Yếu Giải 37 Pháp Hành Bồ Tát Đạo
Trích: CHÌA KHÓA ĐẠI GIÁC NGỘ
Nguyên tác: KEYS TO GREAT ENLIGHTENMENT
của GESHE TSULTIM GYELTSEN 
Linh Thụy chuyển ngữ

TRỞ THÀNH MỘT VỊ BỒ TÁT

Vào lúc một người trở thành một vị Bồ tát, tất cả chư Phật của ba thời [tam thế Phật] sẽ đến lễ. Vào lúc đó, người ta đã trở nên một bậc đại hùng, bởi vì đã nhận trách vụ làm việc cho an lạc của tất cả chúng sanh không thiên vị dựa trên căn bản của sự thân cận hoặc vị trí. Bởi vì ta đã nhận trách vụ đối với trọn cộng đồng chúng sanh, và trở thành bậc đại hùng, tất cả chư Phật của ba thời sẽ cúi đầu đảnh lễ ta. Bởi thế, đức Phật từng bảo ngài Đại Ca Diếp (Kashyapa), “Này, Ca Diếp. Những kẻ có lòng chí kính hoặc đại tín nơi ta, không nên đảnh lễ chư Như Lai (Tathagatas), thay vì vậy nên đảnh lễ chư Bồ tát (Bodhisattvas).”

Bởi lẽ đó, ta phải xem việc trở thành Bồ tát là một cứu cánh cá nhân. Cho dù ta không thể thành tựu cứu cánh đó trong đời này, ít ra ta phải cố giữ cứu cánh đó trong tâm. Bất kỳ bổn phận thiện lành nào của một vị Bồ tát, ta cần phải bắt chước các bổn phận đó trong đời sống hàng ngày. Nếu làm điều đó, thì bất cứ việc gì ta làm sẽ trở nên phong phú và hữu hiệu hơn. Cứu cánh là phải làm việc tuyệt đối vì an sinh của trọn cộng đồng chúng sanh. Vào khoảnh khắc một người trở thành vị Bồ tát, trách nhiệm tối cao của vị đó là làm việc cho an lạc của toàn chúng sanh. Đó chính là việc làm then chốt của chư Bồ tát. Lý do là vì, vào lúc đó, Bồ tát hoàn toàn nằm trong ảnh hưởng của một cái tâm được tôi luyện chánh đáng biết trân quý toàn chúng sanh. Ngài hoàn toàn vượt khỏi tâm ngã ái, cho nên các niệm ngã ái không còn mống khởi dù trong giấc mơ của ngài.

Bởi những lý do đó, chư Bồ tát thường được mệnh danh là Pháp Tử hoặc Con của Phật. Tất cả các sinh họat hàng ngày của chư vị được gọi là sinh hoạt của các Con của Phật. Đi vào sinh hoạt của chư Bồ tát, bằng sự dấn thân kiên trì vào các sinh hoạt đó, chúng ta sẽ đạt đến một trạng thái trọn vẹn tinh túy nhất, Phật quả tối hậu. Vào lúc đó, chúng ta đã thành tựu lợi ích cao cả nhất mà con người có thể đắc thành trong kiếp tái sanh này.

Chủ đề được thảo luận trong Tam Thập Thất Bồ Tát Hành, có thể được giải thích như ba mươi bảy hành của chư Bồ tát, hoặc ba mươi bảy mô tả công tác chủ yếu của chư Bồ tát. Một khi trở thành Bồ tát, các bổn phận hoặc các công tác đó trở nên tối hệ trọng; chúng ta không thể là một vị Bồ tát mà không có các sinh hoạt trên. Chúng ta cùng chia sẻ chung một tâm niệm: ước ao mạnh mẽ làm một vị Bồ tát, nguyện cầu mạnh mẽ ngày nào đó trở nên một vị Bồ tát, và mong muốn mạnh mẽ có thể hành xử giống như một vị Bồ tát. Bởi vì chúng ta cùng chia sẻ ba điều nói trên – ước ao, cầu nguyện, mong muốn bắt chước các bổn phận của chư vị – cho nên điểm quan trọng là chúng ta cần hiểu biết các bổn phận và hành động đa dạng của chư Bồ tát, hầu có thể làm theo cho đúng cách.

1. Tinh tấn kiên trì

Thân người vững chãi lại nhã nhàn –

Con thuyền hiếm quý rất khó tầm –

Giờ ta đắc một không khuyết lỗi,

Tu tập đêm ngày chẳng dời đổi

Vượt biển khổ giải thoát luân hồi

Chẳng riêng ta trọn cả bao người

Lắng nghe, tư duy và thiền lự –

Chư Bồ tát trọn hành cách đó.

Sau lời khấn cầu và nguyện hứa của tác giả sẽ viết quyển sách, đoạn thơ thứ nhất bắt đầu. Khởi đầu là, “Vào lúc này, ta thấy được thân người mang các thứ tự do và tài năng, vốn thật vô cùng khó khăn mới đạt được.” Chúng ta cần cả các yếu tố hoặc phẩm chất của một hành giả, bởi vì không có chúng, việc tu tập bất khả thi.

Những chúng sanh ở địa ngục không có các phẩm tánh đó, loài ngạ quỷ cũng thế, hoặc hầu hết các súc sanh. Trước hết, chúng không có tự do hoặc các giờ nhàn nhã để tu tập, chúng không có tài năng hoặc cơ năng để dùng trong việc tu tập. Có vài thế giới loài người, cũng như vài cảnh giới chư thiên, có được các tài năng hoặc cơ năng, nhưng lại không có tự do hoặc thời giờ nhàn nhã hầu tu tập. Lại nữa, vài thế giới loài người có tự do nhưng thiếu mất tài năng. Điều này tối quan hệ. Tái sanh kiếp người toàn hảo, với đầy đủ các thứ tự do và tài năng, là điều cực kỳ hiếm quý khó tìm được. Một cơ hội hiếm hoi như thế, thật vô cùng khó tìm, mà chúng ta đã nhận được!

Như thế, đoạn thơ nói, vào cơ hội này hoặc ở thời điểm này, hầu giải thoát tự thân cũng như tất cả người khác ra khỏi đại dương luân hồi, không phân biệt đêm hay ngày, chúng ta cần phải dấn thân trọn thời gian vào việc triển khai ba thứ tuệ: lắng nghe [văn tuệ], tư duy [tư tuệ], và thiền quán các giáo pháp [tu tuệ].

Dấn thân vào việc lắng nghe, tư duy và quán pháp chuyên cần bất kể thời gian, đêm ngày, một sự kiên trì tinh tấn như thế là một trong các tu tập của Bồ tát. Kiên trì tinh tấn cho phép ta dấn thân vào ba mươi bảy ý tưởng và thiền định về giáo pháp suốt ngày đêm. Điều đó cho phép ta sử dụng tốt nhất thời gian cơ hội mà ta đã được nhận lấy kiếp tái sanh làm người toàn hảo với tất cả tự do và tài năng.

Với sự kiên trì tinh tấn, chúng ta có thể hoặc học hỏi hoặc tư duy về giáo pháp, bảo trì sự liên tục trong tư tưởng, và đưa vào thiền định. Làm ba sinh hoạt khác nhau đó thật đúng, ngày và đêm, sẽ giúp tu tập tiến triển. Tôi hiểu rất rõ, quả vô cùng khó khăn cho chúng ta tu tập như thế. Thứ nhất, chúng ta phải giữ việc làm mưu sinh; thứ nhì, chúng ta cần thời giờ giải trí và làm việc khác nữa. Quả rất khó phải làm liên tục như đòi hỏi ở trên. Ít nhất điều ta có thể làm là xếp đặt giờ cho một hoặc hai thời tu tập trong một ngày. Trong thời gian đó, ta có thể tự cho phép mình thoát khỏi mọi thứ vướng bận và quan tâm, và bỏ thì giờ vào việc tu học. Gọi là tu học, tôi muốn nói đến việc đọc sách, cố gắng quán chiếu nội dung, và tranh luận về điều ta đã đọc. Rồi ta hành thiền trên điều đó. Ta còn có các tu tập khác để làm, nhưng cố gắng xếp đặt thời gian cho ít ra là một thời tu trong một ngày. Vậy, nếu ta có thể làm điều đó, tất có thể bắt đầu làm một hành giả khởi trình.

2. Lìa sanh quán

Trụ lâu chốn ấy sanh nhiễm ái,

Thân tình như sóng dập dồn mãi.

Ngọn lửa giận hờn kẻ quấy phiền,

Thiêu công đức cũ bao kiếp hiền.

Bóng tối che mắt nhìn thiển cận,

Khó phân hay dở, dễ nhầm lẫn.

Thôi hãy lìa quê cảnh riêng tây –

Chư Bồ tát trọn hành cách này.

Tu tập thứ nhì của Bồ tát là lìa bỏ sanh quán. Tôi không thấy đây là một vấn đề cho đa số chúng ta, bởi phần lớn đều sanh ra một nơi nào khác. Nhưng lý do tác giả bảo rằng, chúng ta phải lìa sanh quán, không phải là cho chính sự lìa bỏ. Không, lý do đó là một thứ gì khác hơn. Lý do là nếu ta sống ở một chỗ một thời gian lâu tất sẽ tạo thành một sự luyến ái mạnh mẽ hoặc thủ chấp vào nơi chốn đó, hoặc vào một nhóm người nào đó, như thân nhân hoặc bằng hữu của mình. Lại nữa, ta phát triển lòng sân hận mạnh mẽ đối với nhóm người nào đó bị gán nhãn là kẻ thù hay đại loại. Để tránh các điều đó, tác giả khuyến khích chúng ta buông bỏ chúng.

Ngài nói rằng, sự luyến ái hoặc thủ chấp vào thân nhân bằng hữu của một người chẳng khác nào như các làn sóng của đại dương đối với nước, bởi vì họ thật gần gũi với người đó. Trong khi đó, niềm tin vào sân hận khi nhìn thấy kẻ thù giống như ngọn lửa. Dưới các cảnh huống đó, chúng ta hoàn toàn vô minh trước những gì lẽ ra phải làm, và những gì lẽ ra không được làm. Chúng ta bận rộn chăm sóc các người thân và loại trừ kẻ thù. Khi là hoàn toàn mù quáng không còn phân biệt được nữa, đó là lúc cần phải buông bỏ chỗ đó, và đi nơi khác.

Điều mà đoạn này nhấn mạnh là sự cần thiết phải triển khai bình đẳng tánh trí [đồng phận] đối với tất cả mọi người. Tác giả khích lệ chúng ta làm ba điều:

(1) giảm làn sóng lớn hay triều dâng của các thủ chấp;

(2) giảm sức nóng của ngọn lửa sân hận; và

(3) giảm độ dày hay bóng tối của vô minh, chính là nguyên nhân của tất cả các thứ đó.

Trong một số văn bản khác, sanh quán còn được ví như ngục tối hay lao tù, và thân bằng quyến thuộc là các lính canh hay thủ ngục của nhà tù. Lý do là khi ta bám víu vào họ quá mạnh và luyến ái quá sâu, sự bám víu luyến ái sâu nặng đó sẽ khiến ta bị nện chặt dưới đáy thẳm của luân hồi. Tu tập thứ nhì dạy ta nên lìa xa sanh quán, nhưng không nên xem như chỉ là sanh quán. Thứ ta cố dứt bỏ ở đây, mà tác giả nêu rõ, chính là sự luyến chấp, sân hận và vô minh. Đó là những thứ chúng ta phải cố gắng giảm bớt hoặc diệt hẳn.

3. Tránh sao nhãng

Xa rời hẳn mọi điều khích động,

Hồn chao đảo sẽ dần tĩnh lặng.

Tịnh hóa niệm tán loạn buông lung,

Tâm quy đức hạnh sẽ dần tăng.

Tuệ sáng tỏ, cảnh vào tiêu điểm,

Niềm tin nơi Pháp vững vàng thêm.

Sống một mình ẩn dật nơi đây –

Chư Bồ tát trọn hành cách này.

Bước kế tiếp tác giả nói đến là giải thoát khỏi sự sao nhãng [tán tâm] buông lung [phóng dật]. Nếu chúng ta thoát khỏi phóng dật thì việc tu tập đức hạnh tự nhiên thành tựu hơn. Sự nhiễu loạn hoặc phóng dật – muốn chọn chữ nào cũng được – đối nghịch lại với thiền định hoặc tam muội (samadhi) tức tập trung tinh thần; nó chống đối sự tập trung hoặc nhập định. Buông lung lôi cuốn ta ra khỏi tiêu điểm hướng đến, và cứ mang lại hết vọng niệm này đến vọng niệm kia. Cứ thế, ta sẽ hoãn lại điều định làm lúc ban đầu. Lấy thí dụ, điều gì khiến ta thiếu bổn phận đọc tụng một thời kinh? Điều gì khiến ta vi phạm các bản nguyện đã từng hứa sẽ giữ gìn? Và điều gì khiến ta tước đoạt thì giờ dùng vào các nhiệm vụ cần yếu ta hứa phải làm trong ngày? Tất cả các trường hợp khiến ta xa rời các việc quan trọng phải làm, đều có nguyên nhân là sự sao nhãng. Do đó, bắt buộc ta phải buông bỏ sự sao nhãng này.

Bản văn nói rằng, phải lìa rời sanh quán, và đồng thời, dẹp bỏ phóng dật. Thêm vào đó, ta cần phải có tâm sáng suốt. Tâm mẫn nhuệ trong ý nghĩa là có thể xét đoán một vấn đề rất rõ ràng. Tâm ta không nên mù mờ. Kết quả của tâm mẫn nhuệ là một niềm tin vững mạnh và xác tín vào việc tu tập Pháp, cùng một sự quả quyết vào điều mình đang làm. Hầu triển khai được tâm mẫn nhuệ này, sự cô đơn trở nên quan trọng.

Bởi các lý do đó, tìm vào cô đơn trở nên một trong các pháp tu của Bồ tát. Giải pháp là phải tìm cô đơn, nhưng tìm cô đơn không có nghĩa là đi đến một vùng cô lập hoặc tự cách biệt mình cùng mọi người khác. Nếu đó chỉ là một yêu cầu duy nhất, thì hẳn loài chim và thú chọn sống các nơi thật hẻo lánh phải đạt thiền định rất tuyệt, nhưng không phải thế. Mục đích của việc tìm cô đơn được Lạt ma Tông Kha Ba (Tsong Khapa) giải thích, nếu ta muốn thức giác được ý nghĩa cốt tủy của Ba Tinh Hoa của Đạo – xuất ly, bồ đề tâm (bodhicitta) và không kiến (shunyata) – đó là lúc ta cần phải tìm vào cô tịch hay ẩn dật.

4. Bận bịu với đời

Chung sống lâu rồi đến lúc thôi,

Bạn thân quyến thuộc cũng chia phôi.

Của tiền lao lách công gom nhặt,

Xa tít sau khi đời lịm tắt.

Tâm, là khách trọ của thân, nhà,

Ngày kia phải dọn bỏ đi xa.

Xả niệm đừng lo đời hiện tại –

Chư Bồ tát trọn hành cách ấy.

Bốn dòng cuối, bảo phải lìa bỏ mọi bận bịu cùng sự an sinh trong đời này, là một trong các pháp tu của chư Bồ tát. Chúng ta có thể nào thực sự buông bỏ các bận rộn sinh sống trong đời? Tác giả bảo là được, và giải thích tại sao ta nên làm vậy, và làm sao có thể làm được. Buông bỏ sự bận rộn trong đời không có nghĩa là đi thẳng tới trước và tự tử, đúng hơn là buông bỏ các quan tâm chính yếu về thức ăn, áo mặc, và danh vọng; chúng ta không nên quá ràng buộc vào các thứ đó. Tác giả khuyến khích chúng ta không ràng buộc vào các thứ đó, nhưng không khuyên ta nên nhịn đói. Một khi ta không thể phá vỡ được sự ràng buộc hoặc mê luyến thức ăn, áo quần, và danh vọng, thì việc tu tập chân Pháp hoặc thiện Pháp ta đang hành chẳng phải tu tập chân Pháp, bởi động cơ không đúng.

Như thế, có một lằn ranh mỏng manh giữa các sinh hoạt Pháp và vô Pháp. Bất cứ sinh hoạt nào được hành cho kiếp sau của đời này, hoặc những kiếp lai sinh, trở thành Pháp hành. Trong khi bất cứ điều gì làm chỉ bởi sự quan tâm đến đời này, trở nên vô Pháp. Đó là lý do tại sao chúng ta cần từ bỏ sự bận rộn trọn vẹn chỉ cho an sinh của đời hiện tại.

Tác giả còn bảo, “Ta có khả năng làm điều đó chăng? Ta có thể làm chăng?” Câu trả lời là vâng. Chắc chắn ta có thể từ bỏ bận rộn cho đời này. Hãy nghĩ, những người ta đã chung sống suốt nhiều năm, hoặc những người ta theo cùng trong nhiều năm, như cha mẹ, thân nhân và anh chị em, ngày nào đó sẽ lìa bỏ. Một khi tử và vô thường đánh xuống, không sao van nài trì hoãn. Chúng ta không thể nói, “Xin hoãn cho tôi vài giây phút vì tôi chưa gặp cha mẹ tôi, lâu qua rồi tôi cũng không gặp thân nhân, tôi còn nhiều điều phải làm xong, hoặc tôi muốn kết thúc một việc còn dang dở…” Khi tử thần đến, chúng ta không thể van xin lưu lại cho thêm vài khoảnh khắc nào hết. Vào giây phút chia cách, cho dù con số thân nhân là bao, số của cải tích tụ là bao, hoặc tình trạng danh vọng trong cuộc đời đạt đến đâu, cũng không thể giúp đỡ ta chút nào. Sản phẩm của trọn một đời cố gắng và lao lực rơi rớt lại đằng sau khi ta đối diện cùng cái chết. Tương tự, tấm thân quý báu này, vốn rất thân thiết với ta, và phục vụ ta như một căn nhà khách từ lúc còn ấu thơ cho đến giờ, cũng sẽ để lại phía sau. Ta trở nên giống như người khách lìa bỏ căn nhà. Tâm ta thoát ra đi, và tự nó rời xa.

