THẾ GIỚI QUAN PHẬT GIÁO
THÍCH MẬT THỂ

TỰA

Thế giới quan Phật giáo là tác phẩm do Thượng tọa viết cách đây hai mươi năm – một tác phẩm hình thành trong một bối cảnh lịch sử đặc biệt của nước nhà, nên nội dung của nó cũng mang nhiều nét thời đại.

1) Lời mở đầu, tác giả khái quát trình bày tư tưởng toàn bộ vấn đề;

2) tìm hiểu về khoa học và các triết thuyết, tôn giáo, chính trị, đông, tây; xưa và nay;

3) định nghĩa thế nào là Phật giáo, theo tác giả, Phật giáo không hẳn là tôn giáo hay triết học mà chỉ nên hiểu đạo Phật như một chân lí – Sự Thật – đạo của Ánh Sáng và Tình Thương;

4) thuyết minh hai nguyên lý của Phật giáo: a) hiện tượng chuyển biến vô thường; b) bản thể bất sinh bất diệt, trình bày về vũ trụ quan, nhân sinh quan qua thuyết lý “lục đại duyên khởi”, luật nhân quả, vô thường…

5) Phật giáo với vấn đề nhân sinh: nhân sinh do đâu mà có? Cuộc sống còn của nhân sinh – sự chung kết của nhân sinh;

6) Phật Thích Ca là hiện thân cứu khổ của nhân loại;

7) nhận thức luận: bản thể của trí thức – nguồn gốc giúp trí thức phát triển – hiệu lực của trí thức;

8) Phật thân luận trình bày về ba thân: Pháp thân – báo thân – hóa thân của Phật;

9) kết luận.

Xét toàn thể nội dung tác phẩm, ta thấy tác giả trình bày vấn đề Đi tìm nguyên nhân sinh khởi của vũ trụ vạn hữu và sự kết cấu hình thành của chúng, những vấn đề từ xưa đến nay đã làm tốn rất nhiều giấy mực, thì giờ tâm lực của biết bao triết nhân, hiền giả, vẫn chưa tìm được lời giải đáp hay làm thỏa mãn tâm thức người muốn tìm hiểu “Ý nghĩa cuộc đời, khám phá thiên nhiên”. Thượng tọa MẬT THỂ nhờ có đạo nhãn nên đã trình bày vấn đề một cách quán đạt.

Nay nhà xuất bản VẠN HẠNH cho ấn hành cuốn THẾ GIỚI QUAN PHẬT GIÁO với mục đích giúp quí vị độc giả và Phật tử, những người am hiểu và ưa suy nghĩ, những nhận định của đạo Phật về Vũ trụ và Con người.

Saigon, mùa mưa 2510
THÍCH ĐỨC NHUẬN

 

Tìm Đường

Vì quá ham mê theo cảnh vật thiên nhiên, vô tình người ta đã lạc lối vào chốn rừng hoang có nhiều thú dữ.

Càng quanh quẩn nhiều, càng lạc lối thêm.

Tuy nhiên, trong cuộc lãng du có kẻ đã quên mình vì lạc lối, dong ruổi tìm hoa thơm cỏ lạ, lúc đã xa vời, xụp gối bị nằm ở một góc rừng, phó mặc cho bụi rừng vùi lấp.

Cũng có kẻ mãi băn khoăn tìm được lối ra, lủi vào hang này hố nọ, thì lại làm mồi cho cọp đói.

Hơn thế, có người trèo lên cây cao, nhìn quanh bốn phía tìm phương hướng về nơi nhà, hoặc giả đến bờ khe suối nước, ven theo dòng nước chảy mà đi rồi cũng có thể tìm đường ra khỏi.

Tôi cũng là kẻ đã lạc lối giữa rừng trong khi còn lang thang vớ vẩn tìm đường, may đâu trong tháp ngà nhặt được bản đồ của người thiên cổ.

Không biết từ bao giờ người đã đến đây và vạch thành bản đồ thế ấy… mở ra xem thì ôi! CON ĐƯỜNG SÁNG Ở BÊN KIA.

