VÃNG SANH KHÁI YẾU
Biên tập: Nhóm Liên Hữu Miền Nam Đất Việt

 

Lời nói đầu

Nam Mô Bổn Sư Thích Ca Mâu Ni Phật!

Sau khi Chuyện Vãng Sanh tập 1 và 2 vừa hoàn thành, những ấn phẩm sách đĩa được chuyển tặng nhiều nơi, chúng tôi vô cùng tri ân trước sự nồng nhiệt hưởng ứng chung công góp sức của chư liên hữu xa gần về mọi phương diện vật chất lẫn tinh thần, ngõ hầu kích lệ, xây đắp phần nào Tín tâm làm tư lương cho quý hành giả Tịnh tông trên bước đường trở về quê xưa xứ cũ!

Xét thấy pháp môn niệm Phật cầu vãng sanh rất thích hợp với mọi người, mọi căn cơ; lại phù hợp với mọi hoàn cảnh của thời hiện đại trên mọi lĩnh vực, vô cùng thù thắng vô cùng phương tiện; cũng khế hợp với lòng mong ưa mến thích của mọi giai tầng trong xã hội. Chính vì vậy mà các Ban Hộ Niệm, các Niệm Phật Đường, các Vãng Sanh Đường ào ạt mọc lên như nấm sau mưa. Những khóa tu Phật thất định kỳ 1 ngày, 3 ngày, 7 ngày lần lượt nở rộ như hoa mùa xuân muôn màu vạn sắc lan rộng khắp hang cùng ngõ cụt, làm cho người con Phật lòng rộn rã nỗi niềm tùy hỷ hân hoan.

Trong quá tình sưu tập chuyện vãng sanh, chúng tôi không kềm chế được sự xúc động mãnh liệt qua những ca hộ niệm thành công cực kỳ đơn giản, cực kỳ nhanh lẹ gọn gàng, của một số người trợ niệm mà kiến thức của chư vị ấy lại rất khiêm tốn nhún nhường, họ chỉ giúp người bằng trái tim chân thành mộc mạc, bằng sức lực mới nhìn dường như bé nhỏ tí teo nhưng lại chứa đựng một công năng vĩ đại không bến bờ. Tợ hồ đây chính là hóa thân của chư Bồ Tát trợ duyên thành tựu quả Phật cho những chúng sanh căn tánh chín muồi. Xin chắp tay búp sen cúi đầu hằng thuận trước nghĩa cử cao đẹp thánh thiện ấy, thể hiện mối tương giao trong cuộc sống vốn dĩ vô thường ngắn ngủi của kiếp người; bởi vì giúp cho một người vãng sanh Tịnh Độ tức là giúp cho một người thành Phật!

Song song bên cạnh đó xuất hiện chẳng ít những trường hợp ra đi biết trước ngày giờ, có ánh sáng, có hương thơm, tự tại thong dong trước giờ giã biệt,… nhưng lại không có một dấu hiệu gì của vãng sanh cả! Mà chính con cháu lẫn đồng đạo thân tín của vị ấy đã… nhầm, cứ ngỡ rằng họ thật sự được vãng sanh. Hoặc rất nhiều người cả đời trường chay niệm Phật, sớm chiều lễ bái chuyên cần, vậy mà khi từ trần cõi Lạc Bang không tin tức, ba ác đạo lại có phần. Vì lý do đó chúng tôi không ngại ngần mạo muội biên soạn tập sách này dẫu biết rằng kiến giải của mình hãy còn rất ư thô thiển cạn hẹp, nguyện dâng chút kinh nghiệm nhỏ bé, những mong các bạn đồng hành tránh được sơ suất thiếu sót đáng tiếc, đở tốn thời gian và tổn phí công sức trên bước đường niệm Phật cầu về Tây phương, không cô phụ tấm lòng từ bi của các bậc tiền bối:

“Chuỗi tràng từng hạt lần tay,

Thương cho dương thế còn say luân hồi.

Ngắm mây trắng, quấn lưng đồi,

Xót xa bao kẻ hụp trồi sông mê!”

Tập Vãng Sanh Khái Yếu này được gom nhặt trích tuyển các lời khai thị trọng yếu của các Tổ sư và chư Cổ Đức, rồi sắp xếp lại cho có trình tự mà  thành. Sách tuy sơ lược khái quát nhưng đầy đủ và thiết thực, nhằm cung cấp nền móng căn bản làm tỏ tường nguyên lý nguyên tắc cho những ai niệm Phật thật lòng cầu sanh về thế giới Cực Lạc của Đức Từ Phụ A Di Đà, bất luận quý vị là người đã tu lâu hay mới phát tâm, bất luận là có ăn chay lễ Phật hay không, cũng bất luận là đã thọ Tam quy ngũ giới hay chưa … Chỉ cần hai chữ “thật lòng” muốn về cõi Phật. Kính mong quý vị để tâm nghiền ngẫm! Hằng âm thầm khẩn cầu Ân trên mười phương Tam Bảo, chư Long Thiên Thiện Thần gia hộ độ trì cho chư vị luôn an lòng vững bước để sớm ngày trực đáo đài sen.

Việc làm này nếu có chút ít công đức nào, nguyện hồi hướng cho tất cả pháp giới chúng sinh đồng sanh Tây Phương, đồng thành Phật đạo!

A Di Đà Phật!

Miền Tây, ngày rằm tháng giêng, năm Đinh Dậu (2017).

Nhóm Liên Hữu Miền Nam Đất Việt thực hiện.

CHƯƠNG   1

SINH MẠNG VĨNH HẰNG – CHẾT KHÔNG  PHẢI LÀ HẾT, MÀ CÒN PHẢI TÁI SINH.

A.-Tái sinh là gì?

Tái sinh còn gọi là luân hồi, tức là sự chuyển hóa sự sống của một sinh vật qua nhiều kiếp sau đó. Đây chính là triết thuyết tôn giáo được phát triển cách đây đến mấy nghìn năm. Thuyết này bàng bạc trong dân gian, khắp nơi trên thế giới, ở Ai Cập, Hy Lạp cổ đại, nhất là Ấn Độ. Các tôn giáo như Ấn Độ giáo, Phật giáo, Do Thái giáo và cả những người theo thuyết thần trí học đều đề cập đến vấn đề này… thuyết luân hồi lan truyền hầu như toàn bộ các nước ở Châu Á.

Các nhà nghiên cứu về thuyết luân hồi tái sinh lúc đầu tưởng rằng thuyết này chỉ phát triển ở các nước Á Châu, nhất là vùng Đông Nam Á. Nhưng dần dần họ khám phá ra rằng không riêng gì ở vùng Á Châu mà ở các nước Ai Cập, Hy Lạp cổ đại như nơi vùng ốc đảo xa xăm, thuyết này vẫn bàng bạc trong dân chúng và cả người dân Da đỏ cũng thường tin vào thuyết tái sinh.

Người Tây Tạng tin rằng, vị Phật Sống Lạt Ma của họ khi qua đời sẽ lại tái sinh để chăm sóc dìu dắt và che chở cho dân tộc họ. Cũng vậy, những người Da đỏ Bắc Mỹ Châu tin rằng vị Tù Trưởng bộ lạc đôi khi chọn sự đầu thai trở lại để giúp đỡ những người trong thị tộc. Ngày nay, một số tôn giáo khác tuy nhiên một số người dân ở đây vẫn còn tin vào sự tái sinh. Thường thì họ suy đoán qua giấc mộng, qua lời nói bất chợt của người trong nhà, nhất là của đứa bé. Sự trùng hợp về hình hài, cử chỉ, hiện tượng v.. v… đều được chú ý cẩn thận. Đôi khi họ còn tin tưởng rằng người chết hiện về dù trong giấc mộng cũng bao hàm ý tưởng là họ sắp đầu thai trở lại. Đôi khi họ còn để ý qua dấu bớt, vết sẹo trên da của trẻ sơ sinh. Nếu giống với dấu vết mà người đã chết trước đó có, thì có thể nghĩ rằng người ấy đã lại tái sinh. Cũng có khi họ quan sát đứa trẻ về cách cư xử, ăn ở của nó. Nếu giống với người đã chết thì đó là điều đáng quan tâm. Nhiều người trước khi chết thường trối trăn lại lời ao ước muốn hay không muốn được sinh ra lần nữa…

(trích: Theo loiphatday.org)

B.- Khoa học chứng minh có sự tái sinh

Trong sách sử xưa có ghi lại rất nhiều câu chuyện nói đến sự chuyển kiếp luân hồi. Có bài viết nói nhà thơ tên Lý Bạch đời nhà Đường sau này chuyển kiếp thành Quách Tường Chánh ở vào đời nhà Tống (chuyện này có ghi chép trong “Tống Sử” trang 10 tập 3 quyển 444). Vào thời Nam Bắc Triều vẫn còn có Lương Nguyên Đế, tiền kiếp của ông là một vị xuất gia tên là Miễu Mục Tăng (Chuyện này ghi trong “Nam Sử Lương Ký” ở trang 1 tập 3 quyển 8). Còn có câu chuyện người trời chuyển kiếp, ví dụ như trong “Đường Thư” trang 3 tập 2 quyển 27 có ghi chép câu chuyện của Hoàng đế Đường Đại Tông đời Đường là một vị Thần đến đầu thai.

Trong mấy mươi năm gần đây, ở phương Tây, đặc biệt là Hoa Kỳ, sự phát triển của những ngành khoa học như: Tinh thần y học, Tử vong y học, Tâm lý học, Sinh lý học… thực sự đã cung cấp cho chúng ta rất nhiều chứng cứ khoa học chứng thực con người thật sự có luân hồi chuyển kiếp. Một câu chuyện điển hình, câu chuyện này xảy ra ở Trường Đại học Virginia của Hoa Kỳ. Giáo sư Ian Stevenson, nhà tinh thần tâm lý học nổi tiếng, cả cuộc đời bốn mươi mấy năm đã sưu tập và nghiên cứu hơn 3.000 câu chuyện, những câu chuyện này chứng minh đích thực là có sanh tử luân hồi. Đối tượng nghiên cứu của ông chủ yếu là những em thiếu nhi từ hai đến bảy tuổi. Các em thiếu nhi ở trong giai đoạn có thể nói chuyện được. Các em có thể nhớ lại tiền kiếp của chính bản thân mình. Tình huống được kể ra đều là những chuyện đã xảy ra mấy mươi năm, thậm chí mấy trăm năm trong quá khứ, mà còn có thể miêu tả lại những chi tiết này thật tỉ mỉ và chân thật. Mọi việc đều được xác minh.

Năm 1960, ông đã xuất bản một tài liệu rất có giá trị và đoạt giải thưởng khoa học, có tựa đề “Bằng chứng về các ký ức tiền kiếp” trên Tạp chí Nghiên cứu tâm linh Hoa Kỳ. Bài viết này được xem là khúc dạo đầu cho các nghiên cứu hiện đại về sự luân hồi ở các nước phương Tây. Các trường hợp mà tiến sỹ Stevenson nghiên cứu tập trung vào những đứa trẻ nhớ được tiền kiếp một cách tự nhiên, không cần phải qua thôi miên. Trong mỗi trường hợp, ông ghi chép lại một cách hệ thống các lời nói và hành vi của đứa trẻ. Sau đó ông cố gắng xác định người đã chết theo những gì mà đứa trẻ nhớ được. Rồi ông kiểm tra các sự việc từng xảy ra đối với người quá cố, để xác minh xem chúng có phù hợp với trí nhớ của đứa trẻ hay không. Sau khi sử dụng các phương pháp xác định gian lận để kiểm tra một cách kỹ lưỡng, ông ghi chép lại hồ sơ sự việc. Ông đặc biệt quan tâm đến các vết chàm và dị tật bẩm sinh (nếu có) ở trẻ mà phù hợp với các vết thương và vết sẹo trên người chết (có hồ sơ y tế xác nhận). Phương pháp mà ông áp dụng với hàng ngàn trường hợp là rất chặt chẽ và nghiêm ngặt.

Ông cũng đã xuất bản 10 cuốn sách và rất nhiều tài liệu nghiên cứu, phần nhiều trong số đó đã được các nhà nghiên cứu khác xem là kinh điển trong lĩnh vực nghiên cứu luân hồi. Những nhà khoa học nghiên cứu về luân hồi luôn đánh giá cao tiến sỹ Ian Pretyman Stevenson. Các nhà nghiên cứu thường xuyên trích dẫn các sách và bài viết của ông trong các ấn phẩm của họ. Chính sự nghiêm túc, tác phong thận trọng, và địa vị học thuật xuất sắc của Stevenson đã khiến ông cùng với các nghiên cứu của ông về sự luân hồi rất được xem trọng. Stevenson là tác giả của nhiều cuốn sách, trong đó có các tác phẩm“Hai mươi trường hợp gợi ý luân hồi” (1974), “Những đứa trẻ nhớ được tiền kiếp” (1987),“Luân hồi và Sinh học” (1997), và “Các trường hợp luân hồi của người châu Âu” (2003)…

Giáo sư Stevenson căn cứ vào tinh thần khoa học, dùng hơn 3.000 trường hợp điển hình, lặp đi lặp lại vì chúng ta mà chứng minh luân hồi là thật sự có. Với ông, mỗi trường hợp đều được tiến hành điều tra nghiên cứu tỉ mỉ, một chút cẩu thả cũng không có, cho nên cũng nhận được rất nhiều lời khen ngợi cao độ của giới khoa học, giới học thuật Hoa Kỳ.

Albert de Rochas (20/5/1837- 2/9/1914) Là một sỹ quan chỉ huy quân đội Pháp, đồng thời là một trong những nhà nghiên cứu tâm linh xuất chúng nhất của nước Pháp. Ông nổi tiếng với những nghiên cứu về thôi miên, Luân hồi, và các hiện tượng dị thường. Ông từng là tùy viên Bộ tham mưu quân đội Pháp trong suốt cuộc chiến tranh Pháp – Phổ, và là hiệu trưởng của trường Bách Khoa Paris. Một kỹ thuật thường được sử dụng trong nghiên cứu hiện tượng đầu thai Luân hồi là thôi miên. Đại tá Albert de Rochas là người đầu tiên sử dụng một phương cách có hệ thống để khiến các đối tượng được thôi miên nhớ lại những kỷ niệm trong các tiền kiếp của họ. Rochas thấy rằng ngay cả khi đối tượng không quan tâm tới hiện tượng đầu thai, họ vẫn có thể nhớ được những kỷ niệm của mình từ kiếp trước. Rochas đã tóm tắt các phát hiện của ông trong một tờ báo uy tín ở Pháp, xuất bản năm 1905.

Bên cạnh đó nhà thôi miên Morey Bernstein Năm 1956, nhà thôi miên Morey Bernstein đã xuất bản cuốn sách nổi tiếng nói về sự Luân hồi “Tìm kiếm Bridey Murphy”. Trong đó Bernstein đã trình bày một trong những trường hợp thôi miên của mình. Độc giả và các nhà nghiên cứu đều bị cuốn hút mạnh mẽ bởi những khám phá mới lạ của ông về hiện tượng Luân hồi, khiến phương pháp điều trị bệnh bằng thôi miên bắt đầu nở rộ ở Hoa Kỳ cũng như nhiều nơi khác trên thế giới. Sự hoan nghênh rộng rãi mà độc giả dành cho cuốn sách này chỉ ra rằng công cuộc nghiên cứu hiện tượng Luân hồi đã tìm thấy một địa vị thích đáng trong nền khoa học phương Tây hiện đại, và dọn đường cho những cuộc nghiên cứu sâu hơn sau này về sự Luân hồi.

Tiến sỹ Morris Netherton Đã có hơn 30 năm kinh nghiệm lâm sàng về các Phương thức Điều trị thay thế. Ông xuất bản cuốn sách “Liệu pháp tiền kiếp” vào năm 1978, là cuốn sách đầu tiên trong lĩnh vực Điều trị hồi quy (một biến thể của phương pháp điều trị nhờ tìm hiểu tiền kiếp của bệnh nhân). Kể từ đó ông đã viết hai cuốn sách nữa và rất nhiều bài viết cho sách giáo khoa đại học, tạp chí, và nhiều tờ báo. Tiến sỹ Netherton đã thành lập các Học viện giảng dạy tại Hoa Kỳ, Đức, Hà Lan, Thụy Sĩ, Brazil, Canada, và Ấn Độ. Các lý thuyết của ông được dạy ở các lớp Đại học tại Sao Paulo (Brazil), và Kohn (Đức).

Tiến sĩ Ross cả cuộc đời của ông sưu tầm hơn 20.000 trường hợp thể nghiệm cận cái chết, bao gồm tự bản thân của ông đã có hai lần thể nghiệm cận cái chết. Cho nên ông xứng đáng là chuyên gia nổi tiếng nghiên cứu về thể nghiệm cận cái chết.

Giáo sư Stevenson chỉ trong bốn mươi mấy năm có thể sưu tầm được hơn 3.000 trường hợp tái sinh.

Trong hơn 3.000 trường hợp của Giáo sư Stevenson, ông có thể tổng kết được một số quy luật của luân hồi. Trong đó, ông chỉ ra rằng, con người đang trong luân hồi, nếu như kiếp trước bị dao đâm chết hoặc giả là bị đạn bắn chết, vết thương ở chỗ bị thương đó thường thường ở kiếp sau trên thân thể sẽ lưu lại một cái bớt, vừa sinh ra thì đã có cái bớt. Đối với lý luận này, ông kết hợp quan điểm của sinh vật học với phát hiện của luân hồi học, viết ra tác phẩm: “Where Reincarnation and Biology Intersect”, dịch là “Sự dung hợp của luân hồi học và sinh vật học”. Trong quyển sách này cũng có những trường hợp giống như vậy.

Số người được dùng phương pháp thôi miên để nghiên cứu luân hồi tương đối khả quan. Một số học giả nổi tiếng bao gồm: Chủ tịch của Hiệp hội nghiên cứu tinh thần Hoa Kỳ, Giáo sư nổi tiếng của trường Đại học Brown, Tiến sĩ Ducasse, Tiến sĩ Wambach, Tiến sĩ Fiore, Tiến sĩ Roolger, Tiến sĩ Weiss v.v…

Một số phương pháp thôi miên đầu tiên là các bác sĩ tâm lý dùng phương pháp này làm giảm bớt chứng trầm cảm của một số bệnh nhân tâm lý, có thể giúp đỡ họ nhớ lại những chuyện của bản thân đã xảy ra trước đây rất lâu. Thông thường họ cho rằng, những em bé đã chịu một số chấn thương về tâm lý làm cho họ bị bệnh trầm cảm, dùng phương pháp thôi miên giúp đỡ bản thân họ nhớ lại những chuyện đã xảy ra trong quá khứ, có thể thông qua cách hướng dẫn an ủi của các bác sĩ để tiêu trừ các chứng bệnh về tâm lý. Các bác sĩ tâm lý này lại dùng phương pháp thôi miên giúp đỡ họ nhớ lại những chuyện của các đời trước trong quá khứ. Những bệnh nhân này ở trong trạng thái thôi miên nhớ lại quá khứ đều có thể kể lại rất rõ ràng. Đem những câu chuyện trong quá khứ, cuộc sống trong quá khứ miêu tả lại rất chân thật, rất tỉ mỉ, hợp tình hợp lý, và còn phù hợp với sự thật của lịch sử. Phương pháp này luôn luôn là cách trị liệu có hiệu quả rất nhanh, rất kỳ lạ, giúp đỡ bệnh nhân có thể giải trừ được chứng bệnh về tâm lý, chứng trầm cảm của họ. Phương pháp này trong giới tâm lý y học được sử dụng rộng rãi và cũng rất phổ biến.

Bác sĩ Weiss lúc đầu là học khoa học, ngành y học cổ truyền. Sở dĩ ông từ trước đến giờ không có khái niệm cái gọi là luân hồi, bản thân ông thông qua nhiều trường hợp bệnh như vậy (nhiều ca trị bệnh tâm lý này), dùng phương pháp thôi miên để giúp bệnh nhân nhớ về tình trạng ở kiếp quá khứ, cho nên sau này ông cũng tin sâu chuyện luân hồi mà chẳng nghi ngờ.

Chúng ta biết rằng, trong nền y học cổ truyền phương Tây rất khó chấp nhận khái niệm luân hồi, đều bị giới học thuật cho là phản khoa học. Bác sĩ Weiss đã dùng phương pháp thôi miên trị bệnh cho hơn 20.000 trường hợp, giúp những người bệnh nhớ về tiền kiếp, khi trị bệnh cho nhiều trường hợp như thế ông rất muốn công bố việc phát hiện chuyện luân hồi này ra ngoài, nhưng bởi vì lúc đó Bác sĩ Weiss đã trở thành một vị học giả khá nổi tiếng, nếu như đem chuyện phát hiện việc luân hồi này công bố ra thì nhất định sẽ chịu sự phê bình chỉ trích của giới học thuật đồng nghiệp, nói rằng “Ông là người mê tín, làm sao mà người làm công tác khoa học lại mê tín chứ?”. Cho nên ông đã do dự trong khoảng thời gian bốn năm, cuối cùng thì sự thật được bày rành rành ở trước mắt. Người làm công tác khoa học này không thể không quyết định hy sinh thân mình cho khoa học, cho nên ông đem những phát hiện của chính bản thân mình, như quá trình trị bệnh cho bệnh nhân Catherine, viết thành sách. “Tiền Kiếp Và Hiện Tại” là quyển sách đầu tiên. Kết quả sau khi quyển sách này ra mắt, Bác sĩ Weiss cũng không ngờ lại nhận được tiếng vang vô cùng tuyệt vời. Trong hai năm, quyển sách này liên tục trở thành quyển sách được xếp hạng bán chạy nhất tại tiểu bang Florida – Hoa Kỳ. Bác sĩ Weiss còn nhận được rất nhiều thư của độc giả gửi đến, cũng có thư của những đồng nghiệp của ông gửi đến. Những lá thư này vừa mở ra xem, hóa ra chẳng có lời phê bình và lời chỉ trích nào, trái lại đều là chúc mừng ông có lòng can đảm, công bố một phát hiện như thế, và còn nói với ông: “Những đồng nghiệp trong giới học thuật này họ đã dùng thôi miên để giúp trị bệnh cho rất nhiều bệnh nhân bị bệnh về tâm lý, cũng phát hiện được có hiện tượng luân hồi nhưng họ không dám công bốSau khi nhìn thấy Bác sĩ Weiss công bố ra, đã có sự đồng cảm rất lớn”.

Ngoài chuyện người tái sanh lại làm người (các trường hợp này rất nhiều), cũng có chuyện động vật tái sanh thành người. Như một nhà nhân chủng học Hoa Kỳ là Tiến sĩ Mario, dùng phương pháp thôi miên giúp mấy trường hợp con người nhớ lại chính tiền kiếp của bản thân mình là động vật. Điển hình là trường hợp một người đàn ông người Mỹ khoảng ba mươi mấy tuổi. Ông có một căn bệnh tâm thần. Suốt cả ngày ông đều cảm thấy cô đơn trống vắng, cho nên suốt ngày ông chỉ muốn đi tìm bạn. Tìm gặp được bạn là ăn uống thả cửa, bản thân không thể kiềm chế được khiến cho thể trọng không ngừng tăng lên, cơ thể bị béo phì khiến cho anh ấy vô cùng phiền não, thế là anh mời Tiến sĩ Mario làm thôi miên cho anh, hy vọng có thể giúp anh tiêu trừ được cái căn bệnh tâm thần cô đơn trống vắng này. Trong lúc thôi miên thì người đàn ông này nhớ lại tiền kiếp của mình vốn là một con cá heo. Con cá heo này sống chung cùng với một đàn của nó. Trong đàn cá heo đó, chú cá heo này là thông minh nhất, có trí khôn nhất. Một hôm, đàn cá heo này đang đi kiếm ăn trong đại dương, chú cá heo thông minh này liền phát hiện từ đằng xa có một đàn cá kình sát thủ. Cá kình sát thủ này là một loại kẻ thù thiên nhiên của cá heo. Chú cá heo thông minh này liền nhanh chóng phát ra tín hiệu báo cho những người bạn của mình nhanh chóng chạy thoát thân, nhưng những người bạn này vẫn tiếp tục muốn tìm thức ăn. Chú cá heo thông minh này van nài những người bạn của mình chạy trốn nhưng mà chẳng ai để ý đến chú, cho nên chú đành thất vọng trốn đi một mình. Kết quả là đàn cá heo đó bị đàn cá kình sát thủ ăn thịt toàn bộ, chỉ còn lại một mình chú sống quãng đời cô đơn trống vắng còn lại dưới biển sâu. Đại khái là vì chú cá heo đó có khởi lên một ý niệm thiện lành muốn cứu những người bạn đồng loại của mình, tuy nhiên những chú cá heo kia không nghe lời của chú, nhưng cái ý niệm thiện này là một thiện nghiệp nên khiến cho chú đời này tái sanh làm người. Nhưng khi đã làm người thì không có cách nào để tiêu trừ nỗi ám ảnh tâm lý này, cho nên anh luôn cảm giác cô đơn trống vắng lẻ loi, cả ngày chỉ đi tìm bạn để ăn uống cho thỏa thích, dẫn đến thể trọng không ngừng tăng lên. Trường hợp của anh là như vậy.

Ngoài ra còn có một trường hợp cũng là động vật tái sanh làm người, cũng là một trong những câu chuyện của Tiến sĩ Mario. Câu chuyện như thế này. Có một vị nữ Bác sĩ người Mỹ (chúng ta biết rằng làm Bác sĩ ở nước Mỹ là điều chẳng phải đơn giản), thu nhập thì rất khả quan, nhưng vị nữ Bác sĩ này không đủ chi tiêu, thật sự không đủ cho cô sử dụng. Hóa ra cô đã dùng toàn bộ số tiền đầu tư cho các chú ngựa. Cô yêu thích nuôi ngựa nên làm đẹp cho ngựa bằng mọi cách, bản thân thì cảm thấy rất phiền não vì không thể nào kiềm chế lại được. Sau này mới mời Tiến sĩ Mario tiến hành thôi miên cho cô, mới phát hiện ra tiền kiếp của cô là một chú ngựa, lại là ngựa đua. Chú ngựa này ở nước Mỹ vào khoảng thập niên 20, ở những cuộc đua của các Tiểu bang Miền Nam và khá nổi tiếng. Tên của chú ngựa này là Janet. Trong trạng thái thôi mien cô đều nói ra hết. Sau này qua sự xác minh thì thật sự có chú ngựa đua như vậy. Những trường hợp động vật tái sanh làm người có rất là nhiều. Có người là một con gấu, có người là con trăn, có người là rắn đuôi chuông, còn có người thuộc một loài báo đen, v.v…

Thêm một câu chuyện con người chuyển kiếp thành súc sanh. Câu chuyện này kể về một người biến thành con vẹt. Câu chuyện này xảy ra ở thành phố Bern của Thụy Sỹ. Có một nữ Giáo sư của Trường Đại học lớn tên là Frances. Vào năm vị nữ Giáo sư này bốn mươi chín tuổi thì chồng của cô qua đời. Bởi vì cô cùng với người chồng tình cảm rất mặn nồng, rất tốt, rất thương nhớ chồng, bản thân cảm thấy rất cô đơn, cho nên cô đã mua một con vẹt, cùng với chú vẹt này chuyện trò trong lúc cô đơn. Con vật cưng này có thể cùng chơi đùa với cô. Cô dùng phương thức đặt hàng qua bưu điện để mua chú vẹt. Chú vẹt này thuộc giống rất nổi tiếng, quý giá, vì vậy chú học nói chuyện đặc biệt rất nhanh. Sau này cô mới biết, thì ra ngày mà chú vẹt này được sinh ra cũng chính là ngày mà chồng của cô qua đời. Chú vẹt này sau khi được mua về không lâu thì bắt đầu học nói chuyện. Cô Giáo sư này cũng rất thích chú vẹt liền đặt cho chú một cái tên, đâu ngờ rằng chú vẹt này lại cự tuyệt không chấp nhận. Sau đó chú vẹt này tự chú kêu lên: “Amy, tôi là Amy”. Hóa ra Amy chính là tên của chồng cô ấy. Sau đó, khi chú vẹt này đã học nói được nhiều hơn, học được nhiều ngôn ngữ từ vựng rồi, chú vẹt có thể tự mình chủ động sắp xếp ngôn từ để nói chuyện. Chú bắt đầu nói tiền kiếp của chú là người chồng của vị nữ Giáo sư này. Sau này có mấy vị chuyên gia chuyên môn nghiên cứu các hiện tượng kỳ lạ đến nơi của vị nữ Giáo sư để nghiên cứu chú vẹt này, cuối cùng chứng nhận chú vẹt thật sự chính là chồng của vị nữ Giáo sư này. Vị nữ Giáo sư này đương nhiên rất vui mừng, bởi vì chồng của cô cuối cùng thì vẫn không rời xa cô, cho nên cô thường mang những tấm hình trong cuộc sống trước đây ra, cùng chung với chú vẹt này ngắm nghía để hồi tưởng lại cuộc sống hạnh phúc trước đây. Mối quan hệ nhân duyên này thật sự không thể nghĩ bàn. Vị nữ Bác sĩ này rất ngẫu nhiên dùng hình thức mua hàng qua đường bưu điện, vậy mà có thể “mua” được người chồng trở về nhà. Nhân duyên này lôi kéo sự ràng buộc thật sự bất khả tư nghì, cũng chứng minh được con người luân hồi chuyển kiếp.

Hình thức tồn tại của cuộc sống này nhất định không chỉ là ở hình dạng con người. Đức Phật nói với chúng ta có sáu nẻo luân hồi, bao gồm: trời, người, A Tu La, súc sanh (chính là động vật), ngạ quỷ và địa ngục. Đương nhiên một người nếu làm việc thiện, tu ngũ giới thập thiện, người ấy tương lai sẽ tái sanh vào ba đường thiện. Nếu như phạm giới, tạo nghiệp ác thì người này tương lai sẽ tái sanh vào ba đường ác.

Ở các nước Phương Tây, có những người có khả năng đặc biệt, tiếng anh gọi là “psychic”. Những người này có thể nhìn thấy được tiền kiếp của con người, cái gọi là biết trước được quá khứ vị lai, cho nên đối với việc nghiên cứu luân hồi trong nền khoa học hiện nay thì họ có rất nhiều cống hiến.

Nước Mỹ có một vị có khả năng đặc biệt rất nổi tiếng, tên của ông là Edgar Cayce. Vị này sinh vào năm 1877, mất vào năm 1945. Trong lịch sử của nước Mỹ, có thể nói ông là một người có khả năng đặc biệt nổi tiếng nhất, dùng phương pháp thôi miên tự ngã quan sát tiền kiếp của con người. Phương pháp tự ngã rất nhanh đạt được trạng thái thôi miên. Sau đó, khi đang ở trong trạng thái thôi miên thường sẽ có một số sinh vật tâm linh cấp cao ở bên cạnh của ông ấy. Ông có thể nhìn thấy được tiền kiếp của bệnh nhân. Hoặc giả là ông sẽ cho một toa thuốc, thường toa thuốc rất linh nghiệm.

Theo các số liệu thống kê của các chuyên gia, từ những bệnh nhân cũng như dự đoán, trong cả cuộc đời của ông Cayce có tổng cộng hơn 14.000 trường hợp, trong đó có 2.500 trường hợp liên quan đến chuyện luân hồi chuyển kiếp.

(trích: TS. Chung Mậu Sâm thuyết giảng ngày 17/02/2006, tại phòng 103, hội trường trung tâm thương mại quốc tế Đài Bắc)

C.- Những chuyện tiêu biểu về tái sinh (luân hồi)

1/- Ở Ấn Độ

Tại Ấn Độ, ở thành Delhi có một cô gái 8 tuổi tên Phanti Devi. Cô nhiều lần khóc lóc với cha mẹ đòi về thành Mita thăm chồng là một giáo viên. Thành Delhi cách thành Mita trên 200km. Cha mẹ cô gái lấy làm lạ, mời một phóng viên nhà báo đến để nhờ anh điều tra giùm.

Phóng viên nhà báo đến hỏi, thì được cô trả lời rằng: Cô là vợ một giáo viên, ăn ở với nhau sanh được một đứa con. Khi đứa con lên 11 tuổi thì cô lâm bệnh từ trần. Người phóng viên hỏi xem cô ta có gì làm bằng chứng không? Cô trả lời là cô có để lại vàng bạc  và đồ đạc chôn ở chỗ nọ, chỗ kia…và cô còn nhớ rõ có một cái quạt do người chị em bạn tặng, trên quạt có ghi lại mấy dòng chữ, rồi cô đọc mấy dòng chữ ấy cho phóng viên chép vào sổ tay.

Phóng viên đến thành Mita, tìm hỏi tên họ ông giáo viên, thì thật quả không sai. Phóng viên hỏi ông giáo:

– Ông có người vợ đã chết độ 8,9 năm nay phải không?

– Ông giáo trả lời:

– Vâng, có! Vợ tôi chết nay đã 9 năm. Chẳng biết ông hỏi có việc chi?

Phóng viên trình bày những lời cô bé đã nói. Ông giáo nghe đều cho là đúng cả. Phóng viên lại lấy quyển sổ tay đưa mấy dòng chữ cho ông giáo đọc và hỏi:

– Khi vợ ông mất, có để lại một cây quạt, trên ấy có ghi mấy dòng chữ như thế này có phải không?

Ông giáo trả lời:

– Trúng y như vậy cả.

Qua ngày sau, phóng viên lại mời cha mẹ và cô Phanti Devi cùng đi xe tới thành Mita. Từ khi sanh ra đến 8 tuổi, cô chưa từng đi xa, thế mà đường đi trong thành Mita cô đều thuộc cả, cô chỉ đường này là đường gì, đi về đâu, đường kia tên gì, đi về đâu, và còn nói trúng cả tên những nhà quen ở hai bên đường nữa. Gần đến nhà ông giáo, cô bảo xe đi chậm lại và dừng ngay trước nhà ông giáo.

Vào đến nhà, gặp một ông già độ 80 tuổi, đầu tóc bạc phơ, cô vừa mừng vừa khóc oà mà nói rằng:

–  Đây là cha chồng của tôi.

Cô chỉ ông giáo mà nói:

–  Kia là chồng tôi.

Rồi cô chạy lại ôm đứa con 11 tuổi khóc và nói:

– Đây là con tôi!

Mọi người trông thấy, ai cũng đều cảm động. Việc này làm sôi nổi cả dư luận Ấn Độ và các nhà báo trên thế giới bàn tán xôn xao…Các nhà bác học ra sức tìm tòi, nghiên cứu, nhưng không một ai giải thích được. Chúng ta đã rõ biết lý luân hồi, thì việc này cũng chẳng lấy làm lạ.

2/- Ở Mỹ

Vào khoảng năm 1956, ở Mỹ có một thiếu phụ 33 tuổi, tên Xi-mông (Ruth Simmons) vì quá tin tưởng vào kiếp luân hồi, nên đã nhờ nhà thôi miên Mo-rây Bét-tanh (Morey Bernstein) giúp cô được thấy lại kiếp trước của cô. Nhà thôi miên kia, sau khi đưa cô vào giấc ngủ, liền bảo:

– Thử nhớ lại hồi 10 tuổi cô đã làm gì!

Cô Xi-mông, trong cơn mê nói lại thuở thiếu niên của cô, những lúc cô đi học và tả tỉ mỉ những lúc cô nô đùa với bạn. Nhà thôi miên lại bảo:

– Bây giờ thử nhớ lại lúc cô mới 1 tuổi, cô thấy gì!

Cô trả lời bằng những tiếng bập bẹ, y như đứa trẻ chưa biết nói. Nhà thôi miên lại dồn hết tinh thần vào cặp mắt, nhìn thẳng vào cô Xi-mông và nói:

– Thử nhớ lại tiền kiếp của cô!

Sau một lúc im lặng, cô Xi-mông mới nói,  nhưng giọng nói của cô đã đổi khác, giọng Ái-nhỉ-lan (ở Anh quốc), chứ không phải giọng người Mỹ.

Cô kể rằng: “kiếp trước cô đầu thai vào gia đình họ Mướt-phi” (Murphy) ở làng Cót (Cork) bên Ái-nhỉ-lan vào năm 1789. Cô tả nơi chôn nhau cắt rốn của cô và cho biết nhiều chi tiết khác về làng này. Cô nói thêm rằng chồng cô tên Mắc-các-ty (Brian Mac Carthy), giáo sư trường luật đã từng cộng sự với tờ báo”Ben-phát Niu” (Belfast New). Rồi sau cùng cô nói đến ngày cô chết, mả cô hiện ở đâu và cô phải làm ma hơn một thế kỷ. Sau đó, cô đầu thai vào gia đình họ Xi-mông (Simmons) ở Mỹ, hồi năm 1923.

Nhà thôi miên đã thâu lại tất cả lời nói của cô Xi-mông về tiền kiếp của cô và sau đó viết một quyển sách nhan đề là: “Đi tìm gốc tích cô Mướt- phi (Murphy)”. Sách này in ra 170 ngàn cuốn và chỉ trong 3 tháng đã bán sạch. Sau đó nhà thôi miên lại lấy lời thuật chuyện của cô Xi-mông thâu vào 30 ngàn (30.000) dĩa nhựa và chỉ trong hai ngày đã bán sạch.

