Vô Lượng Thọ Kinh Ưu Bà Đề Xá
Chú Giải Giảng Nghĩa
無量壽經優婆提舍註解講義
Ấn Độ Thế Thân Bồ Tát tạo luận
印度世親菩薩造論
Nguyên Ngụy Thiên Trúc Tam Tạng Bồ Đề Lưu Chi dịch luận
元魏天竺三藏菩提流支譯論
Nguyên Ngụy Huyền Trung Tự sa-môn Đàm Loan chú giải
元魏玄中寺沙門曇鸞註解
Dân Quốc Tịnh Luật Tự sa-môn Tánh Phạm giảng nghĩa
民國淨律寺沙門性梵講義
Chuyển ngữ: Bửu Quang Tự đệ tử Như Hòa
(theo bản in của Tam Huệ Học Xứ, ngày 1 tháng 1 năm 1999)
Giảo chánh: Đức Phong và Huệ Trang

2.2.2.2.6. Ly Bồ Đề chướng

          (Chú) Ly Bồ Đề chướng giả.

          ()離菩提障者。

          (Chú: Lìa các pháp chướng ngại Bồ Đề).

2.2.2.2.6.1. Nêu chung ba thứ chướng

          (Luận) Bồ Tát như thị thiện tri hồi hướng thành tựu, tức năng viễn ly tam chủng Bồ Đề môn tương vi pháp.

          ()菩薩如是善知迴向成就。即能遠離三種菩提門相違法。

          (Luận: Bồ Tát khéo biết hồi hướng thành tựu như thế, liền có thể xa lìa ba thứ pháp trái nghịch Bồ Đề môn).

          Đến đây thì bộ luận này đã trần thuật viên mãn pháp môn Ngũ Niệm. Từ đây trở đi cho đến khi toàn thể bộ luận hoàn tất, Luận Chủ đã nêu ra cương yếu trong việc tu hành pháp môn Ngũ Niệm, chủ yếu là trí huệ, phương tiện, và từ bi; ba thứ ấy thiếu một thứ, sẽ chẳng thể được! Hễ thiếu, sẽ chẳng thể thành tựu Ngũ Niệm Môn, mà cũng chẳng thể đạt được đại lợi ích “vãng sanh Tịnh Độ, thành Phật”. Thật ra, trí huệ, phương tiện, và từ bi chính là cương yếu của Vô Thượng Bồ Đề tâm và hết thảy Bồ Tát hạnh mà hết thảy Bồ Tát đều phải có. Đó chính là nhân tố cơ bản và điều kiện tất yếu để thành Phật. Vì thế, kinh Đại Bát Nhã nói: “Bồ Tát hành Bồ Đề đạo, ưng tiên y chỉ tam chủng tâm: Nhất giả, Nhất Thiết Trí trí tương ứng tác ý. Nhị giả, vô sở đắc vi phương tiện. Tam giả, đại bi vi thượng thủ” (Bồ Tát hành Bồ Đề đạo, trước hết, hãy nên y chỉ ba thứ tâm: Một là khởi ý tương ứng với trí Nhất Thiết Trí, hai là dùng “chẳng có gì để đạt được” làm phương tiện, ba là đại bi làm thượng thủ). Kinh Quán Vô Lượng Thọ Phật nói: “Nhược hữu chúng sanh nguyện sanh bỉ quốc giả, phát tam chủng tâm, tức tiện vãng sanh. Hà đẳng vi tam? Nhất giả, chí thành tâm. Nhị giả, thâm tâm. Tam giả, hồi hướng phát nguyện tâm. Cụ tam tâm giả, tất sanh bỉ quốc” (Nếu có chúng sanh nguyện sanh về cõi ấy, phát ba loại tâm liền được vãng sanh. Những gì là ba? Một là chí thành tâm. Hai là thâm tâm. Ba là hồi hướng phát nguyện tâm. Đủ ba tâm, ắt sanh cõi ấy). Ba loại tâm như Quán Kinh và kinh Đại Bát Nhã đã nói đều là nói nguyện tâm, trí tâm, và bi tâm hợp nhất thành Bồ Đề tâm, mà cũng là ba môn trí huệ, phương tiện, và từ bi nói trong luận này, có thể nói là hàm nghĩa của chúng hoàn toàn tương đồng. Tịnh Tông Bồ Tát tu tập Ngũ Niệm Môn nếu có thể như đã nói trong phần trước: Tu Chỉ Quán lược hay rộng, thành tựu Đại Thừa nhu nhuyễn tâm, bất nhị tâm, sẽ có thể đúng như Thật Tướng của các pháp, biết các pháp thế gian và xuất thế gian rộng hay lược. Đã biết Thật Tướng, sẽ có thể Không và Hữu vô ngại, Bi và Trí trọn đủ, thành tựu xảo phương tiện hồi hướng. Đã có thể thiện xảo phương tiện hồi hướng, sẽ có thể xa lìa các pháp trái nghịch ba thứ “từ bi, trí, nguyện” thuộc đại Bồ Đề tâm và Bồ Đề đạo, đạt được ba thứ tùy thuận Bồ Đề môn. Do cái này có mà cái kia có; do cái này không, cho nên cái kia không. Đó là nhân quả tất nhiên theo định luật duyên khởi. Do vậy, cuối bộ luận này, Luận Chủ đã đặc biệt vì Tịnh nghiệp hành nhân mà thâu tóm những điều trọng yếu để chỉ bày. Phàm là Bồ Tát muốn thành tựu Ngũ Niệm Môn, nguyện cùng hết thảy chúng sanh vãng sanh An Lạc quốc, đồng thành Phật đạo, ắt cần phải biết để y giáo tu hành.

          Bồ Đề (Bodhi) là tiếng Phạn, dịch [sang tiếng Hán] là Giác hoặc Đạo. Có ba thứ Bồ Đề, tức là Thanh Văn Bồ Đề, Duyên Giác Bồ Đề, và Phật Bồ Đề. Trong luận này, từ đây trở đi, hễ nói đến Bồ Đề thì đều là nói tới Phật Bồ Đề, tức A Nậu Đa La Tam Miệu Tam Bồ Đề (Anuttarā Samyaksaṃbodhi), dịch nghĩa là Vô Thượng Chánh Đẳng Chánh Giác, nhằm vạch rõ: Chẳng phải là phàm phu bất giác, ngoại đạo tà giác, Nhị Thừa thiên giác (偏覺, giác ngộ lệch lạc), Bồ Tát tuy là Chánh Giác, nhưng chẳng phải là Cứu Cánh Giác (究竟覺, giác ngộ rốt ráo), chỉ có Phật mới là bậc rốt ráo đạt Chánh Đẳng Chánh Giác không gì cao hơn được! Luận nói “xa lìa ba thứ pháp trái nghịch Bồ Đề môn” thì cũng là nói xa lìa ba pháp trái nghịch năm niệm môn, chúng có thể chướng ngại Bồ Tát thành Phật, hãy nên xa lìa!

2.2.2.2.6.2. Nêu riêng từng pháp trong ba loại chướng

2.2.2.2.6.2.1. Nương theo Trí Huệ Môn

          (Luận) Hà đẳng tam chủng? Nhất giả, y trí huệ môn, bất cầu tự lạc, viễn ly ngã tâm tham trước tự thân cố.

          (Chú) Tri tấn thủ thoái viết Trí, tri Không, Vô Ngã viết Huệ. Y trí cố, bất cầu tự lạc. Y huệ cố, viễn ly ngã tâm tham trước tự thân.

          ()何等三種。一者依智慧門。不求自樂。遠離我心貪著自身故。

          ()知進守退曰智。知空無我曰慧。依智故。不求自樂。依慧故。遠離我心貪著自身。

          (Luận: Những gì là ba thứ? Một là nương vào Trí Huệ Môn, chẳng cầu vui sướng cho riêng mình, vì xa lìa cái tâm chấp Ngã tham đắm tự thân.

          Chú: Biết đường tiến lùi là Trí, biết Không, Vô Ngã là Huệ. Do nương vào trínên chẳng cầu vui sướng cho riêng mình. Do nương vào huệ nên xa lìa cái tâm chấp Ngã tham đắm tự thân).

          “Tri tấn thủ thoái” (biết đường tiến lùi) thì gọi là Trí, chính là trí huệ bình phàm trong thế tục, tức là như nói “cùng tắc độc thiện kỳ thân, đạt tắc kiêm lợi thiên hạ” (cùng quẫn thì giữ riêng cho thân mình tốt lành, thông đạt bèn kèm thêm làm lợi cho thiên hạ). Biết hai thứ Nhân và Pháp đều là Không, chẳng có Ngã và Ngã Sở (cái của ta); đấy là trí huệ Bát Nhã xuất thế gian, chính là như thường nói “Bát Nhã sanh tắc chư pháp bất sanh thị (Bát Nhã sanh thì các pháp chẳng sanh). Luận này nói “y trí huệ môn” (nương theo môn trí huệ) tức là nói nương theo Bát Nhã. Có Bát Nhã Không trí thì mới có thể xa lìa Ngã Kiến và Ngã Chấp của chúng sanh. Đã có Ngã Kiến và Ngã Chấp, sẽ nẩy sanh chướng ngại đối với Đại Thừa Bồ Đề tâm và Bồ Tát đạo; do vậy, cần phải xa lìa. Ngã Kiến là gì? Chính là như trong luận này nói: “Ngã tâm tham trước tự thân” (tâm ngã chấp tham đắm bản thân). Ngã Kiến còn gọi là Thân Kiến; đối với Thân Kiến bèn có Ngã Chấp, sanh khởi ngã tham (ái), ngã sân, ngã mạn! Duy Thức Luận nói Ngã Chấp có hai loại:

          1) Do thức thứ bảy duyên theo Kiến Phần của thức thứ tám, chấp đó là Ngã. Đấy chính là Câu Sanh Ngã Chấp (俱生我執, Ngã Chấp bẩm sinh) từ vô thỉ đến nay, khá vi tế.

          2) Do thức thứ sáu duyên theo Tứ Đại và Ngũ Uẩn, chấp đó là Ngã. Đấy chính là Ngã Chấp do phân biệt sanh ra, so ra thô hơn [Câu Sanh Ngã Chấp].

          Muốn phá Ngã Chấp thì trí huệ thế tục chẳng thể làm được, chỉ cậy vào trí huệ Bát Nhã. Phá Nhân Ngã Chấp thì có thể đoạn Phiền Não Chướng, chứng lý Sanh Không. Phá Pháp Ngã Chấp, sẽ có thể đoạn Sở Tri Chướng, chứng lý Pháp Không. Sanh Không là liễu tri “chúng sanh chỉ là giả tướng do các duyên hòa hợp, chẳng có thật thể”. Như liễu giải một chiếc xe hơi chỉ là giả danh để gọi rất nhiều linh kiện (parts) xe hơi ghép thành, trọn chẳng có một vật gì là thật thể của xe hơi. Pháp Không là liễu tri pháp Tứ Đại và Ngũ Uẩn giả hợp thành chúng sanh, cũng là “duyên tụ hội bèn có”, vốn là Không. Đó gọi là Pháp Không Quán. Liễu tri Nhân lẫn Pháp đều là Không, Bát Nhã hiện tiền, sẽ thông đạt hết thảy các pháp chẳng có Ngã và Ngã Sở, tất nhiên là chẳng thể tham đắm, chẳng vì chính mình mà truy cầu bất cứ sự vui sướng nào cần thiết cho ta.

          Nay tôi nêu ra một thí dụ: Tâm tánh của chúng ta giống như hư không, vốn thanh tịnh, chẳng có Ngã Kiến và Ngã Chấp, cũng chẳng có Phiền Não Chướng và Sở Tri Chướng, chẳng khác chư Phật, Bồ Tát. Nhưng chúng sanh từ vô thỉ đến nay, do có Câu Sanh Vô Minh, chẳng có trí huệ Bát Nhã, bèn có Ngã Kiến và Ngã Chấp. Như hư không chẳng có mặt trời chiếu soi, cho nên tối tăm dấy lên. Hư không chẳng thể tự mình trừ tối, phải nhờ vào ánh sáng mặt trời thì mới có thể trừ tối. Tâm tánh rỗng rang cũng giống như thế, chẳng thể tự mình trừ khử Ngã Kiến và Ngã Chấp, ắt phải cậy vào trí huệ Bát Nhã giác chiếu để đoạn chướng, hiển Không. Lại như mặt trời chiếu hư không, càn khôn rỗng rang hiển lộ; Bát Nhã (trí huệ) từ tâm sanh, tâm tánh hiển lộ rạng ngời. Trí huệ phá Ngã Chấp như mặt trời chiếu hư không, bèn chẳng có tối tăm, pháp vốn là như thế đó. Vì thế, cần phải nương theo Trí Huệ Môn để đoạn trừ Ngã Chấp và Pháp Chấp thì mới có thể xa lìa cái ngã tâm tham đắm tự thân (Thân Kiến). Do điều này có thể biết: Chúng ta niệm Phật, lạy Phật, cho đến phát nguyện, quan sát, hồi hướng, đều chẳng thể chỉ vì cầu an vui cho chính mình mà tu tập, phải vì hết thảy chúng sanh “cùng thấy Di Đà, cùng sanh về Cực Lạc, cùng thành Phật đạo, cùng giáo hóa chúng sanh” mà làm! Có những vị tu hành đã lâu, nhưng Ngã Kiến và Ngã Chấp đặc biệt nặng nề; đấy là trái nghịch đạo, chớ nên! Có những vị Bồ Tát ôm giữ chủ nghĩa cá nhân, chủ nghĩa “gió thổi chiều nào ngả theo chiều ấy” (chủ nghĩa thời cơ), chủ nghĩa cục bộ, thành kiến môn hộ đặc biệt mạnh mẽ. Đấy đều là giả danh Bồ Tát, cũng đều là chớ nên!

2.2.2.2.6.2.2. Nương theo Từ Bi Môn

          (Luận) Nhị giả, y từ bi môn, bạt nhất thiết chúng sanh khổ, viễn ly vô an chúng sanh tâm cố.

          (Chú) Bạt khổ viết Từ, dữ lạc viết Bi. Y Từ cố, bạt nhất thiết chúng sanh khổ. Y Bi cố, viễn ly vô an chúng sanh tâm.

          ()二者,依慈悲門。拔一切眾生苦。遠離無安眾生心故。

          ()拔苦曰慈。與樂曰悲。依慈故。拔一切眾生苦。依悲故。遠離無安眾生心。

          (Luận: Hai là nương theo Từ Bi Môn, dẹp khổ cho hết thảy chúng sanh, xa lìa cái tâm chẳng làm cho chúng sanh an vui.

          Chú: Dẹp khổ là Từ, ban vui là Bi. Do nương theo Từ, nên dẹp khổ cho hết thảy chúng sanh. Do nương theo Bi, nên xa lìa cái tâm chẳng làm cho chúng sanh an vui).

          Nói thông thường thì Bi là dẹp khổ, Từ là có thể ban vui. Nương vào đồng thể đại bi, cho nên có thể dẹp khổ cho hết thảy chúng sanh. Nương theo vô duyên đại từ, nên có thể xa lìa cái tâm “chẳng làm cho chúng sanh an vui”, ban cho chúng sanh sự an lạc cần thiết. Do vậy, chúng ta niệm Phật, lạy Phật, cho đến hồi hướng, mục đích đều là phải làm sao cho chính mình và hết thảy chúng sanh chỉ trong một đời này cùng thoát khỏi nhà lửa tam giới, vĩnh viễn lìa khỏi các khổ, cùng sanh vào An Lạc Tịnh Độ, thường hưởng an lạc. Tín như thế, nguyện như thế, hành như thế, niệm như thế, lạy như thế, cho đến hồi hướng như thế. Đấy chính là nương theo Từ Bi Môn để tu pháp môn Ngũ Niệm, tất nhiên là xa lìa cái tâm “chẳng muốn làm cho chúng sanh đượan lạc”. Từ bi có ba loại như trong phần trước tôi đã có nói. Trong thế gian, lòng từ bi của cha mẹ, sư trưởng, người nhà, quyến thuộc, cho đến [lòng từ bi] của những bậc vua hiền, tôi sáng, nhà tôn giáo, nhà từ thiện, chỉ hạn cuộc nơi một người, một nhà, hoặc một nước, chẳng thể phổ cập hết thảy chúng sanh, chẳng vì dẹp khổ cho hết thảy chúng sanh. Đấy chẳng phải là rốt ráo, chẳng viên mãn. Chỉ có lòng từ bi giống như Phật, Bồ Tát thì mới là “nhân giả nhân chi an trạch” (lòng nhân là căn nhà yên vui cho con người), cũng chỉ có “nhiếp thủ, hóa độ hết thảy chúng sanh cùng sanh về An Lạc quốc” thì mới là tâm đại từ bi “từ năng dữ nhất thiết lạc, bi năng bạt nhất thiết khổ” (từ có thể ban hết thảy vui, bi có thể dẹp hết thảy khổ).

2.2.2.2.6.2.3. Nương theo Phương Tiện Môn

          (Luận) Tam giả, y phương tiện môn, lân mẫn nhất thiết chúng sanh tâm, viễn ly cúng dường, cung kính tự thân tâm cố.

          (Chú) Chánh trực viết Phương, ngoại kỷ viết Tiện. Y chánh trực cố, sanh lân mẫn nhất thiết chúng sanh tâm. Y ngoại kỷ cố, viễn ly cúng dường, cung kính tự thân tâm.

          ()三者,依方便門。憐愍一切眾生心。遠離供養恭敬自身心故。

          ()正直曰方。外己曰便。依正直故。生憐愍一切眾生心。依外己故。遠離供養恭敬自身心。

          (Luận: Ba là nương theo Phương Tiện Môn, tâm thương xót hết thảy chúng sanh, xa lìa tâm cúng dường, cung kính chính mình.

          Chú: Chánh trực là Phương, gạt bỏ cái tôi ra ngoài là Tiện. Do nương theo chánh trực, cho nên sanh tâm thương xót hết thảy chúng sanh. Do gạt chính mình ra ngoài, nên xa lìa cái tâm cúng dường, cung kính bản thân).

          Chánh trực và “ngoại kỷ” thì là Phương Tiện. Chánh trực chính là chí thành, “ngoại kỷ” (外己, gạt bỏ cái tôi ra ngoài) chính là vô ngã. Chỉ có chí thành và vô ngã thì mới được gọi là phương tiện trong Phật pháp, mới có thể chẳng “từ bi sanh họa hại, phương tiện xuất hạ lưu” (do từ bi mà sanh ra tai họa, ương hại; do phương tiện [chẳng hay khéo] mà trở thành hạ lưu). Do vậy, trong kinh Vô Lượng Thọ, đức Phật đã nêu ra lời khai thị của Thế Tự Tại Vương Phật dành cho Pháp Tạng Bồ Tát như sau: “Thí như đại hải, nhất nhân đấu lượng, kinh lịch kiếp số, thượng khả cùng để, đắc kỳ diệu bảo. Nhân hữu chí tâm tinh tấn (phương tiện), cầu đạo bất chỉ, hội đương khắc quả, hà nguyện bất đắc” (Ví như đối với biển cả, một người dùng đấu để đong, trải qua kiếp số, còn có thể [múc cạn] đến tận đáy, đạt được của báu mầu nhiệm. Người có sự chí tâm tinh tấn (phương tiện), cầu đạo chẳng ngơi, sẽ đạt được quả, có nguyện nào mà chẳng đạt được). [Lời ấy] nhằm chỉ rõ: Tu pháp môn Tịnh Độ, ắt cần phải dùng phương tiện vô ngã, chí tâm tinh tấn, thì mới là “có nguyện ắt thành”, vãng sanh Cực Lạc, thành Phật độ sanh. Người đời lập công, lập đức, lập ngôn, đều chẳng thể hoàn toàn lìa khỏi Ngã Kiến và Ngã Chấp. Do vậy, thành công thì riêng mình hưởng lạc là chuyện tất nhiên. Bồ Tát khác hẳn, Ngài cầu sanh Cực Lạc là vì thương xót, cứu độ hết thảy chúng sanh, [khiến cho họ] có thể “chẳng có các nỗi khổ, chỉ hưởng các sự vui”, chẳng phải là sanh về thế giới Cực Lạc để chính mình hưởng lạc, cũng chẳng phải vì muốn được “người đời cung kính, lễ bái giống như lễ bái thần thánh” mà phát tâm học Phật, làm Bồ Tát. Chỗ khác biệt giữa Bồ Tát và người đời là các Ngài có tinh thần vô ngã thì mới có thể có phương tiện chí tâm tinh tấn, chẳng trái nghịch tâm Vô Thượng Bồ Đề, hoàn thành Lục Độ vạn hạnh của Bồ Tát đạo. Trong Vô Lượng Thọ Kinh Giảng Nghĩa (từ trang một trăm chín mươi lăm đến trang hai trăm lẻ hai), tôi đã có giải thích, mọi người chẳng ngại tra duyệt, tham khảo.

2.2.2.2.6.3. Tổng kết

          (Luận) Thị danh viễn ly tam chủng Bồ Đề môn tương vi pháp.

          ()是名遠離三種菩提門相違法。

          (Luận: Đó gọi là xa lìa ba loại pháp trái nghịch Bồ Đề môn).