Tôi nghĩ đoạn này thuộc vào pháp môn Lam Rim, và cũng nằm trong phần về vô thường và tử vong. Nếu chúng ta có thể tư duy về các điều đó hàng ngày, sẽ rất hữu ích. Giữa ba thứ quan tâm – thức ăn, áo quần, và danh vọng – rất dễ bỏ đi chút ít hoặc mất mát thức ăn và quần áo, nhưng thật khó mà bỏ qua danh vọng. Tuy nhiên, ta không nên bám vào danh vọng, bởi vì dù ta có nổi tiếng đến đâu trong cuộc đời, vào giây phút chết, thế giới cũng rỗng không ở phía sau. Ta không thể nào mang nó theo. Ta có thể đạt được biểu tượng của tình trạng danh vị của mình dưới hình thức một hàng chữ ghi khắc trên đá, nhưng hàng chữ ghi tạc để tưởng niệm ta đó cũng chẳng giúp chút nào cho người ra đi. Chẳng khác nào như một người ăn xin vừa nhận danh hiệu của ông vua, nhưng vẫn nghèo nàn và đói rách. Cái tên không cung cấp lợi ích gì chân thật.

5. Lánh ác hữu

Gặp phải bạn xấu đưa lối lầm,

Sân hận, tham lam, ngu dại thêm.

Thời giờ tu tập còn đôi chút,

Quên lãng Pháp; hành thiền sơ xuất.

Tâm từ bi cho mọi chúng sanh

Bị chi phối, lạc lõng, lãng quên.

Hãy cắt tiếp giao cùng bạn ác –

Chư Bồ tát trọn hành chẳng khác.

Đoạn thứ năm bảo rằng tránh xa bạn xấu là một tu tập của Bồ tát.

Thật ra, tôi nghĩ tránh bạn xấu, cho dù được xem là một trong số các tu tập của Bồ tát, có giá trị cho chúng ta khi còn ở trình độ hành giả khởi sự. Đối với Bồ tát, là chư vị đã tiến xa, đây hầu như chẳng phải một vấn đề; nhưng đối với những người cảm khởi Bồ tát vị, hoặc đang đi vài bước trên đạo thành Bồ tát, những hành giả còn rất mỏng manh, thì điều này tối hệ trọng. Chúng ta sẽ thiệt mất những gì nếu theo cùng bạn xấu? Loại hành xử nào ta sẽ học được? Những ác hữu [ác tri thức] đó phải chăng đến như loài ma quỷ có sừng dài trên đầu hoặc lông dài trên thân thể? Không hẳn vậy. Ác hữu là kẻ gây nứt rạn giữa ta và việc tu tập thiện hạnh, và khiến ta xu hướng vào nhiều sinh hoạt tiêu cực hơn trước. Họ có thể đến dưới một hình thức rất yểm trợ. Họ mời ta tham dự tiệc tùng và khuyến khích uống rượu và các thứ. Thế nên, rất khó bỏ họ, nhưng ta cần phải cố gắng.

Nếu ta cứ kết bạn với ác hữu, tam độc của ta, tức là tham sân si, sẽ gia tăng. Chẳng hạn như, nếu ta lưu ý thấy đã có vấn đề với tham luyến trước khi kết bạn, và tình bạn này có một tính cách tham dục hoặc một sự ràng buộc mạnh mẽ, chẳng mấy chốc ta sẽ bị lôi cuốn bởi một làn sóng khổng lồ của tham luyến. Cũng thế, nếu ta sẵn có vấn đề với sân giận và làm bạn với một người đầy nóng giận, dần dà sân hận của người đó cứ chà xát mãi trên ta, và mẩu than nhỏ của lòng sân sẽ phựt lửa bừng cháy trong ta. Bởi các lý do đó, đối với những người khởi sự như chúng ta, rất quan trọng phải lánh xa ác hữu. Một ít kiến thức ta có được trước khi kết bạn, về những điều phải làm và không được làm, sẽ phai mờ dần, và bóng tối vô minh phủ trùm trên ta. Ta quên đi kiến thức đã có, và ngưng không học thêm thứ gì mới. Bởi thế, trọn tâm ta sẽ biến thành một đám mây đen khổng lồ. Mặc dù ta có chút từ bi hoặc thiện ái cùng tha nhân, ảnh hưởng của ác hữu có thể khiến ta đánh mất đức tánh đó. Thế nên, có đủ thứ lý do khiến ta phải tránh vãng lai cùng ác tri thức.

6. Trọng Đạo sư

Khi phó thác trong tay Đạo sư,

Chân thật mong cầu hướng dẫn từ

Bậc thông kinh điển rành tập huấn,

Trưởng dưỡng như trăng khuyết tròn dần.

Giải mọi nguy khó, xóa ảo hư,

Nếu trọn lòng tin bậc chân sư,

Phải tôn quý hơn bản thân nữa –

Chư Bồ tát trọn hành cách đó.

Tiếp theo là phương cách trân quý một vị thầy tâm linh. Đoạn này nói rằng ta đặt trọn niềm tin riêng chỉ mình người. Quý trọng Đạo sư (Guru) hơn chính bản thân mình là một trong các tu tập của Bồ tát. Theo Lam Rim, sự theo học chánh đáng một Đạo sư hoặc vị thầy tâm linh được xem như nền tảng của mọi phát triển tâm linh. Như thế, đoạn sáu thảo luận về việc theo học vị thầy tâm linh như chân cội rễ của đạo tâm linh. Giả như có người hỏi, “Nếu ta đang theo học một vị thầy tâm linh một cách nghiêm túc, cho dù phải trả giá bằng sự nguy hiểm đến mạng mình, thì kết quả hoặc lợi ích gì ta đạt được khi làm như vậy?” Kết quả là qua sự theo học chánh đáng một vị thầy tâm linh, tất cả các lỗi lầm của người đó dần dà sẽ dứt hoặc cạn đi. Tất cả chỉ dẫn do vị thầy tâm linh cung cấp sẽ giúp ta giảm bớt các việc sai và hành sai, và cho phép ta vượt qua mọi ảo cấu và mọi hành do ảo cấu xui khiến. Như thế, một lợi ích của việc tận tụy cùng đạo sư là, ta nhận được các hướng dẫn để làm những điều đó, và bởi vì tu tập các hướng dẫn trên, ta có cơ may giảm bớt việc sai để rồi thành tựu.

Ngoài kiến thức đó, sự phát triển tâm linh của ta sẽ trọn đầy lên giống như trăng khuyết tròn dần.

Sự trưởng dưỡng lòng tận tụy cùng vị đạo sư hay thầy tâm linh quả thật là cội rễ của tất cả sự phong phú và thiện hảo. Một lần nữa, tôi đề nghị quý vị đọc Lam Rim Chenmo về chủ đề tám điều lợi khi trưởng dưỡng sự tận tụy cùng đạo sư, tám điều bất lợi nếu không trưởng dưỡng tận tụy cùng đạo sư, và phương cách tu tập qua ý và hành. Các điều này được mô tả chi tiết trong Lam Rim Chenmo, và tôi khích lệ mạnh mẽ chúng ta đừng nên bỏ qua hoặc quên lãng Lam Rim. Lam Rim không phải là một thứ để quên lãng, mà rất hệ trọng cho tất cả chúng ta.

Tầm quan trọng của việc trưởng dưỡng thích đáng lòng tận tụy cùng đạo sư hay thầy tâm linh được cả Mật pháp (tantra) lẫn Hiển pháp (sutra) đồng ý; cả hai bên đều nhấn mạnh việc này.

Đặc biệt theo Mật tông, cho dù chúng ta thiền quán thiện xảo đến đâu về tất cả các hướng dẫn của Mật pháp, nếu sự tận tụy cùng đạo sư – mối liên hệ cùng đạo sư của ta – sai lỗi ở chỗ nào đó, ta cũng chẳng đạt được thành tựu mong muốn trong tu tập đó. Bởi tất cả các lý do nêu trên, việc trưởng dưỡng một cách tinh tế hoặc ý thức mối liên hệ thích đáng giữa đạo sư – đệ tử, là một trong các tu tập quan trọng của Bồ tát.

Một thí dụ thường dùng trong nhiều kinh văn, nói về một vị Bồ tát tên là Tag-tu Ngu, và cách ngài trưởng dưỡng sự tận tụy cùng đạo sư, cho dù phải thiệt thân và mất mạng. Câu truyện tận tụy cùng đạo sư của Bồ tát Tag-tu Ngu đã diễn ra nhiều đại kiếp hoặc a tăng kỳ kiếp trước, nhưng được đức Phật thuật lại trong Kinh Bát Nhã Ba La Mật Đa (Prajna Paramita Sutra). Chúng ta cũng không thiếu các thí dụ khác có thể học theo: chúng ta có thể theo gương của ngài Naropa và cách ngài trưởng dưỡng lòng tận tụy cùng đạo sư Tilopa; ngài Milarepa nghĩ về đạo sư Marpa và sự hồi hướng; và đại Drom Tonpa đã nghĩ tường tận thế nào về giáo pháp của đức Atisha, và trưởng dưỡng lòng tận tụy cùng đạo sư. Còn có thí dụ của nhiều vị lạt ma khác sẵn sàng cho ta học hỏi và noi theo. Lấy thí dụ của đại Lạt ma Tông Kha Ba (Tsong Khapa), đã giữ gìn mối liên hệ sư-đồ thật tinh tế cùng tất cả chư đạo sư của mình, cả trong tư tưởng lẫn trong hành động. Ngài khích lệ và nhấn mạnh đến tầm quan trọng của mối liên hệ này cho tất cả đệ tử của mình.

7. Quy y

Chư thiên cõi này chưa hết lo,

Vẫn phải luân hồi, một ngày kia.

Vướng bận như ta, sao che chở?

Trong tù còn giải thoát ai khỏi?

Nhưng Phật, Pháp, và bậc sống nương,

Tự tại cứu độ – chẳng phụ lòng.

Hãy đến quy y cùng Tam Bảo –

Chư Bồ tát trọn hành cách đó.

Đoạn thứ bảy nói đến việc quy y, là một trong các tu tập của Bồ tát. Chúng ta đã biết tầm quan trọng của quy y đối với chúng ta, nhưng để nhấn mạnh sự hệ trọng của quy y, tác giả nói, “Hãy đến quy y cùng Tam Bảo – Chư Bồ tát trọn hành cách đó.” Đây là một trong các tu tập hệ trọng nhất của Bồ tát, bởi có quy y hay không chính là yếu tố xác định chúng ta có phải là Phật tử chăng, có theo học các giáo pháp Phật chăng, vân vân. Quy y cũng rất quan trọng vì ta liên tục bị hành hạ hoặc phiền nhiễu bởi các thứ khổ chung trong luân sanh, đặc biệt là khổ của tam đồ. Trách vụ cá nhân của ta là giải thoát khỏi sự dày vò triền miên trong luân sanh, và ta không thể tự mình làm nổi điều đó trong hiện tại. Do trong hiện tại nó vượt ngoài tầm khả năng của ta, nên cần phải có tha lực cứu độ.

Ta tầm cầu một vị nào đó có thể giúp ta phá vỡ các vấn đề luân hồi sanh tử. Vài người cho rằng mặt trời có thể làm điều đó cho họ; người khác lại trông cậy vào mặt trăng; và lại có những người tin tưởng vào vài vị thần linh trên thế gian. Nhưng các thần linh thế gian đại loại, đều không thể cung ứng cho ta điều ta mong cầu, vì chính họ cũng đồng cảnh ngộ, sống trong ngục thất của luân hồi. Bởi chính họ còn nằm trong trói buộc của luân sanh, làm sao họ có thể cởi trói cho một ai khác. Ta có thể nghĩ, nếu ta bị trói bằng sợi dây thừng, có thể dùng răng tháo gỡ. Tuy nhiên, trong trường hợp này răng không thể giúp ích, bởi vì tất cả các bộ phận trên cơ thể đều bị trói chặt bởi dây luân hồi. Tất cả chư thiên hoặc thần linh cõi thế gian, vì cùng hoàn cảnh trói buộc như loài người, làm sao có thể trao chỗ nương tựa hoặc trú ẩn mà chúng ta kiếm tìm.

Như vậy, chúng ta phải nương tựa vào ai? Có một đấng nào không man trá, không khiến ta thất vọng? Quy Y Tam Bảo. Chúng ta phải nương tựa vào Tam Bảo là những đấng không cô phụ và không man mị.

Đoạn này bảo, người ta cần phải quy y, nhưng không thảo luận làm cách nào để quy y. Có hai yếu tố giúp chúng ta có thể quy y: sợ luân sanh tin Tam Bảo. Hầu có nỗi sợ lớn vào khổ luân sanh, đặc biệt là hạ giới, chúng ta cần hiểu biết rõ các dữ kiện về luân hồi. Tuy nhiên, nói về hạ giới có thể rất đáng chán. Do đó, ta cần phải quán chiếu về hạ giới như hiện đang ở trong tình trạng đó, như phải trải qua các kinh nghiệm đó ngay lúc này.

Trong thiền định, đó là điều chúng ta phải cố gắng làm. Loại thiền định này chắc chắn sẽ phát khởi một nỗi sợ lớn trong tâm, và nỗi sợ đó là điều rất tuyệt vì nó là một trong các nguyên nhân chủ yếu khiến ta quy y. Nỗi sợ tự nó chẳng phải giải pháp, nhưng nó khiến ta phải đi tìm giải pháp. Vì ta biết sợ không giải quyết được vấn đề, nên phải tìm một đấng nào có khả năng giúp ta thoát khỏi luân hồi.

Nhìn quanh, ta thấy Tam Bảo có khả năng giúp chúng ta thoát khỏi vòng luân sanh. Vì ta biết chư vị có khả năng đó, nên khởi niềm tin chư vị sẽ ban hành. Như thế, yếu tố thứ nhì khiến ta quy y là niềm tin Tam Bảo có khả năng ban phát cho ta những gì vọng cầu.

Yếu tố thứ nhất, nỗi sợ lớn lao về luân sanh, dẫn đến yếu tố thứ nhì, niềm tin rằng Tam Bảo có thể ban phát cho ta sự tự do thật sự thoát khỏi luân hồi. Khi có hai thứ này phối hợp, nỗi sợ và niềm tin, chúng ta tất có thể tìm ra một chốn nương tựa quy y rất tinh thuần.

Để thêm chi tiết về điểm này, chúng ta trở lại cùng Lam Rim học thêm về Phật, Pháp, Tăng: Tam Bảo. Quý vị sẽ tìm thấy một thảo luận rất dài trong Lam Rim Chenmo. Trong cả kinh lẫn mật, việc quy y giữ vai trò hệ trọng nhất. Chẳng hạn, nếu ta chọn thành một tu sĩ, thì quy y là phụng vụ ngay lúc khởi đầu; đó là điểm khởi sự. Cũng thế, nếu chọn phát nguyện Mật tông, ta không thể phát nguyện Mật tông mà không có Bồ tát nguyện. Tuy nhiên, Bồ tát nguyện khởi đầu với việc quy y, làm điểm khởi sự cho tất cả các thứ tu tập. Giống như viên đá móng của một cao ốc, đó là nền tảng của trọn một tòa cấu trúc của các tu tập.

8. Ngưng ác hành

Đức Phật dạy, khổ phải đa mang

Của người kiếp sống lắm đau thương

Là quả bất hạnh do tai ác

Hại người trong nhiều đời kiếp trước.

Không muốn về sau khổ kinh hoàng,

Chớ nao núng dù phải thiệt thân,

Ngưng dứt mọi ác hành nguy hại –

Chư Bồ tát trọn hành cách ấy.

Đoạn thứ tám nói rằng ngưng ác hành là một trong các tu tập của Bồ tát. Không phải chỉ ngưng ác hành, mà không bao giờ phạm vào các hành đó, cho dù phải mất mạng. Đó chính thực là Bồ tát hành. Tại sao ta phải chọn việc mất mạng thay vì phạm ác hành? Không hiểu rõ lý do, có thể khó làm sự chọn lựa đó; thế nên tôi sẽ giải thích. Chúng ta không muốn đau khổ địa ngục hoặc cõi thấp trong bất cứ trường hợp nào. Điều đó ta không thể chấp thuận được. Cho dù trong nhân giới, trong bất cứ hoàn cảnh nào cũng không có hình thức đau hoặc não nào lại được mong muốn. Thế nhưng, tại sao ta lại chịu khổ nhiều đến thế? Câu trả lời là, khổ chính là nghiệp quả. Bởi lý do đó, ta phải ngưng mọi ác hành với tất cả nỗ lực khả thi, cho dù phải mất mạng. Làm điều đó chính là một trong các tu tập của Bồ tát.

Như thế, chúng ta cần biết qua đôi chút về cách tác động của nhân quả. Có thể nói không phải tất cả mọi hành ta làm trong ngày đều tiêu cực. Đúng vậy. Có ba loại nghiệp hành khác nhau chúng ta có thể tạo ra trong một ngày: ác hành, thiện hành, và vô ký hành.

Một hành chín dưới hành thức một quả tốt đẹp là điều ta gọi là thiện hành hoặc thiện nghiệp. Các hành mang lại quả khó chịu tạo thành ác nghiệp. Các hành không mang đến quả dễ chịu hoặc khó chịu được gọi là vô ký nghiệp. Các giải thích trên đến từ Lam Rim Chenmo và không đề cập đặc biệt trong bản văn này, chỉ nói qua về nghiệp. Chúng ta có bổn phận phải tìm hiểu về nghiệp và các ảnh hưởng của chúng bằng cách quán triệt Lam Rim và các kinh văn khác. Chẳng hạn, trừ phi ta hiểu rõ về nghiệp, hoặc nhân quả, bằng không sẽ rất khó thiền quán hữu hiệu pháp môn Nhận và Cho (Tong-Len).

Giáo pháp trong Pháp Luân Vũ Khí Sắc Bén (The Wheel of Sharp Weapons) cũng đề cập đến một số nhân duyên ta đã tạo tác trong nhiều thời gian khác nhau. Kết quả, ta phải trải qua các kinh nghiệm tương ứng hoặc gặp một số các hoàn cảnh trong đời sống hàng ngày. Ta cần học cách tu tập hữu hiệu để có thể đạt vài sự điều phục trên các loại nhân duyên hoặc nghiệp ta đã tạo tác.

Nghiệp được thảo luận trong rất nhiều kinh văn. Điều ta phải làm là góp nhặt mọi nguồn tin, đưa vào tận nền tảng tâm thức, và áp dụng thực hành trong đời sống hàng ngày. Ngăn hoặc ngưng các ác hành không chỉ là trách nhiệm của tu sĩ, hoặc tăng và ni, mà là trách nhiệm chung của tất cả chúng ta như các cá nhân và như chư Bồ tát.

