TỊNH ĐỘ ĐẠI THỪA TƯ TƯỞNG LUẬN
Nguyên Tác: Đại Sư Ấn Thuận
Dịch Giải: Thích Đức Niệm

 

CHƯƠNG MỘT
LUẬN VỀ TỊNH ĐỘ

Nói đến Tịnh độ, người ta thường nghĩ đến cảnh Tây phương cực lạc Phật A Di Đà làm giáo chủ. Sự thật danh từ Tịnh độ không phải chỉ có phạm vi và ý nghĩa hạn hẹp như thế. Cái nhìn về Tịnh độ ở đây có lẽ mới lạ và rộng rãi khác thường không như từ trước tới nay[1].

I. Ý NGHĨA VỀ TỊNH ĐỘ

Tịnh độ là một pháp môn trọng yếu trong Phật pháp. Người học Phật cần phải biết rõ ý nghĩa và giá trị của pháp môn Tịnh độ, nếu không thì vấp phải một thiếu sót lớn lao khi bước vào cửa kho tàng giáo lý đạo Phật. Thường thì người ta mỗi khi nghe nói đến Tịnh độ liền liên tưởng đến cõi Tây phương cực lạc Phật A Di Đà và niệm Phật vãng sanh. Nhưng kỳ thực Tịnh độ trong đạo Phật không phải chỉ có Tây phương cực lạc, xưng niệm danh hiệu Phật, đặc biệt là Tịnh độ cõi Phật A Di Đà trì danh niệm Phật. Đó là quan niệm của Phật giáo Trung Hoa do Ấn Độ truyền sang phát triển và hình thành. Giờ đây, đứng trên quan điểm toàn diện Phật giáo, một cách phổ quát để điều lý thuyết minh về Tịnh độ.

Cổ đức thường nói: “Giới luật và Tịnh độ không thể riêng rẽ độc lập mà thành tông”. Thái Hư Đại Sư nói: “Luật là nền tảng chung của ba thừa. Tịnh độ trùm cả ba thừa”. Như thế đủ biết rằng, giới luật đích thực là nền tảng chung cho cả ba thừa: Thinh văn, Duyên giác và Bồ tát. Không luận là người học Phật tại gia hay xuất gia đều không thể xa lìa giới luật. Tịnh độ là cảnh giới lý tưởng cho cả đại thừa và tiểu thừa ngưỡng vọng đạt đến. Như Thiên Thai tông, Hiền Thủ tông, Duy Thức tông, Tam Luận tông ngay đến cả Thiền tông nữa cũng đều có thể tu hành Tịnh độ, cầu mong Tịnh độ và hoằng dương Tịnh độ. Đây là khuynh hướng chung của Phật giáo chứ nhất định không phải là việc riêng của một phái, một người nào. Đứng trên lập trường đại thể Phật giáo mà nói cùng với cái nhìn của người chuyên hoằng dương từng tông phái một, đương nhiên sẽ có ít nhiều quan điểm bất đồng. Nhưng điểm chung của người tu học Phật là cầu đạt đến Tịnh độ, dù là Tịnh độ tự tâm hay Tịnh độ cảnh Phật.

Trước hết tưởng nên lược nói ý nghĩa về Tịnh độ. Độ tiếng Phạn là Ksetra, lược dịch là Sát. Sát Độ có nghĩa là thế giới hoặc cõi nước. Như vậy Tịnh độ tức là cõi nước thanh tịnh. Tịnh tức là không có nhiễm ô nhơ bẩn. Tịnh có hai ý nghĩa tích cực và tiêu cực. Nghĩa tiêu cực trong Phật pháp nói về Tịnh, tức là để đối trị với tạp nhiễm, như là vô cấu, vô lậu, sạch không. Ý nghĩa của các danh từ này là phủ định có tính cách tiêu cực. Về nghĩa tích cực không có nhiễm ô tức là thanh tịnh; không có phiền não tức là trí huệ; không có sân hận tức là từ bị; không có tạp nhiễm lỗi lầm tức là thanh tịnh công đức. Như thế thì Tịnh hàm chứa ý nghĩa tích cực. Vì vậy, Tịnh có nghĩa là không có một mảy may ô nhiễm, trưởng dưỡng công đức lành.

Các học giả Tây phương thường nói đến chơn, thiện, mỹ; hoặc khi nói đến ý nghĩa tôn giáo thì liền nêu chữ Thánh.

Chơn, đối với Phật giáo là hết sức quan trọng. Như nói đến những thật tướng, chơn như, thắng nghĩa, chơn đế.

Thiện, là chỉ cho hành vi đạo đức. Tức là các công đức lành do y theo Phật pháp tu hành tích lũy mà được.

Mỹ, đối trong Phật pháp tợ hồ không quan trọng lắm. Như nhan sắc đẹp đẽ, âm thanh hay ho. Các thứ này đối trong Phật pháp thì chỉ thích hợp cho các hình sắc của cảnh giới ngũ dục.

Kỳ thật chữ Thanh-Tịnh trong Phật pháp bao hàm ý nghĩa mỹ diệu, chơn thiện, thanh khiết. Các học giả Tây phương cho rằng Thánh là thống nhiếp chơn, thiện, mỹ, có tính chất siêu việt. Trong khi đó Phật pháp quan niệm rằng, lìa nhận thức sai lầm tức là chơn; lìa hành vi tội ác tức là thiện; lìa nhiễm ô thanh tịnh tức là mỹ. Chữ Tịnh trong Phật pháp có khả năng biểu đạt sự thống nhất đặc tánh của chơn, thiện, mỹ. Nó còn có tính chất siêu việt thế tục tầm thường. Sự hoằng dương tôn giáo ở thế gian với mục đích ước vọng mọi người có được chơn nhận thức, có được thiện ý chí và có được cuộc sống hợp lý mỹ mãn.

Thời trước đây, trong Phật giáo về các loại âm nhạc, hội họa, văn học, thí dụ như điêu khắc Phật tượng, kiến trúc tháp miếu v.v… Các môn loại này đã đóng góp quan trọng trong sự phát triển Phật giáo. Phật giáo lưu hành trong nhơn gian và phát triển không ngừng, song song theo đó lý trí và tình cảm quyết phải tương dung, thích hợp nhu cầu của chúng sanh, như thế mới là hợp lý phát triển. Nếu chỉ thiên về lý trí phát triển thì hậu quả sẽ đưa đến cuộc sống lạnh nhạt, không tránh khỏi tình trạng cằn cỗi của tâm linh. Ngược lại, nếu thiên về tình cảm với cuộc sống sôi động thì lại dễ rơi vào buông lung phóng túng, mất đi đời sống quy củ. Chỉ khi nào lý trí và tình cảm dung hợp thống nhất thì cuộc đời mới có ý nghĩa, mới có thể tịnh hóa nhơn sanh để đạt hiền thánh. Sự trang nghiêm thanh tịnh trong Phật giáo thật có ý nghĩa. Người nghiên cứu Phật pháp, đặc biệt là các luận sư A Tỳ Đạt Ma thường hay thiếu sót ý nghĩa dung hợp này. Thí như Phật giáo đại thừa, Phật pháp lưu hành thế gian, ngày một lan rộng và vẫn giữ được bản chất Phật giáo, điều này có thể khẳng định rằng, sự nghiêm tịnh hàm dưỡng ý nghĩa lớn lao trong Phật giáo, tạo sức mạnh vi diệu cảm hóa nhơn tâm.

Tịnh Độ tức là chỉ cõi nước thanh tịnh, hoặc thế giới trang nghiêm tịnh diệu. Trong Phật pháp có thể tổng kết ý nghĩa của Tịnh độ bằng chữ “Tịnh”. Tịnh là hạch tâm, là cốt tủy của Phật pháp. Tịnh có hai phương diện: 1- Chúng sanh thanh tịnh; 2- Thế giới thanh tịnh. Kinh A Hàm nói: “Tâm thanh tịnh cố, chúng sanh thanh tịnh”. Có nghĩa là vì tâm thanh tịnh, nên chúng sanh thanh tịnh. Kinh điển đại thừa lại nói: “Tâm tịnh thì cõi nước tịnh” (tâm tịnh đắc độ tịnh). Ấn Thuận Đại Sư nói: “Tâm tịnh thì chúng sanh tịnh, tâm tịnh thì quốc độ tịnh. Phật pháp tuy có vô lượng pháp môn, vô lượng nghĩa, nhưng tịnh là căn bổn” (tâm tịnh chúng sanh tịnh, tâm tịnh quốc độ tịnh, pháp môn vô lượng nghĩa, nhất dĩ tịnh vi bổn). Thanh văn thừa chú trọng về lìa phiền não, thân tâm chúng sanh thanh tịnh, hiển phát từ tâm, thanh tịnh vô lậu. Còn đại thừa không những cầu cho chúng sanh được thanh tịnh, mà còn cầu cho cõi nước thanh tịnh nữa. Có chúng sanh tức là có hoàn cảnh, phương sở của chúng sanh. Như chim thì có thế giới của chim. Ong thì có thể giới của ong. Cá thì có thế giới của cá. Mỗi loài hữu tình đều có sở trường hoạt động của chúng. Chúng sanh là chánh báo, thế giới là y báo. Y có nghĩa là nương vào nơi phương sở đó mà hoạt động. Người học Phật thì chuyên tâm chú trọng thanh tịnh tự thân, tức đồng với Thanh văn thừa. Do tự thân thanh tịnh, nên cầu cõi nước được thanh tịnh, tức là nhiếp phục chúng sanh thành thục để chúng sanh được lợi ích, mới hiển bày cái đặc sắc của pháp đại thừa. Vì vậy, hành giả tu học pháp đại thừa cần phải đủ hai phương diện: tu phước đức và tu trí huệ. Phước đức có khả năng cảm thành thế giới thanh tịnh; trí huệ có diệu dụng làm thân tâm thanh tịnh. Nếu tu phước mà không tu huệ và ngược lại nếu tu huệ mà không tu phước thì không phải là tinh thần căn khí của đại thừa Phật giáo. A la hán có thể không tu phước mà chỉ thiên trọng về tu huệ. Nhưng Phật và Bồ tát thì đủ cả phước đức và trí huệ. Hành giả đại thừa từ hai phương diện này mà tu học, một khi đạt được quả vị Vô Sanh Pháp Nhẫn, công hạnh đầu tiên mà Bồ tát cần làm là lợi tha, tức là: 1- Thành tựu chúng sanh; 2- Trang nghiêm Tịnh độ. Như thế, khiến cho chúng sanh thiện căn trong năm thừa đều được thành tựu thiện pháp, hoặc được thanh tịnh giải thoát, đồng thời các pháp thế gian cũng theo đó mà chuyển hóa thanh tịnh. Đây là hai nhiệm vụ vị tha vĩ đại mà Bồ tát gánh vác thực hiện. Tu phước huệ cũng là nhằm mục đích tịnh hóa chúng sanh và thế giới. Do tâm hạnh này nên đến khi thành Phật thì được hai điều viên mãn: 1- Pháp thân viên mãn; 2- Tịnh độ viên mãn. Chúng sanh có y báo, Phật cũng có y báo. Tất cả đạt đến lý tưởng viên mãn, mới được gọi là chơn chánh thành Phật. Có hiểu được như thế thì mới hiểu tư tưởng Tịnh độ và tinh thần đại thừa Phật giáo, cả hai không thể rời nhau. Từ ý nghĩa thâm diệu này, chớ nên nông nổi bài bác, tự mình đào hố xô đẩy mình lạc đạo. Xa lìa Tịnh độ thì không có đại thừa. Tịnh độ khế hợp với tư tưởng đại thừa, không như một số người trí thức Phật pháp nông cạn nghĩ rằng Tịnh độ là pháp môn dành riêng cho hạng bình dân tu tập!? Vấn đề được đặt ra ở đây là tu Tịnh độ thì phải tu như thế nào? Làm thế nào để thực hiện Tịnh độ? Đó là điều cần phải nghiên cứu cẩn thận.

II. LOẠI TỊNH ĐỘ

Tịnh độ là nơi quy hướng của ba thừa (Tịnh độ vi tam thừa cộng xứ). Đại thừa đặc biệt xiển dương Tịnh độ đủ mọi hình thức. Tịnh độ trong Phật pháp là phải quán triệt suốt thông không thể mơ hồ mê tín. Thế nên, Tịnh độ có thể phân làm ba loại:

Ngũ thừa Tịnh độ, Tam thừa Tịnh độ và Đại thừa Tịnh độ.

1- Ngũ Thừa Tịnh độ: Cõi Tịnh độ này chung cho cả năm thừa. Với ý nghĩa này không chỉ riêng cho Phật giáo mà cả người thế gian đều có thể có tư tưởng Tịnh độ. Quan niệm của Ấn Độ cho rằng: Bắc Cu Lư Châu tiếng Phạn là Uttara-Kuru, là một trong bốn châu, có nghĩa là châu phước lạc vô cùng, là cảnh giới có nhiều phước báo an vui. Người Ấn Độ đều thừa nhận có thế giới này. Còn Trung Hoa khi truyền tư tưởng Nho gia và Đạo giáo lại cũng thuyết minh cảnh giới an vui tuyệt đẹp, tuy danh xưng có khác, nhưng đồng ý là có cảnh tuyệt trần như vậy. Tức là bồng lai tiên cảnh.

2- Tam Thừa Tịnh độ: Cõi Tịnh độ chung cho cả ba thừa. Đây là cảnh mà cả đại thừa lẫn tiểu thừa Phật giáo đồng thuyết minh. Rõ ràng nhất là cảnh Đâu Suất Tịnh độ. Chính đức Phật Thích Ca trước khi chưa thành Phật, làm thân Bồ tát cuối cùng cũng từ cõi trời Đâu Suất giáng sanh đến cõi nhân gian này. Đức Phật Thích Ca đã như thế, mà đức Phật Di Lặc trong tương lai cũng đang như thế. Đâu Suất nội viện là nơi y chỉ của các hành giả mang thân Bồ tát cuối cùng. Trong thời gian ở đây, thường thì các vị Bồ tát này vì chúng Trời và các Thánh hiền mà thuyết pháp. Thiên cung hay cõi Trời vốn cực kỳ trang nghiêm, lại có các vị mang thân Bồ tát rốt sau thuyết pháp, nhờ phước duyên đặc biệt này nên so với các cõi trời khác thì lại còn trang nghiêm tốt đẹp hơn. Điều này không phải chỉ đối với các hành giả Bồ tát xác nhận, mà đối với tất cả các hành giả Thanh văn cũng đều đồng nói như thế. Từ nơi kinh điển Thanh văn được kiết tập, ta nhận thấy Di Lặc trong tương lai sẽ hạ sanh giáng trần, thực hiện nhơn gian Tịnh độ, đấy là mục tiêu ngưỡng vọng của hàng Phật tử. Việc đức Di Lặc đang ở cõi Đâu Suất trong tương lai sẽ giáng sanh cõi trần, điều này đã được nói rõ ở kinh Di Lặc Thượng Sanh và kinh Di Lặc Hạ Sanh v.v… Ngoài việc mọi người đều truyền nói về cõi Tịnh độ của đức Di Lặc ra, còn có Hữu bộ và Độc Tử bộ, kinh Chánh Pháp Niệm Xứ cũng nói về cõi trời Dạ Ma có Thiện Thời Nga Vương Bồ tát thường vì các chúng trời mà thuyết pháp.

Cõi trời Thanh Tịnh có Bồ tát thuyết pháp cùng với Di Lặc ở cõi Trời Đâu Suất thuyết pháp ý nghĩa giống nhau. Luận Nhập đại thừa có dẫn thuật về truyền thuyết của Đại Chúng bộ như thế này: “Đức Thanh Nhãn Như Lai ở cõi Trời Quang Âm thuộc Sắc giới nhị thiền thiên, vì giáo hóa Bồ tát cùng vô lượng đại chúng Thanh văn, trải vô lượng bách thiên đại kiếp mà ở thiên cung thuyết pháp”. Pháp Tạng bộ nói: “Ở phương Đông Bắc của thế giới này có đức Nan Thắng Như Lai thường thuyết pháp độ chúng”. Trong bản Hán dịch kinh Tăng Nhứt A Hàm nói đến thế giới phương Đông có đức Kỳ Quang Như Lai thuyết pháp, Mục Kiền Liên tôn giả đã dùng phép thần thông bay đến chỗ đức Kỳ Quang Như Lai. Việc này thấy cũng có nói đến trong kinh đại thừa. Chúng ta còn có thể thấy sự việc này ở trong giáo pháp của các phái học giả Thanh văn đều có nói đến thế giới thiên cung hoặc có tư tưởng về cõi Phật phương khác. Đối với thế giới nhơn gian ác trược bất tịnh còn có thế giới khác thanh tịnh, nơi có Phật, Bồ tát thường thuyết pháp. Những dữ kiện trên đây đều là cụ thể chứng minh biểu đạt được hình ảnh đại thừa Tịnh độ.

3- Đại Thừa Tịnh độ: Cõi Tịnh độ đặc biệt riêng cho hành giả đại thừa mà danh từ Phật học gọi là “Đại thừa bất cộng độ”. Đại thừa bất cộng độ này không thể tính đếm hết. Như thế giới Tịnh độ xưa nhất mà cũng nổi tiếng nhất, đó là cõi Tịnh độ phương Đông của đức Phật A Súc và cõi Tịnh độ phương Tây của đức Phật A Di Đà. Nhưng đối với Phật giáo đại thừa thuộc các nước Trung Hoa, Nhật Bổn, Việt Nam, Đại Hàn v.v… thì xem trọng, ngưỡng vọng cõi Tây phương Tịnh độ của Phật A Di Đà và cõi Đông phương của Phật Dược Sư hơn. Đây là chỉ cho Tịnh độ khác phương cõi, nghĩa là cảnh giới thanh tịnh trang nghiêm đặc biệt. Về sau Mật tông truyền thuyết rằng thế giới này sẽ xuất hiện cõi Hương Bạt La Tịnh độ. Trên đây là chỉ cho tư tưởng đại thừa Phật giáo bất cộng. Bởi điều này không thấy nói đến ở giáo lý Phật giáo tiểu thừa.

Những điều đã nói trên đây, hoặc là thế nhơn đã biết, hoặc là ba thừa đều biết, hoặc là đại thừa cùng tin. Đối với cõi Phật đại thừa bất cộng, theo sự tu hành đạt cảnh giới cao thấp thì có thể phân làm bốn loại như sau:

a- Phàm Thánh Cộng Độ: Cõi Tịnh độ có phàm phu mà cũng có thánh nhơn đồng chung ở.

b- Đại Tiểu Cộng Độ: Cõi Tịnh độ này không có phàm phu mà chỉ có hàng Thanh văn, Duyên giác và Bồ tát đồng chung ở. Thiên Thai tông gọi đây là Phương Tiện Hữu Dư Độ. Kinh Pháp Hoa nói: “Thanh Văn nhập niết bàn, đến một quốc độ khác, tương lai sẽ được thọ ký làm Phật”. Kinh nói, đến một quốc độ khác có nghĩa là cõi Tịnh độ do ý sanh thân. Căn cứ kinh Lăng Già thì phải là hạnh có tâm địa Bồ tát, tức là hạng có tướng, có công dụng, hạnh của Bồ tát mới được cõi Tịnh độ Tam muội lạc ý sanh thân.

c- Bồ Tát Bất Cộng Độ: Cõi Tịnh độ chỉ có Phật và Bồ tát chung ở. Cõi Tịnh độ này không có hàng Thanh văn. Thiên Thai tông gọi đây là Thật Báo Trang Nghiêm Độ. Kinh Mật Nghiêm gọi cõi này là Mật Nghiêm Tịnh độ. Có nghĩa là Bí Mật Bất Khả Tư Nghì Trang Nghiêm nhiệm mầu, là cõi Tịnh độ chỉ cho riêng Bồ tát ở.

d- Phật Quả Bất Cộng Tịnh độ: Cảnh giới này chỉ có người chứng Phật quả mới đạt đến. Như kinh Nhơn Vương nói: “Quả báo chỗ ở của tam thừa thập thánh, nhưng chỉ có Phật mới đạt đến cảnh Tịnh độ Phật quả bất cộng”. Cõi Tịnh độ này còn gọi là Pháp Tánh Tịnh độ. Thiên Thai tông thì gọi cõi Tịnh độ Phật quả bất cộng là Thường Tịch Quang Tịnh độ. Tuy nhiên, đối với cõi này về danh xưng và địa vị, các nhà Phật học có thể có những quan điểm bất đồng. Nhưng trên đại thể thì vẫn có bốn bậc Tịnh độ tồn tại. Trong kinh đại thừa khi nói về cõi Phật Tịnh độ thì không phân biệt rõ ràng như thế. Chẳng hạn như khi nói đến cảnh Tây phương cực lạc Tịnh độ thì thấy có thánh phàm chung ở, đại tiểu đề huề. Có người cho rằng cõi cực lạc có thánh phàm chung ở là điều thị hiện. Sự hiện diện của Thanh văn trong cõi cực lạc là căn cứ vào túc nhơn sơ tâm mà nói, nhưng hiện tại đều là Bồ tát cả. Có nghĩa là khi phát tâm tu hành chỉ cầu được quả Thanh văn, nhưng sau đó phát tâm tu Bồ tát hạnh. Nói cho cùng, điều quan trọng là công dụng tu hành cạn sâu, cõi Tịnh độ tùy theo tâm nguyện mà hiện hành. Đích thực cấp bực thì có bốn thứ Tịnh độ: 1- Phàm thánh đồng cư độ, là cõi Tịnh độ thống nhiếp cả ngũ thừa; 2- Đại tiểu đồng cư, cõi này thì thống nhiếp cả ba thừa; 3- Phật và Bồ tát đồng cư, cõi này thống nhiếp cả Phật và Bồ tát; 4- Phật Tịnh độ là cõi chỉ có chư Phật đồng trụ. Hai cõi ba và bốn thường được gọi là đại thừa bất cộng Tịnh độ.

Trên đây phân loại thuyết minh về Tịnh độ. Cõi nước mà không những người trong Phật pháp hướng vọng, thậm chí không phải là hành giả Phật pháp cũng đều mong cầu. Đặc biệt người phát tâm đại thừa đối với cõi Tịnh độ thì tha thiết nhiệt tình hơn. Thế nên, người tu học đại thừa không thể để tâm ý khinh xuất, ý chí hờ hững về việc cần cầu thế giới Tịnh độ. Nên ghi nhớ kỹ rằng: nếu chỉ biết chú trọng thân tâm thanh tịnh không thôi, như hàng tiểu thừa thì không thể đạt đến cứu cánh. Đại thừa chẳng những phải thanh tịnh thân tâm, mà còn công hạnh độ sanh trang nghiêm thế giới, như thế mới có thể đạt đến cứu cánh viên mãn.

III. CẢNH TRÍ TỊNH ĐỘ:

1- Cõi Nước Tịnh Hóa Tự Nhiên: Tịnh độ là thế giới lý tưởng. Y theo căn tánh chúng sanh bất đồng, xã hội văn hóa chúng sanh sai khác mà có các cõi Tịnh độ khác nhau. Tịnh độ là cõi nước lý tưởng mà chúng sanh mong cầu hướng đến. Bởi vì bản tánh của nó là tự nhiên và cho tất cả. Nhưng tư tưởng Tịnh độ trong Phật giáo bắt nguồn từ nền văn hóa Phật giáo Ấn Độ và phát triển sang các nước. Nên khi nói đến cảnh giới Tịnh độ đương nhiên phần nào phải hiểu là do sự kết hợp thích ứng với hoàn cảnh văn hóa Ấn Độ và đặc trưng tư tưởng của họ. Đây là điểm mà chúng ta cần lưu ý.

Khi luận về cảnh trí cõi nước Tịnh độ mà trong Phật giáo thường đề cập đến, thì không chỉ luận riêng về y báo quốc độ mà cần phải nói về chánh báo chúng sanh cõi nước đó nữa. Vì vậy nên có thể phân làm hai phương diện để luận bàn:

1- Cõi nước thanh tịnh tự nhiên;
2- Chúng sanh thanh tịnh tự nhiên.