 

Lời mở đầu

Giữa vũ trụ mênh mông bát ngát, muôn vật đổi dời, muôn sao nhấp nhánh, biết bao cảnh vật phô bày trước mắt: Nào sinh sinh hoá hoá, chẳng biết có từ bao giờ và ai làm chúa tể.

Tâm ư! Vật ư! hay là thiên nhiên ư!

Con người là một sinh loại có giá trị hơn muôn loài. Trong cuộc sống, người ta cần tra vấn xem mình phải làm gì trong đời này để hoàn thành mục đích và ý nghĩa của nhân sinh?

Từ khi trí thức con người được nẩy nở thì những dấu hỏi ấy, cũng đã bắt đầu gợi lên trong trí óc con người ta. Và từ xưa, các nhà tôn giáo, triết học, không cứ Đông Tây, cũng đã phí hết bao nhiêu tâm lực để tìm ra giải đáp.

Song đến nay, người đời vẫn còn băn khoăn, vơ vẩn. Đến các nhà thông thái, quyết đoạn tuyệt cái tư tưởng huyền bí, nên căn cứ vào thực tế để tìm chân lý, nhưng cũng chưa thấy rõ câu trả lời nào dứt khoát, hay tạm gọi là thoả đáng. Vậy trí thức của người ta có thể hiểu biết mọi chuyện trong vũ trụ, hay nó chỉ là hữu hạn, mà bản thể chân lý kia là vô hạn, ta không thể nào hiểu hết được.

Ở giới triết học cận đại, vấn đề trí thức được coi là trọng yếu và đã được các nhà triết học đem ra lý giải rất ráo riết – Vâng! Phàm làm việc gì, trước hết ta cũng nên kiểm điểm sức lực mình có thể cáng đáng nổi công việc đó hay không đã, nhất là vấn đề chân lý lại càng là việc không thể bướng bỉnh mà được, nên cần phải có sức tự tin rất nhiều.

Dù sao ta cũng không phủ nhận công lao của người đi trước đã giúp ích rất nhiều cho người đi sau tìm hiểu sự thực, chân lý của cuộc đời. Ấy là kết quả của bao nhiêu công phu tìm kiếm, xây dựng, trong đó có những tư tưởng đầy tinh hoa tươi đẹp. Điều làm cho ta bị ngưng trên đường tìm chân lý là vấn đề cuộc sống của ta về tinh thần cũng như vật chất, phần nhiều bị hoàn cảnh chi phối, nào cơm ăn, áo mặc, nhà ở, cùng những danh lợi hão huyền, cho đến phong tục tập quán xã hội, hay chế độ tư tưởng của thời đại. Không những nó đã chi phối đến cuộc sống của ta, có ảnh hưởng đến tinh thần ta, nhiều khi còn bị chúng lừa dối, cám dỗ, lung lạc mất cả tinh thần, khiến ta không còn đủ can đảm nhận thực một lẻ phải hiển nhiên. Nó còn tạo nên cho ta một thành kiến cố chấp, đóng khung tư tưởng ta trong phạm vi nhỏ hẹp. Khi trí óc con người đã bị ảnh hưởng bởi cái gì, thì còn mong sao đến việc hiểu biết một cái khác, có thể nói là sáng suốt hơn, cao rộng hơn, chân chính hơn.

Những kẻ đầy những lòng tham, ích kỷ, nhìn vũ trụ không ra ngoài gang tấc, chưa từng lúc nào muốn mở rộng lòng ra để làm việc, giúp ích, thì còn nói gì đến việc hiểu thấu sự lợi ích cùng niềm du thích của kẻ rất giàu lòng nhân đức, cũng như những kẻ ngu si kéo dài đời sống trong những ngày đầy vô vị và mơ hồ, thì vấn đề tìm hạnh phúc, chân lý, đối với họ còn có nghĩa lý gì!

Muốn tìm hiểu chân lý, trước hết ta phải thành thực với ta, và chớ coi mình là trung tâm điểm của vũ trụ hay lấy mình làm thước đo người chẳng hạn. Phải coi bản ngã của ta, nó biến đổi rất nhiều cách, hòng phĩnh phờ ta vào con đường sai lạc.