Chuyện này báo chí quốc tế đều có đăng tin, riêng ở Pháp có tờ: “Pa-ri Mát” (Paris Math) thuật lại rất rõ, ở Việt Nam cũng có nhiều tờ nói đến như tờ Tin Điển, tờ Liên Hoa v…v…

3/- Ở Pháp

Một bác sĩ pháp, ông Mô-rít Đờ-la-ri (Maurice Dalarry) vốn là người hoài nghi về thuyết Luân Hồi, nhưng sau một thời gian khảo cứu rất công phu, đã viết trong tạp chí “Thần Linh Học” xuất bản hồi năm 1948 về sự Luân Hồi như sau:

Ban đầu ông không tin có kiếp luân hồi, nhưng sau một thời gian thí nghiệm bằng cầu cơ, ông phải công nhận kiếp luân hồi có thật. Đây ông Mô-rít Đơ-la-ri kể:

– Một hôm tôi và vợ tôi đang cầu cơ thì bỗng chiếc xe lay động lần lượt chỉ vào 5 chữ F.E.L.I.X rồi ngừng lại, tức là kẻ khuất mặt tên Phê-lít (Félix) đã nhập vào cơ. Chúng tôi liền hỏi:

– Ông Phê-Lít muốn gì?

Trả lời:

– Tôi cho ông bà hay tôi sẽ trở lại trong họ hàng ông bà trong một ngày gần đây.

Hỏi:

– Tại sao vậy? Tại sao trở lại trong họ hàng chúng tôi ?

Trả lời:

– Phải! Trong gia đình ông bà.

Hỏi:

– Họ hàng chúng tôi đông đảo quá đi ở rải rác mỗi người một nơi. Vậy ông có thể cho biết chắc chắn ông sẽ xuất hiện ở xứ nào không?

 Trả lời:

– Tại xứ P. (Bác sĩ Mô-rít vì một lẽ riêng, không muốn nói rõ xứ này ), và trong gia đình ông Y. ( ông Y đây là bà con với bà vợ bác sĩ Mô-rít, nhưng bác sĩ cũng giấu tên, vì sợ động chạm đến đời tư không hay của gia đình khác).

Hỏi:

– Chắc chắn ông sẽ vào gia đình ông Y…. bà con chúng tôi?

 Trả lời:

– Phải! Hiện gia đình ông Y có hai đứa con gái.

Hỏi:

– Ông có biết tên chúng không?

Trả lời:

– Có ! (rồi kẻ vô hình nói đúng tên hai đứa con gái của người bà con bà Mô-rít, nói đúng cả ngày sinh tháng đẻ của chúng nữa).

Hỏi:

– Ông có thể cho biết chắc chắn ngày nào ông sẽ chào đời trong gia đình ông Y không?

Trả lời:

– Ngày 24 tháng 9 năm 1924 vào buổi mai.

Hỏi:

– Nhưng làm thế nào để biết chính ông đã đầu thai làm con trong gia đình ông Y?

Trả lời:

– Cô J. (tức tên vợ của bác sĩ Mô-rit mà ông cũng giấu tên luôn) sẽ được biết khi nhìn thấy tai bên mặt của tôi, vì chính tôi là Phê-lit (Félix), đứa tớ trung thành của ông bà thân sinh của cô J đây.

Cuộc đối thoại giữa bác sĩ Mô-rit và kẻ khuất mặt tên Félix được bác sĩ biên chép kỹ càng từng câu một để sau này xem có đúng không.

Bấy giờ vào khoảng tháng 5 (d.l) vợ chồng bác sĩ Mô-rit không mảy may hay biết người chị họ (của bà Bác sĩ) có thai.

Cho đến ngày 24 tháng 9 năm 1947 nghĩa là cách đó bốn tháng, vợ chồng bác sĩ tiếp được điện tín từ xứ P. đánh về cho hay người chị họ vừa hạ sanh một bé trai hồi 8 giờ sáng ngày nói trên.

Thế là rất đúng với lời của kẻ khuất mặt Phê-lít. Nhưng bác sĩ không muốn cho vợ chồng người chị họ biết rằng chính ông bà đã biết trước việc này.

Ba tháng sau, vợ chồng bác sĩ Mô-rít được chị họ mời qua xứ P, dự một buổi lễ trong gia đình, luôn dịp để vợ chồng người chị họ đem đứa con trai mới sinh ba tháng ra giới thiệu với họ hàng.

Vợ chồng bác sĩ Mô-rit vừa đến nơi thì vợ chồng người chị họ liền đưa ông bà vào phòng để xem mặt đứa bé. Khi bà bác sĩ đến gần chiếc nôi thì thằng bé nhìn bà mỉm cười, mà nước mắt cứ tuôn ra, rồi nó đưa tay về phía bà bác sĩ đòi ẵm. Vợ chồng người chị họ rất đỗi ngạc nhiên, vì thường khi không bao giờ con mình chịu người lạ, thế mà lần này, mới gặp bà bác sĩ nó lại đòi ẵm.

Vợ chồng Bác sĩ Mô-rít thì không lạ gì với thằng bé, nhưng không dám nói sự thật ra cho vợ chồng người chị họ biết về kiếp luân hồi của tên lão bộc Phê-lit, sợ rằng gia đình người chị họ cho mình quá tin dị đoan chăng.

Khi nhìn thấy miếng vải băng ngang đầu đứa bé, vợ chồng bác sĩ đã đoán biết một phần nào đúng như lời lão bộc Phê-lít đã nói trong lúc cầu cơ, nên bác sĩ  giả vờ hỏi:

–  Tại sao lại băng đầu nó? Chắc lại sanh ghẻ chứ gì ?

Người chị họ trả lời:

–  Không! Vì lúc sinh nó ra, nó có tật nơi tai, vành tai chỉ dính vào da đầu có chút xíu, nên tôi có nhờ bác sĩ chữa. Bác sĩ bảo sức thuốc băng lại trong một thời gian thì liền lại.

4/- Thêm một chuyện nữa, cũng tại nước Pháp

Một đứa bé gái mới ba tháng tên Tê-re-sa (Thérèse) bỗng nhiên một hôm thốt lên tiếng A-ru-pa (Aroupa) cha mẹ đứa bé không để ý, tưởng rằng con mình bập bẹ bậy bạ vậy thôi , nhưng về sau có người cho biết A-ru-pa (Aroupa) có nghĩa là “trời” theo tiếng Ấn Độ.

Đến lúc lên hai, em bé Tê-re-sa trong lúc chơi mua bán, có thốt ra tiếng “rupi” (Roupie). Tiếng này trong gia đình không hề nghe ai nói tới. Thế mà Tê-re-sa biết được, mới lạ.

Mười tháng sau nữa, trong khi mẹ Tê-re-sa nói chuyện với một chị em bạn, cô Tê-re-sa thường xen vào câu chuyện với những tiếng “Bapou” . Bà bạn vốn là tín đồ đạo Phật , rất lấy làm lạ, hỏi mẹ Tê-re-sa tại sao nó biết tên riêng của ông Căm- địa (Gandhi) ; vì tên “Bapou” chỉ có gia quyến  thánh Căm – địa cùng tín đồ ông gọi ông mà thôi, người ngoài ít ai biết được .

Mẹ cô gái Tê-re-sa nghe nói càng thêm kinh ngạc. Bà bắt đầu tin có luân hồi và từ đó, bà mua sách về thần học khảo cứu, và bà có mua một bức hình của ông thánh Dô-ga-măng-đa (Yogàmanda).

Khi nhìn thấy bức ảnh cô bé la lớn:

– Con biết ông này ! Lúc thánh Căm-địa còn sống ông thường đến nói chuyện với thánh Căm-địa, có mặt con trong những lúc ấy.

Sau khi dò hỏi những tín đồ của thánh Căm-địa, mẹ cô bé Tê-re-sa thấy lời nói của con mình là đúng sự thực. Lên năm tuổi cô bé bắt đầu ăn chay và không thích ăn bánh mì mà chỉ ăn cơm.Thỉnh thoảng cô lại kể một vài đoạn đời của thánh Căm-địa.

5/- Ở Đảo Mô-rít (Maurice)

Chuyện sau đây do giáo sư Bít-xao-da (Bissoundya) ở hải cảng Lu-I (Port-Louis) tại đảo Mô-rít kể lại trong “tạp chí đầu thai Luân hồi”.

Tại làng Cát-ten (Castel) có một gia đình nọ sinh một đứa bé trai lên ba tuổi, đặt tên là Sa-ta-na-đê-va (Chatanadèva). Bỗng một hôm nó bảo nó không phải ở làng ấy . Cha mẹ và người lối xóm đều cười , vì cho nó nói bậy. Nó lại nhất định nói nó không phải tên Sa-ta-na-đê-va (Chatanadèva) mà là tên Ri-ram Dăng-cô (Sreeram-Jankoo). Lúc đó, người ta lấy làm kinh ngạc vì tên Ri-ram Dăng-cô không phải lạ. Anh này bị chết đuối cách đây ba năm, trong lúc đi thuyền đến cù lao Pờ-la-tờ (Plate).

Người ta hỏi nó tại sao nó biết nó tên Ri-răm  Dăng-cô thì nó thuật lại rằng:

– Tôi đang chèo thuyền đi ra cù lao Pờ-la-tờ thì bị sóng đánh chìm và chết đuối giữa biển.

Lời thuật chuyện của thằng bé làm mọi người kinh dị, vì thật đúng như thế. Rồi nó lại kể thêm những chi tiết về hoàn cảnh sống của Dăng-cô, nhất nhất đều đúng sự thật cả.

Câu chuyện này được đồn đãi ra. Mẹ của anh chài lưới Dăng-cô ở  làng bên nghe được, liền tìm tới nhà thằng bé. Thằng bé đang chơi, thấy bà lão bước vào, nó mừng rỡ reo lên và nhảy xổ đến ôm bà, la lớn:

–  Mẹ! Mẹ!

6/- Một câu chuyện Đổi xác thay hồn ở  Việt Nam

Ở Cà Mau , cách đây vào khoảng 30 năm, có một câu chuyện lạ lùng đã làm dư luận bàn tán xôn xao.

Ông Cả Hiêu, ở làng Tân Việt, xứ Đầm Dơi (Cà Mau) có một cô con gái mới 19 tuổi , lâm bệnh rồi chết. Cách đó độ 100 km, ông Hương Thừa ở làng Vĩnh Mĩ (Bạc Liêu) cũng có cô con gái đau rồi chết. Chưa bao lâu cô bỗng nhiên sống lại. Khi sống lại , cô này nhìn  không biết cha mẹ và nói những gì đâu đâu không ai hiểu gì cả, cha mẹ cô tưởng rằng cô đau nên lãng trí nói bậy. Nhưng khi cô  lành mạnh hẳn, cô lại khóc lóc, một hai đòi về nhà ông Cả Hiêu và chỉ luôn nơi ở, làng, tổng rõ ràng nữa.

Cha mẹ cô cho người đến tìm ông Cả Hiêu và thuật câu chuyện cho vợ chồng ông này nghe.Vợ chồng ông Cả và con cái trong nhà, nghe xong đều đi đến xem thật hư như thế nào.

Khi mọi người đến nơi, cô gái chạy ngay đến ôm ông Cả, bà Cả khóc kể…. Rồi cô thuật những việc đã xảy ra trong nhà ông Cả không sai một mảy. Vợ chồng ông Cả, tuy thấy xác cô này không phải con mình, nhưng về tinh thần lại chính là con mình, nên đều thương yêu và công nhận là con. Về sau, cô hưởng được hai phần gia tài của cả hai bên cha mẹ.

(trích : Phật Học Phổ Thông – H.T Thích Thiện Hoa)

7/- Luân hồi làm heo ở Thủ Đức

Cách đây mấy mươi năm, ở Thủ Ðức có một nữ Phật tử tu tại gia. Vì vợ chồng cô là tín đồ thuần thành, trọng Phật kính Tăng, nên các sư thường đến ghé thăm, có khi được mời nghỉ đêm tại nhà. Thời đó, ảnh hưởng chánh pháp chưa được lan rộng, tuy cô đã thọ quy giới nhưng chưa hiểu rõ về đạo, nên trong nhà cũng có nuôi heo để thêm rộng rãi cho cuộc sống. Khi nọ, có một vị Hòa thượng đến nghỉ đêm tại nhà cô, nửa đêm chợt thức giấc nghe tiếng động dưới bộ ván mình nằm, và có giọng nói nho nhỏ rằng: “Tụi bây không biết, chớ tao tên là Nguyễn Thị Hòa (vì liên hệ gia đình xin giấu tên) bởi có thiếu bà chủ nhà này một số tiền, nên phải đầu thai ra thân súc vật để trả nợ”. Hòa thượng nghe xong lấy làm lạ, khẽ lén nhẹ nhàng cúi xuống rình xem, thì thấy một heo nái nói chuyện với mười hai heo con đang bú.

Sáng ra, Hòa thượng hỏi người tín nữ:

– Lúc trước có cô Nguyễn Thị Hòa thiếu cô một số tiền như thế, có phải không?

– Dạ thưa đúng như vậy. Nhưng cô ấy nghèo và bây giờ đã qua đời, nên con kể như bỏ luôn. Ủa! Mà chuyện này chỉ riêng mình con với cô ấy biết, ở nhà con cũng không hay, tại sao thầy lại hiểu rõ ràng như vậy?

Hòa thượng đem chuyện đêm hôm thuật lại. Cô chủ nhà cả kinh, vội đem bán heo mẹ lẫn mười hai heo con, thì thêm một việc lạ, số tiền thu được đúng với tiền cô Nguyễn Thị Hòa đã thiếu mình khi trước.

Trải qua sự việc này, cô tín nữ càng tin việc luân hồi nhân quả hiển nhiên là có thật. Từ đó cô tu hành thêm tinh tấn và cải gia vi tự, thành ra ngôi chùa Phước Trường hiện giờ. Tại chùa này, hiện nay linh vị thờ cô vẫn còn. Tiên đức đã bảo: “Súc sanh bản thị nhơn lai tố. Nhơn súc luân hồi cổ đáo kim!” (Súc sanh kia trước là người. Xưa nay người, súc luân hồi đổi thay!) Việc trên đây là một chứng minh cho lời này vậy.

(Thuật theo lời Thượng tọa Thanh Từ, khi Thượng tọa đến diễn giảng và thăm chùa Phước Trường ở Thủ Ðức).

8/- Chuyện luân hồi ở Trung Hoa

Nước Trung Hoa, đời vua Thuận Trị nhà Thanh, có một học giả danh tiếng ở huyện Tế Ninh, là Thiệu Sĩ Mai. Ông đậu Tiến sĩ khoa Kỷ Hợi, tự nhớ kiếp trước mình vốn người ở huyện Thê Hà, tên là Cao Ðông Hải. Bà vợ của Thiệu Sĩ Mai chết lúc tuổi hãy còn trẻ, khi lâm chung trối dặn chồng rằng:

-Tôi có nhân duyên làm vợ anh ba đời. Kiếp nầy là một. Ðời sau tôi sẽ sanh vào nhà họ Ðông ở huyện Ðào. Ngày kia anh bãi chức, về ngụ nơi chùa Tiêu xem kinh Phật, xin tìm tôi ở ngôi nhà thứ ba tại khúc quanh sông Tân thuộc vùng ấy.

Hơn mười năm sau, Sĩ Mai đổi về làm Giáo thọ ở phủ Ðăng Châu, gần huyện Thê Hà. Một hôm nhân rảnh rỗi, ông đến viếng chỗ ở kiếp trước, thì nhà của Cao Ðông Hải đã không còn. Hỏi thăm tìm được đứa cháu nội của Ðông Hải, ông giúp tiền cho gầy dựng ruộng nhà. Kế đó ông thuyên chuyển làm Tri huyện ở Ngô Giang, rồi cáo bệnh về nghỉ.

Nhân lúc vô sự, Sĩ Mai đến thăm người bạn đồng niên ở huyện Ðào, và ngụ tại chùa Tiêu. Chùa nầy có bộ Ðại tạng kinh, trong khi vắng vẻ ông thường mượn để duyệt lãm. Một hôm, bỗng nhớ lại lời người vợ trước đã dặn bảo, ông ra Tân Giang đi dọc theo mé đến một khúc quanh tìm hỏi, quả thật có họ Ðông ở ngôi nhà thứ ba ven sông. Ông vào thăm thì nhà nầy có đứa con gái chưa gả, nhân thuật lại duyên cớ trước, xin cầu hôn, liền được gia chủ ưng thuận.

Cưới vợ được mấy năm, cô gái họ Ðông lại qua đời. Khi lâm chung, lại dặn chồng rằng:

-Lần giã biệt đây, tôi sẽ tái sanh nơi nhà họ Vương ở Tương Dương. Ngôi nhà nầy cũng ở ven sông, trước cửa có hai cây liễu, sau anh đến tìm tôi tại nơi đó. Cuộc tái hợp lần cuối cùng nầy, tôi sẽ sanh cho anh hai đứa con.                Thiệu Sĩ Mai nhất nhất đều xin ghi nhớ. Về sau sự việc diễn tiến quả đúng y như lời người vợ đã nói. Năm Kỷ Mùi đời vua Khang Hy, Thiệu Sĩ Mai ở tại kinh sư, đã đem việc nầy thuật lại rõ ràng với những bạn đồng niên như Vương Ngư Dương, Phan Trần Phục… Việc của Thiệu Sĩ Mai trên đây, thật đã đúng với hai câu thi: “Lưỡng thế đốn khai sanh tử lộ. Nhất thân tằng tác cổ kim nhơn” (Một thân từng diễn người kim cổ. Ðôi kiếp mở liền lối tử sanh). Cuộc thế bể dâu, thân người huyễn mộng, xem việc nầy, những ai có mối thâm tư, chi khỏi sanh niềm cảm khái.

(trích: Phật Học Tinh Yếu – H.T Thích Thiền Tâm).

9/- Đôi tình nhân buộc tay nhau tự vẫn tại Núi Cấm được tái sinh bên nhau?

Đúng ngày 15/4/1997 (âm lịch), có một đôi tình nhân trên đỉnh Bồ Hong trên núi Cấm đã “cột tay” nhau rồi cùng gieo mình xuống vực sâu. Người nam tên Nguyễn Quốc Nam (tên thường gọi là Nhôm, thời điểm mất anh mới 27 tuổi) nhà ở ngọn kênh Trà Uối, quận Thốt Nốt, thành phố Cần Thơ; còn cô gái tên Phượng, quê ở Phong Điền, TP.Cần Thơ. Không môn đăng hộ đối, tình yêu của họ bị ngăn cản…

Anh Nguyễn Văn Sơn (tên thường gọi là Liên, nhà ở khu vực Vồ Ông Bướm trên núi Cấm chính là người cha của đôi song sinh 1 trai- 1gái được biết là do đôi tình nhân “cột tay” nhau nhảy từ đỉnh Bồ Hong xuống vực chết chuyển sinh trong kiếp này. Anh không quên cái ngày định mệnh 15/4 Âm lịch năm 1997, khi đó vợ anh mới mang thai. Cả khu vực núi Cấm xao xác chuyện đôi tình nhân vì không môn đăng hộ đối đã cùng nhau tìm tới cái chết bằng việc cùng nhau nhảy xuống từ đỉnh núi Cấm. Lúc đem xác họ lên và an táng thì cánh tay người con gái bị mối gút dây dù, mà họ đã dùng để buộc tay nhau lại trước khi nhảy xuống, in khuyết sâu một lỗ, cô gái gãy xương, mất máu mà chết. Còn người con trai thì bị vỡ đầu ở phía sau bên phải.

Anh Liên kể lại: “Khi dẫn vợ lên đỉnh Bồ Hong ngắm cảnhtôi chỉ cho vợ, chỗ này là nơi đôi tình nhân cột tay nhau nhảy xuống vực tự tử nè. Vợ tôi nhìn theo cánh tay tôi chỉ, rồi chợt rùng mình và bụng đau dữ dội. Tôi nghĩ do vợ mang bầu, leo dốc gây đau bụng nên tôi đưa vợ về nhà.

Anh Liên cho biết thêm: “Đến ngày 21/9/1997 (âm lịch) vợ tôi sinh tại bệnh viện huyện Tri Tôn, tỉnh An Giang. Tôi mừng quýnh vì là con trai đầu lòng. Bác sĩ đã cắt nhau, tắm rửa cho đứa bé, thì bất ngờ xuất hiện 1 cánh tay trẻ sơ sinh khác “ló” ra… Sau khi kiểm tra, bác sĩ bảo còn một đứa nữa, là song sinh, nhưng đứa còn lại nằm ngang nên phải mổ mới bắt ra được. Đến khi mổ ra là 1 bé gái. Chính bác sĩ trước đó cũng không hề biết là vợ tôi mang song thai

Theo anh Liên, lúc vợ anh mới sinh, bác sĩ đã kêu vợ chồng anh lại chỉ cho những đặc điểm kì lạ trên cơ thể các con. Trên cánh tay của bé gái có một dấu vết hằn khuyết trên da (như bị một sợi dây cột siết) và có nốt “ruồi son” to tướng, mà nhìn kĩ thì giống như một cục máu bầm hơn. Còn bé trai thì đầu bị móp ở phía sau bên phải và có 1 nốt ruồi đen ngay chỗ móp. Anh Liên nói: “Lúc đó, bác sĩ trong bệnh viện đã nói nửa đùa nửa thật là “hai đứa nhỏ này giống như đôi tình nhân cột tay nhau tự tử quá”. Tôi cố tình phớt lờ cho qua. Sau đó về nhà, mấy lần đưa 2 đứa nhỏ đi trạm y tế xã tiêm ngừa, cán bộ y tế cũng nói như vậy, tôi vẫn không tin. Cho đến một ngày…”.

Những điều kì lạ hay sự trùng hợp ngẫu nhiên?

Ban đầu anh Liên nhất quyết không tin. Bởi theo anh, khi anh Nhôm và chị Phượng cột tay nhau nhảy xuống núi thì vợ anh đã mang bầu gần 3 tháng. Làm gì có chuyện chuyển kiếp đầu thai… “cấp tốc” như vậy.

Cuộc sống của gia đình nhỏ với 2 đứa trẻ sinh đôi cứ thế êm đềm trôi qua, mặc cho những lời xì xầm, to nhỏ của bàn dân thiên hạ. Anh Liên đặt tên cho bé trai là Nguyễn Văn Đ. và bé gái là Nguyễn Thị Kh. Cho đến 1 ngày, có một cặp vợ chồng già gần 60 tuổi tìm đến nhà anh Liên.

Anh Liên nói: “Sau một lúc, họ mới giới thiệu, đó chính là cha mẹ ruột của anh Nhôm – chàng trai đã cột tay cùng người yêu nhảy xuống vực sâu từ trên đỉnh Bồ Hong. Họ nói, chính anh Nhôm sau khi chết đã về báo mộng, bảo là anh đã chuyển kiếp đầu thai vào gia đình trên núi Cấm và kêu ba mẹ lên tìm. Gặp thằng bé, người đàn ông vỗ tay là thằng Đ. chạy lại ôm vai bá cổ ông như thân quen lắm

Theo lời bà Lê Thị Hoa, mẹ ruột của anh Nhôm, năm đó, Nhôm gặp một cô gái tên Phượng quê ở Phong Điền, TP. Cần Thơ, rồi cả 2 nảy sinh tình cảm lúc nào không hay biết.

Bà Hoa gạt lệ kể; “Con Phượng thương thằng Nhôm dữ lắm. Nó nói thằng Nhôm không cưới nó sẽ tự tử chết. Con gái nhà khá giả, nhiều người dạm hỏi mà con nhỏ quyết không chịu, cứ đòi lấy thằng Nhôm. Thấy vậy, gia đình tôi cũng lặn lội xuống tận Phong Điền để hỏi cưới. Nhưng phía gia đình nhà gái làm khó dễ, đòi phải đi đủ lễ thách cưới. Trong khi nhà tôi lại nghèo, nên tôi thôi không dám trèo cao”.

Sau đó, Nhôm tìm lên núi Cấm để làm chốn ẩn tu. Ba anh là Nguyễn Văn Chiến bệnh nặng nên Nhôm về nhà thăm. Còn phần chị Phượng, phía gia đình nhà gái mạo một bức thư, giả như Nhôm gửi, với nội dung đại loại là Nhôm không thèm cưới Phượng, với những lời lẽ chê trách nặng nề. Sau khi đọc bức thư, Phượng buồn bã bỏ xứ ra đi một thời gian. Nhưng mối tình đầu trong tim cô gái trẻ cứ thổn thức nên cô quyết quay về tìm gặp người yêu lần cuối. Sau khi Nhôm giải thích rõ ràng không hề viết bức thư nào cho Phượng, thì Phượng đã hiểu ra mọi việc và nhất quyết đòi theo Nhôm đến tận chân trời góc biển. Rồi một ngày, Nhôm gửi lại cho dì Hai một bức thư nhưng căn dặn, khi nghe “tin” của con, dì Hai mới được đọc. Anh Nguyễn Văn Lem, anh ruột Nhôm kể rõ: “Nó đi ngày 12/4/1997 âm lịch thì 3 ngày sau, hay tin nó cột tay cùng người yêu nhảy núi

Báo mộng cho gia đình về việc chuyển sinh thành cặp song sinh vào nhà anh Liên ở Vồ Ông Bướm, núi Cấm

Nhận được hung tin, ông Nguyễn Văn Chiến – ba của Nhôm, lên núi Cấm nhận xác con trai, nhưng gia đình nhà gái tuyệt tình không đến nhận. Thấy đôi trẻ yêu nhau không trọn vẹn, thì thôi để họ về chung dưới suối vàng, ông Chiến quyết định xin chính quyền xã An Hảo, huyện Tịnh Biên, tỉnh An Giang được chôn xác Nhôm và Phượng ở khu đất nghĩa địa dưới chân núi Bà Đội Ôm. Hai chiếc quan tài được chôn chung một huyệt.

Sau khi chết, Nhôm đã về báo mộng cho gia đình biết đã cùng với người yêu chuyển kiếp đầu thai thành cặp sinh đôi 1 trai – 1 gái.

Anh Lem nói thêm: “Chính tay ba tôi liệm, chôn cất hai đứa nó, nên ổng nhớ rõ đặc điểm cả hai lúc mất. Bởi vậy, khi nhìn thấy cặp sinh đôi 1 trai – 1 gái là thằng Đ. và con Kh. (con của anh Liên mà anh Nhôm chỉ nhà), ba tôi nhận ra những dấu hiệu lạ thường. Và ông tin rằng 2 đứa bé đó chính là do con trai và người yêu nó “đầu thai” chuyển thế”.

Cậu bé 2 lần đòi về “nhà cũ”

Anh Liên nói có rất nhiều sự trùng hợp ngẫu nhiên giữa anh Nhôm và bé trai Đ. nên anh cũng hoang mang, tin con mình là do chàng trai kia đầu thai, dù hoàn toàn chẳng muốn tin.

Anh Liên kể : “Lúc thằng bé Đ. độ 5 tuổi, tự nhiên nó đòi về thăm nhà. Tôi nói nhà con ở đây mà thăm gì nữa, thì nó bảo về thăm nhà “lớn”, thăm ba mẹ “lớn”. Tôi thử chở nó về, lần đầu tiên 2 cha con đi tới chỗ lạ, nhưng nó dẫn đường tôi chạy tới nhà nằm tít trong ngọn 1 con rạch nhỏ ngoằn ngoèo hun hút. Tới nhà nó, nó vô buồng nằm suốt như là nhà của nó vậy. Hồi năm ngoái(tức năn 2013), sau 15 năm kể từ ngày Nhôm mất, tự nhiên thằng Đ. kêu tôi chở về nhà ba mẹ “lớn” để lấy bức thư nó viết hồi trước. Đúng là về dưới ấy vẫn còn một bức thư tuyệt mệnh của anh Nhôm để lại, nó đem về trên này nó giữ tới bây giờ.

Lá thư để lại

Bé Đ mang bức thư trở về núi Cấm, cất giữ cẩn thận như 1 báu vật. Bức thư tuy có nhiều lỗi chính tả (do anh Nhôm chỉ học tới lớp 6) nhưng lời lẽ, ý tứ trong thư thì sâu sắc. Phần lớn bức thư được viết theo thể thơ, mà theo gia đình thì anh Nhôm đọc nhiều kinh Phật nên sau đó cứ “xuất khẩu thành thơ”. Bức thư đề ngày 5/4/1997 (âm lịch), viết trên 4 mặt giấy carô đã sờn cũ…

Anh Liên kể tiếp câu chuyện: “Lạ nữa là lúc tụi nhỏ chừng 3 tuổi, 2 đứa ngồi chơi với nhau. Tôi nghe thằng Đ. nói “nhà tao nghèo, má tao bán bánh bò”, còn cô Kh. thì nói “nhà tao giàu”…”.

Khi về tới nhà của ông Nguyễn Văn Chiến và bà Lê Thị Hoa – cha mẹ ruột của anh Nhôm, anh nhận thấy thằng Đ. có rất nhiều điểm tương đồng. Tính nết anh Nhôm rất trầm tĩnh, thằng Đ. cũng ít nói. Nhà anh Nhôm ở gần chùa, mười mấy tuổi Nhôm đã vô chùa làm công quả, đọc kinh Phật, ăn chay. 6 năm nay anh Liên rời qua gần chùa Vạn Linh mở quán bán nước giải khát, quán ăn nên thằng Đ. sớm tối lên chùa cúng Phật. 3 năm nay Đ. ở hẳn trên chùa, ăn chay trường, ngày 3 buổi đọc kinh.

Anh Lem quả quyết:

Có rất nhiều chuyện trùng hợp giữa thằng Nhôm và bé Đ. nên gia đình tôi tin rằng đó chính là em tôi đầu thai. Lạ nữa là, thằng bé Đ sinh ra ở núi Cấm, lúc mới 5 tuổi mà nó dẫn đường về cho ba nó (anh Liên) về đến tận nhà gặp má tôi. 10 năm sau, cái lần nó về tìm bức thư tuyệt mệnh của thằng Nhôm thì đường sá hoàn toàn thay đổi, vậy mà nó vẫn biết đường về nhà. Không phải là thằng Nhôm đầu thai thì làm sao biết đường xá mà về, làm gì biết những chuyện trong nhà và làm sao bé Đ. có tình cảm quyến luyến thân thiết với anh em tôi như vậy

(trích: Hà Phương Linh tổng hợp – www.daikynguyenvn.com)

10/- Đầu thai làm heo ở An Giang (tháng 10, năm 2013)

Câu chuyện bắt đầu từ những giấc mộng báo của vợ chồng anh Võ Thành Đẫm (tên thường gọi là Út (43 tuổi) và chị Dương Thị Chơn ở ấp Đông An, xã Vĩnh Chánh, huyện Thoại Sơn, tỉnh An Giang.)

Anh Đẫm kể, đêm đó anh nằm chiêm bao thấy cha anh báo mộng. Ông là Võ Văn Minh, đã chết cách nay 8 năm, khi 78 tuổi, do bệnh tai biến.

Trong giấc mơ đầu tiên vào đêm 21/10/2013, ba anh Đẫm hiện về, kêu: “Út ơi! Ba chết rồi, đầu thai làm heo ở xóm ngoài. Trước mũi “của ba” có 2 lằn rạch xuống, đó chính là… râu của ba. Còn ở đùi sau có 1 cái đém đen. Khi nào tới chuồng, thì ba nhảy lên mừng con”.

Sáng ra, anh Đẫm đem giấc mộng kể cho vợ nghe, thì bị vợ kêu là mê tín, không tin.

Sáu ngày sau, anh Đẫm lại được cha báo mộng y hệt lần trước. Anh cũng không nghĩ nhiều tới giấc mơ bởi cả ngày phải lo làm thuê kiếm sống. Nhà anh thuộc diện hộ nghèo, có 2 đứa con lại bị thiểu năng.

Hai mươi ngày sau khi cha báo mộng lần thứ 2, anh Đẫm lại tiếp tục thấy ba về báo mộng.

Anh Đẫm kể:

Ổng nói: “Sao ba báo cho con 2 lần mà con không đi tìm ba? Ba buồn, ba bỏ ăn nên bị người ta… đè ra chích thuốc”. Vài ngày sau thì ba tui về báo mộng lần cuối. Ổng nói, sao lo nhậu say xỉn hoài mà không đi tìm ba? Rồi đêm 22/11, ba tui lại về báo mộng cho bà xã tui.

Ổng nói: “Vợ thằng Út ơi! Đi tìm ba đi. Ba khổ lắm, ba trông đợi lắm!”. Nghe vậy, bà xã kêu tui đi kiếm con heo. Nhưng tui nói bà đi thì đi, tui bận đi làm mướn. Sáng hôm sau thì tui đi làm hồ và vợ tui thì âm thầm đi tìm… ông già

Sáng 23/11, vợ anh Đẫm bơi xuồng đi tới cái xóm có nhiều người nuôi heo. Khi vợ anh dò hỏi về chuồng heo như được mô tả trong giấc mơ, một người dân tại đây đã chỉ tới chuồng nuôi heo của chị Lê Mỹ Hạnh.

Trình bày xong với chủ nhà, vợ anh Đẫm liền đi ngay ra chuồng và bất ngờ thấy trong bầy có 1 con heo hình thù y như ông già tả trong giấc chiêm bao.

Anh Đẫm nói: “Bà xã tui kể lại sự tình và hỏi mua con heo đó, thì người ta chịu bán với giá 2,5 triệu đồng. Con heo nặng chừng 30kg và là dạng heo bò, có lông màu vàng và nhiều đốm đenMột điều hết sức lạ là khi gặp bà xã thì con heo liền mừng, nó nhảy lên đưa 2 chân trước. Rồi 2 lỗ tai nó ngoắc ngoắc. Khi đưa con heo lên xe chở về nhà thì nó ngồi êm ru như người ta ngồi xe vậy”.

Trình Cửu Huyền Thất Tổ rồi mới dám vào nhà…

Chừng 2 giờ sau khi con heo được chở về nhà anh Đẫm, nhiều người kéo tới xem. Khi đem heo thả trước sân thì nó không dám vô nhà. Anh Đẫm ngẫm nghĩ có lẽ là mình quên trình Cửu Huyền Thất Tổ, nên đốt nhang cúng. Cúng xong, anh ra sân nói: “Ba ơi, con trình Cửu huyền rồi, ba vô đi”. Lập tức con heo phóng lên cửa và chạy tuốt ra sau buồng.

Anh Đẫm còn kể thêm: “Lúc người ta tới coi đông quá, tui nói: “Ba ơi, ra chào bà con đi”, thì ổng chạy ra ủi ủi vô giò nhiều người. Hễ tui kêu ổng đi đâu là ổng đi đó”.

Bà Phan Thị Sữa – nhà ở thị trấn Phú Hòa (huyện Thoại Sơn), nghe tin nên đến coi. Bà khẳng định chuyện anh Đẫm thả con heo ra sân nhưng con heo không chịu vào nhà. Sau khi thấy anh Đẫm cúng vái thì kêu con heo liền chạy vô nhà. Chính bà cũng lấy làm lạ về chuyện này nhưng không lý giải được.

Chăm sóc “ba”…

Anh Đẫm đinh ninh con heo chính là cha mình hóa kiếp, nên anh không dám mua cám cho ăn. Ngày mới đem heo về nhà, anh nấu cháo tàu hũ (đậu phụ) thì heo ăn chỉ 1 chén là ngưng. Mấy ngày sau, anh ngồi chơi, tiện tay thẩy bánh tây ra sân thử thì con heo chạy tới ăn ngấu nghiến.

“1 ngày “ổng” ăn hết 1kg bánh. Rồi tui pha nước trà đường cho “ổng” uống. Trong chiêm bao, ba tui kêu khi bắt ổng về thì cầu nguyện 3 ngày, rồi giết ổng đi, để ổng siêu thoát. Nhưng con heo là… cha tui nên tui đâu lỡ giết.”

Câu chuyện ly kỳ về con heo lạ lan nhanh. Dân từ các tỉnh Đồng Tháp, Kiên Giang, Cà Mau… kéo đến nhà anh Đẫm xem heo cả ngày lẫn đêm.

Anh Đẫm bộc bạch: “Vợ chồng tui nằm mộng rồi đi tìm được con heo y như vậy nên tin đó là ba tui. Cử chỉ và hành động hơi lạ, là tui kêu gì làm nấy. Khi tui giăng mùng cho heo ngủ thì cả đêm nó không ị bậy gì trong nhà”.

Bà Phạm Thị Cúc (68 tuổi, mẹ ruột chị Hạnh – người chủ con heo đã bán cho anh Đẫm) kể: “Con Hạnh nuôi heo nái để đẻ rồi bắt con nuôi lớn, dành bán heo thịt. Hồi đó tới giờ nó không bán heo con. Nhưng hơn 3 tháng trước, trong bầy heo 7 con vừa đẻ thì có 1 con lạ. Nó cứ hay nằm buồn buồn. Thấy vậy, con Hạnh mới sợ nó bệnh nên kêu thú y tới chích thuốc (anh Đẫm nằm mộng cũng được cha báo vụ chích thuốc này). Khi nó nặng gần 30kg thì tường của cái chuồng cao hơn 1 thước mà heo cứ phóng ra ngoài, nên con Hạnh ghét.

Con Hạnh nói, mặc kệ mầy, mầy phóng ra cho muỗi cắn chết luôn. Vậy rồi cứ tới khuya thì con Hạnh thấy nó phóng vô chuồng trở lại. Trong khi cả bầy thì 6 con kia không con nào phóng ra được”.

