VÌ ĐÂU TÌNH DUYÊN LẬN ĐẬN
(Chuyện tình nhiều kiếp của cư sĩ Nguyên Trí – TP Huế)
Diễn đọc: Huệ Tâm

 

 

VÌ ĐÂU TÌNH DUYÊN LẬN ĐẬN

Là một đệ tử Phật, nghe giảng giáo lý nhiều, tu tập nhiều, tôi biết yêu là khổ. Nhưng là một con người bình thường, tu chưa chứng gì cả, nên tôi chẳng cưỡng lại được sự rủ rê của tình ái.
Ngay lần đầu gặp mặt, nhìn vào đôi mắt cô ấy, tôi thấy như một tia sét đánh thẳng vào tim mình. . . Thế là, tôi đã yêu !!!

Đó là một ngày đẹp trời năm 32 tuổi, số phận nghiệt ngã đã đưa tôi đến với nàng. Làm quen với nàng một thời gian, tim tôi như bị sét đánh lần thứ hai, khi biết rằng cô ấy đã đính hôn với người khác. Nhọ thật !

“Nếu biết một mai em lấy chồng.
Anh về đóng cửa, vận nội công.
Quyết tâm thiền định, rửa tâm trí
Xóa tên người ấy cho nhẹ lòng.”

Bị sét đánh mấy lần như vậy, thành ra con tim tôi rất khổ sở, nó cứ nhói đau từng cơn khi nghĩ về nàng, chẳng kìm chế được.

Thử nhiều cách giảm đau khác nhau, như Panadol, Efferalgan 500… nhưng thất bại, tôi đành cứ để mặc cho nó hành hạ tâm can mình.

Đến khi không chịu được nữa, tôi đổi chiến thuật. Tôi quỳ trước tượng Quán Thế Âm Bồ Tát, tụng kinh lạy Phật, cầu xin chư Phật gia hộ cho tôi biết, kiếp trước nguyên nhân gì mà nay tôi lại đau khổ như thế này, mong chư Phật gia hộ cho tôi biết cách hóa giải.

Quỳ được một lúc, chịu không nổi, thành ra tôi nằm ra đó mà niệm Phật, trông rất là vật vã. Nhưng tâm vẫn rất chí thành chứ không phải dạng hời hợt.

Bỗng, lạ chưa, tôi thấy một luồng ánh sáng phóng đến. Tâm vẫn tỉnh táo, chứ không phải ngủ mê, tôi thấy Phật hiện ra, không phải một vị, mà là ba vị.
Ở giữa là Đức Phật Thích Ca, bên trái là Quán Thế Âm Bồ Tát, bên phải là Đại Thế Chí Bồ Tát. Được một lát thì các ngài biến mất.

Hôm sau nữa, khi tụng kinh xong, tôi bắt đầu ngồi thiền như thường lệ. Nhưng hôm ấy, lại một hiện tượng kỳ diệu đã diễn ra, hẳn là chư Phật đã đáp ứng lời cầu nguyện của tôi : thấy tiền kiếp !

Tôi vẫn đang thức, xong những hình ảnh rõ mồn một vẫn hiện ra trước mắt như một cuốn phim trình chiếu trong tâm. Từng cảnh từng cảnh nối nhau sống động, chân thực về những tiền kiếp của tôi. Sau này tìm hiểu, tôi được biết cũng có khá nhiều người có trải nghiệm tiền kiếp trong lúc thức giống như tôi.

Kiếp đầu tiên tôi nhớ lại, tôi thấy mình là một con bướm hồ điệp rất đẹp, lượn bay tung tăng trong rừng hoa cùng với một con bướm xinh xắn khác. Hai con bướm ân ái, khăng khít bên nhau. Nhưng chẳng bao lâu chúng đều chết, vì tuổi thọ của bướm rất ngắn.