9. Cầu giải thoát

Như sương mai đọng trong phút giây

Trên đầu ngọn cỏ, sớm tan ngay,

Thú vui tìm thấy trong đời tục

Chẳng lưu tồn, thoáng qua khoảnh khắc.

Trong khi thành Phật được tự tại,

An lạc tuyệt vời chẳng đổi thay.

Tận lực đạt cứu cánh siêu diệu –

Chư Bồ tát trọn hành cách ấy.

Đoạn chín nói rằng, có sự thích thú hoặc ước vọng đắc Niết bàn chính là một trong các tu tập của chư Bồ tát. Khi nói về Niết bàn, hoặc giải thoát, ta có thể phân biệt hai loại Niết bàn: Niết bàn tổng quát và Đại Niết bàn (Niết bàn của chư hành giả Đại thừa). Cả hai loại Niết bàn đều tốt như nhau, và chúng ta có thể thích thú về một trong hai loại. Nhưng những ai đã quyết định làm hành giả Đại thừa phải biểu hiện một sở thích lớn hơn về Đại Niết bàn. Tại sao cần phải cho thấy sở thích hướng về Đại Niết bàn? Tất cả chúng ta đều hồi hướng Đại thừa đạo, cho nên chọn Giác ngộ như cứu cánh tối thượng vì hai lý do: cho ngã lợi, cũng như cho tha lợi. Không có Giác ngộ cá nhân, ta không thể độ tha trọn vẹn. Hơn nữa, Giác ngộ cá nhân là một bắt buộc.

Hầu làm điều tốt cho tha nhân, ta cần hoàn toàn giải thoát khỏi nhị chướng: chướng do phiền não [phiền não chướng] (kleshavarana) và chướng ngăn hiểu biết về phiền não [sở tri chướng] (jneyavarana). Không vượt qua nhị chướng, ta không thể làm gì tốt cho tha nhân cũng như bản thân.

Thêm vào đó, tất cả an lạc hoặc hạnh phúc tạm bợ tìm thấy trong tam giới có thể sánh với giọt sương trên đầu ngọn cỏ, thật phù phiếm, không sao tồn tại. Tất cả sẽ tan biến nhanh trong khoảnh khắc. Có thể nói trong tam giới (loka) – đó là vô sắc giới (arupadhatu), sắc giới (rupadhatu), và dục giới (karmadhatu) – mọi an lạc hoặc hạnh phúc tìm thấy thật ngắn ngủi. Chúng rất nhỏ bé, và thật ngắn ngủi, chỉ như một cái búng tay. Hơn nữa, có nhiều kinh nghiệm đến dường như hạnh phúc, nhưng lại mang bản chất của đau khổ. Chúng chuyển biến thành đau khổ, thế nhưng ta lại chẳng thấy điều đó, khi chúng hiện ra dưới dạng hạnh phúc; đó chính là sự thất bại của ta. Loại hạnh phúc đó quả ngắn ngủi, như sương đầu cỏ, chỉ vừa lúc có ánh mặt trời, là biến mất. Tất cả hạnh phúc thế gian đều như thế.

Điều ta cần chính là thứ hạnh phúc và an lạc vững chắc, khả tín, và trường tồn. Hạnh phúc tối thượng là điều ta cần. Nhưng thế nào là hạnh phúc tối thượng? Hạnh phúc tối thượng là trạng thái Niết bàn. Chỉ có trạng thái Niết bàn mới là hạnh phúc tối thượng. Giác ngộ chính là hạnh phúc tối hậu. Nói chung, bản văn nói rằng, tri kiến sự hệ trọng của trạng thái Giác ngộ tối thượng và nhận ra bản chất tầm thường của hạnh phúc tạm bợ ta kinh nghiệm qua đời sống hàng ngày, vốn không có ý nghĩa thật, là một trong các tu tập của Bồ tát. Cầu hạnh phúc của Giác ngộ như cứu cánh tối hậu, cho chính bản thân cũng như tha nhân, và bảo trì cảm khởi đó đêm ngày, là một trong các tu tập của Bồ tát. Các chi tiết về chủ đề này, được ghi trong Lam Rim Chenmo, phần về khổ tổng quát của luân hồi và đặc biệt là phần khổ trong tam hạ giới.

10. Phát Bồ đề tâm

Mỗi lần đầu thai, bao kiếp đời,

Lại được cưu mang bởi mẫu từ.

Bấy nhiêu bà mẹ còn luân lạc,

Nhẫn tâm sao đành, riêng ta thoát!

Muốn độ tha nhân, nhiều khôn lường,

Cứu các bà mẹ khổ thân thương,

Phát Bồ đề tâm, nguyện thành Phật –

Chư Bồ tát trọn hành chân thật.

Đoạn thứ mười nói, phát khởi bồ đề tâm (bodhichitta) là một trong các tu tập của Bồ tát. Tại sao chúng ta cần khởi bồ đề tâm? Chúng ta không cần bồ đề tâm chỉ để đạt đến an bình và Niết bàn cá nhân. Chẳng hạn như, chư A la hán (Arhat) của đạo lộ Thanh văn (Shravaka) hoặc Bích chi Phật (Prateyka-Buddha) có thể trụ trong trạng thái hạnh phúc, thoát khổ nhiều a tăng kỳ kiếp. Chỉ bằng đạt đến nhất tâm bất loạn trong một sát na thiền định, chư vị có thể thoát mọi đau khổ.

Nhưng chỉ điều này không đủ cho chúng ta, vì ta biết rằng mọi chúng sanh, mỗi một người, đều từng là cha hoặc mẹ ta. Ta không thể chấp nhận tự mình ở trong trạng thái hạnh phúc an lạc trọn vẹn nhiều a tăng kỳ kiếp, trong khi không lưu tâm gì đến tất cả người khác còn chìm đắm trong đau khổ. Hạnh phúc đó có tốt đẹp gì, khi ta nhìn thấy tất cả những người từng là cha mẹ mình đang ở giữa đau khổ, chỉ riêng mình ta vui hưởng hạnh phúc? Để hình dung, thử nghĩ nếu một trong số các thân nhân hoặc cha mẹ ta đang bị đọa đày và chịu hành hạ nơi lân cận, trong khi ta đang dự đại tiệc vui vẻ cạnh đó? Điều này có vẻ vô lý, nhưng lại chính là điều vẫn đang xảy ra.

Chúng ta cần hiểu tại sao mọi người đều bị ràng buộc vào khổ, và, hiểu được điều đó, hãy ước nguyện hay hứa hẹn với bản thân, rằng ta sẽ nhận trách nhiệm giải thoát họ khỏi vòng xích đó. Nhưng một khi phát nguyện (nhận trách nhiệm giải thoát mọi người khỏi khổ), ta hỏi, “Tôi có khả năng làm điều đó chăng?” Rồi ta nhận ra mình không có. Khi nhìn lại bản thân, ta thấy ngay giờ đây, mình chẳng chút sức mạnh hoặc ảnh hưởng nào để làm, nhưng nhìn về phía trước, có thể thấy trong một trạng thái Đại Giác ngộ, ta thật sự có thể giúp tha nhân thoát khổ. Nhìn ra điều khả thi một khi Giác ngộ, ta tất khởi một cảm hứng mạnh mẽ, “Bằng tất cả phương tiện, tôi sẽ nỗ lực tối đa đắc Đại Giác ngộ hầu độ mọi chúng sanh.” Như thế, chúng ta tăng cường được nguyện hứa đã đề ra. Một khi đạt điểm này, ta triển khai được bồ đề tâm và nhập Đại thừa đạo.

Có hai cách có thể triển khai bồ đề tâm, được giải thích trong Lam Rim Chenmo. Cách thứ nhất là phát nguyện bồ đề tâm qua một thánh lễ, hoặc trước sự hiện diện của đạo sư, hoặc trước chư Phật biểu tượng trên bàn thờ, chấp nhận một cách nghi thức nguyện bồ đề tâm. Khi nào ta triển khai một cảm hướng mạnh mẽ đắc Giác ngộ hầu độ trọn chúng sanh, tức là đã phát nguyện bồ đề tâm. Khi ta vun trồng bồ đề tâm, không những chỉ phát nguyện hoặc tuyên hứa, mà còn thật sự phải dấn thân vào các Bồ tát hành. Vì thế, trong Bồ Tát Hành Kinh, ngài Tịch Thiên (Shantideva) so sánh hai thứ bồ đề tâm với hai hạng lữ khách. Hạng lữ khách hoạch định làm một chuyến đi, tức đang ở trong trạng thái nguyện bồ đề tâm, và hạng khác đang thật sự ở trên đường đi, tức đang dấn thân vào bồ đề tâm hành.

Có thể tìm thấy các điều đó trong Kinh Bát Nhã, và tinh túy của Bát Nhã được xếp đặt trong tám chương của Đại Giác Trang Nghiêm Kinh (Abhisamayalankara). Tất cả các chi tiết về bồ đề tâm nằm trong chương thứ nhất. Tuy nhiên, chương thứ nhất được phân thành mười yếu tố biểu tượng cho sự toàn năng.

Trong mười yếu tố tiêu biểu cho sự Giác ngộ, đầu tiên chính là bồ đề tâm. Chúng ta được khuyến tấn phải luôn ghi nhớ ngày ngày đều tăng cường cảm nguyện đó và tự hứa “tôi sẽ cố gắng tối đa hầu đạt Giác ngộ độ trọn tha nhân.” Ta cần nghĩ đến điều đó nhiều lần mỗi ngày. Chẳng hạn như, tất cả chúng ta đều có bàn thờ, và mỗi buổi sáng phải cúng dường hoa tươi, trầm hương, hoặc một chén nước với lời nguyện rằng “Do phẩm hạnh của cúng dường nơi đây, con xin được Giác ngộ càng sớm càng tốt, cho trọn các chúng sanh.” Lập nguyện như thế rất hữu ích. Cũng vậy, cố tự nhắc nhớ các phần đặc biệt của tu tập Bồ tát, dạy rằng, cảm nguyện thường xuyên đạt Giác ngộ hầu độ trọn chúng sanh chính là một trong các tu tập của Bồ tát.

11. Hoán vị ngã tha

Mọi khổ ta mang, chẳng biệt trừ,

Đến từ ước vọng vui riêng tư;

Còn khi hành, ý cho tha lợi

Sẽ sanh vào tối thượng Phật vị.

Thế, nên hoán đổi tư dục tham

Chớ quên cảnh khổ của chúng nhân,

Chuyển lòng ích kỷ thành quan thiết –

Chư Bồ tát trọn hành không khác.

Đoạn thứ 11 nói, hoán vị ngã và tha nhân là tu tập của Bồ tát. Làm sao chúng ta có thể làm được điều đó? Khi ta nói hoán vị ngã tha, không có nghĩa một sự thay đổi nơi cư ngụ với người nào khác hoặc sự trao đổi tặng phẩm với tha nhân. Câu này muốn nói tất cả đau khổ là kết quả của ước nguyện hạnh phúc cho chính mình, hoặc ái ngã. Trong khi đó, Đại Giác ngộ là kết quả của tâm nguyện độ trọn chúng sanh. Vì lý do đó, “Bất cứ hạnh phúc gì tôi có, tôi sẽ gửi đến mọi tha nhân, và tất cả đau khổ của người khác, tôi xin nhận trên mình.” Câu đó được nói một cách hơi khác trong Bồ Tát Hành Kinh, cho là mọi khổ hoặc não là quả của tâm ái ngã, trong khi mọi hạnh lạc là quả của tâm ái tha.

Chúng ta cần biết khi đối diện đau khổ, cần quán xét nguồn gốc của nó, đặt câu hỏi, “Từ đâu nó đến?” Khi ta bất ngờ lâm bệnh, việc đầu tiên là tìm thầy thuốc hoặc một phương thuốc nào chữa bệnh. Ta không bao giờ học cách đối diện với nguyên ủy hoặc điều tra đến căn nguồn của nỗi khổ đó. Chẳng hạn như, nhức đầu là điều thông thường đối với tất cả mọi người chúng ta, và điều đó kèm theo một số khốn khổ. Nhưng, ta phải nhìn nhận rằng khổ do nhức đầu là kết quả của các hành bất thiện. Điều này mang ta trở lại cùng luật nhân quả, hoặc nghiệp lực, vì ác nghiệp mang đến cho ta đau khổ. Ta có thể hỏi, “Ác nghiệp do tự tôi tạo nên hay do người khác tạo?” Ta cần kiểm điểm lại điều đó. Nếu nghĩ đến nghiệp và cách nó vận hành, tất sẽ biết mọi hình thức của nghiệp do bất cứ ai tạo nên không thể kinh nghiệm bởi chính ta. Vì vậy, quả thật trong quá khứ, ta đã tạo nên một vài nguyên nhân cho cơn nhức đầu ngày nay. Có thể trong quá khứ, ta từng dùng cây đập vào đầu người khác, hoặc một điều gì như thế, khiến đời này phải lãnh một kinh nghiệm tương tự. Cách này hoặc cách khác, chúng ta chắc chắn đã tạo ra một nghiệp mang đến cho ta cơn nhức đầu này. Đó là ác quả đã chín muồi trên ta.

Hiểu các quán chiếu đó, ta cần tự hứa với chính mình, “Từ đây trở đi, tôi không bao giờ làm một hành động nào tác hại cho người.”

Ta cũng cần hiểu rằng tất cả hạnh phúc là quả của thiện hành. Sự thành tựu Đại Giác ngộ cũng là quả của độ tha hoặc nguyện độ tha.

Ta cần hiểu không có bồ đề tâm không thể đắc Đại Giác ngộ. Ta biết rất rõ làm sao để phát bồ đề tâm. Qua loại tiến trình niệm tưởng đó, ta học hiểu cần phải dấn thân vào việc tu tập hoán vị ngã với tha. Trong Lama Chopa có nói, “Điều chư Phật đạt được qua đức tha ái, và điều tất cả chúng sanh đạt được qua việc ngã ái; với tâm có thể nhận thấy sự khác biệt giữa hai điều trên, tôi xin có thể chuyển hóa mình vì người khác.”

Bởi ta chỉ quan tâm đến chính mình, nên cứ chìm đắm trong luân hồi. Trong khi đó, chư Phật hoàn toàn nghĩ đến chúng sanh, nên đắc Giác ngộ. Nhiều a tăng kỳ kiếp trước, đức Phật Thích Ca Mâu Ni và chúng ta đều ở trong cùng một hoàn cảnh, bị kẹt trong luân sanh, nhưng đức Phật đặc biệt chăm lo đến người khác, và bỏ quên thái độ vị kỷ, cho nên Ngài đã thành đấng Giác ngộ. Phân tích như thế, chúng ta phải học biết hoán vị ngã và tha. Có thể tìm thấy chủ đề này trong phần về bồ đề tâm thuộc Lam Rim Chenmo.

Tất cả các nguồn tin khác có thể tìm thấy trong Tràng Hoa Quý (Ratnamala) của Long Thọ (Nagarjuna), Trung Đạo Hành(Madhyamakavatara) của Nguyệt Xứng (Chandrakirti), và Bồ Tát Hành Kinh (Bodhicharyavatara) của Tịch Thiên (Shantideva), kết tập trong Lam Rim Chenmo, được trình bày dễ hiểu và cô đọng, tạo cho chúng ta các tiến trình khai triển tâm qua việc hoán vị ngã tha.

12. Hồi hướng thân, tài, đức

Nếu bị thôi thúc bởi tham dục

Khao khát tài vật chẳng sở thuộc,

Kẻ không may nào trộm của ta,

Hoặc thấy cướp giật, cứ tảng lờ;

Do tâm từ bi không nhiễm trước,

Nguyện trọn hồi hướng cho người đó:

Xin trao của, đức, lẫn hình hài –

Chư Bồ tát trọn hành cách này.

Đoạn thứ mười hai nói đến việc hồi hướng thân thể, tài vật, và đức hạnh cá nhân cho lợi lạc tha nhân, là một trong các tu tập của chư Bồ tát. Thông thường, cả kinh lẫn mật đều nhấn mạnh đến sự cần thiết phải hồi hướng hoặc trao tặng thân thể, tài vật, và đức hạnh của ta cho lợi lạc tha nhân. Đặc biệt, nếu ta đã nhận lễ điểm đạo Mật tông và đang là tu sinh, tất phải hứa nguyện hồi hướng thân, tài vật, và công đức cho người khác, sáu lần trong ngày. Nhưng đọc tụng sáu lần trong ngày không phải là đủ. Điều có nghĩa là hồi hướng chính là trao trọn cả ba thứ đó từ tận đáy lòng. Thế nên, nói thật chính xác, ta không còn sở hữu bất cứ thứ gì trong cả ba, vì đã hồi hướng chúng cho người khác. Nhưng, nếu ta không còn sở hữu, thì làm sao có thể sử dụng chúng? Bởi các thứ đó đều do tha nhân sở hữu, ta dùng chúng để đắc Đại Giác ngộ cho lợi ích của họ. Gần giống như là một tài sản đã trao cho chính phủ hoặc tổ chức nào đó, cho dù ta quản lý tài sản đó, tự mình kết toán các chuyển mục hàng ngày, nhưng chủ quyền tùy thuộc vào một người nào khác. Tương tự, cho dù thân, tài, và đức không còn tùy thuộc vào ta, vì đã được hồi hướng đến trọn chúng sanh, ta vẫn cần dùng đến chúng hầu đạt Giác ngộ lợi tha.

Đặc biệt, nếu ta đã khởi Bồ tát nguyện, cần phải hồi hướng tất cả các tài nguyên đó đến tha nhân trong mỗi ngày, sáu lần một ngày.

Những người lập nguyện Biệt giải thoát (Pratimoksha) [Ba la đề mộc xoa], như chư tăng ni, cũng không được phép giữ quá nhiều tài vật. Tuy nhiên, nếu chúng ta quản lý tài sản nào đó cho tha lợi, thì không vi phạm các nguyện này. Ta có thể làm quản lý tài sản, tạo thuận lợi cho tha nhân bất cứ khi nào có nhu cầu. Trong nhiều trường hợp, chúng ta phải cân nhắc giữa giới hạn và lợi ích, và theo cùng điều nào mạnh mẽ hơn. Trong văn bản này nói, giả như có một người tham lam nào đến và chiếm đoạt mọi thứ sở hữu của ta hoặc thuê một kẻ kia đánh cướp. Nếu có người cướp của ta như thế, thay vì nổi giận, ta chỉ hồi hướng tất cả các công đức ba thời của mình cho tha lợi. Có thể làm được điều đó chính là một trong các tu tập của Bồ tát. Lấy thí dụ, một kẻ trộm đến lấy của ta vật gì, ta cứ đưa nốt phần còn lại cho người đó, và cảm ơn đã làm việc đó. Điều này có nghĩa, nếu có kẻ nào cướp của, ta không nên giận kẻ đó mà phải học cách hồi hướng đức hạnh và các thứ của ta cho lợi ích của kẻ đó. Cho dù đó là điều khó làm nhất, học cách hồi hướng công đức và tài vật của ta cho một người nào hại mình, là một trong các tu tập chủ yếu của Bồ tát.

