TỊNH ĐỘ ĐẠI THỪA TƯ TƯỞNG LUẬN
Nguyên Tác: Đại Sư Ấn Thuận
Dịch Giải: Thích Đức Niệm
CHƯƠNG BỐN
ĐÔNG PHƯƠNG TỊNH ĐỘ
I. DUYÊN KHỞI VỀ CÁC CẢNH GIỚI
1- Động Cơ Giảng Thuyết Về Cảnh Giới
Trong giới Phật giáo đều biết rõ Tịnh độ. Mỗi khi nói đến Tịnh độ đều chủ yếu là thế giới Tây phương cực lạc của Phật A Di Đà, tức là cõi Tây phương Tịnh độ. Kinh Phật nói: Mười phương đều có Tịnh độ. Đối lại với cõi Tây phương Tịnh độ của Phật A Di Đà thì có cõi Đông phương Tịnh độ của Phật Dược Sư.
Đông phương Tịnh độ không như Tây phương Tịnh độ chú trọng về việc sau khi chết vãng sanh. Đông phương Tịnh độ không những chỉ nói đến sau khi chết vãng sanh Tịnh độ mà lại còn nói nhờ Phật lực gia hộ sau khi chết ác nghiệp tiêu trừ sanh về cõi người hoặc cõi trời để tu học đại thừa. Đặc biệt hơn nữa chú trọng đến lợi ích an lạc hiện đời khi còn sinh hoạt trên cõi trần gian. Điều này đối với tinh thần đại thừa Bồ tát lợi ích nhơn gian thiết thực cần nên được phát triển.
Lại nữa ngoài ra còn có động cơ để thuyết giải vấn đề này nghĩa là Phật giáo không những chỉ đặt nặng vấn đề giải thoát an vui nơi cõi cực lạc mà còn rất chú trọng đến sự tu dưỡng để tạo sự an lạc hạnh phúc khi còn sống nơi trần gian. Hiện đời với nếp sống phiền não đầy tội lỗi thì làm sao sau khi chết được vãng sanh an lạc?
2- Lược Nói Ý Nghĩa Tôn Giáo: Đối với tôn giáo, thường thì mỗi người có quan niệm, có cách hiểu khác nhau, hoặc hiểu một cách nông cạn, hoặc hiểu một cách thiên kiến nhầm lẫn nên ở đây xin lược giải vài điều.
Tôn giáo là tiếng gọi chung cho tất cả hình thức tín ngưỡng của các dân tộc trong những quốc gia qua các thời đại. Cho dù giáo lý, mục đích, phương thức tổ chức của các tôn giáo không đồng nhau, nhưng đều có hình thức tôn giáo. Tôn giáo nào càng lâu thì càng rộng, càng thấm sâu vào lòng người, càng là căn nguyên sanh nhiều mê tín, mà khách quan chúng ta không thể xem thường điều này. Huống nữa, tôn giáo còn biểu trưng cho ý nghĩa sùng cao của kiếp sống con người, vả lại đó lá con đường cuối cùng phải hướng đến. Quan niệm về tôn giáo lược nói có ba điểm:
a- Đối tượng tín ngưỡng tôn giáo: Sự quan hệ giữa cảnh giới và con người tiếp xúc sinh sống hằng ngày tức là nhơn loại y nơi hoàn cảnh tiếp xúc mà tưởng tượng ra đối tượng tín ngưỡng. Chúng ta đang sống trong thế gian, danh từ Phật học gọi là Khí thế gian, tức vạn tượng trên quả địa cầu, hằng ngày chúng ta nhìn lên hư không thấy quãng trời xanh bao la, mặt trời mặt trăng lặn mọc, ánh sáng ẩm mát, gió mưa sấm sét, núi rừng cỏ cây những hiện tượng thiên nhiên v.v…và gia đình bộ lạc, quốc gia, những hình thái tổ chức xã hội rồi đến hoạt động của thân tâm. Hằng ngày người ta tiếp xúc với những hiện tượng này, vô hình chung tạo cho con người có quan niệm tôn giáo. Điều này có nghĩa là hằng ngày chúng ta tiếp xúc với hoàn cảnh không luận là tự nhiên giới hay là xã hội giới, tự ngã cảm thấy có năng lực sức mạnh nào đó hạn chế tất cả khả năng con người từ đó biểu hiện ra ý niệm vũ trụ bao la, xã hội luật lệ, bản thân phạm vi. Nghĩa là mỗi hiện tượng trong cõi đời đều có phạm vi hoạt động của nó. Như mặt trời mặt trăng mỗi ngày mọc phương Đông lặn phương Tây, bốn mùa hạ đi thu đến đều có quy luật nhất định. Tất cả xã hội nhơn loại đều có định luật vô hình quy định phạm vi, tợ hồ đều không phải là ý chí cá nhân hoặc đại chúng có năng lực cải biến được. Kỳ thực trước kia khi con người kém văn minh thường cho rằng có những điều không thể biết, nhưng ngày nay thì rất nhiều hiện tượng trong vũ trụ được khám phá, từ đó cho rằng có thể biết, có khả năng biết. Đây chỉ mới là trong ý thức tự ngã tưởng tượng. Nhưng tiềm tàng trong tâm thức của con người vẫn cảm thấy có một hoặc nhiều sức mạnh to lớn làm chủ thể tất cả. Nói là ý thức tự ngã tưởng tượng có nghĩa là nói chiều theo tự ngã ý chí chủ thể tánh tự do chi phối tưởng tượng, nhưng khi tiếp xúc với cảnh giới thì khi đó cảm thấy có cái gì siêu việt cao thượng hoặc một cái gì thâm sâu ẩn tàng bên trong, nó có năng lực tự do tự tại hữu hạn chi phối quản lý tất cả. Đây là điều từ xưa đến nay khiến cho con người có quan niệm tôn giáo. Ấy là nguyên nhân sâu xa tạo nên quan niệm tôn giáo của nhơn loại.
Cùng tột đối tượng tôn giáo của con người là gì? Đối với vấn đề này mỗi lý thuyết mỗi khác. Nhưng tựu trung tợ hồ ai cũng đều cảm thấy một hoặc nhiều sức mạnh tồn tại, chủ thể tất cả, quy định phạm vi tất cả, khiến tất cả đều như thế, không như thế thì không được. Đây là tự ngoại giới mà phát sanh ra ý thức tôn giáo, là căn nguyên lớn nhất để hình thành quan niệm tôn giáo. Do hoàn cảnh bất đồng, dẫn đến chú ý đối tượng bất đồng, nên đưa đến tôn giáo tín ngưỡng bất đồng. Như ở gần nước thì sùng bái thủy thần; ở gần núi thì sùng bái sơn thần; ở ruộng vườn thì sùng bái thổ địa. Ở Ấn Độ nóng, rắn độc nhiều, nên sùng bái thần rắn. Lại có người sùng bái mặt trời, mặt trăng, tinh tú, cùng những hiện tượng thiên thể v.v… Lại có người sùng bái Thành Hoàng, tổ tiên. Thậm chí có hạng người sùng bái sơn tinh, mộc quái, hồ ly v.v… Nhưng trong quá trình tiến bộ tri thức của nhân loại, việc sùng bái các động vật suy tàn trở thành lạc hậu. Bởi đây có tính cách cục bộ, thiếu tính cách linh thiêng cụ thể. Nhưng tổ tông của nhơn loại, hoặc chúa tể của thế giới, cho đến hiện tượng của không trung tạo thành ý niệm có vị thần vĩ đại nào đó trùm khắp tất cả. Và điều nàỵ mới là hình thành tín ngưỡng lâu. Có quan niệm cho rằng mặt trời, mặt trăng, cây, đá, núi sông có cái gì đáng để mà tin. Tin như vậy đều là mê tín. Nhưng đâu có biết rằng đây không chỉ sùng bái những sự vật kia mà là sùng bái tất cả như thế để rồi hình thành quy luật như thế, đưa đến ý thức tổng thể vạn năng sanh thành của đấng thần linh nào đó. Ấy là căn nguyên của ý niệm tôn giáo nhân loại.
b- Tôn giáo không chỉ do hoàn cảnh phát sanh mà chủ yếu là do ý muốn của tôn giáo: Chính bản thân con người, tự nhiên và xã hội chu cấp rồi cũng lại chính những thứ này ràng buộc. Có sanh thì có già chết; có mạnh khỏe thì có tật bệnh; có thương yêu thì có oán hờn; có đoàn tụ thì có phân tán; có mừng vui thì có buồn khổ. Không có những thứ này thì không có nghĩa cuộc đời. Mà chính những thứ này trói buộc con người không được tự tại.