Một kiếp khác lại hiện ra, hai con bướm đã đầu thai thành người. Tôi đầu thai thành một công tử hào hoa, chú bướm còn lại đầu thai thành tiểu thư đài các. (Đùa tí thôi, thực ra gia cảnh tôi khi ấy cùng bình thường) Thời gian trôi qua, chúng tôi trưởng thành, gặp gỡ nhau và yêu nhau.

Nhưng trớ trêu thay, hai gia đình tôi khi ấy đã phản đối cuộc tình này. Họ ép tôi cưới một cô gái khác. Đó là vào thời phong kiến nên lễ giáo rất nặng, hôn nhân của con cái là do cha mẹ quyết định. Tôi đành ngậm ngùi kết hôn với cô gái mà cha mẹ tôi ấn định.

Ngày cử hành hôn lễ, họ hàng hai bên có đến hơn trăm người đến dự vui vẻ tưng bừng. Và cô người yêu của tôi cũng đến, vẻ mặt nàng u buồn, nhưng ánh mắt lại toát lên một tia lạnh lùng.
Tôi thoáng giật mình, vì tôi biết tính nàng rất liều lĩnh, nàng lại luyện võ từ nhỏ, và kiếm pháp của nàng cực kì lợi hại. Tôi biết điều đó, nên tôi bắt đầu lo lắng, không biết nàng dự tính làm điều gì.

Quả nhiên, điều tồi tệ nhất đã xảy ra. Nàng bất chợt đứng dậy, rút ra thanh kiếm nãy giờ vẫn giấu trong người. Nhanh như chớp, nàng vọt tới bên cạnh cô dâu. Không nói lời nào, nàng vung một nhát kiếm, ánh kiếm lóe lên như chớp lòa, một dòng máu đỏ thắm phun ra, và cô dâu chết ngay tại chỗ.

Tất cả những người có mặt sửng sốt tột độ, chết lặng trong giây lát. Rồi ào ào như một dòng thác, với tốc độ nhanh nhất có thể, họ nhất loạt ào ào vùng dậy, bỏ chạy thục mạng, chạy trối chết . Đám cưới chỉ vài giây đã như bầy ong vỡ tổ.

Xui thay cho họ, cô bạn gái oan nghiệt của tôi thân thủ quá nhanh, quá nguy hiểm. Chỉ trong nháy mắt đã đuổi kịp. Từng nhát, từng nhát kiếm lóe lên loang loáng. Theo sau đó là khắp nơi máu tuôn xối xả, những tiếng la hét thất thanh, những gương mặt hoảng hốt tột độ…

Loáng một cái, cả trăm xác người đã nằm xuống. Một đám cưới đang vui vẻ, bỗng chốc biến thành biển máu.

Người duy nhất còn đứng lại là chính tôi. Quá sức bàng hoàng, tôi cứng đờ người, run rẩy nhìn cảnh tượng hãi hùng.

Thảm kịch này là do tôi mà ra. Vì tôi mà cha mẹ, họ hàng thân quyến cả hai bên gia đình đều chết thảm. Tôi biết phải làm sao đây ? Oán hận nàng ư? Nhưng như thế cũng không thể khiến mọi người sống lại. Tôi phải làm thế nào để đối diện với những người đã nằm xuống ?

Cứ thế tôi nằm vật vã, tâm can dày vò, sống mà còn khổ hơn chết. Tôi chỉ còn biết bám víu vào câu niệm Phật. “Nam Mô Đại Bi Quán Thế Âm Bồ Tát ! Nam Mô A Di Đà Phật ! …” nhưng cơn đau vẫn không dứt.

Cuối cùng, tôi nghĩ quẩn, quyết định tự sát để đi cùng với mọi người.

Tôi đi đến trước một bờ vực sâu, định sẽ nhảy xuống. Nhưng đúng lúc tôi định bước chân, thì trên hư không hiện ra một vị mặc áo trắng.

Tôi giật mình nhận ra, đó là Quán Thế Âm Bồ Tát. Ngài từ ái nhìn tôi, và bắt đầu giảng giải những đạo lý về khổ, về vô thường.

