HÀNH TRANG CHO NGÀY CUỐI
PHÁP SƯ THẾ LIỄU
TỲ KHEO THÍCH THIỆN PHƯỚC dịch
LỜI GIỚI THIỆU
“Người xưa khi có việc phải đi xa, lúc sắp chia tay họ không mong cầu châu báu, chỉ xin một lời khuyên, xem đó là ân huệ”. Nếu như ai thấu hiểu lời nói này, sẽ có khả năng chuyển hoá tất cả, lập thân dương danh ngay hiện đời.
Lúc nắng lo khi mưa; lúc no lo khi đói. Cuộc sống chúng ta tất cả đều ở trong tư thế dự phòng, lo cho tương lai. Tương lai hạnh phúc tuy là chuyện mai sau nhưng tất cả đều tuỳ thuộc vào hiện tại. Thế nên, lúc sống lo cho ngày chết ấy là lẽ đương nhiên. Đời người sẽ là một hành trình bất tận, nhưng bất tận với những ai không biết nẻo để quay về. Con người ta sanh ra ai ai rồi cũng phải chết, đó là qui luật của tạo hoá, là chuyện thường tình ở thế gian, nhưng đức Phật dạy: “Sanh tử là việc lớn”, vì có sự cách biệt giữa hai nẻo siêu thăng và đọa lạc.
“Nghĩa tử là nghĩa tận” cho dù trong cuộc sống có bận rộn thế nào đi nữa, nhưng khi hay tin người thân qua đời, phải tạm ngưng mọi việc, đến để chia buồn thắp lên một nén hương cầu nguyện cho người mất tạm coi là lời tiễn biệt.
Đấy là một nghĩa cử cao đẹp của một con người. Nhưng ta phải làm thế nào để “Mất còn đều lợi” đó là vấn đề cần nên xét lại và cũng là những gì được trình bày đầy đủ ở tập sách “Hành Trang Cho Ngày Cuối” nầy.
Xin trân trọng giới thiệu bản dịch cùng bạn đọc.
Mùa Vu lan 2005
Tỳ kheo Thích Lệ Trang
LỜI TỰA
Như Lai vì một nhân duyên lớn mà hiện ra đời nhằm mở bày cho chúng sinh ngộ vào tri kiến Phật. Tuy nhiên, muốn mở bày để ngộ vào tri kiến hẳn phải có phương tiện. Thế nên mới có ba tạng giáo điển và mười hai bộ kinh, gồm thâu tám vạn bốn ngàn pháp. Lẽ cùng cực ấy đều vì mở bày ngộ vào tri kiến Phật và đều vì một đại sự nhân duyên này!
Kinh Pháp Hoa chép: “Bằng năng lực của trí huệ, ta biết được tánh tham dục của chúng sanh, nên phương tiện diễn nói các pháp, khiến cho được hoan hỉ”. Lại nói: “Đối với hàng Bồ tát, ta thường dùng pháp vô úy, ngay lúc ấy bỏ hẳn phương tiện mà chỉ nói về đạo vô thượng”. Phương tiện nói các pháp là còn dùng phương tiện, mà ngay lúc đó không lệ thuộc các phương tiện, tức là chân thật. Mở ra cửa phương tiện, khơi bày tướng chân thật, cho nên kinh Pháp Hoa là vua trong ba tạng giáo.
Pháp môn Tịnh Độ gọi là phương tiện thứ nhất trong các phương tiện, là vô thượng liễu nghĩa trong các pháp liễu nghĩa, viên đốn đến cùng cực trong các pháp viên đốn.
Đại sư Ngẫu Ích nói: “Chư Phật vì thương xót chúng sanh mê mờ nên theo căn cơ mà giáo hóa, tuy nẻo về không hai nhưng phương tiện có nhiều môn. Song trong tất cả các phương tiện, nếu tìm pháp môn vắn tắt, viên đốn thì chẳng gì bằng niệm Phật để cầu sanh Tịnh Độ”. Thế mới biết pháp môn Tịnh Độ cùng một vị với Pháp Hoa, tức là phương tiện và cũng là chân thật.
