Đại Thế Chí Bồ tát sẽ tiếp tục thay nhau bổ xứ thành Phật thay thế trách nhiệm giáo hóa của đức Phật A Di Đà mà hóa độ chúng sanh trong cảnh giới Tây phương cực lạc. Do đây chúng ta có thể biết được đức Phật A Di Đà thọ lượng hữu hạn. Nhưng ở đây nói hữu hạn không có nghĩa là Phật A Di Đà chết mà đó chỉ là tâm nguyện độ sanh đã hoàn thành. Chẳng khác nào như mặt trời lặn. Và Vô Lượng Thọ là danh từ thường chỉ cho mạng sống của đức Phật A Di Đà. Điều này đối với Nhị thừa chúng sanh mà nói. Chứ sự thật từ hằng tỷ năm hằng triệu kiếp về trước cho đến giờ đây đức Phật A Di Đà vẫn đang còn giáo hóa chúng sanh ở cảnh giới Tây phương cực lạc. Trong tương lai đức Quán Thế Âm Bồ tát sẽ thay đức Phật A Di Đà, nhưng cũng chưa rõ vào thời điểm nào trong tương lai. Đó là ý nghĩa Vô Lượng Thọ. Còn nếu Phật A Di Đà thọ vô lượng hữu hạn về nghĩa vô biên tế tuyệt đối mà nói. Với ý nghĩa đó thì thọ lượng hữu hạn có nghĩa là thân Phật A Di Đà giáo chủ Tịnh độ tất phải là Ứng Thân. Bởi lý này nên Huệ Viễn Đại Sư nói Phật A Di Đà là Ứng thân và cõi nước cực lạc là Ứng Độ. Nhưng Ứng Thân vốn do từ chơn thân mà hiển sanh phát khởi. Như vậy Phật A Di Đà ngoài Ứng Thân Ứng Độ ra, nhất định phải có Chơn Thân Chơn Độ. Vì vậy đối với vấn đề này, trong bộ Đại Thừa Nghĩa Chương có xác định về nghĩa Tịnh độ rằng: “Phật A Di Đà đã đạt được Chơn Tịnh độ từ lâu đời rồi”. Cùng quan điểm này, trong Quán Kinh Sớ cũng có nói đức Phật A Di Đà có cõi Diệu Tịnh độ. Để biện giải cho nghĩa trên, kinh Hoa Nghiêm cũng đã đề cập về cõi Chơn Tịnh độ. Từ những luận giải này, chúng ta thấy có Tịnh độ chỉ vì tâm nguyện phương tiện hóa độ chúng sanh mà thị hiện cõi Ứng Tịnh độ, tức là cõi trang nghiêm Tây phương cực lạc mà chúng sanh trong cõi Ta bà đang tu tịnh nghiệp hằng nguyện vãng sanh. Cứ theo nghĩa này, một khi chúng sanh trong cõi cực lạc tiến tu thì cũng sẽ đạt đến cõi Chơn Tịnh độ như Phật A Di Đà. Vậy cực lạc Tịnh độ là hoàn cảnh tuyệt đối tốt cho chúng sanh tu hành để đạt đến Chơn Tịnh độ, diệu pháp thân.
