VIÊN NGỘ PHẬT QUẢ
THIỀN SƯ NGỮ LỤC

SỐ 1997

QUYỂN 20

Đời Tống, phủ Bình giang, Hổ khê Sơn môn, Thiệu Long soạn.

KỆ TỤNG

Cao Tông ở Phiên Để ba lần thỉnh Sư thượng tòa nói kệ.

Nhân thiện vời quả thiện

Trồng lúa chẳng sinh đậu

Người tu phước đức lớn

Người nhận phước đức lớn

Tám vạn bốn ngàn Ba-la-mật

Trên đầu một sợi lông đã viên thành

Đầu gậy hét thừa đương được

Bước cao đi trên đảnh Tỳ-lô.

Rất giản dị, rất tôn quý.

Trở về trên đỉnh đầu.

Thế xuất thế gian chẳng nghĩ bàn

Phút chốc viên thành tám vạn môn

Vượt thẳng vào Như Lai địa.

Chúng sinh xưa nay là Phật

Bỏ giận bỏ si tham mùi đời,

Không tình ai giữ đất chân như,

Có khi được một quang cảnh đẹp

Ngã tư đường mặc tình dạo chơi.

Ngụ ngôn:

Xưa nghe lặn xuống biển lớn một lần dơ lên mười hai con ba ba, xưa cầm tịnh hoa này chưa từng kịp một sợi lông mùa thu, mịt mờ trong đại tượng, ra vào đâu thể tránh, chỉ tự mình theo duyên, để ý thật luống nhọc.

Cử Dâng Công lên tòa, nguyên có kệ rằng:

Nghĩ khoe tứ phần dẹp Lăng-nghiêm

Đè xuống đầu mây triệt để tham,

Chớ học lượng công thân Mã tổ,

Lại như Đức Kiệu hỏi Long Đàm,

Bảy năm qua lại dạo Chiêu Giác,

Ba năm bay lượn trên Bích Nham,

Ngày nay phiền sung Đệ nhất tòa,

Trong bụi trăm hoa hiện Ưu-đàm.

– Dạy chúng:

Biện đạo cần phải biện tâm mình,

Tâm gặp đâu đều là bến,

Hiểu rõ cách ngoại vô sinh nhẫn,

Làm ngay người giải thoát trong khu,

Bàng Lão uống hết nước Tây giang,

Nắm lại Diệu hỷ thân Tịnh Danh,

Tám gió năm dục không thể chuyển,

Hiếu hướng trong trần

Chuyển pháp luân.

– Ngày giỗ Phật Giám Hòa thượng dạy chúng:

Năm rồi chính ngày nay

Trâu đất đấu húc nhau nhào xuống biển,

(cho đến nay không tung tích gì)

Năm nay chính ngày nay

Khắp cõi phóng ánh sáng

Thân vô tướng hư không

Phật Giám nghiễm nhiên ở

Chẳng sắc cũng chẳng tâm

Chẳng nhỏ lại chẳng lớn

Kiếp đá có thể dời

Trong đó không dời đổi

Phải biết ân Phật Giám

Các người sáng chủ tể

Một câu đậu nhiều cơ

Chí tâm luôn kính lạy Lại nói một câu gì

Ăn cơm nhai gặp cát.

– Dạy Đơn Hà Phật Trí dụ Thiền sư:

Hai, ba, bốn, bảy xưa không gián đoạn, biển đại oai quang bày đích truyền. Cầm dứt quan tân không khinh bỏ, cỏ sâu ai nhìn trước pháp đường.

– Dạy Trạch Ngôn Thiền Nhân (ba bài kệ):

1. Tham thiền tham đến chỗ không tham

Cùng Huyền cùng triệt huyền tân đầu

Khát uống đói ăn chỉ như thế

Thế gian ra đời mất nguyên do.

2. Cơ quan đều là đồ không đủ nhà

Huyền diệu trộn lẫn thành giày cỏ rách

Trán sắt đầu đồng vượt Phật tổ

Nắm ngang bắt ngược một hầm chôn.

3. Hồng trần có luận, thành đạo

Hang lạnh không người lại làm xuân,

Nêu biết ý cầm hoa (mà) mỉm cười,

Một lần cầm chơi một lần mới.

– Dạy Nhược Bình Thiền Nhân

Giúp rập ở núi công đã lập

Gánh vác lâu dài chí lớn chắc

Vân Môn am lập đè âu phụ

Ở trên trời cao lại có trời

Tìm lại xưa nay cõi thanh tịnh

Lúc khác gặp thấy truyền tiếng tốt

Khách chủ ném nhau keo sơn họp

Cùng nhau hoằng trì Thiền Lâm Tế.

– Đưa Trí Tổ Thiền Đức:

Một câu đương cơ hiểu

Đường ngàn sai dứt vin

Tới lui luôn soi xét

Ồn im vững như núi

Trăm cỏ nghiêng đầu cao

Mây côi nhàn ngoài đời

Hạnh hạnh cầm nắm chắc

Phải mở cửa ải ra.

– Đưa An Thủ Tọa về Đức Sơn:

Khiến (Sứ?) thì không sai lệch (nhục mạng?), gặp cơ quý đối đáp – An thiền (sao) vuốt râu cọp, trứ trứ vượt phương ngoài – Chẳng chỉ sáng dưới cửa số an bày – Nhặt lấy giường thiền ném núi cao – Nắm chùy dựng phất phấn hùng biện – Tiếng vàng ngọc khua như sấm rền, chín tuần lạc lạc đề cương tông. Nạp tử giúp luôn đuổi gió, mở chốt cởi trói bày thủ đoạn, đuổi cày cướp cơm rất ung dung. Hạ hết nhớ núi muốn trở về, biết rõ lỡ lăng một đoạn việc, lững thững hang lý ở trong lòng – Hạnh hạnh chẳng sợ không tri kỷ, khi đi đòi ta đưa một bài, trong gai cỏ lật kim cương quyển, ca ngắn phải được mấy mươi trượng, câu dài chỉ mất hai, ba lời, sư tử lông vàng biết quay mình. Đó là người kiệt xuất tòng lâm, chẳng ngày nào (chẳng có mặt trời?) trên đỉnh núi cao hò hét, năm lá một hoa trời đất xuân.

