ĐỊA TẠNG BỒ TÁT BỔN NGUYỆN KINH KHOA CHÚ
Đường Tam Tạng sa-môn Thật Xoa Nan Đà dịch
Cổ Diêm Khuông Am Thanh Liên bật-sô Linh Thừa soạn

Chuyển ngữ: Bửu Quang Tự đệ tử Như Hòa

 

III. Biệt giải kinh văn

          Phần thứ ba là giải thích riêng về kinh văn. Kinh này được chia thành ba quyển, hoặc chia thành hai quyển là Thượng và Hạ, đều do ngài Thật Xoa Nan Đà dịch, gồm mười ba phẩm. Nay trước hết là giải thích chung về tựa đề các phẩm; sau đó, sẽ thuận theo kinh văn mà giải thích ý nghĩa.

          Trước hết, giải thích phẩm Đao Lợi Thiên Cung Thần Thông chính là Tự Phần. Nay không ghi là phẩm Tự mà gọi thẳng là phẩm Đao Lợi Thiên Cung Thần Thông. Chữ “Tự” bao hàm ba loại [ý nghĩa] là Thứ Tự, Tự Do, và Tự Thuật:

          1) Phần đầu của kinh có năm sự, theo thứ tự mà an lập, thì là Thứ Tự (phần Tự trình bày sự việc theo thứ tự).

          2) Đức Phật thăng lên trời Đao Lợi vì mẹ thuyết pháp, chư Phật, Bồ Tát như mây tụ tập đến, ngầm muốn khởi phát nhân duyên giáo hóa của đức Địa Tạng. Vì thế, đức Như Lai mỉm cười, phóng quang, trong mây quang minh lại phát ra âm thanh, lại triệu tập đại chúng trời, rồng, quỷ thần v.v… nhằm hiển phát nhân duyên độ thoát của đức Địa Tạng. Những điều ấy đều là Tự Do (phần Tự nhằm trình bày duyên do của pháp hội giảng kinh).

          3) Đức Như Lai và Văn Thù hỏi đáp về số lượng đại chúng, nêu bật nhân duyên cứu độ mẹ của đức Địa Tạng. Đấy là Tự Thuật (trình bày công hạnh).

          Vì thế, chỉ gọi [phẩm này] là Thần Thông Phẩm.

          Đao Lợi (忉利) nói cho đầy đủ là Đa La Dạ Đăng Lăng Xá (Traya-striṃśa), cõi này dịch là Tam Thập Tam (ba mươi ba). Tịnh Danh Sớ giảng: “Như Đế Thích trong thế gian này vào thời xưa kia, sau khi Phật Ca Diếp diệt độ, có một nữ nhân phát tâm tu bổ tháp. Lại có ba mươi hai người phát tâm giúp cô ta tu bổ. Do công đức tu bổ tháp, cô ta được làm Đao Lợi Thiên Chúa. Những người giúp tu bổ thì làm quần thần phò tá. Vua và các đại thần được gọi chung thành Tam Thập Tam Thiên”. Điều này được nói trong Chánh Pháp Niệm Xứ Kinh. Đế Thích trụ trong Thiện Pháp Đường Thiên, ba mươi hai cõi trời ở trên bốn đỉnh núi bao quanh, thường nói là Trụ Phong Thiên v.v… [Chư thiên trong] tiếng Phạn là Đề Bà (Deva), cõi này dịch là Thiên, [hàm nghĩa] “thiên nhiên, tự nhiên”, do họ hưởng vui thù thắng, thân thù thắng.

          “Cung”“khung” (穹, kiến trúc cao vọt lên), [hàm nghĩa] nhà xây có thể trông thấy vượt khỏi tường vây, cao vọt lên. Trên thì cao vót, dưới thì [các gian nhà được xây] vây quanh, người sống trong ấy. [Chữ Cung (宮)] trên là bộ Miên (宀, âm đọc là Miên, có nghĩa là nhà có mái che dài ra) giống như riềm che, dưới là hai chữ Khẩu (口), giống như giới hạn sự cách biệt giữa trong và ngoài. Sách Lập Thế A Tỳ Đàm chép: “Thành Thiện Kiến trên trời Đao Lợi, chu vi là bốn vạn mười ngàn do-tuần, vàng ròng làm thành. Bốn mặt thành là lầu ngàn cửa. Thành vàng ở chính giữa là chỗ Đế Thích ở. Năm trăm cửa, trang hoàng bằng các thứ báu chẳng thể thuật trọn. Chính giữa thành là lầu báu gác chồng (lầu có nhiều tầng), tên là Bì Thiền Diên Đa. Lầu cao năm trăm do-tuần, rộng hai trăm năm mươi do-tuần… Lầu nhiều tầng Bì Thiền Diên Đa cao nhất, chính giữa là một căn nhà tròn, rộng ba mươi do-tuần, chu vi là chín mươi do-tuần, cao bốn mươi lăm do-tuần, là chỗ ở của Đế Thích, toàn là do lưu ly tạo thành, xen kín các thứ báu. Như Lai lên tòa ở nơi đây, vì thánh hậu thuyết pháp, là chỗ để Ngài hiện thần thông khi ấy”.

          “Thần thông” có hai ý Thông và Biệt. Kinh Dịch nói: “Dương Âm bất trắc chi vị Thần. Tịch nhiên bất động, cảm nhi toại thông. Thiên địa dữ đạo vi Thể dã. Kỳ diệu dụng viết Thần” (Âm và Dương chẳng thể suy lường được thì gọi là Thần. Lặng lẽ, bất động mà hễ cảm bèn thông. Trời, đất cùng với đạo làm Thể, diệu dụng của nó gọi là Thần). Đấy là cách giải thích theo thế tục. Nay chuẩn theo kinh Anh Lạc dạy: “Thần danh thiên tâm, Thông danh huệ tánh. Thiên nhiên chi huệ, triệt chiếu vô ngại; cố danh Thần Thông” (Thần là cái tâm tự nhiên, Thông là huệ tánh. Trí huệ tự nhiên, chiếu thấu suốt vô ngại, nên gọi là Thần Thông). Thông có sáu loại: Một là Như Ý, hai là Thiên Nhãn, ba là Thiên Nhĩ, bốn là Tha Tâm, năm là Thức Túc Mạng Thông, sáu là Vô Lậu Thông. Ở đây, [thần thông trong phẩm này] chính là [đức Như Lai] mỉm cười, phóng quang, chư thiên cùng tụ tập, đều là diệu dụng từ huệ tánh chẳng thể nghĩ bàn của Như Lai. Vì thế gọi là Thần Thông.

          Tiếng Phạn là Bạt Cừ (Varga), cõi này dịch là Phẩm, có nghĩa là những thứ cùng loại, tương đồng, được tụ tập trong một đoạn, cho nên gọi là Phẩm. Chữ này cũng là danh xưng chung [cho mỗi chương], do đức Phật tự nói ra, hay do người kết tập [kinh điển] đặt, hoặc do người dịch thêm vào. Nay xét cách phân chia phẩm, dường như phần lớn là do các vị dịch sư tự đặt. Do đây là phẩm khởi đầu trong các phẩm, nên nói là “đệ nhất” (dựa theo Phật Thăng Đao Lợi Thuyết Pháp Kinh thì đức Phật an cư suốt ba tháng dưới cội cây Viên Sanh (Pārijāta, Ba Lợi Chất Đa) trong vườn Hoan Hỷ, tứ chúng vây quanh).

          Duyên do đã khởi, chánh sự hãy nên phô bày. Phân thân của đức Địa Tạng bèn thừa dịp nhóm tới. Chuyện này không gì chẳng đều vì đức Địa Tạng. Do vậy, [phẩm thứ hai là Phân Thân Tập Hội] là khởi đầu phần Chánh Tông. “Thân” là cảnh vực, cung điện, là càn khôn riêng của mỗi người. Quả tim dường như ở giữa thân, là chủ tể của thân; nhưng chúng ta do nghiệp cảm vời, do vậy mà hòa hội, nương vào ba duyên để tạo thành thể chất, gom Tứ Đại thành hình hài. Đấy chính là cái nguồn của các điều ác, là cái gốc của mọi nỗi khổ. Thân Bồ Tát sanh từ vô lượng công đức, từ Trung Đạo nghiệp thức mà hiện tướng hảo, quang minh, tức là Pháp Thân.

          “Phân” (分) là “ban bố, khác biệt”. Ví như biển là một nguồn, mà tách ra thành muôn dòng. Như một vầng trăng trên bầu trời, hiện bóng nơi trăm sông. “Tập” (集) là cùng nhau, là tụ lại; như trời sắp tối, các loài chim đều quay về, tụ tập trên cây nghỉ ngơi. “Hội” (會) là chung, là hợp lại. Sách Châu Lễ chép: “Thời kiến viết Hội” (Có dịp gặp nhau thì là hội). Bởi lẽ, Phật nhật sắp lặn, đại địa sắp tối tăm, Bồ Tát điểu vương dẫn các loài cùng về chỗ đậu lại nghỉ ngơi, cùng nhóm lại gặp gỡ. Bởi lẽ, phân tán vốn là từ Thể khởi Dụng, từ Bổn hiện Tích. “Tập hội” là gom Dụng về Thể, gom Tích hội về Bổn. Đang trong khi phân tán, một là vô lượng. Nay tập hội, vô lượng là một. “Một là vô lượng” thì một chẳng phải là một. “Vô lượng là một” thì nhiều chẳng phải là nhiều. Một và nhiều vô ngại, cuộn lại (rút gọn lại) hay duỗi ra (mở rộng ra) tự do. Oai đức thần thông chẳng thể nghĩ bàn, cảm ứng đạo giao, chủ và khách nhóm hội tốt lành. Vì thế nói là phẩm thứ hai, Phân Thân Tập Hội.

          Phân thân của đức Địa Tạng đã nhóm họp, đức Như Lai xoa đỉnh đầu [Bồ Tát], bảo rằng: “Ông đã bao kiếp phân thân siêng khổ”, tạo nhân duyên an ủi Bồ Tát hãy cứu tế đời Mạt, nghĩ nhớ [đức Phật] đã phó chúc trên cung trời. Bồ Tát bèn hợp các phân thân lại, lãnh nhận lời dạy, chờ cho đến khi gặp Di Lặc thọ ký, sẽ trọn hết thân mạng hộ trì. Ấy là vì lục đạo chúng sanh trong pháp giới do Hoặc, Nghiệp, Khổ mà quay cuồng trong ba đường, đến nỗi trôi lăn trong địa ngục, ngạ quỷ, súc sanh tam đồ! Nhưng nơi chúng sanh thọ khổ chính là cửa nẻo để Bồ Tát nhiếp hóa. Vì thế, tiếp đó nêu ra ba phẩm nghiệp duyên, nghiệp cảm, và danh hiệu địa ngục để làm đạo trọng yếu cho đồng thể từ bi, tạo cái duyên tốt lành cho đấng U Minh giáo chủ. Vì thế, nói [Địa Tạng Bồ Tát] chính là Tăng Thượng Duyên cho chúng sanh thành tựu Phật đạo, há phải là lời suông ư? Kinh Duy Ma chép: “Chư Phật giải thoát, đương ư chúng sanh tâm hạnh trung cầu” (Đạo giải thoát của chư Phật hãy nên cầu từ trong tâm hạnh của chúng sanh) là nói về điều này. Ba thứ chướng ấy lại bắt nguồn từ nhau và thành tựu lẫn nhau: Do Hoặc mà tạo nghiệp, do nghiệp mà chuốc khổ. Do vậy, ba phẩm liên tiếp khít khao theo thứ tự mà có.

          Nay trước hết là giải thích về phẩm Quán Chúng Sanh Nghiệp Duyên. Chữ Bộc Hô Thiện Na (Bahu-jana) trong tiếng Phạn được cõi này dịch là Chúng Sanh. Sách Pháp Hoa Văn Cú đã dựa theo ba cách giải thích trong kinh Trung A Hàm [để giải thích chữ Chúng Sanh]:

          1) Thuở kiếp sơ, Quang Âm Thiên hạ sanh thế gian, không có nam, nữ, tôn quý, hèn hạ, mọi người cùng sống trong cõi đời. Vì thế nói là Chúng Sanh. Đấy là nói theo thuở tối sơ.