III. NHƠN DUYÊN SANH VỀ TỊNH ĐỘ VÀ THỨ BẬC CHÍN PHẨM SEN VÀNG
Luận về sự quan hệ nhơn duyên sanh về Tịnh độ, trong Quán Kinh Sớ của Huệ Viễn Đại Sư đặc biệt có nêu các Kinh Bát Nhã, Niết Bàn, Duy Ma Cật, Vãng Sanh Luận v.v…để dẫn chứng cho điều này. Kinh Bát Nhã thì lấy sự tu tập “không huệ” để diệt trừ tội chướng. Do đó, nếu hành giả quyết tâm muốn vãng sanh về Tịnh độ thì nhất định được vãng sanh. Kinh Niết Bàn thì lấy “Trì giới, bố thí, định huệ và hộ pháp” làm nhơn duyên tu tập để cầu vãng sanh về Tịnh độ. Kinh Duy Ma Cật thì lấy đầy đủ tám pháp[3] để tu hành lợi ích chúng sanh làm nhơn địa thiện căn sanh về Tịnh độ. Vãng sanh luận thì nêu lên phương pháp tu lễ bái và năm cách niệm Phật để làm nhơn duyên cầu vãng sanh Tịnh độ, đồng thời lại trình bày pháp môn tu quán vãng sanh, tu nghiệp vãng sanh, tu tâm vãng sanh và quy hướng vãng sanh. Tuy nhiên, trong Quán Kinh Sớ của Huệ Viễn khi thuyết minh về thiện nghiệp Tịnh độ thì lại còn phân thành hai thứ định thiện và tán thiện. Thế nào là định thiện và tán thiện? Nghĩa là hành giả y cứ vào định quán mà tu thì gọi là định thiện. Nếu theo phương cách tán tâm hành thiện làm việc phước thì gọi đó là tán thiện. Nói như thế có nghĩa là hành giả tu quán đế cầu vãng sanh thì gọi đó là định thiện. Còn tu thiện nghiệp, tu tâm và quy hướng, ba phương thức này tu thì thuộc về tán thiện. Tu quán vãng sanh như tu Pháp Nhật Luân Quán[4] v.v… mười sáu pháp quán[5] để cầu sanh Tịnh độ. Nghĩa là trong bộ Quán Kinh này chỉ bày cương yếu pháp quán để nhứt tâm định ý cầu sanh Tịnh độ. Nhưng trong mười sáu pháp quán này thì mười ba pháp quán trước có thể nói là thuộc về pháp định thiện, còn từ pháp quán thứ mười bốn trở đi thì phần lớn chỉ là để giải thích về tướng trạng của chín phẩm vãng sanh. Hay nói cách khác đó là liệt nêu các trạng thái của phương pháp tu tán thiện. Vì trọng tâm nêu lên hành tướng của chín phẩm vãng sanh, nên có thể gọi ba pháp quán sau cùng trong mười sáu pháp quán là pháp môn tán thiện Tịnh độ.
Kế tiếp theo đây nói đến tu nghiệp vãng sanh. Đây là chỉ về tu thế phước, giới phước và hành phước. Hành giả Tịnh độ ba thứ phước này đầy đủ thì được vãng sanh. Đây cũng là pháp hạnh tư lương của ba phẩm thượng và ba phẩm trung.
Nếu tu tâm cầu vãng sanh thì hành giả phải đem tâm chí thành, thâm sâu tín niệm, phát nguyện hồi hướng vãng sanh Tịnh độ. Một khi thực hành đầy đủ như vậy thì được vãng sanh. Điều này hành giả nhứt tâm muốn được sanh về ba phẩm thượng mà khởi tâm tu.
Vì muốn cầu được ba phẩm thượng sanh mà hành giả phát tâm tu trì, quy hướng vãng sanh. Muốn đạt mục đích của tâm niệm vãng sanh phải do chính bản thân hành giả tự khích lệ cần tu, tự mình ở nơi bạn lành nghe được Phật, Pháp, Tăng rồi sanh tâm phấn khởi tán thán công đức của Phật A Di Đà, Bồ tát Quán Thế Âm và Đại Thế Chí cho đến khi lòng tha thiết cảm mến sự an vui vi diệu của cõi nước Tịnh độ. Rồi từ chỗ tán thán sanh hâm mộ một lòng quy hướng bằng cách niệm danh hiệu Phật, tụng kinh hoặc khen ngợi, lễ bái cầu được vãng sanh. Những công phu tu tập này chính là vun bồi nhơn địa của trung phẩm hạ sanh và ba phẩm hạ sanh. Tóm lại, hành giả tu Tịnh độ căn cứ vào pháp tướng tư lương và tâm nguyện hồi hướng, theo đó được cảm thọ tịnh nghiệp của mình đã tạo mà sở đắc phẩm vị vãng sanh.