Tôi muốn đi vào thêm chi tiết về chủ đề này. Trong số ba thứ, thân, tài, và đức, tặng phẩm quý báu nhất chính là công đức. Khi trao tặng tài vật, có hai loại: tài vật của cá nhân ta, và tài vật của người khác. Chúng ta có thể khai triển khả năng trao tặng tài vật của cá nhân ta qua tinh thần, và cũng có thể trao tặng trực tiếp đến người khác. Tuy nhiên, ta không thể trực tiếp tặng dữ tài vật của người khác. Lấy thí dụ, nếu ta lấy của cải người khác, và trao tặng cho ai đó cần đến, hẳn sẽ lâm vào cảnh rắc rối to. Ta có thể học cách trao loại tài vật này qua tinh thần. Đặc biệt trong lễ điểm đạo Mật tông, phải đọc tụng một đoạn như sau:

“Thân, khẩu và ý của tôi, cũng như sở hữu và tài sản của tôi và người khác, tất cả các thứ đó tôi xin hồi hướng đến tha nhân.”

Giữa tài sản và thân thể, thân thể và các cơ phận còn khó trao tặng hơn nữa, vì thế đối với tân hành giả, việc trao tặng thân thể không được khuyến sách. Đặc biệt nếu quý vị có khả năng đạt đến thượng đạo và thành tựu nhờ sự trợ lực của tấm thân hiện hữu, tất sẽ cảm thấy chán nản nếu phải trao tặng thân này. Chư Bồ tát ở trình độ cao nhất có thể trao tặng thân bằng hai cách: một hàng Bồ tát nhận sự đau đớn khi trao tặng thân mình, trong khi hàng Bồ tát khác không nhận chịu đau đớn khi trao tặng thân mình.

Các vị Bồ tát trên Tích Đạo và Chuẩn Đạo phải chịu đau đớn và khổ sở khi trao tặng thân mình. Cho dù rất là đớn đau, nhưng nếu vì tha lợi, chư vị vẫn cao cả chấp nhận nỗi đau đó. Để đối chiếu, trong Bồ Đề Hành Kinh (Bodhicharyatavara) nói, chư Bồ tát thập địa, đắc tri kiến vô niệm trực khởi về không tánh, không còn đau đớn nữa, cho dù thể xác hoặc tinh thần, khi trao tặng bất cứ phần thân thể nào của họ cho người khác.

Khi chúng ta tu tập pháp Chod, hoặc là pháp Thiền Cắt, ta mời tất cả các tinh linh đến và dùng tinh thần trao tặng thân thể, máu, xương, và mọi thứ cho họ. Điều này được làm ở trình độ quán tưởng. Chúng ta tưởng tượng họ đến khi được mời, và hưởng thụ thân thể của ta, nhưng ta không làm điều đó trên thực nghĩa.

Khi ta hình dung mình như một hóa thánh (yidam), ta biết mình không phải là hóa thánh vào lúc bấy giờ, nhưng do sức mạnh của sự tưởng tượng, ta sẽ trở thành hóa thánh trong tương lai.

Như thế, sự trao tặng thân, tài, và đức mà ta đã, đang và sẽ sở đắc trong tương lai – trao tặng tất cả các thứ đó, ít nhất trên trình độ tinh thần, quả là điều quan trọng đối với chúng ta.

Chẳng hạn, khi nhìn thấy một người nào bệnh nặng và đang đau đớn, cho dù ta chỉ thấy có mỗi một người đang kinh nghiệm điều đó, nhưng có thể học nhìn người đó như là đại biểu của trọn thành phần chúng sanh lúc bấy giờ đang chịu cùng loại hành hạ. Về mặt cá nhân, ta có thể dùng việc này như một cơ hội hầu làm điều gì đó cho mỗi chúng sanh phải trải qua cùng kinh nghiệm, bằng cách cầu nguyện họ có được một linh dược có thể giải trừ tất cả khỏi khổ đau. Đồng thời, dùng tinh thần tạo thành một thứ linh dược phủ trùm trọn hiện cảnh, có thể chữa lành hết các vấn đề tương tự. Nếu chúng ta có thể làm được điều đó ở trình độ tinh thần, sẽ là một việc rất hữu ích.

Chúng ta có thể luyện tâm hầu thỏa đáp các ước vọng của những người đói bằng cách trao thức ăn cho họ; của những người khát bằng cách trao nước cho uống; của những người rách rưới bằng cách trao quần áo; hoặc những người vô gia cư bằng cách trao cho chỗ ở; vân vân. Chúng ta cố đáp ứng tất cả các nhu cầu của họ bằng tinh thần, hầu cho họ được thỏa mãn trọn vẹn. Làm huấn tập luyện niệm tưởng đó, lập đi lập lại nhiều lần, sẽ gia tăng sức mạnh và khả năng tinh thần của ta. Bởi lý do đó, ngài đại Long Thọ (Nagarjuna), trong Tràng Hoa Quý, dạy rằng, “Đối với những người mà độc dược có lợi hoặc chữa bệnh, hãy cung cấp độc dược.” Hãy lưu ý, ngài không phải nói, “Trao độc dược cho ai muốn độc dược.” Nếu ta trao độc dược cho loài công, nó rất thích thú; nhưng nếu ta chia sẻ cùng thứ đó cho loài quạ, nó sẽ chết. Thế nên, điều cần làm là phải kiểm điểm bất cứ điều gì khi nào trao tặng, giúp đỡ hay không. Chẳng hạn như, trao rượu cho người nghiện không được việc, bởi vì nó sẽ làm hại họ thêm. Cũng không trao thuốc cho người nghiện hút. Nếu vật ta trao có vẻ giúp ích tạm thời, nhưng cuối cùng lại làm hại người đó, tốt nhất là đừng trao. Phải luôn luôn kiểm soát xem điều ta cố làm có hữu ích và vô hại chăng. Ta có thể có thiện chí muốn giúp đỡ, nhưng cũng cần có trí tuệ để nhận xét xem điều gì thật sự hữu ích và điều gì không. Nếu ta thấy một người lộ vẻ thất vọng, và dùng sự thất vọng đó để xét đoán việc trao tặng cho họ những gì dường như là nhu cầu cấp bách nhất thời, điều đó có thể sai lầm.

13. Nhận ác nghiệp tha nhân

Mặc dù ta chẳng tội tình chi

Và không hại ai suốt trọn đời,

Nếu có kẻ dọa đoạt mạng sống

Chỉ bởi điên rồ tâm loạn động,

Dung thứ cầu người qua khổ tai,

Thoát khỏi đọa bất hạnh sau này.

Vô ngã nhận quả hành khốn khó –

Chư Bồ tát trọn hành cách đó.

Đoạn mười ba nói rằng, nhận chịu ác hành của kẻ khác hại ta là một trong các tu tập của Bồ tát. Chẳng hạn như, nếu có người nào buộc tội ta sai lầm và rồi đánh đập ta; cho dù ác nghiệp phải thuộc vào kẻ đó, nhưng ta nên khởi nguyện hoặc vọng mạnh mẽ chấp nhận lấy ác nghiệp này như của chính mình. Nhận lãnh ác nghiệp đó trên ta, qua sức mạnh của từ bi, là một trong các tu tập của Bồ tát. Điều này rất thẳng thắn và dễ hiểu. Lấy thí dụ, nếu ta bị người nào đó đánh gần chết, trong khi mình chẳng có sai lỗi chi, tất quả của người đó sẽ tàn khốc khi nghiệp đã chín tới. Hiểu điều đó, từ bi khởi dậy mạnh mẽ, và ta có thể chấp nhận ác hành đó như là thành phần ác nghiệp của chính mình. Khả năng làm được điều đó là một trong các hành của Bồ tát. Nếu có người giành giật lấy thức ăn của ta, kết quả là người đó sẽ bị đọa xuống địa ngục, ngạ quỷ, hoặc súc sanh. Hiểu được hậu quả nặng nề của hành vi đó, ta khởi đại từ bi và sẵn sàng nhận lãnh ác nghiệp đó về mình.

Nhận thấy nghiệp quả tích tụ cho người, và do đó cầu mong nó sẽ chín trên ta, là một trong các tu tập của Bồ tát. Nếu ta có một nơi cư ngụ rất an bình, có kẻ nào đó trục xuất ta ra khỏi một cách sai lầm, và chiếm cứ lấy, thì quả của hành đó có thể chín trong địa ngục nơi mà nghiệp quả tương đương với nhân duyên. Ngay dù ở trong cõi người, kẻ đó vẫn phải lãnh chịu khó khăn trong việc tìm nơi cư ngụ, lang thang không chỗ ở, sống không nhà suốt trọn đời.

Nhìn thấy nghiệp nặng có thể rơi trên người đó do bởi hành động chiếm cứ nhà đất của người khác, cầu mong nhận lấy ác nghiệp đó về phần mình, chính là một trong các tu tập của Bồ tát.

Ta đã có rất nhiều thí dụ về nghiệp, nhưng tôi sẽ đưa thêm một cái nữa. Nếu người nào nói dối ta, lừa đảo ta, và ngay cả phản bội ta, kết quả có thể, tệ hại nhất là chín ở địa ngục. Nhưng cho dù người đó tái sanh làm người, vì quả tương đương với hành, nên không ai coi trọng hoặc tin lời của họ. Hiểu hậu quả của hành động đó, với đại từ bi, nhận lấy ác nghiệp của hành trên chính mình, là một trong các tu tập của Bồ tát. Có rất nhiều khởi nguồn cho tu tập này, nhưng then chốt chính là Bồ Đề Hành Kinh (Bodhicharyatavara) của Tịch Thiên (Shantideva), nói rằng, “Xin tất cả ác nghiệp của mọi người khác chín trên tôi, và xin tất cả hạnh phúc và công đức của tôi chín trên người khác.”

Tu tập này bắt nguồn từ dòng trên của Bồ Đề Hành Kinh.

14. Ngợi khen thay phỉ báng

Nếu ai đồn xấu hoặc phỉ báng,

Về ta, lời ác khó chịu đựng,

Cả khi những điều bị rêu rao

Lắm người tưởng thật cứ tin theo;

Bởi ta vẫn mong kẻ bêu rếu

Vượt khó khăn và tâm thư thái,

Nên ngợi khen xử tốt với người –

Chư Bồ tát trọn hành cách này.

Tu tập Bồ tát thứ mười bốn là đáp ứng lại lời phỉ báng bằng lời ngợi khen. Khi có người cố hại ta bằng cách mắng chửi hoặc nhục mạ, hãy hồi đáp lại bằng những lời ngợi khen hoặc tán dương các phẩm tánh của người đó, chính là một trong các tu tập của Bồ tát.

Ngay dù người đó nói các lời khó nghe chống báng ta, đủ lấp đầy một trăm triệu thế giới, vẫn phản ứng bằng một tâm đại từ bi, ca ngợi các đức tánh của họ, và nói những lời dễ nghe về họ. Có bốn tu tập giúp cho một người thành đức hạnh hoặc chân hành giả. Thứ nhất là ngay dù ta bị mắng chửi, cũng đừng mắng trả. Dĩ nhiên, hành động như thế chẳng phải dễ đến. Nó đòi hỏi một sự kiên trì tu tập. Một trong các lý do nó quả thật rất khó là vì chúng ta đã được huấn luyện cách đáp trả lại lời mắng chửi ngay từ lúc đầu đời, và mắng trả dễ dàng đến với ta hơn là cố gắng ý thức đừng làm như vậy.

Bản năng của ta, nếu bị người nào mắng, là trả lại một chữ gấp đôi mắng ngược lại người đó. Đó là thói quen từ huấn tập trước đó, nhưng ta có thể buông bỏ điều đó phía sau. Dĩ nhiên, chúng ta không thể có một huấn tập nói các điều dễ thương cho một người mắng chửi ta thường xuyên, vì thế nên khởi đầu tập luyện ngay từ bây giờ. Đừng dời lại vào ngày hôm sau, hoặc ngày tiếp theo sau nữa, hoặc năm tới. Hãy nói, ta hãy khởi đầu ngay từ bây giờ. Dĩ nhiên, không ai trong chúng ta đối diện một thứ khủng hoảng đại loại vào ngay lúc này, nhưng nếu một tai họa như thế xảy ra, thì thay vì chỉ lập lại tập quán cũ, hãy tự nhắc nhở đến điều đang được khuyến tấn nơi đây. Đó chính là một sự chọn lựa tốt.

Tuy nhiên, nếu chúng ta không quen làm điều này, khi người nào mắng ta và ta khen trả họ ngay, thì người đó có thể xem như ta đang mắng trả gấp đôi, vì họ không quen nhận lấy thứ ngợi khen loại đó. Trong quá khứ, ta có thể không trả lời mắng của họ bằng lời nặng nề, nhưng lại có xu hướng ghìm giữ, chờ đúng lúc sẽ đáp lại xứng đáng. Thay vì vậy, từ giờ đây, cho dù ta không khen họ ngay tức thời, cũng nên chờ khi có tập họp bạn bè và thân hữu, để nói với họ rằng người đó thật là tuyệt, nhấn mạnh đến các đức tánh và ngợi khen chân thành.

Nếu ta nói lời như là khen tặng, mà cứ nhắc đến những hành động tiêu cực của người đó và tán dương chuyện đó, tất chẳng phải cách ngợi khen đề cập ở đây. Ta không nên khuyến khích bất cứ hành động xấu nào người đó từng làm. Chẳng hạn như, nếu người đó giết nhiều người trong chiến tranh, và ta khen ngợi là hành động dũng cảm, đó không phải điều hữu ích. Hoặc nếu ta khen người đó uống được nhiều bia, lời khen đó cũng chẳng bổ ích gì. Trong thực nghĩa, đó không phải là khen ngợi, mà là phỉ báng. Chúng ta cần nghĩ chín chắn về điều mình nói, và cố khả ái trong việc đó.

15. Xem kẻ thù như đạo sư

Nếu ngay giữa đám đông tụ lại

Có người cứ nhằm ta ngược đãi,

Lớn tiếng phơi bày các lỗi lầm,

Cười chê các nhược điểm vẫn còn.

Chớ nên giận hay cố chống đỡ,

Lặng nghe và ghi nhận lời họ,

Kính lễ người như một vị thầy –

Chư Bồ tát trọn hành cách này.

Hầu có thể xem một người đang mắng chửi ta trước một đám đông tụ tập như một vị thầy tâm linh, chính là một trong các tu tập của Bồ tát. Thế nên, ở đây tôi có một câu chuyện. Có một lần, một vị đại lạt ma Ca Đương (Kadampa) đang thuyết pháp trước một đám đông thính chúng, trong đó có một phụ nữ chẳng ưa thích gì ông. Bà có một đứa con và bế đứa bé đó đi vào giữa hội chúng, đặt nó trên đùi vị lạt ma và nói, “Hãy nhận đứa bé này lại. Nó là con ông.” Vị lạt ma đáp, “Cảm ơn rất nhiều,” và ông nhận đứa bé. Quả thật, người tạo ra một cảnh huống rất bối rối được xem như một vị thầy, trong ý nghĩa người đó tạo cho ta một cơ hội thật tuyệt hầu triển khai lòng nhẫn nại. Nếu một người nào đó mắng ta thậm tệ trước đám đông, hét to cho mọi người nghe rằng ta là một kẻ tệ hại ra sao, và phổ biến một cuộc lăng mạ tệ hại nhất về ta, để đáp lại, ta cần cho thấy một sự nhẫn nhục mạnh mẽ, và nhìn người đó như một vị đạo sư chân thật. Đó là một thách đố lớn lao, nhưng là một trong các tu tập của Bồ tát.

Như đã được đề cập trước đây, có bốn phẩm hạnh của một chân hành giả. Cho dù có ai chỉ trích ta, ta không nên chỉ trích ngược.

Ngay dù có người cố ý bới tìm lỗi ta, ta không nên trả lại. Cho dù có người nổi giận với ta, ta không nên giận ngược lại. Ngay dù có người đánh đập ta, ta không nên đánh trả lại. Đó là bốn tu tập tạo cho một người thành một hành giả. Thông thường, chúng ta rất dễ tự xưng mình là hành giả Pháp, khi không có cảnh ngộ gì xảy ra, nhưng dưới hoàn cảnh khó khăn, ta có thể đánh mất cái nhìn ấy. Điều quan trọng là phải nhớ các trọng điểm ấy từng giây phút.

Nếu ta giữ các chỉ dẫn đó trong tâm và dùng chúng trong đời sống hàng ngày, ta sẽ có thể giữ tấm mộc che của nhẫn nhục và bao dung, bất cứ khi nào phải đối đãi với sự đả kích lăng nhục. Một lần nữa, đây là một trong các tu tập chủ yếu của Bồ tát.

16. Từ ái vô điều kiện

Nếu người ta thương và chăm lo

Như mẹ hiền cưng quý con thơ,

Đáp lòng tận tụy bằng oán ghét

Xử ta như kẻ thù sâu nhất,

Hãy xem việc đó bệnh nguy nan

Hành con mình và dấy động tâm,

Càng yêu quý hơn và tử tế –

Chư Bồ tát trọn hành cách đó.

Nếu có người nào ta chăm sóc và nuôi dưỡng như con ruột duy nhất của mình, lại đáp trả bằng cách xem ta như kẻ thù khủng khiếp, hãy tiếp tục chăm sóc người đó như bệnh nhân, đó là một trong các tu tập của Bồ tát. Giống như người mẹ cho thấy tình yêu và chăm sóc vượt bực, đặc biệt khi đứa con lâm bệnh, ta có thể vẫn trân quý người đó bằng tình thương luôn tăng trưởng. Trong Luyện Tâm Bát Đoạn, Geshe Langri Tangpa nói, “Nếu có người nào tôi từng giúp đỡ và chăm sóc, lại hãm hại ngược lại tôi bất ngờ; xin cho tôi có thể xem người đó là thầy tối thượng trong tâm mình.”