Ta không nên chiều theo nó quá, phải ngược giòng lại, dẹp cho hết lòng ích kỷ nhỏ hẹp, tính tự kiêu mê lầm, cùng vượt ra ngoài khuôn khổ tập quán, thành kiến, tự ta có quyền phê phán lý thuyết này với chủ nghĩa nọ, và mở rộng lòng ra để đón lấy cái có ích cho nhân loại trên mục đích xây dựng hạnh phúc chung, chân chính thiện mỹ.

Nhưng sao con người ta lại nghĩ đến, nói đến cái vấn đề ấy, nếu không phải là nhận định về hiện tượng nghèo nàn, khốn đốn và đầy đau khổ.

Về vấn đề tìm chân lý, đem lại hạnh phúc chung cho mọi người, mà xưa nay các nhà tôn giáo, các học giả trên toàn thế giới đã khởi xướng biết bao lý thuyết, chủ nghĩa và đã hô hào cổ võ,muốn đem lý thuyết hay của chủ nghĩa mình, làm hướng đi chung cho nhân loại. Đồng thời các anh hùng hay kẻ “muốn làm” anh hùng, cũng đã từng xây dựng công trạng mình trên đống xương tàn của bao chiến sĩ! Người đã chết một cách đau đớn, sau những cuộc chiến bại ghê gớm và lòng dục vọng tham tàn, hay cái khẩu hiệu “đại đồng thế giới”.

Nhưng, nhân loại có đi đến đích “đại đồng” để đạt đến cảnh hạnh phúc an lành sung sướng không? hay đấy chỉ là danh từ tươi đẹp mà người ta đưa ra để loè bịp nhau, lôi cuốn nhau vào con đường chết!!

Quyển sách nhỏ này, hy vọng giúp ích phần nào vấn đề nhận xét về vũ trụ nhân sinh và con đường sáng tương lai của thế giới nhân loại.

 

Tìm hiểu

Nếu người ta không đến nỗi hiểu lầm để đánh giá hai chữ hạnh phúc bằng sự cơm ăn, áo mặc chơi bời cho sung sướng, thì mục đích của loài người là phải tìm lấy con đường sáng để đi, và nhân sinh sở dĩ có một giá trị đặc cách hơn cả cũng ở chỗ đó. Đem cả lòng nhiệt thành thiết tha để phụng sự lý tưởng cao cả, rộng rãi, nhập tâm hồn cùng bản thể vô biên, đấy không phải là hạnh phúc chân thực vĩnh viễn của đời người hay sao?

Tìm ở khoa học

Đi vào khoa học ta nhận thấy: khoa học chỉ căn cứ vào hiện tượng để tìm chân lý, nói cách khác, khoa học chỉ nương vào hiện tượng của sự vật bên ngoài để phân tích, nghiên cứu, tìm hiểu muôn sự, muôn vật ấy, đặng giúp thêm vào một phát minh nào đó – Cái gì ngoài cảm giác ngũ quan của người ta khoa học đều phủ nhận không thực có.

Nhưng “thử hỏi giác quan của con người, bao giờ cũng như bao giờ, hay nó còn thay đổi theo nhiều chiều hướng, theo từng nhận thức của mọi người, và người ta có thể tin chắc giác quan của con người bất kỳ quan sát cái gì, cũng hoàn toàn đúng cả không?” Ai dám quả quyết trả lời rằng: “Đúng cả” theo câu hỏi đó.

Trong thực tại ta nhận thấy có nhiều vấn đề mà khoa học không thể giải quyết được, nếu cứ đứng trong phạm vi khoa học – Như vấn đề giá trị của người thức giả chẳng hạn – Vì khoa học bao giờ cũng có tính chất chuyển biến, chính một vài nhà thông thái đã chú ý nói rõ tính cách chuyển biến thích hợp, ứng theo nhu cầu của nhân loại, trong một thời đại, chứ chưa phải là chân lý tuyệt đối. Huống nữa giữa vũ trụ mênh mông, muôn vật phô bày, đã khi nào khoa học dám vén bức màn bí mật của vũ trụ bao la chưa? Trên đường suy tầm chân lý khoa học còn phải dõi bước, chẳng biết đến bao giờ là ngày chung kết.