Con heo sau 41 ngày không bệnh mà tự dưng…chết.

(Nguồn: www.daikynguyenvn.com)

11/- Duyên xưa nghiệp cũ

Câu chuyện sau đây đã xảy ra ở một nhà giàu có tại Trung Quốc ngày xưa. Thành ngữ “Cải gia vi tự” (Biến nhà thành chùa) đã bắt nguồn từ đó.

Một gia đình rất giàu có sửa soạn nhà cửa để đón cô dâu mới. Phú ông đang bận rộn với việc đám cưới thì gia nhân vào báo có một vị sơn tăng đến khất thực hóa duyên. Vốn là người mộ đạo, phú ông vội vàng ra nghinh tiếp, mời vị sư vào nhà, thỉnh ngồi ở ghế thượng khách. Nhưng vị sư chỉ chống tích trượng đứng cười ha hả. Lạ lùng trước cử chỉ của nhà sư, nhưng phú ông không dám có ý nghĩ đấy là người cuồng. Bởi, trông dáng vẻ ngài thật là tiên phong đạo cốt, phú ông quả quyết đấy không phải là người thường. Ngước nhìn đôi mắt sáng như sao của nhà sư, phú ông bất giác rơi lệ quỳ mọp xuống:

– Bạch hòa thượng, đệ tử ngu dốt, nay có phước duyên được người chiếu cố, xin người từ bi dạy bảo!

– Hà hà, chúng sanh mê muội, làm tội ác tày trời còn hí hửng đánh trống thổi kèn.

Trong khi nhà sư nói vậy, thì từ nhà sau vọng lên tiếng lợn kêu thống thiết. Vị sư tiếp:

– Con heo đó là cha ngươi ngày trước. Vì tham tiếc gia tài, ông đã tái sanh làm con heo sau chuồng nhà ngươi.

Phú ông đầm đìa nước mắt, bạch:

– Bạch hòa thượng, quả đúng như vậy. Cha con khi sắp chết cứ thao thức tiếc nuối gia tài của cải một đời mồ hôi nước mắt xây dựng này, và dặn đi dặn lại chúng con phải giữ gìn đừng hoang phí.

Nói rồi, vội bảo gia nhân đình chỉ việc giết heo. Nhà Sư lại nói tiếp:

– Còn đứa con gái ngươi sắp cưới cho con ngươi là ai ngươi biết không?

– Bạch hòa thượng, đó là đứa con gái nhà láng giềng của con. Hai trẻ có cảm tình với nhau từ nhỏ, nên khi chúng thành niên, con cho tác hợp thì có gì sai quấy.

– Hà hà. Mới bà bà cháu cháu đó, mà nay đã vợ vợ chồng chồng. Than ôi, chúng sanh có mắt như mù.

– Bạch Hòa thượng, xin Hòa thượng từ bi khai thị cho kẻ ngu muội. Con không được rõ thánh ý.

– Có gì là mờ mịt đâu, chỉ vì ngươi không thấy! Đứa con gái kia là mẹ ngươi ngày trước. Do vì khi sắp chết, người lưu luyến đứa cháu nội không nỡ rời, nên thần thức đầu thai lại cõi đời để sống gần nó.

Phú ông nhẩm lại, thì quả nhiên cô gái kém cậu con trai 4 tuổi, nghĩa là cô ra đời đúng lúc bà mẹ ông mất, lúc con trai ông mới vừa lên 4.

– Bạch hòa thượng, quả như ngài nói. Mẹ con khi mất đã cầm chặt tay đứa cháu nội, bà rất yêu cháu vì nó là đứa cháu trai duy nhất. Nay sự tình đã vậy thì con không dám làm việc ác tày đình thế kia. Xin hòa thượng chứng minh cho con được thế phát xuất gia biến nhà thành chùa.

Rạp trang hoàng cho tiệc cưới trong chốc lát được sửa lại thành đạo tràng. Phú ông cung thỉnh vị sư lên pháp tòa thuyết pháp cho bá tánh đến dự đám cưới. Nghe xong thời pháp, mọi người đều xin quy y Tam bảo, từ bỏ sát sanh. Chú rể xin cha theo vị hòa thượng về núi tu hành, còn cô dâu nguyện trọn đời ở vậy phụng dưỡng cha mẹ cho đến khi hai thân khuất núi, rồi cô cũng xuất gia.

(trích: Tích truyện Vu Lan Phật Giáo

-Minh Châu sưu tầm, Nguyễn Minh Tiến hiệu đính)

“Cuộc thế sự rạp cao, con người như kép hát
Đổi thay nhiều lớp, biết ai mẹ ai con?
Luân chuyển lâu đời, tưởng người dưng kẻ lạ
Đời nay thù oán, té ra cha mẹ trước không hay!”

Ngày nay qua thông tin cập nhật trên mạng, những câu chuyện tái sinh tương tự như trên quá nhiều, thiết nghĩ không cần phải ghi thêm nơi đây.

 

CHƯƠNG   2

ĐỘNG LỰC DẪN TA ĐI TÁI SANH DO NGHIỆP CỦA CHÍNH MÌNH TẠO

A/- Nghiệp là gì?

Như chúng ta đã biết: chết không phải là hết, mà còn phải tái sanh, tức là đầu thai trở lại. Động lực dẫn thần thức đi tái sanh trong nhà Phật gọi nó là nghiệp (thần thức tạm gọi là linh hồn). Nghiệp có một sức mạnh vô cùng to lớn, và chính nó dẫn dắt thần thức chúng sanh trôi nổi loanh quanh luẩn quẩn trong ba cõi sáu đường chưa hề ngừng dứt.

Hiện tại chúng ta nhận thấy sự bất bình đẳng giữa số phận đa dạng của loài người trên thế giới này, và nhiều tầng lớp chúng sinh đang có mặt trong vũ trụ.

Chúng ta thấy người này sinh ra trong một hoàn cảnh giàu sang, biểu hiện ra bên ngoài tràn đầy những phong cách đạo đức cao thượng và tốt đẹp; còn người nọ thì ngược lại, được sinh ra trong một cảnh ngộ nghèo nàn và khốn khổ.

Có người xem ra rất đạo đức và thánh thiện, nhưng lại luôn luôn gặp phải những nỗi bất hạnh. Cuộc đời tàn nhẫn đi ngược hẳn với những kỳ vọng và ước nguyện của y. Mặc dù nếp sống của y chân thành và đầy đạo hạnh, y vẫn phải chịu nghèo khó khốn cùng; Kẻ khác đầy dẫy tội lỗi và ngu si, nhưng lại được số phận nuông chiều, được hưởng đủ mọi thứ ân huệ, dù tính tình đầy khuyết điểm lỗi lầm và những cách sống bất thiện, tà hạnh.

Chúng ta có thể hỏi, tại sao lại có người thấp kẻ cao? Tại sao người này bị giật khỏi đôi bàn tay mẹ hiền khi mới vừa chớm thấy một vài mùa hạ, còn người khác chết lúc hoa niên, hoặc vào lúc tuổi già 80 hay 100? Tại sao người này phải chịu đau yếu và tàn tật, còn người khác lại được khỏe mạnh và tráng kiện? Tại sao người này đẹp đẽ, còn người kia thì xấu xí dị hợm, bị mọi người ruồng rẫy? Tại sao người này được nuôi dưỡng trong cảnh xa hoa, còn người kia thì nghèo mạt, mạt rệp và chìm ngập trong nỗi khổ đau?

Tại sao người này sinh ra đã là một triệu phú, còn người kia lại là một kẻ cùng đinh? Tại sao người này là một bậc trí tuệ, còn người kia là kẻ ngu đần? Tại sao người này bẩm sinh có những đức tính thánh thiện, còn người kia lại có những khuynh hướng phạm tội? Tại sao một số người đã thành những nhà ngôn ngữ học, toán học, nghệ sĩ, nhạc sĩ… ngay từ lúc còn nằm trên nôi, còn một số người khác mới sinh ra đã bị mù, điếc và tàn tật? Tại sao một số người sinh ra được may mắn hạnh phúc, còn những người khác lại chịu bất hạnh rủi ro từ lúc mới chào đời?

Đấy là một số vấn đề thường gây hoang mang trong trí óc của mọi người có suy tư. Chúng ta phải giải thích như thế nào về sự mất thăng bằng của thế giới và sự bất bình đẳng của nhân loại như vậy? Phải chăng đó là do tác động của số phận rủi may hay chỉ là chuyện tình cờ?

Theo quan niệm của nhà Phật, sự đa dạng muôn màu ấy đều do nghiệp lực của mỗi chúng sinh tự quyết định.

Nghiệp nghĩa là hành động, là việc làm của: thân, khẩu, ý. Khi chúng ta nghĩ một điều gì, nói một câu gì, làm một việc gì, lành hay dữ, xấu hay tốt, nhỏ nhặt hay to lớn, mà có ý thức, đều gọi là nghiệp. Những việc làm vô ý thức (của người bị bệnh thần kinh hoặc mộng du) không phải là  nghiệp.

Đức Phật dạy:

“Này các thầy Tỳ kheo, Như Lai nói rằng tác ý là nghiệp”. Mọi hành động có ý thức đều bắt nguồn sâu xa từ vô minh và ái dục. Nên hễ còn vô minh, còn ái dục, tức còn ham muốn, thì hết thảy hành động, lời nói, tư tưởng đều là nghiệp.

Những hành động, lời nói, tư tưởng của chư Phật, chư Bồ tát không gọi là nghiệp, vì các Ngài đã hoàn toàn giác ngộ, không còn bị vướng mắc trong màn vô minh và lưới ái dục.

Nghiệp lực không có hình tướng, không ai có thể trông thấy được, nhưng nó có một tác dụng vô cùng mãnh liệt. Như dòng điện, tuy không trông thấy được hình dáng ở đâu và như thế nào, nhưng khi đã đủ điều kiện thì nó phát sinh ra nào là ánh sáng, nào là sức nóng, nào là hơi lạnh, nào là sức mạnh v.v… Nghiệp lực thúc đẩy người này thích hoàn cảnh này, người kia thích hoàn cảnh khác. Nó là nòng cốt của mọi tư tưởng lời nói, mọi việc làm.

Chúng ta thường thấy có những người quen thói đánh bạc, nhiều lần thua lỗ, vợ con khóc lóc, bạn bè khuyên bảo, đã quyết tâm xa con bài lá bạc nhiều lần, thế mà mỗi khi làm gì, cũng không quên được sòng bạc, đi đâu rồi cũng nhắm hướng casino mà đến! Người ta bảo rằng người ấy có nghiệp đánh bạc. Những người nghiện thuốc lá, á phiện, rượu, gái v.v… cũng có cái nghiệp riêng của họ cả. Càng đi sâu vào một con đường nào, thì cái nghiệp do con đường ấy huân tập càng nặng nề, mãnh liệt chừng nấy.

Nghiệp không phải chỉ có sức mạnh mà còn tồn tại dai dẳng, không bao giờ chấm dứt, nếu chưa giác ngộ. Điều này cũng rất dễ hiểu: Có nghiệp nhân thì tất có nghiệp quả, nghiệp quả khi đã phát hiện thì lại làm nhân cho nghiệp quả sau, cứ xoay vần như thế mãi, như một bánh xe lăn xuống dốc, sức đẩy của vòng thứ nhất làm nhân cho vòng lăn thứ hai, sức đẩy của vòng lăn thứ hai làm nhân cho vòng lăn thứ ba, và cứ tiếp tục như thế mãi cho đến bao giờ hết dốc mới dừng nghỉ.

Cổ Đức từng than thở:

Cái chết vốn là nơi kết liễu,

Khách trần gian chung chịu như nhau.

Sanh ra thì có tử theo sau,

Không thể trốn nơi nào cho khỏi.

Sanh tử bởi nơi tiền nghiệp gọi,

Người còn gây còn phải trả đền.

Giống đã gieo người dẫu có quên,

Đúng ngày tháng mọc lên nhất định.

Trước không chịu để lòng lo tính,

Sau muốn ngăn dừng cũng không xong.

Nghiệp đến rồi dầu bực Tiên ông,

Cũng phải chịu chớ không tránh khỏi.

Như lời Phật đã vừa mới nói,

Giống đã gieo không gọi cũng lên.

Nghiệp tạo rồi tuy đã bỏ quên,

Đúng giờ khắc tự nhiên nó đến.

Nghiệp lực rất mạnh vô bờ bến,

Ngàn muôn năm cũng chẳng mất đâu.

Giống nghiệp càng châm gốc rễ sâu,

Càng nảy nở dài lâu khó nhổ.

Nghiệp càng lắm càng nhiều đau khổ,

Vay cho nhiều phải trả lời nhiều.

Nợ hồng trần chẳng lúc nào tiêu,

Dây oan trái cứ đeo buộc mãi.

Năm tháng vấn vít trong khổ hải,

Kiếp đời lăn lộn mãi sông mê.

Đường Tây Phương bặt lối trở về,

Nẻo Địa Ngục vào ra mòn gót.

Chịu hành phạt đã không còn sót,

Cửa luân hồi chưa vượt khỏi qua.

Nghiệp trần còn đành phải sanh ra,

Mang lấy kiếp gọi là sanh vật.

(Hiển Đạo – Thanh Sĩ)

Nghiệp cũng nằm trong luật nhân quả và bị chi phối của luật nhân quả. Chúng ta đã biết thời gian từ khi nhân phát sinh đến khi quả hình thành, có khi nhanh, khi chậm, thì thời gian từ nghiệp nhân đến nghiệp quả cũng có khi mau khi chậm, có khi chỉ trong một đời, cũng có khi hai đời, có khi nhiều đời. Nhưng dù chậm hay mau, đã gây nghiệp thì thế nào cũng chịu quả báo. Khế kinh có dạy: “giả sử trăm nghìn kiếp, nghiệp nhân đã làm cũng không mất, khi nhân duyên hội ngộ, thì quả báo đến”.

Ngày xưa có một chàng thanh niên tên Subha, uất ức trước trạng huống bất công giữa loài người, muốn tìm cho ra chân lý, nên đã đến hỏi Đức Phật rằng:

– Bạch đức Thế Tôn! Đâu là nguyên nhân, là nguồn gốc của sự bất công giữa chúng sinh? Tại sao có kẻ chết yểu, có người sống lâu, có kẻ khỏe mạnh, có người tàn tật, có người đẹp đẽ, có kẻ cô độc, có người đông con, có kẻ nghèo khó, có người giàu sang, có kẻ sanh trong gia đình đê tiện, có người sanh trong dòng dõi quí phái, có kẻ ngu muội, có người khôn ngoan?

Đức Phật đã trả lời vắn tắt, nhưng đầy ý nghĩa như sau:

-Mỗi chúng sinh đều có nghiệp, nghiệp là sở hữu, là di sản, là nguyên nhân, là thân quyến, là chỗ nương tựa của nó. Chính những hành vi ấy là cái nghiệp đã phân loại tất cả chúng sinh thành những tình trạng cao thấp khác nhau.

Kinh Atthasâlissi Ngài lại dạy rõ hơn:

“Do nơi sự khác nhau trong nghiệp mà có những sự khác nhau trong chúng sinh, kẻ sanh ra trong gia đình quyền quý, người sanh ra trong gia đình đê tiện, kẻ sanh ra trong sự nguyền rủa, người sanh ra trong sự tôn trọng, kẻ sanh ra được hưởng hạnh phúc, người sanh ra phải chịu khổ sở”.

Như vậy thì mọi việc xảy ra cho mọi người là do nghiệp của chính họ cả.

Nhưng nghiệp lực không phải chỉ đưa chúng ta quanh quẩn trong cảnh giới người, mà có thể đi tìm một cảnh giới khác trong sáu cảnh giới mà đạo Phật thường nói đến, là: Thiên (Trời), Nhân (người), A tu la (còn gọi  là Thần), Ngạ quỷ, Súc sinh và Địa ngục.

Tất cả chúng sanh cứ mãi lặn hụp xuống xuống lên lên mãi ở trong sáu cảnh giới này nên gọi là Luân Hồi!

B/- Luân Hồi.

Luân hồi dịch ở tiếng Phạn là Samsara (lưu chuyển). Theo chữ Hán thì Luân là bánh xe, hồi là xoay tròn. Hình ảnh bánh xe quay tròn là một hình ảnh rất rõ ràng dùng để hình dung sự xoay chuyển lên xuống của chúng sanh trong sáu cõi (lục đạo) và sự tiếp nối sanh tử, tử sinh không cùng tận trong sáu cõi ấy.

Có thể nói một cách chắc chắn rằng, chúng ta lúc sinh tiền tạo nhân gì, thì khi chết rồi, nghiệp lực dắt dẫn tinh thần đến chổ đó thọ quả báo không sai. Nếu tạo nhân tốt, thì luân hồi đến cảnh giới giàu sang, thân người tốt đẹp. Còn tạo nhân tội ác thì Luân hồi đến cảnh giới nghèo hèn, thân hình xấu xa, đen đúa, hoặc tàn tật, khi thăng khi giáng, lúc bỗng lúc trầm…

Sanh ở một cảnh giới nào, không phải sẽ ở luôn cảnh giới ấy. Nhân có hạn thì quả cũng có chừng. Như người nắm trái banh liệng lên hư không, khi trái banh đi hết sức của nó, tất sẽ rơi xuống đất lại. Chúng sanh ở cõi trời hay cõi súc sanh, địa ngục cũng thế, hễ nghiệp quả hết thì nghiệp nhân bắt đầu trở lại. Trong khi hưởng quả tốt, nếu không gấp rút tiếp tục gây nhân lành thì đời sau chắc sẽ  không còn ở trong cảnh giới tốt đẹp nữa. Cho nên vấn đề chính là phải luôn luôn cố gắng vượt lên  mình, nếu muốn mình được vượt lên cao hơn cảnh giới hiện tại. Một điều mà chúng ta không bao giờ nên quên là: mỗi chúng sanh là một tay thợ tự xây dựng đời mình trong quá khứ, hiện tại và tương lai.

Dưới đây là những cảnh giới mà một chúng sanh có thể bị hay được nhập vào, tùy theo nghiệp nhân mà mình đã tạo.

C/-Nhân luân hồi trong sáu cõi phàm.

1.- Cõi trời: Bỏ 10 điều ác: không sát sinh, hại vật, không trộm cướp, tà dâm, không nói lời đâm thọc, hung ác, dối trá, thêu dệt, không tham lam, sân hận và si mê. Trái lại, còn làm 10 điều lành là: phóng sanh, bố thí, giữ hạnh trinh tiết, nói lời chắc chắn, đúng lý và nhu hoà, trau dồi đức hỷ xả, từ bi và trí tuệ. Tu nhơn thập thiện như  vậy,  thì sau khi chết được sanh lên cõi trời. Nhưng nên nhớ cõi trời này cũng còn ở trong vòng phàm tục, vẫn phải chịu cảnh sanh tử luân hồi.

2.- Loài người: Giữ gìn 5 giới.

a/  Có lòng nhân từ, không sát nhân hại vật, không làm những điều đau khổ cho người.

b/ Không tham lam trộm cướp tiền của, từ vật lớn như  ngọc, ngà, châu, báu, đến vật nhỏ nhít như cây kim, sợi chỉ.

c/ Không trêu hoa ghẹo nguyệt, dâm loạn vợ con, phá hại gia can của người.

d/ Không nói lời dối trá, xảo quyệt, thêm bớt, đâm thọc, không nói lời cộc cằn, thô tục.

đ/ Không rượu trà say sưa, làm những điều lầm lỗi.

Tu nhân ngũ giới như vậy, đời sau sẽ luân  hồi trở lại làm người, cao quí hơn muôn vật.

 3.- A-tu-la (Thần): Gặp việc nhân nghĩa thì làm, gặp việc sái quấy cũng không tránh, vừa cang trực, mà cũng vừa độc ác. Mặc dù có làm những điều phước thiện, nhưng tánh tình hung hăng nóng nảy vẫn còn, lại thêm tà kiến, si mê, tin theo tà giáo. Tạo nhân như vậy, kết quả sẽ luân hồi làm A-tu-la, gặp vui sướng  cũng có mà buồn khổ cũng nhiều.

4.- Súc sinh: Tạo nhân si mê, không phân biệt được phải – quấy, đúng -sai, tốt – xấu, tà – chánh, tội – phước… sa đoạ theo thất tình lục dục, tửu, tài, sắc, khí  không xét hay dở, tốt xấu, chết rồi luân hồi làm súc sinh.

5.- Ngạ quỉ: Tạo nhơn tham lam, bỏn xẻn, không biết bố thí giúp đỡ người, từ tiền của đến giáo pháp. Trái lại, còn mưu sâu, kế độc, để cướp đoạt của người, sau khi chết luân hồi làm ngạ quỉ.

6.- Địa ngục: Tạo nhân sân hận, độc ác làm nhiều điều tội lỗi vừa hại mình vừa hại người, phải luân hồi vào địa ngục, chịu đủ điều khổ sở.

*Điều này cũng rất dễ hiểu, chẳng hạn chúng ta đến thăm một người bạn, được thân nhân cho biết là anh ta vừa mới ra khỏi nhà để vào chợ. Chúng ta đi lại chợ để tìm, nguyên lý nguyên tắc để tìm nhanh nhất, là ta phải biết sở thích hằng ngày của anh là gì. Nếu anh là người ghiền rượu, thì mình đến quán rượu mà tìm; nếu anh là người ghiền cà phê, thì đến quán cà phê mà tìm; nếu anh là người mê phim, thì mình đến rạp chiếu phim mà tìm; nếu anh là người mê đá bóng, thì mình đến sân vận động mà tìm; nếu anh ta say mê Phật pháp tu hành, thì mình đến các chùa, các đạo tràng mà tìm;… như vậy, chắc chắn sẽ tìm gặp được anh mà thôi!

Bỏ 10 điều ác: không sát sinh, hại vật, không trộm cướp, tà dâm, không nói lời đâm thọc, hung ác, dối trá, thêu dệt, không tham dục, giận hờn và si mê. Trái lại, còn làm 10 điều lành là: phóng sanh, bố thí, giữ hạnh trinh tiết, nói lời chắc chắn, đúng lý và nhu hoà, trau dồi đức hỷ xả, từ bi và trí tuệ. Tu nhơn thập thiện như  vậy,  thì sau khi chết được sanh lên cõi trời. Nhưng nên nhớ cõi trời này cũng còn ở trong vòng phàm tục, chịu cảnh sanh tử luân hồi. Muốn thoát ra ngoài cảnh sanh tử Luân hồi thì phải tu nhân giải thoát.

Cho nên Cổ đức đã từng khai thị:

Làm dữ chẳng những thân hình phạt,
Mà linh hồn cũng lạc luân thêm.

Người chết rồi đâu phải là êm,

Còn tiếp tục chịu thêm đau khổ.

Lăn lộn mãi ở trong mê lộ,

Phải gánh mang vô số cực hình.

Bao nhiêu điều tội ác của mình,

Nó đều biến ra thành địa ngục.

Nào là chảo dầu sôi ùng ục,

Nào là giòi lúc nhúc thay cơm

Nào là rừng đao kiếm lơm chơm.

Nào là núi lửa phừng phừng cháy;

Ác thú có biết bao nhiêu loại,

Yêu tinh không còn thiếu mặt nào;

Đít bàn chông đầu chậu máu đào,

Đủ thứ quỉ đầu trâu mặt ngựa:

Con thì vác búa to ra bửa,

Con thì mang gậy chỉa ra đâm,

Con thì đem dao lớn đến bầm,

Con thì cố xé làm hai thỏi,

Con móc mắt con lo cắt lưỡi,

Con rút gân con thẻo lột da.

Cảnh hãi hùng không chỗ hở ra,

Còn nhiều nữa khó mà kể hết.

Khổ khi sống khổ sau khi chết,

Khổ hồn linh khổ xác thân trần,

Chúng sanh luôn chịu khổ không ngừng,

Cũng vì bởi nguyên nhân tội ác.

Nếu không sớm mở đường giải thoát,

Quỉ vô thường đến dắt hết mong.

Chốn ngục hình bị ném vào trong,

Chừng đó dẫu hối không thể kịp.

Hiện thời rán chừa xong ác nghiệp,

Việc thiện lương nên tiếp tục làm.

Dù khó khăn cũng rán gìn kham,

Mối đạo pháp cứ phăng đi tới.

Rèn lòng chớ để cho phạm giới,

Kiểm điểm từ lời nói việc làm,

Những điều còn ô trược tục phàm,

Thì nhứt quyết trì tâm sửa chữa.

Lo đạo đức như lo cơm bữa,

Nhớ Phật như mẹ nhớ con cưng.

Tất nhiên không còn tạo nghiệp trần,

Cảnh Phật sẽ đặt chân vào được.

Từ làm tội đổi ra làm phước,

Chỉ cách nhau ở chỗ quyết tâm.

Đâu phải là cách trở xa xăm,

Mà sanh chúng bảo rằng khó đổi.

Việc làm phước hay là làm tội,

Đều tại mình không phải tại ai.

Nếu muốn tu thì cứ tu ngay,

Chớ đừng có đợi mai đợi mốt.

Lòng cương quyết dù ai muốn cột,

Cũng không làm sao buộc được mình.

Nếu người tu có đủ đức tin,

Sẽ thắng được cảnh tình trắc trở.

Lòng tin tưởng vốn là cơ sở,

Tin tưởng càng mạnh mẽ chừng nào,

Mục đích càng sẽ được tới mau,

Không ai có thể nào xô ngã.

(Duy Nhất – cư sĩ)

Hòa thượng Tịnh Không có một đoạn khai thị như sau:

-“Năm xưa, lão cư sĩ Lý Bĩnh Nam giới thiệu Phật pháp cho sinh viên đại học chuyên khoa. Thầy đã soạn một giáo trình gọi là “Phật Học Khái Yếu Thập Tứ Giảng”, ở trong đây có nói đến cõi địa ngục. Một ngày nơi địa ngục là 2.700 năm nhân gian chúng ta. Giả sử bạn sống được 100 tuổi, khi quay trở lại địa ngục, người ta nói bạn đi còn chưa đến một giờ đồng hồ, sao bạn lại quay vào rồi? Cho nên tam đồ quả thật là khó ra khỏi.

Phật ở trong kinh có nêu ví dụ: “Đầu thò đầu thụt”, ví dụ này rất đáng để cho chúng ta suy ngẫm. Chỉ cần còn ở trong lục đạo, thì tam đồ là quê nhà. Đến ba đường thiện là giống như đi ra du lịch, thời gian đều rất ngắn ngủi, lập tức liền phải quay về. Cho nên ở trong ác đạo, “đầu thụt” là chìm vào dưới nước rồi; “Đầu thò” thì thỉnh thoảng ngoi đầu lên, hít một hơi không khí, đây gọi là “đầu thò”. Phật dùng những cái này để miêu tả chân tướng ở trong lục đạo…

…Trong kinh ghi chép, A La Hán nghe Phật giảng kinh, khi Phật giảng đến địa ngục thì những vị A La Hán này tâm vẫn còn run sợ, vừa nghe thấy thì trên thân đều xuất mồ hôi máu, vì quá khứ đã từng trải qua rồi. Phật vừa nói, nghĩ lại tình trạng trước đây ở trong địa ngục, nỗi sợ hãi vẫn hiện tiền như xưa. Chúng ta thì không biết điều này. Khi nào chúng ta thoát khỏi ngu si, đoạn tham sân si liền chứng quả A La Hán, thì những việc đời đời kiếp kiếp trong đời quá khứ đều có thể nhớ hết. Khi chúng ta đã hồi phục trí nhớ, nghĩ đến tình trạng ở trong lục đạo trước đây, bạn đã từng làm vua trời, làm súc sanh, làm ngạ quỷ, cũng đọa địa ngục, đường nào cũng đều trải qua rồi. Chúng sanh ở trong đường nào cũng đều có quan hệ mật thiết với ta, ngày nay chúng ta gọi là quan hệ thân thuộc…

…Bản thân chúng ta được thân người thật không phải dễ, ở trong kinh luận thường nói: “Thân người khó được, Phật pháp khó nghe”. Được thân người, nghe Phật pháp là điều đáng quý nhất, thù thắng nhất. Tức là bạn có được cơ hội giải thoát, bạn có được cơ hội thoát khỏi luân hồi, viên thành Phật đạo, bạn có được cơ hội làm vô lượng vô biên công đức lợi ích. Đây quả thật đúng là cơ duyên “trăm ngàn muôn kiếp khó được gặp”. Nếu bạn không thể nắm bắt lấy, bạn vẫn cứ tùy thuận theo tập khí phiền não của mình, không tin giáo dục thánh hiền, cứ mãi tha hồ làm bậy, thì bạn đích thực là oan uổng, đích thực là quá đỗi sai lầm! Lịch sử là tấm gương soi, cảnh giới lục trần trước mắt đâu có cái nào không phải là tấm gương soi?

…Tôi đã từng nói qua rất nhiều lần với quí vị, tôi từ khi còn rất trẻ, trước đây lúc vẫn còn đang làm việc, trước khi chưa xuất gia, mỗi ngày đều xem báo chí. Tôi xem báo không giống như mọi người, mọi người lưu tâm đến những tin thời sự mà báo chí đưa tin, tôi mỗi ngày lưu ý là tin buồn, tôi xem cái này. Mỗi ngày xem tin buồn, mỗi ngày xem những người nào đã qua đời, có người tuổi cao, có người tuổi còn trẻ, tôi thích xem những tin tức này, xem những thứ này có sự cảnh giác. Hôm nay đã qua đời chừng này, ngày mai lên đường nhiều chừng khác, thử xem tương lai sẽ đến lượt của mình rồi.

Đại sư Ấn Quang dạy người học, hãy đem chữ “Tử” dán lên trán. Hằng ngày nhìn thấy cái chữ tử này, ta sắp phải chết rồi, sau khi ta chết sẽ đi về đâu? Tôi trước khi còn chưa học Phật, tôi đã có cái tâm cảnh giác này. “Con người sắp chết, lời nói thường thiện”, việc gì phải khó dễ với người khác chứ? Việc gì phải so đo chứ? Việc gì phải tạo nghiệp chứ? Quan sát từ phương diện này, thì tôi còn có một chút thiện căn này. Cho nên ngay trong một đời này, dù là trước khi học Phật hay sau khi học Phật, tôi khởi tâm động niệm, ngôn ngữ tạo tác, ác nghiệp ít rồi. Tôi hy vọng ngay trong đời này thật sự sẽ làm được ác nghiệp thảy đều không còn nữa.

…Tất cả pháp thế gian hay xuất thế gian, không có gì bạn có thể mang theo được. Ở trong Phật pháp nói: “Mọi thứ điều bỏ lại, chỉ có nghiệp mang theo”, chúng ta không thể không lưu ý…”.

************

*Nghiệp lực dẫn thần thức đi đầu thai quanh quẩn trong ba cõi sáu đường, xuống xuống lên lên không bao giờ dừng nghỉ, nhưng tuân thủ đúng theo luật nhân quả, vô cùng chính xác, không hề sai lệch dù tơ hào nhỏ nhít nào. Tức là tạo nghiệp nhân là thiện thì quả báo thiện, tức hạnh phúc an lạc sẽ đến, còn tạo nhân ác thì có ác quả tức khổ đau hoạn họa sẽ đến, mà người xưa từng bảo: “Chủng qua hoàn đắc qua, chủng đậu hoàn đắc đậu” (tức là trồng dưa hưởng dưa, gieo đậu hưởng đậu), nhân nào thì quả nấy! Cổ Đức đã diễn tả như sau:

Nhơn loại chẳng ai mà thuận cảnh,

Chúng sanh không ai rảnh trong lòng;

Thế mà chẳng việc nào xong,

Chết rồi mà vẫn còn lòng nuối theo.

Bởi tiếc nuối giàu nghèo thương ghét,

Bởi tạo ra các nghiệp tiền trần;

Nên sau khi đã bỏ thân,

Đi theo nghiệp ấy chuyển luân lại liền.

Nghiệp lôi cuốn như ghiền bịnh rượu,

Khi thèm không ai rủ cũng đi;

Hôm qua say ngủ li bì,

Bữa nay say nữa dễ gì bỏ say.

Nghiệp thế phải đầu thai cõi thế,

Mến trần thì sanh đẻ nơi trần;

Quả sanh vì bởi có nhân,

Nếu nhân không có quả sanh bao giờ.

Trước cũng bởi vì nhơ bợn thế,

Nay mới rơi trong bể hồng trần;

Hiện thời nếu chẳng tu thân,

Sau nầy khó tránh khỏi phần đầu thai.

Tùy theo nghiệp mỏng dầy đã tạo,

Mà trí ngu bần phú khác nhau;

Nhưng dù khôn dại nghèo giàu,

Vẫn già vẫn chết vẫn đau khổ đời.

Những cái khổ hồi thời quá khứ,

Người đã quên thành thử không ghê;

Thật ra là một tràng mê,

Từ hồi vô thỉ kéo lê đến giờ.

Biết bao kiếp lên bờ xuống nước,

Khi thăng Tiên khi rớt lại phàm;

Lúc người lúc thú lam nham,

Kể sao hết cuộc thăng trầm tiền thân.

Khi thì phú khi bần tột hạng,

Lúc ấm no lúc chẳng áo cơm;

Khi ngói gạch khi lá rơm,

Lúc thì quan tướng lúc làm tù nhơn.

Kiếp thì bị treo thân lủng lẳng,

Kiếp thì ngồi chỏng cẳng ra oai;

Kiếp thì chết chẳng chôn thây,

Kiếp thì tống táng chật ngoài chật trong.

Khi thì xác trôi sông chập chã,

Khi thì thây tan rã giữa đồng.

Kể sao hết chuyện não nồng,

Của tiền kiếp khách trần hồng đã mang.

Kiếp làm gái chịu đàng đẻ chửa,

Kiếp làm trai con vợ đùm đề;

Khi thì trọn kiếp phu thê,

Khi thì bướm chán ong chê giữa chừng.

Có khi bị cùi phung xụi bại,

Có khi thì điên dại mù câm;

Sống không nhà cửa ăn nằm,

Lang thang đàng phố xin ăn qua ngày.

Có kiếp bị bọn trai lừa gạt,

Có kiếp thì bị thác vì tình;

Kiếp thì làm đĩ bán mình,

Kiếp thì cô quạnh trong tình cấm cung.

Khi thì được anh hùng vang dội,

Khi thì mang lấy tội phản thần;

Lúc thì quý tợ vàng cân,

Khi thì rẻ nát còn hơn con giòi.

Kiếp thì được người coi Vua chúa,

Kiếp thì ra thân đứa ăn mày;

Mới cười kế khóc chua cay,

Cứ như thế đó đổi thay không ngừng.

Như lời đã vừa phân đoạn trước,

Giàu nghèo do tội phước mỏng dầy;

Không cần phải hỏi nơi ai,

Tự mình suy cũng hiểu ngay thế nào.

Kiếp trước mở hồ bao bố thí,

Nên kiếp nầy địa vị giàu sang;

Kiếp nầy bỏn sẻn tham gian,

Kiếp sao đói khó nghèo nàn tả tơi.

Nghiệp dâm đãng sanh nơi đĩ điếm,

Nghiệp rượu chè sanh chốn tửu lâu;

Nói sơ kể chẳng hết đâu,

Nghiệp đâu sanh đó khó hầu đi sai.

Mới kiếp trước ghét cay ghét đắng,

Kế kiếp sau làm bạn làm chồng;

Luân hồi lộn bậy cõi hồng,

Khi cha khi mẹ khi chồng khi con.

Mới đời trước đánh đòn đứa ở,

Kế đời sau làm tớ bị đòn;

Chết rồi nhưng nghiệp vẫn còn,

Mạnh thì nở trước yếu tồn lại sau.

Cuộc luân chuyển chừng nào mới hết,

Nếu chúng sanh còn kết dây oan;

Ở trong ba cõi sáu đàng,

Như là giữa bãi chiến tràng khác chi.

(Duy Nhất – cư sĩ)

Làm lành được báo ứng

Ai đã từng học qua sách Tam Tự Kinh đều biết câu: “Đậu Yên Sơn, hữu nghĩa phương; giáo ngũ tử, danh câu dương.” Sự tích Đậu Yên Sơn được nhắc đến ở đây chính là một câu chuyện nhân quả báo ứng rất xác thật, xin được kể lại dưới đây để mọi người chiêm nghiệm.

Đậu Vũ Quân là người U Châu, sống vào khoảng cuối đời Tấn. Vì U Châu thuộc nước Yên nên còn gọi là Yên Sơn. Vũ Quân mồ côi cha thuở bé, bao nỗi nhọc nhằn lo toan đều đè nặng trên đôi vai gầy của mẹ.

Vũ Quân là người chí hiếu, xưa nay chưa từng dám trái lời mẹ. Vào thời đó, thanh niên khoảng 20 tuổi đều đã kết hôn, và nếu đến năm 30 tuổi mà vẫn chưa có con nối dõi tông đường thì nhất định cảm thấy bồn chồn lo lắng. Vũ Quân đã hơn 30 tuổi mà vẫn chưa có con nên không khỏi ngày đêm lo lắng.

Bỗng một đêm nọ, tiên sinh nằm mộng thấy ông nội đã chết hiện về nói:

– Vũ Quân, đời trước cháu đã gây tạo nghiệp ác rất nặng, nên vận mạng của cháu trong đời này chẳng những không có con mà tuổi thọ cũng rất ngắn ngủi. Mong cháu sớm hồi tâm hướng thiện, nỗ lực làm nhiều việc lành, cứu giúp mọi người, nhờ đó có thể chuyển biến nghiệp lực, cải đổi vận mạng.