Liền đó ngài biến mất, nhưng những lời dạy của ngài vẫn còn văng vẳng trong tâm, giúp tôi lấy lại được dũng khí để sống tiếp, để đối mặt với thực tại. Tôi quyết định không tự sát nữa.
Hình ảnh tan biến, kiếp đó ra sao nữa tôi không biết. Và rồi tôi thấy một kiếp khác hiện ra.
Ở kiếp sống đó, tôi với cô người tình bạo lực ấy lại gặp nhau, rồi yêu nhau. Sau vụ thảm sát ở hôn lễ, cô ấy có vào địa ngục hay chịu quả báo gì không, thì tôi cũng không biết, có thể là có, chỉ là tôi không thấy mà thôi.

Khá hơn kiếp trước, chúng tôi không bị cha mẹ ngăn cản, cuối cùng vẫn lấy được nhau.
Khi đó, cô ấy có nuôi một con heo, thường ngày cô ấy rất thương nó, luôn tự tay cho nó ăn, tắm rửa, chăm sóc chu đáo cho nó từ nhỏ đến lớn.

Thế nên con heo rất quý mến cô chủ. Ấy thế mà đến ngày cưới, con heo yêu quý của cô vẫn bị lôi ra để làm thịt đãi khách, phũ phàng thay !

Ngay khi nhìn thấy cảnh tượng con heo bị làm thịt. Một tri giác xuất hiện, cho tôi biết luôn : con heo đó chính là chồng sắp cưới của nàng trong kiếp hiện tại.

Mọi chuyện ngay đây rõ ràng, tôi đã hiểu được nguyên nhân vấn đề.

Tôi và nàng nhiều kiếp đã có duyên làm vợ chồng, làm người yêu, nên bây giờ vừa gặp mặt, duyên xưa thúc đẩy khiến tôi yêu nàng ngay cái nhìn đầu tiên.

Nhưng con heo kiếp xưa, nay đã đầu thai thành người, mới chính là chú rể, mới là người kết duyên trăm năm với nàng, vì rằng có một món nợ rất lớn giữa nàng với anh ta. Còn tôi, tôi chỉ có duyên chứ không có nợ, nên chỉ dừng lại ở một tình yêu đơn phương mà thôi.

Nhưng giả sử tôi với nàng đến được với nhau, thì sẽ ra sao ? Chuyện tình này đã đi qua nhiều kiếp, lúc hợp lúc tan. Dù được ở bên nhau, nhưng rồi chẳng phải cũng vẫn phải chết, chịu cái khổ của sinh ly tử biệt đó sao ?

Đã vậy còn gây thêm bao nhiêu nợ máu, bao nhiêu nghiệp chướng với những người khác, dù là hàng trăm người bị nàng giết thảm vì một cơn ghen, hay là con heo cùng những những sinh vật khác bị giết trong bữa tiệc cưới để làm vui lòng thực khách, thì cũng đều là nghiệp chướng.
Chính nghiệp chướng này tạo ra vô biên đau khổ cho chính tôi, mà nỗi đau thất tình tôi đang gánh chịu, chỉ là một phần nhỏ trong đó.

Hiểu ra rồi, nỗi buồn trong tôi cũng nguôi ngoai dần. Tôi bừng tỉnh, nhận thấy lời Phật dạy chẳng sai chút nào. Đời là biển khổ ! Còn quanh quẩn trong cái biển khổ này, thì chắc chắn sẽ bị nó dày vò dài hạn, không bằng cách này thì cách khác.

Vừa sinh ra là đã cầm chắc cái chết, vì đã có ai sống mãi không chết bao giờ đâu ? Ở khoảng giữa sinh ra với chết đi, cuộc đời nó giăng sẵn đủ thứ loại khổ khác, giống y hệt một trận đồ Bát Quái của lão Khổng MInh, có vào không có ra.

Nào bệnh tật, nào thất bại, nào mất mát… Nay thất nghiệp, mai thất tình, rồi lâu lâu thất điên bát đảo.