Tổ sư Ấn Quang từng dạy: “Nếu chúng sanh trong chín cõi lìa bỏ pháp này, trên không lấy đâu thành Phật đạo; còn mười phương chư Phật bỏ pháp này, dưới không thể độ khắp chúng sanh”. Vì pháp môn Tịnh Độ có công dụng như thế, nên mười phương chư Phật đều khen ngợi, chín cõi đồng về, ngàn kinh đều xiển bày, muôn luận thảy tuyên dương! Đến như, người tu pháp môn Tịnh Độ phải tin sâu nguyện thiết, chuyên trì danh hiệu Phật để được lâm chung nhất niệm là việc càng quan trọng hơn.
Thuở xưa, Tổ Ấn Quang đã từng in quyển “Sức chung Tân Lương” lưu thông khắp nơi, người đọc nếu nương vào đấy thực hành thì được nhiều lợi ích. Nay hai thầy Tây Chấn và Thế Liễu vì muốn lưu thông pháp bảo nên soạn ra bộ “Sức Chung Tu Tri”(xin tạm dịch ý là Hành Trang Cho Ngày Cuối). Lời văn tuy đơn giản, nhưng ý chỉ thật cặn kẽ. Nếu ai tha thiết coi trọng, thực hành đúng như pháp thì người mất nhất định sẽ được vãng sanh Tây phương. Sự lợi ích ấy thật không thể lường.
Nói đến ý nghĩa sâu xa của pháp môn Tịnh Độ, ngàn kinh muôn luận đều mở bày, nhưng vẫn còn một số người chưa thấu đáo, không thể không giải thích cho tường tận.
Có người bảo: “Niệm Phật phải niệm thật tướng Phật, không nên niệm sáu chữ hồng danh”. Đây là sai lầm! Nói đến thật tướng tức là lìa tất cả các sự tướng, tất cả các pháp lặng soi không hai, sắc thân cõi nước không hai, tánh tu không hai, chơn ứng không hai. Đây đều là thật tướng! Thế thì nào có thể lìa sáu chữ hồng danh mà riêng cầu thật tướng? Cho nên hồng danh vừa niệm thì pháp giới rỗng rang, sáu chữ kiên trì thì thể mầu hiện đủ. Nếu có tri kiến chia rẽ giữa thật tướng và hồng danh thì chẳng có thể biết được thật tướng!
Lại có người bảo: “Nên niệm Tỳ Lô Giá Na, không nên niệm A Di Đà. Vì Tỳ Lô Giá Na là pháp thân của Phật, A Di Đà là ứng thân của Phật”. Đây cũng là tri kiến sai lầm! Ba thân pháp – báo – ứng, một tức là ba, ba tức là một, Di Đà tức là Tỳ Lô. Nếu lại chia ra làm hai thì chẳng thể biết được Tỳ Lô!
Có người thì bảo: “Nên cầu sanh về cõi Thường Tịch Quang, không nên cầu sanh về thế giới Cực Lạc Tây Phương”. Đây cũng là sai lầm! Nói đến Tịch Quang, Thật Báo, Phương Tiện và Đồng Cư, “danh” tuy có bốn, nhưng “thể” vẫn là một. Chưa đoạn kiến tư thì sanh vào cõi Đồng Cư; đã đoạn kiến tư thì sanh vào cõi Phương Tiện; đoạn vô minh thì sanh vào cõi Thật Báo, phần chứng được Tịch Quang; vô minh đã đoạn hết thì rốt ráo sanh vào cõi Tịch Quang. Vả lại, cõi Thường Tịch Quang không chỗ nào mà không sanh. Thế thì há có thể cầu sanh ư?
