ĐỊA TẠNG BỒ TÁT BỔN NGUYỆN KINH KHOA CHÚ
Đường Tam Tạng sa-môn Thật Xoa Nan Đà dịch
Cổ Diêm Khuông Am Thanh Liên bật-sô Linh Thừa soạn

Chuyển ngữ: Bửu Quang Tự đệ tử Như Hòa

 

II. Quán Pháp

          Phần thứ hai là trình bày chung về cách quán. Phái Sơn Gia[1] [của tông Thiên Thai] lập pháp bèn có Giáo và Quán. Giáo để mở ra Giải, còn Quán là để khởi Hạnh, như dầu và ánh sáng dựa vào nhau, như chân và mắt giúp nhau, sẽ từ bốn cửa mà vào được ao thanh lương. Những người truyền thừa giáo pháp này trong đời sau, há có nên giữ suông văn từ, chẳng hiểu quán hạnh ư? Một bánh xe, một cái cánh, sao có thể đi xa cho được? Vì thế, nay tôi lược thuật những điều chánh yếu, ngõ hầu [độc giả] xem kinh chẳng đến nỗi nói suông, mà sẽ cùng trở về bí mật tạng vậy.

          Giáo có Tạng, Thông, Biệt, Viên. Ba giáo trước là Quyền, là thô, một giáo sau cùng (Viên) là Thật, là vi diệu. Kinh này mở ra sự giải ngộ “viên thường, chánh tín, diệu thật”, do Quyền là cái Thô được khơi mở, còn Thật là cái Diệu có thể khơi mở. Đấy chính vì giảm trừ ba thô, hiển lộ một diệu. Quán có Tích Không Quán và Thể Không Quán, tức là Quán lần lượt theo thứ tự và không có thứ tự. Nếu xét theo thứ tự để đối ứng với tứ giáo thì ba giáo đầu là có thể nghĩ bàn, một giáo sau là chẳng nghĩ bàn! Vì thế, nêu ra đủ cả bốn giáo là vì muốn loại trừ những giáo có thể nghĩ bàn, hòng hiển lộ giáo chẳng thể nghĩ bàn, nói trọn đủ là như các pháp Chỉ Quán v.v…

          Nay kinh này đã được nói sau kinh Pháp Hoa, chỉ nói về thuần viên diệu giải, để dấy lên diệu hạnh chẳng thể nghĩ ngợi! Tức là trong mười chương của sách Ma Ha Chỉ Quán, sáu chương đầu nhằm khai giải, bốn chương sau là khởi hạnh, cũng giống như vậy đó. Vì thế, phần kinh văn trong các phẩm như Quán Chúng Sanh Nghiệp Duyên, Diêm Phù Nghiệp Cảm v.v… chính là dùng Không, Giả, Trung để hiển thị chuyện chẳng thể nghĩ bàn của đức Địa Tạng. Vậy thì chủ thể để quán (năng quán) không gì chẳng phải là Nhất Tâm Tam Quán, đối tượng được quán (sở quán) không gì chẳng phải là Tam Đế nhất cảnh. Xét theo ý nghĩa, Tam Quán chỉ có ba loại:

          1) Một là dựa theo hạnh, tức là chỉ từ trong vạn cảnh mà quán nhất tâm. Vạn cảnh tuy khác biệt, nhưng lý diệu quán bình đẳng. Như quán các Ấm v.v… tức là xét theo ý nghĩa này.

          2) Hai là dựa theo pháp tướng, như phần kinh văn nói về quán Tứ Đế, Ngũ Hạnh. Nhập vào một niệm tâm, dùng đó để quán trọn vẹn.

          3) Ba là cậy vào sự tướng, như Vương Xá và Kỳ Xà Quật đều là đặt tên dựa trên Sự, mượn Sự để quán, hòng hướng dẫn tình kiến chấp trước. Như [các pháp quán] Phương Đẳng, Phổ Hiền v.v… cứ phỏng theo lệ này sẽ biết.