– Đưa Phạm Tư Thiền Lão về núi ở am (ở am tại núi Oản):

Thoát khỏi lồng bẫy dứt hàm cương,

Hiểu không mảy may được dung tham,

Ngựa non phóng mạnh ai cấm được,

Trước đài Oản Ba đi (bỏ) ở am.

– Đưa Đạt thị Giả đi Võ Lăng:

Lâm Tế xưa khiển tướng,

Nghiệm Đức kiệu làm linh

Tiếp ở cùng một đưa,

Quả khác thăm bóng gậy,

Quốc sư ba lần gọi,

Tiếng tiếng đều hiểu rõ,

Phụ ông phụ cơ ta,

Thấu thẳng đảnh ngàn Thánh,

Người xưa từng thị giả,

Căn khí như răn bảo này,

Ông mấy năm khăn bình,

Đã họp được chánh mạng,

Nay lại từ Đế đô,

Dạo thẳng cảnh Võ lăng,

Đánh biện tinh thần giỏi,

Cũng muốn biết bệnh thiền,

Cắt đứt câu trước gió,

Cướp lấy cán Phật tổ,

Trở về khoa trạch lớn

Tướng mạnh quả nhiên mạnh.

– Đưa Tu Đạo Giả

Không dỡ nón khám phá câu-chi,

Một câu đánh ra một cổ Phật

Như nay trở về Cữu vân am,

Tham khắp các phương Thiện tri thức,

Chót vót mắt ở đảnh môn,

Sáng cao như mặt trời sáng rỡ,

Gắng sức giữ truyền vô tận đăng,

Nối lấy dấu tích cũ Mạt sơn.

– Đưa các Hóa sĩ (chín bài):

1. Thấu suốt ấn Linh minh, gót chân

Dụng đến rồi chẳng cách mảy may,

Du lịch cõi Hoa tạng Tỳ-lô,

Nắm dừng Mâu-ni trăm ức thân,

Bảy tám bảo trân đều ta có,

Trái phải lỗ hang cùng gần ai,

Sống nhọc lũ lượt mà rủ (đưa) tay,

Bèn là thông phương người tự tại.

2. Trăng sáng rỡ giữa rừng,

Xa xa trời chân mây,

Lui tới không có lụy,

Tròn khuyết vốn vô căn,

Đậu nước sáng thường sạch,

Làm mưa dầm ý chẳng họp bầy,

Khe núi ngàn vạn dặm,

Dị đồng có ai luận,

Ca-diếp đầu gậy giết,

Lão Tăng này nhiều lưỡi,

Toàn thể hiểu thừa đương,

Tổ tổ đâu từng khác,

Muốn sáng cái việc ấy,

Phải khéo xem thời tiết,

Gặp được cùng người nào,

Trong mắt lấy bụi ra,

Thấy nhiều Bắc sơn môn,

Chào chào đều nạp mây,

Tay diệu rộng trình bày,

Lật ngược hang ly long,

Trên đảnh đầu ngàn Thánh,

Có đường lớn phá trời,

Chỉ là người vô tâm,

Mới hay rộng đặt bước,

Đạp khắp đất bằng,

Ngày đi ngàn trăm lượt,

Muốn dẫn khắp thế gian,

Đồng loạt cùng đi đâu,

Ông đưa tay vào (?),

Cần phải khéo hồi hổ,

Chỗ ồn ào gặp nhau,

Đương cơ phải nắm dừng,

Giống qua vườn kim cương,

Xin tận tình phân phó.

Trở về Thiện pháp đường,

Đánh lấy trống đại pháp,

3.Thấy mặt rộng mở ấn Tam yếu,

Toàn cơ thẳng sáng Chánh pháp tạng,

Nắm bỏ Giang tây hiển Bổn tông,

Ba ngày tai điếc không tài giỏi,

Cần phải buông tay ở núi cao,

Tuyển huyền nhai nào ngàn vạn trượng,

Muốn biết xứng ý được vảy gấm,

Phóng mình quyết vào sóng kinh người.

4.Bốn liệu giản bốn chủ khách,  ba huyền và ba yếu,  đánh đá lửa ánh điện chớp,  chính khuôn phép của Lâm Tế, đã tham thiền Lâm Tế,  cũng phải tự kiểm điểm,  chiếu dụng hét rất kỳ, nghiệm đầu gậy giết chết cứu sống, lấy đây vào giao (?). Đại phấn khương duy đởm, quang vinh làm phụng huy, bảy trân chỉ một thấy, cục thịt đỏ lòm của vô vị chân nhân, trước mặt ra vào như để xem, đầu gậy xét chánh phong lệnh trước, hét xong ép tướng gan mật lạnh, chẳng lập thềm bậc ai thờ Phật, có phép tắc thật được an tâm, quay mình trăm cỏ nghiêng đầu đụng, cắm tay trong hang ly long mà lật, muốn thấy nạp Tăng toàn ý khí, như mè vạn cảnh chớ can dự, duyên lớn nhổ khoảng tay hay biện, chưa tin đời người đi đường khó,

5. Dẹp chuyển ngàn sai hướng thượng cơ,

Phất cờ cướp trống chẳng nhiều ấy,

Quay mình chiếm đất toàn sinh sát,

Mới là sư tử con lông vàng.

6. Uống hết nước Tây giang giống nhàn,

Tác gia há lại chuộng cơ quan,

Buông giáo tánh đất bằng như đá mài,

Thành Phật công về một tuần.

7. Đưa Tuệ Cung đi về Bình giang

Một câu riêng đề vượt Tổ Phật,

Đau đớn như kim chùy đâm thấu xương,

Ra cửa liền làm sư tử con,

Địch thắng kinh người giúp ném ngược,

Bình giang xưa nay hang hào kiệt,

Đi đi trước thông cái tin tức,

Hạnh này chẳng làm rãnh rang đến,

Tám mặt thanh phong thổi y giới.