          Có thể trọn đủ ba môn trí huệ, phương tiện, và từ bi như đã nói trên đây, sẽ chẳng trái nghịch Vô Thượng Bồ Đề tâm và Đại Thừa Bồ Tát đạo, có thể sanh vào Tịnh Độ, có thể thành Phật quả. Vì thế gọi là “ba thứ Bồ Đề môn”. Giả sử chỉ biết niệm Phật, lễ Phật, phát nguyện, quan sát, nhưng chẳng thể xa lìa ba thứ pháp trái nghịch Bồ Đề môn, thì không chỉ là chẳng thể thành Phật, mà vãng sanh Tịnh Độ cũng chẳng dễ dàng! Vì sao vậy? Pháp môn Tịnh Độ là pháp Đại Thừa, vãng sanh Cực Lạc là Bồ Đề đại đạo để thành Phật. Nếu chẳng xa lìa các pháp trái nghịch tinh thần Đại Thừa và Bồ Đề đại đạo, đương nhiên là chúng sẽ chướng ngại Bồ Tát, chẳng thể đạt thành nguyện vọng vãng sanh thành Phật.

2.2.2.2.7. Thuận Bồ Đề môn

          (Chú) Thuận Bồ Đề môn giả.

          ()順菩提門者。

          (Chú: Thuận Bồ Đề môn…)

2.2.2.2.7.1. Nêu chung ba môn

          (Luận) Bồ Tát viễn ly như thị tam chủng Bồ Đề môn tương vi pháp, đắc tam chủng tùy thuận Bồ Đề môn pháp mãn túc cố.

          ()菩薩遠離如是三種菩提門相違法。得三種隨順菩提門法滿足故。

          (Luận: Bồ Tát xa lìa ba loại pháp trái nghịch Bồ Đề môn như thế, sẽ đạt được trọn vẹn ba loại pháp tùy thuận Bồ Đề môn).

          Hai câu luận này nhằm nối tiếp phần trước để khởi đầu cho phần sau, trước hết là nêu chung ba loại pháp tùy thuận Bồ Đề môn, sau đấy mới phân biệt giải nói. Những gì là ba thứ? Chính là vô nhiễm thanh tịnh tâm, an thanh tịnh tâm, và lạc thanh tịnh tâm. Ba thứ đều được gọi là thanh tịnh tâm. Điều này nhằm nêu rõ: Tâm tịnh thì mới có thể sanh về Tịnh Độ, mới được thành Phật. Phật môn vô lượng nghĩa, nhưng đều lấy cái tâm thanh tịnh làm căn bản. Do vậy, trong tác phẩm Thành Phật Chi Đạo, đạo sư Ấn Thuận (印順導師) đã viết: “Giới nhằm tịnh hóa tâm và khẩu, Định nhằm tịnh hóa tình dục, Huệ nhằm tịnh hóa tri kiến, Tam Học lần lượt thanh tịnh. Nước tam-muội tịnh hóa tham, gió từ bi tịnh hóa sân, lửa Bát Nhã tịnh hóa si, tánh địa vốn sẵn tịnh. Vô biên phiền não tịnh, vô lượng tịnh hạnh tích tập, liền dùng ngay cái hạnh tịnh tâm ấy để trang nghiêm cõi Cực Lạc”. Các liên hữu Tịnh tông phải ghi khắc những lời ấy bên chỗ ngồi!

2.2.2.2.7.2. Nêu rõ từng môn riêng biệt trong ba môn

2.2.2.2.7.2.1. Vô nhiễm thanh tịnh tâm

          (Luận) Hà đẳng tam chủng? Nhất giả, vô nhiễm thanh tịnh tâm, dĩ bất vị tự thân cầu chư lạc cố.

          (Chú) Bồ Đề thị vô nhiễm thanh tịnh xứ. Nhược vị thân cầu lạc, tức vi Bồ Đề. Thị cố, vô nhiễm thanh tịnh tâm thị thuận Bồ Đề môn.

          ()何等三種。一者無染清淨心。以不為自身求諸樂故。

          ()菩提是無染清淨處。若為身求樂。即違菩提。是故無染清淨心是順菩提門。

          (Luận: Những gì là ba loại? Một là tâm thanh tịnh vô nhiễm, do chẳng vì bản thân mà cầu các sự vui.

          Chú: Bồ Đề là chỗ vô nhiễm thanh tịnh. Nếu vì bản thân mà cầu vui sướng, tức là trái nghịch Bồ Đề. Do vậy, tâm thanh tịnh vô nhiễm là thuận Bồ Đề môn).

          Như thế nào để đạt được ba loại pháp tùy thuận Bồ Đề môn? Do tương phản với ba loại pháp trái nghịch Bồ Đề môn mà đạt được. Loại thứ nhất là nương theo Trí Huệ Môn, phá Ngã Kiến và Ngã Chấp, sẽ đạt được cái gọi là vô nhiễm thanh tịnh tâm. Vì chẳng có Ngã Kiến và Ngã Chấp, cho nên hết thảy các phiền não chẳng dấy lên, cái tâm thanh tịnh, do vậy, gọi là “vô nhiễm”. Vô Thượng Chánh Đẳng Chánh Giác cần phải đoạn trừ hết thảy phiền não thì mới có thể chứng đắc. Do vậy nói: Bồ Đề là chốn thanh tịnh vô nhiễm. Phàm những ai có thể chẳng vì chính mình mà cầu danh, cầu lợi, cầu an lạc, bèn phá Ngã Chấp, đắc vô ngã. Vô ngã tự nhiên là vô nhiễm thanh tịnh. Nhưng chỉ là Vô Ngã, chỉ đạt được bản thân thanh tịnh, thì đấy là Nhị Thừa Bồ Đề, vẫn chẳng phải là pháp để tùy thuận Đại Thừa Bồ Đề. Ắt cần phải nương theo trí huệ Bát Nhã Nhân lẫn Pháp đều Không để đoạn Ngã Chấp và Pháp Chấp, chứng đắc Nhị Không Chân Như. Lại có thể chẳng chìm đắm trong Không, hướng đến Tịch, hành Bồ Đề đạo, nhiếp thủ hết thảy chúng sanh cùng sanh về An Lạc quốc thành Phật. Đấy mới là vô nhiễm thanh tịnh tâm được nói trong bộ luận này, là pháp tùy thuận Đại Thừa Bồ Đề Môn. Vì Tây Phương An Lạc quốc là cõi Tịnh Độ chí cực vô nhiễm thanh tịnh, là cảnh giới Đại Niết Bàn của chư Phật. Phàm ai sanh về cõi ấy, ắt được Hoặc tận, trí viên, rốt ráo là Nhất Sanh Bổ Xứ. Vì thế, chỉ cần nguyện “làm cho hết thảy chúng sanh cùng sanh An Lạc quốc” thì tức là vô nhiễm thanh tịnh tâm, tùy thuận Đại Thừa Bồ Đề Môn

2.2.2.2.7.2.2. An thanh tịnh tâm

          (Luận) Nhị giả, an thanh tịnh tâm, dĩ bạt nhất thiết chúng sanh khổ cố.

          (Chú) Bồ Đề thị an ổn nhất thiết chúng sanh thanh tịnh xứ. Nhược bất tác tâm bạt nhất thiết chúng sanh ly sanh tử khổ, tức tiện vi Bồ Đề. Thị cố, bạt nhất thiết chúng sanh khổ, thị thuận Bồ Đề môn.

          ()二者,安清淨心。以拔一切眾生苦故。

          ()菩提是安穩一切眾生清淨處。若不作心。拔一切眾生離生死苦。即便違菩提。是故拔一切眾生苦。是順菩提門。

          (Luận: Hai là an thanh tịnh tâm vì dẹp khổ cho hết thảy chúng sanh.

          Chú: Bồ Đề là chỗ thanh tịnh để an ổn hết thảy chúng sanh. Nếu chẳng dấy lòng giúp chúng sanh lìa nỗi khổ sanh tử, sẽ trái nghịch Bồ Đề. Vì thế, dẹp khổ cho hết thảy chúng sanh là thuận Bồ Đề môn).

          Loại thứ hai là nương theo Từ Bi môn, dẹp khổ cho hết thảy chúng sanh, sẽ đạt được cái gọi là “an thanh tịnh tâm”. “An” ở đây chẳng phải là chính mình lìa khổ được vui, tức là “thân an”, mà cũng chẳng phải là “đem cái tâm lại đây, ta sẽ an nó cho ngươi” trong Thiền Tông, được gọi là “tâm an”. “An thanh tịnh tâm” là phải phát nguyện dẹp hết thảy khổ nạn cho chúng sanh, ban an lạc cho hết thảy chúng sanh. Có tâm đại từ bi như thế thì mới là pháp thuận theo Đại Thừa Bồ Đề Môn được nói trong luận này. Nếu chẳng phát nguyện (“tác tâm”) giúp cho hết thảy chúng sanh lìa khỏi nỗi khổ sanh tử, sẽ là trái nghịch Đại Thừa Bồ Đề Môn!

 2.2.2.2.7.2.3. Lạc thanh tịnh tâm

          (Luận) Tam giả, lạc thanh tịnh tâm. Dĩ linh nhất thiết chúng sanh đắc đại Bồ Đề cố, dĩ nhiếp thủ chúng sanh sanh bỉ quốc độ cố.

          (Chú) Bồ Đề thị tất cánh thường lạc xứ. Nhược bất linh nhất thiết chúng sanh đắc tất cánh thường lạc, tắc vi Bồ Đề. Thử tất cánh thường lạc, y hà nhi đắc? Y Đại Thừa Môn. Đại Thừa Môn giả, vị bỉ An Lạc Phật quốc độ thị dã. Thị cố, hựu ngôn dĩ nhiếp thủ chúng sanh sanh bỉ quốc độ cố.

          ()三者樂清淨心。以令一切眾生得大菩提故。以攝取眾生生彼國土故。

          ()菩提是畢竟常樂處。若不令一切眾生得畢竟常樂。則違菩提。此畢竟常樂依何而得。依大乘門。大乘門者。謂彼安樂佛國土是也。是故又言以攝取眾生生彼國土故。

          (Luận: Ba là lạc thanh tịnh tâm, vì khiến cho hết thảy chúng sanh đắc đại Bồ Đề, vì nhiếp thủ chúng sanh sanh về quốc độ ấy.

          Chú: Bồ Đề là chỗ rốt ráo thường lạc. Nếu chẳng làm cho hết thảy chúng sanh đạt được chỗ rốt ráo thường lạc thì là trái nghịch Bồ Đề. Dựa vào đâu để đạt được chỗ rốt ráo thường lạc này? Dựa vào Đại Thừa Môn. Đại Thừa Môn chính là quốc độ An Lạc vậy. Vì thế, lại nói “vì nhiếp thủ chúng sanh sanh vào quốc độ ấy”).

          Loại thứ ba, nương theo Phương Tiện Môn, chẳng nhằm cầu an lạc cho chính mình, chỉ nguyện chúng sanh được thành Phật, sẽ đạt được cái gọi là “lạc thanh tịnh tâm”. “Lạc” ở đây chẳng phải là như người đời quen thói cờ bạc bèn gọi là Lạc trong “đại gia lạc”, chẳng phải là niềm vui kiểu “kim triêu hữu tửu, kim triêu lạc” (hôm nay có rượu, hôm nay vui), cũng chẳng phải là niềm vui ngũ dục thông thường. “Lạc thanh tịnh tâm” là muốn cho hết thảy chúng sanh cùng đắc Đại Thừa Bồ Đề giác pháp lạc, được sanh về Tây Phương An Lạc quốc, chẳng có các nỗi khổ, chỉ hưởng các niềm vui, chẳng biến đổi, chẳng mất đi, an trụ Đại Bát Niết Bàn, trọn đủ công đức lạc chân thật “thường, lạc, tự tại, thanh tịnh”. Đấy mới chính là pháp thuận Đại Thừa Bồ Đề Môn được nói trong bộ luận này. Nếu chẳng phát nguyện khiến cho hết thảy chúng sanh được rốt ráo thường lạc, chẳng phát nguyện làm cho hết thảy chúng sanh cùng sanh An Lạc quốc, sẽ là trái nghịch Đại Thừa Bồ Đề Môn.

2.2.2.2.7.3. Tổng kết

          (Luận) Thị danh tam chủng tùy thuận Bồ Đề Môn pháp mãn túc, ưng tri.

          ()是名三種隨順菩提門法滿足。應知。

          (Luận: Đấy gọi là ba thứ pháp trọn vẹn tùy thuận Bồ Đề môn, hãy nên biết).

          Tổng kết ba pháp tùy thuận Đại Thừa Bồ Đề Môn để nói: Tức là dựa theo ba môn trong bộ luận này và ba tâm trong Quán Kinh để phát khởi Đại Thừa Bồ Đề tâm “bi, trí, phương tiện hợp nhất”, xa lìa ba thứ pháp trái nghịch Bồ Đề Môn, đạt được trọn vẹn ba loại pháp tùy thuận Bồ Đề Môn, ắt có thể chứng trọn vẹn tam đức của Đại Niết Bàn. Đấy gọi là “nhất lộ Niết Bàn môn” của chư Phật; do đó, gọi là Đại Thừa Bồ Đề Môn. Nay lập biểu đồ giản yếu để thuyết minh như sau:

Ba môn trong luận này Trí môn Phương tiện Từ bi
Ba tâm của Quán Kinh Chí thành tâm Thâm tâm Hồi hướng phát nguyện tâm
Ba thứ Bồ Đề tâm hợp nhất của Bồ Tát Tác ý tương ứng trí Nhất Thiết Trí Vô sở đắc làm phương tiện Từ bi làm thượng thủ
Xa lìa ba pháp trái nghịch Bồ Đề Môn Ngã tâm tham đắm tự thân Tâm cung kính cúng dường bản thân Tâm không làm cho chúng sanh được an vui
Đạt được ba pháp tùy thuận Bồ Đề Môn Vô nhiễm thanh tịnh tâm Lạc thanh tịnh tâm An thanh tịnh tâm
Chứng trọn vẹn ba đức của đại Niết Bàn Pháp Thân đức Giải Thoát đức Bát Nhã đức

2.2.2.2.8. Danh nghĩa nhiếp đối (Đối ứng danh tướng và hàm nghĩa)

          (Chú) Danh nghĩa nhiếp đối giả.      

          ()名義攝對者。

          (Chú: Đối ứng danh tướng và hàm nghĩa).

          Ngài Đàm Loan dùng câu này để phân chia khoa mục, [khoa mục này] thuộc tiểu khoa thứ tám trong phần Giải Nghĩa. Trong đây, lại chia thành ba tiểu đoạn. Tiểu đoạn thứ nhất là ba loại môn được thâu nhiếp, tiểu đoạn thứ hai là ba loại pháp xa lìa, tiểu đoạn thứ ba là thành tựu ba thứ tâm.

2.2.2.2.8.1. Ba loại môn được thâu nhiếp

          (Luận) Hướng thuyết trí huệ, từ bi, phương tiện tam chủng môn, nhiếp thủ Bát Nhã. Bát Nhã nhiếp thủ phương tiện, ưng tri.

          (Chú) Bát Nhã giả, đạt Như chi huệ danh. Phương tiện giả, thông Quyền chi trí xưng. Đạt Như tắc tâm hạnh tịch diệt. Thông quyền tắc bị tỉnh chúng cơ, Tỉnh cơ chi trí, bị ứng nhi vô tri. Tịch diệt chi huệ, diệc vô tri nhi bị tỉnh. Nhiên tắc trí huệ phương tiện, tương duyên nhi động, tương duyên nhi tĩnh. Động bất thất tĩnh, trí huệ chi công dã. Tĩnh bất phế động, phương tiện chi lực dã. Thị cố, trí huệ, từ bi, phương tiện, nhiếp thủ Bát Nhã, Bát Nhã nhiếp thủ phương tiện. “Ưng tri” giả, vị ưng tri trí huệ phương tiện, thị Bồ Tát phụ mẫu. Nhược bất y trí huệ phương tiện, Bồ Tát pháp tắc bất thành tựu. Hà dĩ cố? Nhược vô trí huệ, vi chúng sanh thời, tắc đọa điên đảo. Nhược vô phương tiện, quán pháp tánh thời, tắc chứng Thật Tế. Thị cố ưng tri.

          ()向說智慧。慈悲。方便。三種門攝取般若。般若攝取方便。應知。

          ()般若者。達如之慧名。方便者。通權之智稱。達如則心行寂滅。通權則備省眾機。省機之智。備應而無知。寂滅之慧。亦無知而備省。然則智慧方便。相緣而動。相緣而靜。動不失靜。智慧之功也。靜不廢動。方便之力也。是故智慧慈悲方便。攝取般若。般若攝取方便。應知者。謂應知智慧方便。是菩薩父母。若不依智慧方便。菩薩法則不成就。何以故。若無智慧。為眾生時。則墮顛倒。若無方便。觀法性時。則證實際。是故應知。

          (Luận: Ba loại môn trí huệ, từ bi, phương tiện vừa nói trên đây nhiếp thủ Bát Nhã. Bát Nhã nhiếp thủ phương tiện, hãy nên biết.

          Chú: Bát Nhã là danh xưng của huệ đã thấu đạt Như (Chân Như). Phương tiện là danh xưng của trí thông đạt Quyền. Thấu đạt Như thì tâm hạnh tịch diệt. Thông đạt Quyền thì sẽ thấu hiểu trọn khắp các căn cơ. Trí hiểu thấu các căn cơ tuy ứng hợp trọn khắp nhưng vô tri. Tịch diệt huệ cũng vô tri, nhưng thấu hiểu trọn khắp. Tuy thế, trí huệ và phương tiện duyên lẫn nhau mà động, duyên lẫn nhau mà tĩnh. Động mà chẳng mất tĩnh là công năng của trí huệ. Tĩnh mà chẳng bỏ động là sức của phương tiện. Vì thế, trí huệ, từ bi, phương tiện, nhiếp thủ Bát Nhã. Bát Nhã nhiếp thủ phương tiện. “Hãy nên biết” là nói hãy nên biết trí huệ và phương tiện là cha mẹ của Bồ Tát. Nếu chẳng nương theo trí huệ và phương tiện, Bồ Tát pháp sẽ chẳng thành tựu. Vì sao vậy? Nếu chẳng có trí huệ thì khi vì chúng sanh, sẽ đọa điên đảo. Nếu không có phương tiện thì khi quán pháp tánh, sẽ chứng Thật Tế (chấp vào Diệt Độ, không khởi tâm độ sanh). Do vậy, hãy nên biết).

          “Bát Nhã” là trí huệ hiểu rõ Chân Như “Pháp Không và Nhân Không”, vì thế nói là “đạt Như chi huệ danh” (là danh xưng của trí huệ thấu đạt Chân Như). Kinh Pháp Hoa gọi [trí huệ ấy] là Thật Trí, hoặc Vị Tằng Hữu Pháp (pháp chưa từng có). Khởi Tín Luận gọi nó là Tâm Chân Như Môn, kinh Hoa Nghiêm gọi nó là Vô Sư Trí, hoặc Tự Nhiên Trí. Những kinh luận khác gọi nó là Vô Phân Biệt Trí, Nhất Thiết Trí, hoặc Căn Bản Trí.

          “Phương tiện” là trí huệ thông đạt nguyên do duyên khởi của các pháp, vì thế nói là “thông Quyền chi trí xưng” (tên gọi của cái trí thông đạt quyền biến). Kinh Pháp Hoa gọi nó là Quyền Trí, hoặc Phương Tiện Tri Kiến. Khởi Tín Luận gọi nó là Tâm Sanh Diệt Môn, Hoa Nghiêm gọi nó là Thập Huyền Môn, các kinh luận khác gọi nó là Đạo Chủng Trí, hoặc Hậu Đắc Trí.

          Nói theo phương diện “Bát Nhã thấu đạt Chân Như” thì Lý Thể Chân Như là cái được chứng (Chân Đế), và Bát Nhã là chủ thể để chứng [Lý Thể Chân Như, cả hai] đều là tâm hành xứ diệt, ngôn ngữ dứt bặt, chỉ có chứng mới biết. Kinh Pháp Hoa nói “chỉ chỉ bất tu thuyết, ngã pháp diệu nan tư” (thôi, thôi, chẳng cần nói, pháp ta diệu khó nghĩ), tức là nói đến điều này.

          Nói theo phương diện “Phương Tiện thông đạt Quyền” thì pháp tướng duyên khởi được quán (Tục Đế), và trí phương tiện có thể quán [Tục Đế], đều là định luật nhân quả “do cái này có mà cái kia có”. Kinh Pháp Hoa nói: “Chư pháp như thị tướng, nãi chí như thị bản mạt cứu cánh đẳng” (Tướng của các pháp là như thế cho đến đầu ngọn rốt ráo1 là như thế), không gì chẳng phải là “biết trọn, hiểu suốt”, cũng là nói đến điều này. Luận Chủ gộp chung ba môn trí huệ, phương tiện, và từ bi đã nói trên đây thành Bát Nhã và Phương Tiện, tức là Quyền Trí và Thật Trí, nhất tâm nhị môn, Chân Đế và Tục Đế. Hai trí, hai môn, hai Đế ấy nương tựa lẫn nhau, thành tựu lẫn nhau, chẳng một, chẳng khác, tức là chúng sanh và Phật có cùng một Thể, chính là Thể và Dụng của tự tánh thanh tịnh tâm. Phương Tiện chính là diệu dụng thiện xảo, cũng là “xảo phương tiện hồi hướng” được nói trong luận này, từ Bát Nhã mà có. Chẳng có Thể, sẽ không có Dụng, pháp vốn là như vậy.