          Giải thích cặn kẽ thì: Ý nghĩa của ba loại quán pháp này được chứa đựng trong các bộ sớ giải về kinh điển, tổ Thiên Thai dựa theo các bộ kinh Đại Thừa, lập ra bốn loại tam-muội, tu thập thừa quán pháp, trực tiếp hướng đến Ấm và tâm [để quán], hiển lộ pháp tam thiên. Đấy chính là ý nghĩa quán theo Hạnh (tức loại thứ nhất). Lại nương theo các kinh, từ các câu, chữ trong kinh mà xét theo pháp sự tướng, nhập tâm thành quán. “Cậy vào Sự” thì tâm là cái có thể nương cậy (năng thác) nơi sự, còn những sự thuộc về chánh báo và y báo là đối tượng để nương cậy (sở thác). “Nương cậy pháp” (phụ pháp, 附法) thì tâm là cái có thể nương dựa (năng phụ), các pháp môn là đối tượng được nương cậy (sở phụ). Đấy chính là ý nghĩa của hai loại quán Sự và quán pháp. Ngài Kinh Khê khảo sát, suy lường ý nghĩa này, lập ra ba loại tên v.v… Lại còn chỉ rõ: Phép quán sự tướng cũng chỉ nhằm giúp cho phép Quán theo hạnh được thành tựu đó thôi! Nay dựa theo đoạn văn ấy, nêu đại lược ba nghĩa:

          1) Nếu quán kinh này, tánh thức vốn là Như Lai Tạng, một niệm trọn đủ mười giới, trăm giới, ba ngàn tánh tướng. Điều này giống như Chỉ Quán lược bớt Giới và Nhập, chỉ còn quán gánh nặng Ngũ Ấm. Trong Ngũ Ấm như thế, trước hết lược bớt Sắc pháp, kế đó là lược bỏ các pháp tâm sở thuộc Thọ, Tưởng, Hành, chỉ quán Tâm Vương của thức thứ sáu, cho nên nói là “nhất niệm”. Do năm thức trước ắt phải nương theo thức thứ sáu là Ý Thức để đồng thời dấy lên thì mới có thể chấp giữ cảnh, tạo nghiệp thiện hay ác. Kinh Lăng Nghiêm nói: “Lục vi tặc môi, tự kiếp gia bảo, Ý Căn, tặc chi cừ khôi dã, công lực thậm đại. Dĩ đệ thất thức vi sở y căn, dữ tiền ngũ căn tương ứng hòa hợp, tạo chư thiện ác chi nghiệp, giai nạp đệ bát thức trung, như thương khố thịnh vật, tùy thời xuất nạp” (Sáu thức làm môi giới cho bọn giặc, tự cướp đoạt của báu trong nhà. Ý Căn là thủ lãnh của bọn chúng. Do thức thứ bảy làm cái căn cho thức ấy, cùng với năm thức trước (Nhãn, Nhĩ, Tỵ, Thức v.v…) hòa hợp, tạo ra các nghiệp thiện hay ác, đều nạp vào thức thứ tám, như cái kho chứa các vật, tùy thời lấy ra hay gởi vào).