8. Đưa Cảnh Nguyên đi trước về Tỳ lăng

Rõ ràng đề dậy cắt ngàn sai,

Ai tin phong lưu ra nhà ấy,

Muốn vào trong triền thông một tuyến,

Rãnh rang mở lấy Bát đàm hoa,

Khéo chuyên đối đáp chẳng nhục mạng,

Bèn thấy ba mắt chánh Ma Hê,

Dẫu được quần linh khiến cùng đi

Sáng rỡ cắt ngang đường Tào Khê.

9. Dương Vô Cữu quán sát:

Xưa ở Hoàng đô tham gặp gì,  cùng nay há lại có sai khác, rãnh rang thừa hứng cùng nhắc lại các điều đã nói. Mở pháp đường bụng gậy bên hiên ai.

Phật tổ mạng môn đề ở tay, buông mở nắm gom lại chẳng phải khác, đã đến huyền nhai mà buông tay, từ đây chốt cửa chẳng nhiều.

– Dạy thiện hữu:

Đoạn này xưa nay không trước sau,

Phải gắng sức mạnh mẽ hành trì,

Kim cang chánh nhãn thông thân đó,

Vạn cảnh đến xâm phạm đừng theo nó.

– Tụng: Nguyệt Thượng Nữ nhân duyên

Xưa nay chánh thể thấu căn nguyên,

Vào núi đồng đường chỉ cửa này,

Đã trụ Như Lai đại giải thoát,

Cửa báu trong tay chiếu càn khôn.

– Tụng: Huỳnh Long Tam QuanTay ta sao giống tay Phật,

Tùy phần đưa hoa hái liễu,

Bỗng nhiên rờ đụng đầu rắn,

Không khơi gặp nó một miệng.

Chân ta sao giống chân lừa,

Triệu Châu thạch kiều lược chước,

Bỗng như dựng lên da cầu,

Sụp đổ năm núi ba ngọn núi.

Người người có cái sinh duyên,

Ngồi xoạc không đất dùi nghiền,

Bỗng như mắt da cùng phá,

Lo người khác đá thủng đáy thùng.

– Tụng: Ba độc

Khe hang khó đầy (chứa) một niệm dục,

Nê Lê suốt kiếp khổ nào kham,

Ngộ được vạn pháp đều như huyễn,

Cẩn thận chớ để tâm khởi tham.

Chưa thấy thế gia bị họa lớn,

Đốt cháy công đức không gì hơn sân,

Bao nhiêu thuận nghịch đều dung thứ,

Hỷ xả từ bi ra sáu trần.

La sát vô minh triệt để si,

Mịt mù chánh thể phát cuồng cơ,

Mạnh làm kiếm Kim cang Bát-nhã,

Ông ta đoạn dứt buông tay về

Vọng khởi cặn do ba tên này,

Giam chặt trong sáu đạo bốn loài,

Tự nhiên điều phục không công dụng,

– CHÂN TÁN

* Khen: Mục Châu Hòa thượng.

Cay cay đắng đắng lắm ai ơi, biết giúp Bắc vì cây lớn, gỏ Vân Môn rớt núi hiểm, cơ cao chớ nói như củi khô, phàm gọi đó là Trần Bồ Hai.

* Khen: Xá-lợi Hòa thượng Tử Tâm.

Đó là con cọp Huỳnh Long, làm rạng rỡ chân xá-lợi, vạn năm như mặt trời mọc thế gian, cùng Thiện tri thức làm khuôn mẫu, bình sinh trách Phật, mắng Tổ. Do đây mới nghiệm được chỗ Phật. Lưu truyền lại cho pháp tử pháp tôn, chạm chỗ nào cũng phóng quang và động đất.

* Khen: Lục Tổ Đại sư.

Cúi lạy Tào Khê chân cổ Phật, đã tám mươi đời là Thiện tri thức thị hiện chẳng biết chữ nghĩa của đời, buộc miệng thành chương thấu hang pháp, lá rụng về cội mấy trăm thu, thân bền chặt trấn giữ Thiều Thạch, sáng như mặt trời hồng chiếu khoảng không, sáng như ly châu chiếu thái cực, Định Tuệ tròn sáng rộng rãi. Từ chỗ cầu hưởng ứng cũng hang trống. Công đức hằng sa khó lường, đều xuất ra từ sức bi nguyện của Ngài cả.

* Khen: Dương Kỳ Hòa thượng.

Ba chân lừa gõ móng, hiểu Đạo chậu bát miếng hướng lên trời, gánh vác có một trăm hai mươi cân, lại gánh nặng kéo cày dắt bồ cào, vô cớ hoại mất thiền từ sáng.

* Khen: Bạch Vân Đoan Hòa thượng.

Dương Kỳ mắt sau ót há thân, thấu được bụi vàng được mấy người phò trì Lâm Tế, một quyền đánh ngã Hoàng Hạc Lâu, hoa nở hai Tổ, lỗ mũi y trước đáp trên môi.

* Khen: Ngũ Tổ Diễn Hòa thượng.

Trước núi một mảnh ruộng đất không, tùng trúc dẫn gió đánh lén người, nói tâm nói tánh, Lão Tăng trong đó là ác khẩu, riêng đề giặc bán, gánh váv bù bèo ba cân mè.

* Khen: Chân Như Triết Hòa thượng.

Tòng Lâm Lão làm đời không bọn, lẫm liệt oai quang bốn trăm châu, một đánh cửa sắt nát vụn, ân lớn khó đem mưa sương đền đáp.

* Đơn Hà Phật Trí Dụ Trưởng lão thỉnh tán.

Đoạt sấm sét quả tim hồng, vách đứng sao bay điện xẹt. Lâm Tế mạng mạch ông ta, đột xuất mạch địa diệu môn, gõ ra xưa không một vật, ba huyền ba yếu sáng rỡ phân phó Trí Phật, nghiền nát hang ổ người, cùng Tổ tông tuyết khuất. Ôi chao (hét?).

* Hoa Tạng Dân Trưởng lão, thỉnh tán.

Lâm Tế Chánh pháp nhãn, theo lừa mù ấy diệt, cha con chẳng truyền nhau, thần tiên có bí quyết, há để họa cháu con, lại trong mắt có bụi gặp người tốt một đáp, rất kỵ đến người mà nói.