Bao mệt mỏi vì đua chen, giành giật miếng cơm manh áo với đời, rồi thì một ngày nào đó cũng suy tàn. Chứ thành công có ở mãi với ai đâu, cùng lắm đến lúc chết cũng sẽ tan biến hết thôi.
Chung quy lại, sắc màu chủ đạo của kiếp sống, đó là màu u buồn của những nối khổ. Ấy vậy mà đại đa số vẫn cứ thích đi loanh quanh trong biển khổ này. Vì sao vậy ? Vì cuộc đời còn những niềm vui: Mua sắm, du lịch, yêu đương, tình dục, danh, lợi, tiền tài, quyền lực…

Chúng có mặt ở đó, đúng, đời có những niềm vui, nhưng ít hơn nhiều so với đau khổ. Đã vậy lại rất nhanh tan biến, vì một cái gọi là chán.

Vất vả lắm mới tạo ra được những niềm vui, ấy vậy mà khi tận hưởng niềm vui, con người ta lại rất nhanh chán. Mà nếu không chán, thì cuộc đời vốn luôn thay đổi không ngừng, có đó, rồi mất đó, không gì còn mãi cả.

Niềm vui khi có được cái gì đó, sẽ được thay thế bằng nối khổ khi mất nó đi. Oái oăm thay! Cái từng làm mình vui, sẽ biến thành nỗi khổ khi nó không còn nữa.
Và dường như, niềm vui, chúng đóng vai trò giống hệt như những con giun móc lưỡi câu bên trong. Rất khéo léo, chúng dụ ta cắn câu. Mà như cá đã cắn câu rồi, biết đâu mà gỡ ? Bẫy nhau đây mà.

Chúng khiến người ta tạm thời quên đi cả một biển khổ trùng điệp, đầy rẫy mà lao mình vào hưởng thụ vui thú. Cái hưởng thụ vui thú này, kinh Phật gọi là Ái, nó khiến cho con người ta muốn ở lâu trên cuộc đời. Mà đời là bể khổ, nghĩa là nó khiến con người ta muốn ở lâu trong đau khổ.

Thì ra là thế. Đức Phật thật trí tuệ, ngài đã chỉ rõ điều này từ lâu lắm rồi, Ngài nói:
“ Các dục lạc thế gian, vui ít, khổ nhiều, não nhiều, sự nguy hiểm lại càng nhiều hơn”
Vậy nên Phật dạy cần phải tu để giải thoát luân hồi đau khổ. Tiếc là không phải ai cũng đủ trí tuệ để hiểu ra vấn đề mà Đức Phật dạy.

Không ! Phải tìm cách thoát ra thôi ! Tôi không muốn kép dài thêm những đau khổ của luân hồi này.
***

Khi tâm lý đã ổn định, tôi tiếp tục hành trì tụng kinh, duy trì thời khóa. Điều kỳ lạ là những hình ảnh về tiền kiếp không dừng lại.

Trong lúc hành trì tụng kinh niệm Phật, tôi tiếp tục lại thấy những cảnh tiền kiếp hiện ra. Sẽ có người cho rằng tôi đơn giản là bị ảo giác. Nhưng nếu là ảo giác, thì chúng sẽ chẳng có quy luật gì cả. Còn những gì tôi thấy luôn bám sát với luật Nhân quả. Nhờ thế tôi hiểu ra những uẩn khúc trong cuộc sống của mình, nguyên nhân là do đâu.

Một lần đó, thấy lại kiếp quá khứ, khi ấy, tôi là một con chim đại bàng đang bay lượn trong pháp hội thuyết pháp của đức Phật Thích Ca. Không phải đại bàng thường, mà là Kim Xí Điểu, một trong Thiên Long Bát Bộ, luôn theo hộ trì Phật Pháp. Tôi cảm nhận được lòng từ bi và uy lực vô biên của Phật, nên tôi muốn bay đến để hộ trì cho pháp hội của ngài, không cho kẻ nào phá hoại.

Bất chợt khi ấy, có một con dơi bay ngang qua đầu đức Phật, không hiểu nó nghĩ thế nào mà nó lại phóng uế một bãi lên người đức Phật.