Cõi nước Tịnh độ là cõi thanh tịnh tự nhiên tựu trung có bốn đặc tính:

a- Đặc tánh bằng phẳng: Phật giáo nói tất cả cõi Tịnh độ không có cõi nào có núi đồi gò đống biển cả sông hồ cho đến cây gai cát sỏi. Phật giáo phát triển trong hoàn cảnh Ấn Độ, dọc lưu vực sông Hằng là vùng bình nguyên. Ý cảnh của các bậc cổ thánh xưa quan niệm rằng núi sông làm cách trở, thường gây tai nạn. Do đó mà có ý niệm cõi Tịnh độ mặt đất bằng phẳng. Nhưng thói thường đối với núi rừng hải đảo ghềnh thác là nơi phát sanh nguồn cảm hứng. Do đó, nên lại có người miêu tả cảnh trí cõi Tịnh độ chẳng khác nào bồng lai tiên cảnh suối chảy thông reo, tiên nữ tiêu dao, hoa đào trải lối.

b- Đặc tánh ngay thẳng: Đặc tánh văn hóa Ấn Độ là cầu quân bình phát triển. Vì vậy mà biểu hiện Đông, Tây, Nam, Bắc bốn phương cùng Thượng, Hạ giống nhau. Điều này rõ ràng hiển bày ý nghĩa đặc tánh ngay thẳng, như trên bức họa phú quý cùng đi đôi với mỹ lệ. Đây là đặc trưng mỹ diệu mà trong kinh Phật thường diễn tả về Tịnh độ. Người Trung Hoa quan niệm về vẻ đẹp tự nhiên lại không như thế. Nghĩa là khi biểu hiện họa vẽ về sơn thủy đều có sự phụ họa biến chế, ít có đặc tánh miêu tả cân đối ngay thẳng.

c- Đặc tánh khiết tịnh: Cõi Tịnh độ không có mảy may nhơ bẩn ô nhiễm, cả dưới đáy ao hồ cũng toàn là bằng cát vàng không có cặn đục rong sỏi bùn nhơ.

d- Đặc tánh phủ lệ: Mặt đất cát vàng, bảy báu làm thành cung điện kỳ diệu tráng lệ. Người ta thường nói văn hóa Ấn Độ cũng như văn hóa Phật giáo thiên trọng về duy tâm. Nhưng nếu cẩn trọng nghiên đọc kinh sách đại thừa chúng ta sẽ thấy quyết không hẳn như thế. Tịnh độ được biểu hiện qua vật chất giới tự nhiên thì làm sao lại phong phú lắm vậy! Thanh văn Phật giáo chú trọng thiểu dục tri túc đến tích cực phát triển phú lệ huy hoàng, quảng bác trang nghiêm, không có ý tượng cằn cỗi bần khổ thiếu thốn. Như nói đến lầu các cõi Tịnh độ thì làm bằng vàng, bạc, lưu ly, pha lê, xa cừ, xích châu, mã não các thứ châu báu hợp thành. Chúng ta muốn hiểu rõ Tịnh độ, nên tìm về sự miêu tả trung thực cảnh ý của các nhà tu Phật.

Đứng về sự tướng sai biệt của cảnh giới Tịnh độ mà nói thì đại để có các cảnh trí đặc thù như sau:

* Tịnh Độ có vườn cây đẹp: Cây báu thành hàng, hoa báu rộn nở, trái quý sum sê, ao hồ trong mát. Trong cõi Tịnh độ không có loài thú, mà chỉ có loài chim tuyệt đẹp, tiếng hót thanh thoát trong trẻo như chim bạch hạc, khổng tước, anh vũ, xá lợi… Cảnh giới Tịnh độ linh hoạt như cảnh trí của công viên vĩ đại đầy hoa thơm cỏ lạ hương sắc thanh khiết thơ mộng.

* Tịnh Độ kiến trúc thẩm mỹ: Cõi Tịnh độ đường sá bằng phẳng, sáng sủa bóng loáng, rộng rãi ngay thẳng, nếu ai đã từng qua các đô thị tân tiến hiện đại thì từ đó có thể suy tưởng ra ít nhiều biết được cảnh Tịnh độ. Như nói cõi nước ấy hai bên đường có hai hàng cây báu cũng giống như các đô thị tân tiến ngày nay, hai bên đường có trồng hai hàng cây. Lầu các trong cõi Tịnh độ có bao lơn xung quanh, trang nghiêm tráng lệ. Dùng linh báu cùng tràng phan bảo cái lưới giăng quý báu trang điểm lầu các. Do những thứ quý báu trang trí lầu các, nên cõi Tịnh độ có đủ các thứ vui ngũ dục lạc cùng với vườn cây hoa lá tỏa khắp hương thơm. Cõi Tịnh độ sáng diệu không có bóng tối. Cảnh vật cõi Tịnh độ sắc thái mỹ lệ, phảng phất mùi thơm, chim hót linh rung, chuông ngân, gió thoảng, nước chảy, mây bay. Tất cả đều phát ra những âm nhạc thanh tao đạo vị tạo thành nhạc điệu tuyệt diệu. Lại nữa, trong cõi Tịnh độ đường sá, chỗ ở đều dịu mát, mềm mại sạch sẽ thoải mái, tương tự như nệm nhung, salon ngày nay. Tất cả những thứ đó đều do công đức thanh tịnh mà tự nhiên hóa hiện, chứ không phải do công người chế tạo trang hoàng như ở thế giới Ta bà chúng ta đang ở.

2- Chúng Sanh Tịnh Hóa: Tịnh độ không những có được những đặc thù tự nhiên giới tịnh mỹ hóa mà còn có được cái kỳ diệu chúng sanh giới tịnh hóa nữa, tức là xã hội tịnh hóa. Việc này có thể đứng trên ba phương diện mà luận:

a- Kinh tế sinh hoạt tịnh hóa: Nếu sinh hoạt kinh tế không giải quyết thỏa đáng, thì đời sống tại đô thị phồn hoa vô cùng thống khổ. Do đó, trong cõi Tịnh độ đặc biệt nói đến đời sống vật chất như y phục, ẩm thực, trụ xứ, các thứ vui v.v… tùy theo sở cầu đều được toại ý. Điểm đặc biệt là những vật dụng cõi Tịnh độ không thuộc về ai mà do chánh báo thanh tịnh, nên tùy thích sử dụng, tùy tâm mãn nguyện, tuyệt nhiên không có hiện tượng chiếm đoạt tư hữu, chứa chấp giữ riêng như cõi thế gian chúng ta đang ở. Khi nói đến quan hệ sinh hoạt kinh tế thì có hai hiện tượng hiển nhiên là: sản xuất và tiêu phí. Trong hai vấn đề này, tiêu phí so với sản xuất có phần khó khăn hơn. Có lẽ vì thế nên cổ nhơn từng nói “Không sợ thiếu mà chỉ lo không quân bình”. Trong thế giới xã hội loài người, có hạng người hưởng thụ, tích lũy quá nhu cầu của họ, trong lúc đó lại có đa số người sống trong cảnh thiếu thốn không đủ dùng. Điều không hợp lý này là nguyên nhân căn bản của xã hội loạn động bất an. Nghĩa là vật chất một khi không đồng đều, phân phối không hợp lý thì không những không tránh khỏi loạn động, mà loạn động đấu tranh càng ác liệt hơn. Vì vậy, Tịnh độ trong Phật giáo đặc biệt chú trọng quân bình cung cầu để cho sự tiêu dùng đầy đủ. Thời đại khoa học tiến bộ, nếu cách mạng xã hội hợp lý, thì thời gian mọi người làm việc bằng nhau, người người có đời sống công bằng đầy đủ. Có như vậy thế gian mới đạt đến đại đồng cảnh giới. Được như thế cũng có thế nói là thực hiện phần nào tinh thần nhân gian Tịnh độ Phật giáo.

b- Nhân quần sinh hoạt tịnh hóa: Quần chúng tịnh hóa sinh hoạt có bốn điểm:

* Nam nữ không có ý niệm nhà: Khi một niệm nhà không có thì mọi người sống trong tinh thần đại đồng hòa vui an hưởng. Điều này gần với ý nghĩa Tịnh độ. Tịnh độ Phật giáo có hai loại: Một là nhơn gian Tịnh độ chung cho năm thừa, như tương lai Di Lặc Tịnh độ, Bắc Cu Lư Châu, các cõi này đều có nam nữ. Hai là đại thừa bất cộng Tịnh độ. Cõi Tịnh độ này không có nam nữ sai biệt. Y cứ vào Phật pháp mà nói thì tất cả y phục, thực vật, trụ xứ đều không chiếm hữu làm của riêng tư.

* Tịnh Độ không có giới hạn chủng tộc: Cõi thế gian này chúng ta thường nghe thấy nạn kỳ thị chủng tộc. Như người da trắng khinh thị người da màu. Vì có quan niệm chủng tộc này ưu việt đặc biệt hơn chủng tộc kia, nên diễn thành cảnh chủng tộc đấu tranh, đây cũng là căn nguyên lớn của tội ác thế gian. Cõi Tịnh độ không có sự sai biệt về chủng tộc màu da, cũng không có quan niệm nhà, gia đình xã hội. Người sanh về cõi Tịnh độ nhất luật thân hình sắc vàng. Tịnh độ Phật giáo đã không có màu sắc sai biệt, nên không có chủng tộc giới hạn. Thế gian vì chủ nghĩa quốc gia hẹp hòi, chủng tộc kỳ thị, nên tạo thành thế giới tội ác, không huy hoàng như cõi Tịnh độ.

* Tịnh Độ không có cường nhược phân biệt: Cõi Tịnh độ tuyệt đối không có nạn xâm lược, áp bức, khinh thị. Dân trong cõi Tịnh độ học thức đạo đức cao siêu, sống hòa vui trong tinh thần bạn đạo đề huề, nên cõi Tịnh độ không có hiện tượng mạnh lấn yếu, chúng hiếp cô.=

* Không có oán thù: Trong kinh thường nói “Chư thượng thiện nhơn câu hội nhứt xứ”. Có nghĩa là các bậc thượng thiện nhơn cùng tụ hội một chỗ. Cõi nước chỉ có người lành thiện cùng tâm nguyện cùng chí hướng, đối đãi nhau như anh em ruột thịt, như bạn tri kỷ.

Tóm lại, cõi nước Tịnh độ nhơn dân hòa vui chung ở, vượt ngoài tâm niệm gia đình, quốc gia, chủng tộc. Nơi đó chỉ có bạn hiền an vui không có oán thù. Đấy là cõi nước lý tưởng mà thế gian từ cổ chí kim thường ước ao đạt đến: thiên hạ một nhà, thế giới đại đồng, an lạc cộng hưởng. Cõi Tịnh độ là do tâm thanh tịnh mà hình thành cõi nước thanh tịnh. Cõi thế gian do tâm ô trược nên hình thành thế giới phiền não loạn động.

Luận về vua, Tịnh độ cũng có hai loại: Loại thứ nhất là có vua: như nói trong tương lai đức Di Lặc hạ sanh, có Luân Vương trị thế. Kim Luân Thánh Vương không phải dùng võ lực để trị thiên hạ, mà bằng vào tư tưởng đạo đức để cảm hóa, khiến cho nhân loại chung sống trong lý tưởng đạo đức hòa vui. Loại thứ hai không có vua: đây là cõi Tịnh độ của đại thừa bất cộng. Phật được gọi là đẳng Pháp Vương. Như vậy không có nghĩa là đức Phật A Di Đà thống trị thánh chúng cõi Tịnh độ, mà chỉ trên tư tưởng, hành vi thọ nhận sự chỉ đạo của Phật cho đến khi nào đạt được tâm cảnh cứu cánh viên mãn rốt ráo.

c- Thân tâm tịnh hóa: Sống trong cõi Tịnh độ được sự hướng đạo giáo hóa của các bậc thượng thiện nhơn, người người tiến bộ không ngừng. Mọi người thấm nhuần Phật pháp, nhứt trí lý tưởng trên cầu Phật đạo, dưới hóa độ chúng sanh, y cứ vào đạo lộ Phật chỉ dẫn mà tu hành. Nơi cõi Tịnh độ do dứt trừ tham, sân, si nên không có hiện tượng thống khổ của già, bệnh, chết. Dân chúng nơi cõi Tịnh độ ngày ngày thâm nhập Phật pháp, không có thối thất tâm bồ đề, một lòng một chí tu học, vì lợi lạc chúng sanh mà phát tâm hướng đến đại thừa.

Tịnh độ quan hệ đến việc tịnh hóa thế giới chúng sanh, mà đặc tánh bình đẳng và tự do là điều tất yếu. Bình đẳng và tự do cõi Tịnh độ chú trọng giáo hóa về tư tưởng. Muốn tịnh hóa thân tâm chúng sanh, thì phải thực hành vô ngã và vô ngã sở. Điều này quyết không phải do phát triển tự ngã mà phải nghiêm mật khắc chế tự ngã mới đạt thành. Đứng trên lập trường của Phật giáo mà nhìn, những tư tưởng của thế gian hình thành đều phát xuất từ ngã và ngã sở. Vì vậy khó có thể đạt đến cảnh giới lý tưởng mong muốn. Tư tưởng về Tịnh độ Phật giáo xuất hiện là để đáp ứng cộng đồng nhân loại mong muốn. Phương pháp đạt đến lý tưởng Tịnh độ cùng với lý tưởng thế gian không đồng. Tức là Phật đặt trên cơ sở vô ngã và vô ngã sở để thực hiện cõi Tịnh độ tự do bình đẳng. Các học giả Phật học về Tịnh độ nên chính xác lý giải về cảnh giới này.

IV. DI LẶC TỊNH ĐỘ

Đức Di Lặc Bồ tát trong tương lai sẽ giáng sanh thành Phật. Đây là điều mà trong giới Phật giáo đều công nhận. Di Lặc Phạn ngữ là Maitreya, Trung Hoa dịch là Từ. Từ có nghĩa là làm cho chúng sanh được an vui. Khi phát tâm tu hành, Di Lặc Bồ tát lấy từ tâm lợi tha làm xuất phát điểm. Vì nguyên nhân sâu xa đó, nên lấy Từ làm họ. Người học Phật đều biết Di Lặc Bồ tát hiện ở cung trời Đâu Suất nội viện, nơi đó có Đâu Suất Tịnh độ, mà người ta không biết Di Lặc Tịnh độ thực tại nhơn gian. Di Lặc, trước khi chưa thành Phật, Ngài ở cõi trời Đâu Suất nội viện, đây là cõi thiên quốc tịnh hóa. Ở trong kinh Quán Di Lặc Bồ tát Thượng Sanh Đâu Suất Đà Thiên, đức Phật Thích Ca đã thuyết minh rõ ràng về việc này. Người cầu sanh về Đâu Suất Tịnh độ mục đích là được thân gần đức Di Lặc, để trong tương lai được cùng theo ngài giáng sanh cõi Ta bà này tịnh hóa nhơn gian, để đạt đến thành thục thiện căn giải thoát, chứ không phải vì cõi trời Đâu Suất hưởng an vui khoái lạc.

Tư tưởng Di Lặc Tịnh độ ngay từ khởi nguyên chú trọng thực hiện nhơn gian Tịnh độ chứ không phải cho cõi Trời, điều này đã được nói trong kinh Di Lặc Hạ Sanh. Kinh Di Lặc Hạ Sanh đã được dịch năm lần tại Trung Hoa. Kinh này nói đến Di Lặc hạ sanh ở thế gian này, lúc đó có vua chuyển luân trị thế. Di Lặc thành Phật dưới cây Long Hoa, thuyết pháp ba hội giáo hóa chúng sanh. Thực hiện nhơn gian Tịnh độ là thực hiện thân tâm tịnh hóa, cùng lúc hoàn thành. Phật tử đều chúc nguyện Di Lặc Bồ tát sớm đến thế gian, để nhơn gian Tịnh độ sớm được thực hiện.

Tư tưởng Di Lặc nhơn gian Tịnh độ vốn ở kinh A Hàm, sơ khởi gồm có hai phương diện, nhưng về sau hình như đệ tử Phật đặc biệt chú trọng đến cõi trời Thượng Sanh Đâu Suất Tịnh độ mà quên đi phần Di Lặc Hạ Sanh nhơn gian Tịnh độ. Đặc chất Tịnh độ Phật giáo Nguyên thủy bị bỏ quên, nên mới thiên trọng phát triển về thiên quốc Tịnh độ và các cõi Tịnh độ khác. Vì vậy trong quyển Phật Giáo Khái Luận nói: “Thiên quốc Tịnh độ và các cõi Tịnh độ khác chẳng bằng nhơn gian Tịnh độ”. Tóm lại, Di Lặc Tịnh độ đệ nhất là nguyện mong Di Lặc sớm sanh nhơn gian, tức mong muốn nhơn gian Tịnh độ sớm được thực hiện. Đến như phát nguyện sanh lên cõi trời Đâu Suất cũng là vì mục đích được gần Di Lặc để căn tánh thuần thục rồi sau đó đồng trở lại thế gian, trọng tâm là thực hiện nhơn gian Tịnh độ.

Chân thật ý nghĩa Di Lặc Tịnh độ dần dần bị người ta lãng quên. Trong lúc đó nhơn gian Tịnh độ vẫn được nhơn loại cùng chung mong cầu, vẫn sống động trong tâm của người Phật tử. Sự phát triển này tưởng nên trước thuyết minh sự quan hệ giữa Di Lặc và trăng sáng. Trăng sáng là sự soi sáng trong đêm tối tăm, không đồng với sự soi sáng của mặt trời. Đêm trăng trong, gió mát là lý tưởng thưởng thức của Phật tử. Trong kinh Di Lặc Đại Thành Phật, phần tán tụng Di Lặc rằng: “Đại tam muội quang minh, không bằng người công đức”. Tiếp đó lại nói: “Nam Mô Mãn Nguyệt, …tất cả người trí”. Đây là lấy trăng tròn sáng soi để hình dung xác chứng trí huệ quang minh của Di Lặc. Trong kinh Di Lặc Bồ tát Sở Vấn cũng nói: “Tam muội chiếu sáng khắp, ánh sáng tam muội khắp, ánh sáng tam muội trùm khắp, bảo nguyệt tam muội, nguyệt đăng tam muội”. Do những câu này, có thể chứng minh rằng Di Lặc và trăng sáng có sự quan hệ nhau. Đây là tượng trưng cõi này là cõi đời ô trược ác thế, thống khổ dẫy đầy, chỉ có sự từ bị tế độ của Bồ tát Di Lặc mới hoán cải cuộc đời ác trược tăm tối thành quang minh sáng sủa. Vì thế, thảo nào Phật tử nguyện cầu Di Lặc Bồ tát thực hiện nhơn gian Tịnh độ. Từ đây cho phép chúng ta có thể nói đến Nguyệt Quang Đồng Tử hoặc Nguyệt Quang Đồng Tử Bồ tát. Kinh Nguyệt Quang Đồng Tử bản dịch từ Phạn ngữ ra Hán văn đầu tiên do ngài Trúc Pháp Hộ. Theo văn kinh Nguyệt Quang Đồng Tử và theo truyền thuyết thì Nguyệt Quang Đồng Tử là con trai của trưởng giả Đức Hộ dùng hầm lửa và cơm độc để hại Phật. Nguyệt Quang Đồng Tử hoặc Nguyệt Quang Bồ tát cùng với Di Lặc ý nghĩa tương quan dung hợp. Vì vậy, có truyền thuyết Nguyệt Quang Đồng Tử Bồ tát xuất thế, thiên hạ thái bình, lúc bấy giờ thiên hạ phụng sự Phật pháp: Điều này có thể xác minh rằng, tư tưởng Di Lặc về nhơn gian Tịnh độ vì sao tại Trung Hoa được quảng đại quần chúng nhiệt liệt kỳ vọng. Đến thời đại nhà Tống, tư tưởng này kết hợp thành Bạch Liên Xã niệm Phật. Trên từ tể tướng, dưới đến bình dân, phổ biến khắp nơi tạo thành tư trào niềm tin sâu rộng về Di Lặc Bồ tát, Nguyệt Quang Đồng Tử xuất thế. Tư tưởng Di Lặc nhơn gian Tịnh độ ảnh hưởng Trung Hoa vô cùng to lớn. Đáng tiếc là tư tưởng nho gia đã có gốc rễ sâu rộng khắp thiên hạ Trung Hoa, nên Phật giáo không thể nào thực hiện thiện ý tịnh hóa chánh trị, để phát triển một cách chánh thức tư tưởng thực hiện nhơn gian Tịnh độ. Đến như Chu Nguyên Chương, người sáng lập triều đại nhà Minh, vốn đã từng xuất gia theo Bạch Liên Giáo, nhưng ít hiểu Phật pháp mà lại hiểu một cách không chơn chánh. Nên khi đường chánh trị thắng lợi, chiếm được ngai đế vương, Chu Nguyên Chương kết hợp với tư tưởng nho gia, bội phản nguyện vọng quang minh chánh đại của quảng đại quần chúng Phật giáo, rồi dần dần xa lìa tư tưởng Di Lặc Tịnh độ. Chu Nguyên Chương thiết lập chánh quyền rất quyền hành phong kiến, phong kiến hơn bất cứ triều đại nào.

Tư tưởng Nguyệt Quang Đồng Tử xuất thế và Di Lặc hạ sanh đã bao ngàn năm phát triển và đã cổ lệ người Trung Hoa nguyện cầu thực hiện nhơn gian Tịnh độ, nhưng lúc nào cũng chướng ngại bởi nền văn hóa bản xứ, bị tư tưởng nho gia bất chánh hẹp hòi bới móc xuyên tạc lũng đoạn, nên không thể nào thực hiện ý nghĩa chơn chánh, nhưng khi nói Di Lặc Tịnh độ là phải hiểu đặc tánh nhơn gian Tịnh độ. Có người lại quên đi phần quan trọng về nhơn gian Tịnh độ mà chỉ cầu sanh Đâu Suất Tịnh độ dễ hơn cầu sanh Tây phương Tịnh độ, điều này thật không thực tế chút nào.

V. DI ĐÀ TỊNH ĐỘ

1- A Di Đà: Cổ đức nói: “Các kinh thảy đều tán thán đức A Di Đà”. Chư kinh tán thán, tận tại Di Đà. Điều này thật là đích xác. Kinh đại thừa rộng nói mười phương cõi Tịnh độ, nhưng đặc biệt chú trọng rộng nói về cõi Tịnh độ Tây phương cực lạc đức Phật A Di Đà. Có thể nói là điểm quy kết tư tưởng Tịnh độ của đại thừa Phật giáo. Phật giáo Trung Hoa đặc biệt hoằng dương giáo nghĩa Tây phương Tịnh độ. Điều này không phải là không có lý do. Y theo đạo Phật thì tất cả đều bình đẳng. Tất cả các đức Phật đều bình đẳng đại nguyện, chứng ngộ phước đức, trí huệ, đại bi và đắc y báo chánh báo v.v… không khác. Như khi nói đức Phật A Di Đà lập bốn mươi tám đại nguyện, hoặc nói đức Phật A Di Đà có thiện duyên đặc biệt với chúng sanh cõi Ta bà đây chẳng qua đều là phương tiện cả. Thế thì, tại sao trong vô số cõi Tịnh độ, vô số đức Phật, đại thừa Phật giáo lại đặc biệt tán thán cõi Tịnh độ Tây phương cực lạc? Đây là điều đáng để tâm nghiên cứu.

A Di Đà tiếng Phạn là Amita, Trung Hoa dịch là Vô Lượng. Vậy A Di Đà có nghĩa là Vô Lượng. Vì Vô Lượng nên nghĩa Thông và nghĩa Biệt. Thông là chỉ cho tất cả Phật, tức là vô lượng vô số Phật. Biệt là chỉ cho đức Phật A Di Đà. Trong việc hoằng truyền Phật pháp thì đặc thù hóa ý nghĩa Vô Lượng Phật, thành ra có sự chỉ phương lập hướng, tức danh từ Vô Lượng Phật là chuyên chỉ đức Phật A Di Đà giáo chủ Tây phương cực lạc thế giới. Đấy là nghĩa của hai danh từ Thông và Biệt. Điều này tuy không có văn tự chứng minh rõ ràng, nhưng đích thực hiển nhiên có thể thấy biết. Nay lược nêu hai bộ kinh chứng minh: 1- Kinh Quán Vô Lượng Thọ Phật. Bộ Kinh này chuyên thuyết minh về quán y báo chánh báo trang nghiêm của cõi Tây phương cực lạc. Điều quán thứ chín của kinh này chuyên nói về quán sắc thân tướng hảo của đức Phật A Di Đà. Kinh nói: “Một khi quán tưởng thành tựu rồi thì thấy được Phật A Di Đà tức thấy mười phương các đức Phật”. Kinh còn nói: “Quán như thế còn gọi là quán tất cả thân Phật”. Như thế có nghĩa là một khi quán thấy được Phật A Di Đà tức thấy được mười phương tất cả Phật. 2- Kinh Ban Chu Tam Muội. Kinh này chuyên thuyết minh phương pháp niệm Phật tam muội bằng cách niệm danh hiệu Phật A Di Đà. Kinh Ban Chu Tam Muội còn có tên là Thập Phương Hiện Tại Phật Tất Tại Tiền Lập Định Kinh. Kinh này nói, đối với hành giả khi tu quán đã thành rồi thì: “Tất cả chư Phật đều hiện tiền”. Hành giả lập nguyện chuyên quán Phật A Di Đà mà thấy được tất cả Phật. Điều này hoàn toàn đồng với kinh Quán Vô Lượng Thọ: “Thấy được Phật này tức thấy được tất cả Phật”. Do đây, ta thấy rằng quán A Di Đà Vô Lượng Phật tức là quán tất cả Phật. Như vậy chuyên quán một danh hiệu Phật A Di Đà thì thông suốt tất cả các đức Phật. Danh hiệu đức Phật A Di Đà đầu tiên được xưng tụng phổ biến hơn tất cả Phật. Ý nghĩa này đối với Phật giáo đại thừa : “Một là tất cả, tất cả là một”, không khó lý giải. Đây là lý do trọng yếu Phật A Di Đà được người người đặc biệt, tán thán truyền bá.