* Đạo Châu Thủ tọa, thỉnh tán.

Trong màn Tử la rải chân châu, đêm sáng ngoài rèm mũi, sau câu ba yếu ba huyền, người nào thân được chỉ ấy, trước mặt Vô Vị Chân Nhân bỏ nó phóng ra.

* Phạm Tư duy-na, thỉnh tán.

Đơn đề Chánh pháp nhãn Lâm Tế, rõ ràng ngầm trao cho lừa mù, Vô Vị Chân Nhân cục cứt khô, đầu gậy hét xong dứt danh mô. Năm ấy Hải Hội đại trùng cắn, ngày nay Ấu phong nêu giống nó, Viên Ngộ chẳng tiếc lời nói, trong lò lửa hồng nở hoa sen.

* Duy Tổ Tri Tạng, thỉnh tán.

Quét sạch Phật tổ chẳng còn tánh mạng, cây sắt nở hoa, ngựa thần mười ảnh, Viên Ngộ truyền lại thiền Lâm Tế, bồng sấm sét chấn động ngàn đỉnh núi.

* Pháp Nhất Thư Ký, thỉnh tán.

Hóa thành đạp phá, Bảo sở chẳng lưu, rõ ràng cắt đứt cơ quan, thấu qua trăm cỏ điên (nghiêng) đầu. Múa (huy động) thổi lông của Lâm Tế, cởi thuyền lớn Từ Minh đầu sừng giống nhau, khí loại ném nhau. Toàn cơ một hét phân chủ khách, phải tin ông ấy được tự do.

* Tử Văn Giám Tự, thỉnh tán.

Oai như mãnh hổ ra rừng sâu, sáng như cóc bạc chuyển thái hư, nhìn thì rõ ràng, tức thì cũng ấm, mở chánh nhãn Ma-hê ở trên đầu. Bỗng Vô Vị Chân Nhân ở trước mặt. Có ai hiểu đây, há có thể hiển lời giao phó Tử Văn.

* Đạo Nguyên Thiền khách, thỉnh tán.

Lâm Tế Chánh pháp nhãn tạng, bỗng hiện ra ba đầu sáu tay, giận hờn bỗng đánh chuông vua, gạt lừa ở thần thông du hý, Viên Ngộ trong lòng một nắm tay, tiêu mất lỗ mũi của nạp Tăng.

* Đức Kha Thiền nhân, thỉnh tán.

Trong mắt có con ngươi, đảnh môn á (phụ) một chỉm phóng ra kim cương quyển, cả đời đề chẳng khởi. Trong đó hiểu Yếu lược ông ấy, sắt làm rường, vàng làm răng, như thế làm chết con cháu, chẳng thế thì so xét chút ít, diệt mất chánh nhãn bên con lừa mù, Viên Ngộ phong quang động trời đất.

* Cảnh Nguyên Thị Giả, thỉnh tán.

Bình sinh chỉ nói thiền áo đầu, lắc lay áo đầu như vách sắt, thoát khỏi ràng buộc dứt gót chân (cội nguồn) đại địa nắm lại sơn đen, tuổi già chuyển lại mất lo lắng, hăng hái chùy Kim cang đập nát hang ổ, lúc khác cần biết mặt Viên Ngộ, một vì Cừ Nông đều nêu ra.

* Pháp Chiêu Duy Na, thỉnh tán.

Bao lớn không ngoài nhỏ vào hào mang, hiện Bảo hoa vương tùy chỗ ở Đạo tràng, kiến lập quét sạch, chánh thể oai phong, một lời vách đứng tế tế huyệt huyệt, cừ nông mặt mũi này người nào hiểu, đề lên Viên Ngộ cỏ tất lật, thấy thể mất thương lượng, đem thoại khách truyền bá các phương.

* Hàn Triều Nghi, thỉnh tán.

Dẹp đầu cửa chuyển thượng, ngàn Thánh phải cất bước chỉ có người trong ấy, phải thông một tuyến đường, đủ cỏ tranh thoát các duyên, đầu thành tín việc này, thề tâm tạp dụng, mãi mãi tên chống nhau, hình dạng hiện nét đẹp sơn dã, chiếm cứ cây cao không bóng mát, chống gậy chánh lệnh hành, nắm giữ một câu nào, Thiện Tài cúc cung ở trước, phong thần toàn thể bày, khí loại tự đồng nhau, đẹp thay tên cha con.

* Duy Biểu Tri Tạng, thỉnh tán.

Đây để trên đầu ngàn Thánh, Lâm Tế kiến lập Đại pháp tràng núi cao vạn trượng giải phóng thân, có thể một hớp uống hết nước Tây giang.

Đá lửa ánh điện xẹt cũng là độn, vai hổ chắp cánh định vô song.

* Thắng Cư Thiền Nhân, thỉnh tán.

Đêm bùa sáng đuốc trời, kiếm thổi lông chiếu tuyết thần oai lạnh run lập cập, sáng đỏ lại chiếu chiếu (chiếu suốt) khi chưa mở miệng đã đương đầu cắt ngang, muốn vào cửa đến hét trước mặt. Thể tài giống có thể khắc gia, đất này chẳng chịu nước rò rỉ.

* Nhược Bình Thiền lão, thỉnh tán.

Cao ôm áo lông chống ngang gậy, tác ý đề cương cắt ngang tài giỏi, buông bỏ một cơ hướng thượng, ngàn Thánh hồn quên mật chết. Ở đây có người thừa đương, liền thấy ngàn hiểu rõ trăm thứ, đầu gậy Viên Ngộ một giọt thiền, Tây giang mười tám thác đều đầy nước.

* Đàm Ngoạn Thiền đức ở Đầu Đà Nham am, thỉnh tán.

Trên đá Bàn đà chống ngay gậy, nhìn kỹ rõ ràng từng không tài giỏi, chẳng cho (lập) gai cỏ lật kim cang quyển, chẳng thích khởi lập gương mẫu, Đầu Đà đảnh núi bỗng đi quyền, đánh cả (được) ông ấy cũng mất lường.