Đành rằng những phát minh của khoa học, có phần giúp ích cho đời sống nhân loại rất nhiều, nhưng một phương diện khác, khoa học đã đi nhầm, đã quá lợi dụng vật chất, phát minh ra bao nhiêu cơ khí giết người, gây nên họa chiến tranh tàn khốc cho nhân loại, và khoa học dù tài giỏi đến đâu, cũng không thể gạt khỏi được hạt lệ thương tâm ở lòng người thiếu phụ.

Nhiều nhà bác học ở Âu Tây đã kết tội khoa học: Văn minh vật chất chỉ đưa đến chỗ chết, đưa người ta vào con đường khủng hoảng, truỵ lạc. Bác sĩ Alexis Carrel đã từng than thở “Nếu các nhà khoa học của thế kỷ trước chịu khó nghiên cứu tâm hồn con người, thì văn minh không bị khủng hoảng như ngày nay”.

Tìm ở triết học

Triết học, bởi có nhiều môn phái quá, nên mỗi nhà chủ trương mỗi khác, mỗi phái thuyết minh mỗi khác, lý luận không duy nhất. Sự trái ngược giữa các triết gia đã đem lại cho những điều hoang mang vớ vẩn khác, như người lạc vào rừng, cây cối um tùm, bao bọc bốn phía, khó tìm được lối ra. Đi vào rừng triết học ta cũng nhận thấy, chẳng hạn như ở Âu Tây Socrate, Platon hay Hégel, H. Berson đều không giống nhau. Ở Á Đông, Khổng Tử, Lão Trang cũng làm trái ngược, hoặc bên thì quá chú trọng về lý trí, bên thì thiên tình cảm, bên thì kiến thức chật hẹp, bên thì phóng khoáng viễn vông. Bởi độc đoán sinh ra hoài nghi, từ suy lý đến thực nghiệm, thành ra lý thuyết này chống với lý thuyết nọ, các nhà chủ trương mang hết tài hùng biện ra để tranh luận cho lý thuyết của mình được đứng vững. Những lời tranh biện cũng như bài thuyết pháp được chiếu ra bởi tinh thần trầm tư suy tưởng của các triết gia, đã thành sách vở chồng chất, nhiều không kể xiết.

Song ta cố tìm một kết luận của bản thể chân lý vô biên và tuyệt đích, không khỏi ôm lòng băn khoăn và thất vọng.

Huống nữa, triết học chưa từng vạch rõ một con đường thực tế, nghĩa là phương pháp thực tế, để có thể mọi người neo theo đó mà đi, hầu đạt được mục đích tối hậu. Nên có thể nói, triết học chỉ là món quà cho hạng thượng lưu trí thức hay cho những người có trình độ học thức cao đẳng, chứ không phải món ăn bổ ích, phổ cập cho cả đại chúng. Thế nên, triết học dù có lý thuyết cao xa đến đâu cũng còn mang lấy khuyết điểm ấy.

Tìm ở tôn Giáo

Bây giờ ta thử đi sâu vào tôn giáo. Trên thế giới tôn giáo rất nhiều, nhưng tóm lại chỉ là hai tôn giáo, Nhất Thần Giáo và Đa Thần Giáo. Nhất Thần Giáo chủ trương vạn hữu (chỉ cho người cùng hết thảy sự vật) trong vũ trụ do một Đấng thiêng liêng toàn trí, toàn năng làm ra, Đấng thiêng liêng ấy đủ quyền thưởng phạt về mọi điều tội, phúc đối với người và có thể đưa người về hạnh phúc (thiên giới) nếu người ta chịu theo Ngài.