Như những gì có lợi cho con người thì con người khởi sanh ý niệm ỷ lại thế lực bên ngoài nào đó rồi khởi ý niệm cám ơn và khen ngợi, tưởng tượng như có thiện thần. Trái lại, nếu chẳng may có điều gì trói buộc chướng ngại cho con người thì con người khởi sanh ý tưởng sợ sệt, chán ghét, rồi sanh ra cảm nghĩ đối ngoại có thế lực siêu việt nào đó, tưởng tượng có thần linh đang giận dữ hay một oan hồn xấu ác tác hại. Con người luôn luôn ở trong vòng trối buộc lớp lớp, nhìn vào hiện thực thì bất mãn hiện thực, còn có ý chí tự do muốn vươn lên hiện thực thì lại sanh khởi ý niệm ỷ lại tôn giáo siêu việt. Ý nghĩ của con người thì mông lung mê muội thiên chấp cầu tha lực, sùng tín ỷ lại thiên thần hỗ trợ mong lìa khổ được vui vĩnh hằng khoái lạc. May mắn thay, tri thức nhơn loại ngày một tiến bộ, thấu rõ sự thật thần linh là hư ngụy, biết tự chính bản thân với khả năng mình để đối diện hiện thực xã hội tự nhiên để cầu siêu thoát, rồi từ đó tìm phương để giải quyết những ràng buộc chướng ngại, không còn ý niệm ỷ lại thần linh thần quyền ngoại tại. Con người truy cầu tìm hiểu căn nguyên sâu xa của sự câu thúc trở ngại làm cho con người không được tự tại, từ đó mới hiểu ra căn nguyên của phiền não trói buộc là do chính tự bản thân ngu muội mới dẫn đến tư tưởng mê lầm, hành vi sai quấy. Nhơn đó, con người mới nhận chân ý nghĩa chân chánh về tôn giáo là phải bắt đầu từ thân tâm thanh tịnh, trí năng đức tánh khai triển, tất cả khế hợp chánh lý. Chỉ có nội tâm trí huệ khai phát, đức tánh cao minh, năng lực quảng đại, thuận theo luật thiên nhiên vũ trụ nhơn sanh — chơn lý – mới có thể không chịu sự hạn chế trói buộc của hoàn cảnh, mới siêu việt hiện thực. Điều này bao hàm hai phương diện: một là tự thân hoàn thiện triệt để, hai là thực hiện lý tưởng thế giới Tịnh độ. Đây có nghĩa là bản thân hoàn thành tịnh hóa ý dục. Thần giáo thì biểu hiện thần và thiên đàng. Họ không thấu biết ý nghĩa sâu xa rằng, thân chính là khách quan hóa ý dục của mình, còn sự tưởng tượng là chủ tể của vũ trụ. Nên cũng có thể định nghĩa Ngã chính là chủ tể vũ trụ. Tín đồ thần giáo không biết nguyên tắc căn bản về lý tưởng thực hiện thiên đàng chính là cần phải tịnh hóa bản thân chứ không ỷ vào thiên thần chuẩn bị lo cho, cũng không phải thiên thần tự ý cho. Tri thức nhân loại không ngừng phát triển, từ quan niệm mê mờ ỷ lại thần quyền của tôn giáo, con người nhận ra rằng muốn được an lạc thì phải ngay trong đời sống hiện tại này tịnh hóa bản thân vượt thoát thần quyền tôn giáo ràng buộc để tạo cho ngay chính bản thân hiện đời sự an lạc, thì mới có thể hưởng được sự an lạc của thiên đàng. Siêu thoát ra ngoài lớp lớp ràng buộc để đạt đến chơn bình đẳng tự do. Đối nội tâm mà nói thì năng lực trí huệ, từ bi viên thành là khuynh hướng cao thượng để đạt thành lý tưởng tôn giáo. Tôn giáo chơn chánh luôn luôn cổ lệ nhơn loại tịnh hóa nội tâm phát triển tình thương và trí tuệ. Đây là lý tưởng của các tôn giáo cao thượng siêu thoát. Đặc biệt Phật giáo triệt để biểu đạt thanh triết không có mê muội như thần giáo chỉ ỷ lại thần quyền vu vơ, mà không lo rửa bợn nhơ của chính bản thân mình. Chẳng qua khi nói đến sự tịnh hóa nội tâm thì mỗi tôn giáo có sự khác biệt. Có tôn giáo chú trọng trí huệ, có tôn giáo chú trọng nhơn ái, có tôn giáo chú trọng tín nguyện, có tôn giáo chú trọng trí chứng, có tôn giáo chú trọng tịnh hóa nội tâm, có tôn giáo chú trọng thân thể sống lâu. Nhơn đó mà thành ra trọng tâm khác biệt giữa các tôn giáo, tức là tôn giáo phiến diện không hoàn thiện. Chỉ có đức tánh của thân tâm phát triển tràn đầy, không rơi vào sai lạc bên này, bên khác thì mới là tôn giáo hoàn toàn viên mãn chơn thiện mỹ.
c- Do hoàn cảnh khải phát nội tâm ý dục hướng thượng cũng chưa hẳn nhứt định thành tôn giáo: Tôn giáo có là do nơi đặc thù kinh nghiệm. Có thể nói rằng tất cả tôn giáo đều có một loại đặc thù kinh nghiệm nào đó làm trụ cột chi phối. Chẳng hạn như nói về quỷ, có số người chưa thấy quỷ bao giờ, như khi nghe nói đến thì họ tỏ ra như là quen thuộc đã từng biết qua, điều này thực do ở quá khứ có người khác từng đã kinh nghiệm thấy qua rồi đồn đãi rộng xa trải qua nhiều đời thành quen. Việc này có thể là nhầm lẫn tưởng tượng cũng có thể là chơn thật. Nhưng bằng vào kinh nghiệm của chính bản thân mà nói ra với đầy tín tâm chắc chắn làm tăng cường lòng tín của người khác. Cũng như tín đồ của thần giáo lúc thường hay lúc cầu nguyện thấy Giê Su hoặc Maria v.v… Cũng hiện tượng này Phật tử tín Phật, niệm Phật thấy Phật Bồ tát, tham thiền có kinh nghiệm ngộ nhập. Những điều này phải chăng là chính xác? Thật ra vẫn chưa xác quyết là đúng, cũng có thể là hiện trạng thấy dây tưởng là rắn. Nhưng qua kinh nghiệm cho thấy rằng, không luận là đúng hay không đúng nhưng căn cứ vào kinh nghiệm giống như đây mà nói thì những điều trình bày trên rất là chân thật. Tuy nhiên những kinh nghiệm tôn giáo này chánh tà cạn sâu không giống nhau. Một khi chánh giác càng thuần chánh, càng viên mãn thì mới có thể chỉ rõ sự lầm lẫn cạn sâu dày mỏng đúng sai. Tóm lại, tôn giáo là do ý dục nội tâm hướng thượng của nhơn loại trong mọi hoàn cảnh bất đồng mà sanh khởi trải qua các thứ kinh nghiệm đặc thù khai triển mà hình thành.
II. ĐÔNG PHƯƠNG TỊNH ĐỘ LÀ CÕI TRỜI THANH TỊNH HÓA.
1- Phật Và Bồ tát Y Nơi Đức Lập Danh: Đối với luận đề này trước hết cần phải nói rõ: tôn giáo nhất định phải có đối tượng sùng kính. Điều này không ngoài hai thứ nhơn và pháp. Căn cứ vào những tôn giáo có tánh cách cao thượng mà nói thì pháp còn gọi là đạo, là chân lý tối cao vĩnh hằng khắp cả, tức là chân lý tuyệt đối. Người ư? Với đầy đủ nhân cách. Người có ý chí thần tính, cho thần là chân lý tuyệt đối. Tất cả đều do con người tưởng tuợng mà không có thực thể? Như người Do Thái tin Jehovah là Thượng đế. Hồi giáo sùng tín Allah là Thượng đế. Có những vị bằng da bằng thịt hiện sống cõi nhơn gian này được người tin tưởng tôn xưng đó là thần nhơn tượng trưng cho chơn lý tuyệt đối để tiêu biểu hiện thực dẫn đạo cho thế nhơn quy hướng, chẳng hạn như Jésus Christ. Những hiện tượng này bắt nguồn từ sự tưởng tượng của các thần giáo đồ. Phật giáo thì không phải như thế. Phật giáo chú trọng nơi con người. Con người hướng thượng huân tu chỉnh nơi xác thịt xương này đạt đạo thể hiện chân lý. Như Thái tử Tất Đạt Đa chuyên tâm hướng thượng tu hành thành đạo giác ngộ thể hiện chân lý. Như vậy, Phật là con người do công phu tu tập đạt đạo thể hiện chân lý tuyệt đối viên mãn. Cho đến Bồ tát, Thanh văn, thánh chúng v.v… cũng là con người do công phu tu tập mà thể hiện từng phần chân lý. Do vậy, tín đồ Phật giáo sùng kính tín ngưỡng Phật, Bồ tát trên hình thức tương tợ như tín đồ Gia Tô sùng kính tín ngưỡng Jésus Christ, nhưng trên thực chất tinh thần hoàn toàn không giống nhau. Sùng kính tín ngưỡng Phật, Bồ tát là lấy gương Phật, Bồ tát làm lý tưởng mô phạm, từ đó để sách tấn tự thân tinh tiến thể hiện chân lý Phật, và mọi người cuối cùng đều có thể đạt đến cảnh giới Phật, như Phật; tức là đạt đến bình đẳng, tự do giải thoát, giác ngộ tuyệt đối.
Sự tín ngưỡng Phật và Bồ tát đều y cứ vào đức hạnh mà thành danh xưng. Đây hoặc là do thánh đức sùng cao mà lập danh biểu hiện tánh cách của Phật Bồ tát. Như Bồ tát Di Lặc thể hiện đức tánh từ. Bồ tát Thường Tinh Tấn là biểu hiện đức tánh vĩnh hằng cố gắng nỗ lực hướng thượng. Hoặc giả thủ tượng tự nhiên giới, nhơn sự giới cho đến các thứ thánh đức tôn kính của chúng sanh giới nào đó mà lập danh xưng của Phật Bồ tát. Chẳng hạn như thủ tượng tự nhiên giới như Tu Di Tướng Phật tượng trưng cho trí đức sùng cao. Lôi Âm Vương Phật thì biểu hiện cho pháp âm của Phật cảm động nhơn tâm. Thủ tượng nơi nhơn sự giới như Dược Vương Phật là biểu tượng đức Phật này hay cứu trị phiền não, nghiệp khổ tức là cứu trị sanh tử trọng bệnh. Đạo sư Bồ tát là tượng trưng hay dẫn đạo chúng sanh xa lìa hiểm ác đạt đến mục đích an lành. Thủ tượng chúng sanh giới như Hương Tượng Bồ tát, Sư Tử Hống Bồ tát v.v… Trong đây y thiên giới mà lập danh xưng như Lôi Âm Bồ tát, Diệu Đức Bồ tát, Nhựt Quang Phật, Nguyệt Quang Phật v.v… rất giống với thần giáo nhưng thực chất không đồng. Có thể nói đây là thuận theo thiên giới của thần giáo mà lập danh xưng. Điều này có thể hiển bày cùng cực ý nghĩa tín ngưỡng thiên thần, nhưng thực sự hàm dưỡng ý nghĩa tịnh hóa mê lầm của thần giới biểu chương đức tánh đặc thù của Phật, Bồ tát.