* Hoài Tổ Tri Điện, thỉnh tán.

Gầy mà mạnh khỏe, già mà có vận khác, trống miệng nói pháp không tiếc, quét sạch tình thức, chẳng lưu chút vết tích, bảy chỗ Đạo tràng khớp như một nháy mắt. Có người chẳng đoái hoài nguy vong Tăng Cang Địa, muốn đến xông vào Tuyết phong mà hét.

* Văn Hạo Thiện nhân, thỉnh tán.

Núi Mân sáng đẹp cao Tây nam, khí tượng bàn hồi rậm xanh tươi, anh kiệt chỗ sinh tử quen xưa, há cho mũi lạnh liền tham nhau, tự chẳng đem núi về làng. Cây có lưỡi vốn bày huyền đàm, được thỉnh cư nhàn Hạo mục kích (thấy rõ), nắm giữ về cất am tranh.

* Uẩn Ngộ Tiểu sư, thỉnh tán.

Mặt trời mặt trăng đều hiện, ấn không ấn nước đều bày, cơ trước chẳng lưu dấu vết, cách ngoài cũng dứt thừa đương, cha con chí thân đường khác, thảy đều (người người) đảnh có viên quang, rất sợ cùng người minh phá, cửa này há có thương lượng.

* Thiền Nhân Tả Chân cầu thỉnh (hai mươi bài).

1- Trong bọt huyễn sinh ra cây khô gỗ mục, đảnh thiếu thần cốt, tráng không viên châu, từng gặp Hải Hội rồng độc cắn, quyết ý truy phong ngựa trời phóng. Lập bày ngàn thứ khéo, kỳ thật một vật cũng không, nếu dựa theo cái ấy mà thấy, chí liễu chẳng biết cừ, khi hỗn độn chưa phân, không có mặt lỗ này, bọt huyễn đã bày vua (hoàng) bèn đầy đủ mười thứ, trong lòng chẳng lập mảy trần, miệng sừng sóng triều bơi vọt, chỉ có một phân biệt (kiện) dài, thích đánh phá thùng sơn.

2- Chợt giận chợt mừng lẫn lộn chỉ do ông, rất thích lừa người khua môi múa mép, cỏ nhẫn khắp dất sinh, đâu từng tưới nước pháp, điên đảo tâm can một câu thiền, có chút con cháu cũng trình điềm lành.

3- Trong khuôn mẫu thoát ra, Phật quả Lão Chùy xưa, chỗ vạn duyên dứt hết, khi ngồi thẳng chẳng nói, dời khắc chớp mắt hăng hái toàn oai, vì người đến thấu xương, chẳng tiếc lời nói.

4- Khế khế giống thuốc đỏ (thược dược đỏ?), què què như Vân Môn, khác không hai lão thật, không uẩn hai lão văn. Buông ra hiểu việc đòi phá chậu cát. Gương báu một hạt bụi, phiến mây khoảng trời thu.

5- Một thấy liền thấy, hiểu rõ mặt xưa nay, nhanh tay đơn thanh ứng duyên mà hiện, dần dần buông tâm càng thấy mạnh mẽ, chỉ dùng kim cương quyển cỏ tất lật, cần phải trăm ngàn rèn luyện, núi vách đứng vạn nhận buông tay, chánh nhãn trên đảnh môn rộng.

6- Huyễn xuất thành tướng chân uẩn, trong đó trôi lên xương mắt, bốn tòa sinh gió truyền tâm chẳng thể truyền, chấn động tông chẳng chấn động. Lão ra khỏi Hoàng đô tuổi già ở Âu phong (ngọn núi Âu), chỉ cái ấy mất không hồi hổ, lãnh lược ở ông ta hét.

7- Trong câu mất thiền, ngoài cách không huyền. Trước mặt chẳng thấy, dứt chẳng thể truyền. Giống ngọc ôn nhuận, như trăng riêng tròn. Khí đẹp sông nguồn, sáng chiếu đại thiên.

8- Nạp y trốn mất cao chót vót, miếng đoạn mây tàn núi lồng lớn, vách đứng vạn nhận gần chẳng được, không Phật không Tổ không gậy hét, một hớp uống hết nước Tây giang. Đó là Viên Ngộ đương đầu được.

9- Tướng hiện vô tướng, tâm ra chẳng tâm, như dấu ấn in trên không, xa dứt cổ kim, vào hang sư tử, dạo rừng chiên đàn, thoát khỏi dây cương, đến chỗ rộng sâu, muốn biết chỗ đứng của Viên Ngộ, một mình trên núi cao vạn nhận.

10- Điểm tuyết trong lò lửa hồng. Đêm sáng ngoài rèm gỡ đèn vàng, đầm lạnh vạn trượng băng thấu đáy, trên đỉnh Diệu cao ngọc mấy tầng, đều là chỗ ông ta dạo đến, vạn cơ khắp ứng xưa chẳng từng, Viên Ngộ Lão sư đưa một tay hỏi rằng người nào giống như ta (giống tài ta).

11- bén chém hư không, tên thần xuyên mặt trời hồng. Dùng miệng nuốt mười phương, thổi ống sáo không lỗ này, như đây ba mươi năm không phí mảy may sức, tín thái ở đầu móc (lưỡi câu) cũng có vảy gấm ăn, có mắt tự thừa đương, cẩn thận chớ theo nó tìm. Đại cơ muốn phát nhanh, đại dụng cần cắt đứt, Mã Sư Lão Bá Trượng không đầu mối đã rò rĩ. Lâm Tế gọi lửa đến, quét sạch ngôn ngữ thiên hạ, Lão này dựa giường Hồ, cũng phải nói như thế, nói cùng chẳng nói, vạn dặm trời xanh một vầng trăng.

12- Ngồi ngay Bàn đà, phóng thần sửa cao tột. Hoành lang tiêu cung rộng đảnh ngàn Thánh. Ai là Tiên Đà, chưa nói đã hiểu trước, một mảnh phong quang cướp cảnh cướp người. Viên Ngộ tuổi già lại càng thâm trầm, hoa mát đầu núi giếng trăm thước.

