THẾ GIỚI QUAN PHẬT GIÁO
THÍCH MẬT THỂ

Phật Giáo

Trước khi nghiên cứu về Phật Giáo ta nên xét qua về vấn đề này: “Phật Giáo là tôn giáo hay triết học?“

Muốn giải quyết được rõ ràng ta cần quan sát các điểm sau:

1) Thế nào là tôn giáo?
2) Thế nào là triết học?

I. TÔN GIÁO

Chữ tôn giáo tiếng Pháp gọi là religion do chữ religieu ở tiếng La Tinh mà ra, có ý nghĩa chú ý hoặc tôn kính. Theo sự nhận định chung của phần đông học giả khi nói đến tôn giáo, tức chỉ cho những đoàn thể có ít nhiều tổ chức về hình thức lễ nghi, có tính cách biểu sự liên lạc giữa con ngươì và thần linh bao trùm một ý nghiã sợ sệt và tôn kính. Ngoài ra có giải thích, chữ tôn giáo có ý chỉ giáo điều.

Vậy tôn giáo cụ thể nội dung gồm có 2 điều kiện:

a) Tin có thần: Nghĩa là tôn giáo chủ trương rằng vũ trụ có một vị thần tuyệt đối (nhất thần giáo) hay nhiều vị thần (đa thần giáo) thiêng liêng toàn trí toán năng, sinh hóa sự vật, quản trị sự vật.

b) Tín điều: Nghĩa là tôn giáo chủ trương tính chất công năng của vị Thần ấy, như thế nào đã có Thánh Kinh giải thích rõ ràng. Người ta chỉ được phép tin theo chứ không có quyền phê phán gì hơn nữa. Vì người nào muốn hưởng hạnh phúc cùng ở chung một cõi trời với vị thần ấy cũng phải tin theo tín điều của tôn giáo chứ không có cách gì khác.

II. PHẬT GIÁO

Là giáo lý của vị Giác Ngộ, chủ yếu thuyết minh về vấn đề vũ trụ nhân sinh rất rõ ràng thấu đáo, hoàn toàn trọng sự tự do của con người. Đức Phật không bao giờ bảo chúng ta phải tôn kính Ngài, buộc chúng ta phải tin theo điều ước gì, mà chỉ khuyên chúng ta làm điều lành cải tạo tâm trí mình, cùng biết noi theo con đường chính để đi, đặng đạt đến mục đích chân chính và thiện mỹ.

Giáo lý ấy có 2 điều cốt yếu:

a) Sự thật. Nghĩa là đối với thực tại không luận bản thể hay hiện tượng, Đức Phật biết rõ như thế nào, nói đúng như thế ấy. Ví dụ: Hết thẩy sinh vật đều chuyển biến vô thường do nhân duyên sinh, Ngài nói: Vô thường do nhân duyên sinh, chứ không bao giờ Ngài tự kiêu, bảo mình là Đấng sinh ra muôn vật.

b) Phương pháp. Đức Phật không những là nói đúng sự thật mà còn vạch rõ phương pháp thỏa đáng đặng tiêu diệt những đau khổ hiện có ở đời, để mọi người đều tiến lên cõi hạnh phúc, sung sướng.

Căn cứ vào hai điều ấy, ta có thể nhận thêm mấy điều như sau:

A. QUAN NIỆM VỀ GIÁO CHỦ

a) Quan niệm về giáo chủ của tôn giáo chủ trương: Thần giáo chủ trương có một vị Thần tuyệt đối, bất khả xâm phạm, người ta phải tôn kính Thần mới được ban phước cho và sau khi chết sẽ được Ngài đem theo về Thiên quốc. Ở đây người ta chỉ là kẻ hầu hạ Ngài, chứ không thể như Ngài được.

b) Quan niệm về giáo chủ của Phật Giáo với chủ trương bình đẳng: Đức Phật nói “Tôi là Phật đã thành, các ngươi là Phật sẽ thành, Tôi chỉ khai thị Phật tính cố hữu quý báu của các người, kẻ nào phát huy Phật tính ấy, tức là thành Phật“– Ngài lại nói: “Tôi kính trọng con kiến cũng như thầy tôi là Đức Nhiên Đăng – Vì nó cũng có Phật tính, nó sẽ thành Phật “Bởi vậy quan niệm về đức Phật giáo chủ của Phật giáo có 2 điểm: đức Phật là người cầm đuốc dẫn đường, là đạo sư quý báu, dạy bảo giáo lý cho người: tất cả chúng sinh đều có Phật tính, đều có thể thành Phật như Ngài.