To gan ! Sự vô lễ ấy khiến tôi điên tiết, lập tức tôi đập cánh phi đến. Phập ! Một cú mổ nhanh như chớp, và con dơi chết ngay lập tức. Haizz… thế là phạm tội sát sinh rồi. Thiện tai ! Thiện tai

Hình ảnh thay đổi qua một kiếp sống khác, chim đại bàng – tức là tôi, đã đầu thai thành người, là một vị tướng quân ở Trung Quốc. Còn con dơi, cũng đã đầu thai thành người, làm quan văn, cùng trong một triều đình với tôi – tướng quân.
Do kiếp trước tôi giết hắn ( vụ đại bàng mổ chết dơi đó) oan gia gặp lại, tên quan văn kia luôn xem tôi như cái gai trong mắt, lúc nào cũng muốn đối đầu với tôi.

Theo lệnh vua, tôi thống lĩnh ba quân, chinh chiến khắp nơi. Năm này qua tháng khác, lập nhiều chiến công, mà như ai cũng biết “nhất tướng công thành, vạn cốt khô”, đằng sau những chiến công hiển hách lưu danh của một vị tướng, là hàng vạn xương cốt khô của binh lính chết trận. Nghiệp chướng chất chồng, oan oan tương báo, những cảnh “đâm qua giết lại” từ đó sinh ra không biết đến khi nào dứt. Quả nhiên…

Một thời gian sau, tên quan văn ở nhà dèm pha với vua, vu cáo tôi đủ điều. Thế nào mà vua lại tin lời hắn, cuối cùng lại đem tôi ra xử tử. Oan uổng quá, Bao đại nhân ! ( Đùa thôi, thời đó không có Bao Công) Thế là hết một kiếp người…

Ngay đây, tôi chợt sững sờ, tôi đã nhận ra con dơi bị tôi mổ chết đó, cũng là tên quan văn kiếp trước hại chết tôi là người nào trong hiện tại. Hóa ra, đó là một bà cư sĩ công quả trong ngôi chùa mà trước kia tôi Quy Y.

Đó là hồi tôi 25 tuổi, sau một thời gian tìm hiểu Phật Pháp, tôi làm lễ Quy Y tại một ngôi chùa ở Huế. Trong bảy năm sau đó, tôi cố gắng tinh tấn tu hành, sám hối tụng kinh Phổ Môn, kinh Cứu Khổ…

Ở chùa ấy, có một bà cư sĩ công quả đã nhiều năm. Mới vừa gặp thôi là bà ấy đã ghét tôi ra mặt. Có lẽ bà ấy không biết kiếp trước bà ấy từng làm dơi bị tôi mổ chết, nhưng nhân quả là thế, có oan có nợ, nhìn nhau thôi là cũng gai mắt rồi.

Ngày này qua tháng khác, bà ấy luôn tìm cách cản trở tôi đến chùa tu học. Khi thì bà ấy nói xấu sau lưng tôi, khi thì chửi bóng chửi gió, khi thì đóng sầm cửa chùa lại khi thấy tôi đến, khi thì lấy chổi quét đuổi tôi ra.

Mâu thuẫn giữa tôi với bà ấy ngày càng tăng, gây gổ cãi nhau, chửi bới nhau. Cuối cùng tôi chịu hết nổi, đành bỏ chùa không tới lui nữa.

Bây giờ thì tôi đã hiểu, nguyên nhân thực sự của chuyện này. Trên đời này, không vô duyên vô cớ mà người này ghét người kia đâu các bạn, thể nào cũng có oan trái gì đó trong kiếp quá khứ, chỉ là vì đầu thai không nhớ được mà thôi.

Bạn thấy mệt mỏi vì những tình tiết dài dòng này chưa ? Luân hồi là vậy đó bạn, rất lê thê và luẩn quẩn. Hãy cố kiên nhẫn đọc tiếp, vì tôi còn nhớ lại nhiều kiếp, mỗi kiếp đều liên hệ với những người tôi gặp trong kiếp hiện tại này.