          Kinh nói: “Tiên đắc Bát Nhã (Căn Bản Trí), hậu đắc phương tiện (khởi Phương Tiện Trí)” (Trước là đắc Bát Nhã, tức Căn Bản Trí, sau là đắc phương tiện, tức là dấy lên Phương Tiện Trí). Nói theo Ngũ Bồ Đề2

của Bồ Tát đạo thì Bát Nhã là minh tâm Bồ Đề, hiển hiện Bát Nhã tâm thể. Phương Tiện là xuất đáo Bồ Đề, là đại dụng của khởi tâm Bát Nhã. Do vậy, Du Già Sư Địa Luận nói: “Trong địa vị thông đạt (minh tâm Bồ Đề), dấy lên trí vô phân biệt. Đối với cảnh sở duyên (nhân, pháp) đều là chẳng có gì để đạt được. Lý Trí đã âm thầm, tâm cảnh ngầm thấu hiểu, tướng Hữu và Không có lúc chẳng hiện tiền thì mới gọi là chứng đắc chân lý Duy Thức. Đã chứng chân thức, bèn khởi Hậu Đắc Trí (phương tiện) thì mới chứng Tục Đế”. Kinh Mật Nghiêm cũng nói: “Phi bất kiến Chân Như nhi năng liễu chư pháp giai như huyễn hóa, tuy hữu nhi phi chân” (Chẳng phải là không thấy Chân Như mà có thể hiểu rõ các pháp đều như huyễn hóa, tuy có mà chẳng phải là thật). Đại Trí Độ Luận cũng nói: “Bát Nhã sẽ nhập Tất Cánh Không, dứt bặt các hý luận, sự hòa quyện (phương tiện) sẽ từ Tất Cánh Không dấy lên hiện hành để trang nghiêm cõi nước, thành thục chúng sanh”. Trong bộ Trung Luận Sớ, Cát Tạng đại sư cũng nói: “Bát Nhã soi thẳng Thật Tướng của các pháp làm Thể, Thể chính là bất nhị. Phương Tiện chính là tác dụng khéo léo của Bát Nhã. Dụng có nhiều môn: 1) Có thể chiếu Không mà chẳng chứng. 2) Quán Không chính là đồng thời chiếu Hữu. 3) Can dự vào Hữu mà lại có thể chẳng vướng mắc. Như Thể của vàng là một (Bát Nhã), vàng chế thành các món vật hay khéo thì đều gọi là Phương Tiện. Người học đạo Phương Quảng của Đại Thừa mà nếu chấp chặt tánh Không, do chẳng có phương tiện, học Đại Thừa, hiểu hết thảy các pháp bất sanh, bất diệt, rốt ráo là không, bèn chấp vào Vô Sanh, đánh mất Sanh. Đã mất Sanh thì Vô Sanh cũng mất, hai Đế cùng bị hoại. Hãy nên dùng Trung Đạo của Nhị Đế để phát sanh chánh quán Nhị Huệ (tức Bát Nhã và Phương Tiện) để diệt trừ các kiến giải Thường Kiến và Đoạn Kiến. Vì thế có Phật, Bồ Tát”.

          Do vậy, ngài Đàm Loan giải thích: “Trí huệ phương tiện, tương duyên nhi động (Dụng), tương duyên nhi tĩnh (Thể). Động bất thất tĩnh, trí huệ chi công dã. Tĩnh bất phế động, phương tiện chi lực” (Trí huệ và phương tiện duyên lẫn nhau mà động (tức Dụng), duyên lẫn nhau mà tĩnh (đó là Thể). Động mà chẳng mất tĩnh, chính là công năng của trí huệ. Tĩnh mà chẳng bỏ động là sức của phương tiện). “Tương duyên” (Duyên lẫn nhau) chính là nhất tâm nhị môn, hai trí Quyền và Thật nương tựa lẫn nhau, thành tựu lẫn nhau. “Động tĩnh” là tướng của Bát Nhã và Phương Tiện, tức là nhất tâm có đủ các tướng Thể và Dụng. Tâm Chân Như Môn là Tĩnh, Tâm Sanh Diệt Môn là Động. Vì thế, luận này gom chung ba môn thành hai trí Bát Nhã và Phương Tiện, cũng là gom vào trong Thể và Dụng của nhất tâm nhị môn. Môn Từ Bi chính là Dụng của nhất tâm, thuộc vào Phương Tiện Trí. Do vô duyên từ và đồng thể bi của chư Phật, Bồ Tát sanh từ Bát Nhã, tương đồng với Phương Tiện cũng sanh từ Bát Nhã, cho nên gộp từ bi vào trong Phương Tiện vậy.

          Ngài Đàm Loan giải thích “ưng tri” (hãy nên biết) là hãy nên biết trí huệ và phương tiện chính là cha mẹ của Bồ Tát. Nếu chẳng nương cậy trí huệ và phương tiện, Bồ Tát pháp sẽ chẳng thành tựu. Vì sao? Nếu Bồ Tát chẳng có Bát Nhã, vậy thì trong khi độ chúng sanh, sẽ có bốn thứ điên đảo của bọn phàm phu:

          1) Chấp vô thường là thường.

          2) Chấp bất tịnh là tịnh.

          3) Thế gian là khổ mà chấp là lạc.

          4) Các pháp vô ngã mà chấp là ngã.

          Hoặc sẽ đọa trong địa vị Nhị Thừa, cũng dấy lên bốn thứ điên đảo: Đối với bốn chân đức Thường, Lạc, Ngã, Tịnh của Phật quả đại Niết Bàn bèn lầm tưởng chúng cũng giống như “vô thường, khổ, không, bất tịnh” bình phàm của thế gian. Nếu Bồ Tát chẳng có phương tiện, tất nhiên là trong khi quán Không, sẽ chứng Diệt Độ (lời chú giải gọi Diệt Độ là Thật Tế), vậy thì còn có thể hành Bồ Tát đạo, phổ độ chúng sanh thành Phật trong thời gian và không gian vô tận nữa chăng? Do đó, kinh Duy Ma Cật nói: “Trí Độ (Bát Nhã) Bồ Tát mẫu, phương tiện dĩ vi phụ, nhất thiết chúng đạo sư (Phật, Bồ Tát), vô bất do thị sanh” (Trí Độ (Bát Nhã) là mẹ của Bồ Tát, phương tiện là cha, các bậc đạo sư của hết thảy chúng sanh (tức Phật, Bồ Tát), không vị nào chẳng do điều này mà sanh). Quyển ba mươi bốn của Tứ Thập Hoa Nghiêm cũng chép: “Chư Uẩn xứ giới cập duyên khởi, tất năng quán sát bất thú tịch, thử thiện xảo nhân (hữu Phương Tiện Trí chi Bồ Tát) chi trụ xứ… Tuy quán Tứ Thánh Đế, nhi bất trụ Tiểu Thừa Tứ Quả. Tuy quán thậm thâm duyên khởi, nhi bất trụ cứu cánh Tịch Diệt. Tuy quán Ngũ Uẩn Không, nhi bất vĩnh diệt chư Uẩn. Tuy an trụ Chân Như, nhi bất đọa Thật Tế. Tuy tri nhất thiết pháp vô sanh, vô diệt, nhi bất ư Thật Tế tác chứng. Tuy quán ư Không, nhi bất khởi Không Kiến” (Đối với các Uẩn xứ giới và duyên khởi đều có thể quán sát mà chẳng trụ vào tịch diệt, đấy là trụ xứ của bậc thiện xảo (tức là vị Bồ Tát có Phương Tiện Trí)… Tuy quán Tứ Thánh Đế mà chẳng trụ trong Tứ Quả của Tiểu Thừa. Tuy quán duyên khởi rất sâu mà chẳng trụ trong Tịch Diệt rốt ráo. Tuy quán Ngũ Uẩn là Không mà chẳng vĩnh viễn diệt các Uẩn. Tuy an trụ Chân Như mà chẳng đọa trong Thật Tế. Tuy biết hết thảy các pháp bất sanh bất diệt, mà chẳng chứng Thật Tế. Tuy quán Không mà chẳng dấy lên Không Kiến). Do vậy, ngài Đàm Loan nói: “Trí huệ phương tiện thị Bồ Tát phụ mẫu” (Trí huệ và phương tiện là cha mẹ của Bồ Tát).

          Bồ Tát dùng Bát Nhã để hành phương tiện, tức là Chân Không bất không, bèn có thể trang nghiêm cõi nước, thành thục chúng sanh. Hành phương tiện mà có Bát Nhã, tức là Diệu Hữu chẳng phải là hữu, chẳng chấp trước điên đảo. Điều này được diễn tả là: Trụ nơi Lý Thể vô vi mà làm Phật sự hữu vi, phổ độ chúng sanh, nhưng chẳng có tướng hóa độ chúng sanh, trên là thành Phật đạo mà chẳng chấp tướng thành Phật. Chẳng phải là nói “không độ sanh, chẳng thành Phật”. Như thí dụ que củi nhóm lò trong phần trước, chúng sanh chưa thể đều thành Phật trọn hết mà bản thân Bồ Tát đã thành Phật trước.

          Các vị thượng thiện nhân ơi! Nếu quý vị duyệt đọc bộ luận này, lại liễu giải nghĩa lý trong ấy, quý vị có còn hiểu lầm pháp môn Tịnh Độ là chấp tướng, là tiêu cực, là Tiểu Thừa, là tự giải thoát cho riêng mình nữa chăng? Quý vị có còn coi rẻ Tịnh Tông liên hữu là những ông già bà cả ăn chay vô tri vô thức nữa chăng? Quý vị còn chẳng thật sự vì sanh tử, phát Bồ Đề tâm, dùng tín nguyện sâu, tu Ngũ Niệm Môn, cùng với các chúng sanh vãng sanh Tịnh Độ, cùng thành Phật đạo, cùng giáo hóa chúng sanh hay không?

2.2.2.2.8.2. Lìa ba loại pháp   

          (Luận) Hướng thuyết viễn ly ngã tâm tham trước tự thân, viễn ly vô an chúng sanh tâm, viễn ly cúng dường, cung kính tự thân tâm. Thử tam chủng pháp, viễn ly chướng Bồ Đề tâm, ưng tri.

          (Chú) Chư pháp các hữu chướng ngại tướng, như phong năng chướng tĩnh, thổ năng chướng thủy, thấp năng chướng hỏa, ngũ hắc thập ác chướng nhân thiên, tứ điên đảo chướng Thanh Văn quả. Thử trung tam chủng bất viễn ly chướng Bồ Đề tâm. Ưng tri giả, nhược dục đắc vô chướng, đương viễn ly thử tam chủng chướng ngại dã.

          ()向說遠離我心。貪著自身。遠離無安眾生心。遠離供養恭敬自身心。此三種法遠離障菩提心。應知。

          ()諸法各有障礙相。如風能障靜。土能障水。濕能障火。五黑十惡障人天。四顛倒障聲聞果。此中三種不遠離。障菩提心。應知者。若欲得無障。當遠離此三種障礙也。

          (Luận: Như trong phần trên đã nói: Xa lìa cái tâm chấp Ngã tham đắm bản thân, xa lìa cái tâm chẳng làm cho chúng sanh an lạc, xa lìa cái tâm cúng dường, cung kính tự thân. [Xa lìa] ba loại pháp ấy [sẽ giúp cho hành nhân] xa lìa các chướng ngại Bồ Đề tâm, hãy nên biết.

          Chú: Các pháp mỗi thứ đều có tướng chướng ngại. Như gió có thể chướng ngại tĩnh, đất có thể chướng ngại nước, ướt có thể chướng ngại lửa, năm điều đen tối (Ngũ Nghịch) và Thập Ác có thể chướng ngại nhân thiên, bốn món điên đảo chướng ngại quả Thanh Văn. Chẳng xa lìa ba thứ pháp ấy, sẽ bị chướng ngại Bồ Đề tâm. “Hãy nên biết”: Nếu muốn chẳng có chướng ngại, hãy nên xa lìa ba thứ chướng ngại ấy).

           Luận Chủ hết sức thiện xảo phương tiện, đối với ba thứ môn là trí huệ, phương tiện, và từ bi vừa mới nói, Ngài bèn gom lại thành hai trí là Bát Nhã và Phương Tiện, hai trí cũng lần lượt dung nhập vào nhau. Tiếp đấy, Ngài bèn khai thị chúng ta: Phải xa lìa ba thứ pháp thuộc ba môn, vì chúng sẽ chướng ngại Đại Thừa Bồ Đề tâm. Nếu muốn cho Bồ Đề tâm của chính mình liên tục tăng trưởng, chẳng bị thoái thất, thẳng cho đến khi thành Phật chẳng hề bị chướng ngại, thì hãy nên xa lìa ba thứ pháp ấy.

          Ngài Đàm Loan lại giải thích thêm: Các pháp được sanh bởi nhân duyên đều có tướng chướng ngại. Ví như đất, nước, gió, lửa trong thiên nhiên, được thế gian gọi là Tứ Đại, do tứ đại chủng “cứng, ướt, ấm, lay động” (còn gọi là Thật Tứ Đại) tạo thành, chính là do Thật Tứ Đại giả hòa hợp. Do vậy, chúng còn được gọi là Giả Tứ Đại, tất nhiên là chướng ngại lẫn nhau. [Chẳng hạn như] gió có thể chướng ngại sự tĩnh lặng của nước và lửa, đất có thể chướng ngại sự lưu động của nước, nước có thể chướng ngại sự thiêu đốt của lửa, lửa có thể chướng ngại sự mát mẻ của gió. Lại còn có nghiệp Ngũ Nghịch (hắc nghiệp), Thập Ác gây tạo trong chúng sanh giới sẽ gây chướng ngại [khiến cho chúng sanh] chẳng được sanh làm trời, người, tức là thánh hiền xuất thế gian cũng bị chướng ngại. Chướng ngại gì vậy? Hễ có bốn kiến giải điên đảo về Thường, Lạc, Ngã, Tịnh, chúng nó sẽ chướng ngại quý vị chẳng đắc Tứ Hướng và Tứ Quả của Thanh Văn. Như luận này nói Bồ Tát nương theo ba môn, xa lìa ba loại pháp ngăn trở quý vị đắc Đại Thừa Bồ Đề tâm, khiến cho quý vị thoái thất Bồ Đề tâm, trở thành một Bồ Tát bại hoại. Do vậy, phàm là Bồ Tát thì đều phải nên biết, nhất định phải xa lìa!

          Ba loại pháp ấy đều chướng ngại Bồ Đề tâm, vì Bồ Đề của tam thừa đều cần phải phá Ngã Chấp và Ngã Kiến, như trong kinh có nói: “Tam thừa đều do quán Không mà đắc đạo”. Nếu có ngã tâm tham đắm tự thân, chẳng trừ Ngã Kiến, Bồ Đề của tam thừa đều chẳng thành! Nếu chỉ đắc chánh kiến Ngã Không, mà thiếu từ bi và phương tiện khiến cho chúng sanh đạt được đại an lạc, thì cũng chẳng khế hợp Đại Thừa Bồ Đề tâm! Nếu cậy vào cái danh là bậc Bồ Tát, thật ra là một kẻ ích kỷ, hết thảy đều vì chính mình, chẳng vì chúng sanh, sẽ là kẻ giặc trong Phật pháp, mắt của hết thảy người trong cõi đời đều chẳng muốn thấy. Vì thế, cần phải xa lìa ba thứ pháp như đã nói trong phần trước thì mới tương ứng với Đại Thừa Bồ Đề tâm, thì mới là danh phù hợp thật, kham làm bậc Bồ Tát, là đạo sư của trời người.

2.2.2.2.8.3. Thành tựu ba thứ tâm

          (Luận) Hướng thuyết vô nhiễm thanh tịnh tâm, an thanh tịnh tâm, lạc thanh tịnh tâm, thử tam chủng tâm, lược nhất xứ thành tựu diệu lạc thắng chân tâm, ưng tri.

          (Chú) Lạc hữu tam chủng: Nhất giả, ngoại lạc, vị ngũ thức sở sanh lạc. Nhị giả, nội lạc, vị Sơ Thiền, Nhị Thiền, Tam Thiền, ý thức sở sanh lạc. Tam giả, pháp lạc lạc, vị trí huệ sở sanh lạc. Thử trí huệ sở sanh lạc, tùng ái Phật công đức khởi, thị viễn ly ngã tâm, viễn ly vô an chúng sanh tâm, viễn ly tự cúng dường tâm. Thị tam chủng tâm, thanh tịnh tăng tấn, lược vi “diệu lạc thắng chân tâm”, diệu ngôn kỳ hảo. Dĩ thử lạc duyên Phật sanh cố, thắng ngôn thắng xuất tam giới trung lạc, chân ngôn bất hư ngụy, bất điên đảo.

          ()向說無染清淨心。安清淨心。樂清淨心。此三種心。略一處成。就妙樂勝真心。應知。

          ()樂有三種。一者外樂。謂五識所生樂。二者內樂。謂初禪二禪。三禪。意識所生樂。三者法樂樂。謂智慧所生樂。此智慧所生樂。從愛佛功德起。是遠離我心。遠離無安眾生心。遠離自供養心。是三種心清淨增進。略為妙樂勝真心。妙言其好。以此樂緣佛生故。勝言勝出三界中樂。真言不虛偽。不顛倒。

          (LuậnBa thứ tâm, tức vô nhiễm thanh tịnh tâm, an thanh tịnh tâm, và lạc thanh tịnh tâm như đã nói trên đây, nói tóm gọn thì là chân tâm thù thắng thành tựu diệu lạc. Hãy nên biết!

          Chú: Lạc có ba loại: Một là ngoại lạc, tức lạc sanh bởi năm thức. Hai là nội lạc, tức là lạc được sanh bởi ý thức của Sơ Thiền, Nhị Thiền, và Tam Thiền. Ba là niềm vui do pháp lạc, tức lạc được sanh bởi trí huệ. Loại lạc được sanh bởi trí huệ ấy do từ yêu thích công đức của Phật mà có, chính là xa lìa ngã tâm, xa lìa cái tâm chẳng làm cho chúng sanh an vui, xa lìa cái tâm cúng dường chính mình. Ba loại tâm ấy thanh tịnh tăng tấn, nói đại lược thì gọi là “chân tâm thù thắng diệu lạc”. “Diệu” là tốt đẹp, do món lạc này duyên theo Phật mà sanh. “Thắng” là vượt trỗi các thứ lạc trong tam giới. “Chân” là chẳng hư ngụy, chẳng điên đảo).

                  Ngài Đàm Loan nêu ra ba thứ lạc:

          1) Loại thứ nhất là loại lạc thường được nhắc tới, tức là lạc do ngũ dục. Đó là Lạc Thọ đạt được khi ngũ căn tiếp xúc ngũ trần, sanh khởi ngũ thức. Do duyên theo ngũ trần bên ngoài (Sắc, Thanh, Hương, Vị, Xúc) mới có, nên gọi là Ngoại Lạc.

          2) Loại thứ hai là Thiền Duyệt Lạc. Do ý thức tu Thiền mà đạt được Lạc Thọ, phát xuất từ nội tâm, nên gọi là Nội Lạc. Sơ Thiền có ba tầng trời, tức Phạm Chúng (Brahma-pāriṣadya), Phạm Phụ (Brahma-purohita), và Đại Phạm Thiên (Mahā-brahmā). Lìa ái nhiễm phiền não của Dục Giới, có thể sanh ra hỷ lạc, [sự hỷ lạc] này được gọi là Viễn Ly Lạc. Nhị Thiền cũng có ba tầng trời, tức Thiểu Quang (Parīttābha), Vô Lượng Quang (Apramāṇābha), và Quang Âm (Ābhāsvara). Tiến hơn một bước nữa là lìa khỏi cái tâm tán loạn có Tầm, có Tứ, hỷ tâm khinh an. Điều này được gọi là Tịch Tĩnh Lạc. Tam Thiền cũng có ba tầng trời, tức Thiểu Tịnh (Parītta-śubha), Vô Lượng Tịnh (Apramāṇa-śubha), và Biến Tịnh (Śubha-kṛtsna). Do tiến hơn bước nữa, quở trách, lìa bỏ Hỷ Thọ của Nhị Thiền mà đạt được. Điều này gọi là Ly Hỷ Diệu Lạc.

          3) Loại thứ ba thường gọi là Pháp Hỷ Lạc, chẳng phải là Lạc Thọ sanh bởi sáu thức, mà là Lạc Thọ sanh bởi ba thứ trí huệ. Nghe đức Phật thuyết pháp, hoặc tư duy Phật pháp, bèn có trí huệ tín giải Phật pháp. Đã có trí huệ, tất nhiên là sùng kính đức Phật, yêu thích công đức của Phật và pháp do Phật thuyết. Vì thế, Pháp Hỷ Lạc do yêu mến công đức của Phật mà sanh khởi. Khổng Tử nói: “Triêu văn đạo, tịch tử khả hỹ!” (Sáng nghe đạo, tối chết cũng được). Đấy cũng thuộc về Pháp Hỷ Lạc.