2- Thiên Giới Và Giác Ngộ: Đông phương Tịnh độ lấy trời sanh làm lãnh thổ. Đây là ứng thuận theo tín ngưỡng thiên giới của chúng sanh mà biểu hiện thánh đức của Phật, Bồ tát. Ấn Độ gọi là Đề Bà, Trung Hoa dịch nghĩa là Quang Minh. Không luận là ban ngày hay ban đêm ánh sáng của mặt trời, mặt trăng và những vì sao lúc nào cũng từ thiên không chiếu diệu. Ngước mắt lên trời xa nhìn thấy trời là thể sáng. Người ta nhìn lên bầu trời xanh thẳm sáng lạn thì tưởng đó là đấng thần linh vĩ đại. Vì vậy quan niệm về trời của người Ấn Độ cùng với ý nghĩa thần gần nhau. Đề Bà là tiếng danh xưng của Ấn Độ về trời có nghĩa là quang minh hỷ lạc đối lại với đất – địa ngục có nghĩa là hắc ám thống khổ. Trong Phật giáo sự sùng kính các thánh nhơn không giống như các tín đồ thần giáo sùng kính thần tưởng tượng, mà đối với Phật giáo Phật là Phật, Bồ tát, Thanh văn…là những bậc thánh giả có vô lượng thanh tịnh công đức. Vả lại, đặc tánh thánh giả là giác và tuệ, phước và đức. Đoạn phiền não, chứng chân lý là do sự hiện chứng Bát Nhã, mà Bát Nhã là trí tuệ tức là ánh quang minh. Phiền não đối với Bát Nhã là vô minh hắc ám. Cũng như Phật Đà có nghĩa là giác ngộ. Bồ tát là chúng sanh có phần giác ngộ. Những thánh giả Thanh văn Duyên giác cũng là những nhân vật đã đắc thành chánh giác. Thánh giả trong ba thừa đều là người giác, người quang minh. Người giác, người quang minh là người sáng tỏ chân như, suốt thông không tánh, thể nhập pháp giới. Pháp tánh là bổn tánh thanh tịnh do huệ quang mà giác chứng. Cũng do thanh tịnh pháp tánh mà biểu hiện huệ quang Bát Nhã. Vì vậy chơn như pháp tánh cũng gọi là thiên tánh, hay đệ nhứt nghĩa thiên tánh. Như Kinh Niết Bàn nói thiên hạnh trong ngũ hạnh. Thiên hạnh là đại hạnh của thánh giả chánh giác. Cái giác của bậc thánh giả tương tợ cái minh của các thiên thần. Vì thế, nên Kinh Hoa Nghiêm Phẩm Thế Chủ Diệu Nghiêm các đại Bồ tát thị hiện thiên thần. Đặc tánh của thiên (trời) là sáng. Những người thông thường theo ánh sáng đó tưởng tượng cho là trời. Bậc thánh giả giác chứng pháp tánh thanh tịnh cũng gọi là tâm thanh tánh tịnh, tâm quang minh tánh, mà biểu hiện huệ quang. Phật y nơi hiện tượng thế tục của thiên giới mà quét trừ ý nghĩa thần giáo để biểu trưng huệ chứng chân lý của thánh giả.
Đức Phật cõi Đông phương Tịnh độ tên là Lưu Ly Quang Phật. Lưu Ly nói cho đủ là Tỳ Lưu Ly dịch là Viễn Sơn Bảo hoặc là Thanh Đắc Bảo. Ở giữa tiểu thế giới có núi Tu Di rất cao, bốn mặt núi này do bốn thứ quý báu tạo thành. Mặt Nam do Tỳ Lưu Ly Bảo tạo thành. Do đó chúng ta cõi Nam Diêm Phù Đề này ngước mặt lên không trung nhìn thấy khoảng không sắc xanh bao la. Bầu trời trong xanh là Lưu Ly Bảo Quang của Tu Di Sơn phản xạ mà hình thành. Đông phương Tịnh độ là do thế tục cộng chung màu trời xanh không trung biểu hiện đức tánh của Phật mà thành danh xưng là Tỳ Lưu Ly Quang.
Mỗi đức Phật đều có hai đại đệ tử trợ giúp Phật hoằng dương giáo hóa. Như đức Thích Ca có Ngài Xá Lợi Phất và Mục Kiền Liên. Đức Phật Tỳ Lô Giá Na có hai đại sĩ Văn Thù và Phổ Hiền. Đức Phật A Di Đà có hai Bồ tát Quán Thế Âm và Đại Thế Chí. Hiện nay đức Phật Dược Sư Lưu Ly Quang giáo chủ Đông phương Tịnh độ cũng có hai đại Bồ tát là Nhựt Quang Biến Chiếu và Nguyệt Quang Biến Chiếu đều là bực thượng thủ của vô lượng vô số chúng Bồ tát kia. Đây là lấy ánh sáng mặt trăng mặt trời thiên không hàm dụ ý nghĩa. Tất cả ánh quang minh trong cõi trời đất, mặt trăng mặt trời là to lớn sáng lạn nhất. Không gì sánh bằng, xưa nay được nhơn loại làm đối tượng sùng bái. Bồ tát hai bên tả hữu của Phật trợ Phật giáo hóa đều y đây lập danh: Những dữ kiện này cho ta biết các Ngài là bậc thượng thủ của tất cả các Bồ tát. Các tòng lâm tự viện Trung Hoa có tập tục cứ đến đêm Trung Thu là lễ bái Nguyệt Quang Biến Chiếu Bồ tát. Ánh sáng nhựt nguyệt đối với nhân loại đặc tánh, công dụng bất đồng. Ánh sáng mặt nhựt thì nóng, đem lại cho con người sự ấm áp, tăng cường năng lực mạng sống. Trong Phật pháp mỗi khi pháp dụ thường dùng ánh sáng mặt trời làm thí dụ. Ánh sáng mặt trăng êm dịu mát mẻ thoải mái khiến cho người trong đêm tăm tối tiêu trừ sự sợ hãi.
Nhất là những vùng nhiệt đới nóng bức, khí mặt trăng lên, gió mát đến thì thật là lúc trừ được nóng bức, lòng cảm thấy an lành phơi phới. Trong Phật pháp thường dụ mặt trăng là biểu hiện cho từ bi an ủi chúng sanh. Đây là lấy ánh sáng mặt trăng mặt trời để biểu hiện hai đức tánh của hai đại Bồ tát thường hầu hai bên Phật để hỗ trợ Phật giáo hóa.
Trong cõi Đông phương Tịnh độ trừ hai vị đại Bồ tát thường trực trợ Phật Dược Sư hóa đạo ra còn có tám vị đại Bồ tát. Như kinh nói: “Văn Thù Sư Lợi Bồ tát, Quán Thế Âm Bồ tát, Đại Thế Chí Bồ tát, Vô Tận Ý Bồ tát, Bảo Đàn Hoa Bồ tát, Dược Vương Bồ tát, Dược Thượng Bồ tát, Di Lặc Bồ tát Tám vị đại Bồ tát này cưỡi hư không mà đến chỉ bày đường đạo kia”, căn cứ kinh Phật nóị: người muốn sanh về cõi Đông phương Tịnh độ mà còn do dự chẳng quyết định thì tám vị đại Bồ tát này thường hay đến hướng đạo khiến cho người ấy được vãng sanh.
Tại sao Đông phương Tịnh độ chỉ có tám vị đại Bồ tát mà không phải là bảy vị hay chín vị? Điều này nên thủ pháp ở thiên giới. Nguyên lai là lấy Thái Dương hệ là hành tinh trung tâm, nên có chín hành tinh: Thủy Tinh, Kim Tinh, Địa Cầu, Hỏa Tinh, Mộc Tinh, Thổ Tinh, Thiên Vương Tinh, Hải Vương Tinh, Minh Vương Tinh. Trước kia chỉ có tám đại hành tinh thôi, về sau lại phát hiện thêm Minh Vương Tinh, nên tổng cộng là chín đại hành tinh. Trung Hoa nói ngũ hành tinh cũng không ngoài những thứ này. Hiện tại đứng ở thế giới địa cầu này mà nói về Đông phương Tịnh độ, thì trừ địa cầu ra còn có tám đại hành tinh vận hành trong thiên giới. Nói cách khác, trừ mặt trời, mặt trăng ra còn có tám đại minh tinh cùng với thế giới của chúng ta đây quan hệ rất là mật thiết. Y vào nghĩa đây, mà luận cho ta thấy, trừ hai vị đại Bồ tát Nhựt Quang Biến Chiếu, Nguyệt Quang Biến Chiếu ra còn có tám vị đại Bồ tát hộ trì Đông phương Tịnh độ. “Tám vị đại Bồ tát nương hư không mà đến” thì làm thế nào thuyết minh để đả thông điểm này.