Ngoài ra, theo Huệ Viễn Đại Sư phân loại căn cơ của người tu Tịnh độ được vãng sanh chín phẩm như sau: Thứ nhất, người được sanh về ba phẩm thượng là thuộc hạng căn cơ đại thừa. Thứ hai, người sanh về ba phẩm trung là thuộc hạng căn cơ tiểu thừa. Thứ ba, người sanh về ba phẩm hạ là thuộc hạng căn cơ người mới học đại thừa. Đặc biệt Huệ Viễn còn phân tích phẩm vị của mỗi hành giả tu Tịnh độ như sau:
1- Thượng phẩm thượng sanh là hạng Thuận Nhẫn Bồ tát thuộc quả vị Tứ địa, Ngũ địa, Lục địa.
2- Thượng phẩm trung sanh là hạng Tín Nhẫn Bồ tát thuộc quả vị Sơ địa, Nhị địa, Tam địa.
3- Thượng phẩm hạ sanh là hạng Tam Hiền Phục Nhẫn Bồ tát thuộc Thập trụ, Thập hạnh, Thập hồi hướng. Điều này tương đồng với Kinh Quán Vô Lượng Thọ khi kinh này thuyết minh về thượng phẩm thượng sanh có nói: “Hành giả sanh về cõi nước kia (Tây phương cực lạc) liền đó được Vô Sanh Pháp Nhẫn”. Đồng thời ở phần Ngũ Nhẫn của kinh Nhơn Vương Bát Nhã khi giải thích về thứ bực đẳng vị của Bồ tát cũng nói Thập trụ, Thập hạnh, Thập hồi hướng, ba đẳng vị này thuộc Tam Hiền Phục Nhẫn vị. Còn Sơ địa, Nhị địa, Tam địa thì thuộc Tín Nhẫn vị. Tứ địa, Ngũ địa, Lục địa thì thuộc về Nhu Thuận Nhẫn vị. Thất địa, Bát địa, Cửu địa thì thuộc về Vô Sanh Pháp Nhẫn vị. Đến như Cửu địa và Như Lai địa thì thuộc về Tịch Diệt Nhẫn vị.
Nếu căn cứ vào cách giải thích này thì Vô Sanh pháp Nhẫn chính là chỗ sở đắc của đại Bồ tát từ đệ thất địa trở lên. Hành giả chỉ cần vãng sanh về cõi nước Phật A Di Đà kia thì lập tức được quả vị Vô Sanh Pháp Nhẫn. Nói như thế có nghĩa là người này quyết được quả vị Nhu Thuận Nhẫn thuộc Tứ địa, Ngũ địa, Lục địa trong thập địa của Bồ tát. Tuy nhiên, hành giả khi sanh về Tịnh độ chẳng phải hẳn tức thời được Vô Sanh Pháp Nhẫn, mà hoặc có thể phải trải qua nhiều thời gian sau mới được, tùy theo năng lực phát tâm và nhân địa tu hành. Vả lại, chính Bổn Kinh cũng nói là căn tánh thù thắng mới được “tức thời”. Ở đây nói tức thời là đối với thượng phẩm trung sanh thuộc quả vị Tín nhẫn của Bồ tát Sơ địa, Nhị địa, Tam địa thì hành giả mới có khả năng tức thời chứng đắc Vô Sanh Pháp Nhẫn. Kinh nói người vãng sanh về thượng phẩm trung sanh của cõi Phật A Di Đà kia trải qua một tiểu kiếp chánh tâm tu hành thì được Vô Sanh Pháp Nhẫn, và sau đó được Nhẫn Vị của thượng phẩm thượng sanh.