          2) Nếu nắm giữ các Ấm bèn có “giả danh chúng sanh”. Đấy là căn cứ trên một giai đoạn thọ báo [để nói].

          3) Nếu nói “thọ sanh khắp nơi thì gọi là chúng sanh”, đấy là dựa theo sự lưu chuyển trong năm đường.

          “Nghiệp”: Tác động thì gọi là Nghiệp. Sách Diệu Pháp Liên Hoa Kinh Huyền Nghĩa nói: “Tạo tác, lo toan, vận dụng ba nghiệp, kiến lập các điều ác thì gọi là Tác”. Luận theo lẽ thật, Thể (bản chất của nghiệp) chính là Tư (思, suy nghĩ), suy nghĩ cho hành động nơi thân, suy nghĩ để nói năng, và chính sự suy nghĩ ấy, ba thứ đều được gọi là Nghiệp. Vì thế biết: Nơi thân không gì chẳng phải là nghiệp. Do suy nghĩ mà có hành động nơi thân v.v… thì mới gọi là Nghiệp.

          “Duyên” là danh xưng để chỉ sự bắt nguồn, nương nhờ lẫn nhau, gần gũi (tức là phụ trợ cho) cái nhân có thể sanh khởi [ra cái quả thì gọi là Duyên]. Thật ra, nó chính là cái tâm vô minh điên đảo đó thôi. Do tâm mà khởi nghiệp, do nghiệp mà thọ thân. Thân còn tạo nghiệp để nhận lấy hình hài, hình hài lại thuận theo sự sắp đặt của cái tâm mà thăng trầm theo nghiệp, khổ hay lạc là do cái tâm! Như bóng do hình mà cong hay thẳng, tiếng vọng do âm thanh mà to hay bé, chẳng sai sót mảy may! Vì thế, đức Phật bảo Trường Trảo Phạm Chí (Dirghanakha Brahmacārin) rằng: “Thế do tự nghiệp, nghiệp vi năng thọ. Nghiệp vi sanh xứ, nghiệp vi thân tộc, nghiệp vi sở y” (Cõi đời là do tự nghiệp, nghiệp là cái có thể nhận lãnh. Nghiệp là chỗ sanh khởi, nghiệp là thân tộc, nghiệp là chỗ để nương vào). Kinh Đại Thừa nói: “Như mộc hữu hỏa, ngộ duyên tức phát, tắc tri hiện thế khổ lạc, do tiên thế nghiệp” (Như gỗ có sẵn lửa, gặp duyên bèn phát khởi (bốc cháy). Cho nên biết khổ hay vui trong hiện đời là do nghiệp từ đời trước). Nghiệp do tham, sân, vô minh, cho nên gọi là Chúng Sanh Nghiệp Duyên. Nhưng nghiệp có Thông và Biệt. Thông là khổ và lạc trong mười pháp giới. Biệt thì sự khổ dữ dội trong tam đồ, đều là cảnh được quán bởi Bồ  Tát. Chủ  thể  có  thể  quán (năng

quán) chính là trí tam quán của Bồ Tát.

          Trước hết, luận về Thông Quán, nói chung chẳng lìa khỏi tự tâm. Như Kim Quang Minh Kinh Sớ viết: “Quán chắc thật một niệm tâm, tức Không, tức Giả, tức Trung, tức là ba thân. Vì sao vậy? Kinh Hoa Nghiêm nói: ‘Tâm như thợ vẽ khéo, tạo các thứ Ngũ Ấm’. Nếu tâm duyên theo chuyện phá giới, tức là thân địa ngục. Do không hổ thẹn, [lại còn] kiêu, mạn, nóng giận v.v… tức là thân súc sanh. Do siểm khúc [hòng đạt được] tiếng tăm, nên là thân ngạ quỷ. Do ganh tỵ, cạnh tranh, thì chính là thân Tu La. Do hành Ngũ Giới, ngăn ngừa Ngũ Ác, tức là thân người. Do Thập Thiện, ngăn ngừa Thập Ác, hành Thiền Định, ngăn ngừa tán loạn thì là thân trời. Do vô thường, khổ, không, không vô tướng nguyện, tức là thân Nhị Thừa. Do từ bi, Lục Độ, tức là thân Bồ Tát. Duyên theo Chân Như Thật Tướng, tức là thân Phật. Thân trong mười pháp giới đều do tâm tạo; vì thế, cần phải quán Duyên Khởi. Nếu quán riêng tam đồ địa ngục chúng sanh lên núi đao, lên non gươm, sẽ dẹp tan sắc tâm; quán ngạ quỷ nuốt nước đồng, ăn hòn sắt nóng, uống máu, nuốt mủ, quán súc sanh đội mai, mang vảy nuốt nhau, chở nặng, kéo xe, mắt Từ đã thấy, tâm Bi liền cứu. Đã chỉ là do tâm tạo, vô tánh duyên sanh; tánh của duyên sanh vốn là không thì nghiệp trong mười pháp giới há có thể đạt được ư?”

          Vì thế, quyển bốn mươi tám của kinh Hoa Nghiêm có nói: “Bồ Tát tri chư nghiệp, bất tùng tứ duy, thượng, hạ lai, nhi cộng tích tập, chỉ trụ ư tâm, đản tùng điên đảo sanh, vô hữu trụ xứ. Bồ Tát như thị quyết định minh kiến, vô hữu nghi hoặc. Chủng chủng chư nghiệp, nhi thật vô ngã, vô hữu ngã sở, lục thú quả báo, thập phương thôi cầu, tất bất khả đắc. Tùy hữu tu tập, tắc thọ kỳ báo. Thí như huyễn sư, huyễn hoặc nhân nhãn. Nhữ đẳng tích tại địa ngục, địa ngục cập thân, phi thập phương lai, đản do ư nhữ điên đảo ác nghiệp, ngu si triền phược, sanh địa ngục thân. Thử vô căn bản, vô hữu lai xứ. Ký quán nhất Ấm, không vô sở hữu, tắc linh thập giới, giai bất khả đắc” (Bồ Tát biết các nghiệp chẳng từ bốn phương, trên, dưới mà đến, nhưng chúng cùng nhau tích tập, an trụ nơi tâm, chỉ từ điên đảo mà sanh, chẳng có chỗ trụ. Bồ Tát thấy rõ ràng quyết định như thế, chẳng có nghi hoặc. Đủ mọi các nghiệp thật sự vô ngã, chẳng có ngã sở, đối với quả báo trong sáu đường bèn suy lường, tìm tòi khắp mười phương, nhưng đều trọn chẳng thể được. Hễ có tu tập, bèn hưởng quả báo. Ví như nhà ảo thuật huyễn hoặc mắt người. Các ngươi trước kia ở trong địa ngục, mang thân địa ngục, chẳng do từ mười phương đến, chỉ vì các ngươi bị ác nghiệp điên đảo, ngu si quấn trói, sanh làm thân địa ngục. Chuyện này không có căn bản, chẳng có chỗ đến. Đã quán một Ấm là “không, vô sở hữu”, thì [sẽ nhận biết] mười pháp giới đều chẳng thể được). Sách Diệu Pháp Liên Hoa Kinh Huyền Nghĩa nói: “Quán thân do tâm, tâm do duyên khởi, sanh diệt nhanh chóng, chẳng thấy trụ xứ, tướng mạo, chỉ có tên gọi, mà tên gọi cũng là không. Vì thế, cần phải quán nghiệp duyên của chúng sanh”.

          Phẩm trên đây đã chỉ rõ “do Hoặc mà tạo nghiệp”, phẩm kế tiếp bèn nêu rõ “do nghiệp mà cảm quả”. Hình ngay thì bóng thẳng, nguồn bẩn ắt dòng chảy đục ngầu! Đạo cảm ứng chẳng sai một mảy! Diêm Phù nói đầy đủ thì phải là Diêm Phù Đề (Jambudvīpa), cõi này dịch là Thắng Kim (chất vàng thù thắng). Diêm Phù (Jambu) là tên một loài cây, Đề (Dvīpa) là từ ngữ chỉ một châu. Phía trên châu này có khu rừng mọc toàn loại cây ấy. Trong rừng có con sông, đáy phủ cát bằng vàng, gọi là Diêm Phù Đàn Kim (Jambunadasuvarṇa). Do cây Diêm Phù mà gọi [đại châu này] là Diêm Phù Châu. Có năm trăm tiểu châu vây quanh, gọi chung là Diêm Phù Đề.

          Sách Tây Vực Ký nói: “Nam Thiệm Bộ Châu (tức Nam Diêm Phù Đề), do cõi này [Trung Hoa] không có danh xưng tương đương, cho nên chẳng dịch nghĩa. Nếu chỉ ghi lại nghĩa theo văn tự mà dịch thành Uế Thụ (cây nhơ bẩn) thì không thể hiện được ý nghĩa”. Nay chuẩn theo ngài Trường Thủy[1] có nói: “Nước quả Diêm Phù có thể biến vật khác thành vàng. Do nước ấy nhỏ xuống sông, đá bị dính nước ấy, biến thành vàng. Do vậy, lấy chuyện nước quả nhỏ giọt làm bẩn để làm danh xưng đẹp đẽ, chẳng lấy chuyện tiết Thu lá rụng bẩn ao để làm danh xưng xấu xí”. Tôi tra cứu, thấy Lập Thế A Tỳ Đàm[2] nói: “Xưa kia tại thành Vương Xá, có hai vị tỳ-kheo có sức thần thông, cùng kết bạn với nhau để đến xem cây ấy. Vì thế, họ đến chỗ cây đó, thấy quả đã chín, rơi xuống đất vỡ nát. Một vị tỳ-kheo bèn từ lỗ thủng ở cái cuống của quả mà thọc ngón tay vào trong, ngón dài nhất vẫn chưa chạm đến hạt, bèn rút ngón tay ra. Do bị nhuốm nước quả, móng tay đều đỏ. Khi đó, có một người tên là Trường Hĩnh (cẳng dài), đi tới bên cây, hái một quả đem về dâng lên đức Thế Tôn. Đức Phật nhận lấy quả ấy, bẻ thành nhiều miếng, chia cho đại chúng. Nước quả nhuốm tay Phật, đức Phật bèn dùng tay chà lên vách đá, đến nay sắc đỏ vẫn như xưa chẳng khác, vẫn ướt, chẳng khô, vết tay rành rành. Do xưa kia [đức Phật] đã tách quả thành từng miếng, nên gọi đá ấy là Phiến Phiến Nham”. Đoạn văn này đủ để chứng minh ý nghĩa “thấm nhuộm là Uế”.

          “Cảm” (感) là thiên cơ xúc động. Từ chữ Tâm (心) và chữ Hàm (咸) mà ghép thành chữ Cảm, hàm nghĩa “cơ cảm lẫn nhau”. Con người và vạn vật trong trời đất có cùng một Thể. Chẳng phải là hai thì cái gì là cảm? Chẳng phải là một thì cái gì có thể cảm? Cảm sanh từ Tịch, vì thế nói là “tịch nhiên bất động”. Do cảm bèn thông, tức là chủ vắng lặng mà cảm khách, người học hãy nên đặt vững cái căn cội tự nhiên này.

          [Chữ Cảm lại do] Tâm và Hàm [ghép lại] thì có nghĩa là gì? “Hàm” là đều, tức là đều do trong tâm động mà có cảm. Luận Khởi Tín nói: “Do chẳng biết pháp Chân Như là một, cho nên bất giác tâm động. Hễ động bèn có khổ, vì quả chẳng lìa nhân”. Ngài Nam Nhạc nói: “Tùy duyên bất biến thì gọi là Tánh. Bất biến tùy duyên thì gọi là Tâm; há chẳng phải là do tâm động mà cảm ư?”. Kinh dạy: “Nhất thiết chúng sanh vị giải thoát giả, tánh thức vô định, vi thiện, vi ác, trục cảnh nhi sanh” (Hết thảy chúng sanh là những kẻ chưa giải thoát, tánh thức bất định, làm lành, làm ác, thuận theo cảnh mà sanh) là nói đến ý này. Nếu luận định chung thì chúng sanh trong mười pháp giới đều là nghiệp cảm.