Vũ Quân giật mình tỉnh giấc, ngồi nhớ lại và ghi sâu từng lời nói của ông nội vào lòng, từ đó lập chí không làm các việc ác, chuyên tâm làm các việc lành.

Nhà họ Đậu có một người làm thuê, lén trộm của Vũ Quân đến hai vạn tiền vàng. Vì sợ Vũ Quân phát giác truy tố, liền tự ý viết một tờ giấy nợ ghi đủ số tiền vàng, buộc lên tay đứa con gái nhỏ của mình, trong đó ghi rõ: “Tôi bán đứa con gái này cho nhà họ Đậu để trừ số nợ đã vay.” Rồi người ấy bỏ đứa con gái lại mà trốn đi biệt dạng.

Vũ Quân phát giác ra sự việc, liền đốt bỏ tờ giấy nợ, từ đó nuôi dưỡng, dạy dỗ đứa con gái của người kia một cách hết sức tử tế, về sau còn lo chu đáo cả việc lập gia đình cho nó nữa.

Một lần, nhân dịp tết Nguyên đán Vũ Quân đến chùa Diên Khánh lễ Phật, bỗng thấy bên vách điện Phật có một cái túi nhỏ, nhặt lên xem thì phát hiện bên trong có 200 lượng bạc, 30 lượng vàng. Vũ Quân suy nghĩ, chắc chắn số tiền vàng này là của khách hành hương nào đó bỏ quên, khi phát hiện mất tiền nhất định sẽ quay lại tìm. Nghĩ vậy, tiên sinh liền ngồi lại trong chùa đợi người chủ mất tiền đến để trả lại.

Đợi rất lâu, quả nhiên thấy có một người đi đến, vừa đi vừa khóc than thảm thiết. Vũ Quân hỏi duyên cớ vì sao mà khóc than thảm thiết như thế, người ấy đáp:

– Phụ thân của tôi phạm tội bị kết án tử hình, tôi vất vả chạy đông chạy tây hỏi mượn bà con bạn bè mới được 200 lượng bạc, 30 lượng vàng, vừa đủ số nộp cho quan phủ để chuộc mạng cho cha. Nào ngờ tôi lại sơ ý đánh rơi túi tiền lúc nào không biết, như vậy cha tôi ắt không thoát khỏi cái chết. Tôi đang trở lại tìm kiếm những nơi vừa đi qua sáng nay, nhưng quả tình không thể biết được là đánh rơi ở nơi nào.

Vũ Quân xác định được người này đúng là chủ nhân của số tiền mình đã nhặt được, bèn mang trả lại cho ông ta. Người ấy nhận lại được số tiền đã mất, vui mừng khôn xiết, hết lời cảm tạ rồi ra đi.

Đậu Vũ Quân tuy còn trẻ tuổi mà đã nỗ lực làm được rất nhiều việc tốt. Những khi trong làng xóm có tang sự mà không đủ tiền mua quan tài, tiên sinh liền giúp tiền cho thân nhân để mua. Đối với người nghèo khổ, khốn khó, tiên sinh thường cho mượn tiền làm vốn để buôn bán lập nghiệp, nhờ đó có rất nhiều người nghèo khổ ở khắp nơi nhờ sự giúp đỡ này mới duy trì được cuộc sống. Hơn thế nữa, để có tiền cứu giúp những người nghèo khổ, tiên sinh phải tự mình hết sức tiết kiệm trong sinh hoạt của gia đình và bản thân, không bao giờ lãng phí dù chỉ một đồng tiền. Tất cả thu nhập hằng năm, ngoài chi phí tối thiểu cho gia đình ra còn tất cả đều dùng vào việc cứu giúp người khác.

Tiên sinh đã xây dựng được 40 thư viện, trong đó có hơn ngàn quyển sách quý; còn mở trường dạy miễn phí cho con em trong làng, mời các thầy giáo nổi tiếng đến dạy học. Nhờ đó đã đào tạo được rất nhiều nhân tài ưu tú đóng góp cho xã hội.

Trải qua nhiều năm như vậy, một đêm nọ Đậu Vũ Quân lại nằm mộng thấy ông nội hiện về nói:

– Cháu đã làm được rất nhiều việc tốt, tích chứa nhiều âm đức, nhờ đó mà tuổi thọ sẽ được tăng thêm, đồng thời sẽ sinh được 5 người con trai, ngày sau đều thành đạt.

Từ đó về sau, Đậu Vũ Quân càng nỗ lực tu thân tích đức. Sau đó quả nhiên sinh được 5 người con trai, gia đình hòa thuận thương yêu nhau, con cái hết lòng hiếu kính cha mẹ. Cả năm người con ấy về sau đều thi đậu tiến sĩ. Con trai lớn nhất là Đậu Nghi làm tới chức Thượng thư; con trai thứ là Đậu Nghiễm làm chức Hàn lâm học sĩ; con trai thứ ba là Đậu Xưng làm quan Tham tri chính sự; con trai thứ tư là Đậu Khản giữ chức Khởi cư lang; con trai thứ 5 là Đậu Hi giữ chức Tả bổ khuyết. Cho đến những người cháu của Vũ Quân về sau cũng đều hiển đạt giàu sang. Bản thân Đậu Vũ Quân cũng làm tới chức Gián nghị đại phu, hưởng thọ 82 tuổi, trước khi lâm chung được biết trước ngày giờ, từ biệt bạn bè và người thân, tắm rửa thay y phục rồi an nhiên nhẹ nhàng ra đi.

(trích: Lịch Sử Cảm Ứng Thống Ký)

D/- Những tương quan giữa Nhân và Quả.

Trạng thái nhân quả thật là nhiều vô cùng, gây nhân nào tất cảm quả ấy, duy sự báo ứng hoặc đến sớm hay muộn mà thôi. Trong đây, nếu có sự chuyển biến, là do những ảnh hưởng của duyên xấu hoặc duyên tốt khác xen vào.

Thí dụ, một ly nước trong, như ta chỉ bỏ muối vào, tất nước phải mặn; nhưng nếu lại để xen thêm đường, vị nước sẽ đổi khác. Sự chuyển biến của nhân quả thiện ác cũng như thế.

Trong kinh Luân Chuyển Ngũ Ðạo, Đức Phật bảo:

– Nầy A Nan! Muôn vật giữa đời đều có túc duyên. Người được quả báo hào quý làm bậc quốc-v ương, trưởng giả, từ nơi nhân lễ kính, phụng sự Tam Bảo mà đến. Người được quả báo giàu có, của cải vô hạn, từ nơi nhân bố thí mà đến. Người được quả báo sống lâu, không đau bịnh, thân thể mạnh khoẻ cao lớn, từ nơi nhân giữ giới mà đến. Người được quả báo đoan trang xinh đẹp, nước da trắng tươi sáng rỡ, ai thấy cũng đều ưa thích mến chuộng, từ nơi nhân nhẫn nhục mà đến. Người tánh nết siêng năng mau mắn, ưa làm việc phước thiện, từ nơi nhân tinh tấn mà đến. Người dáng điệu an nhàn, lời và hạnh đều có suy nghĩ, chừng mực, chắc chắn, từ nơi nhân thiền định mà đến. Người thông minh tài trí, hiểu suốt thâm pháp, từ nơi nhân tu huệ mà đến. Người được tiếng nói thanh thao rõ suốt, ai cũng ưa nghe, từ nơi nhân tụng kinh, ca ngợi Tam Bảo mà đến. Người dáng vẻ sáng sạch hiền hòa, không đau yếu, ai thấy cũng mến, từ nơi nhân từ tâm mà đến.

Ngài A Nan thưa:

– Bạch Thế Tôn! Sao gọi là “từ tâm”?

Ðức Phật bảo: “Từ tâm có bốn điều:

1- Thương tất cả chúng sanh như mẹ thương con.

2- Thấy chúng sanh khổ, xót xa muốn cứu độ.

3- Thấy chúng sanh hiểu đạo, biết làm lành, hướng về nẻo giải thoát, sanh lòng vui mừng.

4- Thường ái hộ chúng sanh, chẳng những săn sóc giữ gìn thân mạng, mà còn không có lời vô ý làm cho người bất mãn, buồn rầu. Ấy là những tướng trạng của từ tâm.

– Lại nầy A Nan! Kẻ nào thân thể cao lớn, là do nhân ưa lễ bái, khiêm nhường, cung kính tất cả mọi người. Kẻ nào lùn thấp, là do nhân khinh mạn, tự cao. Kẻ nào dung mạo thô xấu, là do nhân giận hờn, nóng nảy. Kẻ nào sanh ra ngây ngô kém hiểu biết, là do nhân không thích học hỏi. Kẻ nào ngu si, là do nhân không chịu dạy dỗ người. Kẻ nào câm ngọng, là do nhân khinh ngạo, chê bai người. Kẻ nào đui điếc là do nhân hủy báng Tam Bảo, không chịu nghe chánh pháp. Kẻ nào làm thân tôi đòi là do nhân mắc nợ không trả, hoặc không kính lễ Tam Bảo. Kẻ nào thân hình đen xấu, là do nhân che ánh sáng của Phật. Kẻ nào sanh ra ở nước Lõa hình, là do nhân ăn mặc hở hang vào tinh xá, hay đến trước chỗ Phật. Kẻ nào sanh vào nước Mã đề (thân người, bàn chân ngựa), là do nhân mang giày dép đi trước chỗ Phật. Kẻ nào sanh ở nước Xuyên hung (mọi người đều xoi hông), là do nhân bố thí làm phước mà sanh lòng hối tiếc.

– A Nan! Chúng sanh nào làm loài hươu nai, là do kiếp trước ưa làm cho người sợ hãi. Chúng sanh nào sanh làm loài rồng, là do kiếp trước ưa bỡn cợt và giận hờn, làm cho người phiền muộn. Kẻ nào nơi thân bị bịnh lác,  là do kiếp trước đánh đập chúng sanh. Kẻ nào mọi người trông thấy đều vui mừng cảm mến, là do kiếp trước khi thấy người, niềm nở vui mừng cảm mến. Kẻ nào mọi người trông thấy đều chán ghét, là do kiếp trước khi thấy người, rẻ rúng chán ghét. Kẻ nào thường bị gông cùm tù ngục, là do kiếp trước hay trói buộc hoặc giam nhốt chúng sanh trong lồng chậu, khiến cho nó không được tự do. Kẻ nào bị rách miệng sứt môi, là do kiếp trước ưa câu cá.

– A Nan! Kẻ nào trong hội thuyết pháp không để ý lắng nghe, lại nói trái ngược làm loạn ý người khác, kiếp sau sanh làm con lừa tai dài, hoặc loài chó xụ tai. Kẻ nào kiêu căng bỏn sẻn tham lam, thích lén ăn uống, chỉ hưởng thụ riêng một mình không đoái hoài đến người thân sơ, hạng nghèo khổ; lúc chết rồi bị đọa vào Địa ngục, kế làm loại Ngạ quỷ, khi được sanh làm người thì nghèo hèn đói khát, mặc chẳng kín thân, ăn không no bụng. Kẻ nào thường ăn riêng thức ngon, cho người món dở, kiếp sau bị đọa làm loài chó, lợn, bọ hung. Kẻ nào thường tách mai, đánh vảy, lột da loài vật, đời sau làm sanh vật bị quả báo y như hành động của mình kiếp trước. Kẻ nào ưa giết hại, kiếp sau sẽ bị đọa vào Tam đồ, cho đến làm con phù du trên mặt nước, sớm sanh chiều chết. Kẻ nào trộm cướp, kiếp sau sẽ làm thân tôi tớ, hoặc trâu bò, lừa, ngựa để trả nợ người. Kẻ nào hay nói dối, nói đâm thọc, mắng chửi, nói lời cay độc, bêu rêu việc xấu của người, khi chết sẽ sa xuống Địa ngục, bị rót nước đồng sôi vào miệng, hoặc bị cắt lưỡi, cày lưỡi, sau lại làm thân ác điểu, người nghe tiếng kêu đều kinh sợ bảo là điềm quái gở, nguyền rủa muốn cho nó chết. Kẻ nào quyến rũ dâm loạn vợ chồng con cái người, khi chết đọa vào Địa ngục, nam ôm cột đồng lửa, nữ nằm giường sắt nóng, sau lại làm loài thú đa dâm, hoặc làm loài ngỗng, vịt. Kẻ nào ưa uống rượu, phạm nhiều tội ác, lúc chết bị đọa vào Địa ngục, sau sanh làm loài dã nhơn, khi được thân người lại ngu si khờ dại. Kẻ nào vợ chồng không biết nhường nhịn hòa thuận, thường hay tranh cãi, nặng lời xua đuổi nhau, kiếp sau đọa làm thân chim cưu (tu hú), chim bồ câu. Kẻ nào ưa lạm dụng sức người, kiếp sau sanh làm loài voi, bị người dùng sức lại.

– Nầy A Nan! Trừ những vị làm quan, y theo pháp luật, hạch hỏi xử phạt một cách công minh, thì không tội. Nếu hạng quan liêu ỷ quyền thế xâm đoạt tài sản của dân, hoặc ăn hối lộ dung túng kẻ ác, tra tấn, gông cùm, xử hiếp người vô tội hay không đáng tội, thì khi chết sẽ bị đọa vào Địa ngục chịu thống khổ ngàn muôn kiếp, sau lại sanh vào loài trâu bò bị xỏ mũi, đánh đập, mang kéo nặng nề để đền tội trước.

– Lại nữa, A Nan! Người nào từ thân thể đến cách ăn ở, lôi thôi không  sạch sẽ, do từ loài lợn mà đến. Người nào tham lam bỏn sẻn không ưa bố thí, do từ loài chó mà đến. Người nào ngược ngạo, tự tung tự tác không chịu nghe lời ai, do từ loài dê mà đến. Người nào tánh lao chao, gặp việc không nhẫn nại, do từ loài khỉ vượn mà đến. Người nào có tâm độc ác ngầm, do từ loài rắn rết mà đến. Người nào thích ăn ngon, hung dữ, ưa khủng hại chúng sanh, không có tâm lành, do từ loài cọp, sói, mèo, chồn mà đến…

(trích: Phật Học Tinh Yếu – H.T Thích Thiền Tâm)

Chuyện cậu bé mù xây cầu

Vào triều Bắc Tống, ở một làng nọ có một cậu bé tàn tật chừng mười tuổi, gãy chân, sống một cuộc sống ăn xin nghèo khổ. Trước làng là một con suối lớn. Vì không có cầu, nên dân làng muốn qua suối là phải lội, rất bất tiện, nhất là đối với những người già vào mùa nước lũ. Nhiều năm đã qua đi như vậy, cho đến một hôm người ta thấy cậu bé ăn xin què quặt gom những tảng đá lớn về bên suối. “Cháu muốn xây cầu để mọi người đi lại thuận tiện”, cậu giải thích. Người làng cho đó là chuyện khôi hài của một cậu bé khùng nên không để ý đến.

Nhưng đống đá dần dần lớn lên qua tháng năm trở thành một cái gò, và dân làng bắt đầu hiểu ra. Nhiều người cũng góp thêm sức vào, chẳng mấy chốc đã đủ đá xây cầu. Rồi người ta thuê thợ xây dựng đến làm. Trong quá trình cùng làm, cậu bé bị mảnh đá bắn vào mắt và mù cả hai mắt. Người dân lấy làm thương cảm lắm. Nhưng cậu bé, mặc dù đã què lại thêm mù, vẫn không một lời ca thán và cố gắng trong khả năng của mình cùng góp sức xây cầu với dân làng.

Cuối cùng, sau những tháng ngày nhọc nhằn vất vả, cây cầu đã được xây xong. Dẫu không nhìn thấy gì, nhưng trên khuôn mặt của cậu hiện một nụ cười rạng rỡ.

Đột nhiên một tiếng sấm nổ vang dù trời quang mây tạnh. Và người ta thấy rằng cậu bé ăn mày đáng thương đã bị sét đánh chết ngay trên chiếc cầu mới xây.

Bấy giờ đúng lúc Bao Công đi thị sát qua làng. Dân làng kéo ra kêu oan với Bao Công, rằng tại sao trời xanh lại hại người tốt. Trước câu chuyện quá thương tâm, và cảm thấy quá bất công, Bao Thanh Thiên chẳng cầm nổi lòng mình, bèn viết “thà làm điều ác còn hơn làm điều thiện”.

Trở về Kinh thành sau chuyến công du, Bao Công cảm thấy trong lòng không thoải mái, nhất là về những gì ông đã viết trong lúc không dằn được lòng mình. Trong bản tấu trình, ông đã không tâu lên Hoàng thượng về sự kiện hy hữu đó.

Hoàng thượng hôm ấy mời Bao Công đến chơi và dẫn Bao Công đến gặp hoàng tử mới ra đời trong lúc Bao Công đi thị sát ngoại tỉnh. Hoàng tử trông khôi ngô nhưng mắc tật khóc suốt ngày. Hoàng thượng cũng muốn hỏi Bao Công xem có cách nào cho hoàng tử hết khóc. Bao Công thấy hoàng tử da dẻ trắng trẻo mịn màng, và trong lòng bàn tay dường như có một hàng chữ. Ghé mắt vào nhìn kỹ thì chính là “thà làm điều ác còn hơn làm điều thiện”! Quá bất ngờ và xấu hổ, Bao Công lấy tay để xoá, và kỳ lạ thay, ông vừa vuốt qua thì dòng chữ biến mất. Hoàng tử nín khóc tức thì.

Hoàng thượng rất đỗi ngạc nhiên, hỏi tại sao lại như thế. Bao Công sợ hãi quỳ xuống kể lại hết đầu đuôi câu chuyện, và xin Hoàng thượng xá tội vì đã không báo cáo về chuyện này trong bản tâu trình. Hoàng thượng bèn ra lệnh Bao Công phải điều tra cho rõ vụ việc.

Đêm ấy Bao Công ngả đầu lên chiếc gối “âm dương địa phủ” và lập tức trong mộng đi đến cõi âm gian. Diêm Vương kể cho ông rằng hoàng tử đó vào mấy đời trước từng làm việc đại gian ác, nên Thần đã an bài phải trả nghiệp ác ấy trong ba đời: đời thứ nhất què cụt, đời thứ hai mù loà, và đời thứ ba bị sét đánh chết. Nhưng khi què quặt xin ăn, cậu bé đã luôn vì người làm việt tốt, nên Thần đã rút lại thời gian trả nghiệp và khiến cậu bé ăn xin bị mù. Sau khi mù, cậu bé đã không những không oán thán ai hết mà vẫn luôn vì người làm điều Thiện. Vì lý do ấy mà Thần đã an bài lại một lần nữa để cậu bé trả hết nghiệp trong một đời. Diêm Vương nói với Bao Công: “Một đời trả hết nghiệp thay cho ba đời, lại còn được chuyển sinh làm đương kim Thái tử, hưởng thụ phúc phận của Thiên tử.”

(Theo Minhhue.net)

Hai mẹ con bị sét đánh

Một ngày vào giữa tháng 6 năm 1792 (đời nhà Thanh, vua Càn Long năm thứ 57), tại huyện An Đông xảy ra một chuyện kinh thiên động địa. Bấy giờ ở một thôn thuộc huyện An Đông có người phụ nữ mang thai đến ngày sinh nở đã mời một bà đỡ trong thôn đến giúp. Sau khi người phụ nữ bình an sinh được một bé trai khỏe mạnh, bà đỡ đã ngủ lại nhà họ một đêm đến sáng hôm sau mới về. Ngay sau đó, người chồng từ nơi khác trở về nhà, vô cùng vui mừng và hạnh phúc vì vợ sinh được một bé trai, định bụng lấy tiền để sắm sửa làm lễ tạ Thần. Lúc này người chồng vừa sờ vào chiếc gối mà ông vẫn cất giữ tiền thì hoảng hốt nói:

-Ta cất giấu 4 thỏi bạc ở đây không một ai biết, sao bây giờ đột nhiên biến mất?

Ông liền hỏi vợ thì mới biết được đêm hôm qua bà đỡ đã ngủ trên chiếc gối này, có khả năng là bà đã lấy chúng. Thế là, người chồng liền đến nhà bà đỡ để xin lại số bạc, còn ngỏ ý tặng cho bà đỡ một nửa số đó để tạ ơn, một nửa còn lại là dùng để làm lễ tạ Thần. Không ngờ, bà đỡ nghe xong giận tím mặt mà nói:

-Ta đến nhà của ngươi là đỡ đẻ cho vợ ngươi, bạc nhà ngươi ta còn chưa nhìn thấy mà lại nói ta là kẻ trộm, vậy để ta thề độc cho ngươi nghe: “Nếu như ta mà bị oan uổng thì con trai ngươi sẽ bị chết, còn nếu ta mà lấy trộm của nhà ngươi thì ta bị thiên lôi đánh chết”.

Bà đỡ nói to để trấn áp người chồng kia khiến rất nhiều người hàng xóm đều nghe rõ.

Bởi vì người xưa đều rất xem trọng lời thề, cho nên người chồng sau khi nghe bà đỡ phát ra lời thề độc như vậy, liền không còn hoài nghi bà nữa, trái lại còn nghi rằng chính vợ mình đã lấy trộm rồi đổ oan cho người khác.

Ba ngày sau, gia đình lại mời bà đỡ đến để tẩy rửa cho con (theo phong tục của địa phương). Nhưng bà đỡ không đến, mà sai cô con gái đến làm. Đến đêm ngày hôm đó, đứa trẻ đột nhiên chết, hai vợ chồng họ đau xót vô cùng, dùng hộp gỗ làm quan tài cho đứa trẻ, đồng thời cũng khóc lớn rằng:

-Lời thề độc của bà đỡ linh nghiệm rồi, con của chúng ta chết rồi, đúng là chúng ta đã nghi oan cho bà ấy rồi!

Lúc này sấm sét đột nhiên nổ vang trời, mọi người đều nghe thấy một tiếng sét đánh đinh tai chói óc, toàn thôn đều kinh động, có người chạy đến xem chỗ bị sét đánh. Họ chỉ thấy hai người phụ nữ quỳ ở một khu đất trống trong thôn, cả hai đều bị sét đánh cháy đen trên tay mỗi người vẫn còn nắm chặt hai thỏi bạc. Mọi người xem xét, hai người phụ nữ chính là bà đỡ và cô con gái, mà số bạc kia chính là bạc của nhà người sản phụ bị mất.

Còn chỗ chôn đứa trẻ mà hai vợ chồng người sản phụ đang khóc nỉ non, hàng xóm lại phát hiện một chuyện lạ như thế, tất cả đều dồn đến xem đứa trẻ đã phục sinh. Họ nhìn kỹ mới thấy trên rốn của đứa trẻ có một đoạn kim, sau khi rút kim, đứa trẻ bị chảy ra một giọt máu, sau đó lại trở nên bình thường.

Đến lúc này mọi người mới biết, chính bà đỡ đã lấy trộm số bạc rồi lại tự mình phát lời thề độc. Hóa ra trong hôm làm lễ tẩy rửa cho đứa trẻ bà đã xui khiến con gái dùng kim đâm vào đứa trẻ nhằm mưu hại hài nhi. Với ý định khiến cho lời thề độc của mình ứng nghiệm để không còn ai hoài nghi việc bà đã trộm cắp số bạc kia. Nhưng, họ đã không ngờ rằng hết thảy những việc xấu mà con người làm ra đều không thể lừa gạt được trời đất, thần linh. Kết quả hai mẹ con đã phải chịu tội đúng như lời thề độc mà bà đã phát ra, còn hài nhi mệnh không đến đoạn cùng nên đã được cứu sống.

(Nguồn: daikynguyenvn.com)

*************

Một đoạn khác trong kinh Ðịa Tạng Bản Nguyện, Đức Phật bảo:

-“Nầy Tứ Thiên Vương! Ðịa Tạng Bồ Tát nếu gặp kẻ sát sanh, thì nói về quả báo do túc ương mà chết yểu. Nếu gặp kẻ trộm cắp, nói về quả báo nghèo hèn khổ sở. Nếu gặp kẻ tà dâm, nói về quả báo làm chim se sẻ, bồ câu, uyên ương. Nếu gặp kẻ thốt lời thô ác, nói về quả báo quyến thuộc chống đối nhau. Nếu gặp kẻ hay khinh chê, nói về quả báo lở miệng, không lưỡi.

– Nếu gặp kẻ ưa nóng giận, ngài nói về quả báo thọ thân hình thô xấu, tàn tật. Nếu gặp kẻ tham lam bỏn sẻn, nói về quả báo sự mong cầu không toại ý. Nếu gặp kẻ uống ăn vô độ, nói về quả báo đói khát, đau cuống họng. Nếu gặp kẻ buông lung săn bắn, nói về quả báo kinh hãi điên cuồng mất mạng. Nếu gặp kẻ phản nghịch cha mẹ, nói về quả báo bị tai nạn đất trời tru lục. Nếu gặp kẻ đốt núi rừng cây cỏ, nói về quả báo mê cuồng đến chết. Nếu gặp cha mẹ ghẻ ăn ở độc ác, nói về quả báo thác sanh trở lại bị sự roi vọt đánh đập. Nếu gặp kẻ ưa lưới bắt chim non, nói về quả báo cốt nhục chia lìa.

– Nếu gặp kẻ hủy báng Tam Bảo, ngài nói về quả báo đui, điếc, câm ngọng. Nếu gặp kẻ khinh chê chánh pháp, nói về quả báo hằng ở trong ác đạo. Nếu gặp kẻ lạm phá của thường trụ (của chùa chiền tăng chúng), nói về quả báo ức kiếp bị luân hồi nơi Địa ngục. Nếu gặp kẻ làm ô nhục người tu hạnh thanh tịnh, cùng vu báng tăng ni, nói về quả báo thường ở trong loài Súc sanh. Nếu gặp kẻ dùng nước sôi, dao gậy, hay lửa, giết hại chúng sanh, nói về quả báo luân hồi thay nhau để thường mạng. Nếu gặp kẻ phá giới phạm trai, nói về quả báo làm cầm thú bị đói khát. Nếu gặp kẻ phung phí tiền của một cách vô lý, nói về quả báo sự mong muốn tiêu dùng thường thiếu hụt. Nếu gặp kẻ kiêu mạn tự cao, nói về quả báo làm thân hèn hạ bị người sai khiến. Nếu gặp kẻ nói đâm thọc cho người sanh sự gây gỗ, nói về quả báo thọ thân không lưỡi hoặc trăm lưỡi. Nếu gặp kẻ tà kiến mê tín, nói về quả báo sanh nơi chỗ hẻo lánh không được nghe chánh pháp.

– Nầy Tứ Thiên Vương! Như thế, chúng sanh trong cõi Diêm Phù Đề, từ nơi thân, ngữ, ý tạo nghiệp, kết quả bị trăm ngàn sự báo ứng. Và tùy theo những nghiệp cảm sai biệt ấy, Ðịa Tạng Bồ Tát cũng dùng trăm ngàn phương tiện để hóa độ. Nay ta chỉ kể một đôi phần sơ lược thế thôi!”

Như trên, việc luân hồi nhân quả thật vô cùng vô tận, như bánh xe quay tròn, vay trả trả vay, không biết khi nào là kết cuộc! Trong luân hồi đã hàm nhân quả bởi nhân quả nên mới có luân hồi. Cho đến chư Phật muốn thành đạo Chánh Đẳng Bồ Đề, trong nhân hạnh cũng phải tu vô biên phước huệ. Nhưng đối với các bậc thánh giả, bởi đã dứt sạch ngã chấp, nên tùy ý đến hóa độ các cõi, hay muốn sống chết lúc nào cũng được tự tại. Và bởi chư Thánh lấy pháp giới làm thân, đã thoát ly ngũ uẩn, nên tuy thị hiện ở cõi trời, người, hay nơi ác đạo, cũng không bị sự khổ vui chi phối. Nên một vị thiền sư đã bảo:

“Lão tăng tự có phương nhàn tịnh;

Nào ngại trăm phiền tám khổ vây!”

Về sự luân hồi, duy có hai nghiệp Ái dục và Sát sanh là nặng nhất. Do Sát sanh mới thành cảnh oan cừu hờn giận, chém giết lẫn nhau, chiến tranh máu lửa…. Do Ái dục mới thành mối ân tình của vợ chồng quyến thuộc. Sát sanh phần lớn là do vì tham món ăn ngon. Ái dục lại bởi say đắm việc tình nhiễm giữa nam nữ. Nhưng so lại trong các thứ nhiễm lạc đời, thì nghiệp Ái dục sâu nặng và mạnh mẽ hơn cả. Từ xưa đến nay, biết bao bậc vương hầu khanh tướng, vì thanh sắc mà mất nước, lụy thân. Cho đến Đức Phật cũng công nhận, nếu có cái thứ hai mạnh như Ái dục, thì đệ tử của Ngài cũng không một ai tu hành đắc đạo giải thoát cả. Lấy một việc để nêu gương: như Ðường Minh Hoàng nếu không say đắm trong vòng thanh sắc, thì cũng có thể thành bậc anh quân, đâu để An Lộc Sơn gây thành cảnh đào vong bỏ nước. Loạn An Sử kéo dài chỉ vỏn vẹn 8 năm thì chấm dứt. Nếu như vua Ðường có duyên với Phật pháp, hiểu rõ lý mầu, thực hành ít nhiều theo lời kinh chỉ dạy, thì đâu đến nỗi: can qua giặc giã, trăm họ điêu linh, 36 triệu người (hai phần ba dân số toàn quốc) phải tử vong, nền kinh tế, văn hóa…   của đất nước Trung Hoa phải mất ngót gần hai trăm năm sau mới hồi phục trở lại trạng thái hưng thạnh ban đầu!

Thế nên, trong việc nhân quả luân hồi, hai nghiệp ‘dâm’ và ‘sát’, chẳng những người tu tại gia, mà bậc xuất gia cũng đều phải tự kiểm soát lấy lòng, và hết sức tránh duyên, dè dặt!

*Chính vì thế mà Cổ nhân cho biết:

“Ở trong đời bất luận ai,

Vay đời tất phải đầu thai trong đời.

Của vay thì phải trả lời,

Nay ăn một miếng mai thời trả hai.

Hiện thời chịu lắm nàn tai,

Tội nơi tiền kiếp đã vay quá nhiều.

Sướng bao nhiêu khổ bấy nhiêu,

Vui trong nghiệp ác là điều không vui.

Quả nào là quả chẳng muồi,

Nghiệp nào là nghiệp chẳng hồi trả đưa.

Đời tàn như giống gặp mưa,

Trả vay trước mắt không chờ đợi lâu.

Lưới Trời thưa chẳng lọt đâu,

Tiên mà phạm giới cũng thâu lại phàm.

Việc chi dù lắm muốn ham,

Nếu không chính đáng cũng cam nhịn chừa.

Dục tâm biết lượng sao vừa,

Ham rồi ham nữa bao giờ hết ham.

Ham trong nhứt khắc chừa kham,

Được vui muôn thuở được làm siêu nhân.

Thân trần ai cũng thân trần,

Khác nhau ở chỗ tinh thần tục Tiên.

Tục dù sang mấy cũng hèn,

Tiên dù hèn mấy cũng thiêng hơn đời.

Còn sanh còn chịu luân vơi,

Hết sanh hết bị chôn nơi cõi trần.

Luận suy cho đủ xa gần,

Đạo mầu ở chỗ tinh thần bất di.

Đầy lòng bác ái từ bi,

Cứu đời chẳng chút tiếc chi với đời”.

(Duy Nhất – cư sĩ)

****************

E/- Đời là một bể khổ đầy mồ hôi và nước mắt.

Có một số người cho rằng đời là một bữa tiệc dài, không hưởng thụ cũng uổng. Do đó, họ không để lỡ một dịp nào có thể đem lại cho họ những khoái lạc vật chất.

Nhưng họ đâu có ngờ mọi thứ khoái lạc ấy đều là giả dối, lừa phỉnh, chẳng khác gì cái khoái lạc mong manh của người khát mà uống nước mặn, càng uống lại càng khát; và cổ họng sau cái phút uống vào, lại thêm đắng chát.

Trong Khế kinh có câu: “Nước mắt chúng sinh nhiều hơn nước biển”. Thật thế! Cõi đời không vui, cõi đời toàn là khổ. Những nỗi vui, nếu có, cũng chỉ là tạm bợ, hào nhoáng như một lớp son bên ngoài mà thôi; chứ bản chất của cõi đời là đau khổ. Cõi đời là biển cả rộng lớn bao la đầy mồ hôi và nước mắt, trong ấy chúng sinh đang bơi lội, hụt lặn, chìm nổi, trôi lăn. Ðó là sự thật:

“Kiếp người lão bệnh nào từ,

Tử sanh nào thoát, huyễn hư cuộc đời”.

Hoặc là :

“Hồng trần là cõi bạc vôi,

Nó không chung thủy với người nào đâu.

Càng theo nó lại càng sầu,

Chúng sanh vì nó bị đầu thai luôn.

Những điều sầu khổ ngàn muôn,

Mỗi người đều mỗi quay cuồng khác nhau.

Người không ai giống ai nào,

Chung quy cũng một đường vào mồ ma”.

(Duy Nhất – cư sĩ)

Nhưng sự thật ấy, không ai nhìn thấy một cách tường tận và nói lên một cách rõ ràng như đức Phật đã chỉ dạy!

***********

F/- Tám thứ khổ lớn:

Đức Phật nói rằng tất cả chúng sanh trong cõi trần nầy chịu muôn ngàn điều khổ não, kể chẳng xiết, nhưng có thể tóm tắt lại làm tám điều, vì trong tám điều khổ ấy nó có thể nảy ra muôn ngàn sự khổ não kia.

1/- Sự sanh khổ:

Vì linh hồn chưa được hoàn toàn tròn đạo hạnh mà đắc quả vị nên còn phải đầu thai làm con người thế gian. Khi nhập vào thai trong bụng người đàn bà thì phải chịu sự tối tăm tồi túng, chẳng thấy trời trăng. Bị bao bọc ràng rịt, thai nhi bị sự nuôi dưỡng bằng tinh huyết của mẹ, lúc mẹ đau ốm thì thai nhi yếu ớt; lúc mẹ làm lụng mệt nhọc, thai nhi chẳng yên; lúc mẹ đói cơm, thai nhi dường như cái túi bị treo chẳng vững; lúc mẹ ăn uống no bụng, thai nhi bị sự lấn ép của bao tử và ruột rất nhọc nhằn. Khi đúng ngày giờ phải chun ra cửa sản môn ô uế như hai viên đá ép mình, khi ra khỏi mình mẹ, cảm thấy hơi gió cắt da, đau nhức khó chịu nên cất lên tiếng khóc để tỏ ý chẳng bằng lòng với cảnh cực nhọc.

Xét như vậy nên Phật mới cho sanh là khổ; mà chúng ta là người học đạo, xét cho chí lý đều cũng phải công nhận sự nhận xét của Phật rất đúng vậy.

(trích: 7 Bài Pháp Luận – SGTVGLTB)

**************

Có người chưa đồng ý sanh là khổ, họ cho rằng vì lúc mới lọt lòng mẹ có biết gì đâu mà khổ! Nói không biết gì thì hơi quá đáng, nếu không biết gì thì ai khóc? Biết khóc tức là có cảm giác khổ, trăm đứa bé lọt lòng mẹ đều khóc, chứng tỏ chúng đã có cảm thọ khổ rồi đó!

Như vậy, đời sống của chúng ta thường gặp khổ nhiều hơn vui. Khi lọt lòng mẹ đã có cảm giác khổ nên trong cuộc sống kéo dài mấy mươi năm cũng khổ. Vì vậy, Phật nói sanh khổ chúng ta không thể chối cãi được! Thế nhưng, nhiều người lại cứ tưởng như vui, đó là vui trong tưởng tượng thôi chớ không thật có. Vậy mà thiên hạ cứ đua nhau bảo rằng cuộc đời là hạnh phúc, bởi vì nó có nhiều thú vui làm cho con người đam mê say đắm, nên đã dính mắc vào đấy mà phải nhận chịu vô vàn sự khổ đau. Thực tế, hạnh phúc thì quá ít ỏi  hiếm hoi, mà đau khổ thì quá lê thê tràng giang đại hải!

Vì mới sanh ra mà đã nếm mùi đau khổ, nên Ôn Như Hầu Nguyễn Gia Thiều mới thốt lên rằng:

“Thảo nào khi mới chôn nhau,

Đã mang tiếng khóc ban đầu mà ra.

Khóc vì nỗi thiết tha sự thế,

Ai bày trò bãi bể nương dâu”.