Ngoài việc này ra còn có mười hai Dược Xoa đại tướng: Cung Tỳ La, Phạt Chiếc La, Mê Xí La, An Để La, Át Nể La, San Để La, Nhơn Đạt La, Bát Di La, Ma Hổ La, Chơn Đạt La, Chiêu Thổ La, Tỳ Yết La, mỗi vị Dược Xoa đại tướng lại có bảy ngàn quyến thuộc cộng tất cả là tám vạn bốn ngàn. Tám vạn bốn ngàn là biểu trưng cho con số tất cả, như con số tám vạn bốn ngàn phiền não là tượng trưng cho tất cả phiền não, tám vạn bốn ngàn pháp môn là tượng trưng cho tất cả pháp môn. Từ ý nghĩa này, đứng về thiên giới mà nói thì tám vạn bốn ngàn quyến thuộc của mỗi Dạ Xoa đại tướng tức là tượng trưng tất cả ngôi sao nhỏ, tất cả ánh quang minh. Như thế thì lãnh đạo tất cả ngôi sao nhỏ là Dược Xoa ư? Trung Hoa cũng như Ấn Độ phân thời gian làm mười hai thời phối hợp với Tý Sửu Dần Mẹo Thìn Tỵ Ngọ Mùi Thân Dậu Tuất Hợi. Đông phương gọi là mười hai cung. Địa cầu vận hành quanh mặt trời, trong phạm vi chuyển động gọi là Hoàng Đạo Đới. Trong Hoàng Đạo Đới làm cho người chú ý nhất là mười hai thời, bốn phương, mỗi phương đều có ba con thú. Không luận là Đông phương hay Ấn Độ đều lấy loài vật để xưng hô con số mười hai này. Đối với thuyết mười hai thời này, trong Phật pháp như kinh Đại Tập ở phần Hư Không Mục nói: “Có mười hai vị Bồ tát ở trong bốn mặt núi ẩn tu từ bi hạnh, đều hiện súc sanh tướng. Như mặt phương Nam thì tướng rắn, ngựa, dê; mặt phương Tây thì gà, khỉ, chó; mặt phương Bắc thì heo, chuột, trâu; mặt phương Đông là rồng, voi, sư tử. Điều này đối với truyền thuyết Trung Hoa mười hai con thú chỉ có khác thay là cọp và sư tử thế thôi. Mười hai Dược Xoa đại tướng lấy voi ở trong mười hai sao Hoàng Đạo Đới, mà mỗi Dược Xoa đại tướng thống lãnh bảy ngàn quyến thuộc cộng là tám vạn bốn ngàn. Con số tám vạn bốn ngàn này tượng trưng cho tất cả sao sáng. Tất cả sao quang minh này là Bồ tát.
Đông phương Tịnh độ là thiên giới tịnh hóa, điều này rất rõ ràng. Như Thái Hư Đại Sư nói: Tịnh độ đều là thiên quốc được tịnh hóa, mà Phật và Bồ tát lấy Phật pháp để hướng đạo giáo hóa thành cõi thanh tịnh. Điểm này rất khác biệt với thần giáo tưởng tượng cõi thiên đàng do thần linh sáng lập, tin thần linh là được dự vào thiên đàng không cần phải tu tinh thân tâm, cũng không phải thấm nhuần sự giáo hóa.
3- Bản Chất Thánh Tánh Hiển Hiện: Đặc tánh của các bậc thánh giả là giác, tức là sáng. Chính vì vậy dùng ánh quang minh của thiên giới để thí dụ Phật Bồ tát và cõi Tịnh độ. Nhưng chỉ cứ vào thiên giới chỉ bày thánh tánh, truy cứu bản chất của thánh tánh thì quyết không đúng. Bởi vì hiện tượng của nhựt nguyệt ngàn sao có tánh hữu hạn lượng có thể sánh kịp, mà chỉ có hư không sáng tịnh vô hạn lượng mới có thể ví dụ được với đặc tánh tịnh sáng của các bậc thánh giả. Kinh Dược Sư nói: Cõi Phật là thế giới thanh tịnh lưu ly, xưng Phật là Lưu Ly Quang Phật. Đây đều là lấy quảng thiên không bao la của chúng ta đang thấy để ví dụ giảng thuyết. Phật thì xứng với pháp tánh, thể hiện minh giác, như như trí, bình đẳng bất nhị, nhơn và pháp không hai. Đứng về mặt chánh pháp tánh tức Thường Tịch Quang Độ mà nói thì xưng là cõi Tịnh Lưu Ly. Nêu đứng về năng chứng tức là pháp thân mà nói thì xưng là Phật Lưu Ly Quang. Kỳ thật, Phật là tuyệt diệt khái niệm đối đãi thể hiện thánh tánh như trí bình đẳng, siêu việt năng sở bỉ thử, số lượng v.v… Chúng ta xác tin một cách quả quyết rằng, Phật đã chỉ bày chỗ về rốt ráo của chúng ta là niết bàn, pháp thân. Không luận là niết bàn hay pháp thân trên danh ngôn tương đối thì thật là khó nói. Bất đắc dĩ chỉ có thể dùng hư không để làm ví dụ và cũng chỉ có tánh của hư không mới ít nhiều có thể khiến cho ta lãnh hội phần nào về đặc tánh tinh sáng vô biên giới của niết bàn và Pháp Thân. Như trong Kinh A Hàm, đức Phật nói về niết bàn rằng: “Sâu xa bao la rộng lớn, vô lượng vô số, vĩnh hằng tịnh sáng niết bàn”. Đây là câu nói ý nghĩa chủ yếu khai thị về đặc tánh niết bàn của đức Thích Ca.
Nếu đứng từ hiện thực sanh tử tồn tại (Hữu) và hiện trạng sanh khởi (Sanh) mà nói, thì niết bàn chẳng có sự sống chết, tức là “Sanh giả bất nhiên, bất sanh diệt bất nhiên”. Đức Phật nói: “Như Lai hoặc có, hoặc không, hoặc cũng có, hoặc cũng không, hoặc chẳng phải có, chẳng phải không sanh từ, không thể luận bàn”. Bởi vì Phật là khế nhập tuyệt đối thánh tánh, siêu việt tương đối giới. Đối với niết bàn của Thanh văn cũng thế mà đối với đại thừa pháp thân hay niết bàn cũng thế. Thế nên, Kinh Hoa Nghiêm nói về pháp thân của Phật rằng: “Chỉ có hư không mới thí dụ được” (Duy hữu hư không vi thí dụ).
Hư không là gì? Tạm chẳng thể luận bàn. Thường thì người ta quan niệm hư không là khắp cả, không thể nói chỗ này hay nơi khác. Nghĩa là không chỗ nào mà không có hư không. Nếu nói tại thì có chỗ nào mà hư không chẳng tại. Hư không tự tại, nên không dính mắc, vô ngại, không có biến hóa theo thời gian tánh nên là thường hằng. Cũng không có chất lượng sai biệt v.v… nên không hai. Nhất là hư không tuy có lúc mây mù che lấp mà hiện tướng hôn ám, nhưng một khi mây mù tiêu tán thì hiện xuất chân tướng tịnh sáng. Kỳ thực khi mây mù che chướng, hư không vẫn tịnh sáng. Hiện tượng này có thể nói là ly cấu thanh tịnh và bản tánh thanh tịnh. Vì vậy, kinh điển đạo Phật lấy đây để biểu thị pháp tánh không, nghĩa là chơn tánh tất cả pháp rốt ráo. Lại cũng lấy đây để chỉ bày thể chứng viên mãn hoặc phần chứng, đây là pháp giới thanh tịnh tức là pháp thân. Không tánh tuyệt diệt đối đãi, vĩnh hằng khắp cả xưa nay như thế, nên gọi là pháp tánh, pháp trụ, pháp giới. Nếu người thể chứng được pháp tánh này mà thể hiện được chơn lý tuyệt đối thì gọi đó là pháp thân. Nếu người chứng nhập thể tánh giải thoát rốt ráo các khổ thì gọi đó là niết bàn. Điều này ai chứng mới biết niết bàn giải thoát. Phật cũng có thể tùy thuận tâm cảnh chúng sanh mà phương tiện khéo léo chỉ bày dẫn đạo chúng sanh lìa chấp chứng nhơn để thể hiện niết bàn an lạc. Do đặc tánh siêu việt của pháp tánh, niết bàn ngoài tương đối chẳng phải cảnh tâm có thể lượng, cũng chẳng phải ngôn ngữ diễn tả được, nên thật khó giảng nói. Đặc tánh vi diệu của pháp tánh, chân như, niết bàn chỉ có thể dùng tánh hư không làm thí dụ để cho chúng sanh nhờ đó mà lãnh hội phần nào.
Hư không không thể hỏi là thật có hay giả có khách quan thực tại hay cách thể nội tâm. Một cách tổng quát mọi người và tín đồ thần giáo cho rằng hư không thì vô lượng vô số rộng lớn thâm sâu qua khoảng không trung xanh thẳm, là tất cả ánh quang minh hoặc còn cho rằng hư không là chỗ y cứ của thần thánh, tất cả đều nương nơi đây mà hiển hiện hoạt động. Khi không có hiển hiện thì tợ hồ các thánh thần tồn tại hiển hiện ẩn tàng nơi sâu thẳm của khoảng không gian vô tận kia chứ không phải là không có. Đó là ý tưởng của người thường hoặc của các tín đồ thần giáo. Trong Phật giáo thì mượn hư không giới này để làm thí dụ chỉ bày pháp tánh tuyệt đối cho đến chỉ bày sự chứng nhập niết bàn của các thánh giả tiểu thừa hoặc đại thừa, mặc dù sự chứng nhập của từng thánh giả có ít nhiều điểm sai biệt.
Từ tánh chất vô lượng vô số rộng lớn thâm sâu tịch diệt mà nói thì đại thừa và tiểu thừa hoàn toàn giống nhau. Tiểu thừa thì từ hiện tượng giới mâu thuẫn khổ bách mà ngừng dứt tiêu tán, biểu hiện thánh giả chứng nhập niết bàn, thiên trọng tiêu cực thuyết minh vô thường, khổ, không, vô ngã, bất tịnh, hư giả. Nhưng nếu nói họ đã trừ sạch sanh từ không còn gì hết thì bất cứ học phái nào trong Phật giáo cũng không thừa nhận điều này. Họ chỉ đạt được trạng thái tịch nhiên tịch tĩnh không bị tái diễn lưu diễn trong sanh tử mà thôi. Ý vị niết bàn này còn là tương đối để rồi dung nhập vào tuyệt đối không lại bị rơi vào mâu thuẫn biến hóa của thời gian và không gian. Vì vậy niết bàn là thường trụ, thanh tịnh an lạc. Có thể nói niết bàn là siêu việt văn tự ngữ ngôn. Vi diệu hiện hữu “ly ngôn diệu hữu”. Nếu lấy hư không để thí dụ thì giống như gió lặng mây tan hiển hiện bản tính tịnh sáng xưa nay của hư không. Đây chỉ có thể lấy hư không để làm thí dụ mà không thể lấy mặt trời mà đặc biệt là ánh sáng mặt trăng lại không thể ví dụ cho Phật tánh, chân như, niết bàn. Bởi vì mặt trăng khi tỏ khi mờ mà niết bàn thì vĩnh hằng tịnh sáng an lạc.