          Sách Ma Ha Chỉ Quán viết: “Nghiệp có ba loại là lậu nghiệp (của lục phàm), vô lậu nghiệp (của Nhị Thừa), phi lậu phi vô lậu nghiệp (của Bồ Tát), cảm vời ba cõi là Phần Đoạn, Phương Tiện, và Thật Báo. Báo do ba thứ phiền não là Thủ Tướng (chấp giữ lấy tướng), Trần Sa, và Vô Minh”. Dựa theo đó, Như Lai đã đoạn Tam Hoặc, huệ nghiệp vô lậu thanh tịnh, cảm sanh trong cõi Tịch Quang.

          Sách Thập Di Ký nói: “Tông này khéo giải thích ‘tâm tạo’ của Hoa Nghiêm có hai nghĩa: Một là Lý tạo, ‘tạo’ tức là trọn đủ. Hai là Sự tạo, thông cả ba đời, tạo thành mười pháp giới, tức là quá khứ tạo thành hiện tại, quá khứ và hiện tại tạo tương lai, hiện tại tạo hiện tại, đều do Lý trọn đủ thì mới có Sự tạo. Vì thế, thân trong mười pháp giới, mỗi mỗi đều là toàn tánh khởi tu. Tuy toàn là tu, nhưng do nhân đã thành cảm quả, chẳng có sai sót. Vì thế, thân trong mười pháp giới đều có giả và thật, cùng với y báo, chẳng có một vật nào tự dưng dấy lên”. Kinh nói: “Vị kiến tha tác ngã thọ, ngã tác tha thọ, nãi tự tác tự thọ nhĩ. Cố Phật cáo Thủ Ca trưởng giả vân: – Nhất thiết chúng sanh hệ thuộc ư nghiệp, y chỉ ư nghiệp, tùy tự nghiệp chuyển, dĩ thị nhân duyên, hữu thượng, trung, hạ sai biệt” (Chưa thấy người khác làm mà ta hứng chịu, ta làm mà người khác hứng chịu, mà là tự làm, tự chịu đó thôi! Vì thế, đức Phật bảo trưởng giả Thủ Ca rằng: “Hết thảy chúng sanh bị phụ thuộc, trói buộc bởi nghiệp, nương cậy nghiệp, bị xoay chuyển bởi nghiệp của chính mình, do nhân duyên ấy mà có thượng, trung, hạ sai khác”) là nói về ý này.

          Hỏi: Nghiệp cảm thông thấu mười pháp giới, vì sao lại chỉ nói về chúng sanh trong Diêm Phù?

          Đáp: Bồ Tát nhất định dùng mười loại thân[3] để lợi lạc chúng sanh, dùng bốn cõi để nhiếp hóa các hữu tình. Nay riêng nói Diêm Phù là vì chúng sanh trong cõi này dễ tạo nghiệp cảm vời sự khổ cùng cực. Vì thế, bi tâm của Đại Sĩ riêng hướng về họ. Vì sao biết vậy? Trong các quốc độ khác, hoặc thuần là Bồ Tát, hoặc ba thừa cùng cư trụ, tức là phàm và thánh cùng chung sống, hoặc là tạo nghiệp nhẹ ít. Chỉ có cõi Sa Bà, hễ là chúng sanh ác nghịch không được mười phương quốc độ dung chứa thì đều thác sanh trong cõi này.

          Lại nữa, đối với mỗi Tứ Thiên Hạ, [chỉ nói đến tội nghiệp nặng nề của Nam Diêm Phù Đề], trọn chẳng nói đến ba châu kia. Như kinh Trường A Hàm nói người ở châu Đông Phất Bà Đề (Pūrva-videha, Đông Thắng Thần Châu), kẻ đa dục thì trong một đời chỉ hành dâm tới sáu, bảy lần; cũng có người tu hành cho đến chết, trọn chẳng có dục sự. Người ở Tây Châu (Apara-godānīya, Tây Ngưu Hóa Châu, Cù Đa Ni Châu) tạo nghiệp rất ít. Thánh nhân không sanh vào Bắc Châu (Uttara-kuru, Bắc Câu Lô Châu, Uất Đan Việt Châu); chỉ có người ở Nam Châu (Nam Diêm Phù Đề) khởi tâm động niệm, không gì chẳng phải là tội, dẫu đạt được thiện lợi, phần nhiều thoái thất cái tâm ban đầu. Nếu tạo ác duyên thì niệm niệm tăng trưởng. Do vậy, đặc biệt nêu ra [nghiệp cảm của họ], càng thấy rõ đức Địa Tạng đại thánh do lòng Từ bình đẳng, phân thân trong các cõi nhiều như cát sông Hằng, nhưng bi tâm riêng hướng về hữu tình của Nam Châu. Vì thế, nói ra phẩm thứ tư là Diêm Phù Chúng Sanh Nghiệp Cảm.

          Nghiệm cảm được luận định trong phần trên là luận chung mười pháp giới, nay luận riêng trong lục đạo. Xét trong lục đạo, ba đường lành khổ lạc xen kẽ, ba đường ác thuần khổ chẳng vui! Ngay như trong tam đồ, nỗi khổ của ngạ quỷ và súc sanh nhẹ hơn, nỗi khổ trong địa ngục dữ dội nhất. Kinh này nói: “Tội khổ chi sự, bất nhẫn xưng thuyết, bách thiên tuế trung, tốt bạch nan cánh” (Chuyện tội khổ chẳng nỡ nói kể, dẫu nói trong trăm ngàn năm cũng khó nói trọn hết được). Vì thế, ngài Phổ Hiền nghe phẩm Nghiệp Cảm xong, liền hỏi tên gọi của địa ngục là do ý này. Lập Thế A Tỳ Đàm Luận nói: “Địa ngục, tiếng Phạn là Nê Lê Da (Naraka), âm đúng là Na Lạc Ca, hoặc là Nại Lạc Ca, cõi này dịch là Vô Hữu”. Tân Tỳ Bà Sa Luận nói: “[Sở dĩ gọi tên như vậy là] vì các hữu tình ấy không vui vẻ, không yêu mến, vô vị, chẳng có lợi ích, không vui sướng”. Cựu Tỳ Bà Sa Luận gọi [địa ngục] là Bất Tự Tại, ý nói những tội nhân ấy bị ngục tốt A Bàng[4] câu thúc, chế ngự, chẳng được tự tại. Đấy là dựa theo ý nghĩa của chánh báo mà phiên dịch.

          Theo kinh này, địa ngục ở trong ba cái biển. Theo Tân Tỳ Bà Sa Luận, địa ngục ở phía dưới Thiệm Bộ Châu (châu Nam Diêm Phù Đề) này. Sách Diệu Pháp Liên Hoa Kinh Huyền Nghĩa nói: “Địa ngục chánh nằm sâu hai vạn do-tuần dưới đất; còn các địa ngục phụ, hoặc ở trên mặt đất, hoặc ở trong khoảng giữa núi Thiết Vi”. Nay do nói theo đa số, bèn gọi là địa ngục. Luận Tỳ Bà Sa lại nói: “Nam Châu có các địa ngục chánh và phụ. Hai châu Đông và Tây chỉ có địa ngục phụ, không có địa ngục chánh. Bắc Châu thì địa ngục chánh lẫn phụ đều chẳng có. Người trong ba châu nếu tạo trọng tội, đều đến chánh ngục ở Nam Châu và các ngục phụ ở hai châu Đông và Tây vì địa ngục chánh thì nặng nề, địa ngục phụ thì nhẹ nhàng hơn”.

          “Danh hiệu” [ở đây] là danh xưng của địa ngục. “Danh” là tự gọi, hay đặt tên cho các vật. Xưa kia, Hoàng Đế đặt tên gọi chánh thức cho trăm vật. Do coi [những danh xưng đã đặt ấy] là lẽ đương nhiên, nên gọi là Chánh. Nhưng trăm vật đông đảo, sao lại từ Tịch (夕, buổi tối) và Khẩu (口) [ghép thành chữ Danh (名)]? Sách Châu Lễ nói: “Quan đại tư mã chưởng quản các danh hiệu [trong quân đội] là vì đối với việc chỉ huy trong quân vào ban đêm, dẫu tối tăm [nhưng do dựa vào khẩu lệnh khác nhau] vẫn có thể phân biệt được”. “Hiệu” (號) là mệnh lệnh triệu tập của bề trên dùng để công bố tin tức quan trọng, giống như gió trong trời đất vậy. Nếu chẳng như vậy, sẽ không có gì để cổ vũ, hô hào mọi người, đó cũng là tên chung để gọi muôn vật, gom những cái khác biệt thành cái chung! Hay thay ý nghĩa tự đặt tên! Vua Diêm La bảo các tội nhân: “Các ngươi tự làm ác, chẳng phải là lỗi của cha mẹ, vua, trời, sa-môn, hay đạo nhân. Tội do chính các ngươi tạo, bất đắc dĩ vì không đạt được vui sướng cho nên mới thôi [tạo tội]! Nay [các ngươi] phải hứng chịu [những quả báo do tội lỗi ấy], bèn [dùng tên gọi của những quả báo ấy] làm danh xưng của địa ngục, đều là tự làm rồi tự đặt tên vậy”. Hay thay! Truyền lệnh thông báo tin như thế đấy!

          Nếu Diêm Vương chẳng lập danh hiệu địa ngục, sẽ dùng gì để cảnh tỉnh, răn đe tội nhân? [Quả báo trong địa ngục] tơ hào chẳng sai, [nêu ra danh hiệu địa ngục] nhằm cổ vũ [chúng sanh] hãy sửa ác, theo lành! Tuy ai nấy đều tạo tội riêng biệt, nhưng nhất loạt đọa vào địa ngục chẳng sai! Do gộp chung những điều khác biệt thành tương đồng mà đều gọi là địa ngục. Nhưng chữ Ngục (獄) do chữ Ngôn (言) và hai chữ Khuyển (犬, chó) ghép lại, nhằm nói lên điều gì? Tranh cãi! Như hai con chó tranh tiếng sủa. Đấy là nơi mất thân, mà cũng là nơi hồi tâm. Than ôi! Trong nhân gian, một kẻ bị giam vào ngục, sẽ khiến cho chín họ[5] kinh hoàng, thảng thốt. Lục thân đọa vào địa ngục, người nghe chuyện cứ ơ hờ, chẳng hoảng sợ, chẳng cảnh tỉnh, nhọc nhằn đức từ tôn Địa Tạng bao kiếp cứu bạt, ngục nào, ngục nấy càng tăng thêm! Đức Phổ Hiền thưa hỏi, xin [Địa Tạng Bồ Tát] nói ra, vì thấy đại hạnh chẳng ngưng nghỉ, biểu thị bi tâm [của đức Địa Tạng] chẳng hề gián đoạn. Đấy chính là thâm ý thưa hỏi danh hiệu địa ngục vậy.