Có thể liệt kê 5 loại khổ của Sanh như sau:

a.– Thọ thai: Lúc thần thức gá vào thai mẹ, ở trong bụng mẹ chật chội và dơ bẩn, chịu nhiều bó buộc.

b.– Chủng tử: Sau khi thần thức gá vào tinh trùng của cha và noãn bào của mẹ, thân thể sẽ tùy theo hơi thở của mẹ mà tồn tại, không được tự do thoải mái bởi do nghiệp lực chiêu cảm.

c.– Tăng trưởng: Thần thức, thân thể ở trong bụng mẹ tăng trưởng mỗi ngày, dưới ruột non, trên ruột già, nằm ở giữa như ở tù. Thai nhi sống nhờ thức ăn thức uống của mẹ và sự hô hấp mà phát triển theo từng giai đoạn.

d.– Khi được sanh ra: Trải qua gần 10 tháng, thai nhi đã phát triển đầy đủ, đây là thời điểm người mẹ chuyển dạ để sanh. Suốt thời gian dài nằm trong bụng mẹ, sự sống hoàn toàn nương vào mẹ, được mẹ nuôi dưỡng, nâng niu, che chở. Khi thai nhi rời khỏi bụng mẹ, thân thể với da thịt non mềm phải tiếp xúc môi trường mới, với khí trời lạnh nóng, gió mưa, các vật dụng xúc chạm… sẽ cảm nhận đau buốt như bị châm chích. Bé đau nhưng chưa nói được mà chỉ biết khóc, vì thế chúng ta cần phải có thao tác nhẹ nhàng với em bé mới sinh ra.

e.– Chủng loại: Mỗi thai nhi đều có một hình tướng thân mạng nam hay nữ với tướng mạo đầy đủ, xinh đẹp hay khiếm khuyết, xấu xí…

Thai nhi phải nằm trong bụng mẹ chật hẹp là khổ, mẹ phải mang nặng đẻ đau biết bao khó nhọc cũng là khổ. Sanh con ra rồi thì cha mẹ cũng khổ vì phải lo lắng cưu mang và cho ăn uống để duy trì mạng sống. Con người sống trên đời vì lo mưu kế sinh nhai, phải làm việc nhọc nhằn vất vả nên cũng khổ.

Khi người mẹ mới có thai là đã bắt đầu biếng ăn, mất ngủ, nôn ọe, dã dượi, bần thần, mệt mỏi… Thai mỗi ngày mỗi lớn thì người mẹ mỗi ngày mỗi thêm mệt mỏi, nặng nề, đi đứng khó khăn, làm lụng chậm chạp.

Đến khi gần sanh, sự đau đớn hành hạ xác thân người mẹ không sao nói xiết, chỉ có những người từng làm mẹ mới cảm thông cho nỗi đau này. Dầu được thuận thai đi nữa thì mẹ cũng phải chịu sự dơ uế cả tháng trời, yếu đuối nhiều tháng vì tinh huyết hao mòn, ngũ tạng suy kém, nếu không có cha mẹ hai bên chăm sóc thì lại càng khổ não hơn. Còn rủi bị nghịch thai thì mẹ phải bị mổ xẻ, đau đớn trăm bề, có khi sau một lần sanh bị giải phẫu mà mẹ phải chịu tật nguyền suốt cả cuộc đời, hoặc vĩnh viễn ra đi mà chưa hề nhìn thấy được mặt mũi của đứa con mình thế nào.

Xét về phương diện vật chất hay tinh thần, đời sống con người đều có nhiều khổ sở.

Về vật chất, con người đòi hỏi những nhu cầu thiết yếu như món ăn, thức uống, đồ mặc, nhà ở, thuốc men… Để có được những nhu cầu cần thiết ấy, con người phải siêng năng chăm chỉ cần cù làm việc vất vả, đổ mồi hôi sôi nước mắt mới tạo được chén gạo bát cơm, manh quần tấm áo và các phương tiện sống khác. Về phương diện nhà ở thì có những gia đình phải thuê phòng trọ ở tạm qua ngày vì không có khả năng tạo dựng được một ngôi nhà nho nhỏ đủ để che nắng che mưa.

Cuộc sống của con người chẳng phải đợi đến lâm vào cảnh đói khát mới gọi là khổ, mà ngay khi ăn uống thất thường, thiếu thốn đủ mọi thứ vặt vảnh cũng đã là khổ rồi. Đâu phải chỉ có những người nghèo hèn thiếu thốn, khó khăn mới khổ mà người giàu có, sang trọng cũng vẫn khổ như thường. Muốn có tiền bạc vật chất dồi dào thì tất nhiên họ phải thức khuya dậy sớm, buôn tảo bán tần, đầu tắt mặt tối trong công việc, đổ nhiều công sức vất vả nhọc nhằn mới đạt được.

Về phương diện tinh thần, đời người cũng có nhiều điều khổ nhục, có nhiều khi còn đau khổ hơn cả những thiếu thốn vật chất. Không nói gì nhiều, chỉ xin đơn cử ở đây một thí dụ về nỗi khổ trong sự học hỏi.  Muốn tìm lẽ phải, chơn lý, đạo đức, tất phải gia công học hỏi nhiều năm cả về phương diện lý thuyết lẫn thực nghiệm. Về lý thuyết ta học trong sách vở với thầy với bạn hay tự học. Về thực nghiệm, ta học giữa đời trong lúc tiếp xúc với mọi người. Nhưng dù lý thuyết hay thực nghiệm ta cũng gặp lắm điều khổ sở, khó khăn. Như học lý thuyết với thầy ở trường, lắm khi gặp bài khó, lại thêm thầy giảng dạy quá cao, học trò không thu nhận được gì hết, thế là người giận kẻ buồn, khổ tâm quá ! Còn tự học ở nhà với quyển sách trơn, có lúc gặp đoạn văn mắc mỏ, lại không đủ tài liệu tra cứu thêm, bị bít lối ra, rồi khởi tâm tức giận buồn phiền, cũng là khổ. Về sự học thực nghiệm ở đời, lắm khi cũng phải trả một giá rất đắc. Ta sẽ bị người này phỉnh gạt, người kia áp bức, kẻ nọ oán thù, kẻ kia khinh bỉ… bao nhiêu hạng người là bấy nhiêu tâm tánh. Và hiểu đời được một phần nào là ta đã phải chịu đựng biết bao nhục nhã, khổ đau.

*Con người khổ trong sự sanh, là khổ suốt trọn khoảng thời gian sống, từ khi còn là bào thai trong bụng mẹ cho đến khi già, bệnh rồi chết. Nghĩa là khổ trong đời sống sinh hoạt hằng ngày.

Tóm lại, xét về vật chất hay tinh thần thì sự sống cũng mang theo nhiều cái khổ. Sanh khổ là như thế bởi vì nó là sự tiếp nối theo quy luật nhân quả nên đời sống của con người khổ là lẽ hết sức đương nhiên!

************

2/- Sự già khổ:

Hễ sanh ra thì lớn, lớn rồi tất phải già; xét nghĩ trong lúc tuổi thanh xuân, đời sống cứng cỏi, hoạt động hăng hái, đi đứng lẹ làng, nói năng bặt thiệp, xác thịt mạnh mẽ, học hỏi dễ dàng tỏ tai sáng mắt, thấy biết nhiều điều. Ô hô! Mà nay sao lại răng rụng mắt lờ, ù tai, choáng óc, da nhăn má cóp, gối mỏi, lưng khòm, nằm ngồi chậm chạp, đi đứng xéo xiên, uống ăn đổ tháo, bọn trẻ dể khinh, già đành nhờ cậy, đi tay nương gậy, phế việc dân quan, tinh thần hao kém; khí lực hầu tàn, thoạt nhớ thoạt quên, nhiều khi lầm lẫn, tóc bạc da mồi, lắm điều lao nhọc.

Vậy nên Phật mới cho sự già là khổ, mà chúng ta cũng không thể nào không công nhận.

(trích: 7 Bài Pháp Luận – SGTVGLTB)

Cho nên ca dao có câu:

“Già nua là cảnh điêu tàn,

Cây già cây cỗi, người già người si”.

**********

Xuất gia công đức

Thuở xưa, có một ông trưởng giả tên là Thi Lợi Bí Ðề sống đã tới 100 tuổi. Một hôm, người ta kể cho ông nghe công đức của người xuất gia rất to lớn cao cả, ông thầm nghĩ: “Ta nay tuổi đã già, sức đã yếu, nhưng đối việc xuất gia học đạo theo Phật pháp được nhiều phước đức cao cả vậy ta hãy đến chỗ Phật xin xuất gia kẻo uổng lắm!”. Nghĩ xong gọi vợ con lên bảo:

– Này bà và các con, hôm nay tôi muốn đi xuất gia học đạo, làm đệ tử Ðức Thế Tôn, vậy ở nhà hãy  lo làm ăn, có đồng ý không?

Vốn dĩ bị vợ con ghét bỏ, vì họ cho ông chỉ là kẻ ăn hại, chẳng làm việc gì có ích cho gia đình và những kẻ xung quanh, nên khi nghe ông đề nghị như vậy, vợ con đều tỏ ý vui mừng và tán đồng ngay.

– Dạ phải, ông hãy đi xuất gia đi, càng nhanh càng tốt, đi cho lũ chúng tôi nhờ!

Ông già bèn lên đường, thẳng đến Trúc Lâm nơi Thế Tôn và đại chúng trú ngụ. Nhưng chẳng may cho ông là hôm đó Thế Tôn chẳng có nơi tịnh thất, Ngài đã đi hóa độ nơi xa, ông già thăm hỏi các thầy:

– Bạch Ðại Ðức, Thế Tôn ở phòng nào? Xin làm ơn chỉ giùm tôi!

– Ðức Thế Tôn đi hóa độ chưa về.

– Bạch Ðại Ðức, Thế Tôn đi vắng rồi ai là bậc tôn túc trưởng lão ở đây?

Nghe hỏi các tỳ kheo đều chỉ đến Ngài Xá Lợi Phất, ông lão chống gậy về phía tôn giả, đến nơi, ông lão bỏ gậy, chắp tay thưa:

– Kính lạy tôn giả, con một lòng chí tín xuất gia, học đạo, cúi xin Ngài thương xót thân già, thâu nạp làm đệ tử, con xin đội ơn muôn kiếp.

Tôn giả Xá Lợi Phất nhìn ông lão một lúc, rồi nghĩ: “Ông lão này yếu đuối quá, vậy học hỏi tọa thiền và giúp việc chúng làm sao ông đảm đang nổi” nên tôn giả đáp:

– Ông già yếu lắm rồi, không thể xuất gia được đâu.

Nghe nói vậy, ông lão bèn chống gậy đến Ngài Ca Diếp, Ưu Ba Ly, A Nậu Lâu Ðà. . . cuối cùng đến 500 vị A La Hán đều hỏi:

– Ông đã thưa vị nào chưa?

Ông đáp:

-Trước tiên con có đến Ðức Thế Tôn, nhưng Thế Tôn không có nhà, rồi con lại đến tôn giả Xá Lợi Phất, nhưng Ngài chê con già nua, lẩm cẩm nên không nhận con làm đệ tử, xuất gia học đạo.

Nghe ông nói như thế nên các vị đều nghĩ thầm rằng: “Tôn giả Xá Lợi Phất là bậc trí tuệ siêu phàm mà không dám nhận ông lão vào hàng xuất gia huống nữa là ta. Như người thầy thuốc giỏi thấy con bịnh không thể chữa được nên các thầy thuốc khác cũng chạy luôn. Hay tôn giả biết trước ông lão sắp sửa chết nên không nhận, vì có nhận thì cũng không thể tu học được gì”. Nghĩ vậy nên các Ngài cũng từ chối luôn.

Ông lão thất vọng, xin xuất gia mà chẳng có vị tôn giả nào chấp nhận, chán nản ông ra ngoài cổng Trúc Viên ngồi than khóc một mình, nghĩ rằng: “Ta từ lúc cha sanh mẹ đẻ cho đến khi khôn lớn rồi có gia đình sự nghiệp mãi đến bây giờ, thử nghĩ lại, ta có làm điều chi tàn ác đâu, vậy tại sao ta chẳng thể xuất gia học đạo được. Còn Ngài Ưu Ba Ly là người bần tiện, Ngài Ni Ðề là người gánh phân, Ngài Ương Quật Ma La là kẻ sát nhân khủng khiếp, Ngài Ðà Tắc Ky là ác nhân làm giặc, vậy mà sao họ lại được xuất gia thâu vào hàng Tăng chúng? Còn riêng ta thì có tội chi?” Ðương cật vấn lòng mình, thì bỗng nhiên Ðức Thế Tôn đi đến trước mặt, hào quang chiếu sáng, dung ghi đoan nghiêm, ông hoảng hồn chấp tay bái lạy.

– Này Thi Lợi Bí Ðề, làm gì mà khóc lóc vậy?

Ðức Thế Tôn hỏi, ông mừng rỡ quá, vội thưa:

– Bạch Ðức Thế Tôn, có những chúng sanh kẻ giết người, người làm giặc, kẻ nói dối, người phỉ báng, kẻ hạ tiện và những người cùng đinh, nhưng tất cả đều được xuất gia tu học, còn riêng con, tự xét từ thuở cha mẹ sinh ra, làm người đến giờ, nay là 100 tuổi rồi, con có làm điều gì bất thiện đâu, vậy tại sao con không thể tham dự vào hàng Tăng chúng xuất gia của Thế Tôn được. Bạch Thế Tôn, ở nhà thì bị vợ con ghét bỏ, nên đến đây, cầu chí nguyện xuất gia thì lại bị các tôn giả chê là già cả, vô tích sự nên không thâu nhận. Khốn khổ quá! Con muốn tự tử, chết quách tại đây cho xong cái thân hủ bại này!

– Ai nói người này được xuất gia, còn kẻ kia thì không được xuất gia?

– Kính bạch Thế Tôn, trưởng lão tôn túc Xá Lợi Phất đó!

-Thôi ông chớ buồn nữa, ta sẽ cho ông xuất gia học đạo, hãy theo ta vào Tịnh xá!

Nỗi lòng được xoa dịu, ước nguyện được viên thành, ông lão vui mừng hớn hở, như muốn chắp cánh bay lên hư không.

Khi về tới tịnh xá, Thế Tôn gọi Mục Kiền Liên giao trách nhiệm và dạy bảo, làm lễ thế phát cho ông lão.

Ðược vài hôm sau, tôn giả làm lễ thế phát và mở giới đàn truyền giới cụ túc cho ông.

Từ khi ông lão được thế phát xuất gia, chính thức là một sa môn chánh hạnh, ông rất tinh cần, ngày đêm cố gắng tu tập, nghe rành hiểu rõ giáo pháp nên chẳng bao lâu ông đã thuộc làu kinh điển, do vì đời trước ông cũng đã gieo trồng chủng tử lành và có duyên với Phật Pháp nên tuy đời này đi xuất gia muộn nhưng chưa phải là trễ, chỉ tiếc có một điều là tuổi già sức yếu nên về phép tắc oai nghi đối với các bậc tôn túc không được tròn bổn phận cho lắm, vì vậy mà các vị tỳ kheo trẻ sanh tâm khinh lờn ông, cho rằng ông chẳng giữ lề luật, thanh quy nơi thiền môn, cửa Phật. Thấy thái độ của các tỳ kheo trẻ đối với ông như vậy, ông lão tự nghĩ: “Thiệt là khổ! Khi mình còn ở nhà thì vợ con chẳng ngó ngàng gì tới mình, nay được xuất gia làm sa môn đầu Phật, mong sự an nhàn, để tiến tu công đức ai ngờ lại bị các thầy tỳ kheo trẻ tuổi hất hủi, khinh miệt, chẳng biết ta có tội gì mà nặng nề quá vậy, phiền não chẳng chịu được, chi bằng ta chết bỏ xác cho hết chuyện”. Ông liền đi đến khu rừng, bên cạnh con sông chảy xiết, ông cởi áo cà sa, vắt lên cành cây, rồi quỳ thẳng chấp tay đối trước chiếc áo khóc lóc mà nguyện rằng: “Con xin bỏ mạng nơi này, nhưng không bao giờ bỏ Phật Pháp Tăng. Chiếc áo của con, xin dâng cúng các vị tỳ kheo tinh tấn, trì giới tu hành, nguyện bỏ thân này, được sinh vào nhà giàu sang, phú quý, vui vẻ thuận hòa, chẳng ai cản các thiện pháp, ước nguyện việc làm của con và được gặp thiện trí thức, xuất gia học đạo, tu đắc quả vị Vô Sanh, hoằng truyền pháp Phật và thẳng tiến trên con đường cứu cánh Niết Bàn”. Nguyện xong, ông lão nhảy ùm xuống nước. Khi đó tôn giả Mục Kiền Liên ở trong khu rừng trúc, dùng thiên nhãn xem ông đệ tử già của mình làm trò gì, thì chợt thấy ông ta nhảy tủm xuống sông, tôn giả bèn phóng thần túc vớt ông lên bờ rồi bay tới hỏi:

– Pháp tử làm gì vậy?

Thi Lợi Bí Ðề nhìn lên thấy Thầy mình, mắc cở quá liền cúi đầu xuống chẳng biết thưa như thế nào cho phải. Ông thầm nghĩ: “Ta không nên nói dối với Thầy, nếu nói dối trải qua nhiều đời sẽ bị tội không lưỡi, nhưng nói dối sao được, vì Thầy mình có thần thông mà, vậy có nói gì nữa thì cũng biết. Trên đời bậc trí tuệ, thông minh, thật thà, ngay thẳng, các ông trời cũng phải kính trọng, còn kẻ dối trá, ngu si thì sẽ bị người ta khinh miệt, chê bai, cho là đồ hèn hạ, bẩn thỉu, lắm lúc có nói thật đi nữa thì họ cũng cho là nói dối, chẳng tin. Vậy chi bằng ta hãy trình bày sự thật cho Thầy mình biết, tội gì phải nói dối, mang tội đọa địa ngục”. Vì suy nghĩ như thế nên ông bèn thưa:

-Bạch Thầy! Con đã chán nản cái cảnh tục lụy hồng trần này nên nguyện cắt tóc xuất gia, cầu sự an lạc, nhưng những ngày con ở đây, chẳng thấy sự an lạc gì hết, mà trái lại còn bị phiền nhiễu, bận lòng, nên con muốn chết tại đây cho xong đời, không ngờ Thầy biết được, xin Thầy rộng lượng từ bi mà tha thứ!

Tôn giả Mục Kiền Liên liền nghĩ: “Ông lão này sao lắm chán vậy, cứ đòi tự tử mãi thôi. Nếu ta không dùng một phương pháp sợ hãi thì đối với việc xuất gia của ông không thành công”.

– Này Pháp tử, hãy nắm chặt chéo áo cà sa của ta, khi đi trên hư không, ông phải nhiếp niệm chớ có loạn tưởng nghe!

– Dạ, con xin tuân mạng.

Sau đó tôn giả Mục Kiền Liên dẫn ông trãi qua nhiều cảnh giới và giảng giải tường tận cho ông nghe về nhân quả báo ứng ở tiền kiếp thật đáng ghê đáng sợ của ông. Ông nghe xong trong lòng ông vô cùng rung động, nhàm chán sanh tử. Ông chú ý quán sát đống xương cá là kiếp trước chính thân mình, thầm hiểu nỗi vô thường biến dịch. Trong giờ phút đó, Thi Lợi Bí Ðề trút sạch các lậu hoặc, đắc quả A La Hán.

(trích: Kinh Hiền Ngu – Phẩm 18)

************

3/- Sự đau khổ:

Nghĩ vì thân thể con người sanh ra cõi trần, có lớn già thì tất nhiên yếu đuối; nếu đã yếu đuối ắt ăn ngủ chẳng được điều hòa, thêm ngoài thì bốn mùa thay đổi tám tiết xây vần, do nơi thân già yếu đuối, cảm những tà khí mà sanh ra bịnh tật. Ôi! Hễ thân huyễn giả nầy mang lấy bịnh tật rồi, nào là cơn tỉnh, cơn mê, tay chơn nhức nhối gan ruột quặn đau, phổi héo tim khô, da teo huyết cạn, kẻ mang lao mang tổn, phương đàm ho suyễn, người thì đui cùi lở lói, bại xuội sưng tê, thang thuốc chẳng an, khẩn nguyền chẳng giảm, cầu sống chẳng đặng, cầu chết chẳng xong.

Vậy thử hỏi khách trần gian ai mà không muốn xa muốn tránh, mà nào ai được khỏi? Muốn tránh, tránh chẳng được, lại đa mang; như còn khổ não về bịnh tật, bút nào mà tỏ ra cho hết.

(trích: 7 Bài Pháp Luận – SGTVGLTB)

**************

Người thợ săn bẫy chim

Thuở Ðức Phật trú tại tinh xá Kỳ Hoàn, thuộc thành Xá Vệ.  Một chàng trai sống ở Xá Vệ, nghe Phật thuyết pháp liền hướng tâm về đạo, xin được xuất gia vào tăng đoàn, khi thành tỳ kheo được gọi là trưởng lão Tissa. Thời gian sau, mụn nhọt bỗng nổi lên khắp người thầy. Trước tiên là những mụt mủ không lớn hơn hột cải, rồi tăng dần bằng hột đậu tây, đậu hà lan, hạt táo, rồi lớn hơn hạt táo. Cuối cùng mụn nhọt vỡ ra và toàn thân trưởng lão lở loét. Về sau xương thầy bắt đầu hư thối, không ai muốn săn sóc thầy. Y trong và y ngoài của thầy bị dính mủ máu khô nhìn như bánh lưới.

Ðức Thế Tôn một sáng nọ quán sát cơ duyên của trưởng lão đã thành thục, nên Ngài từ hương thất đi một vòng tinh xá đến nhà bếp. Ngài rửa nồi nước đặt lên lò than và đợi. Khi nước đã nóng, Ngài đến nắm lấy chân giường Tissa. Lúc đó các tỳ kheo thưa với Phật:

– Xin Thế Tôn đi trước, chúng con sẽ khiêng ông ta đến nhà bếp.

Thế Tôn bảo mang đến một cái chậu và đổ nước nóng vào. Ngài bảo các tỳ kheo cởi ngoại y của Tissa, giặt bằng nước nóng cho thật sạch rồi phơi khô dưới ánh nắng. Sau đó, Ngài dùng nước nóng lau mình, kỳ cọ và tắm nắng. Tắm xong thì ngoại y của thầy cũng vừa khô. Thế Tôn sai mặc ngoại y cho thầy và bảo lấy nội y giặt nước nóng và vừa khô. Khi người thầy đã khô ráo thì nội y cũng vừa khô. Ðược mặc y vàng làm nội y và một cái khác làm ngoại y Tissa nằm xuống giường, thân khỏe khắn và tâm an tĩnh. Thế Tôn đứng nơi đầu giường bảo thầy:

– Tỳ kheo, thần thức sắp rời thầy, chẳng bao lâu thân thầy sẽ thành vô dụng như khúc gỗ nằm lăn trên đất.

Rồi  Ngài đọc bài kệ, cuối bài kệ trưởng lão Tissa chứng A La Hán và nhập Niết Bàn.

Thế Tôn cho tiến hành lễ trà tỳ, lấy xá lợi và xây bảo tháp thờ phụng. Các tỳ kheo thắc mắc hỏi Thế Tôn:

– Bạch Thế tôn! Trưởng lão Tissa tái sanh về đâu?

– Ông ta nhập Niết Bàn.

– Bạch Thế Tôn! Một tỳ kheo sắp chứng A La Hán tại sao thân còn bệnh như thế, xương ung thối? Hành nghiệp kiếp trước của thầy như thế nào mà ông chứng được A La Hán?

– Các tỳ kheo, mọi việc xảy ra đều do hành nghiệp kiếp trước.

– Thầy đã làm gì, thưa Thế Tôn?

– Các Ông hãy lắng nghe:

Trong thời Phật Ca Diếp, trưởng lão Tissa là người bẫy chim. Ông bắt được rất nhiều chim, đa số mang vào hoàng cung hoặc mang ra chợ bán. Nếu giết chim đi và cất lại quá lâu không đem bán thì thịt chim sẽ hư thối, và để giữ chim khỏi bay mất ông thường bẻ xương chân và xương cánh của chúng, dồn đống chúng lại một chỗ để đem ra bán ngày hôm sau. Nếu bẫy được quá nhiều, ông cũng đánh chén vài con.

Một hôm thức ăn nấu chín thơm phức vừa dọn lên, có một vị A La Hán dừng chân trước cửa nhà ông khất thực. Ông bỗng thấy lòng thanh thản, thầm nghĩ mình đã giết hại quá nhiều sinh mạng, nên giờ đây muốn cúng dường Ngài. Và ông đỡ bình bát, bỏ đầy những món ăn thơm, năm vóc gieo xuống đất, đảnh lễ và thưa:

– Tôn giả! Xin cho con được vào quả vị cao nhất mà Ngài đã chứng.

Trưởng lão hồi hướng công đức cho ông sẽ được như vậy.

Này các tỳ kheo! Do công đức đã làm này, phước báo đã đến với ông như thế. Vì ông đã bẻ chân chim nên tứ chi ông bệnh hoạn và xương ông ung thối. Vì ông thành kính cúng dường thức ăn ngon cho A La Hán nên ông chứng quả A La Hán.

(Tích Truyện Pháp Cú, tập 3)

***********

4/- Sự chết khổ:

Vật chi mà sanh trong cõi trần gian theo các công lệ tự nhiên, hễ có sanh ra thì phải có ngày tiêu diệt. Còn cái thân con người của ta đã do nơi tứ đại (đất, nước, gió, lửa) mà hiệp thành, có bền chắc chi đâu mà tránh khỏi ngày tan rã?

Tại sao mà gọi thân tứ đại hiệp thành? Xét rằng tuy là ta thấy có sự cấu tạo của cha mẹ mà thành thân của ta, nhưng mà cái thân nầy suy gẫm cho kỹ lại: thịt và xương cốt là chất đặc nên thuộc đất; máu huyết chất lỏng nên thuộc nước; hơi thở của ta thuộc về gió; sự ấm áp của ta thuộc về lửa.

Nhờ 4 món ấy chung hợp lại mới thành cái xác thịt của ta. Nếu hễ đến ngày tàn hạ rồi thì xương thịt rã ra huờn lại đất, máu huyết chảy ra huờn lại nước, hơi thở dứt đi thì trở lại với gió, sự ấm áp dứt đi thì nó trở lại cái nóng của mặt trời. Như vậy tại làm sao gọi rằng khổ? Vì lúc sống linh hồn nhờ xác thịt mà học hỏi, kinh nghiệm việc đời, xử sự tiếp vật, đeo đắm theo lợi lợi, danh danh, tài tài, sắc sắc, không có chịu tra cứu phân biệt cho rõ giả chơn, ý thức sai lầm, nhận không rằng có, nhận có rằng không, thấy tà nói chánh, gặp chánh tưởng tà, rồi cũng do sự sai lầm ấy mà nhận huyễn thân nầy làm thiệt thân của mình, mãi lo o bế sửa sang, dồi mài cạo gọt, cưng nó dưỡng nó như: tích trữ cơm tiền, dành cho nó ăn, dành để thuốc thang cho nó uống, kiếm tìm thanh sắc để cho nó vui, xây dựng cửa nhà cho nó ở (vẫn biết rằng ở trong đời ai cũng phải lo thân, nhưng mà người hiểu Đạo, biết rõ cái thân của mình tạm mượn trong thời gian để học hỏi nên lo vừa chừng, chẳng có ích kỷ mà lo cho mình vừa giúp ích cho đời, chừng bỏ xác thì có cái khác, còn người không hiểu Đạo thì bo bo giữ nó bằng lối ích kỷ mê lầm) ấy là muốn cho nó được trường tồn; kịp đến khi tử thần gõ cửa, số vô thường đã tới, sanh ra muôn ngàn kinh hãi, thần trí hôn mê rất tríu mến cõi đời, cửa nhà con vợ, mà không làm sao sống được nữa, nên lúc ấy kẻ phùng mang, trợn mắt, người chắt lưỡi, nghiến răng, lăn lộn giật mình kêu than thảm thiết. Xét coi lúc ấy khổ sở là dường nào.

(trích: 7 Bài Pháp Luận – SGTVGLTB)

*********

Đồ tể Cun Đa  

Trên con đường lớn đi về Trúc Lâm tịnh xá có gia đình ông đồ tể tên là Cunda, chuyên nghề giết heo. Suốt năm mươi lăm năm qua, ông ta đã tàn sát dòng họ nhà heo với số lượng không kể xiết; lớp ăn, lớp bán để nuôi mạng sống cho cả gia đình.

Người ta nói rằng, với tâm độc ác và gian tham, những năm ở miền quê mất mùa, đói kém, Cunda cho người đi lùng trong các thôn làng, heo to, heo nhỏ ông mua hết với giá cám bèo rồi chở về nhà. Ông cho rào kín một khoảng vườn rồi thả tất cả heo vào đấy, cho ăn đủ loại cỏ lá thô tạp hái lượm quanh vườn và cả đồ dơ uế để khỏi tốn tiền tốn bạc mua rau, cám, chuối.

Muốn làm thịt con heo nào, ông bắt trói nó vào một gốc cột, lấy cây gỗ vuông, dùng cạnh nhọn đánh đập khắp lưng, bụng, bắp chân cho thịt mềm và nở phù ra để được nặng cân, mặc cho heo kêu rống đau đớn thế nào. Chưa thôi, ông còn cạy răng, banh mõm heo, nhét vào đấy một khúc cây cáng căng mõm ra; đoạn, ông lấy ấm nước sôi, trút vòi đổ vào cổ họng. Nước nóng chảy vào bụng làm cho phân ở ruột hóa lỏng phải trôi tuột ra hậu môn. Tên đồ tể Cunda quan sát, hễ nước chảy ra còn đục, thế là biết ruột chưa sạch, ông tiếp tục đổ nước thêm, cho đến bao giờ nước trong vắt hẳn thôi. Công đoạn tiếp theo, ông đổ nước sôi lên lưng, đầu, cạo cho vuột lớp da bên ngoài; lấy đuốc cháy rực đốt tất cả những lông lá còn sót lại ở lưng, ở mõm, ở bụng và ở đầu. Xong, Cunda dùng gươm bén chặt đầu heo, nghiêng xuống cho huyết chảy vào chậu để dành rưới lên thịt khi quay heo để huyết thấm vào bên trong!

Kỹ thuật giết heo, quay heo ngon, béo, giòn và vàng hượm của Cunda nổi tiếng một vùng nên ông làm được bao nhiêu bán hết bấy nhiêu, do vậy, đời sống gia đình dư dã, sung túc. Tuy nhiên, bản chất keo kiệt, bủn xỉn, ông chưa cho ai một xu, một cắc nào. Ở trên con đường mà ngày nào cận sự nam nữ hai hàng cùng với vòng hoa, hương liệu, dầu đèn… đến tịnh xá Trúc Lâm cúng dường và nghe pháp nhưng ông chưa bao giờ để mắt ngó qua. Chư tăng hằng ngày đi bát ngang nhà, nhưng chưa có lần nào ông đặt một vá cơm, một cái bánh, một muỗng canh, một muỗng cháo nào…

Một hôm, Cunda đột ngột lâm bệnh và bắt đầu có những hành động khác thường. Ông quỳ bằng đầu gối rồi bò bằng “bốn chân” khắp trong nhà, ra hàng hiên, ra sau vườn; vừa bò vừa kêu rống như heo bị chọc tiết. Gia nhân, quyến thuộc thấy vậy, kềm giữ ông lại, lấy tay bụm mồm, bịt miệng cũng không ngăn được tiếng la hét thoát ra. Rồi sau đó, suốt ngày, suốt đêm, gia đình chia người canh giữ, ai cũng thấm mệt nên cuối cùng đành để cho “con heo” kia tự do bò la, bò lê, dính đất, dính cát cùng tiếng kêu rống chấn động cả một khu dân cư. Người ở trong nhà ai cũng phờ phạc, mất ngủ mà những gia đình ở xung quanh chừng vài chục ngôi cũng không được yên giấc. Sự “khủng bố với hình phạt của tử thần” như bao trùm cả một vùng làm cho ai cũng phải kinh sợ, xanh mặt. Không biết sao hơn, gia nhân, quyến thuộc đành bắt ông nhốt lại trong một căn phòng đóng kín cửa, lấy vải, giẻ bít chặt các lỗ trống để ngăn bớt tiếng kêu rống, càng lúc càng giống tiếng heo bị chọc huyết…

Hôm kia, một số đông chư tỳ khưu ở phương xa về, đi ngang nhà ông, nghe tiếng heo kêu, trong dịp được gặp Phật, họ than thở với ngài rằng:

– Bạch đức Thế Tôn! Cái lão đồ tể Cunda kia hôm nay lại giết heo chắc là có cuộc tiệc tùng, tế lễ gì đó nữa! Ôi! Đã suốt mấy chục năm giết vật, chẳng rõ sát hại biết bao sanh mạng rồi mà vẫn chưa chịu nghỉ tay, chưa chịu hồi tâm, chuyển tánh! Trên đời này sao lại có kẻ độc ác, tàn bạo, vô lương tâm đến thế!

Đức Phật mỉm cười:

– Các ông tưởng Cunda giết heo ư?

– Thưa vâng! Chúng đệ tử nghe tiếng heo rống!

– Chính tự ông ta rống như heo rống đấy!

Nhận thấy đủ nhân, đủ duyên, đức Phật bảo tụ họp chư tăng để Ngài thuyết một thời pháp về nghiệp, đầy đủ tên gọi là nhân quả nghiệp báo, như sau:

– Này các thầy tỳ khưu! Chúng sanh sinh ra bởi nghiệp, thừa tự bởi nghiệp, do nghiệp sanh, do nghiệp thành, do nghiệp sai sử, quyết định. Tên đồ tể Cunda suốt năm mươi lăm năm quen nghề giết thịt, đã trở thành thói quen, đã điêu luyện, đã thuần thục; do vậy, năng lực của nghiệp sát ấy chi phối toàn bộ thân tâm của ông ta. Hiện tượng ông ta bò bốn chân, lê la bùn đất, kêu rống như heo, ấy là nghiệp tướng đã hiện ra. Đã bảy ngày bảy đêm ông ta bị khổ hình như thế là do nghiệp quả đã đến lúc chín muồi, “tướng” lửa địa ngục nổi lên thiêu đốt lục phủ ngũ tạng. Ông ta sẽ bị đau đớn, quằn quại cho đến ngày thứ tám, tử thần đoạn lìa mạng sống và sẽ tức khắc đọa sanh vào cảnh giới địa ngục A tỳ là hiển nhiên vậy.

Các vị tỳ khưu đều kinh hãi.

Có vị tỳ khưu xin thưa:

– Bạch đức Thế Tôn! Kẻ làm ác, đại ác như vậy, có trường hợp nào ác báo được giảm bớt, được nhẹ đi hay nghiệp quả ấy được vô hiệu lực hay không?

– Có đấy, này chư tỳ khưu! Thứ nhất là do căn duyên sâu dày, người ấy tu tập đắc định; do năng lực của định mạnh hơn, người ấy hóa sanh lên cõi trời phạm thiên. Trường hợp ấy, nghiệp ác kia không chạy theo kịp, không trổ quả được. Tuy nhiên, nghiệp ác kia vẫn hờm sẵn ở đấy, khi đủ điều kiện trả quả thì nó đến trả quả. Nói cách khác, trong nhiều kiếp về sau, khi nào hết phước báu thiền định, hết phước báu bố thí, trì giới thì nó sẽ xen vào trả quả ngay tức khắc.

Thứ hai là đắc quả Nhập Lưu, nghiệp xấu ác kia cũng chưa có khả năng trả quả được, đôi khi bị vô hiệu hóa luôn. Như trường hợp cô kỹ nữ Surīma, nhờ đắc thánh quả nên nghiệp xấu ác kỹ nữ giang hồ không trổ quả được, lâm chung, cô hóa sanh làm hoàng hậu đức vua Suyāma cõi trời Yama. Hôm tại nghĩa địa vừa rồi, sau thời pháp của Như Lai, cô lại đắc quả Bất Lai, vậy là nghiệp xấu ác kia xem như đã hoàn toàn hóa giải!

Cuối thời pháp, đức Phật cũng nói rõ thêm. Là khi phạm một trong năm nghiệp ác là giết cha, giết mẹ, giết A La Hán, làm Phật đổ máu và chia rẽ tăng thì người ấy tức khắc đọa địa ngục A Tỳ. Năm cực trọng ác nghiệp ấy nó thiêu hủy năng lực thiền định, nó ngăn trở luôn Thánh đạo quả!

(Tích Truyện Pháp Cú)

*Nếu như ai đã từng tham gia Ban Hộ Niệm thì chứng kiến nỗi thống khổ khi chết rất là rõ ràng, những cơn đau hiện ra trên thân thể của bệnh nhân vô cùng kinh khiếp hãi hùng, ngàn vạn lời nói cũng khó mà diễn tả cho đầy đủ! Ranh giới  cận kề cái chết thường có những cơn mệt dai dưa kéo dài, làm cho hơi thở của kẻ sắp mãn phần ngắn ngủn dồn dập liên hồi; sức lực cạn kiệt đến độ không còn đủ để phát ra âm thanh rên than gì được nữa; tay chân run rẩy, gân mạch co rút lại; có khi đại tiểu tiện không tự chủ và cũng không hay không biết;… Lúc ấy tạng phủ của người bệnh đang hư hoại và vô cùng đau đớn. Sự đau đớn đó thấm đến tận xương tủy, đến từng lỗ chân lông. Nhất là những bệnh ung thư, máu mủ hôi thúi nhơ bẩn từng giây từng phút tuôn tràn ra bên ngoài, ngay cả các con cháu hiếu hiền chăm sóc đôi khi còn chẳng thể kham nỗi nữa là!!!

********

Trốn tử thần.