Nhưng ở đây hành giả lại cần trải qua một hai tiểu kiếp chuyên tâm tịnh nghiệp mới được Vô Sanh Pháp Nhẫn. Nếu người có phước đức thù thắng thì chỉ cần một tiểu kiếp là đắc Vô Sanh Pháp Nhẫn. Còn người được thượng phẩm hạ sanh thì thuộc về quả vị Tam Hiền Phục Nhẫn Bồ tát. Ba quả vị này (Thập trụ, Thập hạnh, Thập hồi hướng) hành giả phải trải qua trước khi chứng đắc đến quả vị Thập Địa Bồ tát. Kinh nói hành giả được thượng phẩm hạ sanh thì phải trải qua ba tiểu kiếp mới đạt được bách pháp minh môn trụ Hoan Hỷ Địa.
Còn trung phẩm thượng sanh là thuộc hàng thánh giả của ba quả trước trong tứ quả Thanh văn, tức là chỗ an trụ của Tu Đà Hoàn, Tư Đà Hàm và A Na Hàm. Còn trung phẩm trung sanh là thuộc hạng nội phàm và ngoại phàm(7) trước khi kiến đạo. Trung phẩm hạ sanh là thuộc hạng thế tục phàm phu cảm thọ an trụ.
Trung phẩm thượng sanh thuộc hàng thánh giả, ba quả trước của Thanh văn. Kinh nói hạng người này khi vãng sanh về cõi nước Phật A Di Đà thì liền chứng được quả vị A la hán. Còn trung phẩm trung sanh là hạng nội phàm và ngoại phàm trước khi thấy đạo. Kinh nói hạng hành giả này khi sanh về cõi nước Tịnh độ trải qua bảy ngày thì đắc quả Tu Đà Hoàn, rồi trải qua nửa kiếp thì đắc quả A la hán. Còn hạng thế tục phàm phu sanh về trung phẩm hạ sanh thì như kinh nói hạng hành giả này khi vãng sanh về cõi cực lạc trải qua một tiểu kiếp thì đắc quả A la hán. Thời gian và số kiếp của quả vị này so với trung phẩm trung sanh có lâu dài hơn. Các hành giả ở quả vị trung phẩm hạ sanh này đều trải qua nhiều kiếp liên tục tu tịnh nghiệp mới thành tựu. Còn ba phẩm hạ sanh thì thuộc hàng phàm phu đã từng tu hạnh đại thừa, nhưng ngay trong đời này cũng đều là phàm phu chưa trải qua giai vị tu đạo. Bởi do tạo nghiệp tội nặng nhẹ mà theo đó cảm thọ ở vào phẩm vị thượng trung hạ của hạ phẩm hạ sanh.
Trên đây, Huệ Viễn Đại Sư căn cứ vào quả vị của hành giả sau khi vãng sanh để làm tiêu chuẩn xác định cho đẳng vị chín phẩm. Nhưng nếu y cứ vào phẩm Ngũ Nhẫn của kinh Nhơn Vương Bát Nhã thì hàng Vô Sanh Pháp Nhẫn Bồ tát thuộc Đệ Thất Địa trở lên mới được phẩm vị cao đẳng như vậy. Còn ba phẩm hạ sanh thì hành giả cũng phải tu đại thừa pháp mới được vãng sanh. Tuy nhiên, đây là luận thuyết do Huệ Viễn Đại Sư sở đắc liễu đạt giáo nghĩa thiết lập nên.
Theo Huệ Viễn thì Sơ Địa Bồ tát trở lên thì được vào Chơn Tịnh độ, thấy được Chơn Thân Phật. Như Tứ Địa, Ngũ Địa, Lục Địa Bồ tát thì được sanh thượng phẩm trung sanh như trên đã nói.
Một cách tổng quát, dù sao đi nữa, hễ người phát tâm thành ý dũng chí tu tịnh nghiệp niệm Phật, tin Tịnh độ, thâm tín cầu sanh Tịnh độ thì chậm mau gì nhứt định cũng được vãng sanh về thế giới cực lạc.