          Trong những phần trên đã trần thuật nghiệp duyên và nghiệp cảm của chính mình, cho đến phẩm này, cũng được gọi là tam đạo, còn gọi là tam chướng. Sở dĩ nói ra điều này là vì muốn khai hiển tam đạo, hoặc [chỉ bày] tam chướng chính là tam đức. Như sách Ma Ha Chỉ Quán viết: “Hỏi: Tam chướng và tam đạo đều chướng ba đức. Tam chướng khai thông tới cùng cực, thì lẽ ra tam đạo cũng phải được khai thông tới cùng cực chứ? Đáp: Xét theo Sự, do Hoặc mà dấy lên nghiệp, do nghiệp mà cảm khổ, do khổ lại dấy lên Hoặc. Ba điều ấy là tu ác, tức là tánh thành ba thứ. Tánh [ở đây] là nói đến ba chướng, cho nên có đủ cả ba. Tu từ tánh mà thành, cho nên thành ra ba pháp. Vì thế, tu ác trong tam đạo và tam ác trong tánh dung thông, tùy ý thâu nhiếp tam đức tánh thiện trong Phật giới”. Do đó, đại sư nói: “Hãy nên biết tam đạo, Thể của chúng chính là chân Thường Lạc Ngã Tịnh, chẳng hai, chẳng khác với ba đức”. Vì thế, khổ đạo chính là Pháp Thân, phiền não chính là Bát Nhã, kết nghiệp chính là Giải Thoát. Nêu ra ba phẩm ấy chính vì muốn khai thông thô trí lâu xa trong tứ ác và thế trí của nhân thiên; đừng mở ra sắc tâm giả thật trong địa ngục. Nếu chẳng khai thông, ắt tri kiến của Phật vĩnh viễn bị vùi lấp trong bốn nẻo, mai một dài lâu trong đường trời, người. Ba phẩm được khởi lên khúc chiết, liên kết, một đạo khơi rạng đã thành; vì thế, sức oai thần của đức Địa Tạng chẳng thể nghĩ bàn!

          Ba phẩm Chúng Sanh Nghiệp Duyên v.v… trên đây đã mở bày “tam đạo thành tam đức đều là do sức oai thần chẳng thể nghĩ bàn của đức Địa Tạng”. Vì thế, đức Như Lai đối trước đại chúng trời, người, đặc biệt giãi bày, tán thán. Một là nhằm hiển thị thần lực từ bi của đức Địa Tạng từ vô số kiếp đến nay. Hai là khuyên chúng sanh trong đời vị lai cúng dường [Bồ Tát] sẽ được phước. Vì vậy mà có phẩm này. Tiếng Phạn Đa Đà A Già Đà (Tathāgata), hoặc [còn phiên âm] là Đát Thát A Kiệt, Hán dịch là Như Lai. Như Lai là giả danh. Danh ắt triệu vời cái thật, cho nên có Pháp, Báo, Hóa ba thân khác nhau. Kinh Kim Cang nói: “Vô sở tùng lai, diệc vô sở khứ, cố danh Như Lai giả” (Không từ đâu đến, mà cũng không đi đến đâu, cho nên gọi là Như Lai); đó là nói về Pháp Thân. Nếu bảo “Đệ Nhất Nghĩa Đế gọi là Như, Chánh Giác là Lai”, đấy là nói đến Báo Thân. Nếu nói “thừa như thật đạo, lai thành Chánh Giác” (nương theo đạo như thật, đạt thành Chánh Giác) thì gọi là Như Lai; đấy là nói về Ứng Thân. Nay [kinh chép] đức Phật tán thán ở cung trời là nói về thân nào? Cần phải biết kinh này [được nói] sau kinh Pháp Hoa, ắt đại chúng trong cung trời toàn là căn cơ viên mãn, đều dùng nghiệp thức để thấy tướng, trụ trong thật lý Trung Đạo. Đấy chính là sắc ứng, chính là thân tôn quý đặc biệt, giống như long nữ [tám tuổi, thị hiện thành Phật trong hội Pháp Hoa], gọi là Pháp Thân thanh tịnh vi diệu, trọn đủ ba mươi hai tướng, mỗi tướng đều như biển, chẳng cần phải hiện khởi thì mới gọi là “tôn đặc” (tôn quý, đặc biệt), chính là cảnh bổn định thân của đức Thích Ca, lại còn là chân thân của Viên Thật Bộ Chủ.

          “Tán” (讚) là lời lẽ khen ngợi; do văn từ trong phẩm này mà kết thành chương kinh. “Thán” (歎) là than thở, chính là thuận theo tiếng mà ca vịnh. Địa Tạng Đại Sĩ oai đức vô cùng, từ bi thật lớn, tán dương chẳng trọn hết những điều bao hàm, cho nên lại thêm lời than thở. Hỏi: “Vì lẽ gì đức Phật chẳng tán thán công đức Lục Độ của đức Địa Tạng, mà riêng tán thán sức từ bi oai thần vậy?” Đáp: Như Đại Luận nói: “Chúng sanh có hai loại: Một là người thích thiện pháp, hai là người thích quả báo của thiện pháp. Vì người thích thiện pháp mà tán thán các công đức. Vì người thích quả báo của thiện pháp mà tán thán đại thần lực”, đúng là có cùng một ý với kinh này. Vì thế gọi là phẩm thứ sáu, tức phẩm Như Lai Tán Thán.

          Phẩm trên đây đã tán thán sức oai thần, nay nói về sự lợi ích cho kẻ còn và người mất để hiển thị sự thật. Bậc cổ thánh nói: “Chỉ nói suông, chẳng bằng thấy sự thật”. Nay nêu ra lợi ích cho kẻ còn, người mất, chính là để thấy sự thật. “Lợi” là quan tâm đến lợi ích của chính mình. Chúng sanh ai nấy đều mong được thỏa ý, sẽ dễ dẫn đến ích kỷ; [cho nên] cổ nhân nghiêm cấm. Chữ Vật (𥝤) được ghép thêm chữ Đao (刀) [thành chữ Lợi (利), hàm ý] “cầu lợi thì sẽ dẫn đến điều hại!” “Ích” (益) là tăng tấn. Cân nhắc khi rót nước vào bát, vừa đúng sức chứa của nó bèn ngưng; hễ còn thiếu thì vẫn có thể nhận thêm, hễ đầy thì sẽ chẳng chứa thêm nữa. Vì thế, Ích còn là “lợi ích rộng khắp”, chẳng phải là như thêm nước vào sẽ tràn đầy. “Tồn” (存) là hãy còn. Riêng giữ lấy chữ Tử (子) [bên trong chữ Tại (在)], nhằm thể hiện lòng lo lắng đau đáu của cha mẹ. Ý nghĩa của chữ Tồn này xét theo ý nghĩa của chữ Tài (才), tức là cha mẹ sanh con, thường sợ hãi chẳng biết con sẽ sống sót hay chết mất, may mà con chẳng chết yểu, cho đến khi con thành tài, [cha mẹ] sẽ vui mừng. [Từ chuyện này] mà có thể biết ý nghĩa [của Tồn]. “Vong” (亡) là mất đi. Con cái hãy còn, cha mẹ đã mất. Cha mẹ đã mất, đã chôn cất rồi, đứa con hiếu vẫn như cha mẹ hãy còn nằm đó. Đã chôn rồi, đâm ra dẫu cầu [cha mẹ sống lại] cũng chẳng được! [Chữ Vong (亡) do Nhập (入) và Ẩn (乚) ghép lại, hàm ý: Cha mẹ chết đi] như vào trong chỗ ẩn kín, bèn dùng tế lễ để cầu, thờ người khuất y như còn sống, giống như mong cha mẹ đã đi rồi sẽ trở lại. Đấy là cách giải thích theo thế tục.

          Như sách Diệu Pháp Liên Hoa Kinh Huyền Nghĩa nói: “Công đức lợi ích, một mà chẳng khác. Nếu phân biệt thì lợi ích cho chính mình sẽ gọi là công đức; lợi ích cho kẻ khác thì gọi là Lợi Ích”. Nay Địa Tạng Bồ Tát tự khuyên mọi người, hãy vì bệnh nhân tu phước niệm Phật, thận trọng, đừng sát hại để bái tế quỷ thần. Ngài cùng ông trưởng giả Đại Biện nêu rõ nhân duyên tụng kinh, cúng cỗ chay khi sanh nở và khi có người đã khuất, đều chẳng vì chính mình, mà chỉ vì chúng sanh còn sống hay đã khuất, nên chỉ gọi là “lợi ích”. Tức là nói rõ có ba thứ lợi ích:

          1) Một là viễn ích (lợi ích xa xôi), như đại chúng nhóm họp tại cung trời, từ chư Phật, Bồ Tát giải thoát đã lâu, cho tới các loại thiên long bát bộ căn cơ đã chín muồi, nhưng chưa giải thoát.

          2) Hai là cận ích (lợi ích gần gũi): Từ thời Câu Lưu Tôn Phật trong Hiền Kiếp cho đến Phật Thích Ca, tức là từ bốn vị Phật cho tới nay, những chúng sanh do Địa Tạng Bồ Tát hóa độ có kẻ đã gieo thiện căn, có kẻ căn cơ đã chín muồi, có kẻ đã được độ thoát, họ đều là những người đến thiên cung để nghe pháp.

          3) Thứ ba là văn ích (lợi ích do được nghe kinh này), tức là nghe xong phẩm kinh này, ngàn vạn ức na-do-tha quỷ thần trong cõi Diêm Phù đều phát vô lượng Bồ Đề tâm, và những người nghe pháp trước sau đều do nghe pháp mà đạt được lợi ích. Kinh này đã giống như kinh Pháp Hoa, cũng nên chuẩn theo Diệu Pháp Liên Hoa Kinh Huyền Nghĩa để nêu đại lược bảy thứ lợi ích, hoặc mở rộng thành mười thứ lợi ích. Nhưng từ xưa cho tới nay, luận định về công năng khơi mở, hiển thị cao tột thì chỉ đề cao kinh Pháp Hoa, ngay cả Niết Bàn cũng còn kém, há có thể đem lời phó chúc viên dung trên thiên cung sánh ngang lời đàm luận khơi mở, hiển thị cùng tột tại Linh Sơn? Ba món lợi ích gồm thâu căn cơ, nghĩa ấy tự toàn vẹn. Vì thế, nói phẩm thứ bảy là phẩm Lợi Ích Tồn Vong.

          Phẩm Diêm Vương được xếp ngay sau đó là vì hai ý:

          1) Một là từ đầu, khi các phân thân của đức Địa Tạng lên trời Đao Lợi, Diêm Vương và các loài quỷ đều cùng theo đến. Họ chẳng được kể tên trong số đại chúng vân tập vì chủ khách thù tạc, sự tích liên quan, chẳng rảnh để kể tên. Vì thế, trong phẩm này, bèn thừa dịp mà kể ra.

          2) Đã nghe sức oai thần của ngài Địa Tạng, lại thấy đức Như Lai tán thán công đức, bèn thầm nghĩ Đại Sĩ thực hiện sự giáo hóa trong chốn U Minh, ta là bậc đàn chủ, há chẳng thừa dịp hỏi rõ về chuyện độ sanh cứu khổ của Ngài trong bao kiếp để bày tỏ sự tán thán ư?

          Vì thế, có phẩm thứ tám là Diêm La Vương Chúng Tán Thán.

          Diêm La nói đầy đủ là Diêm Ma La, hoặc Dạ Ma Lô Ca (Yamarāja), cõi này dịch là Tổng Tư (總司) của Song Thế Quỷ Quan, hoặc là Diêm Ma La Xã, cõi này dịch là Song Vương. Anh trai và em gái đều làm chúa cõi địa ngục, anh cai quản chuyện của nam giới, em coi chuyện của nữ nhân. Lại còn do phải nhận lãnh khổ lẫn lạc, cho nên gọi là Song. Nếu nói là Diêm La hay Diễm Ma thì chỉ là phiên âm sai khác. Vị này thuộc về đường quỷ, hoặc thuộc về đường địa ngục. Theo Tịnh Độ Tam Muội Kinh, xưa kia, Tỳ Sa Quốc Vương cùng vua Duy Đà Như Sanh giao chiến, binh lực không chống nổi địch thủ. [Vua Tỳ Sa] bèn thề nguyền làm chúa địa ngục. Mười tám người bầy tôi là thủ lãnh của trăm vạn quân sĩ, đầu có sừng, thảy đều phẫn hận; do vậy, họ thề nguyền mai sau sẽ phù tá [ngục chủ] trừng trị tội nhân. Vua Tỳ Sa nay là Diêm La Vương; mười tám vị đại thần nay là tiểu vương. Trăm vạn quân sĩ đều là các A Bàng.