Tiếng Phạn Amita phía sau thêm phần chữ Àbha thành Amitàbha, Trung Hoa dịch nghĩa là Vô Lượng Quang. Vô Lượng Quang là một trong những tên chỉ đức Phật A Di Đà. Nghiên cứu một cách chín chắn thì Phật A Di Đà và ánh sáng mặt trời có sự liên hệ. Ở Ấn Độ, Bà La Môn giáo lấy mặt trời làm đối tượng sùng bái. Phật giáo tuy vốn không có thuyết này, nhưng quá trình tinh thần Phật giáo đại thừa phổ ứng căn cơ chúng sanh, nên tư tưởng sùng bái mặt trời cũng là phương tiện hàm nhiếp ý nghĩa đức Phật A Di Đà. Điều này căn cứ vào đâu mà nói như thế? Ấy là những dữ kiện sau đây:

a- Kinh Quán Vô Lượng Thọ Phật: Kinh này dạy người tu Tịnh độ điều quán thứ nhất là quán mặt trời lặn (lạc nhựt quán). Từ phương pháp này tiếp đến quán nước, quán đất, quán vườn, quán cây, quán phòng nhà, quán Phật A Di Đà, Quán Âm, Thế Chí v.v… Cách thức quán này tiên khởi lấy mặt trời lặn làm căn bản cho phép quán. Quán y báo chánh báo trang nghiêm của Phật A Di Đà là nương vào ánh sáng mặt trời sanh khởi trang nghiêm tướng hiển hiện. Trung Hoa có câu “ Tịch dương vô hạn hảo, kỳ thị cận hoàng hôn”, nghĩa là trời chiều đẹp vô hạn, nhất là sắp hoàng hôn. Người Trung Hoa chú trọng thẩm mỹ, Ấn Độ quan niệm rằng: “Mặt trời lặn ánh quang minh trở về nơi ngơi nghỉ”. Người Ấn Độ chú trọng về nơi chốn, nguồn gốc, tức là chú trọng cái nhơn, nghĩa sâu kín là mặt trời khuất núi chứ không phải không có, chiều chiều mặt lặn về nguồn, điều này nói lên ý nghĩa cội nguồn. Tất cả ánh sáng quy tàng nơi mặt trời lặn, để rồi ngày mai lại xuất hiện ở phương Đông, tức là từ nơi nhơn, nơi căn bổn mà xuất hiện. Phật pháp nói niết bàn là trạng thái không tịch, là tịch diệt, là vốn không sanh không diệt. Nghĩa là niết bàn ở trong cái không tịch, tịch tĩnh, không sanh khởi lên vô biên hóa dụng. Phật pháp lấy cái tịch diệt làm bản tánh. Mặt trời lặn cũng thế, hiện tượng quang minh ẩn tàng, tất cả ánh sáng thu hoàn về chỗ rốt ráo.

b- Kinh Vô Lượng Thọ Phật tức là Kinh Đại A Di Đà: Kinh này nói: “Hướng lạc nhựt xứ”. Nghĩa là kính lễ đức Phật A Di Đà, nên hướng về nơi mặt trời lặn. Phật A Di Đà không những chỉ ở phương Tây, mà đặc biệt chú trọng hướng về mặt trời lặn phương Tây. Nói một cách rõ ràng hơn, đây là một cách tịnh hóa sùng bái ánh sáng thái dương mà dẫn đến tư tưởng xưng danh Phật Vô Lượng Quang.

Nếu phía sau Phạn ngữ Amita thêm phần vĩ ngữ Ãyus thì thành là Amitãyus người Trung Hoa dịch nghĩa chữ này là Vô Lượng Thọ. Danh từ Vô Lượng Thọ cũng là một trong những tên chỉ danh hiệu đức Phật A Di Đà. Trong các kinh đại thừa thường nói: Phật thường trụ niết bàn, Phật nhập niết bàn, thân an trí lặng rồi tĩnh lặng không có gì sau đó. Đại thể hiện tượng này cùng với mặt trời lặn sau rặng núi phương Tây ý nghĩa giống nhau. Vì vậy nói Phật thọ mạng vô lượng vô biên. Nghĩa là tất cả Phật có đặc tánh thường trụ, vô lượng thọ.

Một cách tổng hợp, thì nghĩa căn bản của danh từ A Di Đà là Vô Lượng. Như kinh Ban Chu Tam Muội đã thuyết minh về nghĩa này. Kinh Cổ Âm Thanh Vương Đà La Ni nói về ý nghĩa danh xưng Vô Lượng Quang. Vô Lượng Thọ thì có Kinh Vô Lượng Thọ Phật giảng nói đến.

Quang có nghĩa là ánh sáng biến khắp mười phương, như trí huệ Phật viên mãn không có gì mà không biết. Mỗi lần trước khi Phật nói kinh đại thừa thường hiển xuất phóng quang, hàm ý nghĩa tượng trưng huệ quang chiếu khắp. Đối với ánh quang minh, người ta cho rằng đó là tượng trưng cho niềm an lạc, hạnh phúc, tự do. Ánh sáng trí huệ Phật pháp hàm nhiếp tất cả phước đức trang nghiêm tự tại an lạc. Như thế gian thường chúc tụng hy vọng tiền đồ quang minh, được vô hạn quang minh có nghĩa là nhơn loại nhứt trí cầu mong hy vọng hạnh phúc, an lạc tự do sung mãn vô hạn.

Vô Lượng Thọ: Thọ là diễn đạt mạng sống lâu dài. Nguyện vọng chúng sanh mong được mạng sống lâu dài. Biết rõ tâm lý con người là thế, nhơn đây mà đạo Gia Tô dạy người nên tín ngưỡng nương tựa Thượng đế để được sống mãi. Đạo Lão dạy người cầu trường sanh bất tử. Hầu hết con người đều nguyện mong cho sanh mạng mình được vĩnh hằng. Đây là điểm đặc sắc của ngoại đạo thần ngã. Tâm thức sâu kín của nhơn loại là nguyện cầu cho mình được vĩnh hằng tồn tại. Không luận là hạng người nào ở vào trường hợp thời đại như thế nào. Một cách tổng quát xác định rằng đó là điều ước muốn chung của chúng sanh. Điều này tỏ rõ ở trong Phật pháp đại thừa, tâm nguyện nhiếp hộ chúng sanh, biểu hiện tinh thần vĩnh hằng Phật không nhập niết bàn. Không nhập niết bàn ở đây có nghĩa là pháp thân thường trụ, thích ứng với tâm nguyện cầu mong sanh mạng vô hạn của chúng sanh. Ánh quang minh của Phật biến khắp mười phương. Thọ mạng của Phật cùng khắp ba đời. Với ánh quang minh và thọ mạng vô hạn đã đại biểu cho đức tánh chung của chư Phật, lại thích hợp với ước mong của chúng sanh. Vì vậy, Phật A Di Đà không những tượng trưng cho đặc tánh tiêu biểu tất cả là một, một là tất cả Phật. Thế nên, đặc tánh quang minh vô hạn, thọ mạng vô lượng tự nó đã xác định thành tính chất tối cao cho mọi người sùng bái. Về sau Mật tông phụng thờ đức Đại Nhựt Như Lai cũng là hình thức từ ý nghĩa ánh quang minh của mặt trời biến chiếu muôn phương. Mặt trời đối với người đời là ánh sáng vĩnh hằng. Người tu pháp môn Tịnh độ phần nhiều không hiểu ý nghĩa thâm huyền về quang minh vô hạn và thọ mạng vô lượng, lại chỉ chú trọng đến cảnh giới cực lạc cát vàng trải đất, thất bảo sở thành. Điều này đối với tư tưởng Tịnh độ quá phổ thông, rõ ràng không suốt thông diệu nghĩa thâm sâu của vô lượng quang, vô lượng thọ.

Như trên đã nói, Vô Lượng bao hàm ý nghĩa Vô Lượng Quang, Vô Lượng Thọ. Hai ý nghĩa này chủ yếu chỉ về danh xưng Phật A Di Đà. Nhưng tư tưởng A Di Đà Phật được lưu truyền lại dung hợp với A Di Rị Đô. Như Bạt Nhứt Thiết Nghiệp Chướng Đắc Sanh Tịnh độ Đà La Ni nói gọn là Chú Vãng Sanh, thần chú này do A Di Rị Đô nói: A Di Rị Đô phạn ngữ là Amirita, người Trung Hoa còn dịch âm là A Mật Lặc Đa, nghĩa là Cam Lộ, theo nghĩa Ấn Độ là bất tử. Trong Phật pháp để diễn tả ý nghĩa niết bàn thường trụ, nên dùng các danh từ cam lồ vị, cam lồ môn, cam lồ đạo, cam lồ giới, mưa cam lồ v.v… Danh từ A Di Rị Đô phát âm gần giống với A Di Đà đồng thời cũng biểu thị ý nghĩa niết bàn vĩnh hằng cùng với ý nghĩa A Di Đà tương hợp. Vì thế, về sau Mật tông thường xưng A Di Rị Đô không khác biệt gì với A Di Đà cả về âm lẫn nghĩa.

2- A Di Đà và A Súc: Muốn hiểu rõ tính cách vĩ đại của Phật A Di Đà thì cần nên so sánh mới thấu rõ điều đó. Trước tiên thảo luận sự quan hệ giữa Phật A Di Đà và Phật A Súc. Trong mười phương cõi Tịnh độ đứng về thời gian mà nói thì có hai cõi cổ xưa nhất nhưng lại quan trọng nhất: Một là Đông phương Diệu Hỷ thế giới cũng gọi là Diệu Lạc quốc độ, nơi đó có đức Phật A Súc còn có danh xưng là Phật Bất Động. Hai là Tây phương cực lạc thế giới, nơi đấy có đức Phật A Di Đà.

Cõi nước đức Phật A Súc cùng với kinh Đại Bát Nhã, kinh Duy Ma Cật v.v… có sự quan hệ mật thiết, bởi kinh này thuyết minh chú trọng về sự tu hành quảng đại của Bồ tát chứng như như trí. Trung Hoa vào thời Hán mạt, kinh A Súc Phật Quốc được dịch ra Hán văn. Trong kinh này nói: Đức Phật A Súc dùng quảng đại hạnh nguyện thành tựu thế giới thanh tịnh trang nghiêm phi thường. Sau khi đức Phật A Súc niết bàn, có Hương Tượng Bồ tát đang ở cương vị bổ xứ. Kinh Đại Bát Nhã thì chú trọng về đại trí của Bồ tát. Khi nói đến cõi Phật phương khác thì lấy cõi Phật A Súc phương Đông và Hương Tượng Bồ tát v.v… làm thí dụ. Có một thời A Nan và tất cả đại chúng nhờ oai lực của Phật Thích Ca mà thấy được cõi nước Phật A Súc phương Đông. Kinh Duy Ma Cật hoằng dương đại hạnh của Bồ tát để trang nghiêm Phật quốc. Điều này chúng ta có thể thấy ở phẩm A Súc Phật Quốc trong kinh Duy Ma Cật. Và cũng từ đây, ta thấy Duy Ma Cật từ cõi nước Phật A Súc mà đến thế giới này. Ngay khi đó, đại chúng trong pháp hội nhờ uy lực của Duy Ma Cật mà thấy được cõi nước Phật A Súc. Đây là tư tưởng đại thừa buổi đầu hưng khởi nói về cõi Tịnh độ cổ điển ở phương Đông của Phật A Súc.

Kinh điển đề cập đến việc vãng sanh về cõi Phật A Súc còn có rất nhiều, nhưng không phổ cập bằng cảnh giới Tây phương cực lạc của Phật A Di Đà. Cầu sanh về cõi Phật A Súc tuy không chuyên trọng về phương pháp niệm Phật, nhưng cũng có nói đến. Nhưng điều chú trọng hơn hết là khai triển thắng nghĩa trí huệ để thể chứng không tịch, tức là chứng pháp thân. Như kinh Duy Ma Cật nói rằng: “Khi quán Phật thà là quán thân thật tướng, quán Phật cũng vậy”. Kinh A Súc Phật Quốc cũng nói: “Như nhơn giả khi nhìn thấy hư không, liền nên quán Phật A Súc và các đệ tử v.v… cả đến cõi Phật kia cũng phải nên quán như vậy”. Khi quán thấy tất cả pháp như hư không, tức tất cả là pháp tánh là pháp thân. Điều này tương ưng với tư tưởng Bát nhã. Ngày nay người tu pháp môn Tịnh độ rất thịnh hành, thường chú trọng về sự niệm Phật và cầu sanh Tịnh độ, nhưng lại kém khuyết về phương diện pháp quán trên đây.

A Di Đà Phật có thể nói là có sự quan hệ với phẩm Nhập Pháp Giới của kinh Hoa Nghiêm. Cuối phẩm Nhập Pháp Giới mười đại nguyện vương của đức Phổ Hiền Bồ tát là quy hướng về cực lạc. Phần kinh này tuy được dịch ra Hán văn rất trễ, nhưng xác thực sớm đã có tư tưởng cực lạc ở ngay từ bản kinh Phạn văn. Ngài Phật Đà Bạt Dà La dịch Phạn văn ra Hán văn bản kinh Văn Thù Sư Lợi Phát Nguyện, tức là phẩm Phổ Hiền Hạnh Nguyện mà ngày nay được lưu truyền. Ngoài ra thời Đông Tấn cũng đã dịch kinh Văn Thù Sư Lợi Hối Quá, kinh Tam Mạn Đà Bạt Dà La (Phổ Hiền) Bồ tát. Ý nghĩa những kinh này cùng với phẩm Phổ Hiền Hạnh Nguyện giống nhau ở điểm “Vãng sanh cực lạc thế giới”. Như trong Hồng Danh Sám Hối văn, ta thấy xưng A Di Đà Phật là Pháp Giới Tàng Thân A Di Đà Phật. Kinh Vô Lượng Thọ trong lời tựa nói đủ hạnh Phổ Hiền. Những dữ kiện trên đây đều thấy Phật A Di Đà cùng với kinh Hoa Nghiêm phẩm Nhập Pháp Giới, phẩm Phổ Hiền Hạnh Nguyện có sự trùng hợp quan hệ mật thiết.

Kinh Hoa Nghiêm phẩm Nhập Pháp Giới, Thiện Tài Đồng Tử đi cầu hỏi đạo với năm mươi ba vị thiện tri thức, mà vị thiện tri thức đầu tiên chính là thể hiện pháp môn niệm Phật. Điểm đặc biệt ở đây là quốc độ, danh hiệu, tướng hảo, giáng sanh, thuyết pháp v.v… của pháp môn Tịnh độ đều từ phương pháp giả tướng quán. Sự kiện này cùng với kinh Bát Nhã và kinh Quán A Súc Phật Quốc chú trọng về quán chơn không, thấy tất cả pháp như thấy Phật, đứng về phương diện pháp môn mà nhìn thì thấy ít nhiều có chỗ bất đồng. Kinh Hoa Nghiêm nói về các tướng (quốc độ, danh hiệu, tướng hảo, giáng sanh, thuyết pháp…) điều này cùng với tư tưởng Mật tông và nguyên nhân hình thành cực lạc Tịnh độ quan hệ rất là mật thiết. Kinh Duy Ma Cật còn có tên là kinh Bất Khả Tư Nghì Giải Thoát. Phẩm Nhập Pháp Giới cũng có tên là kinh Đại Bất Khả Tư Nghì Giải Thoát, hiện trạng trùng hợp này cũng có ý nghĩa đáng cho hành giả chú ý.

Nói một cách tổng quát, trong Phật pháp có kinh Nguyệt Minh Đồng Tử nói về Bồ tát Nguyệt Minh, ngay từ sơ khởi phát tâm tu hành cầu sanh về cõi nước Phật A Súc. Rồi từ cõi Phật A Súc, sinh hoạt đến khi mãn phần lại sanh về cõi Phật A Di Đà. Ngoài ra còn có kinh Quyết Định Tổng Trì nói về hạnh tu của Vua Nguyệt Thí phát tâm cúng dường đức Bồ tát Biện Tích và đồng thời thuyết minh về tâm hạnh tu hành của vị Bồ tát này ở cõi Đông phương thế giới của Phật A Súc. Vua Nguyệt Thí là nhân vật ở Tây phương cực lạc của Phật A Di Đà. Từ hai bộ kinh trên đây, ta thấy trước là Đông phương Phật A Súc và sau là Tây phương Phật A Di Đà là hai cảnh Tịnh độ có những điểm đặc thù và đều đáng để cho người tu Tịnh độ lưu tâm nghiên cứu và phát nguyện vãng sanh.

Nhưng kinh Hiền Kiếp nói: Vua Vô Ưu Duyệt Âm hộ trì cúng dường vô hạn lượng cho pháp sư Bảo Âm. Pháp sư Bảo Âm là một trong những kiếp tiền thân của Phật A Di Đà. Còn vua Vô Ưu Duyệt Âm là một trong những kiếp Phật A Súc. Vị vua này có ngàn người con tức ngàn đức Phật trong hiền kiếp. Tịnh độ của Đông phương A Súc Phật và Tây phương A Di Đà Phật biểu hiện tuy có sự không đồng, nhưng đứng trên đại thể Phật pháp mà nói, thì A Súc Phật dịch là Bất Động, tiêu biểu cho từ bi không sân, thường trụ nơi tâm bồ đề, y Bát Nhã trí chứng lý chơn như, đây là chú trọng nơi phát tâm và trí chứng. A Di Đà dịch là Vô Lượng, tức là vô lượng đại hạnh, đại nguyện của Bồ tát làm sở nhơn tu hành. Như kinh Hoa Nghiêm nói mười đại nguyện hạnh là công đức trang nghiêm Phật quả, tất cả đều vô lượng bất khả tư nghì. Vô Lượng là Vô Lượng Thọ, Vô Lượng Quang trọng nơi quả đức của Phật. Do đó, cõi Tịnh độ Phật A Di Đà là kết quả của sự viên mãn quả đức. Cõi Tịnh độ của Phật A Súc là khởi từ Bồ tát phát tâm đắc vô sanh pháp nhẫn. Hai cõi Tịnh độ ở hai phương Đông và Tây như mặt trời từ Đông sang Tây. Mà Bồ tát tu hành đầu tiên ngộ chứng pháp tánh, phát chơn tâm bồ đề, từ đấy tu hành cho đến thành Phật, cũng giống như mặt trời phát xuất từ Đông tiến về Tây. Cõi Phật A Súc trọng nơi kiến đạo chứng chơn như. Cõi Phật A Di Đà trọng nơi quả đức quang thọ vô lượng. Điều này dưới mắt Mật tông thì cho rằng Đông phương A Súc thuộc về Kim Cang Bộ. Kim Cang có nghĩa là kiên cố chắc thật bất động. Tây phương A Di Đà là biểu hiện Liên Hoa Bộ, có nghĩa là trang nghiêm Phật quả. Do đó, một cõi Tịnh độ phương Đông, một cõi Tịnh độ phương Tây mỗi cõi thuyết minh Bồ tát từ sơ phát tâm cho đến khi hoàn thành bồ đề Phật quả. Lại nữa, A Di Đà cũng có thể giải thích là tánh trí căn bổn, bản giác sơ khởi của A Súc. Nói cách khác cho dễ hiểu là A Di Đà sau, A Súc trước. Nhưng ngày nay người tu pháp môn niệm Phật Tịnh độ chỉ chú trọng đến Tây phương cực lạc Phật A Di Đà mà có phần quên đi Phật A Súc, đâu có biết rằng Như Lai quả đức vô lượng tất phải từ Bồ tát tu trí chứng bất động mà được. Muốn đạt thành Như Lại quả đức vô lượng thì chỉ có cách là “dĩ vô sở đắc” mới có thể “đắc vô sở ngại”. Có nghĩa là không chấp trước vào sở đắc thì không mắc vào sự trở ngại. Nếu bỏ quên phần triệt ngộ lý tánh này thì không thể thực hiện tất cả quả đức. Vì đặc biệt chú trọng Tây phương Tịnh độ, nên không thể không chuyên trọng nơi quả đức để phát khởi lòng tin. Nếu người không hiểu được chơn ý nghĩa Phật pháp, không chơn chánh thanh tịnh hóa thân tâm, thì không tránh khỏi rơi vào tình trạng sống như các thần giáo chỉ chuyên nặng về tín ngưỡng nguyện cầu.

Trong khi đại thừa Phật giáo kiện toàn phát triển, hành giả đại thừa muốn được kiện toàn hành trình tu học thì phải triệt ngộ lý trí và viên mãn sự tướng, hai điều này không thể thiếu một. Đối với điều này, Phật giáo Ấn Độ dần dần có khuynh hướng thiên trọng về duy lý, trong lúc đó Phật giáo Trung Hoa trước sau đều đi tiên phong, không thiên lệch bên này thì cũng bỏ quên bên kia (lý trí và sự tướng). Chẳng hạn như Thiền giả thì không chú trọng phương pháp tiệm tu, với họ ba tạng kinh điển là đồ bỏ. Hành giả Tịnh độ thì chuyên tán thán tín ngưỡng quả đức, ít cầu phước huệ song tu, không cầu tự tha hưởng lợi, chỉ cầu xa lìa cõi đời ngũ trược, vãng sanh Tịnh độ. A Di Đà Phật và Tịnh độ hầu hết trẻ già đều biết. Nhưng cõi Phật A Súc phương Đông cơ hồ không mấy người nghe biết. Nếu có nghe đến thì cũng lờ mờ không biết đó là cõi gì của Phật nào. Đây là một điều tổn thất lớn lao về tư tưởng Tịnh độ vậy.

3- A Di Đà và Di Lặc: Phật A Di Đà có cõi Tịnh độ thì Di Lặc Bồ tát cũng có cõi Tịnh độ. Giờ đây ta nói đến sự quan hệ của hai cõi Tịnh độ này. Đoạn trước của sách này ở nơi mục nói về Di Lặc Tịnh độ đã từng đề cập đến sự quan hệ giữa Di Lặc Bồ tát với trăng sáng và Phật A Di Đà với ánh sáng mặt trời. Ánh sáng mặt trời và ánh trăng sáng không như nhau. Trăng sáng là cứu tế chúng sanh từ bóng tối. Tây phương Tịnh độ đại biểu cho sự cứu cánh thanh tịnh trang nghiêm Phật quả. Di Lặc Tịnh độ đại biểu từ ngũ trược ác thế mà thực hiện lý tưởng Tịnh độ. Cũng có thể nói: Tây phương Tịnh độ là cõi Tịnh độ tha phương, dễ bị người ngộ nhận cho là thực hiện quan niệm trốn thế. Di Lặc Tịnh độ là cõi Tịnh độ được thực hiện ngay nơi thế giới Ta bà này. A Di Đà Phật đặc thù hóa từ mười phương chư Phật. Di Lặc Bồ tát cũng lại giống như thế, tuy không phải là đặc thù hóa từ thập phương chư Phật, nhưng là đặc thù hóa từ tất cả các đức Phật trong thế gian này. Thế giới này, thời đại này gọi là Hiền kiếp. Trong khoảng thời gian Hiền kiếp có ngàn đức Phật xuất thế. Kinh Chánh Pháp Hoa nói: “Đến khi sắp chết, thấy được ngàn Phật, không đọa đường ác. Nhờ thế khi chết sanh được cõi trời Đâu Suất”. (Lâm thọ chung thời, diện kiến thiên Phật, bất đọa ác thú, ư thị thọ chung, sanh Đâu Suất Thiên). Sanh cõi Trời Đâu Suất, tức là vãng sanh về cảnh giới Di Lặc Tịnh độ. Y cứ vào kinh Quán Vô Lượng Thọ Phật v.v… mà tu quán Phật A Di Đà, có thể thấy mười phương Phật hiện tiền, và vãng sanh cực lạc thế giới. Còn thế giới Ta bà này ngàn Phật xuất thế trong Hiền kiếp, thực hiện Tịnh độ, cùng với Đâu Suất Tịnh độ bằng nhau. Ngàn Phật trong Hiền kiếp bình đẳng như nhau. Được thấy ngàn Phật, được sanh cõi trời Đâu Suất, như cùng thấy tất cả Phật hiện tại. Điều này so với việc tu quán cầu vãng sanh về cực lạc rõ ràng dễ hiểu. Nếu đứng về Phật quả công đức cứu cánh viên mãn mà nói, thì Di Lặc Tịnh độ không bằng Di Đà Tịnh độ. Nếu đứng về bản thân xử thế thực hiện thế giới mà nói, thì người trong Hiền kiếp hy vọng thế giới đầy dẫy thống khổ này được cứu giúp. Thế thì Nguyệt Quang Đồng Tử xuất thế cùng với Di Lặc Tịnh độ thật là điều thích hợp thực tế. Chúng ta học Phật nên cầu thành Phật cứu cánh viên mãn. Nhưng đối với chúng sanh đương thời đương địa cần cầu tịnh hóa thì đây là nhu cầu xác đáng. Ở điểm này, tín hạnh Di Lặc Tịnh độ mới là điều có ý nghĩa đặc biệt.