          Thức thứ bảy thường luôn chấp giữ Kiến Phần của thức thứ tám làm nội tự ngã. Ngã si, ngã kiến, ngã mạn, ngã ái, bốn loại Hoặc thường tụ tập, nên gọi là Nhiễm Ô Ý, vì chúng nó nhuốm bẩn chân tánh, khiến cho thức thứ tám được đặt tên là Hàm Tàng Thức, hoặc A Lại Da Thức, nhằm chỉ rõ đây là tên gọi khi nó bị mê bởi vô minh. Nay quán thể tướng của vô minh vốn tự chẳng có, do nhân duyên vọng tưởng hòa hợp mà có. Thể của nhân duyên hư huyễn, tướng của các pháp là vọng. Trung Luận nói: “Pháp sanh bởi nhân duyên, ta nói chính là không, cũng gọi là giả danh. Cũng gọi Trung Đạo nghĩa”. Ngài Tứ Minh nói: “Trước hết, xét theo hạnh thì trực tiếp gom về một niệm quán mười giới, trăm giới, diệu pháp thiên như. Tuy chính là một niệm, ngàn pháp rành rành, nhưng toàn thể chính là Không, ở ngay nơi đây chính là Giả, nhưng chẳng phải là hai bên. Lại chính là song chiếu (chiếu cả Không lẫn Hữu), chẳng thể nói là một hay nhiều, há có thể suy nghĩ là Có hay Không? Dù là hai bên, hay chính giữa, đều chẳng thể suy tính được. Do vậy, trong địa vị Quán Hạnh, nếu đã tiến nhập sâu thì thức thứ sáu và thứ bảy đều chẳng chấp Ngã, chẳng phân biệt Ngã Không và Pháp Không, chuyển thành vô lậu, cho nên Kiến Tư ô nhiễm, thô cấu rơi rớt trước. Từ đấy, tiến nhập Quán, giáo hóa chúng sanh, trở thành diệu Giả chẳng thể nghĩ bàn, phá Trần Sa vô tri. Tiến lên là phá vô minh, Ngã Chấp và Pháp Chấp bẩm sanh vĩnh viễn chẳng thể dấy lên được, thành tựu Vô Sanh Nhẫn, vô công dụng đạo, tùy ý lưu nhập, liền bỏ cái danh xưng A Lại Da để riêng nhận cái tên thanh tịnh. Nhưng phá Hoặc, hiển lộ tánh là do công năng của sáu thức”. Lời chỉ dạy của ngài Tứ Minh gần gũi, nhưng trọng yếu, là cái gốc của Sự, Lý, Giải, Hạnh. Như chặt cây mà tìm được gốc, châm cứu chữa bệnh tìm được đúng huyệt. Đây chính là cảnh chẳng thể nghĩ bàn trong Sơ Quán của mười thừa, gọi là “Quán dựa theo hạnh”.

          Nếu như cậy vào Sự, hoặc nhờ vào Pháp, thì bèn dựa vào Nhân và Pháp trong tựa đề chung (tổng đề) [của kinh này] tức là Địa Tạng Bổn Nguyện để quán. Nay trước hết quán Bồ Tát là Nhân, như trong lúc hành nhân chiêm ngưỡng, lễ bái đức Địa Tạng, cúng dường hoa, hương, chẳng biểu thị quán pháp thì dùng gì để dụng tâm? Nay chuẩn theo kinh Phật Thuyết Bát Đại Bồ Tát Mạn Đà La đã nói: “Ư Như Lai tiền, quán Địa Tạng Bồ Tát, đầu quan, anh lạc, diện mạo hy di, tịch nhiên mẫn niệm nhất thiết hữu tình. Tả thủ an tễ hạ, thác bát, hữu thủ phục hiệp chưởng hướng hạ. Đại chỉ niệp đầu chỉ, tác an ủy nhất thiết chúng sanh tưởng” (Ở trước đức Như Lai, quán Địa Tạng Bồ Tát, đầu đội mão, đeo chuỗi ngọc, diện mạo rạng rỡ, hoan hỷ, tĩnh lặng, nghĩ thương xót hết thảy hữu tình. Tay trái đặt phía dưới rốn ôm bát, tay phải thì các ngón xếp khít lại, hướng lòng bàn tay xuống dưới. Ngón cái chạm đầu ngón trỏ, tưởng Ngài đang an ủi hết thảy chúng sanh).

          Giải thích: Đầu chính là Nhất Thiết Chủng Trí, mão chính là Tỳ Lô pháp tánh. Anh Lạc (tiếng Phạn là Cát-do-la (Keyūra), hoặc Chỉ Do La), biểu thị Tổng Trì Tứ Đà La Ni (một là Pháp, hai là Nghĩa, ba là Chú Thuật, bốn là Nhẫn) nhằm biểu thị Chủng Trí do Pháp Tánh mà thành. Vì thế, có thể tổng trì hết thảy pháp môn. Diện mạo tươi sáng hoan hỷ, biểu thị tướng mạo từ bi được biểu hiện từ cái tâm; bởi đối với tướng nơi toàn thân, mặt là quan trọng nhất. Các pháp lấy Tâm làm Thể để nương tựa, tướng theo tâm mà sanh. Vì thế, dùng tướng để biểu thị cái tâm. “Tĩnh lặng”: Biểu thị Bồ Tát tự trụ trong Tam-ma-địa (Samādhi, Chánh Định). Lục đạo dùng khổ duyên để cảm; Bồ Tát dùng lòng đại bi để ứng. Hai tay trái và phải biểu thị hai trí Quyền và Thật. Thật Trí tự chiếu Lý bên trong, Quyền Trí soi xét căn cơ bên ngoài. Ôm bát ở dưới rốn, biểu thị tánh thức trọn đủ Như Lai Tạng. [Cái bát ấy] bên trong rỗng không, bên ngoài có hình tròn, biểu thị Tự và Tha đều cùng có Không Như Lai Tạng, trọn vẹn như thái hư, chẳng bị khuyết giảm. Bên trong [cái bát ấy] có thể chứa vật, biểu thị Bất Không Như Lai Tạng, trọn đủ tánh công đức nhiều như cát sông Hằng. Ngón cái chạm ngón trỏ, biểu thị mê và ngộ giống hệt như nhau, nhân và quả phù hợp để an ủi lục đạo chúng sanh chớ ưu não!

