Vương Duy

Từ điển Đạo Uyển


王維; C: wángwéi; 701-761 hoặc 699-759, tự Ma-cật, thường được gọi theo chức vụ là Vương Hữu Thừa; Cư sĩ ngộ đạo kiêm thi hào nổi danh người Trung Quốc đời Ðường. Ông được xếp ngang hàng với ba đại thi hào đời Ðường là Lí Thái Bạch, Ðỗ Phủ và Bạch Cư Dị. Ông rất đa tài, thơ hay, chữ đẹp, tinh thông hội hoạ và âm nhạc. Ðời sau tôn ông là “Khai sơn tổ sư” của lối vẽ “Thuỷ mặc Nam phương.” Ông người huyện Kì (nay thuộc phủ Thái Nguyên ở tỉnh Sơn Tây). Cha mất khi ông còn nhỏ. Mẹ ông rất sùng bái đạo Phật và sự việc này có ảnh hưởng rất nhiều đến tư tưởng của ông sau này. Năm lên 21, ông thi đỗ tiến sĩ, được phong quan đến chức Thượng thư hữu thừa. Vợ mất lúc ông ba mươi tuổi nhưng ông không tục huyền, sống yên tĩnh với một chức quan văn nhàn hạ, “suốt ngày gãy đàn thổi sáo, làm phú vịnh thơ,” và “mỗi lần bãi triều thì về đốt hương ngồi một mình, tụng kinh niệm Phật.” Ông ăn chay trường, thường kết bạn, đàm luận với các nhà sư và cung cấp thực phẩm cho hơn mười vị tăng. Người đời rất tôn trọng, gọi ông là “Thi Phật” (詩佛). Ông rất đa tài: tinh thông thư pháp, hội hoạ, âm nhạc và thư ca. Những khía cạnh nghệ thuật nói trên đều được phối hợp chặt chẽ, cân đối trong những tác phẩm của ông. Ðại văn hào Tô Ðông Pha đời Tống ca ngợi các tác phẩm của ông là “Thưởng thức thơ của Ma-cật, trong thơ thấy có hội hoạ; ngắm những bức hoạ của Ma-cật lại thấy trong đó có thơ” (vi Ma-cật chi thi, thi trung hữu hoạ, quan Ma-cật chi hoạ, hoạ trung hữu thi). Trong các bài thơ, ông thường mô tả cuộc sống nông thôn yên tĩnh, trong sáng, con người nhàn nhã phù hợp với tư tưởng thấm nhuần triết lí “bất sinh, bất tử” của đạo Phật và cách nhìn thế gian theo quan niệm “Vô vi” của Lão Tử và Trang Tử (theo Lê Nguyễn Lưu). Sau đây là hai bài thơ tiêu biểu cho tư tưởng đạo Phật của ông: Quá Hương Tích tự 過香積寺 – Ghé chùa Hương Tích (Trần Trọng Kim dịch): 不知香積寺。數里入雲峰 古木無人徑。深山何處鐘 泉聲咽危石。日色冷青松 薄暮空譚曲。安禪制毒龍 Bất tri Hương Tích tự Sổ lí nhập vân phong Cổ mộc vô nhân kính Thâm sơn hà xứ chung? Tuyền thanh yết nguy thạch Nhật sắc lãnh thanh tùng Bạc mộ không đàm khúc An thiền chế độc long. *Chẳng hay Hương Tích chùa đâu Trèo lên mấy dặm núi cao mây hồng Một đường cây cổ vắng không Chuông đầu nghe vẳng chỗ cùng non xa Tiếng khe bên đá tuôn ra Vẻ trời lạnh lẽo bơ phờ cây thông Chiều hôm đầm vắng uốn vòng Phép thiền mầu nhiệm, độc long nép mình. Thu dạ độc toạ 秋夜獨坐 – Ðêm thu ngồi một mình (Lê Nguyễn Lưu dịch): 獨坐悲雙鬢。空堂欲二更 雨中山果落。燈下草蟲鳴 白髮終難變。黃金不可成 欲知除老病。惟有學無生 Ðộc toạ bi song mấn Không đường dục nhị canh Vũ trung sơn quả lạc Ðăng hạ thảo trùng minh Bạch phát chung nan biên Hoàng kim bất khả thành Dục tri trừ lão bệnh Duy hữu học vô sinh. *Ngồi chạnh thương màu tóc Canh hai, nhà lặng yên Trong mưa rừng trái rụng Dưới nến cỏ giun rền Tóc trắng thay nào được? Thuốc vàng luyện khó nên Bệnh, già mong dứt hết Ðạo Phật học cho chuyên.