4- A Di Đà và Dược Sư Phật: Nơi đây lược nói về Phật A Di Đà và Phật Dược Sư. Phật Dược Sư có sự quan hệ với Mật tông. Trước tiên ta thấy trong Phật pháp ở phần Mật Bộ có kinh Quán Đảnh Thần Chú. Đứng về danh xưng và ý nghĩa của Phật Dược Sư mà nói thì rõ ràng Phật Dược Sư là biểu hiện bậc đại vương y (vua vĩ đại về thuốc), cứu tế tật khổ thế gian. Kinh Dược Sư được dịch từ Phạn văn sang Hán văn. Nếu đứng về tâm nguyện mà nói thì Phật A Di Đà có bốn mươi tám lời nguyện trong lúc đó Dược Sư Như Lai có mười hai đại nguyện, trong đó có Dạ Xoa, La Sát hộ pháp. Đây là hiện tượng vào thời kỳ sớm nhất của Tạp Mật Bộ cũng gọi là Sự Bộ. Kinh này ở vào sơ kỳ thì không có địa vị trong kinh điển đại thừa. Kinh Dược Sư được dịch ở Trung Hoa, thuyết minh về Đông phương thế giới của Phật Dược Sư, đối với người Trung Hoa có ý nghĩa đặc biệt, tức Đông phương là nơi tượng trưng cho sanh trưởng, đại biểu cho cơ hội sanh trưởng. Do quan niệm này mà diễn biến thành hiện thực nhơn gian Tiêu Tai Diên Thọ.

A Di Đà Phật ở Tây phương. Tây phương tiêu biểu cho mùa thu, khí tiết khô héo, tượng trưng cho tấc bóng xế chiều, cho sự tàn tạ suy vi. Trong quyển Tịnh độ An Lạc Tập, khi giải thích tại sao Tịnh độ A Di Đà ở phương Tây, có nói như thế này: “ Nơi mặt trời mọc gọi là sanh, nơi mặt trời lặn gọi là chết. Mượn chỗ chết thần minh chen vào, tiện bề hỗ trợ, thế cho nên Bồ tát Pháp Tạng nguyện thành Phật ở phương Tây, thương xót tiếp độ chúng sanh”. Vì vậy Tây phương Tịnh độ là chỗ sanh cho người sau khi chết. Như thế, Đông phương Dược Sư Phật chính là nơi hiện sanh kẻ sống Tiêu Tai Diên Thọ. Tây phương Tịnh độ A Di Đà Phật thành là nơi vãng sanh cho người sau khi chết. Sự kiện này đối với người Trung Hoa vô hình chung thành ra một thứ phân định rất rõ ràng. Vì vậy nên sau khi tư tưởng Tây phương Tịnh độ được thịnh hành ở Trung Hoa, theo đó Phật pháp bị người đời ngộ nhận là: học Phật tức là học sự chết. Đến đây tư tưởng Tịnh độ Phật A Di Đà có thể nói là biến chất mất hẳn chân thật nghĩa thuần túy.

Tây phương Tịnh độ: Chân thật nghĩa thì Tây phương Tịnh độ vốn là đại biểu cho tính chất vĩnh hằng vô lượng quang, vô lượng thọ và phước lạc viên mãn, chứ làm gì có nghĩa “chết” như một số người tưởng tượng. Người Trung Hoa đặc biệt chú trọng về Tây phương Tịnh độ, tức chú trọng nơi Phật đức mà quên phần trí chứng đại hạnh của Bồ tát, nghĩa là quên cõi Tịnh độ Phật A Súc, lại cũng quên luôn tín hạnh hiện thực nhơn gian Tịnh độ, tức Di Lặc Tịnh độ. Sự kiện này là hậu quả của quan niệm thiên lệch phát triển. Khi đem đối luận cùng với Dược Sư Tịnh độ, thì Di Đà Tịnh độ cũng bị ngộ nhận là pháp môn tu “chờ chết”, “trốn sống”. Mà thật ra chơn nghĩa của A Di Đà Tịnh độ nào phải thế! Tín hạnh Tịnh độ Phật A Di Đà cần phải được phục hồi và chân chính kế thừa tinh thần cố hữu của nó.

VI. PHẬT ĐỘ VÀ CHÚNG SANH ĐỘ

Độ có nghĩa là cõi nước, thế giới hay phương chỗ, nơi chốn nương tựa chung. Như nói, cá nhân nghiệp cảm báo thân ấy là bất cộng. Sơn hà đại địa v.v… là cộng, tức cộng đồng có thể thấy, cộng chung nương tựa, cộng chung thọ dụng. Vì vậy, chúng sanh thế giới này hay hỗ tương tăng trưởng, bỉ thử ích tổn. Phật pháp thì tự lực, như sách Thân Hữu Thơ nói: “Sanh thiên cập giải thoát, tự lực bất do tha”. Nghĩa là: Sanh cõi trời và giải thoát, tự lực không do nhờ người khác. Như người đời thường nói: “Ai ăn cơm thì nấy no, người nào sống chết thì người ấy biết”. Như thế đủ biết tinh thần Phật pháp bằng vào tự lực triệt để. Nhưng đây chỉ chuyên nói về báo thể (tinh thần) sanh tử nghiệp cảm của loài hữu tình, tức là phần căn thân. Nếu căn cứ vào phù trần căn của chúng sanh và nghiệp lực tăng thượng của tất cả loài hữu tình tạo thành khí thế gian thì lại không thể như thế. Chúng sanh cùng với chúng sanh ở trong cõi nước nương tựa thọ dụng, hỗ tương tăng trưởng, hỗ tương tổn ích. Phật và chúng sanh ở trong cõi nước cũng có tác dụng tăng thượng cảm nhiếp lợi ích. Như thế Phật có Tịnh độ năng lực nhiếp hóa chúng sanh và chúng sanh ngưỡng thừa Phật lực mà được vãng sanh Tịnh độ. Vậy thì việc Phật Tịnh độ nhiếp hộ chúng sanh không có gì mà không hợp lý. Bằng vào lý đây thì ở thế gian có những sự việc tương tự như thế này không phải là ít. Như Mạnh Tử khi còn nhỏ, đã ba lần mẹ ông dời chỗ ở, điều này chứng tỏ hoàn cảnh chỗ ở tốt xấu có thể ảnh hưởng đến thân tâm. Lại có những người ở trong hoàn cảnh rất hoạt động, nhưng khi đổi hoàn cảnh khác thì lại không làm gì được. Người ta thường nói hoàn cảnh có ảnh hưởng đến quyết định của ý chí. Đúng về chân thật tánh mà xét thì cũng có phần nào đúng. Do đó, cái lý Phật và chúng sanh triển chuyển tăng thượng thiện mỹ Tịnh độ, điều này xác thực hợp lý vậy.

Kinh Nhân Vương nói: “Tam hiền thập thánh cư quả báo, duy Phật nhứt, nhơn đăng Tịnh độ”. Nghĩa là Tam Hiền, Thập Thánh còn phải tùy theo quả báo, chỉ có Phật là người đạt được Tịnh độ. Tam Hiền là Thập Trụ, Thập Hạnh, Thập Hồi Hướng. Hành giả phát tâm tu học cầu giải thoát nhưng chưa dứt sạch phiền não, chưa hoàn toàn giải thoát, nên gọi là Hiền. Thập Thánh là mười bực tu hành của đại thừa Bồ tát gồm có: 1- Hoan Hỷ Địa; 2- Ly Cấu Địa; 3- Phát Quang Địa; 4- Diệm Huệ Địa; 5- Cực Nan Thắng Địa; 6- Hiện Tiền Địa; 7- Viễn Hành Địa; 8- Bất Động Địa; 9- Thiện Huệ Địa; 10- Pháp Vân Địa. Tuy thuộc hàng Thánh, nhưng vẫn còn căn bản vi tế phiền não, nên chưa thể nhập vào Phật quả. Trở lại ý nghĩa câu kinh đã dẫn trên, thì cho dù Thường Tịch Quang Độ là cứu cánh viên mãn tối hậu thân Bồ tát, cũng vẫn còn phần nghiệp cảm di thục tồn tại, nên không thể tương ưng với Phật Tịnh độ. Luận Trí Độ quyển mười nói: “Phổ Hiền Bồ tát bất khả lượng, bất khả thuyết, trụ xứ bất khả tri”. Nghĩa là trụ xứ của Bồ tát Phổ Hiền không thể lường, không thể nói, không thể biết được. Như thế có nghĩa là Ngài thể nhập pháp tánh khắp các cõi. Nhưng Phật không chỉ an trụ trong pháp giới tối thanh tịnh cứu cánh viên mãn. Bởi vì khi tu nhơn Bồ tát hạnh thì xác thực hai nhiệm vụ trọng đại mà Bồ tát phải thực hiện. Hai nhiệm vụ ấy là: phát nguyện nhiếp thủ Tịnh độ và nhiếp hóa chúng sanh. Đây là ý thức hành giả đại thừa đối với hoàn cảnh có thể ảnh hưởng, điều này cũng minh chứng sự liễu giải thâm sâu về Bồ tát trang nghiêm Tịnh độ có hai: Một mặt là do Bồ tát có phước đức trí huệ đặc thù cảm hóa. Mặt khác là vì tâm nguyện nhiếp hóa chúng sanh, khiến chúng sanh trong hoàn cảnh tốt tinh tấn tu hành mà trang nghiêm Tịnh độ. Vì vậy có thể nói trong pháp giới không có Phật, không có Tịnh độ, mà thích ứng cơ cảm của chúng sanh, thì liền đó có Phật có Tịnh độ, ấy là nghĩa chung của đại thừa Phật giáo.

Thường Tịch Quang Tịnh độ không nhiếp hóa chúng sanh tạm thời không luận đến. Trước tiên nên luận đến Phật thọ dụng Tịnh độ. Phật do phước trí trang nghiêm, y như thế gian nói thắng nghĩa, thì Phật cũng cảm được cõi Tịnh độ thanh tịnh cứu cánh viên mãn. Còn các đại Bồ tát chứng từng phần chơn như thì được từng phần pháp tánh sanh trong cõi Tịnh độ này. Cõi Tịnh độ này, nếu đứng về Phật mà nói thì là Tự Thọ Dụng Tịnh độ. Nếu đứng về Bồ tát mà nói, thì là Tha Thọ Dụng Tịnh độ, tức là các Bồ tát được nhiếp hóa cùng chung ở. Tự Tha Thọ Dụng Tịnh độ, trong kinh điển vốn ít có phân biệt điều này. Trong cõi Tịnh độ này chỉ có nhứt thừa Phật pháp. Nếu nói cho đúng nghĩa về Tịnh độ này thì không còn có nghĩa cầu sanh về Tịnh độ. Bởi vì cõi Tịnh độ này do những bậc Bồ tát chứng như như phần mà tất nhiên thể hiện có. Tuy không viên mãn như Phật, nhưng tâm hạnh đã đạt đến trình độ biến khắp vô sai biệt, không còn có bị thử. Như nói là có sai biệt, vậy thì trong kinh nói: “Thập phương Tịnh độ, tùy nguyện vãng sanh”. Nghĩa là các cõi Tịnh độ trong mười phương, tùy theo tâm nguyện mà được vãng sanh. Điều này cũng chẳng có nghĩa là chúng sanh nào cũng có thể cầu được vãng sanh về cảnh giới pháp tánh Tịnh độ, tức Phật Thọ Dụng Tịnh độ.

Trong kinh nói, chúng sanh phát nguyện cầu sanh Tịnh độ, không phải Thọ Dụng Độ mà là Phật Ứng Hóa Tịnh độ. Ứng Hóa Tịnh độ có nghĩa là thích ứng căn cơ cảm niệm của chúng sanh mà Phật thị hiện bất đồng. Sự thật thì chỉ có nhứt thừa mà không có tam thừa, như cõi A Di Đà Tịnh độ; có thông hóa ba thừa là Bồ tát, Thanh văn, Duyên giác như cõi Phật A Súc Tịnh độ. Lại có thông hóa ngũ thừa, nghĩa là không những chỉ có nhị thừa và Bồ tát mà còn có cả nhơn và thiên thừa nữa, ấy là như cõi Di Lặc Tịnh độ. Tất cả cõi nước trên đây đều là Tịnh độ. Nhưng điều ta nên biết là Ứng Hóa Độ thì không nhứt định là thị hiện Tịnh độ không thôi, mà cũng có thể Ứng Hóa Uế Độ nữa. Nói pháp ba thừa, như Thích Ca thị hiện cõi Ta bà. Điều lưu tâm là cõi Ứng Hóa Độ tuy mỗi hình thức có khác nhau nhưng tựu trung đều cùng với chúng sanh có quan hệ đặc biệt. Vậy thì những cõi Ứng Hóa Độ này rốt cùng là Phật độ hay chúng sanh độ? Thế giới không phải là cá nhơn, mà mang tính cách chung đại đồng. Kinh nói Phật quốc độ, tức có nghĩa là Phật ứng hóa thế giới nhiếp đạo chúng sanh, nên nói là Tịnh độ Phật này, quốc độ Phật khác. Nếu nói như thế gian nói, trí lượng như thế gian biết thì đây không những không còn là Phật quốc độ mà đều là chúng sanh cõi nước. Tức là chúng sanh nghiệp cảm tăng thượng nên hình thành quả báo quốc độ này. Mà trong những hành trạng Phật ứng hóa thì gọi là Phật Ứng Hóa Độ. Như đức Thích Ca thị hiện trong thế gian uế độ khi phương tiện ngũ thừa độ sanh. Khi đức Di Lặc thành Phật cùng khai mở ngũ thừa Tịnh độ. Chúng sanh nghiệp cảm là nhân tố rất trọng yếu để hình thành quốc độ. Và cũng theo đó Phật mở bày phương tiện độ. Nhưng có lúc không giáo hóa tam thừa mà chỉ giáo hóa nhứt thừa Tịnh độ. Như thế, ít nhiều có sự bất đồng. Vì sao? Vì y theo kinh đại thừa thì nói rằng: Phật vì nhiếp thọ chúng sanh, nên hiện ra cảnh Tịnh độ thanh tịnh. Cố nhiên gọi đây là Phật Tịnh độ. Nhưng sự hiện diện của Bồ tát trong cõi Tịnh độ này, ngoại trừ việc theo học Phật ra, cũng là vì một phần nhiếp dẫn chúng sanh đồng sanh Tịnh độ. Như thế giới Tây phương cực lạc không những có Phật A Di Đà mà còn có Đại Thế Chí Bồ tát và các đại Bồ tát khác. Các đại Bồ tát này đều là do phước huệ thiện căn của chính mình cùng đồng với Phật thực hiện Tịnh độ. Như thế trong cõi Tịnh độ đây Phật là chủ đạo sư, các đại Bồ tát là bạn lữ mà cộng đồng trang nghiêm hình thành Tịnh độ. Như thế đủ thấy sức bi nguyện phước đức của Phật và Bồ tát là rất trọng yếu. Ngoài ra, chúng sanh chưa chứng đạt chơn thật cũng được sanh Tịnh độ. Nếu nói tự thân chúng sanh được sanh cõi Tịnh độ thì không đủ, mà điều yếu trọng là cần phải nương vào những yếu tố sau đây: 1- Nguyện Phật lực gia trì; 2- Sức Tam Muội của chúng sanh; 3- Thiện căn lực của chúng sanh thành thục. Nếu có đủ ba yếu tố này thì chúng sanh cũng được sanh về Tịnh độ. Điều này kinh A Súc Phật Quốc cũng có nói: Phật và Bồ tát đã thành thục Tịnh độ, nhiếp dẫn một phần chúng sanh ở trong đó tu hành, ấy là nơi Phật và chúng sanh triển chuyển tăng thượng tương nhiếp. Vì vậy, cứu cánh của Phật Độ là Phật chứ không phải là chúng sanh. Như cõi nước Phật Thích Ca, cõi Di Lặc Tịnh độ, tuy cũng là lấy sức thiện căn và nguyện lực mà sanh, nhưng chủ yếu là nghiệp cảm của chúng sanh cảm sanh quốc độ, nghĩa là do nghiệp của chúng sanh tạo thành quốc độ Ta bà. Trong hành trạng ứng hóa của Phật chẳng qua nhiếp hóa dẫn đạo một phần chúng sanh có duyên mà thôi. Phật và chúng sanh triển chuyển tăng thượng tương nhiếp Tịnh độ, là khi Bồ tát hành nhơn, nhiếp hóa một phần đồng hành đồng nguyện cộng thành sáng tạo, y đây nhiếp thọ một phần chúng sanh, khiến cho chúng sanh cũng tham gia vào Tịnh độ. Đây là ý nghĩa chơn chánh Tịnh độ thí giáo, cũng đều là đặc sắc sở tại của Tịnh độ, như Di Đà Tịnh độ, A Súc Tịnh độ.

Trong cõi Phật và cõi chúng sanh còn có cõi Bồ tát Tịnh độ. Từ Bồ tát chứng ngộ chơn như trở lên, thì các cõi Tịnh độ của các Ngài đang hiện diện, theo các nhà Duy Thức thì đây là cõi Phật Tha Thọ Dụng Độ. Nếu chỉ căn cứ Bồ tát mà nói, thì là cõi Bồ tát Thọ Dụng Độ. Theo Thiên Thai tông thì cho cõi này là Thật Báo Trang Nghiêm Độ cùng với Phật Thanh Tịnh Pháp Giới Độ có một phần đồng nghĩa, nhưng không hoàn toàn. Bởi vì do phước huệ của Bồ tát cùng với Phật cộng đồng thọ dụng đặc thừa phước lạc. Có thể nói Phật Thọ Dụng Độ, cũng có thể nói là Bồ tát Thọ Dụng Độ. Như thế, nói một cách triệt để rốt ráo thì Phật Tịnh độ tuyệt đối không phải chỉ có một mình Phật mà còn có nhiều Bồ tát nữa. Trong kinh nói đến cõi Thọ Dụng Tịnh độ cũng đang còn vô lượng đại chúng vây nhiễu. Những vị Bồ tát này đều do tự lực mà đến cõi Tịnh độ. Ứng Hóa Độ, như cõi Tịnh độ Phật A Di Đà, cõi Tịnh độ Phật A Súc, những cõi này có vô lượng Bồ tát, các Bồ tát này cũng không nhất định cầu nguyện vãng sanh. Trong cõi Tịnh độ có Phật tức có Bồ tát. Phật ứng hóa cõi Tịnh độ thì trong đó cũng có một phần Ứng Hóa Độ của các đại Bồ tát. Nói một cách tổng quát về cõi Tịnh độ, thì các đức Phật và chư Bồ tát cùng chúng sanh hỗ tương triển chuyển tăng thượng mà thành. Giữa cõi Phật và cõi chúng sanh không thể bỏ quên ý nghĩa Bồ tát và Phật cùng chung sáng tạo Tịnh độ, để cùng nhau nhiếp hóa chúng sanh.

VII. TRANG NGHIÊM TỊNH ĐỘ VÀ VÃNG SANH TỊNH ĐỘ

1- Trang Nghiêm Tịnh độ: Ở Trung Hoa, Tịnh độ tông phát triển một cách đặc biệt phi thường. Nhưng phần nhiều chỉ biết phát nguyện vãng sanh, cầu sanh Tịnh độ. Còn Tịnh độ từ đâu mà có, điều này xưa nay ít người để ý. Mọi người đều tưởng rằng có Phật A Di Đà là có Tịnh độ. Nhưng đâu có biết Phật A Di Đà không phải phát nguyện vãng sanh mà được Tịnh độ. Trong kinh đại thừa nói: Chỗ nào cũng đều là trang nghiêm Tịnh độ. Nói như thế có nghĩa là ngay khi Bồ tát phát nhơn địa tu hành, tu vô lượng công đức để trang nghiêm quốc độ, cho đến khi thành Phật thì thành tựu viên mãn.

Người tu Tịnh độ ngày nay chỉ nghe nói đến việc vãng sanh Tịnh độ mà không nghe nói đến việc trang nghiêm Tịnh độ, điều này há chẳng phải là phiến diện ư? Tất cả Bồ tát ngay trong quá trình tu hành tất nhiên nhiếp thọ đại nguyện vô biên Tịnh độ. Kinh Đại Bát Nhã nói: Lấy các thứ thế giới, các thứ thanh tịnh tổng hợp để làm thành thế giới tối cực thanh tịnh, tối cực viên mãn, đây là điều Bồ tát phát nguyện tu hành để thực hiện. Tất cả kinh đại thừa đều nói như thế. Như cõi Tịnh độ của Phật A Di Đà là một thí dụ điển hình. Kinh Vô Lượng Thọ Phật nói: Đức Phật A Di Đà tiền thân trong quá khứ vốn là Tỳ kheo Pháp Tạng. Lúc bấy giờ có đức Phật Thế Tự Tại Vương Như Lai ra đời giáo hóa chúng sanh, đức Phật này đã vì Pháp Tạng Tỳ kheo mà thuyết pháp hai trăm mười ức tướng Tịnh độ. Pháp Tạng Tỳ kheo nghe thấy tướng trạng của các cõi Tịnh độ kia không đồng nhau, liền phát đại nguyện tu hành để thực hiện một cõi Tịnh độ thật là đặc biệt viên mãn thanh tịnh rốt ráo. Tất cả Bồ tát cũng đều như thế. Bởi nhơn duyên đó nên nói là “nhiếp thọ đại nguyện vô biên Tịnh độ”. Nghĩa là đại nguyện của Phật A Di Đà trùm khắp vô biên Tịnh độ. Đây là nội dung hạnh nguyện của Bồ tát tất yếu phải hoàn bị. Có hai lý do khiến cho Bồ tát nhờ đó mà nhiếp thủ Tịnh độ: – Một là tất cả chư Phật thành tựu trang nghiêm Tịnh độ. Bồ tát phát tâm học Phật đương nhiên cũng phải thực hiện Tịnh độ như Phật.- Hai là vì sao phải thực hiện Tịnh độ? Đây không phải vì mình được thọ dụng an hưởng mà nghĩ đến việc thực hiện Tịnh độ, mà là vì giáo hóa chúng sanh. Có Tịnh độ mới nương theo Tịnh độ mà nhiếp hóa chúng sanh. Nhiếp dẫn chúng sanh tức là công hạnh cùng chung thực hiện Tịnh độ. Nhiếp thủ Tịnh độ để nhiếp hóa chúng sanh, đây là yếu nghĩa của Tịnh độ. Tịnh độ là do vì lợi ích chúng sanh mà hình thành trang nghiêm chứ không phải nghĩ để cho riêng mình được an lạc mà thực hiện Tịnh độ.