          Lời luận nói: Lìa ba thứ Bồ Đề chướng như đã nói trên đây, sẽ thành tựu ba thứ tâm thanh tịnh. Nói tổng hợp, giản lược, gom lại một chỗ thì chính là thành tựu “diệu lạc thắng chân tâm”, [cái tâm này] do ba thứ tâm thanh tịnh, tức vô nhiễm, an, và lạc, cùng nhau thành tựu. Do duyên theo danh hiệu, tướng hảo, và công đức của Phật mà sanh; do vậy, gọi là “diệu hảo”. Lại còn vượt trỗi hết thảy Lạc Thọ trong tam giới, nên gọi là “siêu thắng”. Chẳng giống với ngũ dục lạc và ba thứ thiền lạc trong tam giới, [những thứ ấy] đều là hư ngụy, điên đảo. Vì thế, gọi là “chân thật”.

          Nói chung, diệu lạc thắng chân tâm là cái tâm thanh tịnh được thành tựu do tu Ngũ Niệm Môn, và do duyên theo danh hiệu chẳng thể nghĩ bàn cũng như công đức của bổn nguyện, [nương theo] y báo và chánh báo trang nghiêm của A Di Đà Phật mà sanh. Thật sự có thể thoát khỏi tam giới, có thể liễu sanh tử, có thể sanh về Tịnh Độ, có thể thành Phật quả, có thể rốt ráo đắc thường lạc tự tại thanh tịnh của đại Niết Bàn. Vì thế gọi là “diệu lạc thắng chân tâm”. Như trong biểu đồ đơn giản mà tôi đã chỉ ra trong phần trước, tức là dùng ba môn trí huệ, phương tiện, từ bi làm điểm khởi đầu mãi cho đến [khi chứng đắc] Tam Đức của đại Niết Bàn làm điểm kết thúc, từ nhân đến quả, đều có thể gọi chung là “diệu lạc thắng chân tâm”. Vì thế, lời luận nói đại lược, gộp chung [ba môn trí huệ, phương tiện và từ bi] thành một thứ thành tựu. Các vị tổ của Thiền Tông “tâm tâm tương truyền” chính là truyền cái tâm này. Có thể nói “Thiền chẳng lìa Tịnh, Tịnh chẳng lìa Thiền. Thiền Tịnh song tu thì chính là tu cái tâm này, mà truyền trao cũng là [truyền trao] cái tâm này. Bồ Tát tu Thiền, tu Tịnh, há có nên cho mình là đúng, coi kẻ khác là sai, cùng nhà mà đánh lẫn nhau hay không?

2.2.2.2.9. Nguyện Sự thành tựu

          (Chú) Nguyện sự thành tựu giả.

          ()願事成就者。

          (Chú: Nguyện được thành tựu xét theo mặt Sự…)

2.2.2.2.9.1. Có thể sanh vào Tịnh Độ

          (Luận) Như thị Bồ Tát, trí huệ tâm, phương tiện tâm, vô chướng tâm, thắng chân tâm, năng sanh thanh tịnh Phật quốc độ, ưng tri.

          (Chú) Ưng tri giả, vị ưng tri thử tứ chủng thanh tịnh công đức, năng đắc sanh bỉ thanh tịnh Phật quốc độ, phi thị tha duyên nhi sanh dã.

          ()如是菩薩。智慧心。方便心。無障心。勝真心。能生清淨佛國土。應知。 

          ()應知者。謂應知。此四種清淨功德。能得生彼清淨佛國土。非是他緣而生也。

          (Luận: Bồ Tát như vậy do trí huệ tâm, phương tiện tâm, vô chướng tâm, và thắng chân tâm, bèn có thể sanh vào cõi Phật thanh tịnh, hãy nên biết.

          Chú: “Hãy nên biết” là hãy nên biết: Do bốn loại công đức thanh tịnh này mà có thể được sanh vào cõi Phật thanh tịnh, chẳng phải là do duyên khác mà sanh).

          Bồ Tát có thể chiếu theo bộ luận này để tu Ngũ Niệm Môn, tất nhiên là có thể thành tựu bốn thứ công đức thanh tịnh. Bốn thứ ấy đều được gọi là “tâm”, có thể thấy: Một niệm tâm nhỏ nhoi của chúng ta vốn sẵn có trọn đủ hết thảy công đức vô lậu, nhưng cần phải có nhân duyên huân tập thì mới có thể hiển hiện. Do đó, Quán Kinh nói: “Thị tâm thị Phật, thị tâm tác Phật” (Tâm này là Phật, tâm này làm Phật). Do đó có thể biết: Học Phật tu hành, hãy đổ công dốc sức ngay nơi một niệm tâm địa trong hiện tiền, quan sát chúng ta khởi tâm động niệm như thế nào? Kinh Viên Giác dạy: “Bất phạ niệm khởi, chỉ phạ giác trì” (Chẳng sợ niệm dấy, chỉ sợ giác chậm). Phật và phàm phu sai biệt ở chỗ giác và bất giác. Vì thế, kinh dạy: “Nhất niệm mê tức chúng sanh, nhất niệm giác tức thị Phật” (Một niệm mê là chúng sanh, một niệm giác chính là Phật). Lại nói: “Nhất thanh tịnh, nhất thiết thanh tịnh; nhất tự tại, nhất thiết tự tại” (Một thứ đã thanh tịnh thì hết thảy đều thanh tịnh; một thứ đã tự tại thì hết thảy đều tự tại). “Một” chính là nhất tâm mà chúng sanh và Phật có cùng một Thể. Nếu cái tâm được thanh tịnh, tự tại, quả báo nơi y báo và chánh báo trong mười pháp giới đều thanh tịnh, tự tại. Do vậy, đức Phật răn dạy chúng ta: Hãy cầu sự giải thoát của chư Phật từ ngay trong tâm hạnh của chúng ta. Hết thảy Bồ Tát đều nên biết những Sự Lý này.

          Đã biết Lý ấy, sẽ có thể cầu tâm, chứ không cầu nơi hình tích, chỗ nào cũng đều có thể quy vào nhất tâm trong hiện tiền. Chẳng hạn như chúng ta tu Ngũ Niệm Môn, thân nghiệp lễ bái A Di Đà Phật, sẽ biết tánh của đức Phật mà ta đang lễ và tánh của người lễ bái đều là không tịch, cảm ứng đạo giao chẳng nghĩ bàn. Niệm nào cũng đều tưởng vãng sanh hòng thấy Phật, lễ Phật. Lâu ngày chầy tháng, tự nhiên được thấy Phật Di Đà. Đấy chính là thành tựu thân nghiệp thanh tịnh.

          Khẩu nghiệp xưng niệm danh hiệu A Di Đà Phật, có thể đúng như quang minh trí tướng của A Di Đà Phật mà tán thán; vậy thì khi quý vị chấp trì Phật hiệu, tâm quý vị cũng có quang minh trí tướng sanh khởi. Lâu ngày chầy tháng, tự nhiên sẽ phá vô minh. Đó chính là thành tựu khẩu nghiệp thanh tịnh.

          Ý nghiệp trọn đủ cái tâm ưa thích [Cực Lạc] và chán nhàm [Sa Bà] thì chính là thiện xảo tu Chỉ Quán. Nhất tâm chuyên niệm, chán lìa Sa Bà, mong rốt ráo vãng sanh An Lạc quốc, có thể khiến cho vọng tâm của chúng ta ngưng dứt. Chánh niệm quan sát y báo và chánh báo trang nghiêm trong cõi Phật ấy, cầu sanh Tịnh Độ, có thể khiến cho chúng ta quán tâm rõ ràng. Đấy chính là thành tựu ý nghiệp thanh tịnh.

          Ba nghiệp đều chuyển nhiễm thành tịnh như thế, dùng công đức thanh tịnh do tu tập ba nghiệp thanh tịnh để hồi hướng tới hết thảy chúng sanh khổ não, tâm thường phát nguyện: “Nguyện cho hết thảy chúng sanh cùng thấy Phật Di Đà, cùng sanh về Cực Lạc, cùng thành Phật đạo, cùng giáo hóa chúng sanh”. Đấy chính là thành tựu trí huệ, phương tiện và đại bi tâm vô ngại.

          Đã có trí huệ, phương tiện, và vô ngại tâm, tất nhiên sẽ chẳng mê mất Đại Thừa Bồ Đề tâm, có thể sanh về cõi Phật An Lạc thanh tịnh ấy, rốt ráo đạt được Phật quả đại Niết Bàn thanh tịnh, thành tựu diệu lạc thắng chân tâm! Lại nữa, trí huệ tâm quán cảnh chẳng thể nghĩ bàn. Phương tiện tâm là thật sự phát Vô Thượng Bồ Đề tâm, và tâm hồi hướng cho hết thảy chúng sanh. Vô chướng tâm là Chỉ Quán thiện xảo và trợ tu vạn hạnh. Ba tâm ấy từ nhân đến quả, nhiếp chung hết thảy “cảnh, hạnh, quả” của Đại Thừa; vì thế, gọi chung là “diệu lạc thắng chân tâm”. Do vậy, bốn thứ tâm thanh tịnh ấy chính là danh xưng chung để gọi hết thảy các công đức vô lậu được thành tựu bởi hàng Bồ Tát tu pháp môn Ngũ Niệm. Nếu có thể trọn đủ viên mãn, sẽ chẳng cần các nhân duyên khác mà vẫn có thể sanh vào Tịnh Độ, nhất định thành Phật! Đấy là nhất lộ Niết Bàn môn của mười phương ba đời chư Phật! Do vậy, hết thảy Bồ Tát đều nên biết tánh chất trọng yếu của việc tu pháp môn Ngũ Niệm, hòng có thể thành tựu bốn thứ tâm thanh tịnh.

2.2.2.2.9.2. Tùy ý tự tại

          (Luận) Thị danh Bồ Tát Ma Ha Tát tùy thuận ngũ chủng pháp môn, sở tác tùy ý tự tại thành tựu, như hướng sở thuyết thân nghiệp, khẩu nghiệp, ý nghiệp, trí nghiệp, phương tiện trí nghiệp, tùy thuận pháp môn cố.

          (Chú) Tùy ý tự tại giả, ngôn thử ngũ chủng công đức lực, năng sanh thanh tịnh Phật độ, xuất một tự tại dã. Thân nghiệp giả, lễ bái dã. Khẩu nghiệp giả, tán thán dã. Ý nghiệp giả, tác nguyện dã. Trí nghiệp giả, quán sát dã. Phương tiện trí nghiệp giả, hồi hướng dã. Ngôn thử chủng nghiệp hòa hợp, tắc thị tùy thuận vãng sanh Tịnh Độ pháp môn tự tại nghiệp thành tựu.

          ()是名菩薩摩訶薩。隨順五種法門。所作隨意自在成就。如向所說身業。口業。意業。智業。方便智業。隨順法門故。 

          ()隨意自在者。言此五種功德力。能生清淨佛土。出沒自在也。身業者禮拜也。口業者讚歎也。意業者作願也。智業者觀察也。方便智業者迴向也。言此五種業和合。則是隨順往生淨土法門。自在業成就。

          (Luận: Đó gọi là Bồ Tát Ma Ha Tát tùy thuận năm loại pháp môn, việc làm được tùy ý tự tại thành tựu vì thân nghiệp, khẩu nghiệp, ý nghiệp, trí nghiệp, phương tiện trí nghiệp như đã nói trên đây đều tùy thuận pháp môn.

          Chú: “Tùy ý tự tại” là nói năm thứ sức công đức có thể sanh trong cõi Phật thanh tịnh, xuất hiện, hay ẩn mất tự tại. Thân nghiệp là lễ bái. Khẩu nghiệp là tán thán. Ý nghiệp là phát nguyện. Trí nghiệp là quán sát. Phương tiện trí nghiệp là hồi hướng. Có nghĩa là năm thứ nghiệp ấy hòa hợp, bèn thành tựu nghiệp tự tại tùy thuận vãng sanh trong pháp môn Tịnh Độ).

          Đây là khoa thứ hai trong phần Nguyện Sự Thành Tựu, gọi là Tùy Ý Tự Tại. Bồ Tát muốn thành tựu nghiệp tùy ý tự tại, [nếu tuân] theo cách tu hành Nan Hành Đạo thông thường của các vị Bồ Tát thì bậc đại Bồ Tát trong Biệt Giáo đã chứng từ Sơ Địa trở lên cần phải trải qua một đại A-tăng-kỳ kiếp mới có [khả năng tùy tự tại]. Vì thế, Luận viết là “Bồ Tát Ma Ha Tát”. Nay Luận Chủ bảo chúng ta: Tuy quý vị là Sơ Tâm Bồ Tát, chỉ cần được nghe kinh Vô Lượng Thọ và luận này, tín giải “vãng sanh Tịnh Độ là đạo dễ hành”, tùy thuận tu pháp môn Ngũ Niệm, thành tựu sức công đức của Ngũ Niệm Môn, thì trong đời này, sẽ đạt được thành quả “tùy ý tự tại”. Thành quả ấy chính là có thể tự tại sanh vào An Lạc Tịnh Độ, có thể tự tại thấy A Di Đà Phật, tự tại dạo chơi các cõi Phật, tu Bồ Tát hạnh, cúng dường chư Phật, hóa độ chúng sanh, cho đến mười thứ tự tại của bậc Bồ Tát từ Sơ Địa trở lên: Mạng, tâm, các vật cần dùng, nghiệp, thọ sanh, giải, nguyện, thần lực, pháp, trí v.v… hết thảy đều có. Vì sao tu Ngũ Niệm Môn thành tựu sẽ có sự tùy ý tự tại như thế? Một mặt là do bổn nguyện công đức và thần lực tự tại của A Di Đà Phật gia trì vị Bồ Tát tu Ngũ Niệm Môn, cho nên có thể được tự tại như thế. Tức là giống như trong hiện thời, ngồi máy bay phản lực có thể tùy ý đến chơi các quốc gia trên thế giới, hoặc xem TV phát sóng từ vệ tinh nhân tạo, sẽ đều có thể tùy ý thấy các tình huống hoạt động hiện thời ở các nơi trên thế giới, nghe các loại âm thanh ngôn ngữ khác nhau trên toàn thế giới. Chuyện này hoàn toàn dựa vào công dụng của phi cơ, vệ tinh, và TV, mà đã có thể đạt được sự tùy ý tự tại như thế. Mặt khác, hàng Bồ Tát tu Ngũ Niệm Môn, tam nghiệp của chính mình có thể thanh tịnh, đúng pháp tu hành Ngũ Niệm Môn, chứng Vô Sanh Pháp Nhẫn, thành tựu Đại Thừa nhu nhuyễn tâm, diệu lạc thắng chân tâm. Tâm được tự tại, sẽ có tự tại trí, có thể tùy ý tự tại thực hiện. Do vậy, Luận viết: “Do thân, khẩu, ý nghiệp, trí nghiệp và phương tiện trí nghiệp như đã nói trên đây mà tùy thuận pháp môn Ngũ Niệm”. Điều này hoàn toàn là do tam nghiệp thanh tịnh mà thành tựu trí nghiệp tự tại và phương tiện trí nghiệp tự tại, tức là tự lợi, lợi tha, hết thảy đều có thể tùy ý tự tại.

          Như quyển hai mươi sáu của kinh Đại Bảo Tích đã chép: “Bồ Tát đắc ư tự tại trí, hữu thập ngũ chủng (tự tại): Nhất giả, tại tại xứ xứ sanh đắc tự tại trí. Nhị giả, bất đoạn tuyệt nhất thiết thiện căn đắc tự tại trí. Tam giả, ư chư thiện căn (công đức) vô yếm túc đắc tự tại trí. Tứ giả, vị hóa chúng sanh cố, sanh tam giới đắc tự tại trí. Ngũ giả, vị chư chúng sanh đoạn kết sử cố, cần tu tinh tấn đắc tự tại trí. Lục giả, vị ư tịch tĩnh nhất thiết chúng sanh chư khổ não cố, đắc tự tại trí. Thất giả, nhiếp thủ giáo hóa chúng sanh cố, đắc tự tại trí. Bát giả, phi đoạn tự kỷ tam độc đắc danh tự tại, năng đoạn nhất thiết chúng sanh tham sân si, cố danh tự tại. Cửu giả, vị chư chúng sanh chứng diệt pháp, cố danh tự tại. Thập giả, vị chư thiện căn tăng trưởng, bất đoạn hữu lậu pháp, danh đắc tự tại. Thập nhất giả, phi chứng tam giải thoát danh tự tại; thị giải liễu tam giải thoát, cố danh tự tại. Thập nhị giả, phi tự tại tịch diệt Ngũ Ấm danh tự tại, vị xả nhất thiết chúng sanh trọng đảm (Ngũ Ấm), danh vi tự tại. Thập tam giả, phi dĩ diệt lục căn danh tự tại, tri chư chúng sanh thượng hạ căn, cố danh tự tại. Thập tứ giả, phi dĩ sanh phần tận danh đắc tự tại, bất dĩ đoạn tuyệt sanh, cố danh tự tại. Thập ngũ giả, Bồ Tát tọa đạo tràng đắc giải thoát quả, thọ dụng nhất thiết chư chúng sanh, cố danh tự tại” (Bồ Tát đắc trí tự tại, có mười lăm thứ (tự tại): Một là sanh ở bất cứ nơi đâu cũng đều đắc trí tự tại. Hai là chẳng đoạn tuyệt hết thảy thiện căn mà đắc trí tự tại. Ba là chẳng chán đủ các thiện căn (công đức) mà đắc trí tự tại. Bốn là vì giáo hóa chúng sanh mà sanh trong tam giới, đắc trí tự tại. Năm là vì đoạn các kết sử của chúng sanh mà siêng tu tinh tấn, đắc trí tự tại. Sáu là vì vắng lặng các khổ não của hết thảy chúng sanh mà đắc trí tự tại. Bảy là do nhiếp thủ giáo hóa chúng sanh mà đắc trí tự tại. Tám là chẳng vì đoạn Tam Độc của chính mình mà được gọi là tự tại, mà là vì có thể đoạn tham, sân, si của hết thảy chúng sanh, nên được gọi là tự tại. Chín là vì các chúng sanh mà chứng diệt pháp, nên gọi là tự tại. Mười là vì tăng trưởng các thiện căn, chẳng đoạn pháp hữu lậu mà gọi là đắc tự tại. Mười một là chẳng do chứng ba món giải thoát mà gọi là tự tại, mà vì hiểu rõ ba món giải thoát, nên gọi là tự tại. Mười hai là chẳng do tự tại tịch diệt Ngũ Ấm bèn gọi là tự tại, mà là vì bỏ gánh nặng (Ngũ Ấm) cho hết thảy chúng sanh, nên gọi là tự tại. Mười ba, chẳng do diệt sáu căn bèn gọi là tự tại, mà vì biết các căn thượng hạ của chúng sanh, nên gọi là tự tại. Mười bốn là chẳng do đã hết sanh phần mà gọi là tự tại, mà là do chẳng đoạn tuyệt sanh, nên gọi là tự tại. Mười lăm là Bồ Tát ngồi nơi đạo tràng đắc quả giải thoát, thọ dụng hết thảy chúng sanh, nên gọi là tự tại). Trong đời hiện tại chắc là có Tịnh Tông Bồ Tát do thành tựu Ngũ Niệm Môn, đạt được Đại Thừa nhu nhuyễn tâm, đạt được tự tại giống như thế, tương đồng với những vị tổ sư Thiền Tông và bậc Địa Thượng Bồ Tát. Nếu là người chưa đắc tự tại, hễ vãng sanh Cực Lạc, “hoa nở thấy Phật, ngộ Vô Sanh”, nhất định là sẽ có thể đạt được! Do vậy, ngài Đàm Loan giảng giải: “Tùy ý tự tại là nói do sức công đức của pháp môn Ngũ Niệm này mà có thể sanh về Tịnh Độ, xuất hiện hay ẩn mất tự tại (tự tại vãng sanh thấy Phật, tự tại trở lại độ sanh)”.

          Lễ bái thành tựu công đức nơi thân nghiệp, tán thán thành tựu công đức nơi khẩu nghiệp, phát nguyện thành tựu công đức nơi ý nghiệp, quán sát thành tựu công đức nơi trí nghiệp, hồi hướng thành tựu công đức nơi phương tiện trí nghiệp. Dùng công đức do thực hiện năm thứ nghiệp (thuộc pháp môn Ngũ Niệm) ấy, hòa hợp thành tựu nghiệp tùy ý tự tại. Tu Ngũ Niệm Môn là nhân, đạt được tự tại là quả. Nhân quả hòa hợp, tự lực và tha lực hòa hợp, bèn tùy thuận tu pháp môn vãng sanh Tịnh Độ, có thể đạt được thành tựu nghiệp ra vào tự tại (vãng sanh Tịnh Độ là “ra”, trở lại cõi trược độ sanh là “vào”). Đấy chẳng phải là ngẫu nhiên, chẳng phải là không có nhân, mà cũng chẳng phải là do nhân duyên nào khác, càng chẳng phải là lời nói vô căn cứ! Nếu xác thực là có thể thành tựu Ngũ Niệm Môn, ắt được vãng sanh An Lạc quốc. Hễ sanh về đó, sẽ bất thoái, rốt ráo là Nhất Sanh Bổ Xứ, vậy thì sẽ tùy ý tự tại giống như Phật!