Loại niết bàn này chỉ khế hợp với tiểu thừa, cảnh chứng của A la hán, mà xác thực không phải là loại niết bàn viên mãn. Nếu y cứ niết bàn này mà quán sát thì dễ đưa đến sự hiểu lầm cho rằng hiện tượng sanh tử giới cùng với chân thật niết bàn giới có sự đối lập không đồng. Điều này trong kinh luận đại thừa mới biểu đạt một cách đầy đủ ý nghĩa niết bàn. Từ sanh tử pháp mà nói thì bản tánh của sanh tử cũng là tánh niết bàn. Nên kinh Phật nói: “Nhứt thiết pháp trung hữu an lạc tánh”. Nghĩa là trong tất cả các pháp đều có tánh an lạc. Pháp giới quán đây đã đạt đến trình độ, tức nơi sự mà đạt chơn, “chơn bất ngại tục”, cũng là ý nghĩa chẳng trụ sanh tử, chẳng trụ niết bàn, chẳng trụ cái vô trụ niết bàn. Ấy là thể hiện pháp giới tánh, là pháp thân, đắc vô ngại tự tại, là niết bàn. Trong pháp tánh vốn vô lượng thanh tịnh công đức, chỉ vì mê mà không hiển bày. Do tu mà hiển pháp vô biên công đức. Các bậc thánh đức lấy giác minh làm căn bản. Có nghĩa là hiển phát vô biên trí sáng, từ đó có diệu dụng không thể nghĩ bàn. Nếu lấy hư không giới để ví dụ thì hư không xưa nay vốn tịnh sáng, vốn là bản thể của tất cả quang minh vô biên của nhựt nguyệt.
Nếu y cứ chứng lời của các nhà trí thức hiện đại đã nói, thì tinh cầu có các loại như hằng tinh, hành tinh, vệ tinh v.v… tám đại hành tinh và cả đến ánh sáng quang minh của mặt trăng đều do từ mặt trời mà có. Nhưng theo quan niệm của cổ nhơn thì cho rằng, ánh quang minh của mặt trời, mặt trăng và ngàn sao là do từ hư không phản chiếu mà hiển hiện phát ra ánh sáng, nên xưng Phật là Lưu Ly Quang. Nếu nói về trí huệ thì gọi là Pháp Giới Thể Tánh Trí. Như trên đã nói chú trọng về đặc tánh niết bàn, hoặc giả nói cái đặc tánh tịnh sáng của hư không mới có thể tiêu biểu cho chân nghĩa của Phật và niết bàn.
4- Niết Bàn Và Trăng Sáng: Có một vài học giả thần học, như Đỗ Nhi Mạt đã chơi chữ để trêu chọc các nhà trí thức Phật học và dân tộc học cho rằng danh từ niết bàn là của Bà La Môn giáo bắt nguồn từ thần thoại trăng sáng mà có. Rồi từ đó họ Đỗ nói: ” Phải chăng Thích Ca đã biết điều này, đây là vấn đề nên suy gẫm”. Câu nói hàm hồ bỏ lửng của Đỗ Nhi Mạt này ngầm tạo cho số người hiểu biết nông cạn về Phật pháp lầm nhận rằng, niết bàn của Phật giáo không khác gì quan niệm của Bà La Môn. Đỗ Nhi Mạt nói thế nhằm tạo cho tín đồ Phật giáo có cảm tưởng rằng ông ta là người suốt hiểu nguồn gốc của niết bàn với mục đích làm dao động đức tin căn bản về niết bàn của tín đồ Phật giáo với ác ý để cho thần giáo chế ngự lòng tin ngõ hầu thay thế Phật giáo.
Quan hệ đến ngữ văn, theo Phật pháp thì văn là do âm thanh lưu biến để diễn đạt tình ý hoặc nhận thức. Trước văn thì đã có âm thanh rồi sau mới thành hình thức tức là viết thành chữ. Điều này thấy rõ quan niệm của chúng ta với Độ Nhi Mạt không đồng từ căn bản. Ngữ văn của nhơn loại lúc sơ khởi là biểu đạt tình ý như vui cười kêu khóc, kinh sợ kêu gọi, cho đến những âm thanh vui buồn lo sợ, hoặc những ngữ văn chỉ sự vật như trời, đất, mặt trời, sáng, tối, gió, mưa, núi, sông, cây, cỏ, chim, thú, trùng, cá, trên, dưới, cha, mẹ, ta, người và những danh xưng. Văn hóa nhơn loại ngày một tiến bộ, ngữ văn cũng theo đó ngày một thêm phức tạp. Vả lại do từ sự vật cụ thể quan thể đến trừu tượng, phép tắc v.v… Ngữ văn do từ đơn giản đến phức tạp, hoặc do xưa mà có rồi về sau ý nghĩa biến hóa đơn giản, hoặc xúc chạm với sự lý hoàn cảnh mới mà sáng tạo ra ngữ văn mới. Nghĩa là ngữ văn xưa có, nhưng tùy thời, tùy địa phương mà ngữ văn diễn tiến biến hóa không ngừng. Tiêu chuẩn thì ngữ văn do người tạo ra, sau đó ý nghĩa có sự diễn biến. Không luận là cổ kim hay dân tộc nào, mỗi chữ tùy nơi mà có ý nghĩa khác nhau.
Tại Ấn Độ sử dùng chữ Giới cũng có ý nghĩa bất đồng. Chữ Giới và chữ Duyên tương hợp mà thành. Do sự giải thích bất đồng của chữ Giới và chữ Duyên mà diễn thành sự trùng hợp nghĩa của chữ, có nhiều cách giải thích như thế. Âm nghĩa của ngữ văn chỉ là sự ước định tựu thành trong sự diễn tiến. Cũng nhơn đây nên biết âm thanh của tiếng Ấn Độ dùng âm vận phạm văn để biểu hiện tướng vũ trụ. Đây hoàn toàn là lộ tuyến của học.
Ở đây có điểm cần phải ghi nhớ. Ấy là nên dùng ngữ văn so sánh nghiên cứu để thám cầu nguyên ý của chữ. Nghĩa là nên chứng minh nghĩa gốc của chứ đó là gì, ở thời đại địa phương nào, chứ không nên khinh xuất phủ định, rồi chỉ biết ý nghĩa mới sau này do sự diễn biến hóa phát triển. Như thế, từ đó chúng ta thấy nguyên nghĩa chữ niết bàn của Bà La Môn giáo cùng với thần thoại trăng sáng quan hệ. Nhưng không thể nhơn đây mà vội luận định niết bàn của Phật giáo. Jésu Christ lấy việc hoàn thành thần tượng Thượng đế làm giáo điều vững chắc. Khổng Tử lấy hiến chương của Nghiêu, Thuấn, Văn, Võ làm đạo cương thường, sự thật thì đó cũng chỉ là thuật lại chứ không có sáng tác, chẳng khác nào bình cũ chứa rượu mới. Như thế cũng không thể dùng ý nghĩa xưa cũ để luận định Jésu hay Khổng Tử đúng hay sai. Bởi vì việc làm của Jésu hay Khổng Tử là việc làm đã có trước khi hai ông có mặt trên cõi đời này. Hiến chương Nghiêu, Thuấn và quan niệm Thượng đế (Trời) là việc đã có. Trong lúc đó Thích Ca thuyết giáo phản ngược lập trường của đạo Bà La Môn và chính bản thân Thích Ca là vô sự tự ngộ. Nghĩa là Thích Ca không thầy mà ngộ đạo chứng quả. Dĩ nhiên Phật Thích Ca thuyết pháp phải dùng ngữ ngôn cùng thuật ngữ đương thời như Nghiệp, Luân Hồi, Bồ đề, Niết bàn, Nhơn quả v.v… đều là những ngữ văn đã có và đương thời sử dụng. Điều đặc biệt của Phật Thích Ca là không giống như các học giả thần học chuyên khéo chơi chữ để hấp dẫn đời, ngỏ hầu mị người lợi mình. Trái lại, chính Phật Thích Ca từ không – tương ưng – duyên khởi mà nhập lý vô thườg, vô ngã thể hiện niết bàn. Niết bàn là nội tại chứng đắc chứ không phải do ngoại tại tha lực tín ngưỡng. Tính chất đặc biệt của Thích Ca là giáo chứng. Nghĩa là lời dạy của Ngài phát xuất từ sự chứng đắc vô ngã, thể nhập pháp tánh tuệ giác phát sanh. Tức là chân lý tuyệt đối, niết bàn, chứ không phải từ sự khảo cứu hay sự dự đoán hoặc giả tinh hoa hóa những quan niệm thế gian sẵn có. Thích Ca thấy chân lý vạn pháp mà không thấy hiện tượng bản ngã (đản kiến ư pháp, bất kiến ư ngã).