Trang nghiêm Tịnh độ là ý nghĩa thông dụng của tâm hạnh đại thừa. Nay căn cứ vào kinh Duy Ma Cật phẩm Phật Quốc để xương minh ý nghĩa Bồ tát trang nghiêm Tịnh độ. Kinh ấy nói: “Chúng sanh chi loại thị Bồ tát Tịnh độ”. Có nghĩa là vì chúng sanh mà Bồ tát tu Tịnh độ. Bồ tát tu Tịnh độ là bởi do chúng sanh. Như xây cất nhà cửa tất phải từ đất làm cơ sở. Bồ tát Tịnh độ không lìa chúng sanh. Chỉ có ở trong chúng sanh, vì lợi ích chúng sanh mà Bồ tát hay thực hiện Tịnh độ. Vì vậy, khi nói về Tịnh độ không có nghĩa là trốn tránh hiện thực mà điều này tương ưng với pháp đại thừa. Luận đến chúng sanh, thì Bồ tát thường từ bốn việc sau đây mà quán sát: 1- Dùng thế giới nào hay khiến cho chúng sanh khởi công đức? 2- Nên dùng quốc độ nào hay điều phục chúng sanh khiến không sanh khởi phiền não? 3- Dùng hoàn cảnh nào hay khiến cho chúng sanh khởi căn đại thừa thánh thiện? 4- Cần dùng quốc độ nào mới có thể khiến cho chúng sanh khế ngộ Phật tri kiến? Bởi chúng sanh căn tánh bất đồng, sanh thiện diệt ác, khởi đại thừa thiện căn, nhập Như Lai trí huệ cũng cần dùng các hình thức hoàn cảnh khác nhau để thích ứng chúng sanh, nhiếp hóa chúng sanh, tức là thích ứng căn tánh ưa vui của chúng sanh mà sáng tạo Tịnh độ huy hoàng thanh bình an lạc, khiến cho chúng sanh từ đó hay tạo thành các điều thiện lợi ích. Trang nghiêm Tịnh độ không phải vì cho mình mà cho đại chúng. Đây là thích hợp với thuyết “Ứng cơ hiện độ” tức là tùy theo căn cơ của chúng sanh mà hiện hành quốc độ. Nếu như nói Bồ tát tu hành nhiếp đạo chúng sanh, thành tựu Tịnh độ quả đức, thé sao trong kinh lại nói: “Trực tâm là Bồ tát Tịnh độ. Khi Bồ tát thành Phật, không cần phải dẫn dụ chúng sanh về Tịnh độ, mà chính thân tâm của các Ngài đã là thể hiện Bồ tát Tịnh độ”. Nói cách giản lược hơn, phát tâm bồ đề, từ bi, hỷ xả, lục độ, tứ nhiếp pháp, tất cả những hạnh công đức này đều là nhơn để thành tựu trang nghiêm Tịnh độ. Như chơn tâm là tâm chất trực trong sạch thanh tịnh không phải là tâm bất tịnh hiếm ác quanh co. Bồ tát dùng tâm này làm pháp môn, dùng tâm này hóa độ chúng sanh, thì tự nhiên cùng với chúng sanh không dua nịnh, mà tương nhiếp tăng thượng, đồng thời cũng hay cảm hóa tâm dua nịnh của chúng sanh thành tâm chơn trực. Chúng sanh không dua nịnh cùng với Bồ tát kết pháp thiện duyên cho đến khi Bồ tát thành Phật thì những chúng sanh không dụa nịnh kia sanh đến cõi nước Tịnh độ của Bồ tát. Bồ tát trang nghiêm Tịnh độ là nhiếp đạo vậy. Tức là Bồ tát tu lục độ vạn hạnh độ chúng sanh, nhơn đó chúng sanh tu lục độ vạn hạnh thọ nhận sự cảm triệu của Phật và Bồ tát rồi nhơn theo duyên này mà sanh đến cõi nước Tịnh độ. Trên thực tế, thực hiện Tịnh độ như thế thì người nhiếp đạo và người được nhiếp đạo cộng đồng thành quả. Nhơn đây, không thể tưởng tượng là thực hiện Tịnh độ không phải chỉ có một mình Phật mà quyết phải có sự hỗ tương tăng thượng triển chuyển Phật và chúng sanh cộng thành. Bồ tát là người lãnh đạo khai phát cần nhiều người đồng hành đồng nguyện, bi thử kết thành pháp lữ hòa hợp làm một để cùng tu phước huệ mới có thể cộng thành Tịnh độ. Nếu bằng cứ vào Phật mà nói thì đây là thọ dụng Tịnh độ. Nếu cứ vào Bồ tát mà nói thì đây hãy còn là Bồ tát tự lực, nên có Tịnh độ để cảm đắc. Hành giả tu pháp môn Tịnh độ mà không biết trang nghiêm Tịnh độ, không biết Tịnh độ từ đâu hình thành mà chỉ đơn thuần cầu sanh Tịnh độ, như thế là xem Tịnh độ như cõi trời, cõi của thần giáo rồi. Nếu biết Tịnh độ từ đâu mà có và do đâu hình thành, phát nguyện thực hành phước đức trang nghiêm Tịnh độ, như thế mới là chánh đạo đại thừa Phật giáo. Vãng sanh Tịnh độ có nghĩa là Phật và chúng sanh cùng đồng triển chuyển tăng thượng thánh thiện, chứ không có cách nào khác. Thái Hư Đại Sư khi viên tịch, Phạm Cổ Nông có bài điếu văn rằng: “Đại Sư xướng đạo là chánh thường đạo, việc làm của người là phương tiện đạo”. Chánh thường đạo tức là chánh nghĩa Tịnh độ đại thừa Bồ tát pháp. Phương tiện đạo phát xuất từ chánh thường đạo. Trang nghiêm Tịnh độ là công đức của tập thể Bồ tát thực hiện cộng thành, là chơn nghĩa của đại pháp. Đây là điều hành giả tu Tịnh độ nên đặc biệt lưu ý.

2- Vãng Sanh Tịnh độ:

 a) Pháp vãng sanh Tịnh độ thông thường:

Pháp môn vãng sanh Tịnh độ có Thông có Biệt. Thông là hành giả tu theo pháp môn này thì có thể vãng sanh bất cứ các cõi Tịnh độ trong mười phương. Biệt là phương tiện đặc thù chỉ chú trọng vãng sanh thế giới cực lạc.

Tịnh Độ là cõi nước thanh tịnh, là hoàn cảnh sống lý tưởng. Bồ tát trang nghiêm Tịnh độ vì nhiếp hóa chúng sanh, chúng sanh thọ ân đức cảm triệu của Bồ tát mà đem tâm hướng sanh về cõi nước Tịnh độ. Ở cõi Tịnh độ tu hành có nhiều tiện lợi, ít chướng ngại, nên quyết phải được bất thối chuyển, không lạc vào Nhị thừa, cũng không đọa vào ba đường ác. Tín hạnh vãng sanh Tịnh độ là điểm chính yếu của tất cả kinh đại thừa. Vậy thì làm thế nào mới có thể vãng sanh Tịnh độ? Để giải đáp, nay xin lược dẫn hai bộ kinh để thuyết minh:

1) Kinh Duy Ma Cật quyển hạ có nói : “Bồ tát thành tựu tám pháp, ở thế giới này không làm tổn thương chúng sanh thì được sanh về cõi Tịnh độ”. Tám pháp gồm: Một là, làm lợi ích chúng sanh mà không cầu mong đền ơn, tức là xuất phát từ tâm thuần tuý lợi ích chúng sanh chứ không nghĩ đến mình, cũng không nghĩ đến sự trả ơn. Hai là, thay cho tất cả chúng sanh chịu các khổ não, nên Bồ tát làm được bao nhiêu công đức đều hồi hướng cho chúng sanh hết, còn khổ thống thì riêng mình nhận lãnh, chỉ mong sao cho chúng sanh được phước lạc, ấy là tâm hạnh chơn chánh của Bồ tát. Ba là, dùng tâm bình đẳng đối đãi với tất cả chúng sanh, khiến cho chúng sanh bình đẳng đạt được cư địa quả vị. Bốn là, những Bồ tát tu pháp đại thừa, xem chúng sanh như Phật, nên khởi lòng tôn kính tất cả chúng sanh. Năm là, những kinh đại thừa nghĩa lý thâm sâu vi diệu chưa từng nghe, khi được nghe thì không sanh lòng nghi ngờ, không sanh tâm bài báng, cũng không cho rằng mình tu pháp đại thừa thâm sâu vi diệu lắm rồi, khác với Thanh văn. Nếu một khi hành giả thật sự thông hiểu Phật pháp, rõ lý giữa đại thừa và tiểu thừa thì có thể dung thông quán hợp. Sáu là, đối với người được cúng dường không sanh lòng ghen tị, mình được cúng dường cũng không sanh tâm tự cao phóng túng. Bảy là, thường cảnh giác nơi bản thân mình, sửa đổi lỗi lầm, không nên cố nêu lỗi người khác. Tức là phải thường hằng phản tỉnh chính mình, ít nói lỗi người khác. Tám là, một lòng cầu các công đức để trang nghiêm Tịnh độ hồi hướng chúng sanh. Tám pháp này là tám hạnh chánh thường đạo của Bồ tát vì người vì pháp, tự lợi lợi tha. Nếu y theo đây mà tu thì đó là pháp môn chắc chắn vãng sanh Tịnh độ.

2) Kinh Trừ Cái Chướng Bồ Tát Sở Vấn quyển bảy nói: “Bồ tát nếu tu mười pháp thì được sanh về các cõi Phật”. Mười pháp gồm: Một là, giới hạnh thành tựu. Hai là, thực hành tâm hạnh bình đẳng. Ba là, thành tựu quảng đại thiện căn. Bốn là, xa lìa danh văn lợi dưỡng thế gian. Năm là, đầy đủ tịnh tín. Sáu là, chuyên cần tinh tấn. Bảy là, chánh niệm thiền định. Tám là, tu tập đa văn. Chín là, lợi căn minh mẫn. Mười là, quảng hạnh từ tâm. Trên đây là mười pháp hạnh Bồ tát thực hành để được sanh về các cõi Phật Tịnh độ. Những kinh như: kinh Thắng Thiên Vương Bát Nhã, kinh Bảo Vân, kinh Bảo Vũ đều có đề cập đến mười pháp môn này. Như “thành tựu quảng đại thiện căn” đích xác là yếu quyết vãng sanh Tịnh độ. Kinh A Di Đà cũng nói: “Không thể lấy một ít phước đức thiện căn mà có thể làm nhơn duyên để vãng sanh về cõi nước Tịnh độ Phật A Di Đà kia được”. Kinh Duy Ma Cật và kinh Bảo Vân đều nói: Pháp môn Tịnh độ là đạo thường của Bồ tát, không cầu sanh Tịnh độ mà tự nhiên vãng sanh về Tịnh độ. Đấy là điều tất yếu và đầy đủ mà Tịnh độ phải có.

b) Pháp vãng sanh Tịnh độ đặc thù: Tại Trung Hoa pháp môn niệm Phật cầu sanh Tịnh độ được lưu hành, tức là thực hành phương tiện đặc thù cầu vãng sanh Tây phương cực lạc Tịnh độ, tóm lược mấy điều hợp lý để thuyết minh:

1) Kinh Ban Chu Tam Muội dịch bản Phạn ngữ ra Hán văn có từ thời Hán Mạt. Trong kinh này đã nói đến niệm Phật A Di Đà, thấy Phật A Di Đà tức thấy mười phương tất cả Phật. Như thế là chú trọng quán Tây phương cực lạc vô lượng Phật làm phương tiện thì từ đó có thể thấy vô lượng Phật ở mười phương. Kinh Quán Vô Lượng Thọ và kinh Phật Thuyết A Di Đà cũng đều chú trọng đến Vô Lượng Thọ Phật, nên đặc biệt chú trọng đến lúc mạng sắp chết (lâm mạng chung thời). Kinh Ban Chu Tam Muội đã nói đến niệm Phật, tức là niệm Phật tam muội. Niệm là tưởng nhớ, là nghĩ đến thân Phật tướng hảo và cảnh giới cực lạc trang nghiêm không phải là cảnh giới hiện tại của chúng sanh, nên phải suy nghĩ vào đó, chuyên tâm vào đó, khiến quán cảnh cực lạc rõ ràng hiện ra trước mặt. Nên niệm Phật tức là tu phương pháp quán niệm Phật. Kinh A Hàm nói Tứ niệm xứ, Tam tùy niệm (niệm Phật, niệm Pháp, niệm Tăng) các pháp môn v.v… cũng đều niệm như thế. Niệm tức buộc tâm vào một chỗ, khiến cho tâm nhớ rõ không quên. Niệm cùng với huệ tâm sở tương ưng, tức duyện ở nơi y báo chánh báo cảnh giới cực lạc mà phân biệt quán sát. Một khi Niệm và Huệ tương ưng như đây thì an trụ sở duyên, tâm nhứt cảnh tánh, ấy là Định, nghĩa là đã thành tựu niệm Phật tam muội. Khi tam muội đã thành tựu thì thấy vô lượng Phật và cũng liền đó thấy được mười phương Phật. Đạt được niệm Phật tam muội mà chưa được thiên nhãn thì cũng chưa đạt đến cõi Phật, lại cũng không phải trong lúc đó Phật hiện đến, nhưng trong tam muội có thể thấy rõ được Phật. Trong tam muội thiền quán không những chỉ thấy Phật mà còn có thể cùng Phật vấn đáp. Chẳng hạn như trong tam muội thấy Phật, hành giả thường hỏi: Làm thế nào để vãng sanh về thế giới cực lạc? Phật liền đáp: Nên tưởng nhớ đến ta. Đừng nên cho rằng trong tam muội thấy Phật, cùng Phật vấn đáp đó là việc kỳ lạ. Đây là những hành giả tu hạnh Du Già, thiền quán đều có hiện tượng như thế. Như Mật tông hành giả tu đến bổn tôn thành tựu. chẳng hạn như Vô Trước Bồ tát tu Di Lặc pháp môn thấy Phật Di Lặc nói cho Luận Du Già. Theo thứ lớp phương tiện tưởng nhớ đến Phật A Di Đà là: Trước tiên nhớ Phật “Có đầy đủ ba mươi hai tướng tốt, tám mươi vẻ đẹp, sắc thân sáng ngời như khối vàng sáng chói, thành tựu đầy đủ các xe báu, phóng đại quang minh, như tòa sư tử, trong chúng Sa môn nói pháp như thế này”, như thế là nghĩ đến sắc thân Phật hoặc quán tưởng Phật. Kế đến là nghĩ đến lời Phật nói: “Tất cả pháp xưa nay vốn chẳng hoại cũng không hư. Sắc không hoại cho đến thức không hoại… cho đến chẳng nghĩ kia là Như Lai, cũng không được Như Lai kia”. Đây là quán tất cả pháp tánh không, gọi là “Được Không Tam Muội”. Đây cũng gọi là niệm pháp thân Phật, hoặc còn gọi là Thực tướng niệm Phật. Niệm Phật như thế gọi là thành tựu Tam muội, quyết định vãng sanh về thế giới Tây phương cực lạc. Theo phương pháp niệm Phật tam muội này cầu tịnh tâm, chuyên tu ba tháng. Ngày nay hành giả niệm Phật rất ít thực hành như vậy. Kinh Ban Chu Tam Muội nói về pháp môn niệm Phật như thế này: hành giả cần phải chú trọng ở nơi tự lực thiền quán. Tuy là có nguyện lực Phật A Di Đà, nhưng hành giả phải thực hành niệm Phật tam muội, thấy Phật rồi mới có thể vãng sanh. Điều này không phải là chuyện dễ, chỉ dễ cho hạng lợi căn thượng cơ chuyên tâm tu tập. Vì vậy, trong Đại Trí Độ Luận, Ngài Long Thọ nói: “ Thực hành Tam Muội khó, như đêm đốt đèn thấy sắc không dễ”. Các bậc cổ đức Trung Hoa cũng nói: “Tâm chúng sanh thô lậu, quán hạnh thâm sâu vi tế, nên không dễ tương ưng”. Đại để vì không dễ tương ưng, nghĩa là không tịnh tâm quán Phật để tương ưng giữa chúng sanh và Phật, nên hành giả tu về Tịnh độ thường bỏ phương pháp này không dùng Nhưng đích thực đây lại là điều căn bản của pháp môn cầu sanh cực lạc Tịnh độ vậy.

2) Kinh Hoa Nghiêm phẩm Phổ Hiền Hạnh Nguyện cũng nói đến vấn đề vãng sanh cực lạc thế giới. Như nói: “Phổ Hiền mười đại nguyện vương, hướng đạo hồi quy cực lạc”. Cuối phẩm Phổ Hiền nói rõ điều này. Phổ Hiền mười đại nguyện vương cũng gọi là mười đại hạnh nguyện. Đây không những chỉ là phát nguyện mà còn phải thực tế tu hành. Dùng công đức đại nguyện đại hạnh này để hồi hướng cầu sanh cực lạc thể giới. Người ta thường nói hành đạo khó và hành đạo dễ, thì pháp môn này thuộc về hành đạo dễ. Nhưng phẩm Phổ Hiền Hạnh Nguyện không trực chỉ đơn thuần nói niệm Phật, mà y theo thứ tự nói là “Lễ kính chư Phật; Xưng tán Như Lai; Quảng tu cúng dường; Sám hối nghiệp chướng; Tùy hỷ công đức; Thỉnh Phật trụ thế; Thỉnh chuyển pháp luân; Thường tùy Phật học; Hằng thuận chúng sanh; Phổ giai hồi hướng”. Phẩm Phổ Hiền Hạnh Nguyện lập thuyết không giống như kinh Ban Chu Tam Muội khi nói đến phương pháp niệm Phật tam muội. Lại cũng không giống với kinh Vô Lượng Thọ nói về chuyên tâm buộc niệm vào y báo chánh báo trang nghiêm của Phật A Di Đà. Nhưng nếu y theo Phổ Hiền Quảng Đại Hạnh Nguyện mà tu hành thì có thể phát nguyện hồi hướng vãng sanh cực lạc. Phương tiện vãng sanh cực lạc vốn không hạn cuộc ở nơi niệm Phật.

3) Kinh Vô Lượng Thọ nói: “Đây là một trong ba bộ kinh mà cổ đức Trung Hoa đã hợp chung thành một quyển lấy tên là Tịnh Độ Tam Kinh”. Có nghĩa là ba kinh đều nói về Tịnh độ. Ba kinh này được dịch ra Hán văn rất sớm. Khi đề cập đến Tịnh Độ Tam Kinh, Luận Đại Trí Độ đặc biệt đã từng nói đến một cách rõ ràng về kinh Vô Lượng Thọ là kinh điển đại thừa được lưu hành vào thời sơ kỳ. Đối với kinh này, ở Trung Hoa rất nhiều bản dịch khác nhau, hiện còn như: 1- Thời Đông Hán, Chi Lâu Ca Sấm dịch bản đầu tiên. 2- Sau đó Ngô Chi Khiêm cũng lại dịch, văn nghĩa hai bản dịch của Chi Lâu Ca Sấm và của Ngô Chi Khiêm rất giống nhau. Do đó, ta có thể truy cứu suy luận là kinh này từ nước Nguyệt Chi truyền đến Trung Hoa. Nay các nhà học Phật thường gọi chung hai bản dịch nay là Chi bản. 3- Thời Tào Ngụy có Khang Tăng Khải cũng dịch gọi tắt là Khang bổn. 4- Đời Đường, Ngài Bồ Đề Lưu Chi khi dịch kinh Đại Bảo Tích tập thành thì kinh Vô Lượng Thọ này liệt vào quyển thứ mười bảy và mười tám với tên là Vô Lượng Thọ Phật Hội, gọi tắt là Đường bổn. 5- Bắc Tống, bản dịch của Pháp Hiền gọi là Tống bổn. Ngoài năm bản dịch trên ra, thời Tống còn có Vương Nhựt Hưu tự xưng là Long Thơ cư sĩ tức là tác giả quyển Long Thơ Tịnh Độ, tham chiếu tất cả bản dịch trên rồi viết thành bản mới lấy tên là Đại A Di Đà Kinh, gọi tắt là Vương bổn.

Thành phần nội dung của kinh Vô Lượng Thọ, đầu tiên nói về tư cách tâm hạnh Phật A Di Đà nhiếp thủ Tịnh độ, lập bốn mươi tám thệ nguyện. Nguyên văn bốn mươi tám lời nguyện này, đại phàm hễ ai tưởng niệm đến ta (Phật A Di Đà) muốn sanh về nước cực lạc của ta thì được vãng sanh. Kế đó là nói về y báo chánh báo của thế giới cực lạc phước báu trang nghiêm huy hoàng v.v… Cuối cùng luận đến ba hạng vãng sanh, tức nói rõ điều kiện và phương pháp vãng sanh.

Quan hệ đến “ba hạng vãng sanh” quen gọi là ba phẩm, về vấn đề này luận thuyết của các dịch bổn có ít nhiều sai biệt, nhưng điều kiện căn bản vãng sanh vẫn là thuyết minh phương pháp, điều kiện và ý nghĩa của sự “niệm A Di Đà và phát nguyện vãng sanh”. Hành giả Tịnh độ nếu không niệm Phật, không phát nguyện thì không thể nào vãng sanh về thế giới cực lạc.

Nói về niệm Phật, trong văn kinh chỉ nói “chuyên niệm”, “ức niệm”, “tư duy”, “thường niệm”, “nhứt tâm niệm”. Kinh Vô Lượng Thọ Phật này sau được giản lược làm thành bốn tên là kinh Tiểu A Di Đà còn gọi là “chấp trì danh hiệu”. Tam Tạng Pháp Sư Huyền Trang lại dịch lấy tên là Xưng Tán Tịnh độ Phật Nhiếp Thọ Kinh, lại còn có tên là Tư Duy Kinh. Với ý nghĩa này, chấp trì nghĩa là tâm niệm duy trì không quên. A Di Đà Phật là Phật ở cõi Tây phương không phải cõi Ta bà, hành giả từ trong kinh mà có thể thấy biết, hoặc nghe biết danh hiệu Phật, theo đó quán tưởng đến y báo chánh báo trang nghiêm cõi nước cực lạc, như thế gọi là “tư duy” hay “chấp trì danh hiệu”.

Pháp môn niệm Phật trong kinh Vô Lượng Thọ cùng với kinh Ban Chu Tam Muội ý nghĩa tương đồng, đều không phải chỉ miệng xưng niệm mà cần phải nhứt tâm niệm Phật, phát nguyện vãng sanh là hai nhân tố căn bản để cầu sanh về cực lạc Tịnh độ. Hành giả Tịnh độ tịnh tâm niệm Phật cầu sanh về trong ba phẩm thượng, trung, hạ cũng vậy. Ngoài ra, đề cập vãng sanh, Đường bổn, Khang bổn đều nói rõ là, hành giả được vãng sanh về ba phẩm thượng, trung, hạ điều cần yếu là phải phát tâm bồ đề. Do sự phát tâm bồ đề nên lại có ba phẩm bất đồng. Bởi vì, người thượng phẩm thì hay chuyên tâm hệ niệm, rộng tu công đức, phụng hành lục độ, nhứt là rộng tu cúng dường bộ thí. Người trung phẩm tuy không thể chuyên tâm hệ niệm rộng tu công đức mà chỉ tùy lực tùy phận, tùy mình mà làm việc thiện hồi hướng Tịnh độ. Người hạ phẩm ngoài việc phát tâm bồ đề, chỉ bằng vào một niệm tịnh tâm tưởng hướng về Phật A Di Đà, đối với kinh đại thừa khởi tâm thâm tín không nghi. Luận Đại Trí Độ quyển chín cũng nói: “Tuy không rộng tu công đức, nếu như phiền não nhẹ mỏng, tín tâm thanh tịnh, nhứt tâm niệm Phật, cũng có thể phát nguyện vãng sanh”. Chi bổn nói: “Chung hạnh môn của ba phẩm vãng sanh là đoạn ái dục. Hành giả không luận là tại gia hay xuất gia, hễ cầu sanh Tịnh độ đều cần tu phạm hạnh thanh tịnh. Lại còn phải từ tâm tinh tấn, không những không sân hận mà còn trai giới thanh tịnh”. Riêng về thượng phẩm thì bất đồng, vì phẩm này chỉ có hàng xuất gia Sa môn thanh tịnh, phụng hành Lục Độ Ba La Mật mới đạt được. Trung và hạ phẩm vãng sanh, không xuất gia thì không thể rộng tu các hạnh. Vả lại, tuy có biết niệm Phật cũng không tránh lòng bán tín bán nghi. Trong ba phẩm thì trung phẩm hay tùy duyên làm thiện, lập đàn bố thí, cúng dường tam bảo. Hạ phẩm thì chỉ một lòng tưởng niệm muốn cầu vãng sanh, sức hiệu năng rất yếu. Qua những điểm lược nêu trên đủ thấy đặc sắc của Chi bổn, trọng tâm nơi đoạn ái dục. Nếu như muốn phát nguyện vãng sanh, nhứt tâm niệm Phật, từ bi tinh tấn v.v… những đặc điểm tinh thần này cũng giống với Đường bổn, Khang bổn. Nhứt tâm niệm Phật có được vãng sanh Tịnh độ không? Đối với vấn đề này, Đường bổn, Khang bổn đều nói: “Chỉ trừ phi phạm tội ngũ nghịch, thập ác, hủy báng chánh pháp thì không thể vãng sanh”. Ngoài ra đều có thể vãng sanh Tịnh độ. Pháp môn vãng sanh của kinh Vô Lượng Thọ và kinh Ban Chu Tam Muội có chỗ bất đồng. Kinh Ban Chu Tam Muội thì chuyên trọng Tam Muội có nghĩa là vãng sanh chỉ hạn nơi định tâm kiến Phật. Trong lúc đó kinh Vô Lượng Thọ thì lại nói rằng: Chẳng những người tán tâm niệm Phật cũng có thể được vãng sanh mà cả đến người tịnh tâm cũng còn cần đến sự nhứt tâm tịnh niệm tương tục thì nhất định vãng sanh. Có thể nói kinh Vô Lượng Thọ nhiếp hóa căn cơ rất rộng, chỉ trừ hủy báng đại thừa và ngũ nghịch thập ác mới không được vãng sanh mà thôi.