Giả sử như có người hỏi: Đấng thiêng liêng ấy có hình thể không? – Nếu bảo là có hình thể, thì trên đời cái gì có hình thể đều phải hủy hoại. Mà đã hủy hoại, tất đấng thiêng liêng kia mất hẳn tính chất vĩnh viễn, và cõi thiên quốc kia không còn đâu cho loài người đến hưởng nữa, và phàm đã có hình thể đều phải hủy hoại. Nếu đấng thiêng liêng cũng có hình thể, có giới hạn, thì làm gì có sức gọi là toàn trí, toàn năng để sinh ra vũ trụ rộng lớn này được. Còn như nói rằng không hình thể, thì trên đời có cái gì không mà lại sinh ra có được. Nói tóm lại, đứng về phương diện luân lý thì tôn giáo dựa theo thần thoại, dùng thuyết thưởng phạt để khuyên người, dạy người về con đường lành, đối với xã hội có phần ảnh hưởng tốt.

Song đối với bản thể, thuyết thần tạo (thần sinh ra muôn vật) còn đương mơ màng và huyền bí quá ! không thể đứng vững trong thời đại khoa học này được. – Hơi giống với thuyết thần tạo trên, ở Ấn Độ, đạo Bà La Môn cũng chủ trương Phạm Thiên (Brahma) sinh ra tất cả muôn vật trong vũ trụ. Phạm Thiên là vị Thần bản thể, đồng thời cũng là vị Thần Nhân Cách (có hình dáng như người). Khi người biết chăm lo học hỏi thông thái giữ gìn đức hạnh, diệt trừ lòng tham dục, si ám, thì bản ngã (cái ta) trở về với Phạm Thiên, được giải thoát. Đến như Đa Thần Giáo (tôn giáo thờ nhiều vị Thần) thì rất là phôi phai, không có gì là cao siêu lắm, thuyết này do tín ngưỡng, tập tục bởi nhiều người, nhiều đời mà ra, hoặc theo từng dân tộc mà có sự sai khác. Với chủ trương hết sức là lan man, vị thần này sáng chế ra cái này, vị thần nọ sáng chế ra cái nọ v.v. Nếu người ta còn tin tưởng vào lối thờ phụng này thì chỉ là lối cầu cạnh, ỷ lại, tránh họa cầu phúc chứ không thể căn cứ vào đấy để tìm con đường hạnh phúc chân chính được.

Tìm ở chính trị

Tìm hạnh phúc do nhân loại xây dựng hoà bình cho thế giới, có nhiều người đã đặt hết tin tưởng vào chính trị vậy. Ở đây ta cũng cần phải xét qua. Tôn Văn nói: “Chính trị là công việc của mọi người, trị là quản trị. Làm chính trị tức là quản lý công việc của mọi người”. Theo quan niệm duy vật thì “Chính trị là những mưu mô của một dân tộc bị xâm lược chống với giai cấp thống trị và ngược lại”. Định nghĩa của Tôn Văn hơi rộng quá, nên không có giải quyết rõ rệt. Theo định nghĩa thứ hai có phần đúng nhưng lại có tính cách thiên về chủ nghĩa máy móc phi nhân. Đành rằng quốc gia bị xâm lăng thì chính trị là những mưu mô để chống bọn xâm lược, song sau khi đã đuổi quân thù ra khỏi đất nước, thì chính trị không thể không là cơ quan quản lý để đem lại sự hòa vui, ấm no cho nhân dân, và không thể không là những chính sách khéo léo, hòa hảo trên đường ngoại giao với quốc tế?

Ngày nay nhân sự giao thông tiện lợi, tình hình kinh tế các nước ngày càng mở mang, nên sự quan hệ giữa các quốc gia rất là phức tạp. Nhiều khi chỉ một biến chuyển nhỏ của một nước này, rất có ảnh hưởng liên quan đến các nước khác. Vì thế, chính trị có khi là một phương sách ngoại giao khéo léo, song có khi cũng là mưu mô xảo quyệt để ganh đua nhau, đối chọi nhau trên trường quốc tế. Ta có thể nói tình hình kinh tế, quân sự ở trong một nước phức tạp chừng nào thì chính trị cũng lắt léo chừng ấy.