          Tôi nói một thí dụ: Cái tâm của chúng ta giống như một tấm gương sáng sạch, bị tro bụi phủ lấp, chẳng thể soi các vật. Tám vạn bốn ngàn pháp môn của Phật pháp đều nhằm dạy chúng ta phương pháp trừ bỏ tro bụi như thế nào. Một mai chất nhơ hết, ánh sáng hiện ra, sẽ có thể tự tại soi vật. Trần cấu trong tâm chúng ta chỉ cậy vào tự lực để chùi sạch thì rất khó, nhưng nếu có thể dùng một giọt chất tẩy rửa thì sẽ rất dễ dàng trừ khử bất cứ nhơ bẩn nào, khôi phục sự sáng sạch của cái tâm. Chất tẩy rửa chính là pháp môn Ngũ Niệm, hễ thành tựu nó (giống như sử dụng chất tẩy rửa), sẽ có thể ngay lập tức khôi phục cái tâm vốn tịnh. Tâm thanh tịnh, sẽ được tự tại. Như gương sạch sẽ có thể tự tại hiện ra các hình tượng, cùng một đạo lý như vậy đấy!

2.2.2.2.10. Lợi hành mãn túc

          (Chú) Lợi hành mãn túc giả.

          ()利行滿足者。

          (Chú: Trọn vẹn hạnh tự lợi, lợi tha…)

2.2.2.2.10.1. Nêu chung

          (Luận) Phục hữu ngũ chủng môn, tiệm thứ thành tựu ngũ chủng công đức, ưng tri.

          ()復有五種門。漸次成就五種功德。應知。

          (Luận: Lại có năm thứ môn, theo thứ tự thành tựu năm loại công đức, hãy nên biết).

          Từ đây trở đi là lòng từ bi của Luận Chủ, dùng những sự tướng dễ biết trong thế gian, chia thành năm môn xuất nhập. Dùng cách nói so sánh tương tự để diễn tả thì: Tu hành pháp môn Ngũ Niệm lần lượt theo thứ tự thì Tịnh nghiệp hành nhân sẽ có thể thành tựu xuất nhập tùy ý tự tại, tức là vãng sanh Tịnh Độ, trở lại Sa Bà, tất cả công đức tự lợi, lợi tha đáng nên làm của Bồ Tát, hết thảy sẽ đều viên mãn. Do vậy, phần này được ngài Đàm Loan khoa phán là Lợi Hành Mãn Túc, tức là tự lợi (nhập) và lợi tha (xuất) đều trọn đủ viên mãn. Hai câu Luận ở đây tức là trước hết bèn nêu ra năm môn, cho nên nói: “Phục hữu ngũ chủng môn, tiệm thứ thành tựu ngũ chủng công đức” (Lại có năm loại môn theo thứ tự thành tựu năm thứ công đức). “Tiệm thứ” là trước nhập, sau xuất, là thứ tự để tuần tự tiến dần dần. Như vậy thì có thể thành tựu năm loại công đức “tự lợi, lợi tha”. Bồ Tát tu Ngũ Niệm Môn hãy đều nên biết như thế.

2.2.2.2.10.2. Phần giải thích chánh yếu

2.2.2.2.10.2.1. Nêu chung về công đức thành tựu xuất nhập

          (Luận) Hà giả ngũ môn? Nhất giả, cận môn. Nhị giả, đại hội chúng môn. Tam giả, trạch môn. Tứ giả, ốc môn. Ngũ giả, viên lâm du hý địa môn. Thử ngũ chủng môn, sơ tứ chủng môn thành tựu nhập công đức. Đệ ngũ môn, thành tựu xuất công đức.

          (Chú) Thử ngũ chủng thị hiện nhập xuất thứ đệ tướng. Nhập tướng trung, sơ chí Tịnh Độ thị cận tướng. Vị nhập Đại Thừa Chánh Định Tụ, cận A Nậu Đa La Tam Miệu Tam Bồ Đề. Nhập Tịnh Độ dĩ, tiện nhập Như Lai đại hội chúng số. Nhập chúng số dĩ, đương chí tu hành an tâm chi trạch. Nhập trạch dĩ, đương chí tu hành sở cư ốc vũ. Tu hành thành tựu dĩ, đương chí giáo hóa địa. Giáo hóa địa, tức thị Bồ Tát tự ngu lạc địa. Thị cố xuất môn, xưng viên lâm du hý địa mônThử xuất nhập công đức môn, hà giả thị? Thích ngôn.

          ()何者五門。一者近門。二者大會眾門。三者宅門。四者屋門。五者園林遊戲地門。此五種門。初四種門成就入功德。第五門成就出功德。

          ()此五種示現入出次第相。入相中初至淨土是近相。謂入大乘正定聚。近阿耨多羅三藐三菩提。入淨土已。便入如來大會眾數。入眾數已。當至修行安心之宅。入宅已。當至修行所居屋宇。修行成就已。當至教化地。教化地即是菩薩自娛樂地。是故出門稱園林。遊戲地門。此入出功德門。何者是。釋言。

           (Luận: Những gì là năm môn? Một là cận môn. Hai là đại hội chúng môn. Ba là trạch môn. Bốn là ốc môn. Năm là viên lâm du hý địa môn. Trong năm loại môn này, bốn môn đầu nhằm thành tựu công đức để nhập. Môn thứ năm nhằm thành tựu công đức để xuất.

          Chú: Năm môn ấy nhằm chỉ rõ tướng xuất nhập theo thứ tự. Trong tướng để nhập thì mới đến Tịnh Độ là cận tướng (tướng gần), tức là dự vào Chánh Định Tụ của Đại Thừa, gần với Vô Thượng Chánh Đẳng Chánh Giác. Đã vào trong Tịnh Độ, bèn dự vào đại chúng trong pháp hội của Như Lai. Đã dự vào hàng đại chúng, sẽ đến được căn nhà “an tâm tu hành”. Đã vào nhà rồi, sẽ đến phòng ốc dành cho tu hành. Khi đã tu hành thành tựu, sẽ đạt đến địa vị giáo hóa. Địa vị giáo hóa chính là chỗ vui sướng của Bồ Tát. Vì thế, xuất môn (từ Cực Lạc trở lại giáo hóa chúng sanh) được gọi là viên lâm du hý địa môn (môn vườn rừng để vui chơi). Các môn công đức xuất nhập này (bao gồm năm môn) là như thế nào? Trong phần giải thích ở phía sau [sẽ giải thích]).

          Năm môn là gì? Vì thế, trước hết nêu ra [danh xưng của] năm loại môn. Bốn môn đầu nhằm thành tựu công đức Nhập, môn thứ năm nhằm thành tựu công đức Xuất. “Trước nhập, sau xuất” là thứ tự tất nhiên. Dùng sự tướng xuất nhập nông cạn, gần gũi của thế gian để sánh ví quá trình tu pháp môn Ngũ Niệm của Bồ Tát, cũng phải nên là “trước nhập, sau xuất”. Tức là trước hết thành tựu công đức tự lợi, thì gọi là Nhập. Sau đấy, thành tựu công đức lợi tha, thì gọi là Xuất. Thường nói là “tự độ trước đã rồi sau đó mới độ người”. Đấy là quy củ thơm thảo muôn đời chẳng đổi. Như kinh Vô Lượng Thọ đã dạy: “Chư Phật cáo Bồ Tát, linh cận An Dưỡng Phật, văn pháp nhạo thọ hành, tật đắc thanh tịnh xứ” (Chư Phật bảo Bồ Tát, thân cận An Dưỡng Phật, nghe pháp thích vâng hành, chóng đạt chốn thanh tịnh). Đấy chính là từ môn thứ nhất cho đến môn thứ tư trong Luận này, thành tựu công đức để “nhập”.

          “Bồ Tát hưng chí nguyện, nguyện kỷ quốc vô dị. Phổ niệm độ nhất thiết, danh hiển mãn thập phương” (Bồ Tát dấy chí nguyện, nguyện nước mình chẳng khác. Nguyện độ trọn hết thảy, tiếng tăm rạng mười phương). Đấy chính là môn thứ năm trong luận này, thành tựu công đức Xuất. Ví như muốn xuống biển để cứu người, ắt chính mình phải học cách bơi lội trước đã. Nếu không, chính mình lẫn người khác đều chìm lỉm, chẳng có mảy may ích lợi nào! Trong Trí Độ Luận, Long Thọ Bồ Tát đã nói: “Chẳng thể tự độ mà có thể độ người khác, chẳng có lẽ ấy”. Kinh Pháp Hoa có nói: “Tiên thuyết tam thừa giáo, hậu thuyết Nhất Thừa pháp” (Trước nói giáo pháp tam thừa, sau dạy pháp Nhất Thừa) đều là “trước tự độ, sau độ người” giống hệt! Trong thế giới Sa Bà này, học Phật, hành Bồ Tát đạo, ai cũng đều chẳng thể là ngoại lệ! Xét theo sự thị hiện trong một đời của Thích Ca Thế Tôn, trong tám tướng thành đạo, từ tướng thứ nhất cho đến tướng thứ sáu đều nhằm thành tựu “nhập” môn, tướng thứ bảy mới là “xuất” môn. Tướng thứ tám là “xuất nhập viên mãn”, thị hiện Niết Bàn. Đấy chẳng phải là một tấm gương hay nhất cho hết thảy các vị Bồ Tát ư?

          Có những vị đại tâm Bồ Tát coi thường chuyện lễ Phật, niệm Phật, và các hạnh môn có thể thành tựu tự lợi khác, chỉ chú trọng hành pháp hóa độ chúng sanh. Điều này giống như chẳng có tiền trong trương mục ngân hàng, chi phiếu viết ra làm sao có thể thanh toán, sử dụng cho được? Do vậy, Luận Chủ tâm từ bi tha thiết, vì khiến cho hết thảy Bồ Tát đều có thể nương theo pháp môn Ngũ Niệm này trước nhập sau xuất, do tự lợi mà lợi tha, cùng thành Phật đạo, chẳng đến nỗi mù quáng, điên đảo, nhọc nhằn uổng công, cho nên trong phần cuối bộ luận này, Ngài đã đặc biệt tha thiết chỉ bày thứ tự thực hiện dần dần năm môn thành tựu xuất nhập công đức. Đấy chính là “vạn người tu, vạn người đến (vãng sanh Tịnh Độ)”, là giấy bảo đảm cho những ai nghe pháp (nghe cách tu Ngũ Niệm Môn trong luận này), không một ai chẳng thành Phật, mà cũng là tấm bia chỉ đường an toàn nhất cho Bồ Tát đạt thành Bồ Tát đạo “thượng cầu, hạ hóa, tự lợi, lợi tha”.

          Ngài Đàm Loan giải thích năm thứ môn này hết sức khế hợp nguyện ý của Luận Chủ:

          1) Chúng sanh thuộc ba bậc, chín phẩm có thể tu Ngũ Niệm Môn vãng sanh Tịnh Độ, lúc mới đến [Tịnh Độ] thì gọi là Cận Môn. “Cận” (近, gần) ở đây không chỉ là thân cận Phật Di Đà và các vị thượng thiện nhân, mà còn là gần với Vô Thượng Chánh Đẳng Chánh Giác. Vì phàm là người vãng sanh, đều thuộc vào Chánh Định Tụ, tức là đại Bồ Tát bất thoái chuyển, rốt ráo ắt đạt đến Nhất Sanh Bổ Xứ.

          2) Đã sanh về Tịnh Độ thì chính là pháp quyến của Phật Di Đà, bèn thuộc vào đại chúng trong hội thuyết pháp của Phật Di Đà, nghe pháp liền vui thích phụng hành. Vì thế gọi là Đại Hội Chúng Môn.

          3) Môn thứ ba là Trạch Môn, tức là như người vào tòa nhà hoa lệ (Cực Lạc trang nghiêm), an tâm cư trụ trong đó.

          4) Môn thứ tư là Ốc Môn, tức là như người vào trong nội đường, đạt được chỗ thanh tịnh, thân tâm nghỉ ngơi, hưởng thụ an lạc, tức là đã được nghỉ ngơi (tu hành công đức tự lợi, lợi tha, hết thảy đã thành tựu). Đó gọi là tam thân, tứ trí, ngũ nhãn, lục thông, hết thảy công đức cũng đều thành tựu.

          5) Sau đấy, chẳng trái nghịch bổn nguyện, trở về Sa Bà, dùng đủ mọi phương tiện chẳng thể nghĩ bàn để hóa độ hết thảy chúng sanh. Đấy là Xuất Môn, gọi là Giáo Hóa Địa, mà cũng là Bồ Tát dùng lợi tha để thành tựu tự lợi, gọi là chỗ để chính mình vui sướng, thỏa thích. Vì thế, sánh ví là Viên Lâm Du Hý Địa Môn.

          Đấy chẳng phải là dùng năm loại môn ấy để tu hành Ngũ Niệm Môn theo thứ tự xuất nhập và thành tựu tướng công đức đã được hoàn toàn bao gồm chẳng sót ư? Bốn môn đầu thành tựu công đức Nhập, môn thứ năm thành tựu công đức Xuất. Trước nhập, sau xuất, do tự độ mà độ người khác, pháp vốn là như thế đó!

2.2.2.2.10.2.2. Giải thích môn nhập thứ nhất

          (Luận) Nhập đệ nhất môn giả, dĩ lễ bái A Di Đà Phật, vị sanh bỉ quốc cố, đắc sanh An Lạc thế giới. Thị danh Nhập đệ nhất môn.

          (Chú) Lễ Phật, nguyện sanh Phật quốc, thị sơ công đức tướng.

          ()入第一門者。以禮拜阿彌陀佛。為生彼國故。得生安樂世界。是名入第一門。

          ()禮佛願生佛國。是初功德相。

          (Luận: Môn thứ nhất của Nhập là dùng lễ bái A Di Đà Phật nhằm sanh về cõi ấy. Đó gọi là môn thứ nhất của Nhập.

          Chú: Lễ Phật, nguyện sanh vào cõi Phật, là tướng công đức đầu tiên).

          Dùng thân nghiệp thanh tịnh lễ kính Phật Di Đà, đấy là chỗ để thực hiện tu tập Ngũ Niệm Môn. Giả sử Tịnh nghiệp hành nhân chẳng lạy Phật, cho thấy căn bản là quý vị chẳng có tín nguyện đối với pháp môn Tịnh Độ. Tín nguyện là tiền đề của tư lương hòng thành tựu vãng sanh Tịnh Độ. Vì thế gọi là “sơ công đức tướng” (tướng công đức đầu tiên). Có những kẻ tuy lễ Phật, nhưng chẳng vì nguyện sanh Tịnh Độ mà lạy, mà là vì có mục đích khác: Hoặc nhằm tiêu nghiệp chướng, hoặc vì cầu danh lợi, bình an cho chính mình; hoặc là để thân thể khỏe mạnh mà vận động. Những hạng người ấy đều chẳng thành tựu công đức thứ nhất trong Nhập môn, chẳng được vãng sanh An Lạc quốc. Do vậy, hỡi Tịnh nghiệp hành nhân! Khi quý vị lạy Phật, mỗi một lạy đều phải chí thành khẩn thiết, tín nguyện vãng sanh Tịnh Độ, đích thân phụng sự Phật Di Đà, nghe pháp, thọ ký. Trong Tịnh Độ Sám có câu “nhất tâm quy mạng Cực Lạc thế giới A Di Đà Phật” chính là trọn đủ tín nguyện lễ Phật vậy. Như phẩm Phổ Hiền Hạnh Nguyện có nói: “Tận pháp giới vi trần số chư Phật, ngã dĩ Phổ Hiền hạnh nguyện lực cố, thâm tâm tín giải, như đối mục tiền, tất dĩ thanh tịnh thân ngữ ý nghiệp, thường tu lễ kính. Nhất nhất Phật sở, giai hiện bất khả thuyết trần số thân, nhất nhất thân biến lễ bất khả thuyết trần số Phật… vô hữu cùng tận, niệm niệm tương tục, vô hữu gián đoạn, thân ngữ ý nghiệp vô hữu bì yếm” (Trọn hết pháp giới chư Phật nhiều như số vi trần, tôi do sức của hạnh nguyện Phổ Hiền thâm tâm tin hiểu, như đối trước mắt, đều dùng thân ngữ ý nghiệp thanh tịnh, thường tu lễ kính. Ở nơi mỗi đức Phật, đều hiện chẳng thể nói thân nhiều như vi trần. Mỗi thân lễ trọn khắp chẳng thể nói chư Phật nhiều như số vi trần… chẳng có cùng tận, niệm niệm liên tục, chẳng gián đoạn, thân ngữ ý nghiệp chẳng có mệt chán). Nếu có thể vì vãng sanh Cực Lạc mà thường chí thành lễ Phật chẳng gián đoạn, chẳng mệt chán, do A Di Đà Phật đại diện cho hết thảy các đức Phật, [cho nên] lễ kính Phật Di Đà tức là lễ kính chư Phật. Không chỉ là có thể thành tựu tướng công đức đầu tiên là vãng sanh Tịnh Độ, đạt được Cận Môn thuộc về Nhập, mà còn có thể thành tựu công đức của Như Lai, tức là Phật hạnh. Có thể dùng công đức của nguyện hạnh lễ bái ấy để dẫn về Cực Lạc thì chính là Phổ Hiền Hạnh, ắt được vãng sanh. Cư sĩ Vương Nhật Hưu đời Tống hằng ngày lễ A Di Đà Phật một ngàn lạy, nguyện sanh về An Lạc. Tới khi lâm chung, đứng trước tượng Phật mà vãng sanh, Ngài là tấm gương tốt nhất cho chúng ta.

2.2.2.2.10.2.3. Giải thích môn nhập thứ hai

          (Luận) Nhập đệ nhị môn giả, dĩ tán thán A Di Đà Phật, tùy thuận danh nghĩa xưng Như Lai danh, y Như Lai quang minh trí tướng tu hành cố, đắc nhập đại hội chúng số. Thị danh Nhập đệ nhị môn.

          (Chú) Y Như Lai danh nghĩa tán thán, thị đệ nhị công đức tướng.

          ()入第二門者。以讚歎阿彌陀佛。隨順名義。稱如來名。依如來光明智相修行故。得入大會眾數。是名入第二門。

          ()依如來名義讚歎。是第二功德相。

          (Luận: Môn thứ hai của Nhập là dùng tán thán A Di Đà Phật, do thuận theo ý nghĩa trong danh hiệu mà xưng niệm Như Lai danh, nương theo quang minh trí tướng của Như Lai để tu hành bèn dự vào hàng đại chúng trong Phật hội. Đó gọi là môn thứ hai của Nhập.

          Chú: Nương theo danh nghĩa của Như Lai để tán thán thì là tướng công đức thứ hai).

          Nói tán thán là môn Nhập thứ hai, vì xưng danh hiệu Phật chính là tán thán hết thảy công đức của A Di Đà Phật. Tùy thuận A Di Đà Phật, tức Vô Ngại Quang Phật. Thân quang và trí quang của Ngài chiếu trọn khắp mười phương chẳng bị chướng ngại. Khi quý vị niệm danh hiệu Ngài, dùng ba nghiệp thanh tịnh quán tưởng quang minh và trí tướng của A Di Đà Phật để xưng niệm danh hiệu Phật. Danh hiệu của Phật chính là quang minh và trí tướng. Xưng niệm danh hiệu A Di Đà Phật chính là xưng tán A Di Đà Phật quang minh vô lượng, trí huệ vô lượng, và công đức vô lượng. Vì thế, A Di Đà Phật còn gọi là Vô Lượng Quang Phật, Trí Huệ Quang Phật, cho đến Siêu Nhật Nguyệt Quang Phật. Tu hành như thế, thực hiện dễ, thành công cao, có thể thành tựu môn công đức thứ hai của Nhập, được sanh về Tịnh Độ, tiến nhập đại chúng trong hội thuyết pháp của A Di Đà Phật, trở thành Bồ Đề pháp quyến của A Di Đà Phật. Đó gọi là tướng công đức thứ hai. Cũng có kẻ xưng niệm A Di Đà Phật mà chẳng được dự vào trong số đại chúng nơi hội thuyết pháp của A Di Đà Phật là vì có tâm nghi hoặc, chẳng có trí huệ, chẳng phải là nương theo tướng trí huệ quang minh của A Di Đà Phật để xưng niệm. Do vậy, sẽ sanh vào biên địa của thế giới Cực Lạc, chẳng được thấy Phật, nghe pháp, cúng dường Bồ Tát đại chúng, phải trải qua năm trăm năm mới được dự vào trong số đại chúng thuộc hội thuyết pháp của đức Phật, đánh mất lợi ích to lớn!