Nhứt tâm niệm Phật cần trải qua bao nhiêu thời gian mới được vãng sanh? Đây vốn là một vấn đề rất nhiều giải đáp mà vấn đề ắt có và đủ lại cấp thiết vẫn là phải niệm đến chỗ nhứt tâm bất loạn. Đường bổn và Khang bổn nói: Hai phẩm thượng và trung không nói đến thời gian ngắn dài. Phẩm hạ thì nói “cho đến mười niệm”, “cho đến một niệm”. Học giả Trung Hoa do đây diễn xuất thành ra pháp môn “Thập niệm niệm Phật”. Thượng phẩm trung phẩm đều không phải là đoạn kỳ tu hành, mà phát tâm tu hành đến một khi công phu tương ưng thì có thể quyết định vãng sanh. Người hạ phẩm tuy thiện căn yếu kém, phước mỏng đức bạc, nhưng nhờ nguyện lực của đức Phật A Di Đà gia trì, nếu một niệm hoặc mười niệm tâm thanh tịnh hướng về Phật thì cũng có thể vãng sanh.

Một niệm tức một sát na. Mười niệm tức đoản kỷ tịnh tâm tương tục. Đây tức thuyết minh Phật nguyện hoằng thâm, vãng sanh dễ dàng. Nói như thế có nghĩa là một niệm hoặc mười niệm cũng có thể đạt đến mục đích vãng sanh. Một niệm hoặc mười niệm, theo nghĩa này Chi bổn gọi đây là một ngày một đêm hoặc mười ngày mười đêm. Nói cho rốt cùng ý nghĩa của một niệm nhứt tâm thanh tịnh thì ý nghĩa đây một niệm là một ngày đêm, mười niệm là mười ngày đêm. Không luận là một niệm hay mười niệm đều là ước định của thời gian tâm chánh định mà nói. Kinh Vô Lượng Thọ nói đến vãng sanh Tịnh độ, đặc biệt chú trọng “lâm mạng chung thời”, điều này ảnh hưởng rất lớn đến Tịnh độ tông Trung Hoa. Kinh Ban Chu Tam Muội chú trọng đến thời khắc thường nhựt tu hành, bình thời thấy Phật, được như thế là điều xác chứng rằng hành giả được vãng sanh. Còn kinh Vô Lượng Thọ thì lại chú trọng đến “lâm mạng chung thời” mà thấy Phật thì được vãng sanh. Muốn cầu vãng sanh thì trước tiên phải thấy Phật, có thấy Phật rồi sau mới có thể vãng sanh. Về điểm này, ta thấy kinh Ban Chu Tam Muội và kinh Vô Lượng Thọ đồng nhứt. Hiện tiền thấy Phật là minh chứng hành giả có kỳ vọng vãng sanh Tịnh độ. Về điểm này có ba hạng người không đồng, nên sự thấy Phật theo đó lại cũng không đồng. Người thượng phẩm thì được Phật A Di Đà và hải hội đại chúng đến nghinh tiếp. Người trung phẩm thì thấy Phật và Bồ tát hóa thân đến tiếp dẫn, hoặc là hành giả trong tâm hiện thấy tướng Phật và Bồ tát, điều này gần với định cảnh kiến Phật. Người hạ phẩm, khi mạng lâm chung tâm thần hoảng hốt giống như mộng thấy Phật.

Đối với việc thấy Phật vãng sanh về ba phẩm, Chi bổn nói: Không những khi mạng sắp lâm chung mới thấy Phật, mà đặc biệt những hành giả sẽ được thượng phẩm trung phẩm sớm cũng đã thấy Phật trong các giấc chiêm bao. Điều này cũng gần với việc niệm Phật thấy Phật ở kinh Ban Chu Tam Muội, nhưng chỉ có khác một điều là kinh Ban Chu nói trong định thấy Phật. Nói về ba hạng vãng sanh, với việc này, Vương bổn lập thuyết nhầm lẫn không thích hợp với nghĩa gốc của kinh Vô Lượng Thọ, chẳng hạn như: a- Chi bổn nói một ngày một đêm hoặc mười ngày mười đêm, thì Đường bổn, Khang bổn nói một niệm hoặc mười niệm, đây đều là ước định thời gian mà nói, trong lúc đó Vương bổn lại đổi là mười tiếng niệm Phật. Đây là nguyên do vì khi Vương Long Thơ hoằng dương pháp môn Tịnh độ thì sớm đã “xưng niệm danh hiệu Phật”. Nhưng thực chất cốt tủy của kinh Vô Lượng Thọ có sự biến đổi lớn lao lắm rồi. b-Đường bổn và Khang bổn khi nói về ba hạng vãng sanh thì chính hành giả đều phải phát tâm bồ đề mới có thể vãng sanh. Chi bổn tuy không nói về việc cần phải phát tâm bồ đề, nhưng cũng không nói người cầu vãng sanh không cầu phát tâm bồ đề. Vương bổn có nói đến hạng người hạ phẩm “Chẳng phát tâm bồ đề cũng có thể vãng sanh”. Đây là điều biến hóa to lớn đối với nghĩa căn bản của kinh Vô Lượng Thọ.

Vãng sanh Tây phương Tịnh độ là pháp môn đại thừa. Đại thừa pháp được lập nên từ sự phát tâm bồ đề. Nếu lìa sự phát tâm bồ đề thì không thành pháp đại thừa. Vì vậy, cho nên trong Luận Tịnh độ của Thế Thân Bồ tát nói: “Nhị thừa chủng bất sanh”. Có nghĩa là hạng nhị thừa Thanh văn tâm bồ đề không sanh thì không vãng sanh về Tịnh độ. Tây phương cực lạc thế giới là nhứt thừa Tịnh độ. Hành giả sanh về cực lạc thế giới đối với đạo quả vô thượng bồ đề đều được bất thối chuyển. Vì vậy, nhứt tâm niệm Phật, cầu sanh Tịnh độ, phát bồ đề tâm, những thứ này chánh thực là điều kiện căn bản ắt có và đủ của pháp môn Tịnh độ. Nếu hành giả thiếu thì thật khó thành tựu nguyện vãng sanh. Kinh Vô Lượng Thọ cũng nói như vậy.

4) Kinh Quán Vô Lượng Thọ Phật: kinh này là một trong ba kinh Tịnh độ. Kinh Quán Vô Lượng Thọ ảnh hưởng rất lớn đến tư tưởng Tịnh độ Trung Hoa. Kinh này được dịch rất chậm vào thời Lưu Tống, ngài Khương Lương Gia Xá dịch. Kinh này minh xác nghĩa lý khai tông rằng: “Muốn sanh về cõi nước cực lạc kia phải tu ba phước; Một là hiếu dưỡng phụ mẫu, phụng dưỡng sư trưởng, từ tâm không sát, tu thập thiện nghiệp. Hai là thọ trì tam quy, đầy đủ các giới, không phạm oai nghi. Ba là phát tâm bồ đề, tin sâu nhơn quả, đọc tụng đại thừa, khuyến tấn hành giả. Ba việc trên đây gọi là tịnh nghiệp. Ba thứ nghiệp này chính là chánh nhơn tịnh nghiệp của chư Phật ba đời quá khứ, hiện tại và vị lai”. Ba việc trên đây: việc thứ nhứt là chung cho cả hạnh lành thế gian; việc thứ hai là chung cho cả ba thừa và việc thứ ba là hạnh lành của đại thừa. Ba sự việc này là chánh nhơn căn cốt của hành giả cầu vãng sanh Tịnh độ. Đáng tiếc, về sau hành giả Tịnh độ bỏ chánh nhơn mà thiên lệch chấp lấy trợ nhơn, tức là lầm nhận phương tiện làm cứu cánh. Chơn nghĩa của pháp môn Tịnh độ là tịnh hóa thân tâm và thế giới, đây mới là thực hiện trọn vẹn ý nghĩa của Tịnh độ. Miệng niệm Phật bô bô mà lòng không tu sửa thì đó chỉ là hình thức luổng công vô ích.

Kinh này còn nói về thứ lớp của Thiền quán, quán y báo chánh báo trang nghiêm của Phật A Di Đà, phát nguyện hồi hướng tổng cộng có mười sáu phương pháp quán. Pháp quán đầu tiên là quán mặt trời lặn, tức cho mặt trời lặn là hình ảnh của hoa Mạn Đà La, từ đây quán thành cực lạc y báo chánh báo trang nghiêm của thế giới cực lạc. Pháp quán thứ tám là tưởng tượng Vô Lượng Thọ Phật, tức là tổng quán các tướng trang nghiêm của Phật. Pháp quán thứ chín là quán khắp tất cả tướng, tức là quán từ thân sắc tướng hảo đến quán tâm Phật từ bi, pháp thân công đức bao la trùm khắp. Pháp quán mười bốn, muời lăm, mười sáu thấu rõ ba phẩm vãng sanh. Trong ba phẩm thượng, trung, hạ của Tây phương cực lạc mỗi phần lại chia làm ba, cộng chung thành chín phẩm. Các nhà Phật học thường căn cứ vào đó làm chín phẩm vãng sanh. Đối chiếu so sánh kinh Quán Vô Lượng Thọ Phật và kinh Vô Lượng Thọ Phật thì rõ ràng thái độ của kinh Quán Vô Lượng Thọ có phần khoan dung hơn, mang tinh thần nhiếp cơ rộng rãi hơn.

Người vãng sanh Tịnh độ thượng phẩm đều là người phát bồ đề tâm. Căn bản của sự phát bồ đề tâm gồm có: Một là tâm chí thành. Tâm chí thành như kinh Duy Ma Cật gọi đó là trực tâm. Hai là thâm tâm. Ba là tâm hồi hướng phát nguyện. Như phát tâm từ không sát sanh hình thành đầy đủ các giới hạnh, tụng đọc các kinh điển đại thừa phương đẳng, tu hành lục niệm hồi hướng phát nguyện. Lục niệm gồm: Niệm Phật – Niệm Pháp – Niệm Tăng – Niệm Giới – Niệm Thí – Niệm Thiên. Đây là nhơn hạnh của thượng phẩm thượng sanh.

Người vãng sanh thượng phẩm trung sanh cơ hồ như không thể có thiện duyên đọc tụng kinh điển đại thừa phương đẳng nhưng lại hay thấu rõ đệ nhứt nghĩa đề, thâm tín nhơn quả không hủy báng đại thừa.

Người vãng sanh thượng phẩm hạ sanh thì phát tâm cầu vô thượng đạo, tín nhơn quả không hủy báng đại thừa. Hành giả cầu sanh thượng phẩm thì cần ba nghiệp đều thanh tịnh. Người tịnh lành cầu vãng sanh thượng phẩm thì cần tu hành các giới, không tạo ngũ nghịch, không có điều lầm lỗi. Nếu cầu trung phẩm trung sanh thì phải thường phát nguyện tu một ngày một đêm trì trai giữ giới thanh tịnh. Cầu trung phẩm hạ sanh thì hiếu dưỡng cha mẹ, làm việc nhơn từ, khi mạng lâm chung được nghe thấy y báo chánh báo trang nghiêm của Phật A Di Đà mà phát tâm vãng sanh.

Cầu sanh hạ phẩm thượng sanh là hạng người thiếu hiểu biết tu tập, nhưng không hủy báng Tam bảo, không nghi chê kinh điển đại thừa. Người sanh hạ phẩm trung sanh là người giới hạnh không tinh nghiêm, tham đồ vật của tăng chúng, vì danh lợi mà thuyết pháp, nhưng có tâm cầu sanh Tịnh độ. Sanh về hạ phẩm hạ sanh là hạng ít làm việc thiện, vụng tu, làm việc chẳng lành, có thể phạm tội ngũ nghịch thập ác, nhưng biết ăn năn sám hối hồi tâm hướng thiện, có tâm chí thành cầu sanh Tịnh độ. Những người hạ phẩm này phần nhiều là kẻ thường ngày thiếu tu tịnh nghiệp, nghiệp chướng sâu dày, nghiệp ác dẫy đầy thì làm sao khi mạng sắp lâm chung lại có được thiện duyên nhờ thiện tri thức khuyến hóa chấp tay niệm Nam Mô A Di Đà Phật để có thể vãng sanh? Điều này trong kinh Phật cho là thật khó hiểu khó biết. Nếu không thấu rõ ý nghĩa kinh Phật thì tự mình lầm lẫn dối mình và khiến lầm lẫn người khác.

Chỗ luận giải chỉ bày của kinh Quán Vô Lượng Thọ và kinh Vô Lượng Thọ có ba điểm không đồng:

* Thứ nhất, kinh Vô Lượng Thọ nói người vãng sanh Tịnh độ đều phải phát bồ đề tâm. Trong lúc đó kinh Quán Vô Lượng Thọ nói người vãng sanh từ trung phẩm trở xuống đều là chưa phát bồ đề tâm.

* Thứ hai, kinh Vô Lượng Thọ nói chỉ trừ người bài báng Phật pháp, phạm tội ngũ nghịch thập ác thì mới không vãng sanh. Trong khi đó kinh Quán Vô Lượng Thọ nói kẻ ác nếu khi sắp mạng chung mà có được thiện tri thức khuyến hóa thì cũng sẽ được vãng sanh hạ phẩm.

* Đối với người ác, kinh Vô Lượng Thọ Phật trong phần A Di Đà Phật nguyện văn đã từng nói “đời trước tuy làm ác mà đời nay biết hối cải làm lành tu hành thì cũng được vãng sanh hạ phẩm”, chứ không phải nói người đời nay làm ác, phạm tội ngũ nghịch thập ác v.v… mà được vãng sanh đâu! Trong lúc đó kinh Quán Vô Lượng Thọ nói người ác cũng có thể vãng sanh hạ phẩm hạ sanh. Từ đây ta có thể nhận thấy kinh Quán Vô Lượng Thọ có tinh thần nhiếp hóa rất rộng lớn. Như thế theo tinh thần kinh Quán Vô Lượng Thọ thì thường ngày không biết phát tâm bồ đề, không tu Phật pháp, làm điều tội lỗi, chỉ cần lúc lâm chung biết ăn năn hối cải, gặp thiện tri thức khuyến hóa hộ niệm cũng có thể được vãng sanh.

Với ý nghĩa đặc thù của tôn giáo về cách thiết lập phương tiện giáo hóa như trên đây không làm cho nhơn loại tuyệt vọng trong niềm an ủi. Nếu nói một cách khẳng định rằng hạng người tội ác không có cách nào vãng sanh, nói như thế đứng trên ý nghĩa đại từ đại bi lợi tha cứu thế của Phật, Bồ tát “chúng sanh vô biên thề nguyện độ” thì cũng không trọn vẹn. Bất cứ hạng người nào, hễ đã chân thật hồi tâm sám hối phát lòng hướng thiện thì nhất định có được một tương lai sáng lạn. Như đại thừa Phật pháp nói: định nghiệp cũng có thể chuyển đổi. Do đó chúng ta có thể có được biện giải như thế này: ngũ nghịch thập ác thì không thể vãng sanh, nếu không hồi tâm hướng thiện chí thành phát nguyện cầu sanh Tịnh độ. Kinh Quán Vô Lượng Thọ nói: kẻ làm nhiều điều tội lỗi như tội ngũ nghịch thập ác, nếu khi sắp chết mà biết hồi tâm thì cũng có thể vãng sanh hạ phẩm hạ sanh.

Tịnh Độ đối với chúng sanh ba nghiệp đều độ khắp. Đại thừa thì thực hành hạnh nguyện độ chung cả ba thừa, ngũ thừa, cho đến những kẻ làm ác đáng đọa địa ngục cũng đều có thể được nhiếp thọ hồi hướng. Đây là đứng trên lập trường đại thừa từ bi khắp lợi ích chúng sanh, trong ý nghĩa thiện ác do tâm tạo. Đại phàm hễ kẻ biết hồi tâm hướng thiện quy hướng về quang minh vĩnh hằng tự tánh và Phật đạo thì đương nhiên có thể đi vào tân sinh lộ đồng lên Tịnh độ. Nhưng có một điều trở ngại lớn lao mà ta không thể lầm lẫn! Ấy là thường ngày chưa từng nghe Phật pháp hoặc suốt đời sống trong gia đình tà kiến chìm đắm trong hoàn cảnh vi ác, hoặc phiền não quá nhiều, hoàn cảnh quá xấu, tuy làm ác như thế nhưng tâm lành không đoạn dứt. Đợi đến khi sắp chết được thiện tri thức khuyến hóa, nhơn đó liền khởi tâm ăn năn sám hối, khổ tâm hổ thẹn những lỗi lầm trước đây, hiện tượng như thế là căn cơ của người vãng sanh hạ phẩm. Hoặc có hạng người sớm đã làm Sa môn, cư sĩ nghe biết Phật pháp thậm chí biết giảng nói Phật pháp, biết thế nào là thiện, thế nào là ác, mà vẫn tánh nào tật ấy làm ác, thích chuyện thị phi, rồi tưởng rằng khi sắp chết chỉ cần niệm Phật một niệm cho đến mười niệm là được vãng sanh, đây là một điều lầm lỗi rất to lớn. Hoặc lại có quan niệm sai lầm tai hại rằng, tất cả đều không quan trọng, chỉ quan trọng lúc lâm chung niệm mười niệm là được vãng sanh, như thế thì cần gì phải khổ công hằng ngày niệm Phật! Rồi lại tưởng một câu Nam Mô A Di Đà Phật là có được tất cả như ý muốn. Hạng người nghĩ tưởng như vậy, nên tuy là ở trong Phật pháp mà không thật sự có tâm gắng công tu bồi công đức, trì trai giữ giới, đối với người cũng như đối với Phật pháp thường có hành vi tâm niệm ngôn ngữ hồ đồ điên đảo của kẻ phàm tình. Những kẻ như thế không những không khuyến hóa được người làm thiện mà trái lại khiến cho người làm ác, khinh thường Phật pháp, xem nhẹ việc tu hành. Những người như thế, kinh Quán Vô Lượng Thọ nói rất rõ ràng: “Kẻ ác mà được vãng sanh, là trừ phi sắp chết không có cách nào khác hơn chỉ còn có cách duy nhất là biết hồi tâm hướng thiện, chánh tâm mười niệm, khi sắp lâm chung họa hoằng mới có công năng hiệu quả”. Điều này, hành giả chớ vội nghĩ rằng, hằng ngày mình tu hành niệm Phật và khuyên mọi người cùng tu niệm Phật là việc làm quá ư đầy đủ. Nghĩ như thế thật là sai lầm. Chẳng khác nào gặp năm hạn hán thất mùa bất đắc dĩ phải ăn trấu để sống, đến những năm được mùa có gạo khoai đầy dẫy rồi lại cho là dư thừa, nghĩ như thế há chẳng phải thật là điên đảo lắm ư?

Kinh Quán Vô Lượng Thọ vốn là pháp môn niệm Phật quán y báo chánh báo trang nghiêm của Phật A Di Đà. Nhưng thượng phẩm trung sanh là chú trọng nơi sự phát nguyện hồi hướng của thiện căn công đức, ngoại trừ trung phẩm hạ sanh cho những người hiền lành không tu học Phật pháp, hoặc cho những người hoặc ít hoặc nhiều, hoặc lâu dài hoặc tạm thời tu quán. Đối với trung phẩm hạ sanh hoặc hạ phẩm, ngoài sự phát nguyện hồi hướng ra, còn phải chú trọng đến xưng danh niệm Phật. Nghĩa là hằng “chấp tay cung kính xưng danh Nam Mô A Di Đà Phật”. Bởi vì khi mạng sắp chết không có cách nào dạy họ quán tưởng. Y cứ vào kinh Quán Vô Lượng Thọ thì việc xưng danh niệm Phật cũng chỉ vì cho tất cả kẻ ác khi sắp lâm chung tạo duyên vãng sanh mà mở phương tiện pháp môn cho họ. Những hành giả Tịnh độ về sau này, bất luận là hạng người nào, chỉ khuyên dạy người niệm Nam Mô A Di Đà Phật, đây đâu phải là bổn ý của kinh Quán Vô Lượng Thọ? Đương nhiên pháp môn xưng danh niệm Phật không chỉ dành riêng cho người khi mạng sắp lâm chung, mà pháp môn này xưa kia vốn đã có rồi, cho tất cả hành giả Tịnh độ chứ đâu phải pháp môn phương tiện này do người Trung Hoa sáng tạo ra?

5) Kinh Cổ Âm Thịnh Vương Đà La Ni : kinh này nói pháp môn Tịnh độ ngoài việc xưng danh niệm Phật còn có trì chú. Việc này rất gần gũi với Mật tông. Đời Tống có cư sĩ tên Cương Lương Gia Xá đem chú vãng sanh truyền cho hành giả Tịnh độ nói rằng: Thần chú này hay diệt trừ các tội như tứ trọng tội, ngũ nghịch, thập ác v.v… Kinh Cổ Âm Thinh Vương Đà La Ni mở bày pháp môn niệm Phật mười ngày mười đêm, lại thêm trì tụng mười ngày mười đêm Cổ Âm Thịnh Vương Đà La Ni. Do đó, ngày nay những hành giả Tịnh độ sau khi niệm Phật lại còn niệm thêm chú vãng sanh.

VIII. XƯNG DANH VÀ NIỆM PHẬT

Ở Trung Hoa, hành giả về pháp môn Tịnh độ đem việc xưng danh và niệm Phật hợp chung làm một. Nhưng trong kinh điển thì nói rõ ràng rằng niệm Phật là niệm Phật và xưng danh là xưng danh, xưa nay mỗi việc phân minh như vậy. Nói đến Phật pháp thì vốn chỉ có một pháp vị. Nói đến giáo chỉ đạo sư thì chỉ có y theo đức Phật Thích Ca giáo hóa làm gốc. Vì thích ứng với cơ nghi của chúng sanh tiểu tâm tiểu hạnh nên Ngài thuyết giảng tiểu thừa pháp. Còn đối với hạng người đại tâm đại hạnh thì Ngài giảng đại thừa pháp. Tuy pháp môn có đại có tiểu khác biệt mà ý nghĩa Phật pháp, căn nguyên pháp vị suối nguồn giác ngộ vẫn là một. Niệm Phật và xưng danh cũng mang tinh thần như thế.

Niệm Phật là quán tưởng, là thiền quán, là niệm Phật tam muội Đây là phương pháp chung cho cả đại thừa lẫn tiểu thừa. Luận Đại Trí Độ quyển bảy nói: “Niệm Phật tam muội có hai thứ: 1- Pháp Thanh văn: phương pháp này đối trước một hình tượng Phật quán tưởng tâm mắt thấy mười phương. 2- Pháp Bồ tát: phương pháp này là nhứt tâm quán tưởng vô lượng cõi Phật, niệm ba đời mười phương Phật”. Đại thừa và tiểu thừa trên căn bản có sự sai biệt, nên từ đó có nhận thức sai biệt, có mười phương Phật và không có mười phương Phật. Hành giả Mật tông thì tu quán sắc thân Trời, họ quan niệm đó cũng là niệm Phật tam muội. Chẳng qua bổn tôn pháp môn tu của họ là từ thân Phật mà chuyển làm thân Bồ tát, rồi từ thân Bồ tát mà chuyển làm hình tướng thần giận dữ hung tợn của Dạ Xoa, La Sát. Vì vậy mà không nói là quán Phật mà nói tu thiền. Ở trong tam muội thấy Phật, Phật vì họ mà quán đảnh nói pháp, về điểm này thì đại thừa và tiểu thừa, hiển giáo và mật giáo đều như nhau.

Ngài Cưu Ma La Thập dịch kinh Thiền Bí Yếu Pháp quyển Trung, nhằm vào điều quán thứ mười tám; kinh Tọa Thiền Tam Muội quyển Thượng phần Pháp Trị Đẳng đều là nói về niệm Phật tam muội của Thanh văn. Phần quyển Hạ của hai kinh này đều thuyết minh về đại thừa niệm Phật tam muội, chuyên niệm pháp thân thập phương Phật sanh thân. Lại như trong quyển Tư Duy Lược Yếu Pháp nói về các pháp “đắc quán tượng định”, “sanh thân quán pháp”, “pháp thân quán pháp”. Những pháp này đều là chung cho Thanh văn thừa. Kế đó, sách còn nói về “thập phương chư Phật quán pháp”, “quán vô lượng thọ Phật pháp”. Đây là pháp môn của đại thừa niệm Phật tam muội. Bộ Ngũ Môn Thiền Kinh Yếu Dụng Pháp do Ngài Đàm Ma Mật Đa dịch. Bộ này thuyết minh về cả đại lẫn tiểu thừa niệm Phật tam muội. Hành giả muốn biết thứ lớp về việc tu hành niệm Phật tam muội thì nên tìm đọc những bộ kinh này. Kinh Ban Chu Tam Muội cũng nói thứ lớp về việc tu thiền đạt định chứng quả, hành giả có thể y cứ vào đó để tu thiền quán tam muội. Ở kinh Quán Vô Lượng Thọ phần thứ mười sáu nói về phương pháp quán mặt trời lặn như hoa Mạn Đà La, nhơn đây hành giả sanh khởi niệm y báo chánh báo trang nghiêm của thế giới cực lạc. Những phương pháp này đều là quá trình tu hành niệm Phật tam muội. Đây là chuyên tu định huệ mới có thể thành tựu.