Thế giới hiện nay, các chủ nghĩa, các học thuyết, các đảng phái, đua nhau mọc lên như nấm. Chủ trương này khuynh loát chủ trương khác. Các nhà chính trị các quốc gia, không ai có thể tuyên bố một câu thành thực từ thâm tâm rằng: “Tôi chủ trương một chính sách trung lập”. Dù có nói thế đi nữa, tưởng cũng chỉ là lời tuyên bố giả dối, bên ngoài để hòng bưng bít chính sách khác, đương dòm ngó vào mình, đương gặp phải một tình thế gì rắc rối chưa giải quyết được ổn thoả đó thôi.

Song dù rằng làm chính trị vì chính nghĩa gì, bao giờ người ta cũng đặt quốc gia của họ lên trên. Quốc gia là gì? – Theo pháp viện tối cao Hoa Kỳ đã từng định nghĩa: “Quốc gia nào là một đoàn thể tự do, theo đuổi mục đích, mưu cầu một mục đích, mưu cầu hạnh phúc cộng đồng”. Vậy làm chính trị tức là thực hiện sứ mạng của quốc gia, mưu cầu hạnh phúc cộng đồng, như thế chánh trị đâu phải là những thủ đoạn khôn khéo sảo quyệt, đưa đẩy dân chung theo ý muốn của một người, hay một nhóm người, chánh trị đâu phải là những thủ đoạn khôn khéo, đâu có phải là lợi dụng của công để làm việc tư riêng, xây dựng hạnh phúc của cá nhân hay đảng phái trên sự đau khổ của toàn thể đồng bào, làm chính trị như thế tức là đưa quốc gia đến chỗ diệt vong, tức là phản bội lòng tin tưởng của toàn chúng, và nếu ta chỉ nhận định chính trị là những “mưu mô”, trách nào bây giờ người ta thông hiểu chữ chính trị theo một nghĩa rất xấu, với một thủ đoạn bất lương hay quỷ quyệt.

Mặc dù ta cho nó là một sảo quyệt, xuyên tạc, song sự thật ta có thể tin tưởng chắc chắn bất cứ nhà chính trị nào, cũng là tượng trưng của đức hy sinh, của tài năng lỗi lạc, và nhất là của lòng vị tha cao quý không?

Từ quốc gia nhìn chung ra ngoài thế giới, chính trị hiện nay trong thế giới, ta có thể chia ra làm hai phe Tự do và Cộng sản. Những phe này hiện đương cọ xát lẫn nhau, tuy ra có vẻ âm thầm, song không kém kịch liệt. Ở giữa hai thế lực của hai phe ấy, các nước phần nhiều không bị lôi cuốn vào phe này, thì cũng lợi dụng vào phe bên kia, nhân thế chính trị ở các nước trên thế giới hiện nay luôn luôn biến chuyển, đồng thời quân sự cũng phải rục rịch chuẩn bị ráo riết, tuy thế giới mới trải qua một cuộc chiến tranh ác liệt tàn khốc.

Các chính sách của các nhà ngoại giao, luôn luôn chuốt miệng cho khéo, thỉnh thoảng đọc những bài diễn văn lời lẽ rất văn hoa chải chuốt, tuyên bố những lời có vẻ trịnh trọng hòa bình, hoặc khi cùng bắt tay nhau, ký hiệp ước này, hiệp định khác, song cũng không hiểu vì sao? – Hay nó là tính tò mò của người ta – Họ vẫn lo ngại cho cuộc biến chuyển của tương lai, một cuộc chiến tranh khác, có lẽ khốc liệt hơn có thể xảy ra nếu loài người không thức tỉnh.

Có gì ngây ngô bằng tin các nhà chính trị có thể gặp nhau trong một lý tưởng, cùng một chủ nghĩa, căn cứ vào chính trị để tìm hạnh phúc mau chóng cho nhân loại, là một lý luận không thể đứng vững được.