          Kế đó, quán pháp Bổn Nguyện. Kinh Chiêm Sát dạy: “Nhược dục y nhất thật cảnh giới tu tín giải giả, ưng học tập nhị chủng quán đạo: Nhất, Duy Tâm Thức Quán; nhị, Chân Như Thật Quán. Duy Tâm Thức Quán giả, vị ư nhất thiết thời, nhất thiết xứ, tùy thân khẩu ý, sở hữu tác nghiệp, tất giai quán sát, tri duy thị tâm, tùy nhất thiết cảnh giới, tùy tâm hữu sở duyên niệm, hoàn đương sử tâm tùy trục bỉ niệm, linh tâm tự tri. Tri kỷ nội tâm tự sanh tưởng niệm, phi nhất thiết cảnh giới hữu niệm, hữu phân biệt dã, nhi nhất thiết cảnh giới vị tằng hữu tưởng, khởi ư phân biệt. Nhất thiết pháp duy tâm tưởng sanh. Nhược sử ly tâm, tắc vô nhất pháp, nhất tướng, nhi năng tự kiến hữu sai biệt dã. Tri duy vọng niệm, vô thật cảnh giới, vật linh hưu phế. Thị danh tu tập Duy Tâm Thức Quán. Chân Như Thật Quán giả, tư duy tâm tánh, vô sanh, vô diệt, bất trụ kiến, văn, giác, tri, vĩnh ly nhất thiết phân biệt chi tưởng, tiệm tiệm năng quá tứ không đẳng cảnh giới tướng, đắc Tương Tự Không tam-muội. Đắc thử tam-muội, Thức, Tưởng, Thọ, Hành năng phân biệt tướng, bất hiện tại tiền. Tùng thử tu học, vị thiện tri thức đại từ bi giả thủ hộ, trưởng dưỡng, ly chư chướng ngại. Cần tu bất phế, năng nhập Tâm Tịch tam-muội, phục năng nhập Nhất Hạnh tam-muội. Nhập Nhất Hạnh tam-muội dĩ, kiến Phật vô số, phát thâm quảng tâm, trụ kiên tín vị. Ư Xa-ma-tha, Tỳ-bà-xá-na, nhị chủng quán đạo, quyết định tín giải. Tùy sở tu học chư Thiền tam-muội chi nghiệp, vô sở nhạo trước, nãi chí biến tu nhất thiết thiện căn Bồ Đề phần pháp. Ư sanh tử trung, vô sở khiếp úy, bất nhạo Nhị Thừa. Dĩ y năng tập, hướng nhị quán tâm, tối diệu xảo tiện, chúng trí sở y hành căn bản cố”

          (Nếu muốn nương theo cảnh giới Nhất Thật để tu tín giải, hãy nên học tập hai loại quán đạo: Một là Duy Tâm Thức Quán, hai là Chân Như Thật Quán.