          Kinh Trường A Hàm nói: “Diêm Phù Đề Nam, hữu Kim Cang sơn, nội hữu Diêm La vương cung, tung quảng lục thiên do-tuần (Vấn Địa Ngục Kinh vân: “Trụ ngục gian, thành tung quảng tam vạn lý, kim ngân sở thành”). Trú dạ tam thời, hữu đại đồng hoạch, tự nhiên tại tiền. Nhược hoạch nhập cung nội, vương kiến bố úy, xả xuất cung ngoại. Nhược hoạch xuất cung ngoại, vương nhập cung nội. Hữu đại ngục tốt, ngọa vương nhiệt thiết thượng, thiết câu tịch khẩu, dương đồng quán chi, tùng yết triệt hạ, vô bất tiêu lạn. Sự cánh, hoàn dữ thái nữ cộng tương ngu lạc. Bỉ chư đại thần đồng thọ phước giả, diệc phục như thị. Thị tắc Diêm Vương dữ chúng thần tá, giai dục thoát minh giới chi khổ” (Phía Nam của Diêm Phù Đề có núi Kim Cang, trong ấy có cung điện của vua Diêm La, ngang dọc sáu ngàn do-tuần (Vấn Địa Ngục Kinh nói: “Trụ trong ngục, thành có kích thước ba vạn dặm, do vàng và bạc tạo thành”). Ngày đêm ba thời, có vạc đồng lớn, tự nhiên hiện ra trước mặt. Nếu vạc vào trong cung, vua trông thấy sẽ kinh sợ, bỏ ra ngoài cung. Nếu vạc ra ngoài cung, vua liền vào trong cung. Có đại ngục tốt, đặt vua nằm trên sắt nóng, dùng móc sắt căng miệng ra, rót nước đồng sôi vào, từ cổ họng thấu xuống dưới, không gì chẳng cháy tan. Xong việc, vua lại cùng các cung nữ vui chơi. Các vị đại thần cùng hưởng phước cũng [chịu khổ] giống như thế. Vì vậy, Diêm Vương và các bầy tôi đều mong thoát khỏi nỗi khổ chốn U Minh). Do đó, họ giãi bày, tán thán, phát Bồ Đề tâm. Đấy là nói về những người thật sự cảm sanh trong địa vị ấy. Chứ nếu xét theo bổn tích của Chủ Mạng Quỷ Vương trong phần kinh văn kế đó thì Diêm Vương và các quỷ đều là bậc Bồ Tát chẳng thể nghĩ bàn, trụ trong Vương tam-muội, ứng hiện trong ấy để độ thoát chúng sanh trong địa ngục. Nếu không, há có thể dự hội trên thiên cung mà thưa hỏi để giải quyết mối hoài nghi, giãi bày, tán thán ư?

          Các phẩm trên đây, hoặc là vạch rõ tướng sai biệt trong lục đạo, hoặc tán thán sức oai thần của Địa Tạng, hoặc giảng rộng về lợi ích cho kẻ còn, người mất. Nếu chẳng nêu rõ cái nhân thoát khổ thành Phật, thì cái tâm cứu bạt ban sơ, cái nguyện mong cho chúng sanh cùng thành Phật quả của đức Địa Tạng sẽ chưa toàn vẹn. Mong thành Phật quả, ắt phải xưng niệm Phật. Vì thế có phẩm Xưng Phật Danh Hiệu. Chữ Phật Đà (Buddha) trong tiếng Phạn, Hán dịch là Tri Giả, vì đối với hết thảy các pháp, Ngài đều hay biết rõ ràng. Có khi dịch là Giác Giả, vì Phật là bậc tự giác, giác tha, giác hạnh viên mãn. Ấy là vì đối với mê mà nói là Tri (biết), đối với ngu mà nói là Giác. Triệu pháp sư (ngài Tăng Triệu) nói: “Phật là như thế nào? Chính là tiếng xưng hô bậc cùng lý tận tánh, đại giác”. Phàm là giấc ngủ sanh tử dài dằng dặc, ai có thể tự thức giấc (tự giác)? Đã tự giác, lại còn giác ngộ người khác, chỉ có mình đức Phật đó chăng? Triệu vời cái Thể thì là Danh, biểu thị đức thì là Hiệu; tức Danh là Biệt, mà Hiệu là Thông. Hết thảy chư Phật đều có đủ mười hiệu, vang rền nhân thiên. Nếu nói ra cái danh mà không có công năng đạt được vật, thì sẽ chẳng có vật để cái danh xứng với thật. Đấy là nói đến pháp nhân duyên trong thế gian. Danh và vật đều vọng, cả hai đằng đều chẳng đạt được! Vì thế nói là đương nhiên! Nay danh hiệu của chư Phật thì danh và thật đều là chân thật. Do đó, hồng danh vừa nêu, muôn đức toàn bộ đều trọn. Vừa xưng danh hiệu tốt lành, các tội đều tiêu!

          Nhưng niệm Phật và xưng Phật có  chút  sai  khác. Niệm  Phật  đại

khái là xét theo quán tâm, thành tựu Niệm Phật tam-muội. Đại sư lập ra bốn thứ tam-muội, đều gọi là Niệm Phật. Niệm là diệu quán năng quán (chủ thể thực hiện sự quán tưởng), Phật là diệu cảnh sở quán (đối tượng để quán). Thiền Bí Yếu Pháp Kinh chép: “Hữu Thiền Nan Đề A La Hán vấn diệt tội pháp. Phật cáo Thiền Nan Đề, cập sắc A Nan: – Nhữ đẳng đương giáo vị lai chúng sanh tội nghiệp đa giả, vị trừ tội cố, giáo sử niệm Phật. Dĩ niệm Phật cố, trừ chư nghiệp chướng, báo chướng, phiền não chướng. Niệm Phật giả, đương tiên đoan tọa, xoa thủ, bế mục, cử thiệt hướng ngạc, nhất tâm hệ niệm. Tâm tâm tương chú, sử bất phân tán. Tâm ký định dĩ, tiên đương quán tượng” (Có vị A La Hán tên là Thiền Nan Đề hỏi pháp diệt tội. Đức Phật bảo ngài Thiền Nan Đề và sắc truyền A Nan: – Các ông hãy dạy những chúng sanh nhiều tội nghiệp trong đời tương lai, để trừ tội thì hãy dạy họ niệm Phật. Do vì niệm Phật mà trừ các nghiệp chướng, báo chướng, và phiền não chướng. Niệm Phật thì trước hết hãy nên ngồi ngay ngắn, đan các ngón tay vào nhau, nhắm mắt, lưỡi co lên vòm họng, một lòng hệ niệm. Tâm tâm chuyên chú, khiến cho nó chẳng phân tán. Tâm đã định rồi, trước hết hãy nên quán tượng). Đức Phật lại nói: “Phật diệt độ hậu, nhược chúng sanh dục diệt tội giả, Phật tuy bất tại, hệ niệm, đế quán hình tượng giả, chư ác tội nghiệp tốc đắc thanh tịnh” (Sau khi đức Phật diệt độ, nếu chúng sanh muốn diệt tội thì tuy đức Phật chẳng tại thế, hãy hệ niệm, quán kỹ hình tượng, các ác tội nghiệp sẽ nhanh chóng được thanh tịnh). Vì thế, luận Bảo Vương nói: “Tắm trong biển cả là đã dùng nước của trăm sông. Niệm danh hiệu Phật, ắt thành tam-muội. Cũng ví như thanh châu gieo vào nước đục, nước đục chẳng thể không trong. Phật tưởng gieo vào loạn tâm, loạn tâm chẳng thể không là Phật! Sau khi đã khế hợp, tâm lẫn Phật cùng mất, vậy thì vạn duyên, vạn cảnh, không gì chẳng phải là tam-muội”. 

          Xưng Phật là như Tiểu Di Đà Kinh dạy: “Văn thuyết A Di Đà Phật, chấp trì danh hiệu, nhược nhất nhật, nhị nhật, nãi chí thất nhật, nhất tâm bất loạn…” (Nghe nói A Di Đà Phật bèn chấp trì danh hiệu, hoặc là một ngày, hai ngày, cho đến bảy ngày, nhất tâm bất loạn…) Từ Vân Sám Chủ nói: “Nói đến niệm Phật thì hoặc chỉ xưng danh hiệu, chấp trì chẳng tán loạn, sẽ cũng trong thân hiện đời bèn được thấy Phật”. Trong cõi này, hiện thời, phần nhiều xưng danh hiệu Phật là tốt nhất. Như pháp sư Hoài Cảm một mực xưng danh hiệu A Di Đà Phật, bèn đắc tam-muội, thấy Phật trong hiện tiền. Vì thế, hiện thời, phổ biến là dạy cách xưng danh hiệu Phật, ắt cần phải chế ngự cái tâm, đừng để cho nó tán loạn. Niệm niệm nối tiếp, duyên chắc theo danh hiệu. Miệng từng tiếng gọi Phật, trong tâm từng chữ rõ ràng, hoặc là một trăm câu, ngàn câu, vạn câu, hoặc một ngày, hai ngày, cho đến bảy ngày, cần phải nhất tâm, nhất ý, tâm và miệng tiếp nối. Như thế thì mới đạt được “một niệm diệt tội trong tám mươi ức kiếp sanh tử”. Nếu không, rất khó diệt tội!

          Đại sư giải thích nhất tâm xưng danh có Sự và Lý. Nếu dụng tâm giữ cho cái niệm chẳng gián đoạn, thì gọi là Sự nhất tâm. Nếu đạt được cái tâm ấy, bốn thứ chẳng sanh (tự, tha, đồng (cùng), ly (lìa), tức là bốn thứ so đo về tánh), tương ứng với Không Huệ (đã lìa bốn tánh, liền biết Vô Sanh) thì là Lý nhất tâm. Do vậy, niệm Phật và xưng Phật tuy phân biệt mà chẳng phân biệt! Cho nên nói “pháp chẳng có hình thể nhất định, muốn thật sự hiểu rõ sự thần diệu của nó thì phải do mỗi người tự lãnh hội!” Nhưng kinh này riêng nêu danh hiệu của chư Phật, chứ các kinh khác đều tán thán A Di Đà Phật, bởi lẽ [chư Phật đều là] “một thân, một trí huệ, lực, vô úy cũng thế”. Nếu chuyên niệm A Di Đà Phật, sẽ giống như xưng danh hiệu của chư Phật; nhưng vẫn là tùy theo ý thích của mỗi người, há nên hạn cuộc nhất định! Bởi lẽ, danh hiệu của chư Phật đều do vạn hạnh vạn đức hợp thành. Dù niệm hay xưng, dù Sự hay Lý, đều thoát khỏi vòng khổ, cùng sanh về Tịnh Độ! Vì thế nói phẩm thứ chín là phẩm Xưng Phật Danh Hiệu.

          Xưng danh hiệu Phật cố nhiên là căn bản để thành Phật; nhưng nếu không có phước giúp sức, cội sẽ không sâu, gốc sẽ chẳng lớn, mong chi đơm hoa, kết trái ư? Vì thế, nói về chuyện so sánh công đức bố thí để chỉ rõ sự tạo duyên bổ trợ. “Giảo” (較) là không bằng nhau, “lượng” (量) là rộng rãi, rỗng rang, chứa vật. Hễ là Lượng (đo lường) thì đều tính dung lượng theo cách đo của phép Hoàng Chung (tức là Hoàng Chung (黃鍾) trong Lục Luật. Tháng Mười Một được gọi là Chung (鍾), có nghĩa là rỗng không. Trống rỗng bên trong thì sẽ chứa được nhiều, cho nên [phát ra] âm thanh lớn. Sách Bạch Hổ Thông[6] viết: “Chung chi ngôn động giả” (Chung là nói đến động). Khí Âm hoạt động, vạn vật sanh thành). Thật sự là dùng hạt cự thử (hạt kê đen) ở phương Bắc để ước tính [thành các đơn vị] là Dược[7], Hợp, Thăng, Đẩu, Hộc để đo lường nhiều ít. Đơn vị Dược trong Hoàng Chung khởi nguồn dùng nước giếng để chuẩn định dung lượng của nó (Mạnh Khang nói: “Muốn chuẩn định cho đúng thì dùng nước để định đoạt. Do nước giếng trong nên sẽ dễ thấy được chuẩn mực”). Gom Dược thành Hợp (合, đúng ra phải đọc là Cáp), mười Hợp là một Thăng, mười Thăng là một Đẩu, mười Đẩu là một Hộc, năm đơn vị đo lường đã tốt đẹp rồi. Đo lường nhiều hay ít, chẳng đánh mất khuê toát[8] (Khuê là hình dáng tự nhiên, là khởi đầu của Âm Dương. Bốn Khuê là một Toát, [Toát là số lượng] có thể bốc lấy bằng ba ngón tay).