Thuở xưa kia có bốn Phạm chí (tức giai cấp Bà-la-môn) tu hành đã đắc ngũ thông, biết rõ bảy ngày nữa bốn người cùng chết một lượt. Họ bèn hợp nhau bàn luận:

-Anh em chúng ta tu hành đã chứng ngũ thông, lẽ nào chẳng tìm kế thoát khỏi vòng hái của tử thần sao?

Anh thứ nhứt liền nói:“Tôi sẽ nhảy vào trong biển lớn, trên chẳng ló đầu lên mặt nước, chân không đụng đáy biển, làm gì tử thần thấy được để bắt tôi”.

Anh thứ nhì bảo:“Tôi chẻ núi Tu Di chui vào trong đó, rồi khép kín lại; thử hỏi tử thần làm sao thấy được mà tầm bắt tôi”.

Anh thứ ba thốt:“Tôi sẽ tàng hình vào hư không, chẳng còn ai thấy tăm dạng, quỉ vô thường biết đâu mà theo bắt”.

Anh thứ tư cho biết kế hoạch:“Phần tôi sẽ đến chợ đông, đi lẫn lộn vào trong đó, dầu tử thần có đến kiếm cũng không ra !”

Bàn tính xong, bốn anh đắc ý lắm, mỗi người đều chuẩn bị đi đến chỗ mình đã định. Song đúng bảy ngày, nghiệp quả đã đến, bốn Phạm chí đều bất lực trước tử thần (thần chết), họ đều chết một lượt.

Bấy giờ, Đức Phật biết rõ chuyện ấy, bèn gọi các đệ tử lại, rồi kể cho nghe và nói lên bài Kệ:

“Phi không, phi hải trung,

Phi nhập sơn thạch gian.

Vô hữu địa phương sở,

Khả thoát bất thọ tử”.

(Chẳng không chẳng biển cả,

Chẳng vào trong núi đá.

Không có miếng đất nào,

Thoát được cái chết cả).

***************

5/- Mưu cầu bất đắc (mong muốn mà chẳng được):

“Đoạn thứ năm nghĩ suy tìm tõi,

Cầu Chẳng Thành những việc thích ham.

Người trên đời ai cũng lòng tham,

Muốn phước, thọ, phẩm, hàm, tiền của.

Nào vợ đẹp, hầu xinh, là lụa,

Không được thì bực tức ưu phiền.

Cả tâm thần điêu đứng đảo điên,

Vậy có phải khổ hay là chẳng ?”

(Khuyến Thiện – Vô Danh cư sĩ)

Người ta ở đời, hễ mong cầu càng nhiều, hy vọng càng nhiều thì thất vọng càng lắm. Bất luận trong một vấn đề gì, số  người được toại nguyện thì quá hiếm hoi, mà  kẻ thất bại bất như ý, thì không sao kể  xiết. Muốn được kết quả tốt đẹp, người ta phải vận dụng không biết bao nhiêu năng lực, lao tâm, tổn trí, mất ăn, bỏ ngủ, chỉ mong sao cho nhanh chóng gặt hái thành công. Thế rồi, chẳng may những điều ước mơ, những điều ước mong ấy không đạt kết quả gì cả, sự đau khổ không biết đâu là bờ bến. Dưới đây, xin nêu lên vài thí dụ về những thất vọng mà người đời thường gặp nhiều nhất.

– Thất vọng vì công danh quyền thế: Trong đời, danh vọng quyền thế thường là một miếng mồi ngon mà phần đông người đời đều ưa thích. Nhưng miếng mồi ấy, đâu phải dễ giành giật được? Không nói gì đến những kẻ nhảy dù, muốn làm quan tắt, nên phần nhiều hay thất bại, chỉ nói đến trường hợp những kẻ mong cầu danh vọng một cách chánh đáng, bằng năng lực, tài trí, học hỏi của mình. Ðối với những hạng người này, cũng phải nếm bao mùi thất bại, cuối cùng may ra mới được thành công. Thật đúng như lời người xưa đã nói:

“Gót danh lợi, bùn pha sắc xám,

Mặt phong trần nắng nám mùi dâu!”

– Thất vọng vì phú quý giàu sang: Số người thất vọng vì công danh quyền thế đã nhiều. Nhưng số người thất vọng vì phú quý giàu sang cũng không phải ít. Muốn cho mau giàu, nhiều người tìm mưu này chước nọ để lừa phỉnh người ta; nhưng rồi mưu gian chước lận đổ bể ra, của cải tài sản bị nhà nước tịch thu, bản thân bị tù tội, gia quyến bị nhục nhã theo, thật là khổ!

– Thất vọng vì tình duyên: Tình duyên cũng là một điều làm cho bao người phải điêu đứng, khổ sở. Trong trường tình ái, thử hỏi đã mấy ai được toại nguyện? Nhan nhãn trên báo chí hằng ngày, những câu chuyện tình duyên trắc trở đưa đến sự tự tử, thật không sao kể xiết. Ðấy là “Cầu bất đắc khổ”.

*Trên thế giới đã ghi nhận không ít những câu chuyện tự tử liên quan tới thần tượng mà mới nghe qua tưởng chừng hết sức vô lý.

Người cha tự tử để ép Lưu Đức Hoa gặp con gái mình

Câu chuyện thương tâm xảy ra vào cuối tháng 3 năm 2007. Người cha của cô gái tên Dương Lệ Quyên, vì quá bất lực trước thái độ hâm mộ mù quáng của con gái mình với tài tử Lưu Đức Hoa, đã quyết định nhảy xuống sông tự tử. Trong bức thư để lại, người đàn ông này có yêu cầu Lưu Đức Hoa phải đến gặp con gái mình.

Ngay từ năm 15 tuổi, Dương Lệ Quyên đã là một người hâm mộ cuồng nhiệt của Lưu Đức Hoa. Mục tiêu duy nhất trong cuộc đời cô là được gặp gỡ thần tượng dù chỉ một lần. Thậm chí, cô còn bỏ học, và chỉ biết cắm đầu vào đống băng đĩa nhạc của thần tượng.

Để có thể thực hiện được ước mơ gặp thần tượng của mình, cô đã 2 lần lặn lội từ miền Đông Bắc Trung Quốc sang Hồng Kông. Nhưng cả 2 lần mơ ước của cô đều không thành hiện thực. Đồng thời, gia đình Dương Lệ Quyên phải đối mặt với cảnh nợ nần chồng chất sau những việc làm của cô. Ông Dương Tử Kỳ, cha của Lệ Quyên phải bán thận và bán luôn cả căn nhà họ đang ở để lo đủ tiền cho cô con gái sang Hồng Kông gặp thần tượng.

Khoảng giữa tháng 3/2007, gia đình đưa Lệ Quyên sang Hồng Kông lần thứ 3. Và lần này, ước mơ được gặp gỡ thần tượng của cô cuối cùng cũng đã trở thành hiện thực vào hôm 25/3. Vào ngày hôm đó, Lệ Quyên đã có dịp gặp và chụp hình lưu niệm với Lưu Đức Hoa, trong bữa tiệc mừng sinh nhật của nam tài tử này.

Nhưng chưa thỏa mãn với những khoảnh khắc hạnh phúc đó, Dương Lệ Quyên tiếp tục đưa ra “yêu sách” khi muốn được trò chuyện riêng cùng với thần tượng. Bất lực trước sự hâm mộ mù quáng của con gái, ông đã quyết định nhảy sông tự vẫn. Trong bức thư tuyệt mệnh, ông có nhắn nhủ tới tài tử họ Lưu, yêu cầu anh phải tới gặp con gái mình: “Lưu Đức Hoa, anh nghĩ mình là ai? Tôi lấy mạng sống ra hy sinh vì con gái của mình. Tôi chết rồi, anh phải tới gặp con gái tôi, phải ký tặng cho nó”.

Dù được đội tuần tra cứu lên, nhưng người cha bất hạnh của Dương Lệ Quyên đã không qua khỏi. Vụ việc này đã gây xôn xao trong dư luận Châu Á, đồng thời để lại dư âm trong một thời gian rất lâu sau đó.

(Nguồn: kenh14.vn)

Chàng trai Iran tự tử vì không được cưới mỹ nhân của “Truyền thuyết Jumong”

Vào thời điểm giữa tháng 5 năm 2009, cộng đồng mạng châu Á xôn xao trước thông tin một chàng trai trẻ ở Iran đã tìm đến con đường tự tử vì bị gia đình phản đối chuyện… cưới mỹ nhân Han Hye Jin, nữ diễn viên thủ vai nàng công chúa So Seo No trong bộ phim “Truyền thuyết Jumong”.

Tại thời điểm mà “Truyền thuyết Jumong” được chính chức lên sóng tại Iran trên đài truyền hình IRIB, cả đất nước Iran đã “phát cuồng” vì bộ phim này. Tỷ suất người xem phim cao kỷ lục, chạm tới ngưỡng 60%. Đây là điều mà chưa có bất kỳ bộ phim nước ngoài nào làm được tại Iran thời điểm trước đó.

Bộ phim được hâm mộ cuồng nhiệt, kéo theo việc những diễn viên chính tham gia trong phim cũng trở thành những gương mặt hot tại đây. Nàng diễn viên xinh đẹp Han Hye Jin, được khán giả Iran biết đến qua vai diễn So Seo No tất nhiên cũng không nằm ngoại lệ.

Trong số những người hâm mộ của Han Hye Jin tại đất nước Tây Á này, có lẽ người ta sẽ khó có thể quên được chàng trai trẻ “mê muội” nàng diễn viên tới mức đòi sang Hàn cho bằng được để… cưới cô về làm vợ. Gia đình chàng trai đã lên tiếng phản đối kịch liệt. Họ không quên “thức tỉnh” anh chàng ngờ nghệch này bằng việc nhấn mạnh rằng dù họ có bán cả nhà đi cũng không có đủ tiền giúp anh sang Hàn và sẽ chẳng có cuộc hẹn nào diễn ra chứ đừng có nói là anh chàng có thể cưới được diễn viên xứ Hàn.

Quá đau buồn, thất vọng, sau đó, chàng trai trẻ đã uống thuốc ngủ tự tử. Nhưng rất may là người nhà đã phát hiện kịp thời và đưa anh tới bệnh viện, nơi anh được giữ trong trạng thái ổn định.  (Nguồn: kenh14.vn)

Nhiều nhóm hâm mộ nhạc tự tử khi biết tin ông hoàng nhạc Pop Michael Jackson qua đời

Vào thời điểm những ngày cuối tháng tháng 6/2009, người hâm mộ trên toàn thế giới bàng hoàng và đau xót trước sự ra đi đột ngột của Michael Jackson.

Sau đó vài ngày, một thông tin khác cũng nhận được nhiều sự quan tâm của dư luận, đó là thông tin nhiều nhóm hâm mộ nhạc đã tự tử sau cái chết của ông hoàng nhạc Pop. Đầu tháng 7/2012, Gary Taylor, chủ tịch kiêm quản lý trang web lớn nhất dành cho người hâm mộ Michael Jackson đã phải lên tiếng, thông qua tờ News của Australia: “Tôi biết rằng đã có 12 trường hợp tự tử và con số này chắc chắn sẽ còn gia tăng. Hiện tại, tôi đoán có một người hâm mộ sống ở Briston cũng đang có ý định làm điều tương tự. Tình hình đang trở lên cực kỳ nghiêm trọng và ngay chính Michael Jackson không hề muốn xảy ra chuyện này, anh ấy chỉ muốn họ sống một cuộc sống bình thường mà thôi”.

Tại Australia, thời điểm sau cái chết của Michael Jackson thật không khác gì những ngày u ám đối với nhiều người. Lifeline, một đường dây nóng giúp tư vấn ngăn ngừa tình trạng tự tử ở Australia, đã nhận được tới 50 cuộc gọi nói rằng cái chết của ông hoàng nhạc Pop khiến họ cảm thấy chán sống.

(Nguồn: kenh14.vn)

**************

6/- Ái biệt ly (thương yêu mà phải xa lìa):

“Đoạn thứ sáu Biệt Ly cay đắng,

Người mình thương bỗng lại chia lìa.

Khi khóc than nước mắt đầm đìa,

Lúc trông nhớ ruột tằm chua xót.

Ở thế gian mấy ai thoát lọt,

Nợ gia đình đeo đắm căn duyên.

Cơn nguy nghèo thân thể truân chuyên,

Kẻ lưu lạc người chờ trông mãi.

Cuộc tan hiệp, hiệp tan ân ái,

Đến xong đời để lại sầu ưu.

Cái khổ này dầu lắm trí mưu,

Cũng chung chịu như người tăm tối”.         

(Khuyến Thiện – Vô Danh cư sĩ)

Trong cái tình yêu thương giữa vợ chồng, con cái, anh em đang mặn nồng, thắm thiết mà bị chia ly, thì thật không có gì đau đớn hơn. Sự chia ly có hai loại: sanh ly và tử biệt.

– Sanh ly khổ: Một gia đình đang sống trong cảnh đàm ấm vui vầy, bỗng vì hoàn cảnh bắt buộc, hay vì một tai họa thình lình xảy đến, như giặc giã, thiên tai, bão lụt, động đất, sóng thần… làm cho mỗi người bơ vơ thất lạc mỗi nơi: kẻ đầu này trông đợi, người góc kia nhớ chờ. Thật đau lòng xót dạ! Người đời thường nói: “Thà lìa tử, chứ ai nỡ lìa sanh!”. Ðó là cái khổ của “Sanh ly”.                                       

– Tử biệt khổ: Nhưng mặc dù xa cách nhau người sống còn có ngày gặp gỡ; chứ chết rồi bao thuở mới được vum vầy! Vì vậy, đứng trước cảnh chết, là một sự biệt ly vĩnh viễn, con người không ai là chẳng khổ đau. Do đó, lâm phải cảnh tử biệt này, có người đã xót thương rầu rĩ đến quên ăn, bỏ ngủ, có người đau đớn, tuyệt vọng đến nỗi toan chết theo người quá cố. Ðó là cái khổ của “Tử biệt”.

*********

Trên đời có những điều không tồn tại vĩnh cửu

Thời Đức Phật còn tại thế, hai vợ chồng nọ có cô con gái khoảng 14, 15 tuổi đoan chính, thông minh lại có tài ăn nói hiếm người sánh kịp. Nhưng đột nhiên cô bé bị mắc trọng bệnh và không lâu sau thì qua đời.

Hai vợ chồng họ vô cùng yêu thương cô con gái duy nhất này. Thường ngày, hễ gặp chuyện ưu phiền gì đi nữa, chỉ cần nhìn thấy con gái là mọi nỗi phiền muộn trong lòng họ đều lập tức biến mất. Khi phải đối mặt với cái chết của con gái, họ vô cùng thống khổ, mỗi ngày họ đều khóc nỉ non. Cuối cùng, người chồng vì đau buồn quá mà phát điên, cả ngày đi lung tung khắp nơi.

Một lần trong lúc đi lang thang, người chồng đi tới chỗ Phật Thích Ca Mâu Ni, vừa gặp mặt thì liền thanh tỉnh ra. Ông ta cúi đầu quỳ lạy Phật Thích Ca Mâu Ni rồi nói với giọng bi thương:

– “Con chỉ có mỗi đứa con gái này. Vợ chồng con yêu quý nó như châu ngọc trong tay mình. Nó đã khiến con quên hết mọi sầu đau trong cuộc đời. Nhưng bỗng nhiên con gái con bị bệnh nặng rồi bỏ con mà đi. Cho dù con gọi thế nào nó cũng không trả lời, hai mắt khép lại, thân thể lạnh đi, không còn thở nữa…Con kêu trời, trời không thấu, gọi đất, đất không nghe. Trong lòng con thống khổ không cách nào tả nổi. Con xin Đức Phật tháo gỡ nỗi đau khổ này giúp con!”

Người chồng vừa nói với giọng nghẹn ngào đau khổ vừa trào rơi nước mắt đầy cả khuôn mặt khiến những người bên cạnh nghe thấy cũng không khỏi rơi lệ.

Phật Thích Ca Mâu Ni nghe xong, bèn thuyết giảng Phật Pháp cho ông nghe. Sau một thời pháp người đàn ông này khi nghe xong thì trong lòng được giải khai, thông suốt, ông đã xin xuất gia và cuối cùng đắc chứng quả vị A La Hán.

(trích:Theo Secretchina
Mai Trà biên dịch)

*Sống trên đời, ai ai cũng có rất nhiều điều không được như ý, rất nhiều thời điểm rơi vào đau khổ tuyệt vọng. Nếu như chúng ta hiểu được ra và buông bỏ được chúng thì cuộc đời nhất định sẽ được cải biến tốt đẹp hơn.

Khổ vì yêu thương mà phải chia ly không chỉ giới hạn ở con người, mà còn bao gồm chung cho con vật, món đồ sử dụng, hay hoàn cảnh môi trường cư ngụ, hoặc những thứ mà mình mến thích!

*******

Bi kịch này diễn ra tại Đan Mạch, một quốc gia nghiêm cấm nuôi chó Pit Bull

Anh Dan, 27 tuổi người Đan Mạch nuôi một chú chó giống Pit Bull tên Zanto. Thật không may, Đan Mạch là một trong những nước có lệnh cấm nuôi những giống chó hung hãn và nguy hiểm, và Pit Bull nằm trong top đầu của danh sách

Dan có 8 ngày để chứng minh Zanto không thuộc danh sách các loài chó hung dữ bị cấm nuôi, nhưng đây là điều không thể. Vì thế Zanto đã bị chính quyền thu giữ ngay tại nhà và sau đó bị giết chết bằng cách tiêm thuốc độc.

Dan vô cùng đau buồn vì mất đi một người thân, anh suy sụp tinh thần và cảm thấy bất lực khi không thể làm gì ngoài việc chứng kiến người bạn Zanto của mình bị giết chết, dẫu cho Zanto được nhiều người nhận xét là một chú chó ngoan hiền, thân thiện và không hề có bất kỳ thái độ nào tỏ ra hung dữ. Và rồi, Dan đã tự tử bằng thuốc ngủ chỉ vài ngày sau đó.

(Nguồn: kenh14.vn)

Vì bị chồng tịch thu điện thoại, không thể sử dụng những ứng dụng yêu thích, cô gái trẻ người Ấn Độ đã treo cổ tự tử trong phòng ngủ.

Cô gái trẻ Aparna, 20 tuổi ở Kerala, Ấn Độ vốn là một “con nghiện” Facebook và WhatsApp. Mỗi ngày, Aparna tốn cả đống thời gian cắm mặt vào chiếc điện thoại để thỏa cơn ghiền với những ứng dụng mà cô yêu thích.

Thấy vợ suốt ngày chỉ mải mê nghịch điện thoại, chồng của Aparna trong lúc bực mình đã quyết định tịch thu chiếc iPhone của vợ khiến cô giận dỗi nhốt mình trong phòng ngủ và kiên quyết không mở cửa cho bất kỳ ai.

Một ngày qua đi mà vẫn không thấy vợ có động tĩnh gì, chồng của Aparna đã phá cửa xông vào và vô cùng kinh hãi khi phát hiện ra vợ đã treo cổ tự tử tự bao giờ. Quá đau khổ và dằn vặt về cái chết của người vợ trẻ, người chồng định tự tử theo vợ, nhưng rất may người thân của anh này đã kịp thời ngăn cản.

(Nguồn: kenh14.vn)

**************

7/- Oan tắng hội (thù ghét mà phải thường gặp gỡ):

“Đoạn thứ bảy khổ Oan Tắng Hội,

Hễ thương nhau tất có ghét nhau.

Thường tranh đua tiếng thấp lời cao,

Chẳng nhẫn nhịn thành ra cừu oán.

Muốn tránh xa đừng trông tăm dạng,

Cứ gặp nhau mắt tựa kim châm.

Làm cho người đau đớn âm thầm

Khổ như thế diễn ra mãi mãi”.

(Khuyến Thiện – Vô Danh cư sĩ)

Con người ở trong cảnh thương yêu, chẳng ai muốn chia ly; cũng như ở trong cảnh hờn ghét, chẳng ai mong gặp gỡ. Nhưng oái oăm thay! Ở đời khi mong muốn được hội ngộ, lại phải chia ly; cũng như khi mong ước được xa lìa, lại phải sống chung đụng nhau hằng ngày! Cái khổ phải biệt ly đối với hai người thương yêu nhau như thế nào, thì cái khổ phải hội ngộ đối với hai người ghét nhau cũng như thế ấy.

Người ta thường nói: “Thấy mặt kẻ thù, như kim đâm vào mắt; ở chung với người nghịch, như nếm mật, nằm gai”.

Chưa nói đến trường hợp những người xa lạ, ngay trong gia đình bà con quyến thuộc, giữa vợ chồng, anh em, khi vì một lý do gì đó, sanh ra bất hòa với nhau, cũng đủ khó chịu rồi. Muốn lánh mặt nhau, mà mỗi khi đi ra đi vào lại phải gặp nhau mãi! Quyết không nói chuyện với nhau, mà nhiều khi bắt buộc nín không được, phải nói ra với sự ngượng ngùng. Ðịnh tuyệt giao hẳn, ngặt vì còn phải ăn chung ở lộn một nhà, dầu cố sức trốn tránh, song lắm lúc cũng phải giao thiệp lấy lệ. Thật là khổ. Ðấy là bà con cật ruột, có tình cốt nhục, có nghĩa đồng bào, mà sự hờn ghét còn thúc đẩy con người hết muốn thân mến, không mong gặp gỡ nhau thay! Huống chi đối với người dưng, nước lã, khác giống, khác nòi, một khi đã thù ghét nhau rồi mà phải sống bên cạnh nhau thì thế nào cũng có một ngày xảy ra đại họa. Ðó là ý nghĩa của “Oán tắng hội khổ”.

Đối với những thứ mình ghét cũng không phải chỉ giới hạn ở con người, mà nó còn bao hàm hết thảy con vật, cảnh vật, mùi vị, thức ăn, thức uống…mà mình tiếp xúc trong đời sống hằng ngày. Mỗi lần đối diện với chúng lòng mình cảm nghe nhói đau dữ dội, hay chỉ ở mức độ xốn xan, bực bội, nóng bức…mà thôi.

**********

Oan oan tương báo  

Thuở Đức Phật còn tại thế có một người kia, sau khi cha chết, một mình lo liệu gánh vác tất cả việc nhà cửa ruộng vườn, lại còn chăm sóc bà mẹ rất chu đáo.

Mẹ bảo anh:

– Con ạ, mẹ sẽ kiếm cho con một cô vợ trẻ.

Người con hiếu thảo bèn thưa:

– Mẹ thân yêu, đừng nói thế. Ước ao duy nhất của con là được phụng dưỡng mẹ suốt đời.

– Con ơi, mẹ không muốn một mình con phải gánh vác hết mọi việc trong nhà ngoài ruộng, hãy để mẹ kiếm vợ cho con.

Anh ta từ chối đôi ba phen, rồi đành im lặng bằng lòng. Bà mẹ hớn hở rời khỏi nhà, định đi đến một nhà nọ kiếm con dâu đem về.

Anh ta bèn hỏi mẹ:

– Mẹ định đến nhà ai vậy?

Bà lão giơ tay chỉ:

– Ðến nhà kia kìa!

Anh ta không để mẹ đi đến nhà theo dự định, mà chỉ cho bà một nhà khác anh thích hơn. Vậy là bà đến nhà con mình thích, chọn nàng dâu rồi lựa ngày làm lễ cưới. Rủi thay lại gặp một nàng dâu không sinh đẻ. Bà mẹ nóng lòng bế cháu nên vội vã bảo anh con trai:

– Con ạ, con đã bảo mẹ đem về người vợ do con tự chọn, nhưng cô ấy lại chẳng sinh đẻ. Gia đình không con cái sẽ lụn bại, giống dòng sẽ tuyệt tự. Con hãy để cho mẹ kiếm một nàng dâu khác nghe con!

Anh con trai có vẻ không bằng lòng nên lắc đầu:

– Xin mẹ đừng nói nữa!

Nhưng bà mẹ vẫn nhai đi nhai lại điệp khúc cũ nên lọt vào tai cô vợ hiếm muộn. Lòng cô ngổn ngang trăm mối. Chắc chắn là con phải vâng lời mẹ thôi, nếu bà già kiếm được một người dễ sinh nở thì cô sẽ bị nhà chồng xem thường, coi như đầy tớ. Chi bằng chính cô chọn vợ cho chồng.

Thế là người đàn bà hiếm muộn đi đến nhà nọ kiếm một cô gái cho chồng. Nhưng vừa hở môi bà đã gặp sự chống đối của cha mẹ cô gái. Họ hỏi gặng lại bà:

– Này, bà nói cái gì thế?

Người đàn bà không con trả lời:

– Thú thật ông bà thương, tôi chẳng may xấu số không sinh đẻ, mà gia đình không con sẽ tuyệt tự. Nếu con gái ông bà về nhà tôi sinh được con trai, cô ấy sẽ là bà chủ quán xuyến hết cả gia sản. Xin ông bà hãy cho tôi cưới cô nhà về cho chồng tôi.

Cuối cùng người đàn bà đã thuyết phục được cha mẹ cô gái và rước cô về nhà. Dù đã làm được theo ý mình, người đàn bà hiếm con vẫn không an tâm, cứ lo sợ đối thủ sinh con, sẽ là bà chủ trong nhà. Rồi bà đến nói với đối thủ của mình:

– Nè em! Hễ em có thai thì cho chị biết nhé!

Cô kia ngoan ngoãn trả lời:

– Dạ.

Và như lời hứa, ngay khi mang thai cô đến báo cho người vợ cả biết. Hằng ngày vợ cả thường tự tay nấu cháo cho đối thủ mình ăn. Thế là từ hôm đó bà bỏ vào cháo một ít thuốc phá thai. Kết quả đối thủ của bà bị sẩy thai. Lần thứ hai, người vợ sau cũng lại báo tin cho vợ cả khi mang thai. Vợ cả làm như lần trước và cô này lại sẩy thai nữa. Các bà hàng xóm thấy cô vợ sau ngây thơ, nên vừa thương tình vừa tò mò mới hỏi thăm:

– Có phải đối thủ của chị thọc gậy bánh xe chị không?

Và khi nghe kể lại sự vụ, họ bảo:

– Ðồ ngốc, sao chị dại dột như vậy? Bả sợ chị chiếm ưu thế trong gia đình nên trộn thuốc phá thai cho chị ăn. Lần sau đừng có nói cho bả biết nữa nghe chưa!

Lần thứ ba người vợ sau không nói gì cả, nhưng bà hiếm con thấy bụng người vợ sau ngày càng to liền hỏi:

– Sao em có thai mà không nói cho chị biết?

Bà vợ sau thật thà nghĩ sao nói vậy:

– Chính chị mang tôi về đây, vậy mà hai lần rồi chị làm tôi hư thai. Tại sao tôi phải nói với chị kia chứ?

Bà không con thất vọng: “Hỏng, thế là ta thua rồi!.” Từ đó bà theo dõi, chờ cơ hội đối thủ thiếu cảnh giác lại ra tay, vì bà vẫn chưa chịu thua.

Khi đứa bé trong bụng mẹ đã thành hình, bà cả thừa một dịp nọ trộn thuốc cho bà vợ sau ăn, nhưng vì hình thể đã đầy đủ nên thai nhi không bị hư, mà lại kẹt ngang cổ tử cung. Ngay sau đó bà mẹ đau bụng dữ dội và cảm thấy giờ chết đến nơi. Bà la hoảng lên:

– Mày giết tao! Chính mày mang tao về và cũng chính mày giết ba đứa con của tao. Giờ tao sắp chết, kiếp sau tao sẽ thành quỷ dạ xoa ăn thịt con mày!

Nguyền rủa rồi bà tắt hơi và lại sanh vào nhà ấy thành một con mèo. Còn ông chồng lúc ấy tóm bà vợ không con, nạt nộ:

– Chính mày làm tan nát gia đình tao!

Rồi ông dùng cùi chỏ, đầu gối… đánh đập bà tàn nhẫn. Sau trận đòn, người vợ cả ốm nặng rồi chết, lại cũng sinh vào nhà ấy thành một con gà mái.

Như vậy bà vợ sau tái sinh là con mèo, vợ cả là con gà. Khi gà mái đẻ trứng, mèo đến ăn sạch hết. Ba lần như vậy gà mái cất tiếng:

– Ðã ba lần mày ăn trứng con tao, bây giờ mày còn chực ăn luôn cả tao. Kiếp sau tao sẽ ăn thịt mày và con mày!

Nguyền như vậy rồi nó chết và sinh làm con beo cái. Còn mèo sinh làm con nai cái. Ba lần nai cái sinh con, ba lần beo đến nuốt tươi. Khi sắp chết, nai cái lại nguyền rủa:

– Ba phen ác thú này nuốt sống con ta và giờ nó định nhai luôn cả ta nữa. Kiếp sau ta sẽ nhai nuốt nó và con nó!

Rồi nai cái tái sinh là quỷ Dạ xoa và beo chết đi đầu thai thành một cô gái dòng tôn quý ở Xá Vệ. Lớn lên, cô gái lập gia đình sống bên nhà chồng tại một khu xóm nhỏ gần cổng thành. Một thời gian sau cô có con. Quỷ Dạ xoa biến thành một người bạn thân đến thăm cô gái và hỏi người nhà:

– Bạn tôi đâu?

– Ở phòng trong, cô ấy vừa sinh hạ một đứa bé.

Da xoa hớn hở hỏi tiếp:

– Con trai hay con gái vậy? Tôi muốn thăm chị ấy.

Rồi tất tả bước vào trong, giả vờ nhìn ngắm đứa bé và nhanh tay chộp lấy nhai nuốt xong đi ra. Lần thứ hai, quỷ cũng nuốt tươi con của người vợ trẻ như vậy. Ðến lần thứ ba, thấy bụng đã lớn cô vợ trẻ thủ thỉ với chồng:

– Anh à, tại đây có một con quỷ Dạ xoa đã nuốt chết hai đứa con của chúng ta và trốn thoát. Lần này tôi định trở về nhà để sinh nở.

Ðến ngày lễ đặt tên, bà mẹ tắm rửa và đặt tên cho đứa bé xong, thưa với chồng:

– Ông à, bây giờ chúng ta hãy trở về nhà.

Cô vợ ẵm con đi bên cạnh chồng. Trên con đường băng ngang tịnh xá Kỳ Hoàn, khi đến hồ nước của tịnh xá, người vợ trẻ giao con cho chồng và xuống hồ tắm. Cô tắm xong, đến phiên chồng, và cô ngồi đợi gần đó và cho con bú. Ngày lúc ấy quỷ Dạ xoa xuất hiện. Cô vợ trông thấy nhận ra nó, lập tức la lên:

– Ông ơi! Ðến đây mau! Con quỷ đây nè!

Sợ chồng đến không kịp, cô xoay người đâm đầu chạy vào tịnh xá. Lúc ấy đức Ðạo Sư đang thuyết pháp giữa chúng hội. Người vợ trẻ đặt con dưới chân Phật thưa:

– Con xin cúng dường Ngài đứa bé này. Xin hãy cứu lấy nó!

Quỷ cũng rượt theo tới nơi. Thần Hộ Pháp bên trên cổng tịnh xá, liền ngăn quỷ Dạ xoa lại không cho vào. Ðức Ðạo Sư bảo trưởng lão A Nan:

– A Nan, ngươi hãy ra gọi quỷ Dạ xoa vào đây!

Trưởng lão y lệnh. Người vợ vừa thấy quỷ lo sợ, kêu lên thất thanh:

– Nó đó, thưa Thế Tôn.

Ðức Ðạo Sư dạy:

– Hãy để nó vào. Ðừng làm ồn!

Dạ xoa bước vào, đứng trước Phật. Phật thuyết pháp cho nghe. Sau khi nghe xong Dạ xoa liền đắc quả Dự lưu, mối oán hận hai bên được giải trừ.

(trích: Tích Truyện Pháp Cú)

***************

8/- Ngũ ấm xí thạnh khổ (Năm ấm lẫy lừng): Vì cụm từ Phật học này quá sâu, nên Cổ Đức đã phương tiện thay thế bằng Ưu sầu lo ngại:

“Đoạn thứ tám Ưu Sầu lo ngại,

Cuộc tang thương dâu bể cảnh trần.

Nghèo thì lo một nỗi nợ nần,

Lo đau đói liệu cơn nhà rách.

Buồn duyên số phận mình nhơ sạch,

Rầu gia đình chúng bạn khinh cười.

Giàu thì lo chen lấn với người,

Miễn cho đuợc đầy rương đầy tủ.

Của dương thế góp tom bảo thủ,

Sợ gian phi trộm cướp rình mò.

Lo tước quyền cho được thơm tho,

Sợ kẻ khó thiếu tiền chẳng trả.

Ôi ! cả sang hèn chẳng ai thong thả,

Sao nhơn sanh cứ mãi đắm say”.

(Khuyến Thiện – Vô Danh cư sĩ)

************

Quả báo thảm khốc của lời thề

Vào thời đức Phật còn tại thế, có vị tỳ kheo ni tên là Vi Diệu, sau khi chứng đắc quả A La Hán liền tự nói ra với ni chúng những quả báo thiện ác của chính mình trong đời trước.Tỳ kheo ni Vi Diệu kể lại rằng:

-Thuở quá khứ ta từng làm vợ của một vị trưởng giả rất giàu có. Ông này chưa có con nối dõi, nhân có người tiểu thiếp sinh được đứa con trai nên ta ghen tị, tự nghĩ: “Công lao của ta khó nhọc, làm ăn chắt bóp nên được giàu có, sau này đứa con vợ lẽ nó hưởng hết, thật là luống công vô ích cho ta”. Vì thế mà ta lén lút giết chết đứa trẻ bằng cách lấy một cái kim dài, chờ lúc vắng người, cấm ngập vào giữa đỉnh đầu đứa bé. Cách ít ngày thì đứa trẻ ấy chết.

Người thiếp ấy nghi ta hại nên oán hận ta lắm, mắng nhiếc rất nhiều câu khó nghe. Khi ấy ta liền tự phát lời thề độc rằng:

-Nếu quả thật tôi giết con của cô thì chồng tôi sẽ bị rắn cắn, con tôi sinh ra sẽ bị nước trôi, bị sói ăn thịt, tự tôi sẽ ăn thịt con mình, thân tôi sẽ bị chôn sống, cha mẹ người nhà đều sẽ bị lửa lớn thiêu chết.

Do nghiệp ác của lời thề đó, sau khi chết ta bị đọa vào địa ngục chịu vô số những khổ não đau đớn. Sau khi chịu tội ở địa ngục xong, trong đời này ta được sinh làm con gái một vị Bà la môn. Khi ấy, ta mang thai sắp đến ngày sinh nở, liền cùng chồng đi về nhà cha mẹ. Giữa đường chợt đau bụng sắp sinh, phải dừng lại sinh trong đêm dưới một gốc cây, bỗng có một con rắn độc cắn chết chồng ta. Ta đau buồn khóc lóc, đợi trời vừa sáng thì tay dắt đứa con lớn, tay bồng đứa con nhỏ, gạt nước mắt mà tiếp tục lên đường. Phía trước bỗng gặp một con sông chắn ngang, không có thuyền bè qua lại, ta liền để đứa con lớn ở bờ sông bên này, bế đứa con nhỏ bơi qua sông trước, đặt con trên bờ rồi mới quay lại đón đứa con lớn. Con ta nhìn thấy mẹ thì từ bờ sông chạy ngay ra, không ngờ liền bị nước cuốn trôi đi mất.

Ta không cứu được đứa con lớn, quay lại chỗ đứa con nhỏ thì nó đã bị sói ăn thịt mất rồi, chỉ còn thấy máu thịt còn lênh láng nơi ấy. Đau buồn thống thiết vì cốt nhục chia lìa, ruột gan ta như đứt đoạn, chết đi sống lại. Ta tiếp tục đi về nhà thì gặp một vị Bà la môn là người quen thân với cha mẹ ta, liền kể hết những nỗi khổ của mình rồi hỏi thăm sức khỏe cha mẹ. Vị ấy liền nói: “Cách đây mấy hôm nhà bị cháy, hai ông bà cùng tất cả người nhà đều chết cả.” Nhân đó, ông liền đưa ta về nhà, nuôi dưỡng như con gái. Về sau  ta lại tái hôn với một người khác, mang thai đến khi sắp sinh nở thì vừa gặp lúc chồng ta đi uống rượu về, không ai mở cửa nên tự phá cửa vào.

Đang lúc say rượu điên cuồng, chồng ta liền trói ta lại rồi đánh đập tàn độc, lại nấu thịt đứa con mới sinh bắt ta phải ăn. Ta quá sợ phải cố nuốt vào một miếng, đau xé tâm can.

Sau việc đó, ta bỏ chồng trốn chạy đi thật xa. Đến nước Ba-la-nại, dừng nghỉ dưới gốc cây thì gặp một người vừa chết vợ, liền cùng ông ta kết làm vợ chồng. Được một thời gian, người chồng này bỗng lăn ra chết.

Theo luật của nước ấy, “nếu vợ chết thì chồng được phép lấy vợ khác, nhưng nếu chồng chết thì chôn theo cả vợ”. Như thế, ta cũng bị chôn luôn với chồng một huyệt! Nhưng ta chưa chết hẳn, tối hôm đó có bọn cướp đến đào mả để lấy những trang vật vàng bạc của ta, anh tướng cướp thấy ta xinh đẹp bắt về làm vợ. Ta ở với anh giặc này chưa bao lâu thì bị quan quân triều đình bắt được chém mất đầu, bọn bộ hạ của anh cướp lấy xác mang về bắt ta đem chôn sống cùng anh giặc một thể. Vừa được ba ngày các con hổ bới mả định ăn thịt, trời tang tảng sáng chúng thấy người đi chợ đông, bỏ chạy, nhân thế ta dùn mả lên, ngồi than một mình rằng: “Chẳng biết kiếp trước ta làm tội gì, mà nay gặp nhiều tai nạn như vậy?”