          Nếu có thể vâng theo lời phẩm Hạnh Nguyện đã dạy: “Tận pháp giới vi trần trung, giai hữu vi trần số Phật, nhất nhất Phật sở giai hữu Bồ Tát hải hội vi nhiễu, ngã đương tất dĩ thậm thâm thắng giải hiện tiền tri kiến, các dĩ xuất quá Biện Tài Thiên Nữ vi diệu thiệt căn, xuất nhất thiết ngôn từ hải, xưng dương tán thán nhất thiết Như Lai chư công đức hải” (Trong mỗi vi trần của tột cùng pháp giới đều có chư Phật nhiều như số vi trần. Nơi mỗi đức Phật đều có Bồ Tát nhóm họp như biển vây quanh Phật. Tôi ắt đều dùng kiến giải thù thắng rất sâu và tri kiến hiện tiền, đều dùng cái lưỡi vi diệu vượt trỗi Biện Tài Thiên Nữ, phát ra hết thảy biển các ngôn từ để xưng tụng, tán thán các biển công đức của hết thảy Như Lai). Do thời gian và không gian vô tận, tán thán cũng chẳng cùng tận, niệm niệm liên tục, chẳng hề gián đoạn. Thân ngữ ý nghiệp chẳng có chán mệt thì càng tốt hơn.

          Dùng nguyện hạnh này dẫn về Cực Lạc, liền được vãng sanh, thành tựu công đức của Như Lai, như phẩm Hạnh Nguyện có nói: “Thị nhân lâm mạng chung thời, tối hậu sát-na, nhất thiết chư căn tất giai tán hoại, nhất thiết thân thuộc tất giai xả ly, nhất thiết oai thế tất giai thoái thất, phụ tướng, đại thần, cung thành nội ngoại, tượng mã xa thặng, trân bảo phục tạng, như thị nhất thiết, vô phục tương tùy. Duy thử nguyện vương bất tương xả ly. Ư nhất thiết thời, dẫn đạo kỳ tiền, nhất sát-na trung, tức đắc vãng sanh Cực Lạc thế giới… tự kiến sanh liên hoa trung, mông Phật thọ ký, đắc thọ ký dĩ, tận ư vị lai kiếp hải, quảng năng lợi ích nhất thiết chúng sanh” (Khi người ấy sắp mạng chung, trong sát-na cuối cùng, hết thảy các căn thảy đều tan hoại, hết thảy quyến thuộc thảy đều lìa bỏ, hết thảy oai thế thảy đều suy sụp, phụ tướng, đại thần, cung điện trong ngoài, voi, ngựa, xe cộ, kho báu trân quý, hết thảy như thế chẳng còn thuận theo. Chỉ có nguyện vương này chẳng hề lìa bỏ, trong hết thảy các thời, nó dẫn đường đằng trước, trong một sát-na, liền được vãng sanh thế giới Cực Lạc… tự thấy [chính mình] sanh trong hoa sen, được Phật thọ ký. Đã được thọ ký, bèn trong tột cùng biển vị lai kiếp, có thể lợi ích rộng lớn hết thảy chúng sanh).  

2.2.2.2.10.2.4. Giải thích môn nhập thứ ba

          (Luận) Nhập đệ tam môn giả, dĩ nhất tâm chuyên niệm, tác nguyện sanh bỉ, tu Xa-ma-tha tịch tĩnh tam-muội hạnh cố, đắc nhập Liên Hoa Tạng thế giới. Thị danh Nhập đệ tam môn.

          (Chú) Vị tu tịch tĩnh Chỉ cố, nhất tâm nguyện sanh bỉ quốc. Thị đệ tam công đức tướng.

          ()入第三門者。以一心專念。作願生彼。修奢摩他。寂靜三昧行故。得入蓮華藏世界。是名入第三門 

          ()為修寂靜止故。一心願生彼國。是第三功德相。

          (Luận: Môn Nhập thứ ba là dùng nhất tâm chuyên niệm, phát nguyện sanh về đó, do tu hạnh tam-muội Xa-ma-tha tịch tĩnh nên được vào trong thế giới Liên Hoa Tạng. Đó gọi là môn thứ ba của Nhập. 

          Chú: Vì tu tịch tĩnh Chỉ mà nhất tâm nguyện sanh về cõi ấy. Đó là tướng công đức thứ ba).

           Nhất tâm chuyên niệm A Di Đà Phật, phát nguyện vãng sanh An Lạc Tịnh Độ, như thế sẽ có thể khiến cho cái tâm bình thường tán loạn, vọng tưởng, phân biệt của chúng ta trở về cái tâm tịch tĩnh vô phân biệt. Do đó, để hành pháp Ban Châu tam-muội cần phải kiến lập đại tín nguyện, niệm chuyên nhất, sẽ có thể đắc tam-muội. Tam-muội (Samadhi) là tiếng Phạn, dịch nghĩa là Chánh Định, cũng chính là nhất tâm bất loạn. Hai môn trước đều thuộc loại tán tâm tu hành, môn thứ ba này thuộc về định tâm tu hành. Do đó, Luận viết: “Tu Xa-ma-tha (Chỉ) tịch tĩnh tam-muội hạnh”. Tán tâm thì có gián đoạn, có tạp niệm, có vọng tưởng, có phân biệt. Định tâm thì không gián đoạn, không có tạp niệm, không có vọng tưởng, phân biệt. Không gián đoạn, không có tạp niệm, không có vọng tưởng, thì gọi là “nhất tâm chánh niệm”. Đấy chính là điều kiện tất yếu để vãng sanh Tịnh Độ. Kinh nói “mười niệm được sanh” cũng là nói khi lâm chung thành tựu nhất tâm chánh niệm không gián đoạn, không có tạp niệm và vọng tưởng, mười niệm niệm Phật như thế đó!

          Luận viết: “Đắc nhập Liên Hoa Tạng thế giới” (Được vào trong thế giới Hoa Tạng). Vì thế giới Cực Lạc là một thế giới trong Liên Hoa Tạng thế giới hải; đã sanh vào Cực Lạc, tức là vào trong thế giới Liên Hoa Tạng. Lại nói thế giới Liên Hoa Tạng là Tha Thọ Dụng Báo Độ của chư Phật, giống như thế giới Cực Lạc là Tha Thọ Dụng Báo Độ của A Di Đà Phật. Vì thế, Hoa Tạng và Cực Lạc chẳng một, chẳng khá3. Nhưng nếu dựa theo đường lối khó hành (nan hành đạo) thông thường trong Bồ Tát đạo thì muốn sanh vào thế giới Hoa Tạng sẽ rất khó khăn! Cần phải trải qua một đại A-tăng-kỳ kiếp, phá vô minh, chứng Pháp Thân thì mới vào được. Nay tu pháp môn Ngũ Niệm, nhất tâm chuyên niệm, phát nguyện sanh về cõi Cực Lạc thì chính là tu tam-muội hạnh, có thể đắc nhất tâm bất loạn (Chỉ), ắt sanh vào Cực Lạc, tức là đã vào trong thế giới Hoa Tạng. Đấy là một con đường nhanh, tắt, dễ dàng nhất, thuận tiện nhất, không chi hơn được, mà cũng là Hoa Tạng đại môn bình đẳng nhất, phổ cập nhất.

          Chúng sanh thuộc ba bậc, chín phẩm đầy đủ tín nguyện, thành tựu nhất tâm chuyên niệm, ai nấy đều có thể tiến nhập thế giới Hoa Tạng. Như Long Thọ, Thế Thân Bồ Tát, lịch đại tổ sư Tịnh Độ Tông của Trung Hoa đều là thượng phẩm thượng sanh, hễ vãng sanh liền vào trong [thế giới Hoa Tạng], liền trông thấy thế giới Hoa Tạng. Những kẻ vãng sanh khác thuộc trung hạ phẩm, tuy sanh trong cõi Đồng Cư hoặc Phương Tiện, nhưng ngay nơi đó chính là Thật Báo Trang Nghiêm Độ của Phật Di Đà, vì thế giới Cực Lạc có đủ bốn cõi theo chiều ngang, cho nên ai nấy đều được tiến nhập thế giới Hoa Tạng. Cổ đức tán thán pháp môn Tịnh Độ đã có một đôi câu đối như sau: “Tứ sanh cửu hữu đồng đăng Hoa Tạng huyền môn, bát nạn tam đồ cộng nhập Di Đà nguyện hải”. Đấy là chân thật ngữ, xác thực là như thế đó! Dự vào thế giới Hoa Tạng giống như vào một tòa nhà hoa lệ. Vì thế, môn thứ ba này được gọi là Trạch Môn.

2.2.2.2.10.2.5. Giải thích môn nhập thứ tư

          (Luận) Nhập đệ tứ môn giả, dĩ chuyên niệm quán sát bỉ diệu trang nghiêm, tu Tỳ-bà-xá-na cố, đắc đáo bỉ xứ, thọ dụng chủng chủng pháp vị lạc. Thị danh Nhập đệ tứ môn.

          (Chú) Chủng chủng pháp vị lạc giả, Tỳ-bà-xá-na trung, hữu quán Phật quốc độ thanh tịnh vị, nhiếp thọ chúng sanh Đại Thừa vị, tất cánh trụ trì bất hư tác vị, loại sự khởi hạnh nguyện thủ Phật độ vị, hữu như thị đẳng vô lượng trang nghiêm Phật đạo vị, cố ngôn “chủng chủng”. Thị đệ tứ công đức tướng.

          ()入第四門者。以專念觀察彼妙莊嚴。修毘婆舍那故。得到彼。處受用種種法味樂。是名入第四門。 

          ()種種法味樂者。毘婆舍那中。有觀佛國土清淨味。攝受眾生大乘味。畢竟住持不虛作味。類事起行。願取佛土味。有如是等無量莊嚴佛道味。故言種種。是第四功德相。

          (Luận: Môn Nhập thứ tư là do chuyên niệm, quan sát sự trang nghiêm ấy mà tu Tỳ-bà-xá-na, cho nên đến được cõi ấy, thọ dụng đủ mọi niềm vui pháp vị. Đó gọi là môn Nhập thứ tư.

          Chú: “Đủ mọi niềm vui pháp vị”: Trong Tỳ-bà-xá-na, có quán cõi Phật thanh tịnh vị, nhiếp thọ chúng sanh Đại Thừa vị, rốt ráo trụ trì chẳng uổng công thực hiện vị, thuận theo sự tương tự mà dấy lên hạnh nguyện giữ lấy cõi Phật vị, có vô lượng trang nghiêm Phật đạo vị như thế, cho nên nói là “đủ mọi thứ”. Đấy là tướng công đức thứ tư).

          Luận nói dùng chuyên niệm, quan sát sự trang nghiêm mầu nhiệm ấy. “Chuyên niệm” tức là tu Chỉ, “quan sát” chính là tu Quán. Đấy chính là Chỉ Quán bất nhị, là phương pháp Chỉ Quán vận dụng đồng thời Chỉ và Quán của Đại Thừa. “Sự trang nghiêm mầu nhiệm ấy” tức là y báo và chánh báo trang nghiêm của An Lạc Tịnh Độ, đều vi diệu chẳng thể nghĩ bàn. Đấy là cảnh được quán. Chuyên niệm quan sát là cái tâm năng quán (chủ thể thực hiện việc quán tưởng). Chỉ có cái tâm chuyên niệm y báo và chánh báo của đức Phật ấy là có thể quán cảnh vi diệu trong cõi ấy. Tâm và cảnh khế hợp lẫn nhau, có thể thành tựu niệm Phật, quán Phật tam-muội. Môn tam-muội này chính là nhất tâm chánh niệm. Nương theo nhất tâm mà chuyên niệm, dấy lên sự quan sát, tức là do Chỉ mà khởi Quán. Quán thành tam-muội thì gọi là Quán Phật tam-muội. Niệm Phật tam-muội là vua trong các tam-muội. Như Huệ Viễn đại sư là Tịnh Độ Tông Sơ Tổ đã viết trong bài tựa cho tác phẩm Lư Sơn Niệm Phật Tam Muội: “Danh hiệu của tam-muội rất nhiều, nhưng công đức dễ tăng tấn thì Niệm Phật đứng đầu. Vì sao? Tôn hiệu của Như Lai tột cùng huyền diệu, tột bậc vắng lặng. Thể và thần (tâm thức) [do tu Niệm Phật tam-muội] mà cùng nhau chuyển biến, ứng hiện chẳng sót. Vì thế, dạy [hành nhân] nhập Định này, [hành nhân] sẽ ngấm ngầm quên mất tri kiến [hư vọng], tức là sử dụng ngay cái pháp để duyên vào mà thành tựu Quán. Quán đã thông tỏ thì sự chiếu soi bên trong sẽ chói ngời lẫn nhau, muôn hình tượng đều sanh, chẳng phải là chuyện mắt thấy, tai nghe. Do vậy, linh tướng lặng trong, thuần nhất, trong sáng tự nhiên. Nguyên âm (danh hiệu Phật) chính là tâm, những tình kiến trầm trệ bị chuyển hóa thành rạng ngời, điều tột cùng nhất trong thiên hạ há có thể sánh bằng điều này được ư? Đấy là tướng công đức của môn thứ tư.

          Sơ Tổ ở Lư Sơn ba mươi năm, chưa từng xuống núi vào cõi đời, chuyên dốc chí nơi Tịnh Độ, lắng lòng quán tưởng. Vì thế, Ngài ba lần được thấy tướng hảo và quang minh của A Di Đà Phật, nhưng chẳng kể với ai. Bảy ngày trước lúc lâm chung, Tổ xuất Định, lại thấy thân A Di Đà Phật đầy khắp hư không. Đức Phật bảo tổ Huệ Viễn: “Ta do sức bổn nguyện đến an ủi ngươi, bảy ngày sau, ngươi sẽ sanh về cõi ta”. Vào ngày mồng Sáu tháng Tám, Tổ bèn đoan tọa vãng sanh. Đấy là Thượng Phẩm Thượng Sanh, là khuôn mẫu đáng cho liên hữu Tịnh Tông chúng ta học theo nhất. Ai có thể nói pháp môn Niệm Phật chẳng thể phá vô minh, chứng Pháp Thân, thấy Báo Thân viên mãn của A Di Đà Phật, hễ vãng sanh liền vào trong Tha Thọ Dụng Báo Độ của Phật ư? Đã vào Báo Độ, bèn được hưởng đủ mọi niềm vui pháp vị. Chẳng hạn như đã nói trong phần trước: Niềm vui pháp vị do mười bảy thứ trang nghiêm thanh tịnh nơi khí thế gian, niềm vui pháp vị do tám thứ tự tại tự lợi và lợi tha của A Di Đà Phật, và niềm vui pháp vị do bốn thứ công đức chánh tu hành của Bồ Tát, niềm vui pháp vị Đại Thừa do hết thảy chúng sanh cùng dự vào Chánh Định Tụ, niềm vui pháp vị do bốn mươi tám nguyện thành tựu “chẳng uổng công thực hiện trụ trì” chẳng thể nghĩ bàn, niềm vui pháp vị do “thấy người hiền, mong được bằng”, thuận theo sự mà khởi hạnh, phát nguyện trang nghiêm quốc độ, thành thục chúng sanh cũng giống như thế. Có vô lượng vô biên Bồ Đề giác pháp vị lạc để trang nghiêm con đường thành Phật như thế đó, đều thuộc vào môn Nhập thứ tư. Do thành tựu tướng công đức, ắt sẽ được thọ dụng niềm vui pháp vị. Vì thế, Luận nói: “Thọ dụng chủng chủng pháp vị lạc” (Thọ dụng đủ mọi niềm vui pháp vị). Đúng là nói chẳng hết được, chẳng đếm trọn được! Như một người đã vào trong tòa nhà trang nghiêm, lộng lẫy, bèn vào trong căn phòng thanh tịnh an ổn, hưởng thụ đủ mọi thứ vui sướng, như là: Niềm vui do lìa khỏi nghiệp trói buộc, Bồ Đề giác pháp lạc, Niết Bàn tịch tĩnh lạc v.v… Nói chung, chẳng có các nỗi khổ, chỉ hưởng các sự vui. Vì thế gọi là “niềm vui do thọ dụng các thứ pháp vị”. Do vậy, môn thứ tư được gọi là Ốc Môn, tức là đăng đường nhập thất, hưởng lạc vô cùng. Bởi thế, cõi ấy được gọi là Cực Lạc!

2.2.2.2.10.2.6. Môn thứ năm là Xuất

          (Luận) Xuất đệ ngũ môn giả, dĩ đại từ bi, quán sát nhất thiết khổ não chúng sanh, thị Ứng Hóa Thân, hồi nhập sanh tử viên, phiền não lâm trung, du hý thần thông, chí Giáo Hóa Địa, dĩ bổn nguyện lực hồi hướng cố. Thị danh Xuất đệ ngũ môn.

          (Chú) “Thị Ứng Hóa Thân” giả, như Pháp Hoa kinh Phổ Môn thị hiện chi loại dã. “Du hý” hữu nhị nghĩa: Nhất giả, tự tại nghĩa. Bồ Tát độ chúng sanh thí như sư tử bác lộc, sở vi bất nan, như tự du hý. Nhị giả, độ vô sở độ nghĩa. Bồ Tát quán chúng sanh, tất cánh vô sở hữu. Tuy độ vô lượng chúng sanh, nhi thật vô nhất chúng sanh đắc diệt độ giả. Thị độ chúng sanh, như tự du hý. Ngôn “bổn nguyện lực” giả, thị đại Bồ Tát ư Pháp Thân trung, thường tại tam-muội, nhi hiện chủng chủng thân, chủng chủng thần thông, chủng chủng thuyết pháp, giai dĩ bổn nguyện lực khởi. Thí như A Tu La cầm, tuy vô cổ giả, nhi âm khúc tự nhiên. Thị danh Giáo Hóa Địa đệ ngũ công đức tướng.

          ()出第五門者。以大慈悲。觀察一切苦惱眾生。示應化身。迴入生死園。煩惱林中。遊戲神通。至教化地。以本願力迴向故。是名出第五門。

          ()示應化身者。如法華經普門。示現之類也。遊戲有二義。一者自在義。菩薩度眾生。譬如獅子搏鹿。所為不難。如似遊戲。二者度無所度義。菩薩觀眾生。畢竟無所有。雖度無量眾生。而實無一眾生得滅度者。示度眾生如似遊戲。言本願力者。示大菩薩於法身中。常在三昧。而現種種身。種種神通。種種說法。皆以本願力起。譬如阿修羅琴。雖無鼓者。而音曲自然。是名教化地。第五功德相。

          (Luận: Môn thứ năm là Xuất: Dùng lòng đại từ bi để quan sát hết thảy chúng sanh khổ não, thị hiện Ứng Hóa Thân, trở vào vườn sanh tử, rừng phiền não, du hý thần thông, đạt đến địa vị Giáo Hóa, dùng sức bổn nguyện để hồi hướng. Đấy gọi là môn thứ năm thuộc về Xuất.

          Chú: “Thị hiện thân Ứng Hóa” là các thứ thị hiện như trong phẩm Phổ Môn của kinh Pháp Hoa đã nói. “Du hý” có hai nghĩa: Nghĩa thứ nhất là tự tại. Bồ Tát độ chúng sanh ví như sư tử bắt nai, chẳng khó khăn gì, dường như vui chơi. Nghĩa thứ hai là “độ mà không có gì được độ”. Bồ Tát quán chúng sanh rốt ráo vô sở hữu. Tuy độ vô lượng chúng sanh, nhưng thật sự chẳng có một chúng sanh được diệt độ. Chuyện độ chúng sanh ấy giống như vui chơi. Nói “sức bổn nguyện” là chỉ ra đại Bồ Tát từ Pháp Thân thường trụ trong tam-muội, mà hiện đủ mọi thân, các thứ thần thông, các thứ thuyết pháp, đều là do sức bổn nguyện dấy lên. Ví như cây đàn của A Tu La, tuy chẳng có ai khảy mà khúc nhạc tự nhiên. Đó gọi là tướng công đức thứ năm nơi địa vị Giáo Hóa). 

          Môn thứ năm thuộc Xuất chính là Bồ Tát tu Ngũ Niệm Môn thành tựu, bốn môn đầu là tự lợi, do hướng thượng tấn tu, nên [bốn môn ấy] là Nhập, [tức là] nhập An Lạc Tịnh Độ, viên mãn công đức tự lợi. Lại từ Tịnh Độ mà xuất, thị hiện thân Ứng Hóa, trở vào Sa Bà độ chúng sanh, viên mãn công đức lợi tha. Đấy là môn thứ năm trong pháp môn Ngũ Niệm; vì thế, gọi là môn thứ năm thuộc Xuất.