B. QUAN NIỆM VỀ SỰ VẬT

a) Quan niệm về sự vật của tôn giáo: Hết thẩy sự vật ở thế gian đều do thần tạo ra và quản trị. Sau này các nhà tôn giáo chủ trương “Nhất thần luận” đã từ nơi một vị thần tuyệt đối đủ nhân cách, tiến lên một bực chủ trương “Phiếm thần giáo“. Bản thể rộng lớn bao trùm khắp muôn vật do bản thể sinh ra. Mặc dầu chủ trương tuyệt đối đủ nhân cách; Hoặc giả họ lại nhân cách hoá bản thể ấy thành một thần tuyệt đối. Như vậy trước sau tôn giáo vẫn chủ trương thần tạo.

b) Quan niệm về sự vật của Phật Giáo: Như trước đã nói : Đức Phật chỉ biết nói đúng sự thật. Vậy ta không nên lấy làm lạ, khi thấy trong các Kinh điền Đức Phật chủ trương phương pháp duyên sinh rằng: Tất cả sự vật đều do các nhân duyên quan hệ với nhau mà sinh ra, ấy là nguyên lý của vạn hữu vũ trụ, và chớ nên lấy làm lạ, khi thấy Kinh sách viết về Phật Giáo, các nhà học Phật thường hay phê bình cũng như phủ nhận thuyết thần tạo.

C. QUAN NIỆM VỀ LUÂN LÝ

a) Quan niệm về luân lý của tôn giáo: Tôn giáo chủ trương thần sinh ra và quản trị vạn vật, tất nhiên cũng chủ trương quản trị quyền thưởng phạt là ở thần, sung sướng hay đày đọa là do thần, người ta không có quyền tự chủ, vì vậy có tội phải xin với thần, và làm phúc có tin thần mới có ý nghiã. Rút lại quan niệm luân lý cuả tôn giáo là hành vi của người ta và tin và phải kính thần.

b) Quan niệm luân lý của Phật Giáo: Trái lại Phật giáo luôn luôn chủ trương: “Tất cả chúng sinh đều có cùng một bản thể, một Phật tánh, nên lòng từ bi và lý nhân quả đã thúc đẩy người ta làm điều thiện“. Do lòng thương vô hạn và nhận thấy toàn thể là mình, nên người theo đạo Phật rất sẵn sàng cho và giúp ích chúng sinh. Làm lành thì được sung sướng. Làm dữ thì phải khổ sở. Nhân nào quả nấy. Hành vi đã ở chúng ta, thì kết quả cũng tự chúng ta, không ai có quyền thưởng phạt gì hết.

D. QUAN NIỆM GIÁ TRỊ VỀ NHÂN SINH

a) Quan niệm của tôn giáo: chủ trương người hơn cả muôn vật. Chỉ có người mới có linh hồn thiêng liêng do Thần ban cho, còn loài vật thì không. Nói cách khác, tôn giáo chủ trương phủ nhận giá trị tinh thần của vạn vật.

b) Quan niệm của Phật Giáo: Trái lại Phật Giáo luôn luôn chủ trương: tất cả chúng sinh đều có chung một bản thể bình đẳng như nhau; tuy hình thù khác nhau, song bản thể vẫn là một. Nên nhân sinh cũng chẳng qua cũng chỉ là một giống loại bước đầu của một trình độ tiến triển nhưng chưa đến đích tuyệt đối, nên có sự sai khác giữa Bồ Tát, La Hán, Duyên Giác, Thanh Văn, Chư Thiên, và các chủng loại khác. Tóm lại, do các điểm đã ghi ở trên, ta nhận thấy rõ ràng sự sai khác giữa Phật giáo và tôn giáo. Đến đây ta có thể kết luận:

Phật Giáo không phải là tôn giáo, song cũng không phải là một triết học. Ta hãy xét qua 2 điểm dưới đây:

– Lối thuyết minh về bản thể thực tại.
– Phương tiện thực hành.