13- Đứng trên đất có thể thành Phật, giết người chẳng nháy mắt, nghiền nát hang ổ sinh tử phải cái lão lỗi lạc, Viên Ngộ từ xưa nay đề cái này được, trước gió mây trắng từng hét tan, đương gia trồng cỏ khá theo nhau, kiếm bén bảy sao ánh sáng rực rỡ.

14- Trong câu có xuất thân, chợt ở trên đảnh ngàn Thánh, đương cơ dứt ràng buộc, thấu qua cảnh vô biên, sinh bình nắm Kim cang vương bốn hét ba huyền ngoài cách hiểu, trước mặt đánh gõ thái châu già, chỉ là lừa mù truyền tánh mạng.

15- Thấy mặt toàn chân chẳng kể thân sơ, đầu cọp hàm én chưa hết cừ thần, nắm dứt quan tân chẳng bỏ qua, vô biên sát hải so gần.

16- Thái hư rộng vắng dựa ai ngộ, xoay mình ném ngược chân sư tử, thấu đảnh thấu đáy mất rào ngăn, ngàn núi cao vót ném một câu, lược mở cửa trên đầu Viên Ngộ, Phù Tràng sát hải rộng bước đi.

17- Đạo chẳng ở đơn thanh, thiền chẳng ở diện tướng gượng ép diện mạo mình ở tương lai, khen làm hình trạng gì, lại đến cái hiện thành, vì ông nói Thượng (Nhất) nước đỏ cầu Châu Thần, được là do võng tượng, chùy xưa của Viên Ngộ Lão, già đến mất tài giỏi anh thiền cầm tướng đi, sóng bạc bốc ngút trời.

18-  Vốn không mặt mũi, bỗng ra sáu mươi bảy, nay ông cường đồ mạo (cốt theo hình ảnh?). Đảnh môn thiếu ba cái bảy chỗ vào chồn ồn, gần đây tiêu ninh mật, nếu lại đánh cát đằng, há có ngày yên nghỉ, ba mươi năm cùng người xem, Viên Ngộ từ trước mất hang ổ.

19- Mây của trời cao, bụi của gương sáng. Ở trong vô tướng bỗng hiện thân này, khảo cứu thật diệu lấy gì làm chân, chẳng ra cái ấy một cái rất thân, thấu được riêng thoát cùng xưa làm gần gũi (láng giềng) đạo dứt hình tướng, danh còn chí công. Đối hiện sắc thân bản thể toàn không, yêu cầu lỗ mũi chẳng Tây chẳng Đông. Trăng chiếu đầm lắng, gió lay tòng xưa, mười thành Viên Ngộ ai biết ông ấy.

20- Thông thân không hình tượng, đầy mắt sinh ánh sáng, động dụng cao như núi, nói im sâu như biển, nhiều kiến chánh như như, trong đó không biến đổi, nhảy khỏi Kim cang quyển Viên Ngộ, cần phải tin công lớn vốn chẳng chủ tể.

* Chân Như Thiền Nhân, thỉnh tán.

Chỉ cái miệng mặt thấy được một vạn, phải là người trong ấy, tay thân tức mắt hiện. Phật quả ứng duyên, Viên Ngộ thành hiện, như như chỗ chạm được gặp hắn, một đạo thần quang vốn không gián đoạn.

* Chân Liễu Thiền nhân, thỉnh tán.

Đơn Thanh có hình dạng hoạt bát, Viên Ngộ cứ ngồi nghiễm như. Phong quang toàn bày bẹt gối. Thân điếc mắt mở nhìn thẳng trên đảnh Âu phong cầu chức vụ quan trọng làm thanh minh (sáng tối?) chuyển thỏ quạ (thỏ đen?)

* TẠP TRỨ (Tạp ghi)

Hòa Linh Nguyên Khạp Thùy Ca (họa bài ca Linh Nguyên ngũ gạc).

Mịt mù mịt mù không lỗ không mũi. Cao vót mừng rỡ dứt kỵ húy, tin nhiệm lưu quang động đất dời, chẳng luận Đông Hạ chỉ ngủ nghỉ, trong đó thắm mùi Phật, không hét trai hào và ốc, buông mình chẳng quản ngồi đáy nước, hứng phát luôn đẩy ông túi vải, mũi thở như sấm ai nhìn được, tầm thường ít thấy có lúc tỉnh, lúc mất tỉnh là thật có cần phải sáng tông chỉ trong ngủ nghỉ, từ xưa đến nay một thức đến trời sáng, Phật đến chẳng hiểu nâng thân dậy, nếu như phóng quang khắp đại thiên, trọn khó đổi đáy vô ưu của ta, xét thân sơ lộn lạo (ngầm) đánh mất, ngủ nghỉ căn linh chớ hỏi cùng. Có người khế hội liền đồng tham.

Ngủ được phải biết miên mật.

* Bài minh Tu Đạo giả ở Nhược hư am.

Tu Thiền Đạo Nhân, tùy thân một mình ở am, lấy tên là Phật Quả Lão Tử nhân cho tên là Nhược hư, bèn hội ba làm một, mà chẳng nêu ra việc bổn phận và thiền giáo. Vĩnh Gia nói: Thể như hư không không bến bờ. Kinh Phật nói: Chân pháp thân của Phật cũng như hư không. Hổn Nguyên nói: Thân dấu kín như hư không. Tuyên Ni nói: Thật như hư. Nói rằng: Một giọt giọt nước, một giọt giọt đông giá, chỉ cái gì bình thường trong ngoài rỗng không, căn trần dứt đôi, sáu môn hỗ dụng, thích ở am này mười tám bất cộng (mười tám năm chẳng ở chung ai) phải đùa giỡn lỗ nút, rõ ràng không may vá, ứng vật chẳng phải duyên, ai là huyễn mộng.

* Luận về phá vong truyền thai tức Đạt-ma.