Cùng nội dung đó, Lạt ma Tông Kha Ba (Tsong Khapa) nói, “Bất kỳ ai nói lời khó nghe cùng tôi, xin cho tôi được đối đãi họ với tình thương vượt bực, như tình mẹ đối với con thơ.” Trong nhiều kinh văn khác, chữ nghĩa khác nhau hoặc cách kết cấu khác nhau, nhưng thật ra cũng chỉ đến cùng một điểm. Nếu chúng ta chăm sóc người nào đó suốt nhiều năm, và người đó phản bội ta, khiến ta vô cùng giận dữ. Chúng ta đặc biệt giận người có thái độ đó vì nghĩ rằng, “Tôi đã làm quá nhiều điều cho tên đó. Tôi là người đảm trách mọi thành công và hạnh phúc cũng như giàu sang hắn hiện có.” Nghĩ đến các điều đó, sẽ khiến cho ta đặc biệt giận về điều mà người này đã làm.

Khi cơn giận dấy lên do kết quả của ý nghĩ đó, thay vì giận dữ, giờ đây ta phải có thể thế bằng tình thương và từ bi đặc biệt dành cho người đó. Ta phải học làm điều đó ngay từ bây giờ, bởi vì tất cả chúng ta, như các chúng sanh tầm thường, vốn rất dễ bị xúc phạm bởi loại cảnh ngộ đó. Chẳng hạn như, nếu ta đã từng giúp đỡ một người nào đó, và rồi yêu cầu ban cho một đặc ân nào đó như, “Có thể làm hộ tôi điều này điều đó hay không?” và người đó đáp, “Tôi bận lắm, tôi không thể làm ngày hôm nay,” thế là ta nổi giận. Lý do của cơn giận là vì ta đã giúp người kia trước khi anh ta cần được giúp, giờ thì ta hy vọng được đáp trả. Khi không nhận được, tất cơn giận dấy lên. Lời khuyên là ta nên cố đảo ngược cơn giận bằng tình yêu dành cho người đó, như người mẹ quan tâm đến con duy nhất của bà. Khi bảo cho thấy sự thương yêu và tình mẫu ái dành cho người đó, không có nghĩa phải đi đến tận nơi và chăm sóc; đúng hơn, là thay đổi thái độ trong tâm ta, phát khởi từ bi thay vì sân hận.

17. Khiêm tốn nhận phê phán

Bạn ngang hàng hay kẻ kém thua

Về trí, tâm linh, hoặc sang giàu,

Mắng ta xem không ra gì hết

Do lòng ngã mạn và ghen ghét,

Xem họ như thầy dạy ta luôn

Khiêm tốn và trừ tánh kiêu căng,

Tôn trọng và đặt họ cao cả –

Chư Bồ tát trọn hành cách đó.

Nếu người nào ngược đãi hoặc nhục mạ ta, không nên để cho sự sỉ nhục hoặc bạc đãi nhận chịu khiến ta chán nản. Thay vì vậy, ta phải xây dựng hùng tâm, và chịu trách nhiệm về hành động của họ.

Nếu người cố sỉ nhục ta lại là kẻ ở địa vị thấp kém hơn, ta không nên nản lòng, thay vì vậy hãy xem người đó như thầy mình. Đoạn này còn dạy, khi một người ngang hàng hoặc kém thua ta, qua sự kiêu mạn hoặc tự phụ, cố sỉ nhục hay lăng mạ ta, hãy chấp nhận người đó một cách tôn trọng như là nhận vị thầy tâm linh của mình, đó là một trong các tu tập của Bồ tát.

Đây là một trường hợp khó, vì ta nhận chịu nhục mạ từ là kẻ vốn thua kém mình, hoặc nếu là bạn ngang hàng, thì sự tự phụ của ta càng khiến lời chỉ trích khó chấp nhận hơn. Tuy nhiên, ta phải học cách luyện tâm hầu thực hành dễ dàng hơn. Ta gặp trường hợp này ở bất cứ nơi đâu. Đặc biệt là chỗ làm việc, nếu có người kém thua tài lại cố lạm dụng và hạ thấp ta, rất dễ khiến ta cảm thấy mất mặt. Dưới hoàn cảnh đó, ta dễ nổi giận hơn bình thường, vì khi đã thấy khả năng, học lực, hoặc tinh thần trách nhiệm của người đó kém xa mình, ta cảm thấy lời nhục mạ từ họ quả không thỏa đáng. Chẳng hạn như, nếu có người ngang ta về cấp bậc hoặc việc làm, cố gắng qua mặt ta hoặc ra vẻ làm chủ, điều đó khiến ta rất giận, vì người này không có thẩm quyền làm vậy. Ta đặc biệt giận nếu có người dưới ta lại thăng cấp hoặc kiếm tiền nhiều hơn.

Trong trường hợp đó, tâm ta bắt đầu đưa ra đủ thứ lý do không thích đáng, điều này sang điều khác, để giải thích tại sao ta nổi giận. Đó chính là lúc ta nên học không sân hận hoặc nổi giận đối với người đó. Đó chính là trọn cả một huấn tập.

Hơn nữa, ta phải ý thức người đó tử tế biết bao đối với mình. Bởi vì tất cả chúng ta đều cảm khởi Giác ngộ, và Giác ngộ không thể đạt nếu không có sự giúp đỡ của tha nhân, mà người đó trở nên một lực đặc biệt thuộc về Giác ngộ. Trong khuôn khổ cung ứng cho ta cơ hội đạt Giác ngộ, người này ngang cả đức Phật cũng như vị đạo sư của ta. Điểm này có thể không ý nghĩa lắm ngay lúc này, và ta còn nghĩ nó không thực tiễn lắm. Nhưng nếu ta nghĩ về nó, và thân quen cùng tư tưởng, dần dà ta sẽ thấy vài tiến triển, và thái độ ta trở nên tiến triển.

18. Nhận khổ tha nhân

Dù chỉ là người khốn khó thay

Luôn bị bạc đãi lắm đắng cay,

Nếu cứ bệnh hoạn dày vò mãi

Lại bị hại, đớn đau, ngăn ngại,

Hãy nhận đau khổ của tha nhân

Phải chịu đựng do lỗi đã làm,

Đừng mất dũng tâm khi nhận khổ –

Chư Bồ tát trọn hành cách đó.

Đoạn thứ mười tám nói, nếu chúng ta thường xuyên bị người khác mắng chửi hoặc sỉ nhục, đáp lại, ta phải chia trách nhiệm làm giảm sự đau khổ và ngăn chướng của họ, và giúp họ đạt Giác ngộ.

Đó là một trong các tu tập của Bồ tát. Hai đoạn mười bảy và mười tám có vẻ tương tự, nhưng thật ra có một khác biệt khẳng định.

Đoạn mười bảy khuyến tấn ta xem người hạ thấp mình như thầy tâm linh; trong khi đoạn mười tám khuyên ta nhận nỗi khổ và ác nghiệp của họ trên bản thân.

Đoạn mười tám nói rằng ta phải giữ gìn dũng tâm tu tập thường xuyên pháp Nhận và Cho (Tong-Len) và không nản lòng cho dù gặp nghịch cảnh. Bồ tát trì hành Tong Len cho dù bị tấn công bằng chửi mắng, bị tinh linh ám ảnh, hoặc bị bệnh tinh thần, thể xác, hay sợ hãi, hoặc thiếu thốn các nhu cầu cần thiết – như thức ăn, áo quần, chỗ ở hay bạn bè. Thông thường, nếu không có thức ăn hay nước uống, thì đó là lúc ta đặt sang bên việc tu tập Pháp để tìm thức ăn. Lấy thí dụ, nếu bị nhức đầu hoặc đau bụng, tự động ta giảm bớt việc tu tập Pháp hoặc dời sang ngày khác. Các điều này xảy ra, nhưng đoạn này khuyến tấn ta nên đặt việc tu tập Pháp lên hàng đầu – cho dù phải trải qua thời gian hạnh phúc hoặc khốn khổ.

Có một thành ngữ Tây tạng soi tỏ điểm này, “Khi được ăn ngon và khí hậu tốt, ta trông giống như một du già hoàn hảo, nhưng khi nghịch cảnh rơi xuống, ta trở nên một kẻ tầm thường.” Khi gặp vài khó khăn, ta không nên giảm bớt tánh cách du già, mà phải luôn là du già bất cứ trong cảnh ngộ nào. Cho dù chuyện xấu gì xảy ra, phải cố xem chúng như hữu ích cho tu tập Pháp. Dùng khó khăn làm thuận lợi, chúng sẽ trở nên phương tiện cho phép ta đạt cứu cánh, đó chính là Giác ngộ. Bởi lẽ đó, trong Luyện Tâm Thất Điểm của Geshe Chekawa, có một đoạn đặc biệt nói, “Chuyển nghịch cảnh vào đạo Giác ngộ.” Cũng vậy, Ban Thiền Lạt ma (Panchen Lama) Chokyi Gyeltsen, trong quyển Lama Chopa, viết, “Dù thế giới và chúng sanh trong đó đầy ác quả, và đau khổ không mong muốn cứ trút xuống như mưa trên tôi, gây cảm hứng cho tôi nhìn chúng như các phương tiện làm cạn nguồn ác nghiệp, và nhận lấy các điều kiện khốn khổ đó như Đạo.”

Ta gặp cảnh khó mỗi ngày, và nếu biết nghĩ như vậy quả là một niềm an ủi lớn. Nếu ta nhìn cảnh đau bệnh của mình, không nên khiến nó tệ hơn khi nghĩ rằng mình khổ. Khi nói đến hạnh phúc, có nghĩa là dùng cảnh bệnh và chuyển thành một thứ gì dẫn dắt đến Giác ngộ. Nếu ta đạt được thiện xảo làm điều đó, tất có lý do để an vui.

19. Tránh kiêu mạn

Được khen, nổi tiếng, ngưỡng mộ nhiều

Người kính trọng gặp luôn cúi đầu,

Dù có sản nghiệp thật vĩ đại

Ngang với kho tàng của Thần Tài,

Thế nhưng thấy rõ quả luân hồi,

Dù may mắn, chẳng phải tinh khôi,

Diệt mạn từ vinh hoa khởi dấy –

Chư Bồ tát trọn hành cách đấy.

Đoạn mười chín nói, nếu ta trở nên nổi danh và giàu có, điều đó không thể khiến ta thành kiêu mạn hoặc tự phụ. Một trong các tu tập của Bồ tát là không được kiêu mạn hoặc tự phụ trong các hoàn cảnh ấy. Một trong các nguy cơ khi trở nên danh tiếng là ta thường trở nên vô tình đối với chúng sanh. Khi thấy nhiều người hướng về mình, trở nên người ái mộ, thật khó giữ cái ngã khiêm tốn. Bởi lý do đó, ta phải cố điều phục tâm.

Khi trở nên nổi danh, đặc biệt khó đối đãi tôn kính lại những người ta xem thấp kém mình. Cũng thế, khi giàu có, ta trở nên kiêu căng. Ta có thể xu hướng xem thường người khác và mắng mỏ họ. Khi giàu có và nổi danh, cũng không cần buông bỏ. Thay vì vậy, nên học cách không bị ràng buộc hoặc chấp trước mạnh vào những lời ta nghe từ các người ái mộ. Hãy xem các lời đó như tiếng gió trong sa mạc, có thế chúng mới không ảnh hưởng ta. Thêm vào đó, nếu nhiều người bày tỏ sự kính trọng, ta hãy đáp trả lại, hầu giúp giảm bớt kiêu căng.

Ta có thể rất giàu sang, nhưng của cải cũng phù du như giọt sương trên đầu ngọn cỏ. Cho dù tôi có sản nghiệp hôm nay, sao biết được vào ngày mai, ai sẽ là chủ nhân của chính sản nghiệp đó. Thật chẳng gì khẳng định. Lấy thí dụ, một người có một cái tủ bằng vàng và chìa khóa vàng. Tuy nhiên, chuyện gì đó xảy ra vào ban đêm, và sáng hôm sau, chìa khóa đó thuộc về người khác. Thí dụ này cho thấy, khi ta có tài sản, tốt nhất là đừng nên bám víu và ràng buộc vào tài sản đó, mà nên cho thấy tâm quảng đại đối với người thiếu kém. Tôi xin trích dẫn một câu của đệ Thất Đạt lai Lạt ma, Kelsang Gyatso, “Một bề ngoài đẹp đẽ, trẻ trung, và giàu sang là một vài nguồn chính của sự ngã mạn.”

Đức Kelsang Gyatso, đệ Thất Đạt lai Lạt ma, viết Tán thán thỉnh Thánh Đức Quán Thế Âm (Praise to the Arya to request Avalokiteshvara) hầu kết tập tất cả chúng sanh trong vòng từ bi của ngài. Ngài viết tán tụng này hầu làm động tâm đức Quán Thế Âm. (Chữ Arya trong tựa đề chỉ đức Quán Thế Âm). Trong một đoạn có nói, những người ở trên cao, chẳng chóng thì chầy, sẽ trở nên người thấp nhất trong đám nô lệ bị chà đạp dưới chân. Những người ở địa vị cao, ở đây muốn chỉ các bà la môn (brahmin), hoặc những vị có tình trạng luân sanh cao nhất như vua chúa, sẽ dần dà rơi xuống chỗ thấp, và khi tái sanh chuyển hóa, họ sẽ trở thành nô lệ bị đàn áp bởi chủ nhân khác. Các điều này thật sự xảy ra, vì thế không lý do gì lại quá ràng buộc vào địa vị cao.

Vẻ bề ngoài đẹp đẽ trẻ trung – chỉ là giây phút và phai tàn dần như hoa mùa thu. Rất dễ hiểu. Các phẩm tánh đó nào khác gì hoa huệ chỉ nở đẹp mỗi một ngày rồi bắt đầu úa tàn vào ngày kế tiếp.

Nếu ta nghĩ về sự thật đó, ràng buộc hoặc kiêu mạn sẽ không khởi.

Chắc chắn là điều ta có trong thế gian này dần dà sẽ mất đi. Sản nghiệp ta có trong đời này giống như xâu chuỗi ta thuê mượn một thời hạn nào đó. Chỉ là vấn đề thời gian trước khi phải hoàn trả. Nếu ta thuê vài món trang sức và trở nên ràng buộc vào chúng, đó là dấu hiệu của trí khôn kém cõi, đặc biệt nếu ta có thái độ xem chuỗi thuê kia như thuộc về mình. Cùng một cách, môi trường ta đang sống, núi non, rừng rậm, biển cả, nhà cửa, sản nghiệp – tất cả các thứ đó, ta nghĩ mình sở đắc chúng, nhưng trên thực nghĩa, ta có sở hữu chúng chăng? Không. Bởi vì chúng đều phải được hoàn trả lại sau một thời gian.

Đức Đạt lai Lạt ma nói về tuổi thọ, “Cuộc đời tôi giống như tia chớp; nó quả là tạm bợ phút giây.” Thông điệp của ngài là, bởi vì cuộc đời quá ngắn, thật chẳng đáng chi nếu cứ cố trải qua bằng cách giữ gìn thân bằng và loại trừ cừu địch trong đời này. Nếu ta dùng khoảng đời ngắn ngủi cho mục đích đó, thì quả vô giá trị.

20. Diệt nội thù

Sân ẩn trong tâm bị lãng quên

Lại chuyển ngược ra ngoại thù nhân,

Cố tiêu diệt họ, giết hàng vạn,

Vạn kẻ thù khác lại hành hạ.

Thấy rõ bạo hành chẳng giải trừ

Hãy dụng lực nhân ái khoan từ;

Nội hướng điều phục tâm động loạn –

Chư Bồ tát trọn hành cách đó.

Trong đoạn hai mươi, nói rằng việc đối kháng dòng tâm bệnh hoạn bằng trợ lực mạnh mẽ của từ ái và bi mẫn là một trong các tu tập của Bồ tát. Trận chiến ta phải tham dự diễn ra trong nội tâm. Lực lượng tham chiến và lực lượng ta cố chinh phục đều ẩn bên trong ta. Đoạn này nói nếu ta không thể chinh phục được kẻ thù thật sự ở bên trong, đó chính là sự thù hận, thì dù có thắng bao kẻ thù bên ngoài, lại sẽ có thêm nữa. Các lực lượng từ ái và bi mẫn mà ta nói đến ở đây không phải là điều gì có thể đạt được từ một người nào khác. Có các thứ phẩm tánh ta cần phải phát triển tự bên trong. Dùng lực từ bi tiêu diệt sân hận là một trong các tu tập của Bồ tát.

Trong Bồ Đề Hành Kinh, ngài Tịch Thiên (Shantideva nói rằng, nếu chúng ta có nhiều mẫu đất đầy gai nhọn, thật khó dùng da che phủ trọn mặt đất. Nhưng nếu ta có một đôi dép bền chắc dưới chân làm bằng thứ da của sự nhẫn nhục, thì bao gai góc cũng đều khuất phục. Xem như ta có nhiều kẻ ngoại thù. Phải mất một thời gian lâu dài mới có thể diệt trừ được họ, nếu phải đối diện mỗi lần từng người một. Tuy nhiên, nếu ta chinh phục hận thù bên trong, tức kẻ nội thù, thì tất cả kẻ ngoại thù đều tự động biến mất. Thí dụ về bàn chân và mảnh đất đầy gai rất hữu ích. Ngoài ra, tất cả các điều trong Bồ Đề Hành Kinh do Tịch Thiên viết từ kinh nghiệm bản thân của ngài. Vả chăng, đa phần các kinh văn của các đại trí giả Ấn độ, các đại học giả và du già Tây tạng, cho đến nay, đều viết từ các kinh nghiệm bản thân của chư vị.

Cùng trong nội dung này, đệ Nhất Đạt lai Lạt ma, Gendun Drub, viết một bài thơ nhan đề Đông Tuyết Sơn Hành. Gendun Drub là đệ tử trực tiếp và đồng thời của Lạt ma Tông Kha Ba (Tsong Khapa). Thỉnh thoảng, ngài về thăm nơi cố quán Tsang.

Một hôm, khi đang ở Tsang, ngài đột nhiên cảm thấy rất nhớ vị lạt ma của mình, Tông Kha Ba. Thế nên, ngài đã làm bài thơ nói rằng, “Có một vầng mây trắng trên đỉnh núi dường như cố vươn lên trời. Nhìn vầng mây đó khiến tôi nhớ vị lạt ma từ ái của mình, và tôi trọn lòng tin nơi thiện tâm của ngài.” Trong bài thơ đó, trong một dòng ngài nói dak, có nghĩa là kẻ thù, nang, có nghĩa bên trong, và duk, có nghĩa là sống. “Ảo cấu là kẻ thù ở bên trong ta, thế nên ta phải chinh phục chúng.”