1) Bản thể thực tại: Với chân lý huyền vi của vũ trụ, tuy các nhà triết học đem hết sức nghiên cứu tìm tòi để phát minh, song những điều ức đoán hay suy luận chỉ có thể tuỳ theo trình độ trí tuệ nhận thức cuả mình, tùy cũng thuyết minh về bản thể chân lý chẳng qua chỉ nói lên phần nào, hay một mặt nào, chứ chưa phải nói hết được toàn diện, vả chăng các nhà triết học chỉ căn cứ vào sức suy tưởng hay trực giác, hay một vài thí nghiệm nhờ sức diễn dịch và lý thuyết này, lý thuyết nọ, chứ chưa phải là bậc đã đi đến chỗ tuyệt đích hoàn toàn giác ngộ. Hơn nữa, Đức Phật là Người đã chứng thực ngộ chân lý và nói đúng sự thật. Nhưng đạo lý của Ngài là tiếng vang của chân lý, do Ngài cảm thấu, đã chứng thực, biết thực, cùng tột nguồn gốc bản thể, chứ không phải căn cứ vào sức suy tưởng và ước đoán mơ màng, như trong Kinh Phật nói: “Như Lai (Phật) nói đúng với chân lý, đúng với sự thật, không bao giờ thay đổi sai khác, không bao giờ dối gạt ai.” Kinh Kim cương.

2) Phương tiện thực hành: Sau khi đã giới thiệu với ai một cảnh đẹp, mới lạ của nơi nào, cũng muốn cho họ đi đến tận nơi để thưởng ngoạn, tất nhiên phải chỉ luôn cả đường lối đi đến, bắt đầu phải đi lên con đường nào v.v. Triết học còn sơ lược và khuyết điểm về chỗ đó.

Vì không có một thực nghiệm chắc chắn do phương tiện thực hành đem lại, nên đối với bản thể chân lý, triết học xưa quá ư độc đoán, gần đây lại có nhà chủ trương “Bất khả tri luận“ (trí thức người ta không thể biết được bản thể thực tại). Như vậy người đời biết noi theo con đường nào mà đi? Mãi đến ngày nay, với vấn đề chân lý các triết gia cũng chưa có một kết luận gì chắc chắn.

Khi lý thuyết nhiều, mô tả khéo, song không có thực hành, dù có một vài nguyên tắc chân lý, hay đôi lời chỉ huấn về phương thức tập luyện tinh thần, không thể đưa lại cho người đến cảnh giới vô biên và tuyệt đích.

Phật Giáo không phải thế, lý thuyết cao siêu chừng nào, lại càng chú trọng về phương diện thực hành chừng nấy. Trong các Kinh điển, Đức Phật đã vạch ra biết bao phương pháp, để cho mọi người có thể tùy theo căn cơ, trình độ cuả mình mà có thể tu tập, đặng nâng cao đời sống hiện tại, và đi đến hạnh phúc tương lai tốt đẹp. Phật pháp ví như thầy thuốc chữa bệnh cho người đau, kẻ muốn khỏi bệnh cần phải uống thuốc, và biết nghe lời thầy dậy bảo, Phật pháp khác với triết học là ở chỗ đó.

Đến đây chắc các ngái nghĩ rằng: “Thế thì Phật giáo là cái gì mà không phải tôn giáo, cũng không phải triết học? – Nếu không phải tôn giáo sao lại thấy tạc tượng Phật để thờ ở các chùa, và hằng ngày thấy chư Tăng Ni hay tín đồ mang hoa quả đến cúng; Những hình thức ấy, không phải là tôn giáo là gì?“ Có thể, song ta cũng nên hiểu, ngày xưa Đức Phật rất phá trừ các hình thức, mà tôn giáo lại hay sinh ra hình thức, nên Ngài không muốn Đạo cuả Ngài là tôn giáo, mà chỉ là môn thuốc mọi người có thể tùy theo chứng bệnh của mình mà uống thuốc, đặng chữa lành các bệnh mà thôi. Nhưng khốn nỗi ở xã hội chia nhiều giai cấp, trình độ giác ngộ khác nhau, ví dụ như phái Thủ đà la (Sandra), giai cấp gồm có người làm thuê, làm mướn, đồ tể ở Ấn Độ thời ấy làm sao hiểu được cái đạo lý cao thâm của Phật dạy. Nên Ngài chỉ khuyên họ làm lành và tu định, mục đích để gây phúc quả về sau.