Tây phương Đại Thánh nhân ra nước Ca-duy-la, làm vô biên lượng Diệu dụng, hiển bày sát trần không thể đếm được Thắng nhân thù đặc khó nghĩ bàn, để dắt dẫn quần linh, phương ấy Phật thuận nghịch khai giá, nhiều ngôn điển khác tràn đầy kho báu. Cho đến hạ tiêu mới lộ bày tin tức một thật, gọi là ngoài giáo riêng làm riêng truyền tâm ấn. Ông già sắc vàng đến nay miên mật rõ ràng, chỉ luận chỉ thẳng tâm người thấy tánh thành Phật, chẳng lập thềm bậc chẳng sinh tri kiến. Kẻ lợi căn thượng trí hướng vào hang vô minh mà phá kiến, trong cây phiền não mà thoát ra, đúng lúc siêu chứng được đại giải thoát. Thế nên Thiên Trúc hai mươi tám vị tổ, Đông độ sáu vị tổ, đều đã bước đến, thầy trò giỏi mạnh. Cơ cảnh ngôn cú động dụng nói im có thượng thượng thừa khí, cách ngoại lãnh lược. Ngay đó nghiệp chướng tiêu hết, thẳng cắt đứt gánh mạng. Ngoài ra luôn phải tự quản nhồi thành một khối, vượt thoát dòng đời khế nhanh Phật địa, còn chẳng chịu hướng vào nước chết mà ngâm tẩm. Nói ra thấu huyền diệu, vượt Phật tổ, tước bỏ cơ duyên, cắt dứt khế cơ, như chống kiếm Thái A, lẫm liệt oai thần có ai dám gần. Bậc tác gia xác thật luận lượng. Vừa có hướng thượng hướng hạ thắng diệu tánh lý tác dụng mảy may thì liền hét. Chẳng phải từ xưa trồng cỏ ngay đấy mười thành. Rèn luyện được nóng, giẫm đạp được thật, mới cùng (cho) lược bỏ qua. Cũng sợ lúc khác lạc cỏ phụ lụy người, làm mù mắt Chánh pháp nhãn. Than ôi, thấy một dòng họ chồn mù, tự chẳng từng mộng thấy Tổ sư, tức vọng truyền Đạt-ma đem thai tức truyền người. Gọi đó là truyền pháp cứu mê tình. Cho đến dẫn từ trên các tông sư lớn tuổi như An quốc sư hay Triệu Châu đều làm khí này. Kịp khi khoe Sơ tổ một chiếc dép, khắp bày quan (phổ hóa?) tài trống, đều nói thuật này có nghiệm, bèn đến hồn thân thoát đi, gọi đó là hình thần đều diệu, mà người nhân gian rất yêu thân này, sợ cái sợ đêm ba mươi tháng chạp, tranh truyền pháp qui chân. Đêm khác nhìn ảnh gọi chủ nhân ông, lấy bói nhật nguyệt mà nghe trống lầu, nghiệm ao ngọc mà thấy nhãn quang làm pháp thoát sinh tử. Thật giả hài hước làng xóm, ngụy tạo nắm hang sơ tổ mà nói, bài mười hai giờ của Triệu Châu mà ca, Bàng cư sĩ chuyển hà xa (xe nước) mà tụng. Kịp đến cùng chỉ trao mật truyền hành trì, mong được nhiều năm (sống mãi), kịp khi toàn (cho đến khi) thâu thoát đi, hoặc mong ba trăm, năm trăm tuổi. Rất chẳng biết. Đây thật là vọng tưởng cứ kiến vốn là thiện nhân, chẳng biết là đọa vào cỏ hoang, mà kẻ giỏi dang tuấn kiệt, nói cao biện lớn coi thấp các Tổ sư thường thường tin theo. Há biết bước chẳng nhìn thì vẻ cọp thành chồn gặp kẻ trí thức (có biết) Đại Đạt Minh Nhãn thấy phá ở thường. Trong chúng chỉ im lặng quán thương xót há Thích-ca Văn (Phật Thích-ca) cùng thể tài các Tổ chỉ nhãn thức thôi ư? Từng chẳng tự hồi chiếu trước sau thì yên lành liền biết. Người trong nước học Đạo này như lúa mè tre trúc, người cao thức thấy xa tự chẳng do dự. Sợ chỉ chợt phát ý chưa vào chỗ sâu kín. Cố chí tuy chuyên, bước khắp tuy xa. Gặp kẻ Tăng thượng mạn dắt vào rừng tà kiến này. Chưa nêu lên một lầm mãi mất hồi chuyển. Hạng ấy ngâm rộng không thể ngăn cấm. Nhân nói ra lời này có nhiều chí nguyện ở Đại giải thoát, Đại tổng trì. Có thể biện ra mà vào biển Đại Tát-bát-nhã Vô Sinh, thả thuyền nhỏ tiếp cứu quần phẩm khiến Đạo chân chánh truyền mãi vô cùng, há chẳng vui sướng sao?

Biện Ngụy (Luận chỗ dối trá) – Bình sinh già này đã trải qua nhiều lớp Thiền, khắp tham tri thức đã nghiên cứu kỹ các Tông phái, tuy chẳng thấu suốt tất cả nhưng mười thì cũng được tám, chín. Cũng thông hiểu việc chỉ dạy học trò tự chẳng vội vàng. Chẳng biết người nào trộm lấy tên học rộng, nghe nhiều của Sơn Tăng bèn đem làm loạn đạo. Vì chỗ Sơn Tăng nói ra, nhìn kỹ thì khiến người đỏ mặt xuất hạn, huống là già tôi chưa chết, sớm đã thấy bừa bãi như đây, xin mời các nạp tử có trí tuệ xem kỹ, chớ nhận lầm mắt cá là minh châu.

* PHẬT SỰ

* Vì Trí Hải Pháp Chân Hòa thượng nhập khám.