          Bố thí là phước xuất thế; [kinh Kim Cang dạy] “phước đức chẳng phải là phước đức bèn gọi là phước đức”, sao lại chú trọng so lường từng truy[9], từng thù vậy? Hãy nên biết Bồ Tát Ma Ha Tát xét rõ [căn cơ của] đại chúng dự hội, do vậy, mà có lợi ích Tứ Tất Đàn. Do lòng đại bi, Ngài bèn dạy họ tu phước hạnh. Môn đầu tiên của phước hạnh là trước hết hãy hành Bố Thí. Bồ Tát hành Bát Nhã Ba La Mật, trí huệ sáng suốt, nhạy bén, có thể phân biệt phước do bố thí. Tuy phước bố thí như nhau, nhưng phước đức nhiều hay ít, tùy thuộc cái tâm thù thắng hay kém cỏi; do vậy, cần phải so lường. “Bố” (布) là rải. Sách Nhĩ Nhã ghi: “Tế tinh[10] viết Bố” (Cúng sao thì gọi là rải rác), ý nói rải thức ăn trên mặt đất, nhằm mô phỏng sự rải rác [của các ngôi sao trên bầu trời]. “Thí” (施) là ban cho; nhưng có hai hoặc ba loại bất đồng. Hai loại thì là Tài Thí và Pháp Thí. “Tài” (財) là nói đến ẩm thực, y phục, thậm chí vợ con, thân mạng! Hễ có người cần, thảy đều ban cho, đều gọi là Tài Thí. Pháp tức là các thiện pháp thế gian và xuất thế gian, dùng cái tâm thanh tịnh mà vì người khác diễn nói, đều gọi là Pháp Thí. Ba loại thí thì là Tư Sanh (資生, những vật cần dùng cho cuộc sống), Vô Úy, và Pháp Thí. Tư Sanh Thí chính là Tài Thí trên đây. Vô Úy Thí là trì giới chẳng gây phiền não cho người khác, chẳng kết oán, nhẫn nhục, chẳng báo oán, cho nên Vô Úy (không sợ hãi). Pháp Thí là Tinh Tấn, thuyết pháp chẳng mỏi mệt. Thiền Định tức là thuyết pháp chẳng sai căn cơ. Trí Huệ là thuyết pháp chẳng điên đảo, giống như Pháp Thí trong phần trên. Nhưng bản thể của ba loại Thí này thông với Lục Độ. Nếu hành Đàn Na (Bố Thí Độ), sẽ bao gồm các độ kia. Đức Di Lặc có bài kệ Bát Nhã như sau: “Đàn nghĩa nhiếp ư lục, tư sanh, vô úy, pháp, thử trung nhất, nhị, tam, danh vi tu hành trụ” (Thí nghĩa nhiếp sáu độ, tư sanh, vô úy, pháp, một, hai, ba trong ấy, gọi là tu hành trụ), [nghĩa là]: Tư Sanh (Tài Thí) chính là một độ (tức Bố Thí), Vô Úy bèn có hai (Nhẫn Nhục và Trì Giới), Pháp Thí bèn có ba (Tinh Tấn, Thiền Định và Trí Huệ). Vì thế, hành môn trong Phật đạo tuy nhiều, nhưng Bố Thí bao gồm trọn hết. Bố Thí có công năng phá hết sáu điều tệ, có phẩm đức chứng Tam Đức. Vì thế nói là Công Đức Bố Thí.    

          “Duyên” tức là nhân duyên, có ý nghĩa “giúp cho sanh khởi”; tức là trong có tín tâm, ngoài có phước điền, giữa có tài vật. Ba sự hòa hợp, tâm sanh Xả pháp, có thể phá keo kiệt và tham lam, thì là Đàn Na (bố thí). Nếu ba sự mà thiếu một, Thí chẳng thành tựu. Vì thế, cần phải cậy vào duyên! Nếu được duyên để hành Thí, phước sẽ vô lượng. Do vậy, “so lường” là như ngài Địa Tạng bạch Phật: “Ngã quán nghiệp đạo chúng sanh, giảo lượng bố thí, hữu khinh, hữu trọng. Hữu nhất sanh, thập sanh thọ phước, hữu bách sanh, thiên sanh thọ đại phước lợi” (Con xem chúng sanh trong nghiệp đạo, so lường về sự bố thí thì có nhẹ, có nặng. Có người hưởng phước một đời, mười đời, có người trăm đời, ngàn đời, hưởng đại phước lợi). Vì thế, cần phải so lường. Một là dựa theo phước điền để so lường; hai là dựa theo tâm bố thí để so lường.

          1) Xét theo phước điền, như kinh Tu Đạt và Tứ Thập Nhị Chương Kinh v.v… đều nói bố thí cho kẻ phàm phu trong cõi Diêm Phù, phước sao nhiều bằng thí cho tiên nhân? Tuy thí cho tiên nhân, chẳng bằng thí cho một vị Tu Đà Hoàn, cho đến tuy thí cho một trăm vị Bích Chi Phật, không bằng cúng thí Như Lai, phước càng nhiều hơn! Đại Luận nói: “Phước bố thí là do phước điền. Như vị A La Hán tên là Ức Nhĩ, xưa kia dùng một đóa hoa dâng cúng nơi tháp Phật, trong chín mươi mốt kiếp hưởng vui sướng trong cõi trời người. Do sức phước đức còn thừa, bèn đắc A La Hán”. Do thí điền (施田, ruộng bố thí, tức đối tượng nhận bố thí) mầu nhiệm mà đạt được quả báo to lớn. Hãy nên biết phước to lớn sanh từ ruộng tốt.

          2) Xét theo tâm, Luận nói: “Bố thí có hai loại, một là tịnh, hai là bất tịnh. Bất tịnh là chỉ thí mà thôi, hoặc là vì mất mát tài vật mà thí, hoặc vì [người nhận bố thí là người] thân yêu nên bố thí, hoặc là chẳng nhất tâm, chẳng cung kính, khinh rẻ kẻ nhận bố thí, do trái nghịch với thanh tịnh, thì gọi là Bất Tịnh. Tịnh thí là do đối trị cái tâm mà bố thí, do ý trang nghiêm mà bố thí, do vì được lợi bậc nhất mà bố thí, sanh tâm thanh tịnh, có thể phân biệt, có thể giúp cho Niết Bàn cho nên bố thí. Ví như hoa mới chưa héo, đẹp đẽ, lại còn thơm tho. Tịnh tâm bố thí cũng giống như thế. Như ngài Xá Lợi Phất đem một bát cơm dâng lên Phật, đức Phật liền đem thí cho chó, hỏi ngài Xá Lợi Phất: ‘Ông thí cơm cho ta, ta thí cơm cho chó, ai được phước nhiều?’ Ngài Xá Lợi Phất thưa: – Đức Phật thí cho chó được phước nhiều hơn!” Do vậy biết: Đại phước là do tâm, chẳng ở nơi phước điền, vì tâm là chủ của phước điền, phước điền là chuyện bên ngoài! Vì thế, [bố thí] cho ruộng phước tốt lành, tuy được phước nhiều, nhưng chẳng bằng tâm, có sự sai biệt như vậy đó. Vì vậy, cần phải so lường. Điều cốt yếu là bốn tướng vốn là Không, đạt tam luân (người thí, người nhận, vật thí) vốn vắng lặng. Thấu hiểu Tài chính là Pháp, vô trụ sanh tâm; đấy là Bố Thí Đệ Nhất Nghĩa Môn. Vì thế, nói ra phẩm thứ mười là phẩm Giảo Lượng Bố Thí Công Đức Duyên.

          So lường phước bố thí giúp thành tựu Phật đạo, tức là đại ý của Địa Tạng bổn nguyện đã sáng tỏ rạng rỡ, phó chúc đã xong, Đại Sĩ đã vâng lãnh, tức là đại sự trong phần Chánh Tông của một kinh đã xong. Ba phẩm kế đó đều nhằm lưu thông kinh này. Địa Thần đứng đầu những vị hộ pháp, vì Nam Diêm Phù Đề do vị này làm chủ; cho nên Ngài dẫn đầu hộ trì, khiến cho đời sau tu hành chẳng có chướng ngại, [pháp môn này được] tuyên truyền, lưu thông khắp nơi. Nay trước hết nêu nguyên do có Đất; kế đó, giải thích ý nghĩa Địa Thần. Sách Bão Phác Tử viết: “Đại cực sơ cấu, thanh trược thỉ phân, cố thiên tiên thành, nhi địa hậu định” (Thái cực vừa mới hình thành, thanh và trược vừa mới chia, cho nên trời hình thành trước rồi đất mới được định lập sau). Ngụy Tử Tài chú thích: “Đại khí là bản chất. Có người thường nói: Lúc hỗn độn mới phân, cái nhẹ và trong là trời, còn cái nặng nề, ô trược là đất”. [Giải thích kiểu đó] tức là chẳng biết cội gốc vốn chẳng hai! Thiên chính là chỉ chung cho toàn thể vũ trụ, ở quanh thân ta. Khí không có ngằn mé, mà hình hài có ngằn mé. Vì thế, thân người bề ngoài thì có [xương thịt] bao bọc, nhưng trong tâm rỗng rang. Đại khí của trời bao bọc vận chuyển, không gì ra ngoài được. Hình chất kết tụ trong ấy thành đất. Vạn vật không gì chẳng được trời và đất sanh dưỡng, cho nên nói là “Càn phụ, Khôn mẫu” (cha trời, mẹ đất). Thật ra, trời và đất là một thân. Đấy là ý nghĩa tinh vi trong Nho gia; nhưng họ chẳng biết nguồn cội của trời đất là do được hình thành từ nghiệp cảm của chúng sanh!

          Kinh Lăng Nghiêm dạy: “Giác minh không muội, tương đãi thành dao, cố hữu phong luân, chấp trì thế giới. Nhân Không sanh dao, kiên minh lập ngại. Bỉ kim bảo giả, minh giác lập kiên, cố hữu kim luân, bảo trì quốc độ. Kiên giác bảo thành, dao minh phong xuất. Phong kim tương ma, cố hữu hỏa quang, vi biến hóa tánh. Bảo minh sanh nhuận, hỏa quang thượng chưng; cố hữu thủy luân, hàm thập phương giới. Nãi chí giao vọng phát sanh, đệ tương vi chủng, dĩ thị nhân duyên, thế giới tương tục” (Do chân giác đã khởi tướng sáng hư vọng, nên Chân Không biến thành tướng ngoan không tối tăm, [do vậy] sáng và tối đối đãi, tạo thành sự dao động, cho nên có phong luân gìn giữ thế giới. Do Chân Không đã sanh dao động [tạo thành phong luân], do cái vọng tâm chấp trước, khăng khăng chấp giữ cái tướng sáng hư vọng ấy mà thành ra ngăn ngại, [tạo thành Địa Đại]. Chất vàng báu [từ trong Địa Đại] là do vô minh vọng giác kiên cố, tạo thành tướng cứng chắc, ngăn ngại, cho nên có kim luân bảo vệ, gìn giữ cõi nước. Từ các chất báu do vọng giác kiên cố tạo thành ấy, do vọng minh và tối tăm khuynh đảo lẫn nhau, tạo thành gió, khiến các chất báu chà xát với nhau, cho nên có ánh lửa, biến thành tánh biến hóa. Bản thể của chất báu sáng sạch, gặp phải hơi nóng, bèn sanh ra nước. Ánh sáng từ hỏa đại hun đốt nước ấy, khiến nó bốc hơi lên, cho nên có thủy luân chứa trong khắp mười phương cõi nước… Những hiện tượng ấy liên tục biến hóa, lần lượt phát sanh Tứ Đại Chủng. Do nhân duyên ấy mà thế giới được  duy  trì  liên  tục)[11] chính  là

nói về ý này.