Mọi người ở đây, kể cả chính tôi, phải cố làm bằng trọn nỗ lực hầu khuất phục kẻ thù bên trong chúng ta. Nói cho đúng, tâm ảo cấu ta mang bên trong chính là kẻ thù thật sự. Để sáng tỏ hơn, tôi xin kể câu chuyện về một vị đại du già, ngài Milarepa. Có lần Milarepa thiền trong một hang núi bên trong rất tối tăm, trông như động ma. Ngài luôn lo sợ hôm nào đó có kẻ nào từ trong bóng tối xuất hiện và tấn công mình. Ngài rất lo sợ. “Có thứ gì đáng sợ sẽ xuất hiện từ chỗ đó và hại ta.” Một hôm bỗng hiện ra một ông kẹ trông thật dễ sợ, khủng khiếp. Trước tiên, Milarepa kinh hoảng. Rồi nhận ra được sự khiếp đảm của mình, ngài ngưng lại và bắt đầu quán xét sự tiến triển của trường hợp này. Ngài nhận thức đó chính là sự thêu dệt của chính tinh thần mình, sản phẩm của tâm mình, đã hiện ra vào lúc ấy. Bởi lý do đó, ngài làm một bài thơ như sau, “Trừ phi tâm ta khởi dậy như kẻ thù, thì không có lý do gì để ông kẹ đó đến như kẻ thù.” Sau khi ngài đọc bài thơ đó và ngồi thiền, ông kẹ biến mất.

21. Lìa buông lung căn trần

Buông thả các căn theo các trần

Và uống nước muối cũng như nhau.

Càng dùng nhiều vào cho thỏa thích,

Càng tăng tham muốn và khao khát.

Nên khi chớm bị cuốn hút vào

Bất cứ vật gì các căn ưa,

Cắt nhanh không chút chi do dự –

Chư Bồ tát trọn hành cách đó.

Đoạn thứ hai mươi mốt nói về việc loại trừ các vật vốn dĩ nguyên nhân trực tiếp của sự bám víu và ràng buộc, là một trong các tu tập của Bồ tát. Tất cả các ngoại hình đẹp đẽ của cõi dục giới (karmadhatu) cũng chỉ như nước muối. Các đối vật của ngũ căn – [ngũ trần] sắc, thanh, hương, vị, xúc – đều giống như nước muối ở biển. Càng uống nhiều nước biển, ta chỉ càng khát thêm. Thay vì giải khát, nó khiến tệ hại hơn. Tương tự, ta càng dung dưỡng các đối vật của ngũ căn, thì tham luyến và sân hận càng gia tăng. Không cách chi việc dễ dãi cùng các trần đó lại cho phép ta giảm thiểu sự tham luyến. Chẳng hạn, nếu ta yêu thích vẻ đẹp của một bông hoa, trước hết ta ngắm nhìn một đóa hoa, nhưng ngày kế tiếp, ta lại muốn một đóa hoa khác đẹp hơn nữa. Rồi ta lại ngắm nhìn, và cứ đi lòng vòng các tiệm hoa để tìm mua một bông hoa khác đẹp hơn. Hoặc, giả như ta là người yêu âm nhạc, ta cứ lắng nghe nhạc, và luôn luôn hy vọng được nghe một thứ âm nhạc hay hơn nữa. Lòng yêu nhạc đó khiến ta bỏ nhiều tiền mua dĩa hát và tham dự hòa tấu. Và không phải chỉ mất tiền bạc; thời giờ bỏ vào trong trình tự đó, với tất cả thời giờ phí phạm cho việc tham luyến âm thanh. Vài người cảm thấy họ phải mua dĩa nhạc, và khi họ cần dời nhà hoặc tái định cư, vấn đề lớn nhất của họ là làm sao mang theo hết các dĩa nhạc họ mua suốt nhiều năm trời.

Nếu ta say mê mùi hương, thì ta lại mất nhiều thời giờ, năng lực, cố đi tìm một mùi hương tuyệt hảo. Ta không bao giờ thỏa mãn mà cứ đi mua hết mùi nước hoa này sang mùi khác. Ta đi từ cửa tiệm này sang gian hàng nọ, bỏ nhiều thời gian, chỉ tìm một loại mùi hoàn hảo. Đó là kết quả của sự mê đắm mùi hương. Nếu ta lại say mê thực vị, thì cứ đi hết nhà hàng này sang quán ăn nọ, mà sự thèm muốn vẫn cứ tăng lên. Chẳng hạn như, đã được ăn một bữa thật ngon, ta chớ hề bảo, “Được rồi, ăn vậy là đủ.” Không, ta phải ăn một thức ăn gì ngon hơn nữa. Đó là cách sự thèm muốn thực vị cứ gia tăng mãi. Không hề có chấm dứt. Dĩ nhiên, ta cần sử dụng sức mạnh của ngũ căn, nhưng ta phải dùng chúng một cách chừng mực. Ta cần có cảm giác thỏa đáng của ngũ căn, để không phải mất nhiều thì giờ hoặc năng lực tìm kiếm các đối vật. Bởi ta quả thật dễ vướng vào tham luyến, nên tác giả đã khuyến tấn ta buông bỏ sự mê đắm hoặc bám víu vào ngũ căn ngũ trần. Đó là một trong các tu tập của Bồ tát.

22. Phá niềm tin hữu cố nhiên

Vật trông như hiện hữu chân thật

Chỉ do tâm ảo cấu tạo tác;

Tâm của ta từ thuở uyên nguyên

Nào có tinh túy thật cố nhiên.

Thức giác Chân đế vượt suy niệm

Từ vật được biết với người biết,

Giải phá niềm tin cố nhiên hữu –

Chư Bồ tát trọn hành cách đó.

Có hai tướng của hiện tượng [cảnh]: do đối thể và do tâm nhận biết đối thể. Đoạn thứ hai mươi hai nói, nhận thức tướng đối thể hoặc chủ thể chẳng phải tự chúng hiện hữu, đó là một trong các tu tập của Bồ tát. Cho dù cảnh thị hiện ra sao đối với ta, đều phát nguồn từ tâm ta. Nhưng chính tự tâm, vốn là khởi nguồn, cũng thiếu chân hiện hữu ngay từ chân khởi thủy. Đoạn này theo nghĩa ngôn từ, đừng chấp vào cảnh do tâm nhận thức cảnh, nhưng không có nghĩa không nên hiểu biết chúng. Đây chỉ có nghĩa đừng nhận thức chúng như tự hiện hữu chân thật và độc lập.

Ánh sáng là bản chất của tâm ta. Bản chất của tâm vốn không bị nhiễm cấu bởi các niệm tưởng, và các cấu hoặc trần cũng chẳng phải bất phân cùng tâm ta. Dĩ nhiên, ánh sáng của tâm tạm thời bị ám chướng bởi cấu trần bên ngoài, những hôn ám đó không phải tự bên trong tâm. Đức Di Lặc (Maitreya) dạy trong Tối Thượng Mật Luận (Uttaratantra), “Bản tánh chân nguồn của tâm sáng tỏ và các cấu trần bám vào chỉ tạm bợ hoặc ngẫu nhiên.”

Tất cả mọi cấu hoặc trược đều là tạm bợ hoặc ngẫu nhiên, và, do đó, không phải là thành phần của chính bản chất tâm. Do đó, chúng ta có thể giác ngộ. Một điển hình là chiếc áo khoác bám bụi. Dù chiếc áo bị dơ, nhưng bụi có thể tẩy sạch, bởi vì bụi đất chẳng phải bất phân cùng chiếc áo. Nếu cấu trược bất phân với tâm, thì không cơ may nào giác ngộ. Nếu ta chấp nhận niềm tin rằng cấu trược đã vào trong tâm và là một với tâm, tất nhiên khi ta tẩy cấu trược đi, cũng là mang theo cả tâm với nó. Nhưng không phải như thế.

23. Nhìn vật đẹp như ráng trời

Khi nào gặp một vật đẹp xinh,

Hoặc hấp dẫn vừa ý ưa nhìn,

Đừng bị lầm tưởng nó khác lạ

Hơn chi chiếc ráng trời mùa hạ:

Dù cả hai dường như đáng yêu,

Chẳng có thực chất sau mặt ngoài.

Tránh bị lôi cuốn bởi quyến dụ –

Chư Bồ tát trọn hành cách đó.

Đoạn hai mươi ba nói rằng, dù những vật hoặc người hấp dẫn xuất hiện trước ta, đừng tham luyến hoặc mê chấp vào đấy, đó là một trong các tu tập của Bồ tát. Nếu ta thật sự mang ý nghĩa đó trong tâm, thì dù ở trong một thành phố lớn như Los Angeles cũng chẳng gặp vấn đề gì. Thông thường ta có ý tưởng rằng, nếu sống ở thành phố lớn, ta dễ bị xúc chạm nhiều hơn bởi tham luyến, sân hận, và vô minh đầy dẫy. Nếu giữ ý niệm đó, tất ta đi sai đường, vì đang tin tưởng rằng mọi thứ đều từ bên ngoài đến, chứ không phải ở bên trong. Nhiều người trong chúng ta có ý niệm đó, nhưng không đúng chút nào. Nếu chúng ta không có hai yếu tố đó, tham luyến và mê chấp, thì dù ở thành phố lớn cũng chẳng gặp vấn đề gì.

Trong dòng đầu có nói, “Bất cứ khi nào tôi gặp một vật tuyệt đẹp hoặc hấp dẫn, xin cho tôi xem như là chiếc ráng trời mùa hạ trên đồng cỏ.” Giống như ráng trời, vật có thể hiện ra thật xinh đẹp trong mắt ta. Sự kiện vật hiện ra thật đẹp đối với ta hầu như do nhận thức tinh thần giả tạo. Ta tin rằng phẩm tánh thu hút của vật là cố hữu trong chúng. Thật ra, không có hiện hữu độc lập của một phẩm tánh nào cách rời khỏi nhận thức của ta về nó. Người ta có thể lập luận rằng, đây không phải là một thí dụ hay, bởi vì ráng trời không thể sờ chạm được. Trong khi đó, các vật mà ta thấy thật hấp dẫn có thể nói chuyện, sờ chạm, và cảm giác được.

Sự tương đồng giữa hai thứ trên nằm trong cách chúng đều tùy thuộc vào một số nguyên nhân nào đó. Ráng trời có điều kiện là hai trạng thái đến cùng lúc, ánh sáng và hơi ẩm. Khi ánh sáng và hơi ẩm đồng lúc hiện ra trong không gian, thì ráng trời xuất hiện. Các vật hấp dẫn khác là kết quả của nhiều trạng thái và điều kiện đến với nhau, tạo nên vật hấp dẫn đó. Tuy nhiên, không hề có sự hấp dẫn cố nhiên hiện hữu độc lập nào cả. Lấy thí dụ về một chiếc xe. Không có chiếc xe đẹp nào hiện hữu độc lập khỏi các thành phần của nó hoặc sự nhận thức của ta về nó. Chiếc xe chỉ là sự kết tập của rất nhiều điều kiện đến cùng nhau, và ta gán đặt, đó là một chiếc xe đẹp.

24. Nhìn điều không muốn như huyễn

Bệnh khổ phải chịu trong đời ta

Giống cái chết con mình trong mơ;

Chấp như thật điều vốn huyễn giả

Làm phí sức thân tâm vô bổ.

Bởi lý đó, gặp việc khó ưa

Cảnh thường tạo ra lắm khổ sầu.

Tiếp cận như chỉ là mộng ảo –

Chư Bồ tát trọn hành cách đó.

Đoạn hai mươi bốn nói, khi ta đối diện cùng đau khổ hoặc vật không mong muốn, hãy nhận thức về chúng như huyễn ảo, đó là một trong các tu tập của Bồ tát. Tất cả các loại khổ ta kinh nghiệm chính là quả của nhận thức sai lầm, giống như giấc mộng. Khi ta mộng thấy mất một trong các anh chị em hoặc đứa con duy nhất của mình, quả thật đau đớn, nhưng đó chỉ là thị hiện sai lầm. Sự khổ, đau, và lo sợ ta kinh nghiệm trong giấc mơ là thật ngay dù khi sự việc đó không hề xảy ra. Đôi khi ta còn khóc và sáng hôm sau thấy gối ướt đẫm. Đôi lúc ta thấy một điều gì thật buồn cười trong chiêm bao, và cười lên, có khi làm người ở gần phải thức giấc.

Trong nội dung này, tôi xin trích dẫn Tịch Thiên (Shantideva) trong Bồ Đề Hành Kinh, nói rằng, “Tất cả thể hiện của đau khổ được kinh nghiệm bởi địa ngục chúng là quả của nhận thức sai lầm [tà kiến], nhưng do ảnh hưởng của nghiệp, nó trở nên thật đối với kẻ nào gặp phải.” Do ác nghiệp, sự kiện kia trở nên thật đối với kẻ đó. Đấng tạo tác mặt sắt nóng bỏng của địa ngục [thiết vi địa ngục], có vẻ như trường tồn bao kỷ nguyên, thật ra chỉ là chính cái tâm tiêu cực [tà tâm] của ta.

Chư Phật giải thích các thể hiện đó đều chỉ là quả của tà tâm.

Trong trường hợp riêng, ta không thể nhìn ảo ảnh là ảo ảnh, mà nhận thấy nó hiện hữu chân thật. Do đó, vấn đề bắt đầu xuất hiện.

Đoạn này nói, “Từ đây trở đi, xin tôi có thể nhận biết sự thị hiện nhầm lẫn như chính nó.” Lại nữa, trong Lama Chopa có nói, “Tất cả nội cảnh và ngoại cảnh, vốn như ảo huyễn, khác nào giấc mộng hoặc phản ánh của trăng trên mặt nước hồ trong trẻo.

Cho dù chúng hiện ra, khi nhìn ra được khía cạnh thiếu chân hữu của chúng, xin tôi có thể viên mãn thiền định về như huyễn.”

25. Viên thí

Những bậc tận lực đến Viên Giác

Thí cả thân hướng vào mục đích;

Trước gương khôn sánh, nói làm chi

Đến thí phẩm tầm thường vật tài.

Chớ vọng cầu được đền lòng tốt

Không nghĩ cả đắc thêm công đức,

Dấn thân hành thí pháp quảng đại –

Chư Bồ tát trọn hành cách này.

Đoạn thứ hai mươi lăm nói về tu tập pháp thí [thí ba la mật] không cầu vọng đền đáp. Nếu những bậc hướng đến Giác ngộ thí đến chính thân mạng họ, thì ta còn đề cập chi đến các loại phẩm vật tầm thường cần tặng dữ. Phát tâm quảng đại thật sự nhằm trưởng dưỡng thí lực. Có bốn loại thí ta có thể tu tập: thứ nhất, tu thí tài vật [thí tài hoặc thí sắc]; thứ nhì, thí giáo pháp [thí pháp] – chia sẻ sự hiểu biết; thứ ba, thí từ bi [thí từ ái]; và thứ tư, thí quy y hoặc hộ trì [thí an hoặc thí vô úy].

Trong bốn loại, cao thượng nhất là thí Pháp. Chúng ta có thể không có thứ gì, kể cả một đồng xu, nhưng vẫn có thể tu tập bố thí chia sẻ Pháp cùng người khác. Khi nỗ lực thí Pháp, có thể ta cảm thấy, “Làm sao tôi lại có thể giảng Pháp được.” Tôi không nghĩ đó là một ý niệm đúng. Chẳng hạn như, khi ta đọc tụng kinh, có thể tăng cường độ âm thanh để người lân cận được nghe, trong ý định đó là một hình thức Pháp thí, và với hy vọng sẽ mang lợi lạc đến cho họ. Đây cũng đã là một hình thức Pháp thí. Khi ta ở một mình trong công viên hay ngoài đường, và nhìn thấy thú vật hoặc chim chóc, cố niệm vài câu chú, danh hiệu của vị Thánh, hoặc hồng danh của đức Phật, trong hy vọng sẽ lợi lạc cho chúng. Đó cũng là một hình thức bố thí. Chẳng hạn như, ta đừng quên đàn kiến, và nghĩ là chúng ngoại lệ; không phải vậy. Ta có thể đến gần ổ kiến và tụng hồng danh đức Phật, để chúng được nghe. Ngay dù ta không có thần thông chuyển hóa hoặc lợi lạc trực tiếp cho đàn kiến, chắc chắn hồng danh chư Phật được tụng đọc cho chúng sẽ có vài ảnh hưởng.

Ta cũng có thể tu tập pháp thí bằng cách trao tài vật cho người khác. Nhưng nếu trao vật gì ta trộm cướp hoặc lừa đảo, đó chỉ là thí bất tịnh. Ta làm chủ thân thể mình, nhưng đối với tất cả các bà mẹ chúng sanh việc có thể trao tặng thân mình là điều khó khăn nhất. Chúng ta không có khả năng trao trực tiếp, tuy nhiên vẫn có thể tưởng tượng trao tặng thân mình cho người khác. Nếu nghĩ là người nào cần một thứ gì ta không có, ta có thể dùng tinh thần hình dung hoặc tưởng tượng trao tặng nó cho người đó.

Khi tu pháp môn thí, đừng nghĩ đến quả của nghiệp đó cho chính mình. Ta không nên nghĩ, “Tôi sẽ được gì khi tu tập thế này? Quả chín tuyệt vời nào sẽ dành cho tôi?” Ý tưởng như thế sẽ khiến hành động bố thí thành bất tịnh. Tuy nhiên, một điều ta không nên quên là phải hồi hướng công đức của mình: “Do công đức của tu tập bố thí này, xin cho tất cả chúng con Đại Giác ngộ.” Kinh hồi hướng phải được tụng sau mỗi tu tập. Khi ta cảm hướng Đại Giác ngộ do bố thí, tức là nói đến quả đắc được, hoặc quả của thiện nghiệp. Tuy nhiên, Giác ngộ không phải là quả của nghiệp, mà đúng hơn là kết quả của tích lũy công đức. Lấy thí dụ, ngài Milarepa không sở hữu vật gì, thế nhưng ngài đã thực hiện vô số thí trong một ngày. Trong một bài thơ, ngài viết, “Tôi không có vật phẩm cúng dường nào dành cho chư đạo sư, nhưng xin báo đáp tâm từ bi của đạo sư bằng việc tu tập giáo pháp thật tinh chuyên.” Một thứ cúng dường tốt nhất có thể hành chính là cúng dường việc tu tập của chúng ta. Đó là pháp thí cao thượng nhất.