Đây là điểm đặc thù khác biệt lớn lao so với các giáo chủ thần giáo. Do đó, đặc điểm giáo lý đạo Phật là triệt để phủ định loại thần quyền sáng tạo để sạch quan niệm ngu muội ỷ lại thần quyền nô lệ tư tưởng. Nhà thần học Đỗ Nhi Mạt cũng như một số học giả thần học thiếu căn bản học vấn không nhận ra điều này dám võ đoán rằng niết bàn của Phật giáo là cõi trời Phạm thiên, là nằm trong thiên đàng của Thượng đế. Họ mê muội còn dám truyền ra Thích Ca cũng là do Thượng đế tạo ra. Nhưng hỏi Thượng đế ở đâu hình dáng như thế nào quyền năng tài đức ra sao, mà sao lại làm ngơ trước những cảnh tang thương đau lòng người giết người, con giết cha, vợ giết chồng, trộm cướp đói khổ ngày ngày xảy ra!? Tôi tin rằng những nhà thần học chân chánh không đem lời thánh nhơn truyền giảng một cách sai lạc tự quyên sinh lộ, xa nguồn nguồn nguyên ngữ như thế.
Như trên đã nói đối tượng sùng kính của tôn giáo có quan hệ với sự tiếp xúc cảnh giới. Ngữ văn của nhơn loại khởi sơ là sự chỉ bày sự vật mà diễn hóa. Phật giáo thì y vào đức hạnh mà đặt tên. Không luận xưng gọi là gì, nhưng đều không rời bỏ sự lý của thế tục để diễn đạt chánh pháp. Vì vậy nguyên nghĩa của Niết Bàn cùng với thần thoại trăng sáng có quan hệ hay không quan hệ đều không phải là điều quan trọng của vấn đề. Điều quan trọng mà tôi muốn nói ở đây là bản tánh niết bàn của tiểu thừa và niết bàn của đại thừa là “vô số vô lượng rộng lớn thâm sâu, vắng lặng tịch nhiên” chứ không phải chấp lấy mặt trăng thanh, trăng sáng làm gì. Bởi vì mặt nhựt nguyệt làm gì có đặc tính vĩnh hằng vô số vô lượng rộng lớn thâm sâu vắng lặng tịch nhiên? Phật pháp chẳng qua lấy sự ly thế gian làm phương tiện để diễn đạt chân lý. Kinh Phật mượn hư không để dụ nói chánh pháp về lý pháp tánh, tánh không. Thể pháp tánh hình thành pháp thân. Khế nhập pháp tánh hình thành vô ngại tự tại niết bàn. Thế nên niết bàn còn gọi là Vô Thượng Pháp. Đại thừa thì nói từ thể khởi dụng tức là từ sự hiển lý, dung tướng qui tánh, nên lấy hư không nhật nguyệt làm thí dụ. Như nói: “Bồ tát như gió mát trăng thanh, thường du hành khắp hư không” (Bồ tát thanh lương nguyệt, thường du tất cánh không). Hoặc như nói: “mặt trời trừ tối tăm, chiếu sáng khắp thế gian” (huệ nhựt trừ chư ám, phổ minh chiếu thế gian). Kinh Phật rất nhiều lần lấy mặt trời, mặt trăng làm thí dụ đặc tánh trí huệ giác ngộ, cho tâm quảng đại, cho sự tự tại vô ngại, cho thần thông diệu dụng năng lực phổ cập. Như tên của đức Phật Tỳ Lô Giá Na tức là đức tánh biến chiếu hoặc tên đức Phật Đại Nhựt tức ý nghĩa mặt trời vĩ đại. Đây là lấy ánh sáng mặt trời làm thí dụ cho ánh quang minh biến chiếu để nói cái giác của pháp tánh mà hàm dưỡng huệ trí quang minh phổ chiếu của sự thành Phật. Thành Phật và thị hiện niết bàn lại cũng lấy mặt trời lặn chiếu sáng để thí dụ. A Di Đà Phật là Vô Lượng Quang. Kinh Quán Vô Lượng Thọ nói dùng quán mặt trời lặn mà sanh khởi tất cả. Thế là thí dụ từ đời này đến đời sau, cõi này đến cõi kia, tâm ý nghĩ đến Vô Lượng Quang, Vô Lượng Thọ cõi nước Tịnh độ kia. Đến như mặt trăng là tượng trưng cho tánh không sáng chiếu tinh khiết của đêm, cảnh giới mát mẻ tịch tĩnh. Dùng đây để diễn tả sự giải thoát của thánh giả, cũng là để thí dụ cho sự lợi ích chúng sanh của thánh giả. Như nói: “Trăng sáng mát lành khắp cả vạn vật” (Như nguyệt thanh lương bị chúng vật).
Nhân đây, tưởng cũng xác định với các nhà thần học rằng: “Niết Bàn của Phật giáo không luận lấy cái gì để tượng trưng, không luận là dùng vật gì để diễn đạt, chủ yếu là chính nội tại bản tâm phải chứng tri tịch diệt, siêu việt tuyệt đối giới, trên và ngoài tương đối danh tướng. Điều này không phài là căn nguyên phát xuất từ thần thoại của người dân ban đầu, y theo sự tưởng tượng của nhân loại tạo thành thần loại mà là cảnh giới giác ngộ của tâm linh. Trong đây tuyệt nhiên không có tánh chất quyền lực chủ tể quan hệ cùng với tất cả loại thần giáo – đa thần, nhứt thần, thời kỳ sơ dân ý thức còn mông muội tạo thành các loại thần linh ngẫu tượng. Nhưng ngày nay nhân loại văn minh ngày một tiến bộ, những hình ảnh thần hóa sớm đã tiêu mất không còn giá trị với trí văn minh của loài người.
Đương nhiên các nhà thần học như Đỗ Nhi Mạt cho rằng sơ dân ý thức mông muội tưởng tượng ra thần loại là phương cách tốt nhất hoặc ông còn một lòng một dạ ước ao một cách vô ý thức là nhân loại tin thế mãi, đâu biết rằng người trong nhân gian lúc nào cũng cầu tiến, có tinh thần sỉ nhục, không còn mông muội tin mù mà theo tự do cá nhân. Không luận như thế nào, nhưng không nên vì thần linh ngẫu tượng mà tinh thần khiếp sợ, mắt nhìn đâu cũng là thần linh quyền uy thì thật là nguy cho một đời tiến bộ hạnh phúc.
III. ĐÔNG PHƯƠNG TỊNH ĐỘ TUYỆT ĐỈNH CỦA NHÂN GIAN
1- Đông phương Tịnh độ là Nước Lý Tưởng: Tịnh độ là cõi nước thanh tịnh của Phật. Cảnh giới Bồ tát cũng là cõi nước lý tưởng của nhân gian. Nếu tri chứng tánh không rốt ráo để hiển minh thanh tịnh thì chỉ có đức Phật mới tự chứng thuyết minh. Tịnh độ có xã hội tánh, có chúng sanh, có tất cả những vấn đề y thực. Hiện thực nhân gian thì thiếu thốn khổ sở bức bách. Tịnh độ thi vô hạn thanh tịnh trang nghiêm tự do an lạc. Trong cảnh Tịnh độ tất cả đều viên mãn, thường được Phật, Bồ tát che chở giáo hóa. Người sanh trong cõi nước này một mạch hướng thượng tu học với đời sống quang minh chánh đại hợp lý thuận lòng lạc đạo tiến tu. Nếu căn cứ vào cõi nước chơn Tịnh độ của Phật mà nói thì tất cả cõi nước của Phật đều giống nhau. Nếu có sự việc nào trên hình thức bất đồng thì đó là vì sự giáo hóa mà thị hiện không giống nhau. Thế thì Đông phương Tịnh độ và Tây phương cực lạc có sự sai khác nào?
Phật A Di Đà chủ yếu trong lời phát nguyện là: “Phàm người muốn sanh về cõi nước tôi chỉ cần niệm danh hiệu tôi thì quyết định vãng sanh”. Đây là chú trọng ở sự nhiếp thọ chúng sanh, khiến cho chúng sanh sau khi chết có tiền lộ quang minh. Đức Phật Dược Sư Lưu Ly Quang Như Lai trong khi phát mười hai đại nguyện nhắm vào thực trạng chìm đắm khổ đau của chúng sanh mà tịnh hóa nhơn gian, tích cực biểu hiện nhơn gian này thành thế giới lý tưởng. Điều này đối với nhơn gian có giàu phát triển tánh, tức là nhơn gian nên y theo mười hai đại nguyện này làm lý tưởng để thực hiện cuộc sống an lạc ngay hiện đời. Mười hai đại nguyện là:
1/ Mọi người bình đẳng. Tất cả chúng sanh tướng tốt trang nghiêm, đều cùng với Phật giống nhau. Nghĩa là bản tánh của chúng sanh với Phật không hai. Thân tướng chúng sanh cõi Tịnh độ đều sắc vàng, biểu thị chủng tánh bình đẳng. Ấn Độ chủng tánh giai cấp khắc nghiệt khởi đầu y cứ hình sắc phân biệt. Vì vậy danh từ chủng tánh trọng tiếng Phạn là từ chữ Sắc. Cho đến nay hiện giống người da trắng cũng còn kỳ thị giống người da màu. Đây là một trong những nguyên nhân gây khổ bức cho nhân gian. Thế nên trong cõi Tịnh độ mọi người thân tướng đều sắc vàng kim, cũng là thể hiện mọi người bình đẳng tuyệt đối không có nhân tố kỳ thị chủng tộc.
2/ Nhờ hào quang của Phật chiếu khắp, nên người người đều thành tựu sự nghiệp của mình. Cũng như thế gian, khi mặt trời lên chiếu tỏa ánh sáng mới có thể tiến hành các sự việc. Nếu y cứ vào trí sáng mà nói, như không có trí huệ thì cái gì cũng không biết, khổ nạn nào cũng không thể giải quyết được. Có trí huệ thì việc gì cũng có thể giải quyết được cả. Phật dùng vô lượng trí huệ quang minh chiếu khắp đại chúng, khắp thấm nhuần chúng sanh khiến trí huệ từ từ tăng trưởng. Do đó, chúng sanh một khi được hào quang Phật chiếu diệu thì không việc gì mà không thành.
3/ Thức ăn vô cùng dư dật. Nơi Phật cảnh người người bình đẳng, trí lực khai triển, sự việc đều thành, vật dụng phong phú, nên dân sanh an lạc.