Tìm ở chủ nghĩa xã hội

Ở khoa học, triết học cho đến tôn giáo, chính trị ta thấy đều không thể đem lại sự thỏa mãn lòng nhu cầu của nhân loại, tìm con đường sáng để đi đến chỗ hạnh phúc hoàn toàn chân chính thiện mỹ. Vậy nay hãy nhìn qua về xã hội chủ nghĩa là có một thuyết chủ trương về kinh tế, hiện đương có thế lực bành trướng khắp nơi, và hình như đã thu hút được nhiều người.

Xã hội chủ nghĩa là bước đầu tiên đến duy vật sử quan và duy vật biện chứng, để nhận xét lịch trình tiến hóa của nhân loại, và thuyết minh luật mâu thuẫn giữa vạn vật, giữa các giai cấp đấu tranh vô sản cầm chính quyền, tổ chức một nền kinh tế theo chủ nghĩa xã hội, tức là nền kinh tế quân phân, mỗi người đều hết bổn phận làm việc theo tài năng của mình, sự nhu cầu sẽ có xã hội cung cấp đầy đủ.

Bấy giờ ở xã hội không còn có chế độ của riêng nữa, sự mâu thuẩn ở giai cấp cũng tiêu sạch, nhân loại sẽ được hưởng hạnh phúc sung sướng không còn thống khổ và gây ra chiến tranh nữa.

Xét ra lý thuyết của chủ nghĩa này rất hay, nếu thực hiện được, thì nhân loại cũng hết khổ và hưởng được nhiều điều an vui thật. Song căn bản của chủ nghĩa xã hội đã sai lầm, nhận vật chất làm căn nguyên sinh ra vạn hữu, vũ trụ và lý tưởng loài người. Vì điều sai lầm căn bản ấy, xã hội chủ nghĩa trở nên nông cạn, chỉ thấy con người ở cơm ăn áo mặc. Đi sâu vào tâm lý loài người, xét tận nguồn gốc gây ra thống khổ của nhân loại, nguyên nhân chỉ vì Tham, Sân, Si chứa chất nhiều quá rồi được hoạt động qua một bản ngã (cái ta) sai lầm, thấp kém. (Mà chính cái đó gây ra mầm mống mâu thuẩn).

Nên xã hội chủ nghĩa tổ chức kinh tế khéo giỏi đến đâu, mà nếu không thể gọt bằng trí hiểu biết của con người, không thể thủ tiêu, hoặc không có phương pháp để thủ tiêu lòng tham, sân, si cùng bản ngã nhỏ hẹp kia, thì nhân loại cũng không bao giờ hết khổ được.

Vậy phải tranh đấu đến bao giờ mới kết quả, và sự mâu thuẩn giữa nhân loại đến bao giờ mới hết, ngay khi tranh đấu ấy lại gây ra mâu thuẩn, để rồi tự hủy thế đặng đi đến một quá trình biện chứng khác? Thiết tưởng đã không làm sao gọt bằng được trí thức, thủ tiêu được bản ngã nhỏ hẹp của con người thì sự mâu thuẩn giữa nhân loại không bao giờ hết. Mà rồi e rằng người ta chỉ có cãi cọ nhau, giằng co nhau, cắn xé nhau, đánh giết nhau, cuộc tổng cách mạng không thành, loài người không thể đi đến đích thế giới đại đồng, hạnh phúc sung sướng vui tươi của xã hội chủ nghĩa, muốn đem lại cho đời người thỏa mãn ngóng trông nó, mơ ước nó, như thế tưởng không khỏi như con ma kia cứ ruổi theo bóng nắng giữa bãi cát dài vô hạn! Để tìm một con đường sáng, tức là một giải quyết thõa đáng về vấn đề vũ trụ nhân sinh ở các thuyết, các tôn giáo, để có thể làm phương châm xây nền tảng hạnh phúc chung cho nhân loại. Sau khi đọc qua các thuyết như trên, con đường sáng vẫn còn đâu đâu, người đi đường còn phải cố gắng bước kiếm tìm.

Nay ta thử đi vào địa hạt Phật Giáo.