          Đã có đất, ắt có vị thần chủ trì cõi đất. “Thần” có nghĩa là “chúa tể”, do được khí Dương của trời mà linh thông. Nhưng địa thần rất nhiều; nếu là chủ của Nam Diêm Phù Đề thì gọi là Kiên Lao Địa Thần (Pṛthvī). Nếu xét theo pháp môn để nói, dựa theo lời thưa hỏi của Tứ Thiên Vương trong phần Chánh Tông trước đó thì các vị ấy trụ trong đạo Thiện Quyền, làm pháp phụ của chúng sanh, còn vị Địa Thần ở đây là lưu thông, tán dương, khuyên lơn, trụ trong đạo Thiện Thật Trí, làm pháp mẫu của chúng sanh. Do Thiên Vương là Dương, nên là cha, Địa Thần là Âm, nên ví như mẹ. Đấy là dựa theo Thế Giới Tất Đàn để giải thích. Ví như Âm, Dương, chở che cây cỏ. Trí Độ dưỡng dục, xuất sanh các điều thiện. Đấy là dựa theo Vị Nhân Tất Đàn để giải thích. Các Độ (Ba La Mật) khác đều có điều chủ yếu, còn Thật Trí thì chiếu soi, vô tướng, vô danh. Đấy là giải thích dựa theo Đối Trị Phá Ác Tất Đàn. Các Độ khác thì có những pháp bằng hoặc cao hơn, chứ Trí Độ (Bát Nhã Ba La Mật) là vô thượng (không gì cao hơn), vô đẳng (không gì sánh bằng), là cứu cánh độ (là môn Ba La Mật rốt ráo). Đấy là dựa theo Đệ Nhất Nghĩa Tất Đàn để giải thích. Do có đủ bốn nghĩa Tất Đàn, cho nên có thể làm thần, làm chủ Diêm Phù Đề để hộ trì pháp môn Bổn Nguyện. Vì thế nói phẩm thứ mười một là Địa Thần Hộ Pháp.

          Phẩm trước là hộ pháp, mở đầu sự lưu thông. Dù thấy hay nghe, đều được thấm đẫm lợi ích. Mắt nhìn thấy thì gọi là Kiến, Kiến thuộc về mắt. Từ tai thấm vào lòng thì gọi là Văn (nghe); Văn thuộc về tai. Do tác dụng mạnh nhất của tâm được thể hiện nơi tai và mắt, chưa hề có chuyện mắt và tai hẹp hòi mà tâm rộng rãi được. Chữ Kiến (見) do Mục (目) và Nhân (人) ghép thành, chủ của nó là Tâm, khiến cho hình hài của sự vật được nghe thấy (cảm nhận) bằng cách theo mắt, theo cửa mà vào (Chữ Văn (聞) do Mục (目) và Môn (門) ghép thành). Đấy là dạy mọi người hãy mở rộng tấm lòng, đóng bốn cửa, dùng tai của thiên hạ làm tai của chính mình, mở rộng thành “cả thiên hạ là một nhà”. Tuy đây là cách giải thích theo thế tục, nhưng hết sức dung hội với đạo Phật của chúng ta. Nếu chúng ta trong lúc thấy sắc, nghe tiếng, biết rõ mỗi mỗi đều do tâm, tâm còn chẳng thể được, há còn có thấy nghe gì nữa hay chăng? Tức là sự thấy nghe ấy chẳng phải là thấy nghe. Trong cái không thấy ấy, bèn trông thấy các thứ luân quang của Như Lai. Trong cái không nghe ấy, bèn nghe chuyện chẳng thể nghĩ bàn của đức Địa Tạng; tức là cái thấy nghe ấy chẳng phải là Không, chẳng phải là Giả, mà cũng là Không, là Giả. Chiếu hai bên, ngăn dứt hai bên, dứt nghĩ, dứt bàn. Vì thế, trong lúc thấy nghe, tức là đối trước thanh, sắc, bèn chế phục trọn vẹn Ngũ Trụ, dự lên địa vị Ngũ Phẩm, hoặc là trước hết rơi rụng hai thứ cấu để lục căn được thanh tịnh, hoặc nhanh chóng phá trừ vô minh để khai tri kiến của Phật, hoặc đoạn sạch vô minh để mau chóng trọn vẹn Phật quả. Tự ích (lợi ích tương tự), chân ích, nhân ích, quả ích, tiền lợi, hậu lợi, lợi cạn, lợi sâu như thế hoàn toàn do thấy nghe mà tu, mà chứng. Vì thế nói phẩm thứ mười hai là phẩm Kiến Văn Lợi Ích.

          [Hai phẩm] Địa Thần Hộ Pháp và Kiến Văn Lợi Ích trên đây đều nhằm lưu thông kinh này. Điều cốt yếu của Lưu Thông là chuyên vì lục đạo chúng sanh. Vì khi pháp tịch (pháp hội kinh Địa Tạng) sắp chấm dứt, [đức Phật] bèn chúc lụy đại chúng nhân thiên cho Địa Tạng Bồ Tát cứu vớt lũ mê trong đời Mạt, đợi Di Lặc trong thuở tương lai. Đấy chính là ý nghĩa nhắc lại Tông Thú của bản kinh này. Vì lẽ nào vậy? Trước đó, đức Phật đã triệu tập phân thân của đức Địa Tạng chính là vì chúng sanh trong đời Mạt Kiếp. Nay đức Như Lai sắp rời thiên cung để nhập diệt, lại đem trời người giao cho Bồ Tát, vì thế có phẩm Chúc Lụy Nhân Thiên. Chuẩn theo sách Pháp Hoa Văn Cú, có ba cách giải thích [chữ Chúc Lụy]:

          1) Chúc (囑) là đức Phật phó chúc (付囑, giao phó, căn dặn). Lụy (累) là làm phiền ông hãy tuyên truyền. Đây là do thánh chỉ (ý chỉ của đức chí thánh, tức Phật) mà có tên như vậy.

          2) Chúc là đảnh lễ, nhận lấy lời căn dặn, Lụy là cam lòng thực hiện chẳng mệt mỏi. Đấy là từ lòng kính thuận của Bồ Tát mà thành tên như vậy.

          3) Chúc là do miệng vàng của đức Như Lai căn dặn, Lụy là Bồ Tát son sắt kính cẩn gánh vác.

          Nay gộp chung việc truyền trao và tiếp nhận lại để luận định, sẽ có đủ cả ba ý ấy, cho nên gọi là Chúc Lụy. Trong kinh này, đức Như Lai xoa đầu [đức Địa Tạng] giao phó, căn dặn; đức Địa Tạng quỳ thẳng, vâng nhận, cũng trọn đủ ba ý này. Vì thế, gọi là phẩm thứ mười ba, tức phẩm Chúc Lụy Nhân Thiên.

          “Thiên” được giải thích như trong phần trước. “Nhân” trong tiếng Phạn là Ma Nậu Xa (Manuṣya), cõi này dịch là Ý. Xưa kia, Đảnh Sanh Vương mới hóa hiện, đối với các hành động đều khéo suy nghĩ, khéo tính toán, khéo nghĩ nhớ. Tức là đúng như giáo pháp của vương đạo, đối với các việc làm, trước hết đều suy lường, nghĩ nhớ, [cân nhắc rồi mới làm]; vì thế, gọi Người là Ý. Nhân lại còn có thể hiểu là Nhẫn, đối với những chuyện thuận, nghịch trong cõi đời, con người có thể chịu đựng được. Nhưng nhân thiên trong mười phương thế giới nhóm họp tại cung trời Đao Lợi nhiều như cát sông Hằng, làm sao có thể nêu trọn cho được? Nay nói theo một cõi Sa Bà thì như luận Tỳ Bà Sa đã nói: “Thiên có ba mươi hai loại. Dục Giới có mười loại, Sắc Giới có mười tám loại, Vô Sắc Giới có bốn loại, hợp thành ba mươi hai loại trời. Mười loại ở Dục Giới: Một là Thủ Thiên (có thuyết nói là Kiên Thủ), hai là Trì Hoa Man Thiên, ba là Thường Phóng Dật Thiên (còn gọi là Hằng Kiêu), bốn là Nhật Nguyệt Tinh Tú Thiên, năm là Tứ Thiên Vương Thiên, những vị trời khác như kinh đã nêu. Mười tám loại trời của Sắc Giới cũng như kinh đã kể. Bốn loại trời của Vô Sắc Giới: Một là Không Xứ, hai là Thức Xứ, ba là Vô Sở Hữu Xứ, bốn là Phi Tưởng Phi Phi Tưởng Xứ”.  

          Số lượng nhân loại càng nhiều, càng khó thuật trọn. Nếu nói theo phương vị thì có người trong Tứ Thiên Hạ. Nếu nói theo trụ xứ thì gộp lại có bốn ngàn tám trăm chỗ, tức là có bốn ngàn tám trăm giống người. Nếu trực tiếp nói theo một phương là Diêm Phù Đề thì như kinh Lâu Thán đã nói, nói chung là có ba mươi sáu đại quốc, con người cũng giống như vậy. Nếu nói riêng biệt thì có hai ngàn năm trăm tiểu quốc, con người cũng giống như thế. Lại trong mỗi một nước, chủng loại bao nhiêu đó, Phiên, Hán, Khương, Hồ, Man, Di, Sở, Việt, mỗi loài tùy theo địa phương, sắc loại bất đồng. Lại nữa, chủng loại sai biệt trong Diêm Phù Đề gộp lại thì có sáu ngàn bốn trăm loại người. Nay chỉ nêu loài người trong Diêm Phù Đề vì đó là chỗ bi tâm của đức Phật riêng hướng về; do chúng sanh trong Nam Diêm Phù Đề chí tánh vô định, kẻ quen thói ác đông đảo. Dẫu phát khởi thiện tâm thì trong phút chốc bèn lui sụt. Do vì lẽ ấy, [đức Phật] ân cần phó chúc chúng trời người cho ngài Địa Tạng. Lại riêng nêu đại chúng trời người mà chẳng nhắc đến bốn đường ác là vì lẽ gì? Ấy vì trời người tiếp nhận giáo hóa dễ dàng, bốn đường ác tiếp nhận sự giáo hóa khó khăn. Sách Pháp Hoa Văn Cú trích dẫn kinh rằng: “Phả hữu phát nguyện, linh ngũ đạo đồng nhật thành Phật phủ? Phật ngôn: ‘Bất khả dĩ phi khí chi thân thành Vô Thượng Đạo. Yếu tiên hóa tam thú, linh đắc nhân thiên. Nhiên hậu nãi khả như nguyện, tam thú phi thiện đạo, hà năng thành Phật? Như nhân cầu bảo tụ, bất ư không trung cầu. Thị dĩ Phật Phật giai vân: – Ngã ư thiên nhân chúng trung, đắc Bồ Đề, chuyển pháp luân, nhập Niết Bàn dã” (Có ai phát nguyện khiến cho năm đường cùng thành Phật trong một ngày hay chăng? Đức Phật nói: “Chẳng thể khiến cho cái thân chẳng phải là căn khí thành Vô Thượng Đạo được. Phải là trước hết hóa độ ba đường, khiến cho họ được sanh trong đường trời người; sau đấy mới có thể như nguyện. Ba đường chẳng phải là thiện đạo, làm sao có thể thành Phật cho được? Như người cầu đống của báu, chẳng thể cầu trong hư không được! Vì thế, đức Phật nào cũng đều nói: “Ta ở trong chúng trời người, đắc Bồ Đề, chuyển pháp luân, nhập Niết Bàn”).