Lời Phật dạy thật chí lí, tất cả chúng sinh đều từng là bà con thân quyến nhiều kiếp của ta trong vô lượng kiếp. Hễ đã gặp gỡ thì ắt hẳn có có duyên nợ gì trong tiền kiếp.
Như vợ tôi bây giờ, chắc chắn không thể không duyên, không nợ mà tôi có thể kết hôn với cô ấy. Để tôi kể cho bạn nghe, câu chuyện thế này…

Hồi đó, sau mối tình đơn phương như đã kể trên, buồn và chán nản, tôi bỏ về quê.
“Vợ con là cái nợ nần
Thà rằng ở vậy, nuôi thân béo mầm”

Tôi tính ở vậy sống độc thân luôn, lo phụng dưỡng, báo hiếu cha mẹ tới già. Nhưng rồi tôi lại gặp một cô gái…
Không biết duyên kiếp đưa đẩy thế nào, xong kế hoạch “ở vậy nuôi thân béo mầm” của tôi đã bị cô gái ấy tịch thu. Đám cưới được tổ chức sau đó không lâu.
Một lần, trong khi công phu tụng kinh niệm Phật, tôi nhớ lại, một kiếp xưa, tại vùng núi hẻo lánh, chắc là thời phong kiến, vì tôi thấy trang phục như trong phim cổ trang vậy.
Tôi và người vợ hiện tại, khi ấy cũng kết duyên phu thê, sống những tháng êm đềm bên mái tranh đơn sơ ven núi vắng.
Thì ra là vậy, có duyên từng làm vợ chồng từ quá khứ, thì nay, rất có thể lại tiếp tục kiếp phu thê. (Thực ra, tôi nhớ được 6-7 kiếp nữa, chúng tôi cũng đều là vợ chồng cả, xong khá là dài dòng, nên thôi, hẹn các bạn ở phần khác tôi sẽ kể.) Thủa đó chúng tôi ngày ngày kiếm củi, bắt cá nuôi thân, đạm bạc qua năm tháng…
Một hôm, tôi bắt được một con cá bống. Nó trông sáng láng hơn những con cá bình thường, không biết do nó có tu, hay do người ta phóng sinh, tụng kinh trì chú cho nó, mà nhìn nó rất đẹp, và quan trọng là nó có thần thái. Tâm linh của nó hẳn mạnh hơn những con cá bình thường. “Mà thôi ! – khi ấy tôi nghĩ – Cũng chỉ là con cá, đem kho là no một bữa”

Chắc là con cá bống ấy nó hận tôi lắm. Ngay đó, một tri giác xuất hiện, cho tôi biết con cá ấy đã đầu thai về đâu. Ôi không, nó đã theo tôi luân hồi đến tận kiếp này, đó chính là bà chị thứ ba của tôi.

Tôi sinh ra ở một gia đình làm nông ở nông thôn xứ Huế. Nhà tôi có bốn anh chị em, mọi người hòa thuận với nhau, chỉ trừ tôi với bà chị thứ ba.

Hồi nhỏ tôi nghĩ mãi không thông, thế quái nào, tôi cứ đụng mặt bà ấy là gây lộn, cứ như nước với lửa, như Tôm với Jerry vậy, không vì chuyện này thì chuyện khác. Cả đến tận bây giờ sắp già rồi, chị ấy vẫn liên tục dày vò tôi, gây hấn với tôi không thôi, không nghỉ. Haizzz…chỉ vì một miếng cá kho, giờ thì oan nghiệt to như cái đình.

***
Vậy, thế còn những người có thiện cảm mà chúng ta gặp trong đời ? Xin thưa, cũng đều có nhân duyên ân nghĩa hết.

Tôi nhớ thời sinh viên học ở Đà Nẵng, một lần tôi bị tai nạn giao thông, thương tích đầy người. Khi ấy ở xa nhà, chốn ‘đất khách quê người’ mà lại bị tai nạn, tình hình rất căng.