Sau khi Phật niết bàn, muốn kỷ niệm công đức dạy bảo lớn lao, ở các giảng đường, tịnh xá của chư tăng, các đệ tử tạc tượng Ngài để chiêm ngưỡng. Trong khi ấy có một số ít tín đồ tăng lữ, trình độ thấp kém, sau khi Đấng đức hạnh hoàn toàn đã qua đời, cảm thấy mất hẳn một nơi nương tựa lớn, thành thử họ cứ đến trước hình tượng ấy để lễ bái, chiêm ngưỡng, gọi là sự tử như sự sinh, xem Đức Phật như lúc còn sống vậy.

Nhân thế về sau thành ra hình thức cúng bái, nhất là về sau Phật Giáo truyền qua Tàu, với một dân tộc mà cả lịch sử lẫn lễ nghi, phong tục, tín ngưỡng đều rất phiền phức. Phật giáo nghiễm nhiên thành một tôn giáo hẳn. Có lẽ bản ý của Ngài truyền giáo xưa, vốn nghĩ để tuỳ theo căn cơ, trình độ của các tín đồ cho họ có thể vin theo, đặng để an tâm trên đường học đạo, nhưng về sau, cứ sai lạc dần dần, khiến Phật Giáo mang hẳn cái sắc thái tôn giáo, ấy là điều sai lạc bởi hoàn cảnh, thời đại, chứ đâu bởi từ Phật Giáo, mà dù nguyên thủy Phật Giáo mang ít hình thức tôn giáo (như lối tổ chức) cùng các giới luật nghiêm khắc của toàn thể Tăng già, chỉ là phương tiện thực hành, để đi đến triết lý cao xa, nhưng cũng lại mượn môn triết lý để đi đến chỗ chân như, thực tướng, bản thể rộng lớn vô biên. Nên tuy rằng Phật giáo không phải tôn giáo, triết học, mà cũng có thể là tôn giáo triết học vậy.

Những người chỉ nhìn tôn giáo bằng trí óc nông cạn, chấp một vài hình thức mà quên mất phần đặc sắc đi, cho tôn giáo là có hại về đường tiến hoá của nhân sinh, rồi kết luận tôn giáo cũng không cần thiết đến nữa. Lý thuyết ấy, thực rất sai lầm, cố chấp, và biết đâu kiến giải ấy, không là một tôn giáo?

Ở đời người ta muốn tiến thành một công việc gì, một mục đích gì, lý thuyết và thực hành phải đi đôi với nhau mới có hiệu quả, tức sự lý phải tương đương. Một vài hình thức tín ngưỡng đơn sơ, nhiều khi cũng gợi một tình cảm, dẫn dắt ta đến chỗ thanh tao, siêu thoát, dẫn tâm hồn ta đến chỗ tuyệt diệu, huyền vi – Huống nữa xã hội đã không có một trình độ ngang nhau, thì những hình thức tín ngưỡng ấy là một phương thuốc hay, để an ủi lòng người trong những cơn đau khổ, và khuyên dẫn người ta trở lại con đường lành.

Chẳng qua lối tín ngưỡng ấy, phải là hợp lý, không mang lỗi mê tín dị đoan. Như thế thiết nghĩ dù có tín ngưỡng tôn giáo, nào có hại gì cho nhân loại.

 

Hai Nguyên Lý Của Phật Giáo

Qua những phần ở trên, ta thấy Phật giáo có một tính chất đặc biệt khác với tôn giáo, triết học, đến đây bắt đầu nghiên cứu vào Phật giáo.

Đi vào Phật giáo có hai nguyên lý cơ bản:

1. Tất thảy hiện tượng, đều chuyển biến vô thường.
2. Bản thể bất sinh, bất diệt.

Hiện tượng biến chuyên vô thường.

Tất thẩy sự vật trong thế gian, không có cái gì thường còn và đứng yên mãi mãi, bể cát hoá thành ruộng dâu, bông hoa sớm nở tối tàn, người ta cũng phải già, phải chết! Phàm thì cái gì có sinh, tất có diệt, người vật đều thế, dù chậm, dù mau, không một cái gì thường còn mãi mãi.