4/ Mọi người an trụ nơi đại thừa. Ở trong cảnh nhơn gian khổ bức, mọi người an trụ trong pháp phàm phu. Phàm phu thì vì hưởng thụ danh lợi mà nỗ lực hoặc vì cho mình mà chuyên tu thiền định, phước lợi cho riêng mình. Cũng có kẻ an trụ trong pháp tiểu thừa, chuyên lo chính thân tâm mình giải thoát, thiếu khuyết tâm từ bi tích cực lợi tha. An trụ trong pháp đại thừa được gọi là hoa sen trong lửa, thật là quý hóa khó làm. Nhưng trong cõi Tịnh độ đều hay an trụ nơi đại thừa, không trước thế gian, không lìa thế gian. Như Kinh Duy Ma Cật nói: “Chẳng phải hạnh phàm phu, chẳng phải hạnh tiểu thừa, là hạnh Bồ tát”. Bồ tát thì tự mình và người đều lợi, thượng cầu hạ hóa. Nếu mọi người đều có thể như thế, thì đương nhiên rất ư là lý tưởng.
5/ Giới hạnh thanh tịnh. Chúng sanh cõi Tịnh độ hành vi đều hợp với đạo đức, không có những tội ác sát, trộm, dâm, dối. Nhơn cách kiện toàn, đức hạnh ngày một tăng trưởng đầy đủ.
6/ Chúng sanh cõi Tịnh độ lục căn đầy đủ. Mọi người thân tâm chánh thường, hay tinh tấn tu hành đạo pháp.
7/ Trong cõi Tịnh độ không có các bệnh khổ bức bách. Nếu có bệnh thì cũng không có bệnh ngặt nghèo bức bách. Lại có đạo bạn là quyến thuộc, vật dụng, thuốc men đầy đủ. Không có tâm trạng lo âu buồn phiền. Có hoàn cảnh dưỡng bệnh nghỉ ngơi, các bệnh tự nhiên dứt trừ.
8/ Mọi người cõi Tịnh độ đều có tướng trượng phu bình đẳng, không có nam nữ.
9/ Tư tưởng chính xác, ý chí kiên định. Chúng sanh trong cõi Tịnh độ không bị lưới ma trói buộc, không bị ngoại đạo tà kiến dối gạt, người người tu tập chánh đạo đại thừa.
10/ Chúng sanh cõi Tịnh độ không bị luật vua tướt đoạt. Chính trị tu dưỡng, xã hội hòa bình an lạc, tuyệt đối không có ngục tù tra khảo, thân tâm đau đớn.
11/ Cõi Tịnh độ đồ ăn thức uống dư dật, pháp vị lại thơm ngon, tuyệt đối không có đói khát bức bách.
12/ Không có tình trạng thiếu y phục, nóng lạnh, muỗi ruồi. Đủ mọi thứ an vui. Các Phật Bồ tát phụ trách giáo hóa, trước làm cho đời sống chúng sanh không có thiếu thốn, lại dùng Phật pháp hóa đạo. Đúng là trước ăn mặc đầy đủ rồi sau mới biết lễ nghĩa hành đạo tiến thân.
Cõi Tịnh độ không những đời sống vật chất lý tưởng mà trí huệ, đạo đức lại không gián đoạn hướng Phật đạo tiến tu. Cảnh Tịnh độ thanh tịnh trang nghiêm như thế cho dù chủ nghĩa đại đồng thế gian có thật sự thực hiện cũng không sánh bằng. Trong khi Phật tu nhơn đã phát tâm lập đại nguyện, thực hiện cõi nước lý tưởng như thế, để rộng thực hành Bồ tát đạo, để hoàn thành tự lợi lợi tha. Trên đây không phải là điều kiện vãng sanh Tịnh độ mà là nhơn tố để kiến lập Tịnh độ. Tịnh độ là cõi nước lý tưởng, tưởng không có xã hội nào sánh bằng.
2. Đông phương Tịnh độ Lý Tirớng: Đông phương Tịnh độ được Lưu Lỵ Quang Như Lai làm giáo chủ lại còn được hai vị Bồ tát Nhựt Quang Biến Chiếu và Nguyệt Quang Biến Chiếu hỗ trợ hóa đạo. Phật Bồ tát quang lâm Tịnh độ giống như hư không sáng sạch. Nhựt Nguyệt Quang Huy, tượng trưng cõi nước Tịnh độ thanh tịnh quang minh.
Mười hai đại nguyện của đức Lưu Ly Quang Như Lai là kế hoạch chơn chánh kiến tạo Tịnh độ, đáng làm kiểu mẫu cho nhơn gian Tịnh độ. Hành giã đại thừa nên cùng chung vì lý tưởng vĩ đại này mà nỗ lực thực hiện.
IV. ĐÔNG PHƯƠNG TỊNH ĐỘ LÀ CÕI NƯỚC QUANG MINH HUY HOÀNG
Giờ đây nói đến Đông phương Tịnh độ và uy đức của Phật Dược Sư Lưu Ly Quang Như Lai gia hộ chúng sanh cõi Ta bà thế giới của chúng ta hiện đang sinh hoạt.
Đông phương Tịnh độ và Tây phương Tịnh độ có khác về phương diện nhiếp hóa chúng sanh cõi Ta bà. Vị trí của cõi nước Tây phương Tịnh độ nằm về hướng mặt trời lặn, nơi đó đức Phật A Di Đà làm giáo chủ và có hai vị đại Bồ tát Quán Thế Âm và Đại Thế Chí thường thân cận hai bên tả hữu của Ngài để giáo hóa độ sanh. Sự nhiếp hóa của đức Phật A Di Đà đây cũng như mặt trời lặn sau rặng núi chỉ cho hiện tượng cuối ngày, nên trong việc nhiếp thọ chúng sanh sau khi chết mạng chung có chỗ trở về nương tựa. Cảnh giới Tây phương cực lạc biểu trưng cho cố hương tổ ấm của sự kết thúc chung cuộc đời người trở về quê cũ, như mùa thu, mùa đông vừa đến thì cỏ cây úa tàn khô héo. Như hiện tượng héo rụng để rồi có cơ hội khai mở sinh mạng mới. Tây phương Tịnh độ thì vô lượng quang minh phổ chiếu đồng thời cũng là giai đoạn mở đâu tiến vào ánh quang minh. Vãng sanh Tây phương được thân cận Phật, Bồ tát thì tâm chuyên ròng hướng Phật đạo tiến tu. Đông phương Tịnh độ tượng trưng cho sự sanh trưởng, là chỗ ánh quang minh xuất hiện:
Đông phương Dược Sư Lưu Ly Quang Phật thật thể vô lượng thanh tịnh quang minh. Ngoại trừ cõi nước trang nghiêm và phước lạc của chúng sanh cõi Tịnh độ này ngày một tăng trưởng ra, còn gia hộ an lành cho chúng sanh cõi Ta bà nữa, cũng giống như là mặt trăng mặt trời sáng trên hư không đồng thời chiếu sáng khắp cõi đại địa. Vì vậy Đông phương Tịnh độ nhiếp thọ chúng sanh cõi này không chỉ sau khi chết được an lạc, mà hiện đời nếu thành tâm tin tưởng thì cũng trừ được các thứ tai nạn phiền lụy hiểm nguy. Nếu như đối với Phật pháp không có chánh kiến, hoặc phá giới, hoặc tham sân, đố kỵ đi vào đường tà ma ngoại đạo tạo thành các thứ ác nghiệp, đều có thể nương vào uy đức quang minh của Phật Dược Sư Lưu Ly Ọuang Như Lai mà lúc lâm chung được các đại Bồ tát tiếp dẫn đến Tây phương cực lạc. Đông phương Tịnh độ sắc trời bình minh, muôn việc sanh khởi. Hành giả thường trì Kinh Dược Sư, thường niệm danh hiệu Phật Dược Sư, thường đọc chú Dược Sư đều được Phật lực gia trì. Vì vậy, Đông phương Tịnh độ không chỉ là quốc độ lý tưởng của chúng sanh cõi nhơn gian cầu sanh về đấy, mà cõi nhân gian hiện tại đầy tai họa khốn bức, rất mong nhờ Phật lực Lưu Ly Quang cứu hộ. Từ đây chúng ta có thể thấy được pháp môn cõi Đông phương Tịnh độ rộng lớn biết là nhường nào.
V. ĐÔNG PHƯƠNG TỊNH ĐỘ BIỂU TRƯNG TỰ TÂM
Lấy thiên giới để biểu hiện Đông phương Tịnh độ và uy đức quang minh của Phật Bồ tát gia hộ cho chúng sanh cõi Ta bà này, thì tợ hồ Phật và Tịnh độ là ngoại tại. Đương nhiên điều này mới nghe qua có thể nói như thế nhưng không phải đơn giản, thế mà trong đó còn bao hàm ý nghĩa sâu sắc hơn. Hầu hết tất cả tôn giáo đều y cứ nhơn loại xúc xử ngoại cảnh mà khải phát nội tâm từ đó hình thành quyền năng những thần linh. Nhưng lý tưởng của nhơn loại là bình đẳng tự do vĩnh hằng an lạc.
Luôn luôn có nguyện vọng thoát ly hiện thực khổ bách do đó mà xuất hiện các thứ tôn giáo. Nhưng tổng quát mà nói thì đa phần tôn giáo nghĩ đến ngoại tại thần quyền và thần quốc từ đó nhiếp dẫn người quy hướng về mình. Nhưng Phật pháp thì không thế mà chỉ nói Phật và cõi Tịnh độ là bậc sư phạm, là cõi nước lý tưởng của mọi người. Đồng thời Phật giáo cũng không hướng ngoại truy cầu mà là thể hiện đức hạnh nội tại để thể nhập chân thật tánh, cuối cùng đạt đến cứu cánh viên mãn như Phật. Đây mới là ý thú rốt ráo của tôn giáo như Phật giáo. Ngoại đạo tuy có nói về thần và cõi trời, nhưng ai tin và học theo họ nhiều lắm cao lắm cũng chỉ được vào nước trời, hoặc vào thế giới thần cùng với thần chung ở. Theo lập thuyết ngoại đạo thì kỳ thực trời thần là trời thần, anh là anh, anh vĩnh viễn không thể nào trở thành thần thành trời, nghĩa là không bình đẳng, muôn đời anh vẫn là kẻ bị trị. Những tôn giáo có giáo thuyết tư tưởng như vậy không thế gọi là tôn giáo cứu cánh viên mãn.