          1) Duy Tâm Thức Quán nghĩa là trong hết thảy các thời, hết thảy các chỗ, đối với tất cả nghiệp đã tạo nơi thân, miệng, ý, thảy đều quán sát, biết chúng chỉ là tâm, thuận theo hết thảy cảnh giới, tùy theo cái tâm duyên niệm, lại khiến cho cái tâm truy đuổi niệm ấy, khiến cho cái tâm tự biết. Biết nó là tưởng niệm tự sanh trong cái tâm của chính mình, chẳng phải là hết thảy cảnh giới có niệm, có phân biệt. Nhưng hết thảy cảnh giới chưa từng có tưởng, dấy lên phân biệt. Hết thảy các pháp chỉ do tâm tưởng sanh. Nếu muốn lìa tâm thì chẳng có một pháp, một tướng mà có thể tự thấy có sai biệt. Biết chỉ là vọng niệm, chẳng có cảnh giới thật sự, đừng để cho [sự quán sát ấy] ngưng bỏ. Đó gọi là tu tập Duy Tâm Thức Quán.

          2) Chân Như Thật Quán là tư duy tâm tánh vô sanh, vô diệt, chẳng trụ trong “thấy, nghe, hay, biết”, vĩnh viễn lìa khỏi hết thảy các tưởng phân biệt, dần dần có thể vượt khỏi tướng cảnh giới của tứ không, đắc Tương Tự Không tam-muội. Đắc tam-muội ấy thì tướng phân biệt của Thức, Tưởng, Thọ, Hành sẽ chẳng hiện ra trước. Từ đấy tu học, được thiện tri thức đại từ bi thủ hộ, trưởng dưỡng, [cho nên] lìa các chướng ngại, siêng tu chẳng bỏ, có thể nhập Tâm Tịch tam-muội, lại có thể nhập Nhất Hạnh tam-muội. Đã nhập Nhất Hạnh tam-muội, thấy Phật vô số, phát tâm sâu rộng, trụ nơi địa vị tín tâm kiên cố. Đối với hai thứ quán đạo là Xa-ma-tha (Chỉ) và Tỳ-bà-xá-na (Quán), quyết định tín giải, thuận theo các nghiệp Thiền tam-muội mà tu học, nhưng chẳng ưa đắm, cho đến tu trọn hết thảy các pháp thuộc thiện căn Bồ Đề phần. Ở trong sanh tử, chẳng khiếp nhược, sợ hãi, chẳng ưa thích Nhị Thừa, do có thể tu tập dựa theo hai thứ quán tâm. Hai thứ quán tâm ấy là phương tiện xảo diệu nhất, là căn bản để các trí nương vào mà hành).

          Dựa trên hai pháp Quán ấy, cùng với ba thứ quán pháp của tông này (tông Thiên Thai), sẽ chẳng có chút sai quấy nào. Nương nhờ Sự, hoặc nương cậy pháp, hoặc là Sự Quán dựa theo hạnh sẽ giống như Duy Tâm Thức Quán. Lý Quán do dựa theo hạnh, sẽ giống như Chân Như Thật Quán. Đấy chính là pháp tự tu của đức Địa Tạng, lại còn dạy hết thảy hãy tu theo. Quán ba chướng Hoặc, Nghiệp, Khổ, đều là [quán] cái tâm này giống như cảnh, đều như huyễn hóa, há có gì là sanh tử lưu chuyển nữa ư?  

Sách [Ma Ha] Chỉ Quán nói: “Phát đại tâm (khuyên chúng sanh mê muội, điên đảo hãy tỉnh ngộ, thượng cầu, hạ hóa), tu đại hạnh (khuyên họ hãy mạnh mẽ, tinh tấn dứt ác làm lành), cảm đại quả (cảm quả sanh lên Phạm Thiên, quả báo mầu nhiệm khiến cho cõi lòng vui sướng), xé rách lưới lớn (kinh luận mở mắt cho con người, dung thông giải trừ những kết phược, thoát khỏi lồng giam), trở về đại xứ (pháp giới chẳng có đầu hay cuối, thông hay tắc, rỗng rang rạng ngời, chẳng bị ngăn ngại)”. Đấy chính là pháp bổn nguyện của đức Địa Tạng.