Chết đi sống lại mấy lần, làm thân nữ nhi thực là tội nghiệp. Xét rằng: “Muôn vàn các bạn gái khác, chồng con cũng chẳng qua dưới ách nô lệ, của tâm hồn mê muội ngu si, không biết nhận thức một hạnh trong sáng thanh cao, bước lên con đường chân chính, tìm hiểu chân lý, tu hành cho thoát khỏi nơi phàm tục! Đó cũng chỉ vì nghiệp tham ái vô minh che tối, khi mới biết nhận thức con người, đã ngăm ngăm trong đáy lòng toan tính những đường duyên nợ, chịu chết nơi sào huyệt của dục vọng cám dỗ, vì thế mới chìm đắm nơi biển cả sinh tử luân hồi”, ta sực nhớ rằng: “Trước đây có người họ Thích xuất gia tu đạo, nay đã thành Phật, vậy đến đó để nương thân cho thoát khổ”. Đứng dậy bước đi, dạ đói thân đau, đường xa nhiều hiểm trở, vừa đi vừa hỏi thăm, đến nơi rừng Kỳ Hoàn trời vừa sẩm tối, xa xa nhìn thấy đức Như Lai sáng rực như quả núi vàng, oai phong lẫm liệt, đầy vẻ từ bi, sung sướng quá! Ta quỳ xuống một lòng thành kính hướng về Ngài, tha thiết ân cần cầu tế độ. Ngài đến tận nơi, khi đó hình thể ta lõa lồ ngồi dưới đất, thẹn hổ phải lấy tay che vú, Phật sai Ngài A Nan đem cho ta tấm áo, ta tới trước Ðức Thế Tôn cúi đầu lễ dưới chân, và trình bày những thống khổ vừa qua và xin xuất gia tu đạo. Ta chăm chỉ tu hành chẳng bao lâu đã chứng được quả A La Hán. Thân ta bây giờ tuy đắc quả A

La Hán nhưng thường thường bị đau nhói một cái từ đầu xuống chân không khác chi cái kim đâm đau thấu tận xương! Như thế đó, tội báo mặc dầu cho lâu kiếp đến đâu cũng không thể xóa nhòa được.

(trích: Kinh Hiền Ngu)

***********

*Trong 8 thứ khổ này, 4 thứ: sanh, già, bệnh, chết là bốn thứ khổ thuộc về thân; còn 4 thứ sau là bốn thứ khổ thuộc về tâm. Cho nên ngày giờ nào chúng sinh còn đắm chìm trong bể sanh tử luân hồi, là ngày giờ đó chúng sinh còn phải mang lấy vô lượng khổ đau. Đau khổ chưa hề nể nang tha thứ bất cứ người nào trên cõi đời này, từ kẻ ăn mày thấp hèn cho đến vua chúa giàu sang oai quyền tột bậc!

Cho nên cổ nhân đã từng than thở:

“Nghĩ thân phù thế mà đau,

Bọt trong bể khổ, bèo đầu bến mê”.

Thuở xưa, thời Đức Phật còn trụ thế, có bốn vị tỳ kheo cùng ngồi lại bàn luận về các sự khổ trong thế gian, cái nào là hơn cả !

Vị tỳ kheo thứ nhứt nói:

– Theo tôi thì sự sợ hãi là khổ hơn hết !

Vị thứ nhì trình bày:

– Sự nóng giận mới là khổ cao độ hơn cả !

Vị thứ ba bảo:

– Chỉ có sự đói khát là khổ hơn hết !

Vị tỳ kheo thứ tư cãi lại:

– Theo tôi thì chỉ có sự ái dục là khổ đệ nhứt !

Mỗi tỳ kheo đều tranh luận theo ý mình, may đâu Đức Phật vừa đi đến, các ông ấy liền đứng lên thi lễ và trình bày sự nhận xét của mỗi người để nhờ Phật phân định coi lý nào là đúng .

Phật liền phán dạy:

– Các ngươi luận đều phải cả, song các người chỉ biết cái ngọn ngành của các sự khổ, chớ chưa hiểu tận nguồn gốc của nó. Gốc khổ là do xác thân, nếu không có thân, các nỗi khổ do đâu mà có ? – Song sở dĩ có thân là bắt nguồn từ “vô minh phiền não”.

Căn cứ theo đây chúng ta có thể hiểu: vô minh phiền não ví như hạt giống, xác thân như thân cây, còn các sự khổ như bông, trái. Từ hạt giống (vô minh) mọc lên cây (thân xác) rồi kết bông trái (khổ). Trong trái cây lại có hạt giống tiếp tục mọc lên cây khác; một vòng nhân duyên tương tục mà dẫn đầu là tập nghiệp vô minh.

Thông thường người ta đều có quan niệm rằng làm tiên trên trời là sung sướng nhất. Thật ra không phải như thế, vui sướng mà chư thiên có được là do tu phước từ hành thập thiện, giữ giới hoặc tu định. Dù rằng tuổi thọ cuả các vị ấy rất dài lâu. Nhưng nếu không siêng năng tu thêm, một khi phước báo đã hưởng hết rồi thì cũng phải rớt xuống phàm trần chung chịu bao nỗi khổ đau y như cũ. Giống như mũi tên bắn thẳng lên trời, chừng hết đà rồi thì rơi trở lại, đôi khi gim sâu vào lòng đất hơn. Có nghĩa là đọa thẳng vào tam ác đạo tức ba đường ác là địa ngục, ngạ quỉ, súc sanh.

Uất Đầu Lam Phất

Ngày xưa có vị tiên nhân là Uất Đầu Lam Phất, ông tu đã đạt được ngũ thông, được vua Tần Bà Sa La rất kính trọng và mời cúng dường mỗi ngày. Vì chỗ ông ở cách cung vua rất xa nên mỗi lần đến cung vua thì ông dùng thần thông bay tới. Một hôm vua có việc đi vắng nên dặn hoàng hậu ở nhà sớt bát cúng dường. Theo tập tục Ấn Độ xưa, khi kính trọng ai, để bày tỏ lòng chí thành thì phải kính lễ, lúc lạy xuống đầu và mặt tiếp xúc với chân người đó. Khi tiên nhân Uất Đầu Lam Phất đến thì hoàng hậu cũng đúng như phép, sụp lạy và để mặt bà chạm vào chân của tiên nhân. Nhưng khi chạm vào chân thì ông Uất Đầu Lam Phất động tâm cho nên mất thần thông, khi về phải đi bộ trở về núi. Khi tới thì rất là nhanh nhưng khi về nghe nói phải mất tới mấy tháng mới về lại núi được. Vì mất thần thông nên ông rất hối hận, quyết tâm đến bên gốc cây tu luyện để cầu được thần thông trở lại. Khi nhất tâm, cố gắng chuyên chú thì có lũ chim kêu, nên ông bị loạn ý, không thể nào thu nhiếp tâm ý để hồi phục thần thông được. Lúc bấy giờ ông bỏ cội cây, đến bên bờ biển để tập trung nhiếp định cầu lại thần thông. Khi ông nghe các loài cá quậy giỡn, ông cũng động nên cuối cùng việc luyện tập thiền định của ông cũng không thành công. Vì tập trung cầu hồi phục thần thông mà không được cho nên ông tức giận và thề: “Sau này ta sẽ làm một con chồn bay để ăn hết tụi bay” vì cái tội làm cho ông loạn ý, tu không được. Sau đó ông vào rừng sâu, tìm một chỗ yên vắng tập trung và hồi phục được thần thông đã mất. Sau khi chết ông sanh lên cõi trời Phi Tưởng Phi Phi Tưởng Xứ  và ở đó một thời gian. Khi hết tuổi thọ, vì lời thề xưa cho nên ông đọa xuống làm một con chồn bay. Lòng uất hận ngày xưa giờ vẫn còn nên con chồn bay vào rừng ăn chim, xuống nước ăn cá rất nhiều. Vì gây vô lượng tội ác như vậy nên sau khi chết, con chồn bay này đọa vào địa ngục rất lâu dài và chịu vô số hình khổ đau đớn bởi nghiệp đã tạo đó.

(Đại Đường Tây Vức Ký

Pháp sư Huyền Trang-Thích Như Điển dịch)

**************

G/- Đức Phật nêu rõ những nỗi khổ ấy để là gì?

Có người sẽ băn khoăn, thắc mắc tự hỏi: Ðức Phật nêu lên một cách rốt ráo những nỗi khổ của thế gian để làm gì? Cuộc đời đã đau khổ như thế, thì nên che giấu bớt đi chừng nào hay chừng ấy, chứ sao lại lột trần nó ra làm gì cho người ta càng thêm đau khổ? Ta cố gắng tạo nên một ảo tưởng tốt đẹp về cuộc đời để sống an ổn trong ấy, có hơn không? Ðứa trẻ nít sống một cách hồn nhiên, yên ổn trong hạnh phúc, vì nó không biết đến những nỗi đau khổ, xấu xa của cuộc đời. Tại sao ta lại không cố bắt chước như chúng, đừng tìm biết gì cả về những sự xấu xa, khổ sở của cõi đời, để sống một cuộc sống có hạnh phúc hơn? Ðức Phật là một đấng thường được gọi là đấng từ bi, sao lại làm một việc nhẫn tâm như thế?

Những câu hỏi thắc mắc trên, mới nghe thì hình như có lý, nhưng nếu suy xét một cách rốt ráo, sẽ thấy chúng là nông cạn. Ðức Phật không nhẫn tâm khi nêu lên những nỗi khổ căn bản của cõi đời; chính là vì lòng từ bi mà Ngài làm như thế. Ðức Phật muốn cho người đời biết rõ những nỗi khổ của trần gian, vì những lợi ích lớn sau đây:

1.- Gặp cảnh không khủng khiếp:  

Những nỗi khổ mà đức Phật nói ra ở trên là những nổi khổ căn bản, không ai tránh khỏi được. Ðã sống, tất phải gặp chúng. Có ai không già, không bệnh, không chết chăng? Có ai suốt đời không gặp chia ly với người thân thuộc, không bị chung sống với những kẻ thù nghịch chăng? Có ai đạt được tất cả những điều mình mong ước chăng? Cho nên dù có muốn tạo ra một ảo tưởng đẹp đẽ về cuộc đời để sống cho yên ổn, thì ảo tưởng ấy, sớm hay muộn gì cũng sẽ bị thực tế phủ phàng xé tan đi mất! Và khi ấy, cuộc thế trần truồng, xấu xí, ghê tởm sẽ hiện ra một cách vô cùng đột ngột, trước mắt những kẻ thường quen sống trong ảo tưởng đẹp đẽ. Bấy giờ những kẻ thiếu chuẩn bị để sống một cuộc sống đau khổ, sẽ hoảng lên, vô cùng tuyệt vọng và có nhiều khi không đủ can đảm để sống nữa.

Trái lại, khi chúng ta biết rõ cảnh Ta Bà này có nhiều điều khổ, thì gặp cảnh khổ, chúng ta không đến nỗi khủng khiếp, tán loạn tinh thần, mà trái lại, chúng ta sẽ điềm tĩnh nhẫn nại để tìm phương giải thoát. Tỷ như nhà nông, biết bổn phận mình là phải vất vả với nghề cày sâu cuốc bẫm, tay lấm chân bùn, mới có lúa gạo để sống, nên gặp cảnh mưa tuôn, nắng táp cũng không nao núng chút nào. Trái lại, một kẻ quyền quí, quen sống trong nhung lụa, trong cảnh đền đài nguy nga, rủi gặp thời cuộc hổn loạn, đổi thay bất ngờ, đâm ra kinh hãi và liều mình tự tử, do vì họ nghĩ rằng chết chắc chắn sẽ hết khổ. Nhưng không ngờ khổ đau sau đó còn dữ dội hơn nhiều!.

2.- Không tham cầu nên khỏi bị hoàn cảnh chi phối: 

Khi chúng ta rõ biết cuộc đời vui ít buồn nhiều, và hễ càng ham muốn nhiều thì lại càng đau khổ lắm, khi biết rõ như thế, chúng ta sẽ tiết chế dục vọng của chúng ta và sẽ “biết đủ”. Do đó, chúng ta không bị hoàn cảnh chi phối, không bị sóng đời lôi kéo, vùi dập chúng ta xuống vực thẳm mênh mông của cõi Ta Bà đen tối. Tỷ như người trí, rủi bị giam cầm, biết lo nghĩ phương kế để thoát ly lao ngục, chứ không như kẻ dại, trong khi ngồi tù, chỉ lo tranh giành những món cơm thừa, canh cặn mà quên rằng mình sẽ bị đem xử tử, nếu mình không sớm tìm kế thoát thân.

3.- Gắng sức tu hành để thoát khổ:

Khi đã biết thân người nhiều khổ và cảnh Ta Bà ít vui, con người mới mong ước được thoát ly ra khỏi cảnh giới đen tối của mình và sống ở một cảnh giới tốt đẹp hơn. Cũng như lũ trẻ đang chơi mê mẩn trong cảnh nhà đang cháy, may nhờ đấng cha lành báo động, chúng mới biết và gấp rút tìm đường thoát ra.

Lương Duy Châu

Lương Duy Châu, quê ở Thiệu Hưng, làm người chấp sự tại am Long Đàm. Đến bốn mươi tuổi, ông mù cả đôi mắt, không còn làm việc để sanh sống được, muốn tự tử.

Có vị Tăng ở trong am khuyên ngăn rằng:

– Buồn phiền mà chết như thế, chỉ thêm nghiệp chớ không được giải thoát. Ở thế giới Cực Lạc Phương Tây có Đức Phật hiệu A Di Đà. Nếu ông chí tâm thường trì niệm hồng danh, thì sẽ vĩnh viễn thoát khổ, sanh về cõi an vui. Vậy sự đui mù có chi mà đáng ngại? Như ông chịu làm y theo lời, tôi nguyện xin khất thực để giúp đỡ!

Duy Châu cảm tạ, nguyện xin tuân hành. Ông chí thiết niệm Phật được ba năm, đôi mắt bỗng nhiên sáng lại. Hơn nửa tháng sau, ông bảo chúng rằng:

– Tôi sắp đi xa !

Qua ba hôm, vào giờ Ngọ, Duy Châu ngồi chấp tay day mặt về Tây niệm Phật mà thoát hóa. Lúc ấy nhằm năm Càn Long thứ ba mươi tám.

Lời bình:

Cảnh trầm luân nghiệp quả đáng bi thương, kiếp phù sinh vẫn như mộng huyễn. Bao nhiêu nỗi khổ vui, vinh nhục, đắc thất đã trải qua: việc lo toan về bản thân, gia đình, xã hội chưa thấy ổn, mà cái chết đã kề cận một bên rồi! Môn Niệm Phật đối với người tại gia rất cần thiết. Bởi thân đắm vào lò lửa trược trần, tâm chìm trong ngục tù phiền não, khi một hơi thở chẳng vào thì nghiệp tam đồ kế tiếp. Nếu không nhờ sức Phật, làm sao đối địch nổi với cảnh này? Với những kẻ tạo nghiệp chẳng lành đang bị ác báo, thì công đức của Phật hiệu, sự hộ trì của tha lực lại càng khẩn yếu. Đại khái như Chung Quỳ và Duy Châu, nếu chẳng nhờ một câu hồng danh thì làm sao được giải thoát? Thế mới biết bi nguyện của Phật thật vô cùng rộng sâu, chẳng bỏ sót một chúng sanh nào cả ?

(Trích Mấy Điệu Sen Thanh – 1998, tập 2, tr. 157 – HT. Thích Thiền Tâm)

H/- Biết khổ để tìm phương pháp giải thoát những khổ đau đang trói cột chúng ta.

Chúng ta đã  được đức Phật từ bi chỉ rõ cho thấy rằng cõi Ta Bà này, cũng gọi “tam giới” là biển khổ. Kinh Pháp Hoa cũng nói: “Ba cõi không an, ví như nhà lửa”. Tiếc vì chúng sinh mê muội, lấy khổ làm vui mà không tự biết, nên phải bị trầm luân sanh tử tử sanh tiếp nối nhau không dứt.

Nay chúng ta đã hiểu rõ mặt thật xấu xí của đời rồi, đã biết nó là một biển khổ mênh mông luôn luôn dậy sóng, thì ta phải nhàm chán nó, phải ghê sợ nó, mau mau xa lánh nó. Biết khổ để tìm cách thoát ly, chứ không phải biết khổ để rồi chán đời, nản chí, buông xuôi tay ngồi đó mà khóc lóc thở than.

(trích: Khổ đế – HT. Thích Thiện Hoa)

 

CHƯƠNG 3 NGUYÊN TẮC GIẢI THOÁT VÒNG SINH TỬ LUÂN HỒI

A/.- Làm chủ được tâm ý là làm chủ sinh tử luân hồi

Bởi vì vô minh, si mê, tăm tối nên tạo nghiệp. Nghiệp từ thân khẩu và ý của mình gây tạo, rồi nó dẫn mình đi luân hồi. Mà trong ba thứ đó thì tâm ý đóng vai trò chủ chốt, là cội nguồn, là gốc rễ, còn thân và khẩu chỉ là cành lá nhánh ngọn mà thôi. Cho nên làm chủ tâm ý là làm chủ nghiệp.

Tất cả mọi thứ ưu phiền sầu khổ, hay an lạc vui sướng đều do tâm của mình gây tạo nên. Vì vậy Tam tạng kinh điển Đức Phật Thích Ca Mâu Ni đã thuyết giảng trong suốt 49 năm, chỉ nhắm vào một mục đích duy nhất là làm sao cho chúng sanh hay ra điều này, tin nổi điều này: “Làm chủ được tâm ý là làm chủ được nghiệp, làm chủ được nghiệp là làm chủ được sanh tử luân hồi, làm chủ được nghiệp là làm chủ được tất cả; sáng tỏ tâm ý của mình là sáng tỏ tất cả vạn vật”. Đây là cốt lõi của sự tu mà nhà chùa thường hay nói tu tâm sửa tánh; và tu để minh tâm kiến tánh, hể kiến được tánh thì thành Phật!

Anh chàng họa sĩ tài ba, bằng nét cọ linh động uyển chuyển nhẹ nhàng, anh ta tùy ý lựa chọn cảnh vật để vẽ; anh ta sẽ tùy ý lựa chọn khung nền hoặc lớn hoặc nhỏ; tùy ý phối hợp các màu sắc khác biệt hoặc đậm hoặc nhạt một cách hài hòa, y như cảm hứng và ưa thích của chính mình mà cho ra vô số những bức tranh khác nhau.

Hay như anh nông phu gieo trồng các loại hoa màu, hoặc các loại cây ăn trái. Nếu thích ăn chua thì trồng me, trồng chanh; thích cay thì trồng tiêu, ớt, xả, gừng; thích ngọt thì trồng mía, thích béo thích bùi thì gieo trồng các loại lúa nếp đậu khoai…tùy theo ước muốn riêng mình mà anh nông phu ấy gieo trồng và giặt hái đúng theo sở thích.

Cũng giống hệt như vậy, tâm ý của chúng ta cũng có thể tạo tham sân si, tạo tác các ác nghiệp để vào tam ác đạo (địa ngục, ngạ quỉ, súc sanh); có thể tu thiền định, tu ngũ giới thập thiện để vào tam thiện đạo (Trời, Thần, người); cũng có thể tu tứ đế, tu thập nhị nhân duyên, tu lục độ để ra khỏi sanh tử luân hồi (chứng A La Hán, Duyên Giác, Bồ Tát và Phật ). Vì thế khổ hay vui đều hoàn toàn do tâm mình làm nên, mà không do ai khác; không do Thần, Thánh, Trời, Phật đặt để an bày; cũng chẳng phải do hên xui may rủi!

Kinh Lăng Nghiêm có câu: “Nhứt thiết pháp tùng tâm tưởng sanh”(hết thảy mọi thứ trên cõi đời này đều do tâm tạo nên).

Kinh Hoa Nghiêm cũng nói: “Nhất thiết duy tâm tạo”, ý nghĩa tương đồng như câu kinh ở trên. Cho nên trong Giác Mê Tâm Kệ có câu:

“Địa ngục cũng tại Tâm làm quấy,

Về thiên đàng Tâm ấy tạo ra.

Cái chữ Tâm mà Quỉ hay Ma,

Tiên hay Phật cũng là tại nó”.

Cổ Đức cũng cho biết:

三點如星像
橫鉤似月斜
披毛從此得
做佛也由他

“Tam điểm như tinh tượng,

Hoành câu tợ nguyệt tà.
Phi mao tùng thử đắc,
Tố Phật dã do tha”

Chữ Tâm 心 trong chữ Hán được mô tả có ba chấm như ba ngôi sao (Tam điểm như tinh tượng), còn móc câu nằm ngang như ánh trăng nghiêng . Mang lông đội sừng tức làm thân trâu, ngựa… là do tâm này, làm Phật Tổ, làm Tiên, Thánh… cũng từ nó mà ra.

*********

*Suốt cả đời hoằng pháp lợi sinh, như bậc Đại Y Vương tùy bệnh cho thuốc, Đức Thế Tôn đã đưa ra bốn muôn tám ngàn pháp môn cho chúng sanh tu tập ngõ hầu giải thoát. Dĩ nhiên là chúng ta chỉ cần lựa chọn một môn thích hợp để tu, là sẽ được thoát ra khỏi vòng sanh tử luân hồi.

Thuở Phật còn tại thế thì Ngài lựa chọn pháp môn cho chúng ta tu thì rất chính xác, hiệu quả đạt được trong hành trì hết sức viên mãn. Khi Đức Phật đã nhập Niết Bàn, chỉ còn kinh điển để lại, thời đại đó vẫn còn các Thánh đệ tử, chư vị ấy đều đã chứng đạo, nên giúp chúng ta lựa chọn thì hiệu quả mà ta đạt được trong dụng công cũng rất khả quan. Hôm nay Thánh tăng chẳng còn, chính mình phải tự lựa chọn pháp môn để tự tu, hiệu quả đích thực rất khó nói, sơ sẩy tí xíu là uổng phí một đời, đôi khi trái ngược 180 độ rất đáng thương. Mấy mươi năm khó khổ nhọc nhằn, đổ ra rất nhiều mồ hôi và nước mắt, đổ ra rất nhiều công sức hành trì, thế mà kết quả hiện tại giặt hái nhiều đau khổ, tương lai đọa lạc càng sâu hơn! Bởi vì tự tu theo ý của mình, không tuân thủ y như lời Phật đã chỉ, lời Tổ đã dạy, tự lầm lạc mà không hay biết!

Cũng như thầy thuốc giỏi đã qua đời, ông chỉ để lại những phương thang thần diệu trong sách vỡ! Mình là bệnh nhân, bất đắc dĩ phải tự tra tìm trong sách ấy những đơn thuốc nào xem ra thích hợp với bệnh chứng mà mình mắc phải, rồi dùng thử. Nếu chọn tìm đúng thuốc đúng bệnh thì quả thật là may mắn được khỏi bệnh; giả như ngộ nhận uống sai thuốc thì chẳng những bệnh không khỏi mà càng dùng, bệnh trạng càng nặng nề hơn, đau đớn càng dữ dội hơn, thậm chí cái mạng mộc của mình cũng không giữ lại được nữa là!!!

Đức Bổn Sư Thích Ca Mâu Ni rất từ bi, đã sớm biết trước được sự tình này, nên trong kinh Tượng Pháp Quyết Nghi, Ngài đã chọn lựa thay cho chúng ta: “Thời kỳ chánh pháp giới luật thành tựu” (sau Phật nhập diệt một ngàn năm thứ nhất, người giữ giới đầy đủ sẽ được ra khỏi sanh tử luân hồi); “Thời kỳ tượng pháp thiền định thành tựu” (một ngàn năm thứ hai sau khi Phật nhập diệt, ai tu đạt được định sẽ được ra khỏi sanh tử luân hồi); “Thời kỳ mạt pháp Tịnh Độ thành tựu” (sau hai ngàn năm trở đi, người tu nên tu niệm Phật cầu vãng sanh, nếu đầy đủ TÍN – NGUYỆN chắc chắn sẽ được ra khỏi sanh tử luân hồi).

Pháp môn Tịnh Độ bao hàm rất rộng, ở đây chỉ cần hiểu đơn giản là cách thức Niệm Phật cầu Vãng Sanh về thế giới Tây Phương Cực Lạc của Đức Phật A Di Đà. Pháp môn này giúp chúng ta dễ dàng làm chủ được nghiệp, bởi vì khi ta chí thành cung kính tưởng niệm danh hiệu Phật A Di Đà, tưởng niệm bằng nỗi niềm mong muốn được sinh sang cõi nước của Ngài, thì lúc ấy tâm ta không còn nhớ nghĩ đến bao thứ dây mơ rễ má, như là: tốt xấu thị phi, danh lợi cảm tình, giàu nghèo được mất …không nhớ nghĩ những thứ thuộc về cõi Ta Bà này nữa. Đây là phương pháp làm chủ nghiệp nhanh hơn những pháp tu khác, thuận lợi hơn những pháp tu khác ngay trong thời đại chúng ta đang sống hiện nay!

B/.- Phương pháp làm chủ tâm

Mặc khác, hết thảy tám muôn bốn ngàn pháp môn đều là tự lực, tức là tự mình cố gắng hết sức của mình mà thôi, như: Thiền Tông (tham thiền), Mật Tông (trì chú), Luật Tông (trì giới), Mật Tông (trì chú), Thiên Thai Tông, Hoa Nghiêm Tông… ; Đặc biệt chỉ riêng Tịnh Độ Tông, tức pháp môn Tịnh Độ còn gọi  là tha lực pháp môn hay nhị lực pháp môn. Bởi vì người niệm Phật cầu vãng sanh thì ngoài tự lực ra, còn có lực gia trì (tha lực), tức là lực giúp đỡ của Đức Phật A Di Đà và mười phương chư Phật, cho nên kết quả đạt được vô cùng chắc chắn, đúng như Cổ Đức đã diễn tả:

“Người tự độ cầu thêm Phật độ,

Như nước xuôi gặp gió thuận chiều.

Ðường về chóng biết bao nhiêu,

Gặp hai sức độ mau siêu phàm trần”.

Pháp môn Tịnh Độ (niệm Phật A Di Đà cầu sanh về Cực Lạc) là pháp môn vừa thù thắng vừa giản tiện nhất, là phương pháp phù hợp với các loại căn cơ, trình độ, các độ tuổi,… .Người tu Tịnh độ phải có đủ ba điều:

1- Tín (tin chắc chắn rằng có cõi Cực Lạc của Đức Phật A Di Đà).

2- Nguyện (thiết tha muốn được sanh về cõi Cực Lạc).

3- Hạnh (chuyên tâm niệm Phật).

*Trong ba điều này tin sâu nguyện thiết là quan trọng nhất.

Trong kinh Đại Tập, Đức Phật có dạy: “Đời mạt pháp ức ức người tu hành, hiếm có một người đắc đạo. Chỉ có nương vào niệm Phật mới thoát khỏi sinh tử”.

Trong Tập Hoài Hạnh Thư, Đại Sư Ấn Quang đã viết: “Pháp môn Tịnh Độ chính là pháp môn cực khó mà cũng cực dễ. Nói nó khó chính là chỗ người đại triệt đại ngộ, thâm nhập kinh tạng còn không tin nỗi. Nói nó dễ chính là chỗ kẻ tầm thường ngu dốt cũng thực hành được, nếu chí thành nổ lực niệm thì khi lâm chung liền thấy các tướng tôt đẹp xuất hiện, có khả năng vãng sanh Tây Phương. Đối với pháp môn này, người đại triệt đại ngộ, thông hiểu kinh luận sâu xa còn chối bỏ, không hướng tâm đến. Vì một bên chuyên nương vào tự lực, bỏ đi Phật lực. Còn một bên chuyên nương vào Phật lực, nhờ Phật lực để phát huy tự lực. Vì biết khế hợp ba pháp: Phật lực, pháp lực và lực sẵn có của tự tâm nên có khả năng siêu phàm nhập Thánh, liễu thoát sanh tử. Tối trọng yếu của pháp môn này chính là tín, hạnh, nguyện. Có tín, nguyện thì chắc chắn đó là người tu hành chơn chánh. Đã tu trì thì nhất định được vãng sanh”.

C/.- Vãng sanh là gì?

Tùy thuộc nghiệp nhân lúc còn sinh tiền mà mình đã gieo:

Nếu không tu, hay có tu mà chưa chứng Thánh quả (tức quả vị A La Hán), thì hễ tạo nghiệp ác nặng thì khi đầu thai kiếp sau sẽ phải thọ quả báo trong ba Ác Đạo (Địa ngục, Ngạ quỷ, Súc sanh). Nếu ở cõi người thì sẽ nghèo khổ, đói rách, tàn tật…  Còn hễ tạo nghiệp thiện mạnh thì khi đầu thai lại kiếp sau ở ba Thiện Đạo (Trời, Người, Thần) sẽ thọ hưởng phước báu an vui sung sướng. Nhưng cả hai đều còn mắc trong vòng sanh tử luân hồi, vẫn còn phải khổ đau.

Nếu chuyên tâm niệm Phật, khi vãng sanh Tây Phương thì sẽ vĩnh viễn giải thoát, không còn luân hồi sống chết nữa, tuổi thọ vô lượng kiếp và được an hưởng mọi sự sung sướng, cho đến khi mình thành Phật thôi!

Vậy vãng sanh là khi chết được theo Phật A Di Đà về thế giới Tây Phương Cực Lạc.

D/.- Cõi Cực Lạc như thế nào?

Cõi Cực Lạc còn gọi là: Tây Phương Cực Lạc, Liên Ban, Lạc Ban, An Dưỡng Quốc, An Lạc Quốc, Phật Quốc… Cõi Cực Lạc được thành lập là do đại nguyện của Đức Phật A Di Đà. Vì sao cõi đó tên là Cực Lạc? Vì chúng sanh trong cõi đó không có sự khổ, chỉ thuần hưởng những điều vui.

Cảnh trí ở cõi Cực Lạc rất đẹp có bảy từng bao lơn, bảy từng mành lưới, bảy từng hàng cây đều bằng bốn chất báu. Khi gió nhẹ thổi động các hàng cây báu và mành lưới báu làm vang ra tiếng như trăm nghìn thứ nhạc cùng hòa chung. Người nào nghe tiếng đó đều sanh lòng niệm Phật, niệm Pháp, niệm Tăng.

Ao ở Cực Lạc làm bằng bảy chất báu, đáy ao trải cát vàng, nước trong ao đủ 8 công đức. Trong ao có hoa sen bốn màu chính và vô lượng các màu phụ, hoa màu nào phát ra ánh sáng màu đó vô cùng rực rỡ. Thềm đường ở bốn bên ao được làm từ: vàng, bạc, lưu ly, pha lê, xa cừ, xích châu, mã não. Cõi Cực Lạc mặt đất đều bằng lưu ly, vàng ròng phân khu vực…

Chim ở cõi Cực Lạc xinh đẹp lạ thường và biết nói pháp làm cho chúng sinh trong cõi đó nghe tiếng chim đều sanh lòng niệm Phật, niệm Pháp, niệm Tăng.

Chúng sanh ở cõi đó sáng sớm lấy đãy hoa đựng hoa tốt cúng dường Phật ở các phương khác. Đến giờ ăn liền trở về bổn quốc, ăn cơm xong đi kinh hành.

… Chúng sanh ở thế giới Cực Lạc đều có sắc thân xinh đẹp như vầy: hình dung tướng mạo đoan nghiêm, phước đức vô lượng, trí huệ sáng suốt, thần thông tự tại, thọ dụng phong túc, cung điện, phục sức, hương hoa, phan cái tất cả đều trang nghiêm, các sự cần dùng đều theo ý muốn.

Khi muốn ăn, chén bát bằng bảy báu tự nhiên hiện ra, trăm thứ thức ăn tự nhiên sung mãn, dùng rồi liền biến mất, đến giờ ăn lại hiện ra không có đại tiểu tiện, thân tâm nhẹ nhàng, không tham luyến hương vị. Lại có nhiều y phục báu đẹp, giải mũ áo bằng anh lạc trăm ngàn màu sắc sáng chói vô lượng, tất cả tự nhiên mặc vào thân. Nhà cửa xứng với hình sắc. Lưới báu giăng trên không, linh báu treo khắp, đẹp đẽ lạ lùng, bóng loáng sáng ngời hết sức tráng lệ.

Lầu các lan can, mái hiên điện đường, rộng hẹp vuông tròn, hoặc lớn hoặc nhỏ, hoặc giữa không trung, hoặc trên đất bằng, thanh tịnh yên ổn vi diệu an vui, tùy ý hiện đến đầy đủ.

Cõi nước đức Phật đó, đến giờ ăn gió thoảng nhẹ tự nhiên làm lay động lưới giăng và các cây báu phát ra âm thanh vi diệu, diễn nói pháp khổ, không, vô thường, vô ngã, các Ba la mật, lưu bố vạn thứ hương đức, ai nghe được rồi phiền não tập khí tự nhiên không khởi. Gió chạm vào mình an hòa dễ chịu, như vị tỳ kheo chứng được diệt tận định.

Lại thổi bảy hàng cây báu, thổi hoa tụ lại từng loại màu sắc trải khắp mặt đất, thứ lớp theo sắc không có tạp loạn, êm dịu sáng sạch như đâu la miên, chân đi lên lún sâu bốn lóng tay, khi dở chân lên lại bằng phẳng như cũ. Qua khỏi giờ ăn hoa ấy tự mất, mặt đất sạch sẽ, lại mưa hoa mới, tùy theo thời tiết rơi cùng khắp như trước không khác, như vậy sáu lần mỗi ngày đêm.

(trích: Tịnh Độ Tam Kinh)

Cõi ấy chẳng não phiền đau khổ,
Tuổi sống lâu vô số vô biên;
Muốn chi thì được có liền,
Thân người nào cũng bằng sen hóa thành.
Cõi ấy vốn trọn lành trọn tốt,
Cõi ấy không ai chết ai già;
Thường ngày có đức Di Đà,
Dùng thần thông hóa hiện ra muôn hình.
Người nào cũng quanh mình đều sáng,
Ai cũng đều viên mãn thần thông;
Đường xa muôn dặm Tây Đông,
Nhưng đi chỉ mất độ trong phút giờ.
Người cõi ấy thường trưa mỗi bữa,
Đi cúng dường Phật ở khắp nơi;
Đi về trong buổi ngọ thời,
Người nào cũng muốn thỉnh lời Như Lai.
Nên ai cũng đồng giai Bồ Tát,
Không người nào sa lạc phàm phu;
Hạ ngươn kẻ phát tâm tu,
Cầu về Cực Lạc là đầu nhập môn.
Cõi ấy vốn người nhân thiện cả,
Ai muốn sang phải dạ lương hiền;
Cõi sen người phải như sen,
Gần bùn mà chẳng ố hoen mùi bùn.
Cõi lành kẻ dữ hung khó bước,
Phật từ bi chẳng rước bất lương;
Muốn về Cực Lạc Tây phương,
Các điều hung dữ chớ vương điều nào.

(Đường Giải Thoát – Thanh Sĩ)

Tần Thị  

Tần Thị có chồng là họ Vu, làm nghề đánh cá ở sông Tiền Đường. Con của bà chơi bời theo du đảng, phạm hình luật bị bắt đến quan, khiến cho sản nghiệp đều tiêu tán. Tần Thị sầu khổ, đến mé sông muốn tự trầm.

Vừa may đâu, bà gặp một vị Tăng ở chùa Tịnh Trụ hỏi thăm biết duyên cớ, khuyên bảo rằng:

-Người đời khi bị những cảnh khổ bức bách, đó đều là nghiệp duyên kiếp trước. Vậy nên cố gắng an lòng nhẫn chịu. Nếu quẩn trí mà tự tử, tất gốc tội nghiệp càng sâu. Muốn giải trừ nghiệp khổ, chỉ có con đường duy nhất là làm lành niệm Phật!

Tần Thị nghe nói tỉnh ngộ, liền đốt một ngón tay trước bàn Phật để cúng dường, và phát nguyện ăn chay trường tu Tịnh Độ. Bà hành trì như thế hơn mười năm không biếng trễ. Khi gặp mọi người, đều chấp tay xưng là Phật tử.

Một hôm Tần Thị thỉnh chư Tăng đến nhà tụng kinh Quán Vô Lượng Thọ, còn mình thì ngồi lần chuỗi niệm Phật. Khi tụng đến chương Quán Tượng, bà yên lặng mà thoát hóa.

(Mấy điệu sen thanh, tập 2 – trang 169)

Dương Thị 

Dương Thị, người đời Thanh, nhà ở trên gò Đá Vôi phía cửa Bắc thành Hàng Châu. Hơn năm mươi tuổi bà đau bịnh phong, nằm rên la suốt đêm ngày.