26. Viên giới

Nếu thiếu nghiêm giới điều phục hạnh

Ta không thể thành tựu cứu cánh,

Làm sao toại ước vọng tha nhân?

Nỗ lực vô giới, phi lý thuần!

Trước phải bỏ đam mê khoái lạc

Trói vào vòng luân sanh thật chặt.

Phải gìn giữ nguyện thọ giới trì –

Chư Bồ tát trọn hành cách này.

Tu tập thứ hai mươi sáu của Bồ tát chính là vun trồng giới hạnh mà không có ý cầu luân sanh. Không có giới hạnh, chúng ta không thể đạt đến mục tiêu cá nhân, thế nên việc cố đạt một điều gì cho người khác chỉ là trò cười. Mục tiêu của ta bao gồm hai điều: một là thành tựu cho cá nhân; hai là thành toàn cho tha lợi. Hầu đạt một trong hai, tất cả mọi tu tập của ta đều phải đặt trên giới đức thỏa đáng. Điều này đã được đức Phật thiết lập rõ ràng trong Biệt Giải Thoát Kinh (Pratimoksha Sutra), chỉ dạy, “Như một người không chân làm sao chạy, một người thiếu giới đức chánh đáng chẳng thể nào thoát khỏi luân sanh.” Tất cả ngợi khen và lợi ích của giới luật được đức Phật dạy rõ vào chi tiết trong Biệt Giải Thoát Kinh. Chẳng hạn như, nếu chúng ta sống trong tu viện, cứ mỗi mười lăm hôm ta phải làm điều gọi là sám hối, và ta lắng nghe Biệt Giải Thoát Kinh.

Thế nào là giới đức? Định nghĩa thật sự của giới đức chính là mong cầu hoặc tự nguyện ngưng các ác hành. Giới đức được dùng như một bức tường ngăn chặn dòng nước cuốn của ác hành. Khi ta đạt đến hạnh giới đức, dòng nước của mọi ác hành tương lai sẽ bị ngăn chặn. Có các điều luật đặc biệt cho giới hạnh thuộc vào nguyện Biệt giải thoát (Pratimoksha) [cụ túc giới của Tỳ kheo và Tỳ kheo ni], nguyện Bồ tát giới, nguyện Mật tông. Nhưng dù ta không phát nguyện nào như thế, vẫn cần phải tu tập giới đức tự nhiên bằng cách diệt trừ các sinh hoạt thiếu đạo đức [thập bất thiện].

27. Viên nhẫn

Bồ tát chú tâm hành công đức

Cầu tích lũy thật nhiều việc tốt,

Đối đãi kẻ phá hoại nhiễu nhương

Thử nguyện của họ, như mỏ vàng

Bởi lẽ đó, nên thôi oán ghét

Và hận sân cùng người tác ác;

Thiền định sâu về nhẫn kiên trì –

Chư Bồ tát trọn hành cách này.

Vun trồng nhẫn nhục, thay vì sân hận, đối với những người hãm hại ta, là tu tập thứ hai mươi bảy của Bồ tát. Có nhiều câu chuyện về nhẫn nhục, nhưng ở đây, nhẫn được sánh với một kho tàng. Một người tìm thấy một kho tàng sẽ vô cùng vui sướng, vì sự giàu sang tức khắc. Khi người mong cầu sự phú túc của đức hạnh gặp kẻ nào làm hại mình, cũng giống như tìm thấy một kho tàng, vì nó tạo cơ hội tu tập nhẫn nhục. Nó trở thành một nguồn vui lớn lao cho người đó. Từ đó, ta có thể từ bỏ sân hận, và phát khởi nhẫn niệm đối với mọi chúng sanh. Theo Lam Rim Chenmo, đại Lạt ma Tông Kha Ba (Tsong Khapa) nói, bố thí như một bảo châu như ý thỏa đáp nguyện vọng của người khác, trong khi giới luật như nước mát giải nhiệt của tham dục. Bảo châu như ý là bố thí; lực hóa giải nhiệt tham dục là giới luật; và nghiêm sức tuyệt hảo chính là nhẫn nhục.

Nhẫn nhục là món trang nghiêm tuyệt hảo cho những người dũng mãnh. Ảnh hưởng của nhẫn nhục khởi đầu ngay từ trong nhà với người ta cùng chung sống. Nếu ta sống với thầy mình, nó khởi đi từ vị thầy. Tại nhà, nó bắt đầu ở con cái và vợ hoặc chồng, và rời nhà là sang đến láng giềng lân cận. Nếu ta hiểu được ảnh hưởng tàn phá của hận thù và sân giận, tất không gặp khó khăn khi thiền quán nhẫn nhục. Dĩ nhiên, ảnh hưởng lớn nhất của sân hận là nó dẫn ta vào cõi địa ngục. Lại nữa, tất cả đức hạnh ta đạt được mà chưa hồi hướng vào Giác ngộ đều bị hủy diệt bởi một khoảnh khắc sân hận. Đặc biệt, nếu sân hận hướng về một trong các thân bằng hoặc vị thầy của ta, hậu quả còn nặng nề hơn nữa. Nếu ta nổi giận cùng cha hoặc mẹ, hay cùng người bệnh hoạn trong tình trạng yếu đuối, hậu quả cũng khá nặng nề. Cường độ ảnh hưởng của sân hận tùy thuộc vào đối tượng. Nếu đối tượng của ta là nguồn thiện ý lớn đối với ta, thì sân giận đó trở nên tàn hoại. Đối với người bệnh, có thể họ không tử tế với ta, những vì người đó ở trong điều kiện yếu đuối, cho nên giận họ rất có hại. Dĩ nhiên, sự tan rã tình bạn thường do sân giận mà ra. Sân có thể là nguồn gốc của các chia rẽ giữa cha mẹ, anh chị em, vợ chồng, hay bạn bè, bởi vì một khi lửa sân bốc cháy, ta rất khó làm dịu lại. Sân khởi đầu nhiều mâu thuẫn, và dần dà đưa đến bất hòa giữa người ta. Nếu thiền về các tác hại của sân, ta sẽ không gặp trở ngại khi trưởng dưỡng nhẫn.

Nhẫn không chỉ có nghĩa kham chịu sự khiêu khích mà không nổi giận. Nhẫn còn vượt xa hơn thế. Chẳng hạn như, nếu chúng ta vượt qua được sự khó nhọc vô bờ của tiến trình tu tập, kham chịu sự khó nhọc đó chính là một hình thức nhẫn. Khi các Bồ tát phải thực thi các hành vô cùng khó khăn, chư vị chấp nhận mọi khó nhọc với sự cao thượng và phấn chấn. Đó là một hình thức nhẫn. Mọi người chúng ta đều thấy khó chịu đựng các nặng nhọc trong tiến trình truyền thống hàng ngày. Lấy thí dụ, sau một ngày phải làm việc mệt nhọc, khi về đến nhà ta đã hết hơi sức, thế nên khi ngồi xuống tu tập, ta chỉ muốn làm cho nhanh và rút ngắn nó bất cứ khi nào có thể. Đó là một dấu hiệu rõ ràng cho thấy ta thiếu sự kham nhẫn trước khó khăn.

Chúng ta có thể chịu đựng khó khăn đó bằng cách nói, “Cho dù điều gì xảy ra hoặc khó khăn cách mấy, tôi không thể phương hại việc tu tập. Tôi phải hành bằng trọn khả năng mình, làm trọn trách vụ cho tiến bộ cá nhân, cũng như trách vụ nhận lãnh vì tha nhân. Tôi không thể phương hại.” Với thái độ đó, ta có thể đối đãi các giờ phút khó khăn trong từng ngày, và đặt việc tu tập Pháp của mình lên hàng tối thượng. Kết quả tích cực của sự kham nhẫn khó khăn rất lớn lao. Thế nên nó đáng giá mọi nỗ lực bảo trì kham nhẫn bất cứ lúc nào.

28. Viên cần

Nếu Bích chi Phật và Thanh văn

Muốn tu Niết bàn riêng cá nhân,

Nỗ lực khôn cùng hầu thành tựu

Dù bị thiêu vẫn không lìa đạo.

Thử xem bao năng lực phải dùng

Bởi những người tu độ tha nhân;

Giác ngộ cần thật nhiều tinh tấn –

Chư Bồ tát trọn hành cách đó.

Tu tập thứ hai mươi tám của Bồ tát là vun trồng sự tinh tấn chuyên cần cho lợi lạc mọi chúng sanh. Đoạn này nói, ngay cả chư Thanh văn (Shravakas) và Bích chi Phật (Pratyekabuddhas) tu tập hầu đắc quả cho cá nhân, cũng phải hăng hái làm việc. Nếu tóc ta bốc lửa, ta phải hành động thật nhanh hầu dập tắt lửa. Tương tự, chư vị phải làm việc cùng tốc độ đó. Đương nhiên, nếu lửa cháy, ta không thể ngồi yên phút nào mà phải dập tắt ngay càng nhanh càng tốt. Như thế, nếu Thanh văn và Bích chi Phật, chỉ làm việc cho quả vị cá nhân, đã phải làm tận lực như thế bằng trọn cả tinh chuyên; chúng ta làm việc hầu đắc Đại Giác ngộ cho phúc lạc toàn chúng sanh, tất nhiên phải làm việc ít ra khó nhọc ngang bằng hoặc hơn nữa.

Thế nào là tinh tấn? Tinh tấn là sự hứng thú sáng suốt khi làm điều gì đức hạnh. Tại Mỹ, người ta hay dùng từ “năng lực” (energy). Nhưng, tôi nghĩ tinh tấn và năng lực có hơi khác nhau. Theo cách tôi hiểu, “năng lực” gần giống như sự can đảm. Thế nên, chúng ta có thể can đảm trong cả việc tốt lẫn việc xấu.

Chúng ta có thể làm việc thật lao nhọc cho một thứ gì tiêu cực, ngay cả làm đổ mồ hôi, nhưng mồ hôi đó không phải là kết quả của sự tinh tấn. Ngay dù phải lau mồ hôi trên trán, mồ hôi đó không do tinh tấn. Định nghĩa theo tự vựng của tinh tấn là sự hăng say thực thi các hành đức hạnh. Điều này quan trọng đối với tất cả chúng ta, vì ta cần sự thành tựu khởi phát từ tinh tấn.

Nguyệt Xứng (Chandrakirti), trong quyển Trung Đạo Hành (Madhyamakavatara), bảo rằng tất cả kiến thức đều theo sau tinh tấn. Tinh tấn dẫn đến kiến thức. Cũng thế, Lạt ma Tông Kha Ba (Tsong Khapa) viết trong Lam Rim Chenmo, nếu ta khoác y giáp tinh tấn, tất kiến thức sẽ gia tăng trong ta như trăng tròn dần. Đó là lý do chư vị đã khuyến tấn chúng ta phải luôn giữ sự hứng khởi tuôn tràn như dòng nước chảy. Nó không thể rời rạc hoặc gián đoạn, hứng thú vài ba hôm rồi lại buông thả. Thay vì vậy, chúng ta cần thật tinh chuyên, gìn giữ sự liên tục tháng này qua tháng nọ, năm này qua năm khác. Rất quan trọng chúng ta cần phải gia trì năng lực trong tu tập hàng ngày, và làm việc hàng ngày với lòng hăng hái, không cần ai nhắc nhở, mà làm cho chính bản thân mình.

29. Viên định

Siêu kiến hội nhập vào tinh túy,

Hiển bày cách thật vật hiện hữu,

Chỉ khởi ngoài cảm xúc nhiễu phiền

Với tâm thanh tịnh làm chân nền.

Vượt khỏi tứ vô sắc giới định

Phải tu đắc nhất tâm bất loạn

Và nhập vào đại định viên toàn –

Chư Bồ tát trọn hành cách này.

Đoạn hai mươi chín nói thiền về định (samadhi) [tam muội da] vượt khỏi bốn cảnh trời vô sắc giới, là một trong các tu tập của Bồ tát. Định hoặc chỉ (shamatha) là tâm tịch tĩnh trụ vào một cứ điểm hay một đối tượng [nhất tâm bất loạn]. Tâm phối hợp được an định và thẩm kiến (vippasyana) [minh sát kiến, minh sát tuệ] có thể điều phục mọi ảo cấu. Bởi các lẽ đó, thiền chánh định, hoặc nhất trụ định, vượt tứ vô sắc giới thiên, là một trong các tu tập của Bồ tát.

Đa phần thời gian thiền trưởng dưỡng tam muội mang đến quả là tái sanh trong cõi vô sắc giới. Nếu nỗ lực phát triển an định là nhằm đạt đến một trong các hiện hữu vô sắc, thì quả không hữu ích mấy cho chúng ta. Ta phải đạt đến tịch tĩnh cho một thứ gì vượt trên mục tiêu đó. Ở một trong các kinh, đức Phật nói chư Bồ tát không có vọng cầu sanh vào cõi vô sắc, vì chúng sanh trong cõi đó không thể nhìn thấy nhau; thế nên đó chẳng phải chỗ thích hợp cho tu tập Pháp. Bởi lẽ đó, cõi vô sắc là một trong tám nơi thiếu tự do mà chúng ta không muốn sanh vào. Họ cũng thuộc vào cùng loại các vị thần trường thọ không có cơ hội tu tập Pháp.

Thế nào là tịch tĩnh hoặc an định (shamatha)? Tịch tĩnh là tâm an trụ bất loạn vào đối tượng nhất điểm. Đây là một khí cụ tất cả chúng ta đều phải sở đắc. Muốn nhận được khí cụ đó, ta cần thiền về sự phát triển của nó. Với trợ lực của an định, phối hợp cùng thẩm kiến, ta có thể đạt mục tiêu. Ta cần thẩm kiến để có thể quán phân. Như thế, thẩm kiến (hoặc tuệ kiến không tánh) [không kiến tuệ, không kiến] giống như một vũ khí sắc bén, và an định giống như một người mạnh mẽ với đôi vai rắn chắc. Nếu ta dùng thẩm kiến với trợ lực của an định, tất có thể cắt đứt hữu hiệu tận gốc rễ của tất cả ảo cấu, vốn là cội nguồn của tất cả phiền não.

Hiện có rất nhiều người ưa thích thiền an định [chỉ], nhưng nếu chỉ hành có mỗi thứ đó mà thiếu thiền minh sát tuệ [quán], tất thiền an định có khi trở thành một trong các phương tiện dẫn dắt ta lang thang trong vòng luân sanh. Với thẩm kiến, ta không chỉ nói đến một thứ gì ngăn chặn các ảo cấu thô thiển, mà là một thẩm kiến vi tế có khả năng cắt đứt tận gốc rễ của ngã chấp. Tự nó, an định không cung ứng cho ta bất kỳ phương tiện nào nhằm giải thoát khỏi luân sanh. An định, chẳng phải duy nhất trong Phật giáo, mà có thể tìm trong nhiều truyền thống khác nữa. Chẳng hạn như, có nhiều người Ấn giáo có thể đắc an định bằng thiền về các tầng giới của tam muội. Với tâm tịch tĩnh, họ có thể sanh vào cõi sắc giới hoặc vô sắc giới. Với trợ lực của an định, người ta có thể tạm loại trừ các ảo cấu thô của cõi dục giới và ngay cả của cõi sắc giới, nhờ đó tái sanh vào cõi vô sắc giới. Với an định, người ta có thể tiến lên tận đỉnh cao của luân sanh, cao nhất trong bốn cõi vô sắc giới. Bởi vì họ tạm vượt thắng mọi ảo cấu thô của cõi sắc giới và dục giới, họ cảm thấy như đã đạt được một tự do thường xuyên tránh khỏi các ảo cấu, và không còn điều gì tồn lưu để tịch diệt. Họ cảm thấy như mình đã đắc giải thoát.

Nhưng một lần nữa, nghiệp trụ trong cõi đó sẽ dần dà kiệt cạn. Một khi đã cạn, người ta nhìn thấy chốn kế tiếp sắp phải tái sanh vào, đó lại là nơi họ đã từng khởi hành. Sự thất vọng lớn lao đó khiến người ta mất niềm tin nơi Pháp hoặc Giáo, bởi vì họ đã từng ngỡ rằng mình đắc tự do trọn mãn. Khi nhận ra mình vẫn chưa được tự do, họ khởi một cái nhìn tà vạy hoặc thô ác [tà kiến hoặc ác kiến] đối với Pháp. Điều này khiến họ lại sa đọa lần nữa vào cõi dưới thấp kém.

Lạt ma Tông Kha Ba (Tsong Khapa) nói rằng, tịch tĩnh, hoặc định, giống như một vị vua hoàn toàn thống trị tâm. Khi tâm được đặt vào một loại đối tượng nào với thứ định đó, nó sẽ trụ bất động giống như núi Tu Di (Meru) khổng lồ. Định đó, nếu hướng về bất cứ điểm đức hạnh nào, sẽ hội nhập theo mà không bị phân tán. Bởi đức tánh của định, cả thân và tâm đặt vào một trạng thái khai triển cực độ, hội nhập đại an lạc tinh thần. Nếu thật nghiêm túc trong thiền an định, ta có thể đắc trong vòng sáu tháng. Tuy nhiên có nhiều trường hợp những người thử trong ba tháng – hoặc ba năm, năm năm, hay sáu năm – mà không đạt gì cả.

Có người cho biết đang thiền an định; và khi được hỏi thiền đã bao lâu, họ đáp khoảng sáu năm, nhưng vẫn chưa điều phục được tâm mình. Thật ra, tôi nghĩ trong các trường hợp đó, không phải do lỗi của pháp thiền an định, mà chính là tiếp cận cá nhân của hành giả có sai lầm.

30. Viên tuệ

Viên bố thí, nhẫn nhục, trì giới,

Thiền định cùng tinh tấn chưa đủ;

Nếu thiếu Viên Tuệ, năm thứ trên

Không thể đưa vào Phật quả viên.

Với pháp bồ đề tâm trưởng dưỡng

Trí tuệ thấy tác nhân, hành động,

Và đối thể thảy chẳng thật hữu –

Chư Bồ tát trọn hành cách đó.