Đang sống trong cõi đời hiện thực không thể nào triệt để hết các khổ não bức bách để thanh tịnh hóa đạt đến cảnh giới viên mãn, tức là thành Phật. Khi gọi là Phật tức là tự tâm hoàn toàn rốt ráo thanh tịnh. Nhơn đây, trong Phật pháp thường nói tâm tức Phật hoặc nói duy tâm Tịnh độ. Qua câu nói này cũng đã đủ xác định Phật ở đâu, Tịnh độ ở đâu. Ấy vậy mà có số người lầm hiểu lại chạy đi tìm Phật, tìm Tịnh độ ngoại tại, thật là một điều quá ư sai lầm. Đứng về pháp tánh thân độ, tuy là không có sự sai biệt bỉ thử, nhưng như thế không có nghĩa là không có cõi Tịnh độ và chư Phật khác ngoài tâm. Cũng không thể nhơn tự tâm là Phật là Tịnh độ mà phủ nhận tất cả cõi Tịnh độ Phật khác.
Nếu đứng về tự thân tâm mỗi người mà nói thì Đông phương Tịnh độ biểu trưng cho những cái gì? Chúng sanh ngu muội điên đảo, không có thực ngã thực pháp mà lại chấp trước thực ngã thực pháp. Do đây không thể thông đạt pháp tánh tức là tánh không, nên vẫn lăn lộn trong lưới vô minh. Do vô minh nên có sanh tử lưu chuyển, khổ não không thôi, cũng như mây mù thì không thấy được chân tướng của hư không. Hư không đã mù mịt như thế, cho đến khi nào thành Phật mới giác chứng được chân tướng thanh tịnh pháp giới, mới không còn bị vô minh che lấp. Như hư không khi mây mù tiêu tán thì bầu trời sáng tịnh. Giác là thanh tịnh pháp giới tánh, là thắng nghĩa đế. Trong tiếng Phạn, tục đế hàm hữu ý nghĩa ẩn tàng. Vì vậy nói: “ Vô minh che lấp chơn tánh, nên là thế tục”. Chẳng khác nào bị cận nhìn sự vật đều không chính xác. Như Trung Luận của ngài Long Thọ nói: Như ngộ được thực tánh của vô minh, thì vô minh là Bát Nhã. Nếu không ngộ thì Bát Nhã thành vô minh. Vì vậy với ý nghĩa này, ngay như hư không mờ tối thấy là minh tịnh, cũng như chúng mê muội một khi giác liễu được pháp tánh thanh tịnh cứu cánh viên mãn tức là Lưu Ly Quang Phật.
Chúng sanh do cội gốc vô minh mà hình thành hai đại phiền não: Ái và Kiến. Kiến là hiểu biết, thấy biết một cách sai lầm cố chấp. Ái là tình cảm, đối với bản thân và ngoại cảnh tham luyến không thôi. Vì vậy phiền não có hai thứ là: Kiến sở đoạn và Tu sở đoạn. Kinh nói phiền não có năm chỗ trụ: 1- Kiến nhứt thiết trụ, 2- Dục ái trụ, 3- sắc ái trụ, 4- Hữu ái trụ, 5- Vô minh trụ.
Vô minh trụ: Như vô minh mờ mịt. Hư không có chỗ bổn y của mây, của sương mù. Cái thấy cái ái của chúng sanh đối với Phật tánh chẳng khác nào mây mù đối với hư không. Thấy tức là thấy ngã thấy pháp. Ái tức là ái ngã ái pháp. Cho đến khi chứng nhập pháp tánh thanh tịnh thì hai đại phiền não này chuyển thành hai đại đức tánh. Kiến là chánh kiến như thật, tức là bát nhã, bồ đề. Một khi tịnh hóa ái thì biến thành từ bi. Trí huệ như mặt trời chiếu ấm khắp vạn vật. Từ bi như mặt trăng chiếu mát muôn loài. Đây là hai vị đại Bồ tát Nhựt Quang Biến Chiếu và Nguyệt Quang Biến Chiếu trong cõi Đông phương Tịnh độ tượng trưng cho hai đức tánh trí huệ và từ bi.
Ngoài ra còn có tám vị đại Bồ tát, tức tượng trưng cho phàm phu tám thức hữu lậu hoặc tám tà đạo. Một khi giác ngộ thì thành tám thức vô lậu hoặc gọi là tứ trí hay Bát Chánh Đạo. Bát Chánh Đạo là biểu trưng đích thực cho tám con đường chân chánh hướng đạo đến tịch tịnh niết bàn. Nếu mê chấp nơi kiến, trước nhiễm nơi ái thì dẫn đến vô biên phiền não. Những thứ phiền não này nhiều đến số tám vạn bốn ngàn như vô số tinh tú trong không trung ẩn ẩn hiện hiện. Khi hư không trong sáng thì muôn vạn sao sáng lấp lánh, ấy là lúc giác chứng thanh tịnh pháp giới, thành tựu tất cả tám vạn bốn ngàn công đức.
Đông phương Tịnh độ biểu trưng cho tự tâm, có thể nói đây là đặc sắc của Phật pháp. Từ bản tánh chúng sanh thanh tịnh, tức là bản tánh không mà hiển xuất phiền não tức bồ đề, sanh tử tức niết bàn cho đến vô minh ái kiến v.v… chuyển hóa tất cả phiền não trở thành vô biên công đức Phật quả. Như Lai Tạng tức Phật tánh. Như Lai Tạng pháp môn đặc biệt chỉ rõ tâm chúng sanh vốn đầy đủ đức tánh thanh tịnh, trí huệ quang minh. Vì vậy không những chỉ rõ bản tánh của tâm vốn thanh tịnh mà còn chỉ bản tánh của tâm quang minh. Từ đây trực chỉ tâm sanh tử tạp nhiễm vốn có thanh tịnh sáng suốt. Sáng tối, nhiễm tịnh chỉ là trạng thái của mê và ngộ thôi. Như đêm mưa gió ánh quang minh không hiện đó chỉ là mây che lấp. Tuy chúng ta thấy mây mù mịt nhưng cũng còn có ánh sáng yếu ớt. Không có ánh sáng cũng không thể nói là hoàn toàn tối tăm. Như vậy tối mù không lìa ánh sáng tịnh. Do đó, ta biết rằng tách rời ngu si tạp nhiễm thì không đâu mà có trí huệ thanh tịnh. Chúng sanh vốn đủ khả năng tánh thanh tịnh, nên mới tự phát, hiện khời ý dục cầu minh tịnh, mới có lý tưởng thực hiện thành Phật. Thế nên, thâm nghĩa của Phật pháp là lấy chư Phật và cõi Phật Tịnh độ làm tăng thượng duyên để khai phát tự tâm quang minh hình thành các thứ điển phạm công đức. Dùng lý tự tâm thắng đức làm nhơn duyên, lại lấy chính bản thân để thể hiện chỗ nội ngoại nhứt trí, tâm cảnh không sai, Phật cảnh chúng sanh giới không khác.
Tóm lại, nếu chỉ hướng ngoại tìm cầu tu chứng mà không phát triển khả năng tự tâm thì chẳng khác nào trong túi áo có ngọc quý mà không biết dùng lại đi khắp nơi xin ăn, như thế là đánh mất chân giá trị của Phật giáo. Điều này chẳng khác nào các thần giáo chỉ biết ỷ lại cầu xin nơi thần chúa và cầu được sanh về nước chúa, thế giới thần.
Trái lại, nếu chơn chánh thấu triệt ý thú cứu cánh của tôn giáo như Phật giáo thì việc ngưỡng vọng thần linh và cầu sanh thiên quốc của thần giáo là lỗi tại chính mình không thấu triệt khi tin, không thể nhận ý nghĩa của tôn giáo, chẳng khác nào như trong mây mù xem hoa, xem ra thì hoa nào cũng giống hoa nào, nhưng kỳ thật thì không như hệt. Siêu việt một từng nữa, nếu hay liễu triệt cứu cánh bản chất tôn giáo, mới biết tất cả tôn giáo sùng ngưỡng thần và thiên quốc v.v… đều không ngoài huân tập chúng sanh thấm nhuần đức tánh. Chúng sanh vốn đầy đủ đức tánh thanh tịnh sáng suốt, phát triển đức tánh này hiển lộ, chứ không phải cục bộ khiếp sợ nương tựa thần linh. Do đây mà kinh Lăng Già nói: Tôn giáo Ấn Độ nêu lên các thần Phạm, thần Tự Tại, thần Nhơn Đà La v.v… bảo người sùng bái, và chỉ biết sùng bái khẩn cầu, nhưng đâu có biết đó là Phật hóa hiện, là ý nghĩa thâm thúy này đây vậy. Điều này đủ thấy Phật pháp từ bi quảng đại, thần thông vô lượng, phương tiện vô biên, pháp môn vô cùng vậy.
Trí thức nhơn loại ngày một tiến bộ không ngừng, người ta không còn tin mơ hồ, kết quả các thần giáo sẽ bị đào thải theo luật tiến hóa. Các tôn giáo đề cao trí huệ chơn chánh, hạnh phúc chân thật như Phật giáo sẽ thành là nơi nương tựa tinh thần, thăng hoa cuộc sống, là nơi niềm tin vĩnh cửu của nhơn loại tiến bộ.