Có người bảo ngay nơi tâm là Tịnh Độ. Tâm tịnh thì cõi Phật tịnh, chỉ nên cầu sanh về Cực Lạc ở ngay nơi tự tâm, hà tất phải cầu sanh về Cực Lạc ở phương khác! Đây cũng là mê lầm! Nói đến tâm tức là pháp giới, Cực Lạc tuy cách xa ngoài mười muôn ức cõi nước, nhưng vốn chưa lìa khỏi pháp giới, tức là không lìa ở nơi tự tâm! Nay gượng lấy sáu trần duyên theo ảnh để làm tự tâm, vậy mà muốn thu thế giới Cực Lạc vào trong vọng tâm duyên ảnh sáu trần, rồi lại vọng chấp cầu sanh, há không sai lầm lắm sao? Những sai lầm này, chỉ nghe qua danh từ mà không rõ tột cùng được nghĩa lý sâu xa, luống bày việc “dối nghe lầm chứng” thì sao khỏi bị sự chê cười khi thấy chuột mà cho là chim! Người có trí thì không nên có những điều mê lầm như vậy! Những tệ đoan này đều là căn bệnh dễ mắc phải của người thời nay. Cứ đeo đuổi theo mục đích xa vời, theo danh quên thật. Thế nên, tôi không nhọc vì văn chương rườm rà mà sắp xếp lại, trông mong người học xét cho!
Còn phương pháp và ý nghĩa trợ niệm khi lâm chung, trong văn đã kể rất rõ, nên ở đây không bàn lại nữa.
Hoằng Hóa Xã – Thượng Hải, tháng 10 Âm lịch năm Giáp Ngọ
Pháp sư Diệu Chơn viết lời tựa.
LỜI TỰ TỰA
Sự đau buồn nhất ở trên thế gian này thật chẳng gì hơn cái chết. Đối với việc tử vong, chắc có lẽ mọi chúng ta đều biết đến và không ai tránh khỏi.
Nếu chỉ biết chết là buồn thương đau khổ mà không biết tìm cầu tu học theo pháp Phật để lìa khỏi ba cõi, mãi mãi tránh khỏi cái chết, thì sự buồn đau ấy chẳng phải là luống nhọc vô ích ư? Cho dù có tìm được pháp môn đi nữa, nhưng chưa hẳn khế hợp với căn cơ mình. Nếu tu tập mà không chứng ngộ thì vẫn ở mãi trong sáu nẻo luân hồi.
Do đó, ba ngàn năm trước, trong kinh Đại Tập Đức Phật Thích Ca Mâu Ni dạy: “Vào thời mạt pháp, ức ức người tu, nếu người tự lực nương vào giới định huệ để tu hành thì ít ai trừ sạch được phiền não nghiệp hoặc chứng được thánh quả. Chỉ có người nương theo pháp môn niệm Phật và nương vào sức thệ nguyện của Phật A Di Đà, cầu sanh về cõi Tây phương thì có thể vượt thoát sanh tử”.
Lại nữa, Tổ thứ 13 tông Tịnh Độ, tức đại sư Ấn Quang ở chùa Linh Nham – tỉnh Tô Châu cũng từng nói: “Chín cõi chúng sanh lìa pháp môn niệm Phật, trên không do đâu trọn thành Phật đạo; mười phương chư Phật bỏ pháp môn niệm Phật, dưới không nương vào đâu để độ khắp chúng sanh?”.