          Ngài Đàm Loan đã giải thích tám câu trong phần Luận này bằng ba đoạn:

          1) Giải thích thị hiện Ứng Hóa Thân là gì? Chính là như trong phẩm Quán Thế Âm Bồ Tát Phổ Môn của kinh Pháp Hoa, đấy là thí dụ tốt nhất về sự thị hiện thân ứng hóa của Bồ Tát. Quán Thế Âm Bồ Tát có tiếng thơm là “đại bi”, vì tâm từ bi của Ngài lớn nhất. Ngài thường xuyên do lòng đại từ bi mà quan sát hết thảy chúng sanh khổ não, tầm thanh cứu khổ. Do vậy, trong Phật môn, có bài kệ tụng ca ngợi Quán Âm Bồ Tát như sau: “Tam thập nhị ứng biến trần sát, bách thiên ức kiếp hóa Diêm Phù, thiên xứ kỳ cầu thiên xứ ứng, khổ hải thường tác độ nhân châu” (Ba mươi hai thân ứng trọn khắp các cõi nước nhiều như vi trần, trong trăm ngàn ức kiếp hóa độ Diêm Phù, ngàn chốn cầu đảo, Ngài đều ứng hiện ngàn nơi, trong biển khổ thường làm chiếc thuyền độ người). Dùng sự tích của Quán Âm Bồ Tát để thuyết minh phần Luận nói về “thị hiện ứng thân, trở vào vườn sanh tử, ở trong rừng phiền não, du hý thần thông, đạt đến địa vị Giáo Hóa” trong môn thứ năm thuộc Xuất thì là tuyệt hảo, không gì hay hơn nữa.

          2) Giải thích “du hý thần thông” có hai thứ ý nghĩa:

a) Nghĩa thứ nhất là tự tại. Dùng chuyện sư tử bắt nai là chuyện dễ dàng để sánh ví Bồ Tát độ chúng sanh tùy tâm thực hiện, tùy ý tự tại. Việc làm chẳng khó, giống như trẻ nhỏ trong ấu trĩ viên (kindergarten) chơi đùa vậy.

b) Nghĩa thứ hai là hóa độ mà không có người được hóa độ. Chính là Bồ Tát có trí huệ tam luân thể không, [tức là] chẳng chấp trước ta là người độ, chúng sanh là người được độ, [và có pháp để hóa độ]. Vì thế, suốt ngày độ chúng sanh, mà chẳng có “ngã tướng, nhân tướng, chúng sanh tướng”. Như kinh Kim Cang đã nói: Bồ Tát diệt độ vô lượng chúng sanh mà thật sự chẳng có một chúng sanh nào được diệt độ! Hết thảy sự nghiệp độ sanh đều là trụ trong Lý Thể vô vi để làm Phật sự hữu vi, thường nói là “yến tọa thủy nguyệt đạo tràng, quảng tác mộng trung Phật sự” (ngồi thảnh thơi trong đạo tràng như bóng trăng trong nước, rộng làm các Phật sự trong mộng). Hết thảy như huyễn, như mộng, giống như đang du hý. Như kinh Vô Lượng Thọ có nói: “Thí như huyễn sư hiện chúng dị tượng, vi nam, vi nữ, vô sở bất biến. Bổn học minh liễu, tại ý sở vi” (Ví như nhà ảo thuật hiện ra các hình tượng khác lạ, hoặc nam, hoặc nữ, không gì chẳng biến ra. Do đã hiểu rõ học thuật của chính mình, cho nên tùy ý thực hiện).

          3) Giải thích thế nào là dùng sức bổn nguyện để hồi hướng, “thị đại Bồ Tát ư Pháp Thân trung, thường tại tam-muội, nhi hiện chủng chủng thân, thuyết chủng chủng pháp đẳng, giai dĩ bổn nguyện lực khởi” (chỉ ra hàng đại Bồ Tát thường ở trong tam-muội, từ nơi Pháp Thân mà hiện đủ mọi thân, nói đủ mọi pháp v.v… đều là do sức bổn nguyện mà dấy lên). Đấy là nói Bồ Tát hễ vãng sanh An Lạc Tịnh Độ, đều đã phát Đại Thừa Bồ Đề tâm, ắt đạt đến địa vị đại Bồ Tát bất thoái chuyển từ Sơ Địa trở lên, đều vì độ chúng sanh mà sanh vào Tịnh Độ. Do đó sau bốn môn thuộc về Nhập, ắt phải có môn thứ năm là Xuất để hồi hướng. Nhưng để có thể trở vào vườn sanh tử, rừng phiền não, hòng độ chúng sanh ương ngạnh, khó giáo hóa, chắc chắn phải là bậc Địa Thượng Bồ Tát đã phá vô minh, chứng Pháp Thân thì mới có thể làm được. Do đó nói “thị đại Bồ Tát ư Pháp Thân trung” (chỉ ra các vị đại Bồ Tát ấy từ trong Pháp Thân).

          Hàng Pháp Thân đại sĩ như Quán Âm, Thế Chí v.v… đã thành tựu bốn thứ công đức chánh tu hành như đã nói trên đây, đương nhiên là có thể thường ở trong tam-muội mà tùy loại hiện thân thuyết pháp. Như phẩm Phổ Môn đã nói: Đối với người đáng nên dùng thân Phật để độ được, liền hiện thân Phật để thuyết pháp cho người ấy. Hoặc là thị hiện các thân phàm phu, Nhị Thừa, Bồ Tát v.v… nói đủ mọi thứ pháp có thể khế hợp căn cơ của chúng sanh. Đấy đều là du hý thần thông của đại Bồ Tát. Ngài Đàm Loan lại nêu ra cây đàn của A Tu La để thí dụ hết thảy hành vi độ sanh của Bồ Tát đều do tâm đại bi mà phát đại Bồ Đề tâm, do Bồ Đề tâm mà phát ra bổn nguyện “thượng cầu, hạ hóa”, nương theo sức bổn nguyện ấy, chẳng cần tác ý, tùy ý tự nhiên mà hiện thân ứng hóa, du hý thần thông, đạt đến địa vị Giáo Hóa, thuyết pháp, hoặc hiện thần thông, phổ độ chúng sanh.

2.2.2.2.10.3. Tổng kết thành tựu của hai thứ lợi

2.2.2.2.10.3.1. Tự lợi

          (Luận) Bồ Tát nhập tứ chủng môn, tự lợi hạnh thành tựu, ưng tri.

          (Chú) “Thành tựu” giả, vị tự lợi mãn túc dã. “Ưng tri” giả, vị ưng tri do tự lợi cố, tắc năng lợi tha, phi thị bất năng tự lợi nhi năng lợi tha dã.

          ()菩薩入四種門。自利行成就。應知。

          ()成就者。謂自利滿足也。應知者。謂應知由自利故。則能利他。非是不能自利。而能利他也。

          (Luận: Bốn loại môn Nhập của Bồ Tát thành tựu hạnh tự lợi, hãy nên biết.   Chú: “Thành tựu” ý nói: Tự lợi được trọn vẹn. “Hãy nên biết” chính là nói: Hãy nên biết do tự lợi bèn có thể lợi tha, chẳng phải là không thể tự lợi mà lại có thể lợi tha được).

          Đây là phần tổng kết [cho tiểu đoạn] “Bồ Tát tu năm môn có thể thành tựu viên mãn công đức tự lợi và lợi tha”. Trước hết nói về tự lợi. Luận Chủ nói: Có thể nương theo luận này tu pháp môn Ngũ Niệm, từ lễ bái cho đến quan sát, sẽ dần dần nhập bốn loại môn ấy; vậy thì hạnh tự lợi của hết thảy Bồ Tát đều có thể thành tựu. “Thành tựu” là trọn vẹn chẳng sót. Vì sao vậy? Do vì Bồ Tát tu Ngũ Niệm Môn chính là nương cậy sức bổn nguyện của A Di Đà Phật mà tu, như đứa trẻ nít dựa dẫm cha mẹ dẫn dắt đi lại, chắc chắn chẳng đến nỗi gặp phải nguy hiểm như bị lạc đường hoặc vấp té, ắt có thể đến đích an toàn, tức là quốc độ thanh tịnh được chư Phật cùng khen ngợi. Ở đó, có các vị thượng thiện nhân cùng nhóm họp một chỗ, bất cứ lúc nào cũng đều có thể thấy Phật, nghe pháp, hằng ngày cúng dường trọn khắp mười phương chư Phật. Tu phước và tu huệ như thế, không ngừng tăng thượng, chẳng bị thoái chuyển. Lại do thọ mạng giống như Phật, đều là vô lượng thọ, cho nên có thể ngay trong một đời mà tu viên mãn công đức tự lợi của Bồ Tát. Đã có thể tự lợi, ắt sẽ có thể lợi tha, chắc chắn chẳng phải là “không thể tự lợi mà có thể lợi tha”. Chúng ta hãy nên nhận biết rõ ràng điểm này. Do vậy, Ngũ Niệm Môn được gọi là đạo dễ hành của Bồ Tát, là phương tiện thù thắng để hóa độ chúng sanh của chư Phật, Bồ Tát, là con đường tắt nhất để hoàn thành công đức tự lợi và lợi tha.

2.2.2.2.10.3.2. Lợi tha

          (Luận) Bồ Tát xuất đệ ngũ môn, hồi hướng lợi ích tha hạnh thành tựu, ưng tri.

          (Chú) “Thành tựu” giả, vị dĩ hồi hướng nhân, chứng Giáo Hóa Địa quả. Nhược nhân, nhược quả, vô hữu nhất sự bất năng lợi tha. Ưng tri giả, vị ưng tri do lợi tha cố, tắc năng tự lợi, phi thị bất năng lợi tha nhi năng tự lợi dã.

          ()菩薩出第五門。迴向利益他行成就。應知。 

          ()成就者謂以迴向因。證教化地果。若因若果。無有一事不能利他。應知者。謂應知由利他故。則能自利。非是不能利他。而能自利也。

          (Luận: Môn thứ năm thuộc Xuất của Bồ Tát thành tựu hạnh hồi hướng lợi ích cho người khác, hãy nên biết.

          Chú: “Thành tựu” là dùng hồi hướng làm nhân để chứng cái quả nơi địa vị Giáo Hóa. Dù nhân hay quả, không có một chuyện nào chẳng thể lợi tha. “Hãy nên biết” ý nói: Hãy nên biết do lợi tha mà có thể tự lợi, chẳng phải là “không thể lợi tha mà có thể tự lợi” được).

          Luận Chủ lại tổng kết về lợi tha. Bồ Tát tu Hồi Hướng Môn trong Ngũ Niệm Môn, dùng nhân hạnh hồi hướng chứng đắc Giáo Hóa Địa, tức là quả vị Thập Địa trong Biệt Giáo, hoặc là từ Thập Trụ trở lên trong Viên Giáo. Dùng nhân quả ấy để hồi hướng lợi tha, những việc đã làm đều có thể lợi ích chúng sanh, bèn được thành tựu viên mãn hạnh lợi tha. “Hãy nên biết” tức là hãy nên biết: Bồ Tát tu Bồ Tát đạo, đều dùng lợi tha làm điểm xuất phát, có thể thành tựu công đức, đều là có thể từ ngay lợi tha mà thành tựu tự lợi. Chắc chắn chẳng phải là “không có đại Bồ Đề tâm lợi tha mà có thể thành tựu tự lợi của Bồ Tát để thành Phật được”. Do vậy, tiêu chuẩn của Bồ Tát đạo là “độ sanh (lợi tha) thành Phật (tự lợi), thành Phật hòng độ sanh”. Tự lợi và lợi tha là hai mặt của cùng một chuyện, hễ thành thì sẽ thành tựu lẫn nhau, hễ mất thì mất lẫn nhau. Phàm là Bồ Tát, ắt cần phải biết điều này!

2.2.2.2.10.3.3. Trọn vẹn hai điều lợi

          (Luận) Bồ Tát như thị tu Ngũ Niệm Môn hạnh, tự lợi, lợi tha, tốc đắc thành tựu A Nậu Đa La Tam Miệu Tam Bồ Đề cố.

          (Chú) Phật sở đắc pháp, danh vi A Nậu Đa La Tam Miệu Tam Bồ Đề. Dĩ đắc thử Bồ Đề, cố danh vi Phật. Kim ngôn “tốc đắc A Nậu Đa La Tam Miệu Tam Bồ Đề”, thị đắc tảo tác Phật dã. A danh Vô, Nậu Đa La danh Thượng, Tam Miệu danh Chánh, Tam danh Biến, Bồ Đề danh Đạo. Thống nhi dịch chi, danh vi Vô Thượng Chánh Biến Đạo. Vô thượng giả, ngôn thử đạo cùng lý tận tánh, cánh vô quá giả. Hà dĩ ngôn chi? Dĩ chánh cố. Chánh giả, thánh trí dã. Như pháp tướng nhi tri, cố xưng vi Chánh Trí. Pháp tánh vô tướng, cố thánh trí vô tri dã. “Biến” hữu nhị chủng: Nhất giả, thánh tâm biến tri nhất thiết pháp; nhị giả, Pháp Thân biến mãn pháp giới. Nhược thân, nhược tâm, vô bất biến dã. Đạo giả, vô ngại đạo dã. Kinh ngôn: “Thập phương vô ngại nhân, nhất đạo xuất sanh tử”. Nhất đạo giả, nhất vô ngại đạo dã. Vô ngại giả, vị tri sanh tử tức thị Niết Bàn. Như thị đẳng nhập Bất Nhị pháp môn vô ngại tướng dã.

          ()菩薩如是修五念門行。自利利他。速得成就阿耨多羅三藐三菩提故。

          ()佛所得法。名為阿耨多羅三藐三菩提。以得此菩提。故名為佛。今言速得阿耨多羅三藐三菩提。是得早作佛也。阿名無。耨多羅名上。三藐名正。三名遍。菩提名道。統而譯之。名為無上正遍道。無上者。言此道窮理盡性。更無過者。何以言之。以正故。正者聖智也。如法相而知。故稱為正智。法性無相。故聖智無知也。遍有二種。一者聖心遍知一切法。二者法身遍滿法界。若身若心。無不遍也。道者無礙道也。經言。十方無礙人。一道出生死。一道者一無礙道也。無礙者謂知生死即是涅槃。如是等入不二法門。無礙相也。

          (Luận: Bồ Tát tu hạnh Ngũ Niệm Môn như thế, do tự lợi, lợi tha, nên mau chóng được thành tựu A Nậu Đa La Tam Miệu Tam Bồ Đề.

          Chú: Phật đạt được pháp gọi là A Nậu Đa La Tam Miệu Tam Bồ Đề. Do đắc môn Bồ Đề này, nên gọi là Phật. Nay nói “mau chóng đắc A Nậu Đa La Tam Miệu Tam Bồ Đề” tức là sớm được thành Phật. A là Vô, Nậu Đa La là Thượng, Tam Miệu là Chánh, Tam là Biến, Bồ Đề là Đạo. Dịch chung lại sẽ là Vô Thượng Chánh Biến Đạo. “Vô thượng” là nói đạo này cùng lý tận tánh, không chi hơn được. Vì sao nói như vậy? Do [đạo ấy] là chánh. “Chánh” là thánh trí. Do đúng như pháp tướng mà biết, nên gọi là Chánh Trí. Pháp tánh vô tướng, cho nên thánh trí vô tri. “Biến” (trọn khắp) có hai loại: Một là thánh tâm biết trọn khắp hết thảy các pháp; hai là Pháp Thân đầy khắp pháp giới. Dù thân hay tâm, không gì chẳng trọn khắp. “Đạo” là đạo vô ngại. Kinh dạy: “Bậc mười phương vô ngại, một đạo thoát sanh tử”. “Một đạo” là đạo vô ngại. “Vô ngại” là biết sanh tử chính là Niết Bàn. Nhập tướng vô ngại của pháp môn Bất Nhị như thế đó).

          Luận Chủ quy kết lợi ích do tu hành Ngũ Niệm Môn thành “mau chóng thành vị Phật rốt ráo phước huệ viên mãn Vô Thượng Chánh Đẳng Giác”.

          Trước hết, ngài Đàm Loan dịch A Nậu Đa La Tam Miệu Tam Bồ Đề thành Vô Thượng Chánh Biến Đạo. Bồ Đề bao gồm hai loại nghĩa lý Giác và Đạo. Ngài lại giải thích: Vô Thượng là cùng tánh tận lý, không chi hơn được nữa! Thông thường, chúng ta dùng bài kệ tán Phật có câu: “Nhất thiết vô hữu như Phật giả” (Hết thảy không có gì như Phật). Chắc chắn là người đời chẳng có trí huệ cùng lý tận tánh giống như Phật, huống hồ còn có kẻ nào vượt trỗi ư? Vì sao nói như vậy? Cùng lý tận tánh thì gọi là Trí. Phật có chánh tri, chánh kiến, có thể biết tánh và tướng của các pháp cùng tận, đúng thật; đối với cái có bèn biết là có, đối với cái không bèn biết là không. Sự thấy biết ấy đích xác đúng như tánh và tướng chân thật của các pháp, chẳng bị điên đảo thì mới gọi là “trí”. Chúng sanh bình phàm luôn chấp hư vọng là thật, hoặc chấp thường, chấp đoạn, chấp có, chấp không, tức là “điên đảo vọng kiến” (kiến giải hư vọng điên đảo), chẳng thể gọi là Trí.

          “Pháp tánh vô tướng, cố thánh trí vô tri” (Do pháp tánh vô tướng, nên thánh trí vô tri). Đối với hai câu này, trong khoa Quảng Lược Tương Nhập (rộng và lược dung nhập lẫn nhau) trong phần trước, ngài Đàm Loan đã nói “Thật Tướng vô tướng, cố chân trí vô tri” (do Thật Tướng không có tướng, nên chân trí vô tri), đại ý [của câu ấy và câu “pháp tánh vô tướng, cố thánh trí vô tri”] tương đồng. “Vô tri” chẳng phải là như gỗ đá, vô tri, vô giác, mà là chẳng có phân biệt, chấp trước! Điều này có hàm ý tương đồng với câu nói của tổ sư Thiên Thai: “Thật Tướng vô tướng, vô bất tướng” (Thật Tướng chẳng có tướng, chẳng phải là không có tướng); tức là Trung Đạo Trí viên dung Nhị Đế, còn gọi là Thánh Trí, tức là trí huệ mà Địa Thượng Bồ Tát và chư Phật mới có. Thánh Trí còn gọi là Chánh Biến Tri, tức là Bổn Giác Trí của nhất tâm nhị môn, biết trọn khắp “như thị tướng” (tướng là như thế) cho đến “bổn mạt cứu cánh” (gốc ngọn rốt ráo) v.v… của hết thảy các pháp thế gian và xuất thế gian. Đấy là trí huệ thuộc về Tâm Sanh Diệt Môn, có tên là Như Lượng Trí. Lại có thể chứng đắc Pháp Thân thanh tịnh vô vi trọn khắp mười phương ba đời; đấy là trí huệ thuộc về Tâm Chân Như Môn, gọi là Như Lý Trí. Nhất tâm nhị môn thành tựu hai trí của chư Phật. Vì thế, gọi là Chánh Biến Tri.

          “Đạo” nếu dùng “thập phương vô ngại nhân, nhất đạo xuất sanh tử” (bậc mười phương vô ngại, một đạo thoát sanh tử) để nói, sẽ là vô ngại đạo mà cả ba thừa cùng có. Nếu dùng “sanh tử tức là Niết Bàn, phiền não tức là Bồ Đề, chúng sanh tức là Phật, ma giới tức là Phật giới, hết thảy pháp đều là Phật pháp, cùng nhập tướng vô ngại của pháp môn Bất Nhị” để nói thì đấy mới là vô ngại đạo chỉ riêng Đại Thừa Viên Giáo mới có, được gọi là Vô Thượng Đạo của Phật.

          Nay tôi dùng đạo lý “tu Ngũ Niệm Môn thành tựu công đức tự lợi, lợi tha, mau chóng được thành Phật”, nêu ra thí dụ để nói rõ, hòng khiến cho mọi người dễ liễu giải. Ví như người thế gian ai có thể có tài cao trí lớn (công đức tự lợi), lại có thể xác thực vì quốc dân mưu cầu phước lợi lớn nhất (công đức lợi tha), bèn có thể làm quốc vương (quốc vương tức là Phật). Quốc dân bình phàm mà mong làm quốc vương sẽ chẳng dễ dàng (điều này được gọi Nan Hành Đạo của Bồ Tát). Nhưng nếu sanh ra làm Thái Tử của quốc vương thì sẽ rất dễ dàng (điều này được gọi là Dị Hành Đạo của Bồ Tát). Tuy nói “ai nấy đều có thể làm quốc vương” (thành Phật), nhưng có khó, có dễ! Nhân dân bình phàm thì rất khó, làm Thái Tử thì rất dễ làm [quốc vương trong tương lai].

          Khi Thái Tử đầu thai, đó là môn thứ nhất để nhập, tức Cận Môn. Do vậy, Luận viết: “Nhập đệ nhất môn giả, dĩ lễ bái A Di Đà Phật, vị sanh bỉ quốc ý cố, đắc sanh An Lạc thế giới” (Môn thứ nhất của Nhập là dùng lễ bái A Di Đà Phật, vì ý muốn sanh về cõi ấy, được sanh vào thế giới An Lạc). Đấy là thành tựu môn thứ nhất, tức Lễ Bái Môn trong Ngũ Niệm Môn, được tiến nhập An Lạc Tịnh Độ, thân cận A Di Đà Phật.