Kìa cây thông đứng trước mặt nhà ta, ta tưởng nó cứ đứng yên mãi mãi thế chăng? – Không! Từ khi trồng đến khi lớn khi già, nó phải thay đổi luôn luôn.

Thay đổi có hai loại:

a) Từng sát na
b) Từng giai đoạn

Sát na là giây phút, tức là thời gian rất ngắn, trong Kinh Phât thường chia mỗi sát na từng có 900 lần sinh diệt, muôn vật thường thay đổi vô thường trong từng nháy mắt rất nhanh chóng, bằng biến chuyển cùng khắp trong vạn vật. Kià ta thấy màu xanh cuả là, hay màu đỏ cuà hoa, tưởng là nó chỉ đứng yên , chớ lúc sắp vàng hay gần héo nó mới biến hiện trạng thái thay đổi cuả nó. Sự thực ở chớp mắt này, nó xanh, nó đỏ thế, nhưng có chớp mắt sau nó không thẳm đi một tí, thì cũng phai nhạt đi một phần, có bao giờ đứng yên đâu. Như cái đồng hồ cứ tích tắc này đến tích tắc khác, phải chuyển động và thay đổi luôn luôn, trái lại, nếu tích tắc trước mà dừng nghỉ, thì làm sao có tích tắc sau, cho đến phút này và giờ khác.

Sự lớn bé, già trẻ cuả người ta cũng vậy. Nếu ta chỉ nhìn ta tới ngày nay, ngày qua hay ngày mai, thì tin tưởng nó giống như thật. Song, nếu đem so sánh với ngày mới sinh, với lúc trưởng thành hay ngày già yếu thì thầy nó khác nhau hẳn. Cái khác ấy, có phải nó đi từng giai đoạn đâu, mà phải từng ngày, từng phút, từng chớp mắt, từng sát na.

Trong sự thay đổi vô thường cuả vạn vật, theo Phật giáo, có chia ra làm bốn thời kỳ: sinh, trụ, dị và diệt, như người ta khi mới sinh ra là sinh, khi thân lớn lên là trụ, khi già nua là dị và khi chết là diệt. Trong bốn kỳ ấy, lại có thời kỳ sinh, trụ, dị và diệt nhỏ. Như thời kỳ sinh cuả ta, tất phải có thời kỳ thụ thai, thời kỳ tượng hình, thời kỳ sinh đẻ, rồi mới đến thời kỳ khôn lớn. Lại như trái cây, cũng phải trải qua thời kỳ nẩy nụ, nẩy hoa, thời kỳ hoa tàn mới kết thành trái. Trong mỗi thời kỳ nhỏ như vậy, lại có bốn thời kỳ sinh, trụ, dị và diệt nhỏ nữa, và cứ thế lấy số thành chia làm bốn thời kỳ mãi cho đến khi thời gian còn bằng chớp mắt, cái sát na sự sinh diệt dù vi tế, vẫn còn bốn thời kỳ sinh, trũ, dị và diệt cuả cái chớp mắt, cái sát na.

Bản thể bất sinh, bất diệt.

Muôn vàn hiện tượng chuyển biến vô thường, hiện ra giữa vũ trụ bao la, rộng lớn như những làn sóng dào dạt, nổi trôi hoạt động trên bờ biển cả. Tất cả những sự vật biến đổi đó đều hiện hữu, tính cách hiện hữu như vậy, mặc nhiên đã nói lên đặc tính cuả bản thể vũ trụ. Bản thể ấy, Phật Giáo gọi là “Tâm”, ở đây ta chớ hiểu lầm chữ Tâm theo định nghiã chật hẹp cuả triết học. Tinh thần chủ quan sinh ra vũ trụ khách quan, lại không nên hiểu lầm Tâm là ý tưởng thuần túy cuả nhà triết học duy tâm Hégel là ý nìệm cuả cộng đồng khách quan. Tâm theo định nghiã Phật giáo là “Bản thể chung cuả vũ trụ“. Bản thể ấy, gồm có các công năng hoạt động làm yếu tố, hay chất thiện, sinh ra hiện tượng thế giới.