Thích-ca thị tịch ở rừng Song thọ, ngồi yên Kiết tường, ngài Pháp Chân Trí Hải cáo chung, ngồi thẳng hàng trên, bốn mươi năm Đạo giá, bảy mươi mốt sinh duyên. Đức khắp hoàn vũ, tiếng vang hải ngoại. Người trời kính trọng, Thành đô thôn quê đều tôn sùng. Những mong luôn làm thềm bậc thuyền bè, thắp sáng mãi Phật tổ, há hẹn trong bận rộn mà bó tay, trong ồn mà quay mình, cuối cùng ở Đế đô mà làm đại Phật sự. Nay thì chưa chôn cây ngọc trước vào khám mây, công án hiện thành phải đến một quyết. Đại chúng Nhân Hạnh chẳng ngại ra tay, tài khéo chẳng bằng làm gương, là điềm lành vô biên vô lượng. Thỉnh lão Hòa thượng trở về phương trượng.

* Vị Phật Nhãn Hòa thượng Cử Ai.

Ba mươi năm hành đạo, người bậc nhất trên biển khi suy vi (thổi tan nói đi?) chỉ thấy chẳng chua cay. Tuy như thế, cần phải biết Phật nhãn chưa từng sống chưa từng chết, chưa từng đi, chưa từng lại, chính cùng lúc nào như thế. Bèn chỉ khám nói rằng: Ta cùng Tuyết Phong đồng sống, không cùng Tuyết Phong đồng chết. Phải biết câu cuối cùng rành rõ khắp thỉnh đại chúng cùng lên tiếng. Bèn nói thương thay.

* Vì Phật Hòa thượng châm lửa lễ trà-tỳ.

Như Lai ngày Niết-bàn ở rừng Ta-la Song thọ phóng ra lửa Tammuội, tự trà-tỳ thân sắc vàng. Có điều vin điều, không điều vin lệ. Cho nên Bảo Sơn Phật Nhãn Thiền sư, Đạo khắp bốn biển, danh vang chín châu, hai mươi năm cai quản Đại sát (chùa lớn), lui về núi Bảo ngồi yên non Chung, vì bình sinh thọ dụng cỏ tất lật làm trâu đuổi người cày (trâu cày không người chăn?), vì Dương Kỳ phó chúc Kim cang quyển, cướp cơm người đói truyền giữ đại sự, đề lên cơ hướng thượng, nạp tử Vân Tùng (như mây từ) các phương kính mộ. Há gọi trong một nháy mắt quét sạch Báo Hóa Phật. Trong lúc nói cười, vội mất chánh nhãn trời người. Nay thì càn khôn rộng vắng, người cảnh tiêu điều, tuyết chiếu núi cao, gió lùa đồng trống, trên viên đảnh phóng ra ánh sáng thần xa vạn dặm. Đại chúng lại cùng lúc nào hiểu rõ chăng. Xem lấy trong ánh lửa đỏ khắp trời phát ra hoa ưu-đàm, cả đại địa đều là mùa xuân.

* Vì Diệu Thiền nhân, châm lửa trà-ty.

Ngày hôm qua một cái chánh đáng thương, sáng nay một cái lại thê lương. Quay mình đạp lên đường Tào Khê, Diệu thể đường đường mất thay đổi. Diệu sư thích tham thiền, Tổ Phật đều sánh vai đòi hỏi phải đi đâu, một đóa sen trong lửa, sống thì mây nổi bỗng sinh ra, chết thì không hoa lặn mất. Sau đảnh tròn đồng Thái hư, rốt ráo không tâm không Phật. Này đại chúng, xem lấy một đạo Hồng quang (luồng sáng đỏ) đốt phá hang ổ vô sinh.

* Vì Phật Chân Đại sư châm lửa trà-tỳ.

Chạm mắt đều Bồ-đề Chân giải thoát, Chánh nhãn trên đảnh môn chiếu khắp trời đất, thấu được cửa sinh tử, rộng lớn không khởi diệt. Phật thật là Đâu suất sinh bình giọt nước giọt đông giá, mạnh mẽ cắt đinh chặt sắt, cả đời đều trọng người ấy, nghe thấy đều kính nghe, trong bụi rậm nội thị nhảy ra. Nạp Tăng ở trong đội tu hành, tên vực Thánh gậy Huy, Hoàng hậu ban Độ điệp, làm kinh sợ mọi người, không ai sánh bằng. Sắp gọi là vạn dặm đường trước há hẹn trong khoảnh khắc trăm năm. Nay thì quay mình ra đi mãi mãi, ra khỏi kim cương quyển cỏ tất lật. Viên Quang sau đảnh ứng hiện đống lửa lớn vô sinh. Phật thật Phật thật, gập để mắt gánh lấy vân trình, một đuốc lửa hồng vừa cất lên, trên đảnh Tỳ-lô mặc sức ngang dọc.

* Vì Phạm Hòa thượng, châm lửa trà-tỳ.

Trung Thần (tôi trung) chẳng sợ chết, cho nên hay lập được việc lớn trong thiên hạ. Kẻ dõng sĩ chẳng ham sống cho nên hay thành danh lớn trong thiên hạ. Nạp thoát sinh tử chẳng sợ hiểm nguy chết chóc, cho nên hay lập được kỷ cương Phật tổ. Chiêu Giác Hòa thượng Thần cơ cao tột, trí biện tung trời cao, dưới tay có bùa (lệnh phù) trên đảnh môn đủ mắt, ý khí hăng hái hét tan mây trắng, kiềm búa đánh phá hư không, một về quan gấm, lưỡng trụ hùng sát, mở mang đường gai gốc, quét sạch cửa thị phi. Tiếp vật lợi sinh, khêu sáng mặt trời Phật, lên chỗ cao (chót vót) dẹp hết liền đi, dứt ánh sáng trước đầu chánh đuôi chánh. Như nay đã đến chỗ ấy, có thể gọi là duyên đời đã đủ, cuối cùng ân cần cắt đứt hết, đầu đường một đống lửa to. Đại chúng lại nói: Cuối cùng thì đi về đâu. Dâng cao đuốc lửa lên nói rằng: Đốt cháy tất cả trời lưu không được, trăng báu trên không mãi sáng tròn.

* Vì Tăng qua đời châm lửa trà-tỳ.

Đầu núi năm uẩn đường Niết-bàn, bốn phương tám hướng mất rào ngăn, toàn thân đều là mắt Kim cang một hạt linh đơn trong lửa đốt.

Trọn bộ hai mươi quyển.