          Nhân và Pháp như thế đều ở trong một niệm tâm nhỏ nhoi, chính là Không, chính là Giả, chính là Trung. Tâm ta đã là như thế, chúng sanh và Phật cũng thế. Nhưng chúng sanh quá rộng, Phật pháp quá cao, sơ tâm khó thực hiện được, chỉ quán sự cao rộng nơi cái tâm của chính mình, hòng lãnh ngộ sự thánh ứng vô cùng. Do cơ đã thành thục, bèn dẫn đến sự cảm vời, bèn đạt được đại lợi; vì thế, cần phải quán tâm. Sách Quán Âm Huyền Nghĩa nói: “Trong Ma Ha Diễn (Đại Thừa), thoạt đầu là từ sơ tâm cho đến cuối cùng là hậu tâm, thường quán Nhân và Pháp đều Không. Do quán Nhân Không, tức là chủng tử của liễu nhân; quán Pháp Không, tức là chủng tử của duyên nhân”. Vì thế, Luận nói: “Thoạt đầu là giác Nhân Không, cuối cùng giác Pháp Không. Do quán Nhân và Pháp đều là Không, liền biết ba thứ Phật Tánh. Phật từ sơ phát tâm, quán Nhân Không và Pháp Không, tu ba thứ Phật Tánh, trải qua địa vị Lục Tức, thành Lục Tức Nhân Pháp”. Nay quán Địa Tạng tức là Nhân và Pháp của bậc Phần Chứng Đẳng Giác. Hành nhân có thể quán Nhân và Pháp toàn là tự tâm, giống như Như Ý Châu, không gì chẳng trọn đủ. Tức là Không, Giả, Trung, khởi đầu từ Quán Hạnh cho tới Phần Chứng, là một mà hai, tuy hai mà một với bổn nguyện của đức Địa Tạng. Vì thế nói: “Chẳng biểu thị quán pháp thì sẽ dụng tâm như thế nào?” Đấy chính là phương cách to lớn của phép Quán nương cậy Sự hoặc nương nhờ Pháp.

          Tổng Đề (danh xưng chung của cả bộ kinh, tức tên kinh này) đã là như vậy, thì phần Biệt Văn (kinh văn của cả bộ kinh) cũng thế. Khởi đầu bằng Như Thị (như thị ngã văn) cho đến cuối cùng là “nhi thoái” (bèn lui ra), dù là Nhân hay Pháp, hoặc là thức tâm, hoặc thiện hay ác, hoặc là phàm hay thánh, tịnh hay uế, nhân hay quả, hương, hoa, ẩm thực, các thứ pháp môn sai biệt trong ấy, không gì chẳng thể nhập tâm thành Quán! Như phá vỡ một vi trần, xuất hiện kinh quyển to bằng cõi đại thiên.

Vì thế, lắng nghe, đọc, tụng, lễ bái, cúng dường, tâm chẳng duyên theo pháp khác, từ trong tâm hiển lộ, phát khởi, mới xứng gọi là “toàn tánh khởi tu, toàn tu nơi tánh”, khỏi bị chê cười là kẻ nghèo kính trọng của báu [của người khác]. Vì thế, trước khi học vào kinh văn bèn chỉ điểm, dùng cái Thấy để lập giáo, chính là để quán tâm, cặn kẽ thì như trong một giáo, đối với các bộ [kinh luận] lớn hay nhỏ, nếu muốn tu tập, cần phải thân cận bậc thầy tốt lành, diệu nhân Niết Bàn ở ngay nơi ấy mà thôi!

***

[1] Vào cuối đời Đường, do chiến tranh liên miên, quân phiệt cát cứ thường đánh lẫn nhau, khiến cho tự viện điêu linh, một số lớn kinh sách của tông Thiên Thai bị thất lạc. Đến đầu thời Tống, có những vị đại đức tìm lại được các tài liệu ấy từ Triều Tiên hay Nhật Bản đem về, phục hưng tông Thiên Thai. Cuộc tranh luận bùng nổ trong tông Thiên Thai khởi nguồn từ bộ Kim Quang Minh Kinh Huyền Nghĩa của Trí Giả đại sư, vì tác phẩm này có hai văn bản gọi là Lược Bổn và Quảng Bổn. Do các môn nhân trong tông phái có quan điểm bất đồng, dẫn đến sự phân liệt thành hai phái. Phái ủng hộ Quảng Bổn tự xưng là Sơn Gia (hàm nghĩa họ là Thiên Thai Tông chính thống), gọi những người không tán thành quan điểm của họ là Sơn Ngoại.

 


ĐỊA TẠNG BỒ TÁT BỔN NGUYỆN KINH KHOA CHÚ