Các công năng:

1) Chất cứng rắn (đất)
2) Chất mịn ướt (nước)
3) Chất rung động (gió)
4) Chất ấm nóng (lửa)
5) Hư Không (không khí)
6) Linh Thức (giác tính hay linh tri)

Sáu công năng này, bao biến tràn đầy vũ trụ, nên gọi là “lục đại“ (sáu công năng lớn) lại tự nó làm nguyên nhân (nguyên nhân chủ yếu) làm duyên (nguyên nhân phụ thuộc) cho nhau mà sinh ra vạn hữu, nên gọi là Lục đại duyên khởi. Tính chất công năng của 6 đại ấy rất tinh tế không phải là hình thức thô sơ, hay như những nguyên tố điện tử của nhà khoa học.

Theo Phật giáo, đứng về phương diện sai biệt chia ra sáu cái khac nhau như vậy. Đứng về phương diện tuyệt đối thì chỉ có một Bản thể bình đẳng như nhất, ngoài danh tiếng – nói do tâm phân biệt. Nên trong Phật giáo thường gọi bản thể này là “không tưởng“ hoặc “Chân không“ như trong Bát nhã tâm kinh nói: “Thị chư pháp không tướng, bất sinh, bất diệt“ nghiã là tướng Chân Không của các pháp (tức các hiện tượng) không sinh, không diệt, lại trong thất đại, trong kinh Lăng nghiêm tả về bản thể, đoạn kết nói: “Tính sắc chân không tính không chân sắc, thanh tịnh bản nhiên, chu biến pháp giới“ nghiã là thể tính của cái sắc bản nhiên trong sạch trùm khắp pháp giới (xin hiểu nghĩa như chữ vũ trụ) cho đến khi trở về tính nước hay tính lửa cũng đều nói thế. Vậy biết bản thể cuả vũ trụ là gồm đủ các công năng nguyên liệu ấy, mà cái công năng ấy là siêu hình, là không, nhưng không phải cái không trống rỗng, không có gì hết, nên mới gọi là “Chân không”, và chân không ấy mới thực là “chân sắc”. Có thể, công năng ấy, công năng nào cũng tràn đầy cùng khắp, dung hoà với nhau, làm thành bản thể vũ trụ, mà không công năng nào lấn đoạt công năng nào, chất cứng rắn kết lại thành nước, cũng như tính linh thức để làm nguồn sống linh giác cho muôn loài, không có cái nào làm như cái nào.

Sự biến hoá ra vạn hữu là một hoạt động dĩ nhiên do các công năng ấy, tự nó làm nhân duyên, nhân quả lẫn cho nhau mà sinh hoá, chứ không đấng nào làm chủ cả. Nên đối với vấn đề vũ trụ quan Phật Giáo, bao giờ cũng chủ trương thuyết duyên khởi. Muôn vật đều do “nhân duyên” mà có. Ở trong hiện tượng giới, ta thấy muôn vật có sinh, có diệt, có thuỷ có chung, chuyển biến vô thường. Nhưng nều xét toàn thể vũ trụ, đứng về bản thể thực tại thì lại vượt ra ngoài sinh, diệt, thuỷ, chung mà vạn hữu là thường trụ, trong cuốn nhân quả nối tiếp không ngừng, nhân cuả cái này, là quả cuả cái nọ, quả cái nọ là nhân cuả cái kia, triển diễn cùng khắp, từ quá khứ cho đến hiện tại, từ hiện tại đưa đến tương lai, ngược về trước tìm đâu thấy có thuỷ, ngó lại về sau chẳng thấy có chung, sự biến chuyển vô thường chẳng qua là sự thay đổi về trạng thái mà thôi. Hoặc lại làm cái nhân cho tái sinh, mất rồi lại có, nhân quả tuần hoàn (vòng quanh) nhân duyên trùng điệp, ấy là nhân quả tương quan cuả vũ trụ vạn hữu, mà Đức Phật đã thấy rõ, chứng rõ, thuyết minh ra, chứ không phải suy luân hay ức đoán. Xin lấy một thí dụ cụ thể cho dễ hiểu: Như cái áo ta mặc đây, thông thường người ta chỉ nghĩ, hễ có tiền ra tiệm vải mua, nó từ đâu mà có, người sản xuất ra nó lấy nguyên liệu gì và ở đâu? – và bác thợ maytrong khi cắt may, đã dùng đến cái gì để cắt xén, rõ ràng là thấy sự liên quan mật thiết với nhau vô hạn, thứ vải ta dùng ấy, nếu không phải tự nhiên mà có thì nó đã phải được chở từ bên Anh, Mỹ qua, thì nó đã liên quan đến thợ thuyền các xưởng dệt bên ấy, nguyên liệu để dệt ra vải, họ lại hoặc mua ở Tàu hay Nhật hay Miền Điện, Nam Dương v.v. Thế lại liên quan đến các nước ấy, cho đến cái kéo cuả bác thợ may cũng đã liên quan đên anh thợ rèn hay người dệt vải ở nước nhà hay nước ngoài chẳng hạn. và trong khi làm bác thợ rèn hay người dệt vải, đều nuôi sức sống bằng cơm hay các thức ăn khác, thế là bác thợ rèn cùng người thợ dệt đã liên quan đến bác nông phu. Cứ như thế xét rộng ra trên đời không có nước nào, không một cái gì tự nhiên cô lập, dù cho cái kim nhỏ, sợi chỉ tơ cũng có ảnh hưởng liên quan rộng xa. Tục ngữ có câu ” rút cây thì chuyển động rừng”. Ấy là một nhận thức về luật liên quan của vũ trụ.