May sao, bà chủ quán cơm chay mà tôi thường tới ăn rất quý tôi. Biết tôi bị tai nạn, lại không có người thân ở bên, nên bà thường ghé đến chăm sóc thuốc thang cho tôi rất tận tình.

Một lần tôi nhớ lại tiền kiếp ( trong lúc công phu như mọi khi), hóa ra kiếp xưa, bà chủ quán cơm chay ấy từng là mẹ tôi.

Và tôi hiểu ra một điều, những tình cảm ta dành cho nhau trong cuộc sống, nó không hề ngẫu nhiên. Gặp nhau thấy thương, ắt phải có duyên. Không duyên, thì người ta đã bước qua nhau trong hờ hững rồi…

Hồi đó sau khi tốt nghiệp phổ thông, tôi thi ba năm liền không đậu đại học. Chẳng biết phải đi về đâu, cuối cùng tôi quyết định vào Đà Nẵng học trường Dân Lập. Mượn cớ để đi chơi thôi chứ thực tâm cũng chẳng muốn học.

Duyên lành đưa đẩy, đến năm tôi 24 tuổi thì gặp một cô cư sĩ làm nghề bốc thuốc đông y. Cô ấy khoảng 60 tuổi, dù mới gặp nhưng cảm giác như đã quen thân từ lâu. Cô ấy rất quý mến tôi, và không lâu sau thì tôi trở thành đệ tử của cô ấy, theo học nghề bắt mạch, bốc thuốc .

Ngoài ra, tôi còn gặp một chú cũng là thầy thuốc, và cũng rất quý tôi, và dạy tôi rất nhiều về y thuật. Nhờ hai vị sư phụ ấy tận tình chỉ bảo, đến giờ, thì tôi cũng đã có thâm niên trong nghề, có Phòng khám Đông Y riêng.

Một lần, tôi nhớ ra chuyện kiếp xưa. Khi đó tôi là một lão lang y già sống ẩn cư trong một ngọn núi, chuyên bốc thuốc nam và châm cứu chữa bệnh cho dân quanh vùng.

Lão đã già, râu tóc để dài nhìn có vẻ “tiên phong đạo cốt” lắm. Lão có nhận hai đồ đệ, một nam, một nữ, và ân cần dạy dỗ cho đến khi thành tài.

Nhiều kiếp sau, người đồ đệ nữ, còn “vấn vương” theo tôi, làm người thân của tôi đến tận 7 kiếp, khi thì làm mẹ, khi thì làm em gái, khi thì làm bạn học, khi thì làm bạn đạo, làm học trò, rồi có kiếp cùng xuất gia là sư huynh đệ trong chùa…

Đến kiếp này, tôi đã gặp lại hai đồ đệ thủa xưa, không những thế lại còn trở thành hai sư phụ dạy y thuật cho tôi. Thú vị thay luật nhân quả, mình đem gì đến cho người, thì người sẽ đem những điều ấy trả lại cho mình.

Sống hết kiếp này, qua kiếp nọ, chúng ta như đang đóng những vai diễn khác nhau trong một vở kịch bất tận. Khi làm cha, khi xuống làm con. Khi làm thầy, khi xuống thành đệ tử. Khi làm người, làm quan, làm tướng, khi thì chỉ là một loài sinh vật bé nhỏ vô danh…

Những kiếp tôi nhớ được trên đây, chỉ là một vài hạt bụi nhỏ trong sa mạc vô lượng kiếp mà tôi đã trải qua. Và bạn cũng như tôi, cùng tất cả chúng sinh cũng đều như thế.