          Trụ thai trọn đủ mười tháng, sanh ra trong hoàng cung, trở thành quyến thuộc của quốc vương, gọi quốc vương là cha, được quốc vương nuôi dưỡng khôn lớn. Đấy là môn thứ hai của Nhập, tức Đại Hội Chúng Môn. Do vậy, Luận viết: “Nhập đệ nhị môn giả, dĩ tán thán A Di Đà Phật, tùy thuận danh nghĩa xưng Như Lai danh, y Như Lai quang minh trí tướng tu hành cố, đắc nhập đại hội chúng số. Thị danh Nhập đệ nhị môn” (Môn Nhập thứ hai là dùng tán thán A Di Đà Phật, tùy thuận danh nghĩa mà xưng niệm danh hiệu của Như Lai, vì nương theo quang minh trí tướng của Như Lai để tu hành mà được dự vào đại chúng trong hội thuyết pháp của đức Phật. Đó gọi là môn thứ hai của Nhập). Đấy chính là thành tựu môn thứ hai, tức Tán Thán Môn trong Ngũ Niệm Môn, được nghe đức Phật thuyết pháp, trưởng dưỡng Pháp Thân huệ mạng.

          Thái Tử từ tuổi thơ ấu bước vào tuổi tráng niên, tài trí trọn đủ, bèn được quốc vương quán đảnh. Tuy vẫn chưa làm quốc vương, nhưng có thể ở trong cung điện lộng lẫy giống hệt như quốc vương, tùy ý dạo chơi. Đấy là môn Nhập thứ ba, tức Trạch Môn. Do vậy, Luận viết: “Nhập đệ tam môn giả, dĩ nhất tâm chuyên niệm, tác nguyện sanh bỉ, tu Xa-ma-tha tịch tĩnh tam-muội hạnh cố, đắc nhập Liên Hoa Tạng thế giới. Thị danh Nhập đệ tam môn” (Môn Nhập thứ ba là dùng nhất tâm chuyên niệm, phát nguyện sanh về cõi ấy, do tu hạnh Xa-ma-tha tịch tĩnh tam-muội mà được vào trong thế giới Liên Hoa Tạng. Đó gọi là môn Nhập thứ ba). Đấy chính là thành tựu môn thứ ba, tức Tác Nguyện Môn trong Ngũ Niệm Môn.

          Trong thế giới Cực Lạc thanh tịnh trang nghiêm (tức thế giới Hoa Tạng), cùng với các vị thượng thiện nhân cùng ngộ Vô Sanh, cùng tu phước huệ, tự lợi, lợi tha. Sau đấy, chánh thức lên ngôi báu của hoàng đế, hưởng thụ trọn hết những sự vui sướng đáng có của quốc vương, cũng có thể yêu dân như con, che chở, tạo phước cho muôn dân, gió hòa mưa thuận, quốc thái dân an. Đấy chính là môn Nhập thứ tư, tức Ốc Môn. Do vậy, Luận viết: “Dĩ chuyên niệm quán sát bỉ diệu trang nghiêm, tu Tỳ-bà-xá-na cố, đắc đáo bỉ xứ, thọ dụng chủng chủng pháp vị lạc. Thị danh Nhập đệ tứ môn” (Do chuyên niệm, quan sát sự trang nghiêm mầu nhiệm ấy, tu Tỳ-bà-xá-na, được đến nơi ấy, thọ dụng đủ mọi niềm vui pháp vị. Đó gọi là môn Nhập thứ tư). Đấy chính là thành tựu môn thứ tư, tức Quán Sát Môn trong Ngũ Niệm Môn.

          Ba thứ thân Phật, bốn thứ Tịnh Độ đều có. Hoa Tạng và Cực Lạc, mười phương thế giới, tức là một Phật quốc độ. Chính mình và chư Phật, y báo và chánh báo trong mười pháp giới đều cùng là tướng tịnh tâm. Chúng sanh và Phật chẳng hai, thân và cõi nước chẳng hai, tâm và trí chẳng hai, hết thảy chẳng hai, chứng nhập cảnh giới Đại Niết Bàn thường, lạc, ngã, tịnh, thọ dụng đủ mọi pháp lạc. Đấy là bốn môn thuộc về Nhập được rốt ráo viên mãn. Tất nhiên là chẳng trái bổn nguyện, thả chiếc bè Từ, do lòng đại từ bi mà trở vào Sa Bà và mười phương thế giới rộng độ chúng sanh. Đấy chính là thành tựu môn công đức thứ năm thuộc về Xuất. Vì thế, Luận viết: “Xuất đệ ngũ môn giả, dĩ đại từ bi, quán sát nhất thiết khổ não chúng sanh, thị ứng hóa thân, hồi nhập sanh tử viên, phiền não lâm trung, du hý thần thông, chí giáo hóa địa, dĩ bổn nguyện lực hồi hướng cố. Thị danh đệ ngũ môn” (Môn thứ năm thuộc về Xuất là do lòng đại từ bi, quan sát hết thảy chúng sanh khổ não, thị hiện thân ứng hóa, trở vào vườn sanh tử, rừng phiền não, du hý thần thông, đạt đến địa vị Giáo Hóa, dùng sức bổn nguyện để hồi hướng. Đó gọi là môn thứ năm). Đấy chính là thành tựu môn thứ năm tức Hồi Hướng Môn trong Ngũ Niệm Môn.

          Như hoàng đế Càn Long nhà Thanh xuống chơi Giang Nam, hóa trang thành đủ mọi thân phận khác nhau, biểu hiện rất nhiều chuyện du hý trong nhân gian. Phật, Bồ Tát thị hiện du hý thần thông để hóa độ chúng sanh đồng thành Phật đạo cũng giống như thế. Tổng hợp năm môn ấy, sẽ tương đương với tám tướng thành đạo của các vị đại Bồ Tát như kinh Vô Lượng Thọ đã nói. Nhập môn chính là tướng nhập thai và xuất thai. Đại hội chúng môn chính là tướng [Bồ Tát thị hiện] làm đứa trẻ, [trưởng thành] cưới vợ. Trạch môn chính là tướng xuất gia. Ốc môn là tướng thành đạo. Xuất môn là tướng chuyển pháp luân, nhập Niết Bàn. Phàm là Bồ Tát vãng sanh thế giới Cực Lạc, ai nấy đều có thể [thị hiện] tám tướng thành đạo. Do vậy, Luận viết: “Tốc đắc thành tựu Vô Thượng Chánh Đẳng Chánh Giác” (Mau được thành tựu Vô Thượng Chánh Đẳng Chánh Giác).

          Vãng Sanh Luận Chú đến đây là hết, có thể nói là đã kết thúc toàn bộ. Ngài Đàm Loan có một đoạn vấn đáp để giải quyết nghi hoặc, nhằm tăng thêm tín tâm của mọi người đối với pháp môn Tịnh Độ, hòng nương theo sức bổn nguyện của Phật Di Đà mà mau chóng thành Phật đó thôi, chẳng cần phải nói nhiều! Mọi người đã nghe tôi giảng giải, cũng như do các thí dụ đã nói trên đây, đối với đạo dễ hành là tu Ngũ Niệm Môn thì có bổn nguyện của A Di Đà Phật trong khi Ngài còn đang tu nhân và thần lực nơi quả địa của Ngài để có thể nương cậy, chẳng cần tu phước huệ suốt ba đại A-tăng-kỳ, chỉ cần hễ sanh về cõi ấy, liền thành tựu viên mãn, mau chóng được thành Phật, hãy chớ nên hoài nghi nữa! Hy vọng mọi người hãy quý tiếc thân người quý báu, hết một báo thân này, siêng tu Ngũ Niệm Môn, tự lực thành tựu Tịnh nghiệp, lại có thể nhờ Phật lực làm tăng thượng duyên, được sanh về Cực Lạc, cùng thành Phật đạo, cùng hóa độ chúng sanh. Đấy là điều tôi thơm thảo mong cầu vậy!

2.2.2.2.10.4. Vấn đáp giải quyết nghi hoặc

          (Chú) Vấn viết: Hữu hà nhân duyên, ngôn “tốc đắc thành tựu A Nậu Đa La Tam Miệu Tam Bồ Đề”? Đáp viết: Luận ngôn tu ngũ môn hạnh, dĩ tự lợi lợi tha thành tựu cố. Nhiên hạch cầu kỳ bổn, A Di Đà Như Lai vi tăng thượng duyên, tha lợi chi dữ lợi tha, đàm hữu tả hữu. Nhược tự Phật nhi ngôn, nghi ngôn lợi tha. Tự chúng sanh nhi ngôn, nghi ngôn tha lợi. Kim tương đàm Phật lực, thị cố dĩ lợi tha ngôn chi, đương tri thử ý dã. Phàm thị sanh bỉ Tịnh Độ, cập bỉ Bồ Tát nhân thiên sở khởi chư hạnh, giai duyên A Di Đà Như Lai bổn nguyện lực cố. Hà dĩ ngôn chi? Nhược phi Phật lực, tứ thập bát nguyện tiện thị đồ thiết. Kim đích thủ tam nguyện, dụng chứng nghĩa ý. Nguyện ngôn: “Thiết ngã đắc Phật, thập phương chúng sanh, chí tâm tín nhạo, dục sanh ngã quốc, nãi chí thập niệm, nhược bất đắc sanh giả, bất thủ Chánh Giác. Duy trừ Ngũ Nghịch, phỉ báng chánh pháp”. Duyên Phật nguyện lực cố, thập niệm niệm Phật, tiện đắc vãng sanh. Đắc vãng sanh cố, tức miễn tam giới luân chuyển chi sự. Vô luân chuyển cố, sở dĩ đắc tốc, nhất chứng dã. Nguyện ngôn: “Thiết ngã đắc Phật, quốc trung nhân thiên, bất trụ Chánh Định Tụ, tất chí diệt độ giả, bất thủ Chánh Giác”. Duyên Phật nguyện lực cố, trụ Chánh Định Tụ. Chánh Định Tụ cố, tất chí diệt độ, vô chư hồi phục chi nạn, sở dĩ đắc tốc, nhị chứng dã. Nguyện ngôn: “Thiết ngã đắc Phật, tha phương Phật độ chư Bồ Tát chúng lai sanh ngã quốc, cứu cánh tất chí Nhất Sanh Bổ Xứ, trừ kỳ bổn nguyện tự tại sở hóa, vị chúng sanh cố, bị hoằng thệ khải, tích lũy đức bổn, độ thoát nhất thiết, du chư Phật quốc, tu Bồ Tát hạnh, cúng dường thập phương chư Phật Như Lai, khai hóa hằng sa vô lượng chúng sanh, sử lập vô thượng chánh chân chi đạo, siêu xuất thường luân chư địa chi hạnh. Hiện tiền tu tập Phổ Hiền chi đức. Nhược bất nhĩ giả, bất thủ Chánh Giác”. Duyên Phật nguyện lực cố, siêu xuất thường luân chư địa chi hạnh, hiện tiền tu tập Phổ Hiền chi đức, dĩ siêu xuất thường luân chư địa hạnh cố, sở dĩ đắc tốc, tam chứng dã. Dĩ tư nhi thôi, tha lực vi tăng thượng duyên, đắc bất nhiên hồ! Đương phục dẫn lệ, thị tự lực tha lực tướng, như nhân úy tam đồ, cố thọ trì cấm giới. Thọ trì cấm giới cố, năng tu Thiền Định. Dĩ Thiền Định cố, tu tập thần thông. Dĩ thần thông cố, năng du tứ thiên hạ. Như thị đẳng danh vi tự lực. Hựu như liệt phu, khóa lư bất thượng, tùng Chuyển Luân Vương hành, tiện thừa hư không, du tứ thiên hạ, vô sở chướng ngại. Như thị đẳng danh vi tha lực. Ngu tai! Hậu chi học giả, văn tha lực khả thừa, đương sanh tín tâm, vật tự cục phận dã!

          ()問曰。有何因緣言速得成就阿耨多羅三藐三菩提。答曰。論言。修五門行。以自利利他成就故。然覈求其本。阿彌陀如來為增上緣。他利之與利他。談有左右。若自佛而言。宜言利他。自眾生而言。宜言他利。今將談佛力。是故以利他言之。當知此意也。凡是生彼淨土。及彼菩薩人天所起諸行。皆緣阿彌陀如來本願力故。何以言之。若非佛力。四十八願便是徒設。今的取三願用證義意。願言。設我得佛。十方眾生至心信樂。欲生我國。乃至十念。若不得生者。不取正覺。唯除五逆。誹謗正法。緣佛願力故。十念念佛。便得往生。得往生故。即免三界輪轉之事。無輪轉故。所以得速。一證也。願言。設我得佛。國中人天。不住正定聚。必至滅度者。不取正覺。緣佛願力故。住正定聚。住正定聚故。必至滅度。無諸迴伏之難。所以得速。二證也。願言。設我得佛。他方佛土。諸菩薩眾。來生我國。究竟必至一生補處。除其本願。自在所化。為眾生故。被弘誓鎧。積累德本。度脫一切。遊諸佛國。修菩薩行。供養十方諸佛如來。開化恒沙無量眾生。使立無上正真之道。超出常倫諸地之行。現前修習普賢之德。若不爾者。不取正覺。緣佛願力故。超出常倫諸地之行。現前修習普賢之德。以超出常倫諸地行故。所以得速。三證也。以斯而推。他力為增上緣。得不然乎。當復引例。示自力他力相。如人畏三塗。故受持禁戒。受持禁戒故。能修禪定。以禪定故。修習神通。以神通故。能遊四天下。如是等名為自力。又如劣夫跨驢不上。從轉輪王行。便乘虛空。遊四天下無所障礙。如是等名為他力。愚哉。後之學者。聞他力可乘。當生信心。勿自局分也。

          (Chú: Hỏi: Do có nhân duyên nào mà nói là mau chóng được thành tựu A Nậu Đa La Tam Miệu Tam Bồ Đề?

          Đáp: Luận nói tu ngũ môn hạnh để thành tựu tự lợi, lợi tha. Nhưng xét đến tận gốc, A Di Đà Như Lai làm tăng thượng duyên, người khác được lợi và làm lợi người khác chính là nói theo mỗi góc nhìn hỗ tương. Nếu nói theo phía Phật, đáng nên nói là “lợi ích người khác”. Nói theo phía chúng sanh, đáng nên nói là “người khác được lợi”. Nay do bàn về Phật lực, nên nói là “lợi ích người khác”, hãy nên biết ý này. Phàm là sanh về cõi Tịnh Độ ấy, nói đến các hạnh do Bồ Tát, trời, người dấy lên thì đều là duyên theo sức bổn nguyện của A Di Đà Như Lai. Vì sao nói như thế? Nếu chẳng phải là do Phật lực thì bốn mươi tám nguyện sẽ uổng công lập ra. Nay tôi đại lược dùng ba nguyện để chứng minh ý nghĩa.

          Nguyện rằng: “Nếu tôi thành Phật, mười phương chúng sanh chí tâm tin ưa, muốn sanh về cõi tôi, [chỉ cần] cho đến mười niệm mà nếu chẳng được sanh, tôi chẳng giữ lấy ngôi Chánh Giác, chỉ trừ kẻ Ngũ Nghịch, phỉ báng chánh pháp”. Do nương theo nguyện lực của Phật, mười niệm niệm Phật liền được vãng sanh. Do được vãng sanh, liền thoát khỏi chuyện luân chuyển trong tam giới. Do không luân chuyển, nên được mau chóng [thành Phật]. Đó là chứng cớ thứ nhất.

          Nguyện rằng: “Nếu tôi được làm Phật, trời người trong nước chẳng ‘trụ trong Chánh Định Tụ, ắt đạt đến diệt độ’, tôi chẳng giữ lấy ngôi Chánh Giác”. Do duyên theo nguyện lực của Phật mà trụ Chánh Định Tụ. Do trụ trong Chánh Định Tụ, ắt đạt đến diệt độ, chẳng còn có nạn trở lại [luân hồi sanh tử], cho nên được mau chóng [thành Phật]. Đó là chứng cớ thứ hai.

          Nguyện rằng: “Nếu tôi được làm Phật, các vị Bồ Tát trong các cõi Phật ở phương khác sanh vào nước tôi, rốt ráo ắt đạt đến Nhất Sanh Bổ Xứ, trừ những vị có nguyện riêng tự tại giáo hóa, vì chúng sanh mà mặc áo giáp hoằng thệ, tích lũy cội đức, độ thoát hết thảy, dạo các cõi Phật, tu Bồ Tát hạnh, cúng dường mười phương chư Phật Như Lai, khai hóa hằng sa vô lượng chúng sanh, khiến cho họ an lập nơi đạo vô thượng chánh chân, vượt trỗi những hạnh thuộc các địa vị thông thường, hiện tiền tu tập công đức Phổ Hiền. Nếu chẳng như vậy, tôi chẳng giữ lấy ngôi Chánh Giác”. Do nương theo nguyện lực của Phật, vượt trỗi những hạnh thuộc các địa vị thông thường, hiện tiền tu tập công đức Phổ Hiền. Do vượt trỗi hạnh thuộc các địa vị thông thường, cho nên được mau chóng [thành Phật]. Đấy là chứng cớ thứ ba.

          Do những điều này mà suy ra tha lực làm tăng thượng duyên, há chẳng phải là đúng như thế ư? Lại dẫn thí dụ để chỉ bày tướng tự lực và tướng tha lực: Như có người do sợ tam đồ bèn thọ trì giới cấm. Do thọ trì giới cấm, có thể tu Thiền Định. Do Thiền Định, tu tập thần thông. Do thần thông, có thể dạo chơi tứ thiên hạ. Những điều như thế gọi là tự lực! Lại như kẻ yếu ớt, trèo lên lừa không nổi, theo Chuyển Luân Vương mà đi, bèn bay lên hư không, dạo chơi tứ thiên hạ chẳng bị chướng ngại. Những điều như thế gọi là tha lực. Ngu thay! Người học đời sau, nghe tha lực có thể nương cậy, hãy nên sanh tín tâm, đừng nên tự hạn cuộc).

2.3. Tổng kết

          (Luận) Vô Lượng Thọ Tu Đa La Ưu Bà Đề Xá Nguyện Sanh Kệ lược giải nghĩa cánh.

          (Chú) Kinh thỉ xưng “như thị”, chương Tín vi năng nhập. Mạt ngôn “phụng hành”, biểu phục ưng sự dĩ. Luận sơ “quy lễ”, minh tông chỉ hữu do. Chung vân “nghĩa cánh”, thị sở thuyên lý tất. Thuật tác nhân thù, ư tư thành lệ.

          ()無量壽修多羅優婆提舍願生偈。略解義竟。

          ()經始稱如是。彰信為能入。末言奉行。表服膺事已。論初歸禮。明宗旨有由。終云義竟。示所詮理畢。述作人殊。於茲成例。

          (Luận: Vô Lượng Thọ Tu Đa La Ưu Ba Đề Xá Nguyện Sanh Kệ lược giải ý nghĩa đã xong.

          Chú: Mở đầu kinh bèn nói là “như thị”, nhằm biểu thị do tín tâm mà có thể nhập. Cuối kinh bèn nói “phụng hành”, biểu lộ chuyện vâng giữ, nhận lãnh đã xong. Luận thì thoạt đầu nói quy y, lễ kính, nhằm chỉ rõ tông chỉ có nguyên do. Cuối luận bèn nói là “nghĩa lý đã giảng xong” nhằm chỉ ra lý được trình bày đã được trần thuật hoàn tất. Người trước tác hoặc trần thuật tuy khác nhau, nhưng đều theo lệ này).

Hồi hướng

          Nguyện do công đức này, tiêu trừ túc hiện nghiệp, tăng trưởng các phước huệ, viên thành thiện căn mầu. Tất cả đao binh kiếp, cùng các nạn đói kém… đều diệt trừ chẳng còn. Mọi người đều tu tập, lễ kính và khiêm nhượng, hết thảy người giúp đỡ, lần lượt giúp lưu thông, quyến thuộc đều an lạc, người đã khuất siêu thăng, gió mưa thường hòa thuận, nhân dân đều khang ninh, pháp giới các hàm thức, cùng chứng Vô Thượng Đạo.

          Bản giảng nghĩa này được xuất bản, lưu thông, tất cả thiện căn công đức kính vì tiên khảo (cha) là Hoàng công Duy Kỳ phủ quân, tiên tỷ (mẹ) là Hoàng mẫu Chiêu Đễ nhụ nhân, và các vị cư sĩ Trần Phước Tùng, Tôn Canh Ngọc, Dương Thái Nguyệt, Tôn Đình Ngọc, do thiện nhân này, nghiệp chướng tiêu trừ, sớm sanh về Cực Lạc, thấy Phật, nghe pháp, chóng thành Phật đạo.

          Tánh Phạm kính đề tại Văn Thù Viện thuộc Tịnh Luật Tự huyện Lộc Cốc.

          Trung Hoa Dân Quốc năm tám mươi hai (1993), tức năm Quý Dậu, bắt đầu viết từ ngày mồng Một tháng Giêng, hoàn thành bản thảo, gác bút vào ngày 16 tháng Tư trong khóa An Cư mùa Hạ.

Vô Lượng Thọ Kinh Ưu Bà Đề Xá Chú Giải
Giảng Nghĩa hết

Nguồn: Di Đà Nguyện Hải

Pages: 1 2 3 4 5 6 7 8 9