Vạn hữu vũ trụ là do nhân duyên, nhân quả mà có, thì giữa cái hiện tượng là một giây quan hệ mật thiết, chằng chịt lẫn nhau, nên Phật Giáo bao giờ cũng xem vũ trụ là một khối duy nhất, nhịp nhàng, chứ không phải từng cá thể riêng biệt; Người ta hay muôn vật và những phần tử ấy, có một xã hội tính triệt để, tức là tính duyên khởi. Muôn vàn cảnh tượng biến hiện trên thế gian, như những làn sóng điệp điệp trùng trùng trên biền cả. Sóng tức nước, hiện tượng tức bản thể, to như vầng thái dương, nhỏ như vi trần, đều là hiện thân cuả chân lý. Đức Phật là đấng sáng suốt, từ bi rộng lớn, các đệ tử Phật luôn luôn sống bên người, gần vật để san xẻ tình thương, chia vui bớt khổ, đặng cùng sống nhịp nhàng theo bản thể vô biên, tuyệt đích.

Như trên Đạo Phật đâu có phải chủ trương tinh thần sinh ra vật chất. Song cũng không như duy vật, chủ trương vật chất làm căn nguyên sinh ra vạn hữu vũ trụ. – Nếu về vật chất cuả vũ trụ đã do vật chất làm căn nguyên, thì nguồn sống vô hạn, về giác tính và cảm tình cuả người ta cùng muôn vật lại không có cái . làm căn nguyên để chi phối ? Quan niệm đối với bản thể vũ trụ, thuyết duy vật còn nông cạn sai lầm lắm!

Đến đây chắc các ngài nghĩ rằng: Nếu đạo Phật không chủ trương duy tâm, sao trong kinh Phật nhiều chỗ nói về “Tâm” như những câu “nhất thiết duy tâm tạo: tất thảy sự vật đều do tâm làm ra”. Ta nên nhớ rằng chữ Tâm dùng trong đạo Phật là để chỉ cho bản thể gồm đủ các công năng như đã nói trên, chứ không phải chỉ riêng về tinh thần, và dù nhiều chỗ nói về Tâm, cũng chỉ nói cái Tâm bản thể ấy. Và nhận thức đã thấu đáo về bản thể như trên thì dù rằng nói duy tâm hay duy vật hay duy gì cũng được, vì tâm cũng không ra ngoài vật , vật cũng chỉ là vật của tâm mà thôi.

Sau khi giõi bước về địa hạt Phật Giáo ta đã thấy cái gì? Phật Giáo đã đem lại cho ta những hiều biết gì? người tìm chân lý không thể thờ ơ lãnh đạm.

Hỡi nhân loại thân mến! Hãy trở về bản thể vô biên và tuyệt đích là hạnh phúc muôn đời cuả chúng ta, và chỉ có Phật Giáo mới là con đường sáng cho chúng ta đi. Vì Phật Giáo có một nguồn giáo lý rất cao thâm, rộng rãi, căn cứ vào đây ta có thể giải quyết được mọi vần đề thắc mắc về vũ trụ, có thể đưa nhân loại đến chỗ hạnh phúc an vui, chân thật vĩnh viễn thực sự, không phải như những cái gì quá mơ mộng và chỉ có ở trong trí não người ta.