Hành giả trì danh niệm Phật, kinh luận gọi phương pháp đây là xưng danh. Xưng danh vốn không phải là phương pháp tu hành của Phật giáo, mà là nghi thức tôn giáo sinh hoạt hằng ngày của đệ tử Phật. Như đệ tử Phật phát tâm quy y Tam bảo, khi thực hiện lễ quy y thì kính lễ xưng niệm nam mô Phật, nam mô Pháp, nam mô Tăng. Thanh văn và đại thừa giáo thì có thập phương Phật, như thế thì nên hiểu ngay rằng xưng Nam Mô…Phật là tùy tâm sở thích. Đệ tử Phật thường thì xưng danh, đặc biệt là khi kính lễ Phật. Vì vậy các hành nghi xưng danh hiệu Phật, lễ kính chư Phật, xưng dương tán thán Phật đều có quan hệ nhau, đều xuất phát từ tâm niệm thành kính với ý hướng trở về nương tựa, mà biểu hiện bằng hành vi nơi thân miệng.

Niệm Phật, kinh A Hàm vốn đã có nói: như niệm Phật, niệm Pháp, niệm Tăng là Tam tùy niệm. Hoặc thêm nữa là niệm Thí, niệm Thiên, niệm Giới gọi chung là Lục Niệm pháp môn. Kinh Quán Vô Lượng Thọ Phật cũng có đề cập đến sáu pháp niệm này. Đây là phương pháp niệm buộc tâm suy nghĩ. Căn cứ trong kinh luật nói: đệ tử Phật khi bệnh khổ, hoặc khi ở đồng hoang cô độc một mình, hoặc khi ly biệt người thương thận, hoặc khi gặp phải khủng bố uy hiếp, trong những trường hợp bất xứng ý này, đức Phật liền khai bày pháp môn niệm Phật. Phật có vô lượng công đức, tướng hảo trang nghiêm, đại từ đại bi, nên khi niệm Phật thì cảm thấy có sức hùng vĩ gia hộ che chở. Bệnh khổ, uy hiếp, lo sợ v.v…các thứ thống khổ đó tự nhiên nhờ sức nhứt tâm niệm Phật mà tiêu trừ. Người buồn lo khổ, sợ hãi mà quán thấy đức tướng Phật quang minh trang nghiêm tự tại viên mãn, thì nỗi buồn lo khổ não sợ hãi tự nhiên tiêu trừ và tâm thần trở nên thanh thản an ủi. Sự kiện này có chung hầu hết cho các tôn giáo, nhưng Phật giáo thì gần gũi hợp với tình người, hợp với nhân tánh hơn, nên pháp môn niệm Phật tất nhiên phải có trong kinh điển.

Trong hoàn cảnh nhơn sanh thế cuộc, đời nào cũng thế, lòng người mong tìm sự an ủi, nơi nương tựa tinh thần, nên niệm Phật là pháp môn tự nhiên khiến cho người xưng hô danh hiệu Phật. Thế gian cũng có hiện tượng này. Chẳng hạn khi gặp phải hoàn cảnh khó khăn hoạn nạn không thể nào khắc phục tránh thoát được, thì nghĩ đến cha mẹ, thì thốt lên tiếng kêu cha ơi, mẹ ơi hoặc kêu ông bà ơi, gọi đến người mà người đó thân thiết nhất với mình, như thể là cảm thấy tinh thần có nơi nương tựa, có sự san sẻ, theo đó khổ đau có phần giảm bớt ít nhiều. Tục ngữ thường nói “người đau kêu trời”, thì tình trạng tâm lý này đây cũng đồng với ý nghĩa niệm Phật. Vì vậy, nên chi con người gặp phải khốn đốn hoạn nạn khổ đau nguy hiểm thì dễ dàng phụng hành pháp môn niệm Phật, miệng liền niệm nam mô Phật. Như thế, xưng danh và niệm Phật là phương pháp rất tự nhiên phát triển trong Phật pháp. Vả lại những chuyện được truyền về những người trong cơn hoạn nạn mà thành khẩn niệm Phật được thoát nạn, cứu nạn thì như ở Ấn Độ, Trung Hoa, Nhựt Bổn, Việt Nam v.v… nơi nào có Phật giáo đều có hiện tượng này. Nay lược nêu ra đây vài chuyện để làm ví dụ:

a) Câu chuyện thứ nhứt là “Hải Sanh Thương Chủ Duyên” được trích từ kinh Bách Duyên Tuyển Tập quyển chín. Truyện rằng: Hải Sanh là đại thương gia đang lúc đi hành nghề hàng hải, trên biển cả gặp phải sóng to gió lớn dữ dội thuyền trôi lạc vào nước quỷ La Sát, ông hoảng sợ liền niệm nam mô Phật, nam mô Phật … thì liền được thoát nạn không bị chìm thuyền quỷ hại.

b) Câu chuyện thứ hai là “Thi Lợi Bật Đề Duyên và Phú Na Kỳ Duyên” trong kinh Hiền Ngu Nhơn Duyên quyển bổn và quyển sáu, nói hai người này khi ra biển cả gặp phải tai nạn cá to hung dữ hãm hại, khi đó không còn chỗ nương, nên các ông chí thành niệm Nam mô Phật… liền được thoát nạn an toàn.

c) Câu chuyện thứ ba là xưng “Nam mô Phật Đức Duyên La Hán”. Truyện này được trích dẫn từ bộ Luận Mã Minh .Đại Trang Nghiêm quyển thứ mười. Truyện rằng: có người đến cầu xin xuất gia, tôn giả Xá Lợi Phất và tăng chúng nghĩ rằng người này không có căn lành nên không cho. Nhưng ngay sau đó người ấy được đức Phật độ cho xuất gia, chẳng bao lâu chuyên tâm tu tập đắc quả A la hán. Đức Phật nhơn đó mới nói: ông này ở trong thời quá khứ, có một kiếp nọ, khi gặp cọp trong hoàn cảnh hiểm nguy thập tử nhất sanh, tâm hoảng hốt miệng liền niệm nam mô Phật, nhơn đó mà trồng chủng tử lành, ngày nay gặp ta xin xuất gia, chuyên tu đắc đạo. Kinh Pháp Hoa nói: “Hễ xưng nam mô Phật, đều sẽ thành Phật Đạo”. Hai bộ kinh trên có khác nhau mà ý nghĩ tương đồng.

Như thế đủ thấy rằng, hễ thành tâm xưng niệm danh hiệu Phật không những thoát khỏi được khổ nạn mà còn trồng căn lành, còn có cơ duyên phát tâm tu hành thành đạo. Trong đại thừa Phật giáo gọi xưng danh niệm Phật tức là trừ được nhiều kiếp ác nghiệp mà còn là nhơn duyên sanh về Tịnh độ. Những chuyện vừa dẫn trên đây không phải chỉ đại thừa mới có mà tiểu thừa cũng có. Xưng niệm Phật danh là một hành vi tôn giáo rất phổ biến trong đạo Phật.

Miệng niệm nam mô Phật là biểu thị sự thành tâm quy y lễ kính cầu Phật hộ trì. Để chứng minh điều này, nay xin dẫn hai kinh: 1- Kinh A Súc Phật Quốc ở phần Bất Động Phật Quốc Hội có nói: Đại chúng trong pháp hội khi nghe Phật Thích Ca Như Lai nói đến cõi nước của Phật A Súc vô cùng thanh tịnh trang nghiêm, liền quay mặt hướng về đức A Súc Như Lai kia chấp tay đảnh lễ mà đồng xưng niệm to “Nam Mô Bất động Như Lai”. Nhờ nguyện lực của Đức Phật Thích Ca mà đại chúng liền thấy xa xa cõi nước Diệu Hỷ của Phật A Súc và chúng Thanh văn nước đó. 2- Kinh Vô Lượng Thọ Phật nói: Ngài Di Lặc Bồ tát nghe đức Phật nói thế giới cực lạc trang nghiêm quá chừng, lòng khởi vui mừng muốn được thấy cảnh Tây phương cực lạc, đức Phật liền dạy Di Lặc rằng: “ông nên hướng về mặt trời lặn, đó là nơi đức Phật A Di Đà, mà hết lòng thành kính đầu thân đảnh lễ sát đất, miệng niệm Nam Mô A Di Đà Phật ba lần lạy. Như thế thì cực lạc thế giới sẽ hiện rõ ràng trước mặt”. Điều này tuy không phải là tiêu trừ hết được hoạn nạn, nhưng cũng là bao gồm ý nghĩa cầu Phật gia hộ.

Giáo pháp tiểu thừa thì chỉ xưng Nam Mô Phật. Giáo pháp đại thừa thì lại xưng niệm trọn rõ danh hiệu Phật, như: Nam Mô A Di Đà Phật, Nam Mô Thích Ca Mâu Ni Phật, Nam Mô A Súc Phật, Nam Mô Dược Sư Phật. Theo truyền thuyết nhơn duyên và chứng cứ kinh điển đại thừa thì thấy rằng xưng niệm Phật danh được phổ biến trong giới Phật giáo. Nhưng chẳng qua dùng xưng danh là pháp môn tu hành trọng yếu trong Phật giáo, thì điều này đặc biệt ta thấy ít có trong giáo pháp tiểu thừa Thanh văn. Trong các kinh đại thừa như kinh Ban Chu Tam Muội, kinh Bạt Đà Bồ tát, kinh Đại Tập phần Hiền Hộ đều khuyên hành giả “nên niệm danh hiệu ta” (đương niệm ngã danh). Với lời khuyên đó cũng là mục đích để nhiếp tâm chánh niệm. Đến như kinh Vô Lượng Thọ Phật, kinh Quán Vô Lượng Phật cũng đều khuyên hành giả niệm Phật “thường niệm Phật” cũng với ý nghĩa là chuyên nhớ từ dung, nhiếp niệm chánh tâm. Người sắp chết mà còn biết xưng danh hiệu Phật thì được vãng sanh hạ phẩm hạ sanh. Điều này chỉ thấy trong kinh Quán Vô Lượng Thọ.

Trong Luận Thập Trụ Tỳ Bà Sa quyển năm khi nói về phương thức hành đạo, Ngài Long Thọ nói: “Khó hành đạo-Dễ hành đạo”. Dễ hành đạo cũng là niệm Phật. Ở đây nói đến niệm Phật là y theo kinh Đại Thừa Bảo Nguyệt Đồng Tử Sở Vấn thì: “nên nghĩ nhớ niệm danh hiệu mười phương chư Phật”. Hoặc xưng niệm danh hiệu Phật A Di Đà v.v… hoặc thêm nữa là xưng niệm danh hiệu mười phương chư vị Bồ tát. Trong kinh đại thừa Phật giáo còn đề cập đến pháp môn xưng danh sáu phương sáu Phật, thất Phật, mười phương Phật v.v…Xưng niệm danh hiệu Phật và Bồ tát là phương tiện tu hành của người tu học Phật. Điều này rất thạnh hành ở thời đại Long Thọ Bồ tát.

Từ trước đến nay nói về pháp môn xưng niệm danh hiệu Phật bao gồm hai ý nghĩa: 1-Khi nguy cấp thống khổ không có cách nào hơn là khuyên niệm danh hiệu Phật. 2- Khả năng trí lực yếu kém khó tu học pháp môn cao sâu, nên đặc biệt mở bày pháp môn phương tiện mở miệng liền biết niệm, ấy là pháp môn tu học dễ dàng. Sách Ngoại Quốc Ký được viết vào thời nhà Tấn, trong đó có đoạn ghi rằng: “Người nước An Tức (nước Iran ngày nay) không hiểu Phật pháp, sống nơi biên địa, tâm trí chất phác. Lúc bấy giờ có chim Oanh Vũ sắc vàng điểm xanh trắng thường đậu nơi cành cây kêu lên: nếu muốn nuôi ta thì xướng danh hiệu Phật. Vua quan dân chúng thấy thế lấy làm lạ mới bảo nhau răng, đây là Phật A Di Đà hóa thân làm chim để nhiếp dẫn dân biên địa, há chẳng phải là ngay hiện đời khuyến hóa nếu ai niệm Phật thì được vãng sanh ư? Do đó ngày trai vua, quan, dân chúng nước An Tức tu niệm Phật rất đông”. Câu chuyện trên đây là chứng minh pháp môn niệm Phật thật phổ biển. Đến đời Hán và Tam Quốc các cao tăng miền Tây Bắc Ấn Độ đến Trung Hoa dịch thuật kinh điển và đều truyền bá pháp môn Tịnh độ. Thế nên, tu pháp môn xưng danh niệm Phật không cần phải vận dụng trí năng thông đạt thấu hiểu lý nghĩa đại thừa về những pháp thật tướng Bát Nhã thâm sâu. Vì tánh chất phổ thông, nên pháp môn niệm Phật được phổ biến rộng lớn.

Từ pháp định tâm niệm Phật của kinh Ban Chu Tam Muội đến pháp định tâm và tán tâm niệm Phật của kinh Vô Lượng Thọ cho đến pháp thập lục quán của kinh Quán Vô Lượng Thọ, thậm chí phép mạng sắp lâm chung xưng danh niệm Phật đều là phương pháp dễ thực hành cho khắp cả mọi trình độ hành giả. Từ bất đắc dĩ xưng danh niệm Phật cho đến biết tin Tam bảo xưng danh niệm Phật đều rất quý. Nhưng đứng về phương diện hoàn mãn thâm sâu Phật pháp mà nói thì nên cầu hướng thượng tiến bộ không ngừng trong phương pháp tu chứng.

Ngược dòng về quá trình diễn tiến của pháp môn niệm Phật Trung Hoa, ta thấy khởi đầu từ núi Lô Sơn với Thập Bát Cao Hiền kết thành Bạch Liên Xã niệm Phật. Nhưng khảo cứu chiều sâu của nó thì pháp môn niệm Phật vẫn chú trọng nơi nhiếp tâm niệm Phật. Như Huệ Viễn Đại Sư trong lúc định đã từng thấy đức Phật A Di Đà. Đây chính là pháp môn trong kinh Ban Chu Tam Muội. Đến thời Bắc Ngụy có Ngài Đàm Loan y theo Luận Vãng Sanh Tịnh độ của Thế Thân Bồ tát mà khởi tâm chú trọng phương pháp xưng danh niệm Phật. Đến thời nhà Đường có truyền thuyết rằng Ngài Thiện Đạo chùa Tịnh Tông Quang Minh niệm một tiếng Phật phóng ra một đạo hào quang, đây là một Đại sư nổi tiếng về xưng danh niệm Phật.

Về sau còn có các Đại sư Pháp Chiếu, Thiếu Khang v.v… không xưng danh mà còn áp dụng phương pháp ngũ hội niệm Phật, tức là vận dụng âm thanh làm Phật sự. Phương pháp này không những chỉ nhiếp hóa hành giả Tịnh độ mà cả đến trẻ con cũng đến tham gia niệm Phật. Do đấy mà trở thành pháp môn xưng danh niệm Phật đặc biệt duy nhất của Trung Hoa. Đến thời nhà Tống từ vua chúa đại thần cho đến thân hào nhân sĩ kết hợp thành Bạch Liên Xã, mỗi lần tập hợp niệm Phật số đến vạn người. Cho đến gần đây có Ấn Quang Đại Sư cùng đồ chúng đều dùng xưng danh niệm Phật làm pháp môn duy nhất để tu tập. Xưng danh niệm Phật được gọi là dễ hành đạo, là bởi vì lập thuyết giáo hóa rất là phổ cập đáng được ca ngợi. Nhưng vì dễ thực hành, vì tính cách phổ cập, nên bên cạnh đó đại hạnh thâm nghĩa của pháp đại thừa cũng dần dần bị quên lãng.

IX. DỄ HÀNH ĐẠO VÀ KHÓ HÀNH ĐẠO

Xưng danh niệm Phật là dễ hành đạo. Đây là nương vào từ bi nguyện lực của Phật A Di Đà nên cũng gọi là tha lực dễ hành đạo. Các Đại sư Tịnh độ tông trước sau đều cùng quan niệm rằng “Mười niệm vãng sanh, siêu thoát ba cõi”. Nhưng khi khảo cứu kinh luận thì thấy phương pháp dễ hành đạo và khó hành đạo lại có nghĩa lý khác. Những vị Đại sư có tâm hoằng dương pháp môn Tịnh độ phần nhiều đều lấy Thập Trụ Tỳ Bà Sa Luận của Long Thọ làm căn cứ, để thuyết minh xiển dương pháp môn niệm Phật thì được gọi là thuộc về dễ hành đạo. Nhưng Long Thọ thì lại y cứ vào kinh Di Lặc Bồ tát Sở Vấn do Bồ Đề Lưu Chi dịch, sau đó đến đời Tây Tấn lại nhập vào kinh Đại Bảo Tích ở phần quyển thứ 111 do Trúc Pháp Hộ dịch. Trong kinh nói: “Di Lặc Bồ tát ở đời quá khứ tu Bồ tát hạnh thường ưa nhiếp thủ Phật quốc, trang nghiêm Phật quốc, còn Thích Ca ta đây thuở xưa tu Bồ tát hạnh thường ưa nhiếp thủ chúng sanh, trang nghiêm chúng sanh”. Từ đây chúng ta có thể biết được sở nhơn tu hành của Thích Ca và Di Lặc có sự khác biệt: Thích Ca sở nhơn tu hành là độ chúng sanh, trong khi đó sở nhơn tu hành của Di Lặc là nhiếp thủ Tịnh độ. Đây chính là chỗ khác nhau giữa khó hành đạo và dễ hành đạo. Nên nói là: “Khi xưa Di Lặc tu Bồ tát hạnh không thể thí xả tay chơn đầu mắt, nhưng dùng phương tiện thiện xảo an lạc đạo hạnh, tích tập vô thượng chánh đẳng bồ đề”. Như thế có nghĩa là Di Lặc không thể làm những việc khó làm, nhẫn những việc khó nhẫn. Tức là nói Di lặc khéo dùng phương tiện thiện xảo an lạc đạo, như bản dịch đời Tấn có nói là Di Lặc Bồ tát khi hành đạo “ngày đêm ba thời chánh nơi hoàn cảnh sống, bước chân xuống đất hướng thập phương mà phát lời kệ rằng: Con xin hối hận tất cả những lỗi lầm đã qua, khuyển khích giúp đỡ những việc đạo đức, thành tâm cúi đầu khắp lễ các đức Phật, khiến được vô thượng huệ”.

Đối với việc này, kinh Bảo Tích nói rộng ra là: Lễ kính chư Phật, sám hối, phát nguyện, tùy hỉ, thỉnh Phật thuyết pháp, thỉnh Phật trụ thế, tùy thuận học Phật Bồ tát đồng với mười đại nguyện vương của Phổ Hiền Bồ tát. Đây là pháp dễ hành đạo.

Ý nghĩa của pháp dễ hành đạo tức là An Lạc Hạnh, lấy nhiếp thủ tịnh Phật quốc độ làm chủ. Còn chỗ nhơn địa tu hành của Phật Thích Ca là khó hành đạo, nên Phật nói là: “Ta xưa cầu đạo chịu khổ vô lượng mới có thể tích tập được đạo quả vô thượng chánh đẳng chánh giác”. Trong kinh điển có nêu lên điểm Phật Thích Ca trong thuở xa xưa tu hành khó khổ để minh chứng Phật đã dùng tâm từ bi cứu độ chúng sanh lìa nơi thống khố. Đây là thể hiện pháp khó hành đạo. Ý nghĩa của khó hành đạo là khổ hạnh tức là hay làm cái khó làm, hay nhẫn cái khó nhẫn. Nhơn đây mà đức Thích Ca đã từng phát tâm nguyện “đối với chúng sanh trong đời ngũ trược ác thế nghiệp căn tham sân sâu nặng, không hiếu kính cha mẹ, không kính trọng sư trưởng cho đến không hòa thuận với bà con quyến thuộc” cũng khuyến hóa họ phát tâm tu hành và cũng sẽ được cùng lúc thành Phật. Còn Di Lặc khi hành đạo Bồ tát cũng lại phát nguyện: “nếu có chúng sanh ít dâm ái, ít giận hờn si mê, thành tựu thập thiện thì được cõi nước thanh tịnh, mới thành chánh giác”. Tuy là đại thừa pháp tương thông, Phật và Bồ tát đều bình đẳng, nhưng kẻ sơ học đại thừa thì không ngại dùng các pháp môn vào đạo. Như phẩm Vãng Sanh trong Trí Độ Luận nói: “Có hai dòng lớn”. Như vậy có nghĩa là trong Luận Trí Độ Ngài Long Thọ nói Bồ tát có hai thứ: “1- Có tâm từ bi phần nhiều là vì chúng sanh. 2- Phần nhiều ưa thích tu tập theo công đức chư Phật đến nhứt thừa thanh tịnh vô lượng thế giới Phật”. Ở đây, chúng ta có thể thấy rằng, Di Lặc đại biểu cho pháp môn Tịnh độ, tức là thực hành thiện xảo phương tiện để tích tập nhiều công đức chư Phật. Bồ tát sơ học Phật đạo có thể thiên trọng một trong những pháp môn: hoặc là lấy việc thành tựu chúng sanh trước, hoặc là lấy việc trang nghiêm Phật độ trước. Lý giải Phật pháp chơn nghĩa thì đây chẳng qua là Bồ tát khi sơ phát tâm tu hành tâm niệm thiên trọng, nên bi trí tăng thượng, hoặc tùy tín hành pháp hạnh v.v… Mà muốn viên mãn cứu cánh đạo quả bồ đề, trang nghiêm Phật quốc, cứu độ chúng sanh, thì không thể khuyết thiếu. Như thế, người tối sơ phát tâm học Phật hạ thủ công phu đại để có hai phương tiện: hoặc khởi đi từ niệm Phật, lễ Phật hạ thủ công phu, hoặc khởi hành từ bố thí, trì giới, nhẫn nhục v.v… hạ thủ. Phương pháp sau là khó hành đạo, là khổ hạnh đại bi lợi ích chúng sanh. Phương pháp trước là dễ hành đạo, là an lạc hạnh thiện xảo phương tiện. Kỳ thực hai phương pháp này đối với chúng sanh căn cơ sai biệt, mà trong quá trình tu học có thể nhứt thống đồng hành.

Dễ hành đạo tức là tập nhiều hạnh Tịnh độ công đức của chư Phật. Kinh Di Lặc Bồ tát Sở Vấn nói là tương đồng với mười đại hạnh nguyện vương của Phổ Hiền. Nhưng trong kinh luận thì không nhứt định là mười việc. Mà tối quan trọng có ba điều: sám hối; tùy hỷ; khuyến thỉnh. Để xác rõ vấn đề này, như kinh Phật Thuyết Văn Thù Hối Quá do Trúc Pháp Hộ dịch thì: sám hối; phát tâm; khuyến trợ. Trong khuyến trợ có tùy thuận học Phật, khuyến thỉnh thuyết pháp, khuyến thỉnh trụ thế, cúng dường. Hành giả thực hành các pháp này lấy sám hối làm chủ. Sách Tư Duy Yếu Lược Pháp do Ngài Cưu Ma La Thập dịch cũng nói: “nếu vì nhơn duyên tội đời trước, niệm Phật không thấy được chư Phật thì nên một ngày một đêm sáu thời sám hối, tùy hỷ, khuyến thỉnh, nhờ đó từ từ tự mình được thấy”. Các nhà về Thiên Thai Tông nhơn đây mà lập Ngũ Hối Pháp. Kinh Mạn Đà Bạt Đà La do ngài Nhiếp Đạo Chơn dịch cũng nói: sám hối; nhẫn (tức là xưng tán Như Lai); lễ bái; nguyện lạc (tùy hỷ); khuyến thỉnh (thuyết pháp, trụ thế); trì thế (hồi hướng). Những điều trên đây tương đồng với kinh Văn Thù, kinh Phổ Hiền và kinh Hoa Nghiêm phẩm Phổ Hiền Hạnh Nguyện.