          [Nói] người trước trời sau lại là như thế nào? Đại Luận quyển thứ hai mươi bốn chép: “Nếu thiện nam tử có thể hành Bát Nhã Ba La Mật sâu xa, hãy nên biết người ấy từ trong loài người mà sanh đến. Vì cớ sao vậy? Trong ba ác đạo, do nhiều tội khổ, chẳng thể hành Bát Nhã sâu xa được. Chư thiên Dục Giới đắm chấp ngũ dục thanh tịnh mầu nhiệm, tâm bèn cuồng hoặc; cho nên không thể hành. Chư thiên Sắc Giới chấp sâu xa mùi vị Thiền Định, cho nên không thể hành. Chư thiên Vô Sắc Giới do vô hình nên không thể hành”. Do vậy, trong lời tựa cho bộ Viên Giác Lược Sớ, ông Bùi Hưu viết: “Than ôi! Sanh linh sở dĩ lui tới là do lục đạo. Quỷ thần chìm trong nỗi khổ u sầu, chim thú ôm nỗi xót xa phải bay, chạy, Tu La thì sân hận, chư thiên đang bận vui sướng. Có thể điều chỉnh tâm tư suy nghĩ, hướng đến Bồ Đề, chỉ có loài người là có thể mà thôi!” Do vậy, nói người trước, trời sau. Bốn đường ác nếu được lợi ích, liền sanh trong trời, người, thì cũng thuộc vào trong số chúng sanh được phó chúc, không phải chỉ là phó chúc trời người!

          Hỏi: Đại Luận nói: “Phật đã đoạn pháp ái, cho đến [chứng đắc] Nhất Thiết Chủng Trí Niết Bàn, chẳng chấp, chẳng giữ lấy tướng”. Nay do vì lẽ gì mà ân cần chúc lụy nhân thiên, giống như yêu đắm vậy? Đáp: Tâm chư Phật đại từ bi, từ sơ phát ý cho đến Niết Bàn môn, thường chẳng lìa bỏ. Nơi Sa La Song Thụ, Ngài dùng Kim Cang tam-muội, vì chúng sanh mà nát thân hạt mè, hạt gạo. Do sự giải thoát của chư Phật từ chúng sanh mà có. Vì thế, khi sắp nhập Niết Bàn, [đức Phật] lại chúc lụy ngài Địa Tạng cứu hộ!

          Hỏi: Vì cớ gì chẳng căn dặn các vị như Văn Thù, Di Lặc, Quán Âm v.v… mà chỉ phiền một mình Địa Tạng Bồ Tát? Đáp: Luận nói: “Chư đại Bồ Tát sau khi đức Phật diệt độ, mỗi vị đều phân tán tới các cõi nước có các chúng sanh đáng độ. Ngài Di Lặc trở về trời Đâu Suất, ngài Văn Thù cũng tới chỗ chúng sanh đáng được hóa độ, chỉ riêng ngài Địa Tạng phát nguyện làm U Minh giáo chủ, lòng Bi riêng hướng đến Nam Diêm Phù Đề, đối tượng giáo hóa và căn cơ được giáo hóa đều hiện diện, cho nên đặc biệt phó chúc. Như cha lâm chung, sẽ chẳng giao phó [gia nghiệp, trách nhiệm] cho những đứa con đang du học. Đặc biệt giao phó những đứa con thơ cho trưởng nam đang ở nhà; ắt đứa con ấy sẽ dạy dỗ [các em] thành tài, chẳng tổn hại lòng ta thương yêu”. Đấy là ý nghĩa chúc lụy nhân thiên vậy.

          Sự sanh khởi đề mục của các phẩm như trên đây, giống như Luân Quán xuyên suốt, gìn giữ, một câu pháp ngôn, các vọng tiêu rớt. Các công đức đã tu tập, chẳng vì tự cầu, nguyện cho pháp giới chúng sanh cùng hướng đến Liên Trì Hải Hội, trang nghiêm Tịnh Độ, đích thân được thọ ký, sau đấy trở vào Sa Bà, phân thân trong các cõi nhiều như vi trần, cũng giống như đức Địa Tạng Tát Đỏa rủ lòng ứng hóa, cứu khổ chúng sanh trong lục đạo. Hư không hữu tận, nguyện của con vô cùng.

          Triều Hoàng Thanh, năm Khang Hy 22 (1683), tức năm Quý Hợi, nhằm tiết Đại Hàn, vị đầu đà mắc bệnh là Linh Thừa viết tại Ưu Bát La Thất của Khuông Am ở Vũ Nguyên (huyện Hải Diêm).

***

[1] Trường Thủy là mỹ hiệu của Lăng Nghiêm đại sư (967-1038). Sư họ Trịnh, người xứ Tiền Đường, Hàng Châu, hiệu là Đông Bình Tử Toàn, thường được tôn xưng là Trường Thủy tôn giả. Sư bẩm tánh thông minh hơn người. Lúc chín tuổi, Sư theo xuất gia với ngài Khế Tông chùa Phổ Huệ, học tập kinh Lăng Nghiêm. Mười hai tuổi, được thọ giới Sa Di, tròn hai mươi bèn được đặc cách thọ Cụ Túc Giới. Về sau, Sư lại đến chùa Linh Quang ở Tú Châu để học thêm Lăng Nghiêm với Hồng Mẫn, có sở ngộ, được ngài Hồng Mẫn ấn chứng. Về sau, Sư trụ tại chùa Trường Thủy, khai giảng kinh Lăng Nghiêm, Tăng tục theo học mấy ngàn người. Năm Thiên Thánh thứ tám (1030), Sư soạn bộ Lăng Nghiêm Nghĩa Sớ, lại soạn Kim Cang Kinh Toản Yếu Khoa, Khởi Tín Luận Bút Tước Ký. Sau đó, Sư giảng các bộ Hạnh Nguyện Sao, Pháp Giới Quán, Viên Giác Kinh, Thập Lục Quán Kinh… mỗi loại mười mấy lượt. Năm Đại Trung Tường Phù thứ sáu (1013), Sư được vua ban áo cà sa tía và mỹ hiệu Trường Thủy Sớ Chủ Lăng Nghiêm Đại Sư.

[2] Bộ sách này có tên gọi đầy đủ là Phật Thuyết Lập Thế A Tỳ Đàm Luận, thể hiện vũ trụ quan Phật giáo, gồm hai mươi lăm phẩm. Luận này được ngài Chân Đế dịch sang tiếng Hán thành mười quyển vào đời Trần. Đôi khi sách còn được gọi bằng các danh xưng như Thiên Địa Ký Kinh, Lập Thế A Tỳ Đàm Tạng…

[3] Mười loại thân là thân của Phật, Bồ Tát dùng để giáo hóa chúng sanh. Tùy theo từng địa vị mà có nhiều thân khác nhau. Ở đây, chỉ tạm nêu mười thân của Bát Địa Bồ Tát, tức chúng sanh thân, quốc độ thân, nghiệp báo thân, Thanh Văn thân, Độc Giác thân, Bồ Tát thân, Như Lai thân, trí thân, Pháp Thân, hư không thân. Thập Nhẫn Bồ Tát thì có Bồ Đề thân, nguyện thân, hóa thân, trụ trì thân, tướng hảo trang nghiêm thân, thế lực thân, như ý thân, phước đức thân, trí thân, Pháp Thân v.v…

[4] A Bàng (阿傍), còn gọi là A Bàng La Sát, là tên gọi của lính canh địa ngục. Theo Ngũ Khổ Chương Cú Kinh, A Bàng có hình đầu trâu, tay người, hai chân có móng như chân trâu, sức khỏe có thể lật ngược núi, tay cầm chĩa ba bằng sắt nung, xiên trăm ngàn vạn tội nhân quăng vào chảo dầu sôi.

[5] Chín họ bao gồm bốn họ bên cha, ba họ bên mẹ và hai họ bên vợ. Bốn họ bên cha bao gồm họ của ông nội, họ của bà nội, họ hàng thân quyến của anh em trai cha, họ hàng thân quyến của chị em cha. Ba họ bên mẹ là họ của ông ngoại, họ của bà ngoại, và họ của các anh em mẹ. Hai họ bên vợ là họ của bố vợ và họ của mẹ vợ. Cho đến đời Thanh mới có án tru di cửu tộc. Trên thực tế, khi một người phạm tội bị kết án tru di cửu tộc, sẽ xử trảm chính người ấy, cha, mẹ, vợ con, anh chị em (kể cả anh chị em nuôi) và con cái của họ, ông ngoại, bà ngoại, các dì, các cậu và con cái của họ, cùng với bố mẹ vợ.

[6] Sách này có tên gọi đầy đủ là Bạch Hổ Thông Nghĩa. Vào năm Kiến Sơ thứ tư (79) đời Hán Chương Đế (Lưu Đát), một hội nghị được mở ra tại Bạch Hổ Quán ở kinh đô Lạc Dương, triệu tập các quan thái thường, tướng quốc, đại phu, bác sĩ, nghị lang, lang quan, và các Nho sinh hữu danh để trình bày các kiến giải cũng như giảng giải về sự khác biệt giữa Ngũ Kinh của Nho gia. Hán Chương Đế đích thân phê khảo các tấu chương nghị luận về chủ đề này. Những điều được hội nghị tán thành được ghi lại thành một bộ sách, đặt trên là Bạch Hổ Thông Nghĩa hay Bạch Hổ Thông Đức Luận. Sách này được coi là tác phẩm cơ sở để hiểu kinh điển Nho gia, đồng thời để thiết lập tính chủ đạo chánh thống của Nho gia trong xã hội.

[7] Theo Hán Thư, cổ nhân dùng hạt ngũ cốc làm chuẩn để đo lường. Một hạt kê đen (秬黍, cự thử, còn gọi là hắc thử) ở phương Bắc, nếu xét theo bề rộng của nó, coi đó là một Phân (分). Mười phân là một Thốn (寸, tấc), mười Thốn là một Xích (尺, thước), mười Xích là một Trượng (丈). Hoàng Chung (黃鐘) là chín mươi phân (từ đó mà phân định cao độ, trường độ của các nốt nhạc). Về dung lượng thì vật gì có thể chứa được một ngàn hai trăm hạt Cự Thử thì gọi là một Dược (龠), hai Dược là một Hợp (合). Mười Hợp là một Thăng (升, thưng), mười Thăng là một Đẩu (斗, đấu), ba Thăng là Đại Thăng (大升), ba Đẩu là một Đại Đẩu (大斗), mười Đại Đẩu là một Hộc (斛). Đối với trọng lượng thì trọng lượng của một trăm hạt Cự Thử là một Thù (銖), hai mươi bốn Thù là một Lạng (兩), mười sáu Lạng là một Cân (斤) v.v…

[8] Khuê, Toát là hai đơn vị đo lường cực nhỏ trong dung lượng. Một Khuê (圭) là sáu mươi tư hột kê. Toát (撮) là bốn Khuê.

[9] Truy (錙) là một đơn vị đo lường về trọng lượng. Một Truy là nửa lạng.

[10] Tế Tinh (祭星), hay còn gọi là Thuận Tinh là một nghi thức tế lễ của thời cổ mang tánh chất nông nghiệp, thường cử hành vào ngày mồng Tám tháng Giêng. Xưa kia, vào ngày ấy, hoàng đế đích thân ra Đông Giao (phía Đông kinh thành) lập đàn, thắp đèn tế sao, nhằm cầu mưa thuận gió hòa, mùa màng bội thu. Có lẽ vì vậy mà thành hình thói quen cúng sao Hội sau này trong lễ nhương tinh giải hạn đầu năm.

[11] Chúng tôi dịch đoạn này dựa theo lời giải thích của  pháp  sư  Viên  Anh  trong  bộ

Đại Phật Đảnh Thủ Lăng Nghiêm Kinh Giảng Nghĩa.


ĐỊA TẠNG BỒ TÁT BỔN NGUYỆN KINH KHOA CHÚ