Kiếp kiếp nối nhau, khi sinh làm kiếp người, xưng ta là người tên như thế. Khi sinh làm thần, xưng ta đây là thần linh, tên như thế. Rồi chết đi sinh làm kiếp súc sinh, một con bướm, một con đại bàng, nghĩ ta đây nay là loài súc sinh, chẳng tên chẳng họ… cứ thế luân hồi, nếm đủ mọi loại đau khổ, sống , rồi lại chết, bệnh tật, già nua, tiếc thương những gì yêu thích đã không còn, bực bội với những thứ đáng ghét cứ đeo bám, buồn vì những điều cầu mong không toại nguyện, và đủ thứ khổ khác dày vò…Địa ngục, quỷ đói, súc sinh, người , thần, thiên nhân, kiếp gì cũng từng sống qua.

Vậy rốt cục thì TA LÀ AI ? Nếu cho rằng ta là người tên như thế, được cha mẹ tên như thế sinh ra, vậy chứ trước khi sinh ra, TA LÀ AI ?

Khi chưa sinh, ta là ảo ảnh mang tên kiếp trước
Sinh ra rồi, ta tiếp bước cảnh ảo gọi kiếp này.
Chết rồi ảo ảnh luân hồi qua kiếp khác,
Lại đem cuộc đời ấy, kiếp ấy gọi là ta.
Những ảo ảnh nối nhau liên tiếp
Ta là cái nào trong vô tận kiếp liên miên ?
Nhân quả tuần hoàn rồi Vô thường tan biến
Chung quy chỉ như các giấc mộng nối liền
Vô biên kiếp hãi hùng và khổ sở
Sinh ra liền diệt mất, có gì sở hữu được ?
Vì tất cả vốn là ảo ảnh hóa hiện
Sao lại nhận ảo ảnh thiên biến để làm Ta ???
Buông hết đi, không ta, không người, không thọ giả…
Không cầu được gì thì sẽ là chẳng mất
CHÂN TÂM thật tướng dần hiển hiện
Không sinh chẳng diệt, Tâm bất biến vĩnh hằng
Bình an vô tận không gợn chút lăn tăn
Là Niết Bàn – tạm đặt tên như vậy
Hết Ta, hết khổ, hết lằng nhằng.
________________
Cũng vào thời kì học y ở Đà Nẵng, tôi biết đến Phật Pháp. Rồi dần dần theo Phật, ăn chay trường, tu hành, cầu thoát ly sinh tử. Tôi thường tụng kinh Kim Cang, kinh Dược Sư, kinh Cứu Khổ, những kinh Đại Thừa khác… và nhiều nhất là kinh Pháp Hoa.

Song song đó, tôi niệm danh hiệu đức Phật Thích Ca, đức Phật Tỳ Lô Giá Na, Phật A Di Đà, Quán Thế Âm Bồ Tát.
Đến khi nhớ lại rất nhiều tiền kiếp, tôi biết mình thực ra đã có duyên với Phật Pháp từ vô số kiếp, nhất là có duyên với ngài Quán Thế Âm Bồ Tát, chính ngài đã gieo duyên, hóa độ cho tôi từ những kiếp còn làm những chúng sinh sơ khai, nhỏ bé như hạt bụi, lần lần tiến lên được thân người mà tu tập.

Rồi có nhiều đời tôi xuất gia làm tăng, rồi cũng từng dự những pháp hội của đức Phật thuyết pháp, dù khi ấy chỉ là một con chim đại bàng.

Những kiếp khác, đa số cũng đều là cư sĩ, một lòng hướng tâm thoát ly khỏi luân hồi, phát lời thệ nguyện, nguyện độ chúng sinh thoát biển trầm luân, nếu còn chúng sinh chịu khổ, thề chưa thành Phật.

Nhờ túc duyên ấy, tôi thường được chư Phật – Bồ Tát gia hộ, gặp nhiều chuyện linh ứng kì lạ, được Bồ Tát dẫn đi thấy nhiều cảnh giới khác như địa ngục, cõi trời…

Nhưng mà đến đây chuyện tôi kể cũng đã dài lắm rồi, phải để dành ở phần tiếp theo thôi ( mà nếu các bạn hưởng ứng, tôi mới kể tiếp nghe). Xin chào và hẹn gặp lại !
(Quang Tử, viết lại từ lời kể sư huynh Nguyên Trí)