Đoạn ba mươi nói, không có bát nhã (prajna), hoặc trí tuệ [tuệ bát nhã], ta không thể đắc Đại Giác ngộ, cho dù đã hoàn mãn trọn năm thứ ba la mật (paramitas) kể trên. Nhưng tuệ không thể tự nó làm việc. Nó phải đi cùng với phương pháp, đó là bồ đề tâm và từ bi. Ba vòng đó là đối thể thọ hành, tác nhân, và hành động. Hiểu biết cả ba thứ đó đều thiếu chân hiện hữu, chính là trí tuệ. Phối hợp trí tuệ cùng phương pháp là một trong các tu tập của Bồ tát.

Chẳng hạn, nếu lấy thí dụ của thiền định (samadhi), thiền giả chính là tác nhân, định là đối thể, và thiền về định chính là hành động. Tâm thức giác được sự thiếu vắng chân hữu của cả ba thứ trên chính là tâm tuệ. Tuệ ở đây là sự thức giác về đối thể.Trong Tạng ngữ gọi là so sor, có nghĩa một cách cá biệt, và tok pa, có nghĩa hiểu biết; thế nên tuệ chính là sự hiểu biết về đối thể một cách cá biệt. Trong Bồ Đề Hành Kinh (Bodhicharyatavara) nói rằng, năm loại viên hoặc ba la mật đầu là phương pháp giúp ta đi đến loại thứ sáu, trí tuệ. Tất cả năm ba la mật trên đều được đức Phật dạy nhằm hiểu được tuệ, ba la mật thứ sáu. Điều đó có thể tìm thấy trong chương chín của Bồ Đề Hành Kinh của Tịch Thiên (Shantideva).

Chúng ta cần nỗ lực hàng ngày hầu tìm hiểu về ba la mật thứ sáu, tuệ ba la mật, hoặc viên tuệ. Hãy hết sức tinh tấn hầu tiếp cận sự hiểu biết đó. Tôi nghĩ tầm quan trọng của tuệ chính bởi nó là khí cụ hay vũ khí thật sự giúp phá tan ngã chấp. Đặc biệt, hầu vượt qua bóng tối ngăn che tri kiến trực tiếp về hiện cảnh, trí tuệ phải được trợ lực của phương pháp, tức là năm ba la mật trên.

Chẳng hạn như, chư Thanh văn (Shravakas) và Bích chi Phật (Prateykabuddhas) có tuệ kiến không, nhưng bởi vì thiếu phương pháp, các vị không có phương tiện nhờ đó có thể chống đối hữu hiệu bóng tối ngăn che tri kiến trực tiếp về hiện cảnh.

31. Đoạn lỗi

Không nỗ lực phân tích rõ ràng

Ảo cấu vương và lầm lẫn mang,

Cho dù bên ngoài tu tập Pháp,

Vẫn cứ hành nhiều việc vô Pháp.

Bởi lẽ đó, nên cố xét qua

Lầm và ảo, lỗi của chúng ta,

Rồi sau đó diệt chúng trọn cả –

Chư Bồ tát trọn hành cách đó.

Tu tập thứ ba mươi mốt của Bồ tát là quán xét và truy cứu lỗi lầm của ta trong đời sống hàng ngày, và loại trừ chúng. Nếu ta không truy cứu hoặc quán xét lầm và lỗi của mình, có thể ta đang làm các hành vô Pháp thay vì là Pháp. Bởi lẽ đó, trong đời sống hàng ngày, ta cần quán xét lỗi lầm của chính mình, không chỉ quán xét, mà bất cứ khi nào nhìn thấy chúng, phải ngăn chặn ngay và cố gắng loại trừ chúng. Cố gắng loại trừ các lỗi chính là một trong các tu tập của Bồ tát.

Tôi đã nhiều lần nhắc đến sự quán xét sinh hoạt thân khẩu ý của chúng ta, và bất cứ khi nào nhận ra điều gì sai trái, nên học cách buông bỏ. Tôi cũng nhiều lần luận về việc đó. Một phương pháp là phối kiểm hành động của ta bốn lần trong một ngày. Vào khoảng giữa trưa, ta nên xét lại các việc đã làm vào buổi sáng và kiểm điểm, “Tôi có làm điều gì sai hoặc điều gì tốt chăng?” Nếu làm điều gì tốt hoặc đức hạnh, ta có thể tự khuyến tấn mình làm thêm nữa, nhưng nếu làm điều gì sai trái ta nên hối tiếc, và phải tẩy trừ nó. Khi rời sở làm, ta có thể ngồi trên xe trước khi lái về nhà, và kiểm điểm lần nữa việc đã làm từ sau giờ ăn trưa cho đến khi tan sở. Nên lập một danh sách về những gì đã làm, và nếu làm điều gì đúng, thì có thể vui hưởng nó; nếu làm điều gì sai, nên sám hối việc đã làm. Rồi, trước khi vào giường ngủ, ta nên tái xét lại các hành động, và nhìn xem mình là đã làm việc gì trong ngày hôm đó.

32. Không nêu lỗi người

Khi nói chuyện người, ảo cấu lực

Khiến ta trụ trong lỗi kẻ khác,

Nếu chính Bồ tát bị bẻ bôi

Tất danh phẩm ta bị hư hao.

Nên chừa lỗi nói xấu người khác

Đã vào Đại thừa đạo giải thoát.

Chỉ nên đề cập lỗi của ta –

Chư Bồ tát trọn hành cách này.

Đoạn thứ ba mươi hai nói rằng, người đã nhập đạo Đại thừa không nên nêu lỗi lầm của người khác, đặc biệt nếu người đó là một vị Bồ tát. Nếu có người nào làm điều gì sai và phạm lỗi, và người đó chọn sự che dấu, đó là việc của họ. Không phải trách nhiệm của ta phải công bố lỗi lầm của họ.

Mặt khác, nếu ta làm điều gì sai, cần phải tuyên xưng điều sai quấy đó, thú nhận, và thanh tẩy. Việc ta có nói lỗi của người khác ra chẳng thành vấn đề. Lại nữa, nếu nêu lỗi của một người vốn dĩ là một vị Bồ tát, chỉ do ảo cấu của ta, đó lại là một tổn hại cho chính ta.

Ngay dù cho người đó chẳng phải là Bồ tát, chẳng hạn như một bạn đồng nghiệp với ta, lại chẳng có lý do gì nêu lỗi của người đó một cách không cần thiết. Cũng thế, nếu ta thấy lỗi của cha mẹ hoặc anh em, nên bỏ qua đi và đừng nêu ra; làm vậy khôn ngoan hơn. Nếu có một lý do tốt cần phải nói ra lỗi của họ, thì phải làm vậy, đặc biệt khi ta phải làm nhân chứng trước tòa. Khi biết người đó đã phạm tội, ta phải đứng ra và nói thật. Tuy nhiên, nếu sự thành thật của ta lại làm hại tánh mạng của người khác, nên tránh đi là hơn. Điều này rất quan trọng.

33. Cắt ái nhiễm quyến thuộc

Tranh cãi người nhà hoặc bạn bè,

Hầu được nể trọng hay vật gì,

Khiến ta không thể lắng nghe Pháp,

Giảm sút thiền định hoặc tu tập.

Nguy cơ thường trụ trong nhà thân,

Cũng như gia đình hay bạn quen,

Buông bỏ ràng buộc vào quyến thuộc –

Chư Bồ tát trọn hành chẳng khác.

Đoạn này nói, cắt đứt ái nhiễm cùng khung cảnh nhà cha mẹ hoặc nhà người bảo trợ là một trong các tu tập của Bồ tát. Tại sao ta cần cắt ái nhiễm cùng nhà ta hoặc nhà thí chủ? Nếu cứ ràng buộc vào họ, tất tranh cãi sẽ thường khởi dậy về những phục vụ hoặc tặng phẩm mong được, và tranh chấp này sẽ làm tổn hại việc tu học và thiền định. Nếu ta cứ ở mãi nơi nhà của thân hữu hoặc bảo trợ, điều xảy ra là mỗi khi có tranh chấp, ta cố can thiệp, và làm như thế ta bắt đầu quan tâm đến việc của họ. Việc của ta thật sự chỉ là học hỏi và tu tập Pháp.

Tôi từng chứng kiến việc này nhiều lần trong đời. Tôi có vài thí chủ, nhưng mỗi khi thăm viếng họ, tôi chỉ chú tâm quán tưởng và đọc tụng kinh. Tôi không bao giờ can thiệp vào việc của họ. Đôi khi tôi có sự thúc giục muốn lưu ý đến việc của họ, nhưng thí chủ của tôi là một người rất tuyệt không muốn để tôi hòa lẫn cùng họ. Ông luôn muốn để tôi yên trong điện thờ. Lý do là, nếu có việc gì xen lấn vào việc tu học, quán chiếu, và thiền định của ta – mục tiêu chủ yếu của ta – chắc chắn việc can dự đó chẳng có giá trị chi cả. Bởi lý do đó, ta nên buông bỏ ràng buộc vào nhà người bảo trợ, hoặc nhà bạn nam hay nữ, và không có một luyến ái nào. Đúng ra, ta nên xem các ngôi nhà đó như nhà khách trọ. Đó là điều khôn ngoan. Chẳng hạn như, nếu ta thuê một phòng trong khách sạn, sẽ không bao giờ phải can thiệp vào việc quản trị hoặc thương vụ của khách sạn đó. Tương tự, ta nên có một thái độ như thế bất cứ khi nào ta viếng thăm thí chủ hoặc thân hữu. Đó chính là cách tốt nhất.

34. Không trả thô ác ngữ

Thô ác ngữ thốt ra khi giận

Khiến người đau và tâm động loạn;

Và ta, gắng theo Bồ tát hành

Nhận ra tu tập giảm rõ rành.

Thấy lỗi khởi từ lời thô nặng,

Người nghe quả khó ưa kỳ chướng,

Hãy bỏ lối ngược đãi cùng người –

Chư Bồ tát trọn hành cách này.

Tu tập thứ ba mươi bốn của Bồ tát là không đáp trả thô ác ngữ ta nhận từ người khác. Thô ác ngữ thường rất khó nghe – bất kể ai nói ra. Đó chính là lý do ta chẳng hề muốn nói thô ác ngữ cùng bất cứ ai. Lời thô nặng sẽ làm động loạn tâm người khác. Nếu tâm họ bị động loạn, tất sẽ hư hao đến tu tập Bồ tát của chính ta.

Một trong các tu tập của Bồ tát là không bao giờ nói lời thô ác đối với tâm người khác. Bất cứ lời nào thật sự động loạn tâm một người khác, tạo sân hận hay phiền não trong tâm họ hoặc làm tăng thêm nỗi đau khổ của họ, là lời ta phải tránh trong ngôn ngữ hàng ngày. Thế nên, ta phải cố gắng thật ý thức đừng bao giờ đáp trả lời thô nặng, cho dù là nói với ai, chẳng kể người đó là cao cả, ngang bằng, hoặc khiêm hạ. Không bao giờ dùng thô ác ngữ với bất cứ ai phải là một nỗ lực thường xuyên của chúng ta.

35. Trừ tập quán xấu

Loại hành xấu chóng thành tập quán

Một khi quen cùng hạ tầng tâm;

Nỗ lực tinh chuyên rất cần đến

Tạo đối lực chống các trược nhiễm.

Võ trang bằng tỉnh thức, hồi niệm

Tấn công ngay trược nhiễm như tham;

Trừ cái chướng ngăn ngại tiến bộ –

Chư Bồ tát trọn hành cách đó.

Đoạn thứ ba mươi lăm nói, khi nào ta nhận thấy sự mống khởi của luyến ái và ảo cấu, phải diệt trừ ngay. Ta cần kiểm chế chúng ngay giai đoạn đầu tiên, vì nếu tiếp nhận ảo cấu và cho phép chúng trụ của mình một thời gian, tất ta sẽ tập một thói quen tăng trưởng dần. Nếu ta không điều phục ảo cấu, nó sẽ tạo thành cứng rắn rất khó kháng cự. Ta cần dùng sự tỉnh thức và tinh tường để quán sát thật gần bất cứ ảo cấu này vừa khởi. Đôi khi ta cố ý làm điều gì sai, nhưng lại có lời bào chữa như, “Tôi biết nó sai nhưng tôi muốn có kinh nghiệm.” Nếu ta đón nhận loại tâm này, thì nó trụ càng lâu, càng phát triển ngoài sự điều phục. Chẳng hạn như, nếu người khác nói, “Tôi biết bạn không uống rượu hay hút thuốc, tại sao không thử xem, chỉ một lần thôi.” Ta có thể đáp, “Không, cám ơn, cũng chẳng ích lợi gì.” Như ta biết, nếu có một trận chiến, ngăn chặn được kẻ xâm lấn ngay biên giới tất hữu hiệu hơn, bằng không, chúng sẽ xâm nhập vào và đô hộ toàn bờ cõi. Khi đó đánh đuổi chúng sẽ khó khăn hơn nhiều. Điều tốt nhất là ngăn cản chúng ngay ngoài biên cương.

36. Tỉnh thức luôn

Nói tóm, điều gì ta hành xử

Trong duyên hay cảnh nào gặp gỡ

Đều phải bằng lực tỉnh giác luôn

Hiểu trọn vẹn trạng thái của tâm.

Phải có tỉnh thức và hồi niệm,

Giúp tập trung, sẵn sàng phục vụ,

Ta hành cho phúc lạc chúng sanh –

Chư Bồ tát trọn hành cách này.

Đoạn thứ ba mươi sáu nói, bảo trì sự tỉnh giác trong nỗ lực hàng ngày hầu lợi tha là một trong các tu tập của Bồ tát. Sự an sinh của tha nhân rất quan trọng, và để giúp ích hữu hiệu, ta cần thức giác và tinh tường. Trong mỗi hành của thân, khẩu, và ý, hãy quán xét thận trọng với tâm tỉnh giác, và đừng bao giờ để cho bất cứ thứ nào trong cả ba bị vướng vào ác trược.

37. Hồi hướng trọn công đức

Mọi công đức tích từ nỗ lực

Đưa vào tu tập đạo thiện đức

Ta hành hầu giải thoát khổ đau

Của vô lượng bà mẹ nhiều đời,

Trọn hồi hướng cho họ thành Phật,

Với tuệ kiến, tha ngã không thật

Lẫn công đức, thảy chẳng phải chân –

Chư Bồ tát trọn hành cách này.

Tu tập thứ ba mươi bảy của Bồ tát là hồi hướng trọn công đức đã tạo thành vào Đại Giác ngộ cho lợi ích của vô lượng chúng sanh. Câu này nói rằng, tất cả công đức ta tích lũy, qua sự tinh chuyên, sẽ thanh tẩy ảo cấu và phiền não của vô lượng chúng sanh. Trí tuệ này giải thoát vô chấp vào chân hữu. Với trí tuệ giải thoát vô chấp chân hữu của ba đối thể đó, và việc hồi hướng công đức cho Đại Giác ngộ, là một trong các tu tập của Bồ tát.

KẾT LUẬN

Trên đây là ba mươi bảy tu tập chủ yếu của Bồ tát, được Bồ tát Togmey Zangpo viết dưới hình thức rất cô đọng. Đây là các tu tập trực tiếp của chư Bồ tát, nhưng gián tiếp có ý nghĩa đối với bất cứ ai có hạt giống Đại thừa bên trong và quyết định trở thành hành giả Đại thừa. Ngay dù một vài trong số các tu tập trên có thể không mạnh mẽ như ta mong muốn, hoặc không hữu hiệu như đối với chư Bồ tát, chúng ta vẫn có thể thử đến gần điều gì mà một vị Bồ tát phải hành.

Tác giả xác nhận ngài viết điều này theo đúng các kinh văn được giảng dạy trong cả Kinh thừa [Hiển giáo] lẫn Mật thừa [Mật giáo], theo thánh ngôn của các vị đại sư. Ngài trình bày ba mươi bảy thi đoạn trên, trong mục đích giúp đỡ cho những ai có cảm hướng muốn trở thành Bồ tát. Tác giả viết, “Do bởi năng lực kém cõi và kiến thức hạn hẹp của tôi, nên tôi không có văn tài thơ phú khiến học giả hài lòng; nhưng nhờ theo sát kinh điển và tu tập của chư Thánh sư quá khứ, và do phần tinh hoa nhất của hiểu biết cá nhân, điều tôi soạn thảo nơi đây chính thật là tu tập của chư Bồ tát không chút sai lầm. Tuy nhiên, các cảnh giới của chư Bồ tát bất khả thẩm định và vô lượng vô biên, đối với một người như tôi với tri thức hữu hạn thật khó dò lường, thế nên nếu tôi có đưa vào những gì có vẻ sai lầm, mâu thuẫn diễn đạt, hoặc các khiếm khuyết bất ngờ khác, xin thành thật cáo lỗi. Tôi xin chư học giả khoan hòa dung thứ.”

Đó là một cách làm giảm bớt lòng kiêu mạn và tự phụ của chính mình.

HỒI HƯỚNG CỦA TÁC GIẢ

Tiếp theo là hồi hướng công đức của tác giả đã thu hoạch được nhờ soạn kinh văn này. “Do bởi đức hạnh đạt được nhờ soạn thảo bản văn này, cầu xin mọi chúng sanh được phú túc với cả bồ đề tâm tương đối lẫn tối hậu, và không còn tồn lưu giữa vòng luân sanh, hoặc giữa sự thỏa mãn của niết bàn cá nhân, và nguyện cho tất cả được thành tựu như đức Quán Thế Âm.”

Kinh văn được đúc kết như thế.

GHI CHÚ CUỐI

Rất quan trọng đối với chúng ta là phải Hồi Hướng Công Đức vào cuối các thời thiền hoặc sau bất cứ sinh hoạt Pháp nào. Do bởi đức hạnh hoặc công đức thọ nhận khi thực thi bất cứ Pháp hành nào, cầu xin Thánh đức Đạt Lai Lạt Ma, và tất cả chư Thánh Đức Đại Sư đã bảo trì và thăng hoa pháp giảng trường thọ thật dài lâu. Cầu xin Pháp vô biên của đức Phật được mãi mãi trường tồn cho phúc lợi trọn chúng sanh. Cầu xin trọn Tăng già đoàn hiện hữu trên thế giới trụ trong thanh tịnh hạnh, thoát khỏi mọi tranh chấp hoặc ly gián, và thành tựu trong tu tập cùng thiền định. Cầu xin mọi quốc gia trên thế giới thoát tai ương bệnh tật, đói khổ, chiến tranh và tranh chấp. Cầu xin nền hòa bình ưu thắng và trường tồn vĩnh cửu trên quả đất. Cầu xin mọi chúng sanh giải thoát khỏi ràng buộc khổ luân sanh và đạt an bình, hạnh phúc trường cửu, và Đại Giác ngộ.