CHÚ THÍCH:
[1] Chúng sanh tùy nghiệp mà thọ quả báo trong sáu nẻo luân hồi, thân hình sai khác, thọ mạng ngắn dài không nhất định. Đại Thừa Nghĩa Chương quyển tám nói: Chúng sanh tạo nghiệp luân hồi trong sáu nẻo ba đời chịu quả báo sai khác, sanh rồi chết, chết sống nối tiếp không cùng, gọi là phần đoạn sanh tử.
[2] Tất cả chúng sanh do ba nghiệp thân miệng ý tạo tác, vọng nghiệp chiêu cảm, sanh mê chết muội, sanh chết chết sanh, sanh sanh chết chết không dứt, như vòng lửa đỏ quay cuồng, đời này mang hình thức này, đời sau mang hình thức khác, tùy nghiệp thọ thân, luân lưu ba cõi sáu đường, ba đời liên tục không thôi. Tứ quả Thanh văn tuy đã dứt vòng luân hồi, nhưng vẫn còn tâm vi tế chấp ngã chấp pháp nên thấy có thân hoại pháp diệt mà sanh tâm sợ sệt. Biến dịch sanh tử là trạng thái đổi thay vi tế nhẹ nhàng, đây chỉ cho hàng thánh giả Nhị thừa.
[3] Tám pháp này Bồ tát hành trì đầy đủ. Tám pháp là: Tín tâm kiên cố; tâm trung thực chân thật; thân không bệnh khổ; chuyên cần tinh tấn; tâm niệm tự lợi, lợi tha; tâm không kiêu mạn; định tâm thành tựu kiên cố; theo âm thanh mà sanh trí huệ, đầy đủ công đức lành.
[4] Là tu pháp quán mặt trời lặn. Hành giả tu Tịnh độ quán hình dáng mặt trời sắp lặn như cái trống treo giữa hư không, như hào quang của Phật xoay vần chiếu diệu. Hành giả chú tâm vào đó nhìn quán điều phục tâm, tập trung tư tưởng đến chỗ nhứt tâm bất loạn. Đây là một trong mười sáu pháp quán của pháp môn tu Tịnh độ mà Đức Phật đã dạy cho Hoàng Hậu Vi Đề Hi. Pháp quán này có ba ý nghĩa: Thứ nhất là tập trung tư tưởng để đi sâu vào định. Thứ hai là vãng sanh về cảnh giới Phật A Di Đà ở Tây phương. Thứ ba là hành giả ngồi nơi thanh vắng hướng về mặt trời lặn phương Tây cực lạc, quán xem thân tâm này bất tịnh giả tạo, cầu được thân tâm thanh tịnh chắc thật.
[5] Đây là pháp quán của hành giả tu Tịnh độ cầu sanh cõi nước cực lạc của Phật A Di Đà do hoàng Hậu Vi Đề Hi cầu Phật chỉ dạy:
– Quán mặt trời sắp lặn
– Quán nước lắng trong
– Quán đất sạch như lưu ly cõi cực lạc
– Quán tưởng thấy cây báu bảy cõi cực lạc
– Quán tưởng tám nước công đức
– Quán tưởng thấy các cảnh đất, cây, ao báu cõi cực lạc
– Quán thấy chín phẩm sen vàng
– Quán tưởng thấy đức Phật A Di Đà ngồi trên tòa sen hào quang rực sáng, Quán Thế Âm Bồ tát ngồi tòa sen bên trái và Đại Thế Chí Bồ tát ngồi tòa sen bên mặt.
– Quán tưởng thấy rõ thân Phật A Di Đà đức tướng trang nghiêm hào quang sáng ngời.
– Quán thấy rõ sắc thân Bồ tát Quán Thế Âm
– Quán thấy rõ sắc thân Bồ tát Đại Thế Chí