Đời Đường, ngài Na Đề dịch kinh Ly Cấu Huệ Bồ tát Sở Vấn Lễ Phật Pháp cũng có nói: lễ bái; sám hối; khuyến thỉnh; hồi hướng; phát nguyện. Đây là lấy lễ Phật làm chủ. Trong các bộ luận, ngài Long Thọ cũng nhiều lần nói rõ về pháp hạnh này. Như Luận Thập Trụ Tỳ Bà Sa nói: niệm Phật (bao hàm lễ Phật); sám hối, khuyến thỉnh (thuyết pháp, trụ thế); tùy hỷ, hồi hướng. Ở Ấn độ, những hành giả tu đại thừa Bồ tát hạnh thường là thực hành phương tiện hạnh này. Luận Trí Độ quyển bảy nói: “Bồ tát pháp, ngày ba thời, đêm ba thời, thường hành ba việc, tức là sám hối, tùy hỷ và khuyến thỉnh trụ thế, thuyết pháp. Lại cũng Luận Trí Độ quyển 61 nói: “Bồ tát lễ Phật ba phẩm: một là Hối Quá phẩm, hai là Tùy Hỷ Hồi Hướng phẩm, ba là Khuyến Thỉnh Chư Phật phẩm”. Trên đây đều là thực hành phương pháp lễ Phật nội dung giống với phương pháp sám hối tám mươi tám danh hiệu Phật ở nghi thức Hồng Danh Sám Hối của Trung Hoa. Nói cách giản lược hành giả nên xem mười nguyện văn. Giác Hiền dịch kinh Văn Thù Sư Lợi Phát Nguyện tức là kinh Hoa Nghiêm bốn mươi phẩm. Ở đây, ta thấy sự đặc biệt quan hệ pháp môn Tịnh độ đại thừa cùng với Văn Thù Phổ Hiền Bồ tát. Long Thọ Bồ tát làm bài văn tụng phát nguyện cũng có chỗ tương đồng. Điều này cho ta thấy phương tiện thiện xảo về dễ hành đạo là thiên về ưa làm hạnh Tịnh độ tích tập công đức chư Phật, vốn không hạn ở nơi mười việc. Mười việc là thực hành thuận theo thể tài của kinh Hoa Nghiêm. Mười Đại nguyện vương Phổ Hiền phẩm Hạnh Nguyện: Lễ kính chư Phật, xưng tán Như Lai, quảng tu cúng dường (Phật), cùng với niệm Phật (quán tưởng hoặc xưng danh) giống nhau. Đây là hành nghi đặc thù của tôn giáo. Bởi vì đây là hạnh tu phương tiện tích lũy công đức của Phật bằng cách lập phương tiện sám hối. Ở Ấn Độ, pháp hạnh hành đạo của Bồ tát một ngày sáu thời, nghĩa là thời gian ngắn mà số lần hành đạo nhiều, ý nghĩa cũng giống như Trung Hoa sớm chiều thời khóa công phu Tịnh độ, nhưng chỉ khác ở số lần nghi thức ít mà thời gian dài, mỗi lần hành lễ kéo dài dễ khiến cho người mệt mỏi thối tâm, thực chẳng bằng nhiều lần mà thời gian ngắn, có lẽ hành giả cảm thấy thích thú hơn. Bởi ở Trung Hoa chúng cùng tu số lượng đông, nên không thể không áp dụng số lần ít mà thời gian dài để tránh khỏi mất mát điều dễ hành đạo. Dễ hành đạo (không chỉ là niệm Phật) đích thực nó còn có quan hệ với Tịnh độ. Nếu như nghĩ rằng tu như phương pháp này có thể thành Phật, thế là chấp văn hại nghĩa không thể thông đạt ý thú Phật pháp.

Nếu y Luận Thập Trụ Tỳ Bà Sa của Long Thọ thì ta có nhận thức chánh đáng hơn, khi nói đến Bồ tát muốn tích tập phước đức trí huệ tư lương, muốn làm thế nào để có công đức pháp được bất thối chuyển. Hoặc giả cảm thấy đạo Bồ tát khó làm, nên hỏi: “Hạnh Bất Thối Chuyển làm những việc khó làm, lâu mới có thể đạt được, hoặc đọa vào hàng Thanh văn, Bích Chi Phật, nếu chư Phật có nói pháp dễ hành đạo, phương tiện mau đạt được Bất Thối Chuyến, xin vì họ mà nói đó”. Đoạn trên đây là thưa hỏi về phương pháp dễ hành đạo. Long Thọ nói: “Như ông đã nói, kẻ sợ sệt thì hay khiếp nhược không có tâm lớn, như vậy chẳng phải là lời nói của kẻ đại nhơn chí lớn mẫn cán vậy”. Nói một cách dễ hiểu, như người có tâm địa như đây thì vốn đã không có cung cách tâm lượng Bồ tát. Long Thọ nói: đối với kẻ ưa thích cầu pháp dễ hành đạo, tức là kẻ căn tánh yếu đuối hạ liệt, thì nên cho vào đầu họ một gậy.

Nhưng Phật và Bồ tát lấy từ bi làm gốc để nhiếp dẫn những chúng sanh tu hạnh Bồ tát, nên nói pháp dễ hành đạo, mới nói tiếp rằng: “Ông nếu thật muốn nghe pháp phương tiện này, ta sẽ nói đó. Phật pháp có vô lượng pháp môn, như đường đời có đường bằng phẳng dễ đi, có đường dốc quanh co khó đến. Đường bộ đi chân khó đi. Đường thủy đi thuyền dễ đi. Đường Bồ tát cũng như vậy. Hoặc kiên tâm cần hành tinh tấn thì là pháp khó hành đạo, hoặc tin dùng nơi phương tiện thì là pháp dễ hành đạo”. Khó hành đạo là cần mẫn khắc phục khó khổ. Dễ hành đạo là phương tiện dễ dàng. Ý nghĩa rõ ràng như thế, nhưng không quan hệ gì với việc thành Phật chậm mau. Nói đến dễ hành đạo tức là “xưng niệm danh hiệu mười phương chư Phật”, trong đó có việc cung kính lễ bái xưng niệm danh hiệu đức Phật A Di Đà v.v… Như Luận Đại Trí Độ nói: “tưởng niệm lễ bái, dùng kệ tán thán”. Kẻ ngưỡng cầu pháp dễ hành đạo cho rằng nhứt tâm niệm Phật vạn sự đều xong. Nên Long Thọ Bồ tát lại bảo họ rằng: “Cầu đạt được quả vị Bất Thối Chuyển, không những chỉ tưởng nhớ niệm, xưng danh lễ kính mà thôi, lại còn phải nên ở nơi các đức Phật phát nguyện sám hối, khuyến thỉnh, tùy hỷ, hồi hướng”. Điều này cho chúng ta thấy rằng phương pháp dễ hành đạo không chỉ đơn thuần là niệm Phật, mà còn phải thực hành mười đại nguyện vương của phẩm Phổ Hiền Hạnh Nguyện. Nếu phương pháp dễ hành đạo có thể như trên đây mà tu hành thì “phước lực tăng trưởng, tâm tánh nhu thuận, lòng tin chư Phật Bồ tát thanh tịnh thâm sâu, đã đạt đệ nhứt công đức, thương xót chúng sanh”. Tiếp đó nói sáu pháp Ba La Mật. Có thể nói niệm Phật, sám hối, khuyến thỉnh đích thực là phương pháp làm cho tâm tánh nhu hòa tăng trưởng phước lực, nhơn đây mới có thể đối với Phật pháp sanh lòng tin sâu sắc tín giải đệ nhất nghĩa. Đối với chúng sanh thống khổ sanh tâm từ mẫn, tấn tu đạo Bồ tát, hành lục độ vạn hạnh. Như thế phương pháp dễ hành đạo, tuy nói phát nguyện để được vãng sanh, đối với việc tu hành Tịnh độ, mà cũng là phương tiện trước của phương pháp khó hành đạo. Kinh luận đại thừa cũng dùng chung một luận thuyết là: niệm Phật là phương tiện nhiệm mầu hay ngăn trừ nghiệp chướng, tích tập phước đức, nhưng không lấy đó làm cứu cánh. Xưa nay hành giả Trung Hoa cho rằng, Long Thọ nói dễ hành đạo, tu pháp môn niệm Phật không việc gì mà chẳng được. Điều này không tránh được cô phụ lòng từ bi của Long Thọ Bồ tát vậy!

Lễ Phật, niệm Phật, tán Phật, tùy hỷ, hồi hướng, khuyến thỉnh, đặc biệt là miệng niệm danh hiệu Phật, điều này so với việc vì chúng sanh và đạo pháp mà xả thân, xả tâm nhẫn chịu khổ nạn đề thực hành Bồ tát hạnh đương nhiên là dễ hơn nhiều. Đây là nghĩa căn bản của phương pháp dễ hành đạo. Thông thường cho rằng do từ bi nguyện lực của đức Phật A Di Đà mà hành giả niệm Phật được vãng sanh, siêu xuất ba cõi, gọi là dễ hành đạo. Tu phương pháp dễ hành đạo này được vãng sanh về Tịnh độ, nơi cực lạc hoàn cảnh dễ tu hành khiến cho hành giả không có chướng ngại, đây là điều đích xác mà kinh luận đại thừa nói. Nhưng có điều hành giả nên lưu ý là phương pháp dễ hành đạo thì khó thành Phật. Còn phương pháp khó hành đạo thì lại dễ dàng thành Phật. Như kinh Bảo Tích, Di Lặc Bồ tát Sở Vấn Hội nói: Thích Ca Như Lai trong thời quá khứ tu hành làm những việc khó khổ, ấy là thực hành pháp khó hành đạo. Trái lại Di Lặc Bồ tát khi hành đạo thì thích tu đạo dễ làm. Di Lặc phát tâm tu hành sớm hơn đức Thích Ca đến hơn bốn mươi kiếp, sớm đã chứng đắc vô sanh pháp nhẫn. Nhưng kết quả, Thích Ca đạt thành vô thượng bồ đề Phật quả sớm hơn Di Lặc. Đây là bằng chứng cụ thể rõ ràng chắc thật nhất để cho hành giả nhận định phương pháp dễ hành đạo thì khó chứng Phật quả và ngược lại.

Di Lặc thích tu pháp môn dễ hành đạo nên thành Phật chậm. Thích Ca chuyên thực hành pháp môn khó hành đạo nên sớm thành Phật quả. Nhưng căn cứ truyền thuyết và bằng vào Kinh Luận thì Thích Ca ròng rã bảy ngày bảy đêm nói kệ tán Phật được công đức thành Phật sớm hơn chín kiếp. Nói kệ tán Phật là một trong những nghi cách của phương pháp dễ hành đạo. Như thế thì điều này há chẳng phải dễ hành đạo mà mau thành Phật ư? Điều này lại dễ khiến cho người hoài nghi, nơi đây cần nên lược giải vài điều. Dễ hành đạo và khó hành đạo chẳng qua là danh từ để nói hành giả từ lúc mới phát tâm hạ thủ công phu. Đối với kẻ sơ học thì tạm phân làm hai loại thế thôi. Đến khi thành Phật công đức nhiếp thủ chúng sanh và nhiếp thủ Phật độ đều cần phải được viên mãn. Nhưng đây không thể chứng minh dễ hành đạo dễ thành Phật quả, mà trái lại chứng thực là khó hành đạo thì dễ thành quả vị vô thượng chánh đẳng chánh giác. Căn cứ truyền thuyết, bằng qua kinh luận thì “Thích Ca khi tâm tánh chưa thuần thục mà các đệ tử tâm đều thuần thục. Lại nữa Di Lặc Bồ tát tâm đã thuần thục mà đệ tử tâm chưa thuần thục”. Như Trí Độ Luận quyển bốn nói: Đây là vì “tâm của Thích Ca Bồ tát thiên trọng về lợi ích chúng sanh mà không màng đến tự thân. Trong khi đó Bồ tát Di Lặc thiên trọng về tự thân mà ít lo giải thoát chúng sanh”. Điều này hiển nhiên nói lên Thích Ca tu phương pháp khó hành đạo, tâm nguyện nhiều lo về mặt giáo hóa chúng sanh. Vì thế nên chúng đệ tử tâm đã thuần thục nghĩa là Thích Ca công đức lợi tha viên mãn, nhưng công đức tự lợi vẫn chưa tròn đầy. Di Lặc Bồ tát phần nhiều tu hạnh Tịnh độ, chứng vô sanh pháp nhẫn từ lâu, tự tâm đã thuần thục. Nhưng thường ít vì lợi lạc chúng sanh, ít tu đại hạnh khó làm, nên đệ tử tâm chưa thuần thục, nghĩa là công đức lợi tha của Di Lặc chưa viên mãn. Vì Thích Ca tinh tấn tán Phật tu theo hạnh Phật mà sớm được thành Phật. Như đây đủ chứng minh cho việc tu phương pháp khó hành đạo dễ thành Phật. Chẳng khác nào vẽ rồng không thể thiếu điểm nhãn, như tâm nguyện muốn trang nghiêm Tịnh độ không thể thiếu nhiếp thủ chúng sanh. Ấy là những mối tương quan tương duyên, hệ quả dây chuyền là điều kiện ắt có và đủ nhất định phải viên mãn để thành Phật.

Đức Thích Ca tu phương pháp khó hành đạo. Điều này chẳng khác nào như trước vẽ thân rồng, đợi đến lúc thân rồng hình thành rồi thì tinh tấn thêm một bước nữa là tán thán Phật tức như điểm nhãn rồng, một điểm tức hoàn thành rồng. Di Lặc khởi tu bắt đầu từ phương pháp dễ hành đạo mà hạ thủ công phu, chẳng khác nào như trước điểm nhãn rồng. Con mắt rồng tuy được điểm thành, mà thân rồng lại không thể mau lẹ cùng họa thành. Nghĩa là cũng như công đức lợi tha không thể mau thành Vậy thì Thích Ca thành Phật sớm trước Di Lặc chín kiếp là do công đức tu phương pháp khó hành đạo sâu dày về “tâm nguyện lợi ích chúng sanh nhiều”. Kỳ thực những điều trên đây đều vì kẻ sơ học mà phương tiện nói. Hành giả học Bồ tát pháp tu Bồ tát hạnh nhất định thành Phật. Điều tiên quyết của sự thành Phật là tất cả công đức đều cần phải do tu tập tích lũy viên mãn. Dễ hành đạo thì khó thành. Khó hành đạo thì dễ thành, đích xác là điều mà kinh điển thánh hiền từ xưa đã nói.

Chúng sanh trong cõi uế trược tu hành dễ thối thất đạo tâm. Người được sanh về cõi Tịnh độ hoàn cảnh tốt, nên đạo tâm không thối thất. Nhưng luận về tu hành mau chóng thì cõi uế trược so với cõi Tịnh độ có phần mau chóng hơn nhiều. Như kinh Đại A Di Đà quyển hạ nói: “Bạch đức Thế Tôn! Trong cõi Ta bà uế trược này, làm lành tạo đức, từ tâm chánh ý, trai giới thanh tịnh, một ngày một đêm thù thắng hơn cõi Phật A Di Đà trăm năm”. Kinh Duy Ma Cật cũng nói: “Lòng đại bi của Bồ tát cõi Ta bà này đối với chúng sanh thật sự bền chắc, nhẫn chịu chướng duyên như đã nói. Nhưng các Bồ tát cõi Ta bà một đời làm việc lợi chúng sanh thù thắng bằng cõi nước Tịnh độ kia làm trăm ngàn kiếp” Cớ sao vậy? Bởi vì cõi Ta bà này có mười việc tạo thành pháp lành mà các cõi Tịnh độ khác không có. Mười việc tức là thực hành sáu phép Ba La Mật v.v.. Cõi Tịnh độ thì bảy báu tạo thành, ăn mặc, đồ dùng tất cả đều đầy đủ, nên không có cơ hội tạo thành công đức bố thí. Cõi uế độ người ác, cần tu nhẫn nhục. Cõi Tịnh độ thì đều là các người thượng thiện nhơn, không cần tu hành nhẫn nhục. Cõi Ta bà có các việc sát, trộm, dâm, dối, vì vậy nên cần phải trì giới. Cõi Tịnh độ không có người nữ, không có tình trạng nam nữ chiếm hữu, tức không có giới dâm. Tất cả thứ cần dùng đều đầy đủ, nên không cần giới trộm cắp. Các công đức này một khi hành giả sanh về cõi Tịnh độ rồi thì thật khó có cơ duyên phát triển. Cũng như khi quốc gia thái bình thạnh trị thì anh hùng không có đất dụng võ, không có chỗ để thi thố tài năng, không cơ hội đế cứu quốc cứu dân lập đại công thành tích.

Cõi trần thế uế trược thì khó làm, nhưng nhơn vì khó làm mà trở nên vĩ đại. Thích Ca Mâu Ni nhơn nơi cõi uế độ tu hành mà thành Phật, được mười phương cõi Phật xưng dương tán thán. Như kinh A Di Đà nói: “Các đức Phật kia cũng xưng tán khen ngợi ta công đức không thể nghĩ bàn, mà nói lời như thế này: “Phật Thích Ca Mâu Ni hay làm các việc khó làm, hay ở trong cõi Ta bà ngũ trược ác thế mà đạt đạo quả vô thượng chánh đẳng chánh giác”. Kinh Trừ Cái Chướng Bồ tát Sở Vấn quyển hai và các kinh Bảo Vân, Bảo Vũ, Thắng Thiên Vương Bát Nhã v.v… đều nói đến việc tu hành cõi uế độ so với cõi Tịnh độ phần thù thắng cao siêu hơn nhiều. Quan hệ với điểm này, trong Luận Trí Độ quyển mười, Long Thọ nói rất rõ rằng: “Trong cõi Ta bà thế giới này nhơn duyên vui ít, có ba đường ác là già, bệnh và chết…tâm sanh nhàm chán, do đó cho nên trí huệ căn lợi không giống với Bồ tát cõi Tịnh độ kia thất bảo tạo thành thế giới, các thứ cây báu, tâm nghĩ ăn uống, các thức ăn uống liền có đầy đủ, mọi việc như ý. Vì thế khó sanh tâm nhàm chán, khó có cơ duyên ẩn nhẫn khắc phục. Thế nên, trí huệ không thể to lớn, công đức không thể sâu dày. Thí như dao bén trong lúc cắt lấy đồ ăn uống thơm ngon, dao bén lại sanh bẩn. Trái lại, nếu lấy đá mài dao sét rỉ thì lợi căn phát triển, công đức sâu dày. Chẳng khác nào như người ít khả năng nhưng nhẫn chịu nhiều cần mẫn cực khổ thì đạt được nhiều thành quả”. Cõi đời uế trược đầy dẫy thống khổ chướng duyên, nhưng phát tâm hành Bồ tát đạo thì được tối thù thắng công đức. Thảo nào Thích Ca phát tâm chậm mà thành Phật sớm.

Dễ hành đạo dễ đạt quả vị Bất Thối Chuyển, nhưng một khi sanh về cõi Tịnh độ thì sự tiến bộ trên đường Phật quả chậm. Cõi Ta bà uế trược tu hành rất khó được quả vị Bất Thối Chuyển, như đập phá cửa đóng then gài rất khó, nhưng một khi phá vỡ qua cửa thẳng vào nhà, tức là trực chỉ thành Phật trước. Nói cho cùng thì lý dễ hành đạo và khó hành đạo cùng với cõi uế trược Ta bà và cõi Tịnh độ cực lạc thật ra mỗi cái đều có sở trường của nó.

Trên đây căn cứ vào kinh luận chứng minh, từ sự thực để thực chứng. Nếu hành giả lý giải được ý nghĩa của kinh luận thì mới đạt được diệu dụng của Phật pháp. Dễ hành đạo và khó hành đạo đều là phương tiện hy hữu “Sở duyên bồ đề là duyên khổ của chúng sanh”. Nghĩa là vì chúng sanh khổ, vì chánh pháp suy mà phát tâm bồ đề, ấy là đạo chánh thường của pháp đại thừa. Thiện xảo phương tiện an lạc đạo cũng là pháp môn vi diệu. Y theo đây hành đạo thì hay tích tập công đức, sám trừ nghiệp chướng, lập định tín tâm, tu hành chắc thật thì không thể đọa lạc. Tuy nhiên, Phật pháp trụ thế thì phải vì pháp vì người mà hiến thân mạng, tinh tấn khổ hạnh không ngừng mới thực hiện được tâm nguyện Bồ tát ấy là nhơn, đạt thành Phật là quả.

Y luận cứ trên có thể kết luận rằng: Tịnh độ thì nên lấy A Di Đà cực lạc Tịnh độ làm viên mãn; lấy Di Lặc nhơn gian Tịnh độ làm yếu chỉ; lấy cõi Phật A Súc làm nhơn trụ tâm từ bi; trụ như pháp tánh làm nhơn căn bổn; lấy hạnh nguyện trang nghiêm cõi Phật A Di Đà làm quả vui rốt ráo. Trong khi tu trì pháp môn Tịnh độ, trước tiên cần phải chú trọng chánh nhơn Tịnh độ. Cũng nên biết rằng, hễ thực hành pháp khó hành đạo thì nhứt định dễ thành Phật. Nếu tự cảm thấy mình tâm tánh khiếp nhược, nghiệp chướng sâu nặng có thể kiêm tu dễ hành đạo phương tiện xảo, thời thời niệm Phật, thường hằng sám hối, tích tụ thiện căn, nhiều tu tịnh nghiệp, đây mới là ngàn ức vạn việc thiện nên gắng làm. Hành giả Tịnh độ tu phương pháp dễ hành đạo làm phương tiện thì tất phải nhớ kỹ lời thánh hiền huấn thị trong các kinh luận như kinh A Di Đà dạy rằng: “Không thể dùng nhơn duyên thiện căn phước đức ít mà có thể mong cầu sanh về cõi Tịnh độ kia”. Luận Thập Trụ Tỳ Bà Sa nói: “Muốn được quả vị A Bệ Bạt Trí (Bất Thối Chuyển) thì chẳng phải chỉ đơn giản xưng danh, nhớ niệm, lễ bái Phật mà cho là đủ”. Cứ như đây mà suy ngẫm, chí tâm thực hành gội rửa thân tâm thanh tịnh mới có thể đạt được diệu dụng pháp môn an lạc hạnh, ấy là thuộc pháp môn dễ hành đạo. Có được như thế thì không đến nỗi cô phụ lòng từ bi của Phật và Bồ tát.

 

CHÚ THÍCH:

[1] Nội dung của quyển Đại Thừa Tịnh Độ Tư Tưởng Luận này phần lớn căn cứ tư tưởng của Ngài Ấn Thuận Luận sư làm gốc. Ấn Thuận Luận sư là cao đệ của Thái Hư Đại Sư. Ngài là bậc chân tu uyên thâm Phật lý, chỉ chuyên tâm vào việc lập Phật Học Viện đào tạo tăng tài, nghiên tầm giáo nghĩa, giảng kinh thuyết pháp và trước tác. Ngài là bậc duy nhất uyên bác Phật học hiện nay của Trung Hoa. Tác phẩm của ngài có tầm mức giá trị quốc tế. Diễn Bồi Pháp sư là cao đệ của Ngài. Ngài trước vốn là giáo sĩ Thiên Chúa giáo, sau nghiên cứu Phật học rồi tin Phật và trở thành một bậc chân tu bác học Phật giáo.

Vào sáng ngày 22 tháng 9 năm 1969, sau khi đảnh lễ Đức Tăng Thống Thích Tịnh Khiết, Hòa thượng Thiện Hòa, Hòa thượng Thiện Hoa – tôi– Tỳ kheo quê mùa Thích Đức Niệm này đến đảnh lễ Thượng tọa Trí Quang và Hòa thượng Trí Thủ tại phòng Thượng tọa Trí Quang đối diện phòng đức Tăng Thống tại chùa Ấn Quang để từ giã lên đường du học Đài Loan. Thượng tọa Trí Quang ân cần dạy tôi: “Khi đến Đài Loan, Đức Niệm nên cố gắng tìm đến ngài Ấn Thuận mà học đạo”.

Nhớ lời dạy, sau khi đến Đài Loan, công việc học hành, ăn ở và ngôn ngữ đã thông hiểu, ngoài thời khóa nhà trường ra, tôi đã cố gắng thu xếp thời gian nhất là vào những dịp nghỉ hè bãi trường, tôi thường xuyên thăm viếng bái kiến Ấn Thuận Đại Sư, và dự nghe những thời kinh luận Ngài giảng. Với lối giảng khúc chiết thông bác, khiến cho tôi mến mộ đức độ và khâm phục sự thông bác khiêm cung của Ngài. Ngài chối từ tiếp khách thập phương nhưng thường hỏi thăm Thượng tọa Trí Quang với lòng quí mến. Suốt hơn mười năm du học ở Đài Loan, tôi có được phước duyên thường xuyên thọ ơn pháp nhủ của An Thuận Luận Sư. Đây là nhân duyên chính của quyển Tịnh Độ Đại Thừa Tư Tưởng Luận này chào đời với lòng ngưỡng mộ tri ân những bậc sư trưởng trong muôn một.