Nên biết, tâm đại bi của Phật Tổ vô cùng thương xót chúng sanh. Bởi lẽ, người thời mạt pháp, căn lành cạn mỏng, trí huệ hèn kém, không biết thời cơ, chọn lầm pháp môn. Tuy có tu nhưng không đắc đạo, luống hao phí tâm lực, sống một đời nhầm lẫn, cho nên mới nói như thế! Phải biết pháp môn tín nguyện niệm Phật độ khắp mọi căn cơ, không luận là tăng tục, nam nữ, già trẻ, thông minh hay ngu đần; cho đến phát tâm sớm muộn, tội nghiệp nặng nhẹ… những hạng người như thế nếu có đầy đủ lòng tin tha thiết, hạnh nguyện kiên trì, chân thật niệm Phật, cầu sanh Tây phương trọn đời không thoái chuyển, đến khi mạng chung nhất định sẽ nương nhờ Phật lực tiếp dẫn vãng sanh về thế giới Cực Lạc Tây phương. Ngay cả người thường ngày chưa biết tín nguyện niệm Phật cầu sanh Tây phương, nhưng khi lâm chung, nếu gặp được thiện hữu khai thị dẫn dắt khiến họ sanh lòng tin nguyện niệm Phật cầu sanh Tây phương, những người trong gia đình đều không đau buồn khóc lóc và không than vắn thở dài, lại giúp đỡ họ niệm Phật đúng như pháp, người này nhất định sẽ được vãng sanh Tây phương. Nên biết rằng lẽ cốt yếu để vãng sanh Tây phương tuy ở nơi tâm niệm rốt sau của mình làm chủ, nhưng cũng rất chú trọng pháp trợ niệm.
Đau lòng vì nỗi pháp lâm chung trợ niệm này vẫn chưa được phổ biến ở người thế tục, nên khi gặp người sắp mất, những thân thuộc trong gia đình thường lúng túng mịt mờ, không biết phương pháp trợ niệm danh hiệu Phật, đưa thần thức người quá cố vãng sanh về thế giới Cực Lạc Tây Phương hưởng thọ quả vui. Chẳng những thế, họ còn buồn thương, khóc lóc, kêu réo… khiến cho thần thức người mất bị đọa lạc trong ba đường địa ngục, ngạ quỷ, súc sinh chịu khổ mãi mãi. Vì thế, pháp sư Tây Chấn có lòng từ bi chí thiết, thương xót những người thế tục phần nhiều chưa nghiên cứu Phật học. Họ không biết rằng: “Cách trợ niệm cho người sắp mất có công năng mầu nhiệm như điểm sắt thành vàng”. Cho nên, pháp sư đi khắp nơi, lưu truyền chỉ bày những việc lợi hại lúc lâm chung và tổ chức Ban trợ niệm, học tập phương pháp trợ niệm cho người sắp mất, giúp thành một đại sự nhân duyên vãng sanh Tây Phương Cực Lạc.
Có hai quyển “Sức Chung Tân Lương” và “Nhân Sanh Chi Tối Hậu” hướng dẫn người tu tịnh nghiệp khi sắp mất, nhưng vì văn nghĩa quá sâu, không tiện để người sơ cơ học tập; cho nên pháp sư Tây Chấn dặn đi dặn lại, bảo Liễu tôi phải chọn những lời lẽ quan trọng của các bậc cổ đức nói về việc lâm chung, dùng văn Bạch thoại thông thường sao chép lại để làm tài liệu học tập.
Liễu nầy, thật khổ não lúng túng vì thất học. Tuy gom nhặt được vài bản thảo, nhưng việc làm này rất là miễn cưỡng, e rằng văn nghĩa sai lệch, làm lầm loạn Phật pháp và để lại sự sai sót đáng tiếc cho chúng sanh. Cho dù xuất phát từ tâm lành, nhưng lại tạo ra đại tội! Nhân thế, trước đem bản thảo kính thỉnh các bậc cao tăng đại đức nổi tiếng trong nước hiệu đính, rồi sau mới dám in ấn lưu hành.
Nguyện cầu khắp nơi cùng làm liên hữu! Ngưỡng mong người đọc sách này chớ chê văn chữ nông cạn sơ sài. Nếu người nào có thể nương theo thật nghĩa mà thực hành thì ai nấy đến lúc mạng chung, liền cùng nhau vượt qua khỏi chốn Ta Bà, tạ từ bể khổ sanh tử, đồng sanh về nước an dưỡng, mãi mãi hưởng thú vui mầu nhiệm Niết Bàn.
Tinh xá Hương Lâm Nhất Hạnh ngày Phật hoan hỉ, Tịnh nghiệp hậu học Thế Liễu kính cẩn viết lời tựa.