Một hôm có vị Tăng là Lữ Đình từ kinh sư trở về núi Thiên Mục, đi ngang qua nhà. Con trai của bà mời vào nấu đồ chay cúng dường, nhân tiện thỉnh bước sang phòng bên thăm mẹ mình. Dương Thị chau mày kêu rên rồi hỏi:

-Tôi đau nhiều lắm, sư có phương thuốc nào làm cho lành mạnh chăng?

Lữ Đình đáp:

-Có, nhưng sợ e bà không chịu uống!

Bà nói:

-Nếu quả thật có phương hay, tại sao tôi lại không chịu uống?

Sư bảo:

-Bịnh từ nơi thân mà sanh. Thân này lại do bốn đại giả hợp, nhân nơi nghiệp mà có. Nếu bà có thể xả bỏ thân, bịnh sẽ tự dứt trừ.

Bà hỏi:

-Trừ ra khi chết, chớ làm sao mà bỏ thân được?

Sư dạy:

-Cách bỏ thân là bà phải xả tất cả, đừng nghĩ đến thân đau hay mạnh, chỉ một lòng hướng về Tây Phương chuyên niệm A Di Đà Phật. Đức A Di Đà là bậc đại y vương, có thể trừ tất cả bịnh của chúng sanh. Bà nên đem hết lòng thành khẩn mà niệm Phật, đức Phật A Di Đà sẽ đến cứu độ!

Dương Thị hỏi:

-Đức Phật quả thật sẽ đến đây chăng?

Sư nói:

-Chắc chắn sẽ đến, chỉ e bà niệm không tha thiết mà thôi!

Sau đó, sư từ giã ra đi. Dương Thị chí thành hướng về phương Tây chuyên trì danh hiệu Phật, mỗi ngày càng thêm khẩn thiết. Độ năm tháng qua, bà gọi con bảo:

-Đức Phật A Di Đà đã đến. Bốn hôm sau, mẹ sẽ về Tây Phương Cực Lạc thế giới. Con hãy đi thỉnh sư Lữ Đình, để mẹ từ biệt và cảm ân giáo hóa!

Bấy giờ sư đang ở núi Thiên Mục không đến được. Tới kỳ hạn, người con thỉnh mười vị sư Tăng khác đến nhà tụng kinh niệm Phật hộ trợ. Dương Thị tắm gội thay y phục, ngồi chắp tay hướng về Tây niệm Phật mà vãng sanh.

(Mấy điệu sen thanh, tập 2 – trang 194)

 Tưởng Thị

Tưởng Thị người Hưng Hóa. Năm 40 tuổi chồng chết, chôn cất xong,

Thị khóc mà nói với con trai rằng :

-Khi vô thường đến không ai thế cho ai được, ví như bây giờ mẹ chết con cũng không làm sao được. Từ nay về sau mẹ quyết trì trai niệm Phật, không quản đến việc gì khác !

Người con trai thuận ý mẹ, cất am tranh gần bên nhà cho mẹ ở. Thị bèn cấm túc niệm Phật trọn năm năm.

Ngày 20, năm Thuận Trị thứ 17, Thị bảo con mua ván đóng khánh, vì Thị sẽ về Cực Lạc nội ngày 23. Kế đó Thị đi từ biệt tất cả các người thân hữu.

Đến kỳ, Thị vào ngồi trong khánh niệm Phật mà mất. Một lát sau, từ trong thân của Thị bỗng phát lửa thiêu cả thây lẫn khánh.

(Đường Về Cực Lạc – H.T Thích Trí Tịnh)

Công phu niệm Phật nông cạn nhờ trợ niệm thấy ao báu vãng sanh

Cư sĩ Dương Liên Hàng thời Dân Quốc, người huyện Dư Diêu tỉnh Triết Giang. Nhà nghèo, làm nghề buôn bán. Nghe lời ông Ðồng Giác Hàng tu Tịnh nghiệp, lâu ngày đối với giáo nghĩa giải ngộ siêu quần.

Ông tham dự Liên Xã niệm Phật. Vì bị bịnh nên lại sát sanh, dần dần xa lìa các liên hữu. Sau bịnh nguy kịch, liên hữu bảo ông ắt phải chết. Tự xét mình không thể nào qua nổi, ông hoảng sợ, hối hận, bèn gắng sức đến trước Phật, tận tình bày tỏ, dốc lòng thành sám hối, lại giữ Ngũ Giới, thề chẳng tái phạm. Từ đấy trở đi, ông buông bỏ vạn duyên, quét sạch ái dục, nhất tâm thầm niệm Phật hiệu đợi lúc lâm chung. Liên hữu biết công năng trì danh của ông nông cạn nên trước hết vì ông thỉnh người trợ niệm. Hai ngày sau, liên hữu cũng trợ niệm. Ông chợt thấy thần khí thanh sảng, mộng thấy quang minh. Ðến canh hai, liên hữu sắp ra về, chẳng biết rằng đến lúc đó, việc trợ niệm đã có hiệu lực. Ông liền bảo:

– Tôi chưa đến được Tây Phương, xin liên hữu lớn tiếng niệm Phật trợ niệm suốt đêm, đừng để lỡ!

Mọi người lại cao giọng niệm Phật, lại luôn luôn khích lệ ông. Chợt ông mỉm cười bảo:

– Tôi nay đã đến Tây Phương rồi, hoa sen đẹp quá! Ao báu đẹp quá! Quang minh đẹp quá!
Mắt ông nhìn chăm chú vào tượng Phật mà qua đời. Mọi người vẫn trợ niệm đến khi thân ông đã lạnh mới thôi, chẳng cho người nhà khóc than. Ðến trưa hôm sau, đảnh đầu ông vẫn còn ấm, hưởng dương 36 tuổi!

(Theo Cận Ðại Vãng Sanh Truyện)

Nhận định:

Công phu trì danh nông cạn mà được vãng sanh là do sức liên hữu trợ niệm. Trợ niệm khẩn yếu như thế đó. Xin hãy đề xướng rộng rãi. Nếu như không có liên hữu thì xin hãy dùng băng niệm Phật để trợ niệm, tạm dùng làm phương tiện cũng có thể được hưởng đại lợi vãng sanh vậy!

(trích: Niệm Phật Pháp Yếu

Cư sĩ Dịch Viên Mao Lăng Vân cung kính sưu tập
Bửu Quang Tự đệ tử Như Hòa chuyển ngữ)

 

CHƯƠNG 4 NIỆM PHẬT VÃNG SANH RA KHỎI SINH TỬ LUÂN HỒI

A/- Niệm Phật vãng sanh là dễ hay khó?

Đối với người chân thật niệm Phật, thì đúng như lời của Đại Sư Thiện Đạo đã khẳng định: “… mười kẻ niệm mười kẻ được vãng sanh, trăm người tu trăm người về Tịnh Độ”.

Tự tại đứng vãng sanh      

Ở miền quê của Đài Nam, Đài Loan, có một bà lão là vợ của tướng quân Lương, lòng dạ của bà rất thật thà chất phác, rất lương thiện, từ bi, thích giúp đỡ người khác. Thuở còn sanh tiền, bà cũng không phân biệt rõ thế nào là Thần, thế nào là Phật, là Bồ Tát gì cả, hễ bất cứ nơi nào có chùa, miếu thì bà cùng các bạn đi đến dâng hương lễ Phật, bái Thần.

Ba năm trước khi mãn phần, bà cưới vợ cho con, cô con dâu này là người hiểu biết Phật Pháp, khuyên mẹ chồng không nên đi lễ lạy lung tung nữa, cô lập bàn thờ Phật cho bà và khuyên bà nên ở nhà chuyên tinh chân thành niệm A Di Đà Phật cầu sanh Tịnh Độ.

Bà lão này rất là có thiện căn, nghe cô con dâu nói vậy liền y theo, không đi lễ lung tung nữa, nhất tâm niệm A Di Đà Phật suốt ba năm trời. Hôm đó đến giờ cơm tối bà nói:

– Hai con cứ ăn trước đi! Đừng đợi mẹ, để mẹ đi tắm!

Con trai và con dâu của bà rất hiếu thảo, tất cả mọi người vẫn đợi bà dùng cơm. Họ đợi rất lâu, nên lấy làm lạ, sao bà tắm lâu thế. Bèn đi xem thử, quả thật bà đã tắm xong, trong phòng tắm không có bà, phòng ngoài cũng không có bà, sau cùng họ thấy bà đang ở phòng niệm Phật, mặc chiếc áo tràng ngay ngắn, chỉnh tề, tay cầm xâu chuỗi, đứng trước tượng Phật, đứng im nơi đó không nhúc nhích, gọi bà cũng không trả lời. Đến khi nhìn lại thì bà đã vãng sanh rồi. Đứng vãng sanh, một bà lão tại gia niệm Phật 3 năm đứng vãng sanh.

(trích: Tịnh Không pháp ngữ)      

 Bần phụ

Bần Phụ, huyện Từ Khê tỉnh Triết Giang có một bần phụ, chưa được rõ tên họ. Nhà bà quá nghèo, con trai lại bất hiếu, nên thường bị nó la rầy mắng chửi.

Một hôm sau khi bị con thét mắng, bà khổ sở khó nhẫn nại, sang tỏ bày than khóc với vị Tăng ở chùa gần bên. Vị Tăng bảo:

– Bà đã biết khổ, sao không bán nó đi!

Bần phụ đáp:

– Ai mua sự khổ, làm sao mà bán!

Tăng sĩ nói:

– Nếu bà chí thành chuyên niệm hồng danh Đức A Di Đà, cầu sanh Tây Phương, thì khi mãn phần chắc chắn được Phật tiếp dẫn về cõi Cực Lạc. Từ đó sẽ vĩnh lìa khỏi các nỗi khổ, thuần hưởng những điều vui. Đó gọi là cách bán khổ!

Bà thưa:

– Mẹ con tôi cùng ở chung một gian chòi lá, góc nhà là bếp nấu ăn, dưới giường còn làm chuồng lợn. Cảnh hỗn tạp nhơ uế như vậy, làm sao niệm Phật?

Vị Tăng đáp:

– Không ngại chi, đức Như Lai đại từ đại bi, tùy duyên phổ độ, chỉ dụng tâm thành chớ không nệ hình thức. Vậy lúc rảnh bà hãy tới chùa lễ bái, còn khi ở nhà chỉ thường chuyên niệm Phật cầu nguyện vãng sanh cũng được.

Bần phụ vâng theo lời dạy, vì lòng tha thiết mong thoát khổ nên niệm Phật không xen hở.

Ba năm sau, vài tháng trước khi qua đời, bà bảo con rằng:

– Đến ngày tháng ấy, mẹ sẽ sanh về Tây Phương. Vậy con chớ nên đi vắng, phải ở nhà lo hậu sự cho tròn tình mẫu tử!

Đứa con tỏ vẻ không tin, bà liệu biết nên sau lại dặn dò đôi ba phen nữa. Vài hôm trước khi bần phụ mãn phần, đứa con bỗng nghe mùi hương lạ, tỏa thơm bát ngát. Chạy tìm xem khắp xung quanh chẳng thấy ai đốt hương, nó ngạc nhiên không biết mùi thơm từ đâu đến. Bỗng nhớ tới lời mẹ dặn, đứa con nghĩ biết đâu là sự thật, bèn ở nhà chờ. Đến ngày kỳ hạn, nó thấy mẹ nấu nước tắm gội, thay y phục sạch sẽ. Xong xuôi bà ngồi nơi giường, xây mặt về phương Tây niệm Phật một lúc rồi tắt hơi. Lúc ấy nhằm vào khoảng năm Dân Quốc thứ mười.

Lời bình: Than ôi! Biển trần lênh láng, ngất cao sóng nghiệp dập dồn. Cõi tạm mong manh, chìm nổi kiếp người khổ lụy! Xét như bần phụ, tánh linh đã sẵn, bởi mê nên lạc bước luân hồi. Vực khổ thẳm sâu, duyên phước bỗng gặp môn huyền diệu. Niềm bi cảm ba năm tinh tấn, ngày lâm chung ngát tỏa hương thơm. Hướng Tây Phương một dạ khẩn thành, rời huyễn chất bước lên lầu ngọc. Thế mới biết Di Đà nguyện lớn, thuyền độ sanh chẳng bỏ một ai. Lại rõ thêm Tịnh Độ pháp mầu, sen thắng phẩm hiện đời tất được. Ao vàng hoa sẵn đẹp, còn đợi kẻ quyết tâm.

(Mấy Điệu Sen Thanh 1998 – tập 4, tr 81)

Hoàng Trung Xương

Tại Thâm Quyến có một cư sĩ trẻ tên là Hoàng Trung Xương, anh đến Hương Cảng nghe hòa thượng Tịnh Không giảng kinh. Khi nghe nói từ xưa tới nay người thật sự niệm Phật khoảng chừng ba năm công phu là thành tựu bèn vãng sanh, nên hỏi hòa thượng:

– Có phải là những người vãng sanh ấy thọ mạng vừa đúng ba năm là hết, nên sau ba năm niệm Phật thì vãng sanh, đó chăng?

Hòa thượng đáp:

– Không phải như vậy đâu! Vì người ấy công phu đã thành phiến. Chỉ cần công phu thành phiến, là muốn ra đi lúc nào cũng được! Muốn đi thì đi; muốn ở lại cũng được! Ở lại thế gian này là do có nhiệm vụ, có sứ mạng, làm cho người khác thấy. Nếu chẳng có duyên phận với thế gian này, người ấy ra đi.

Nghe xong, anh thầm nghĩ: “Hãy thử xem, cổ nhân ba năm có thể thành tựu. Xem ta có đúng ba năm thật sự thành tựu hay không?”

Suy nghĩ như thế rồi, anh hạ quyết tâm buông bỏ vạn duyên, nhất tâm nhập thất niệm Phật, anh nhờ cư sĩ Hướng Tiểu Lợi hộ thất cho mình. Mỗi ngày ở trong thất anh ta tụng một biến kinh Vô Lượng Thọ, thời gian còn lại là Niệm Phật. Kỳ hạn là ba năm. Anh nhập thất trãi qua 2 năm 10 tháng, thiếu 2 tháng nữa mới đầy 3 năm, anh biết trước giờ chết, chẳng ngã bệnh, và đã thật sự vãng sanh, lúc đó anh ba mươi sáu tuổi. Khi hỏa táng, lưu lại xá lợi. Chư vị đồng tu bèn xây một cái tháp, nay xá lợi vẫn còn thờ ở nơi tháp ấy.

(trích: Tịnh Không Pháp Ngữ)

Ông thợ vá nồi

Pháp sư Đế Nhàn có một người đệ tử làm thợ vá nồi. Người này là bạn cùng chơi đùa thuở bé tuổi tác chẳng chênh lệch nhau cho mấy, sống ở trong thôn trang. Sau khi trưởng thành, gia cảnh nghèo hèn, chẳng có cơ hội đi học, bèn học một nghề thủ công là vá nồi, vá chén, dùng nghề mọn ấy để kiếm sống hết sức khổ sở. Ông ta cảm thấy cuộc đời quá khổ, thấy bạn xuất gia, xuất gia cũng khá, bèn tìm đến, thưa với Ngài Đế Nhàn, ông ta cũng muốn xuất gia, bái ngài Đế Nhàn làm sư phụ. Pháp sư Đế Nhàn nói:

– Không được! Ông cứ làm nghề của mình đi, xuất gia há phải dễ dàng! Ông xuất gia, chậm lụt như vậy, mà cũng chẳng biết chữ, đầu óc chậm chạp, đoán chắc là học kinh sám, Phật sự, gõ pháp khí, xướng niệm đều học không nổi, tay chân vụng về! Học giảng kinh thì lại chẳng biết chữ.

Vì thế, cự tuyệt ông ta. Nhưng ông ta vẫn một mực nằn nì, chẳng chịu đi, không cho ông ta xuất gia cũng không được. Pháp sư Đế Nhàn chẳng còn cách nào, bèn đặt điều kiện với ông ta. Sư nói:

– Nếu ông thật sự muốn xuất gia, tôi có mấy điều kiện, ông có thể làm được thì cho phép ông xuất gia.

Ông ta thưa:

– Được! Nếu tôi bái thầy làm sư phụ, thầy dạy tôi điều gì, tôi cũng đều làm theo.

Lão pháp sư Đế Nhàn bất đắc dĩ cho ông ta xuống tóc. Chẳng ở trong chùa được, vì ở trong chùa có rất nhiều quy củ. Ông ta cũng đã bốn mươi mấy tuổi rồi, những tật xấu, tập khí chẳng dễ gì sửa được. Vì thế, đến vùng quê, tìm cho ông ta một ngôi chùa nhỏ, chẳng có ai ở, là một ngôi chùa hư nát, cho ông ta ở đó. Dạy ông:

– Ông hãy niệm câu này, suốt ngày niệm câu Nam Mô A Di Đà Phật. Niệm đã mệt bèn nghỉ ngơi, nghỉ khỏe khoắn rồi lại niệm tiếp.

Làm như vậy sẽ nhẹ nhàng, thong dong, chẳng có áp lực gì. Chẳng phân biệt ngày, đêm, hễ niệm đã mệt bèn nghỉ ngơi, hễ nghỉ đã khỏe, bèn lập tức tiếp tục niệm. Trong làng quê, Sư tìm một bà cụ học Phật, ở gần đó, mỗi trưa đến nấu cơm trưa và cơm chiều, nấu hai bữa cơm, còn bữa điểm tâm sáng do ông ta tự nấu, tự lo. Bà cụ giặt giũ quần áo cho ông ta để ông ta chuyên tâm niệm Phật. Niệm suốt ba năm, đến một hôm, ông ta bảo bà cụ hộ trì:

– Ngày mai bà không cần nấu cơm, tôi vào thành gặp bạn bè.

Trên thực tế, ông ta biết trước lúc mất, sắp vãng sanh, nên quay về từ biệt thân thích, chào hỏi, thăm viếng. Hôm sau trở về, khi trở về, bèn nói với bà cụ:

– Ngày mai chẳng cần nấu cơm cho tôi!

Bà cụ lại tưởng ông ta đến thăm bạn bè, chẳng biết người bạn nào sẽ mời ông ta ăn cơm. Đến bữa sau, cụ ra chùa xem, coi sư phụ có nhà hay không? Kết quả là thấy sư phụ ở trong Phật đường, đứng trước tượng Phật, gọi thì chẳng ừ hử gì, đến trước mặt xem kỹ, thấy ông ta đã mất, đứng mất! Liền vội vã quay về báo tin, vì còn có mấy đồ đệ quy y với cụ Đế Nhàn ở vùng phụ cận, thảy đều báo tin cho họ biết, gọi họ đến xem. Trước nay chưa từng thấy người đứng mất, rất hiếm hoi, lạ lùng! Những người ấy sau khi tìm đến, bèn vội đến chùa Quán Tông thưa trình. Từ nông thôn đến thành thị chẳng có phương tiện giao thông, phải đi bộ, đi một ngày mới đến nơi, thưa chuyện với hòa thượng Đế Nhàn. Hòa thượng Đế Nhàn chuẩn bị, sắp xếp, đến hôm sau mới trở lại, đi về mất ba ngày. Ông ta đứng sững suốt ba ngày, chờ lão pháp sư Đế Nhàn đến lo liệu hậu sự. Cụ Đế Nhàn thấy tình hình ấy, rất tán thán:

– Ông rất lỗi lạc! Thật sự có thành tựu. Bất cứ trụ trì hay phương trượng chùa miếu nơi danh sơn bảo sát nào, đều chẳng bằng ông. Những pháp sư thông Tông, thông Giáo, giảng kinh cũng chẳng sánh bằng ông!

Một câu A Di Đà Phật mà thôi! Người ấy chưa từng nghe kinh ngày nào, nhưng nghe lời, đúng là thật thà, thật sự làm. Trừ một câu A Di Đà Phật ra, điều gì ông ta cũng chẳng hiểu, thế mà biết trước lúc mất, tự tại vãng sanh, lại còn đứng sững suốt ba ngày.

(trích: Tịnh Không pháp ngữ)

*Do vì vãng sanh không khó, nên có những trường hợp vãng sanh rất hy hữu, đôi khi xuất hiện nhiều thoại tướng tốt mà phải dùng bốn chữ ‘bất khả tư nghì’ là thích hợp nhất. Đặc biệt thông thường thời gian đương sự tu niệm hành trì không dài, khoảng năm ba tuần hoặc năm ba tháng. Một ít trường hợp ngắn hơn, chỉ vài ba ngày mà thôi, thậm chí chỉ vài ba giờ.

Hộ niệm 3 ngày 3 đêm

Ở  thủ đô Mỹ quốc có tiên sinh Châu Quảng Đại là chủ tiệm bánh mì. Năm 1985 ông Châu bị ung thư gan giai đoạn cuối, bác sĩ đã ngừng trị liệu, chẳng có cách nào chữa trị được nữa, và cho biết mạng sống của ông còn không quá một tháng. Ông là người lương thiện, ưa thích làm lành, nhưng suốt đời chưa hề tiếp xúc Phật giáo, chẳng được nghe Phật Pháp. Khi ấy, vợ ông ta rất lo lắng, khổ tâm, đi khắp nơi lạy Thần cầu cảm ứng vì thấy chồng đau đớn dữ dội. Vợ ông Cung Chấn Hoa mở quán cơm tại Hoa Thịnh Đốn, thường đến tiệm mua bánh mì nên rất thân thiết với bà Châu. Bà Châu liền đem tình hình bệnh tật của Châu tiên sinh kể cho bà Cung biết, hỏi bà Cung có cách nào cứu chữa hay không. Bà Cung về nhà thuật lại cho chồng mình nghe, rồi  đề nghị chồng mình hãy đến thăm.

Cung Chấn Hoa cũng rất sốt sắng đến thăm một phen. Sau khi trông thấy tình trạng bệnh nhân, Cung cư sĩ nghĩ thầm: “Căn bệnh này chẳng thể nào lành được”. Nên bèn đơn giản giới thiệu cho ông biết về Tây Phương Cực Lạc Thế Giới, và khuyên:

– Chớ nên cầu lành bệnh, hãy cầu sanh Tây Phương Cực Lạc thế giới. Ông sanh về Tây Phương Cực Lạc thế giới làm Bồ Tát, làm Phật, sau đó, lại quay trở lại đây độ vợ ông, độ con cái, người nhà quyến thuộc của ông. Đấy chẳng phải là chuyện tốt lành ư?

Ông vừa nghe liền tiếp nhận, đây là việc rất khó! Rất chẳng dễ dàng! Cả đời chưa hề nghe Phật Pháp, vừa nghe người ta khuyên cầu sanh Tây Phương Cực Lạc thế giới, ông ta không chỉ chẳng tức giận, mà rất hoan hỷ tiếp nhận, bảo vợ và con cái niệm A Di Đà Phật giúp ông ta sanh về Tây Phương Cực Lạc thế giới, bắt đầu niệm Phật, phát nguyện cầu vãng sanh. Ông nói với cả nhà:

– Không cần tìm thuốc, không cần tìm bác sĩ nữa, mọi người hãy cùng nhau giúp tôi niệm Phật cầu vãng sanh!

Mọi người nghe ông nói thế đều rất nhiệt tình mà hộ niệm cho ông. Cung Chấn Hoa trợ niệm cho ông, mặt khác báo tin cho Hội Hoa Phủ Phật Giáo. Vì vậy các đồng tu đến chia ca, mỗi ca 4 người, trong đó 3 người là người thân quyến thuộc của ông cùng nhau thay phiên trợ niệm. Ông Châu nằm trên giường niệm Phật trong phòng ngủ, âm thanh vang rất to, tuốt ở ngoài đường còn nghe tiếng.

Niệm đến ngày hôm sau, cảm được Địa Tạng Bồ Tát hiện tới, Cung cư sĩ liền bảo ông ta:

– Bất luận Phật, Bồ Tát nào đến, đều chớ đi theo, vẫn nhất tâm niệm A Di Đà Phật cầu sanh Tịnh Độ.

Câu khai thị ấy vô cùng trọng yếu, mấu chốt ở đó. Niệm đến ngày thứ ba, A Di Đà Phật tới, Tây Phương Tam Thánh, Quán Âm, Thế Chí, A Di Đà Phật từ trên mây giáng xuống tiếp dẫn, bọn họ mười mấy người đều trông thấy.

Niệm được 3 ngày 3 đêm, thì ông ra đi, đi rất tốt, toàn thân mềm mại, khi đem thiêu còn có lưu lại xá lợi.

(trích: Tịnh Không pháp ngữ)

Pháp sư Oánh Kha

Vào triều nhà Tống Pháp sư Oánh Kha là một người xuất gia, phá giới, không giữ thanh quy, đại khái giới luật thanh quy ông thảy đều phạm hết. Thế nhưng ông có một chỗ rất tốt, ông biết được chính mình đã tạo ra tội nghiệp, chính điểm này đã cứu ông. Ông biết được tương lai ông nhất định sẽ đọa địa ngục, nghĩ đến những sự khủng khiếp trong địa ngục nên ông lo sợ, liền thỉnh giáo với các bạn đạo đồng tu của ông có cách gì có thể cứu ông không, có cách nào làm cho ông không đọa vào địa ngục không? Có một bạn đồng tu liền lấy cuốn Vãng Sanh Truyện đưa cho ông xem. Sau khi ông đọc rồi rất là cảm động, liền hạ quyết tâm niệm Phật cầu sanh Tịnh Độ. Ông đóng kín phòng của ông lại, niệm một câu A Di Đà Phật đến cùng, ông không hề ngủ, không ăn thứ gì, niệm ba ngày, ba đêm thì thấy Phật A Di Đà hiện ra trước mặt. Phật A Di Đà nói với ông:

– Ngươi còn mười năm dương thọ, trong mười năm này ngươi cố gắng tu hành, khi đến lúc lâm chung, ta sẽ trở lại tiếp dẫn ngươi!

Có cảm ứng như vậy! Chân thật là chúng sanh có cảm, Phật liền có ứng. Pháp sư Oánh Kha liền nói với Phật A Di Đà:

– Tập khí của con quá nặng, không thoát khỏi mê hoặc, cho nên mười năm nữa không biết con sẽ phạm phải bao nhiêu tội. Tuổi thọ mười năm con không cần nữa, con xin đi với Ngài liền ngay bây giờ!.

A Di Đà Phật liền đồng ý, Ngài nói:

– Được! Ba ngày sau ta đến tiếp dẫn ông.

Oánh Kha rất là vui mừng:

– Tốt quá! Ba ngày sau Phật đến tiếp con, con theo Ngài vãng sanh.

Ông  liền mở cửa ra, hân hoan vui mừng nói với mọi người trong chùa:

– Ba ngày sau tôi sẽ vãng sanh.

Người trong chùa đều cho là thần kinh của ông không bình thường, một người ác đến như vậy, ba ngày sau thì làm gì có thể vãng sanh? May mà thời gian ba ngày không dài, mọi người náo nhiệt, thử xem ba ngày sau ông có vãng sanh được không! Khi đến sáng sớm ngày thứ ba, tắm rửa thay bộ quần áo mới, ông xin các đồng tu thời khóa sáng nay chúng ta thảy đều niệm A Di Đà Phật đưa ông vãng sanh; nội dung khóa tụng thì thay đổi một chút, đọc Kinh A Di Đà, niệm Phật hiệu, đưa ông vãng sanh. Khi Phật hiệu niệm được đại khái thời gian chỉ có một giờ đồng hồ, thời gian không dài lắm, ông liền nói với mọi người:

– Phật A Di Đà đến rồi (ông nhìn thấy được, người khác thì không nhìn thấy), tôi đi với Phật A Di Đà đây. Cáo biệt mọi người!.

Nói rồi ông liền đi, không hề có bệnh. Ông thật được vãng sanh rồi.

(trích: Tịnh Không pháp ngữ)

Lâm chung sám hối  (Chung Húc và Thiện Hòa)

*Trương Chung Húc, người nhà Đường, sống với nghề làm thịt gà. Khi sắp chết, thấy người lùa bầy gà đến hô : Mổ ! Mổ ! Bầy gà xúm mổ Húc, mặt mắt đều chảy máu ròng ròng, đau không chịu nổi. Sa môn Hoằng Đạo hay tin bèn đến trương tượng Phật, khuyên Húc niệm Phật. Ông Húc liền chí tâm hăng hái niệm. Được một lát, bỗng có mùi hương lạ, thơm ngát cả nhà, bầy gà biến mất, máu hết chảy, ông Húc đoan tọa mà mất.

*Trương Thiện Hòa cũng người nhà Đường làm nghề giết bò. Lúc bệnh ngặt, thấy vài mươi con bò đến nói tiếng người rằng : “Mày giết chúng tao phải đền mạng !”.

Ông Hòa hối vợ thỉnh Sư Tăng. Sư Tăng bảo :

-Trong Quán Kinh nói: “Nếu chúng sanh nào gây tạo ác nghiệp đáng đọa vào ác đạo, mà chí tâm xưng niệm A Di Đà Phật đủ mười niệm, thời tiêu tội được vãng sanh Cực Lạc thế giới”.

Ông Hòa nói :

-Lửa địa ngục đến rồi, không thể chờ lư hương được !.

Ông liền tay tả cầm lửa, tay hữu cầm hương, hướng về phương Tây to tiếng niệm Phật. Chưa đầy mười hơi, ông bỗng nói :

-Phật đã đến trao cho tôi tòa sen báu.

Dứt lời liền tắt hơi.

(trích: Phật Tổ Thống Kỷ

Đường Về Cực Lạc)

*Thời gian gần đây rất nhiều Ban Hộ Niệm đã hộ niệm những ca mặc dù không có thoại tướng chi đặc biệt cho lắm, nhưng lại chắc chắn được vãng sanh.

Phan Thị Là

Em Phan Thị Là sinh năm 1998, con của anh Phan Văn Liệp và chị Phan Kim Hoa, cư ngụ tại ấp Hòa Long, xã Định Thành, huyện Thoại Sơn, tỉnh An Giang.

Tính tình của em Là rất hiền lành và rất hiếu thảo, lễ phép với ông bà, cha mẹ cùng những người lớn tuổi, nói chuyện đều dạ thưa; đối với anh chị em thì kính trên nhường dưới.

Khi tốt nghiệp bậc tiểu học xong, em theo học tại trường Trung Học Cơ Sở Định Mỹ, cách nhà em khoảng hai ngàn mét. Trong quá trình học tập em đều đạt được thành tích là học sinh giỏi nhứt lớp, từ lớp 1 tới lớp 7.

Bởi, cha mẹ đều trường chay nên năm lên 7 tuổi, em phát tâm ăn chay theo.

Đến năm 13 tuổi thì em phát bịnh. Ngày 14 tháng 12 năm 2011, đi khám ở Bệnh Viện Thoại Sơn, bác sĩ cho biết là em bị “Viêm cầu thận cấp”, nằm viện ở đây 7 ngày. Gia đình không đủ kinh phí để điều trị, nhưng nhờ sự quan tâm của tập thể thầy cô, nhất là thầy hiệu trưởng và thầy hiệu phó đã vận động tiền và còn viết bài viết, gởi cho nhà báo An Giang và đài phát thanh An Giang về tấm gương: “Vượt khó, học giỏi” mà đang lâm cơn bịnh nặng, không có tiền chữa trị. Khi nhà báo và đài phát thanh nhận được bài, rất cảm động, liền cho phát thanh tin và đăng tin. Cũng nhờ đó mà các nhà Mạnh Thường Quân khắp nơi, Hội Khuyến Học huyện Thoại Sơn, Hội Khuyến Học tỉnh An Giang… được biết, đến tận gia đình thăm hỏi và ủng hộ. Do đó, em được chuyển ra Bệnh Viện Đa Khoa An Giang, ba tháng sau chuyển lên Bệnh Viện Nhi Đồng I Thành phố Hồ Chí Minh. Bệnh ngày một tăng dần và chuyển sang “Thận hư mãn tính”. Do cơn bệnh kéo dài và hành hạ thân xác mình, làm ảnh hưởng rất nhiều người về tinh thần lẫn vật chất, biết bao là lo lắng, biết bao là vất vả, nhọc nhằn… Em cảm nhận, sức khỏe là một tài sản quý báu nhất của đời người, nên em đã mơ ước khi lành bệnh sẽ cố gắng học hành để mai sau trở thành bác sĩ, hầu đền đáp những ân đức mà mình đã thọ nhận, và xoa dịu bớt những khổ đau do bịnh tật đem lại cho tất cả những ai có mặt trên hành tinh này!

Vào tháng 11 năm 2013 bịnh đã chuyển sang giai đoạn nguy kịch, y bác sĩ phát hiện em đang dùng chay nên đã đề nghị gia đình cho em ăn mặn, mong đạt hiệu quả cao trong quá trình điều trị. Ban đầu, em không chịu nhưng do cha mẹ và thầy giáo khuyên mãi, nên sau đó em miễn cưỡng tạm dùng. Khi nhận thức ăn về phòng, thường thì, em chỉ ăn một vài miếng, còn bao nhiêu thì cho hết những em bé nằm bệnh chung phòng. Cũng trong thời gian này, anh của em đến chùa Hoằng Pháp, thỉnh về quyển Niệm Phật Chỉ Nam đưa cho Ba. Ba em xem sơ qua, rồi ông đem lại trao cho em và nói:

– Là ơi! Ước mơ của con là ước mơ làm bác sĩ. Mà Ba thấy… con bây giờ… không có đủ thời gian để học làm bác sĩ! Thôi, con niệm Phật cầu vãng sanh về thế giới Tây Phương Cực Lạc, rộng độ chúng sanh, nó quý hơn một trăm, một ngàn lần so với làm bác sĩ nữa…!

Em đón nhận và đọc liền một mạch, đến phần trích dẫn Tịnh Độ Pháp Ngữ của Đại Sư U Khê, thiện căn quá khứ bỗng nhiên khởi phát, gương mặt em tràn đầy hoan hỷ, tan biến mọi sầu đau. Từ đấy, em cứ tay thì lần chuỗi, miệng thì nhép môi niệm Phật luôn. Bác sĩ đến khám, hỏi câu nào đúng thì em gật đầu, câu nào không đúng thì lắc đầu. Sau đó, em khóc, nói với Ba, Mẹ rằng:

– Thôi! Ba, Mẹ xin bác sĩ cho con về đi. Về nhà cầu an, hộ niệm cho con đi! Chắc con không có thể nào còn cơ hội để đi học nữa rồi. Bác sĩ đã cho biết, bịnh của con đã qua thận hư mãn tính giai đoạn cuối cùng, nặng lắm rồi! Con không có thời gian đi học nữa!

Ba của em đồng ý, liền làm thủ tục xin ra về. Về đến nhà, em niệm Phật liên tục, em còn nói với mẹ:

– Nếu ai có lại hỏi thăm con, mẹ trả lời đi, đừng có hỏi con!

Ngày 24 tháng 1 năm 2014, Ban Hộ Niệm của liên hữu Tư Xã – Tư Răn đến cộng tu liên tục 7 đêm. Khi khởi sự, trưởng Ban Hộ Niệm đã khai thị tóm tắt những điều trọng yếu của nguyên tắc vãng sanh. Cuối cùng tóm kết lại, khuyên em phải tuân thủ hai điều: một là phát nguyện trường chay trở lại; hai là niệm Phật phải chí tâm và khẩn thiết nguyện sanh về cõi Cực Lạc của Đức Phật A Di Đà. Nghe xong, em tin nhận và chấp thuận hai điều kiện đã đưa ra.

Xong một tuần cộng tu thì tạm ngưng 10 ngày, nhằm ngày 11 tháng 2 năm 2014. Cũng hôm ấy, có thầy hiệu trưởng và hiệu phó đến thăm, em cứ lần chuỗi, nhép môi niệm Phật, không thưa hỏi gì cả. Mẹ em sợ hai thầy buồn nên nhắc:

– Hai thầy vô thăm con kìa, con!

Em chỉ gật đầu. Thầy giáo nói:

– Thôi, thiếm Sáu ơi! Tui biết ý học trò tui rồi! Không sao đâu, thiếm đừng có sợ. Tui không buồn nó đâu! Nếu mà nó trả lời tui thì nó sẽ đứt đoạn niệm Phật. Nên để nó niệm Phật nhứt tâm!

Qua hôm sau, tức là ngày 12 tháng 2 năm 2014, cuộc hộ niệm tiếp tục trở lại, đồng đạo Tư Xã đến khai thị và hỏi em:

– Bữa nay, chú hỏi thiệt con! Con nguyện như thế nào, con nói cho chú mừng coi?

Em đáp gọn lỏn:

– Bây giờ, ước mơ của con là con nguyện: Nếu mà con có ra đi thì nhờ Đức Phật rước hồn con được vãng sanh về Tây Phương Cực Lạc!

Khi ra ngoài, đồng đạo Tư Xã đã khen nhỏ với mẹ em:

– …Tuy nó nhỏ tuổi mà tinh thần nó mạnh mẽ lắm đó chị!

Sáng 5 giờ ngày 13 tháng 2 năm 2014, em nói với mẹ:

– Mẹ ơi! Bữa nay, con muốn uống sữa! (Lúc trước, em ít uống lắm).

Mẹ em pha cho em hơn nửa ly đem đến. Khi uống xong, em nói:

– Mẹ ơi! Sữa bữa nay ngon quá! Thôi, mẹ pha cho con một ly nữa đi!

Mẹ em đáp:

– Bao tử con không tốt. Thôi, bây giờ con uống ít đi. Chút xíu mẹ pha cho con uống!

Em nói:

– Vậy hả mẹ! Thôi, mẹ có nấu cháo hông? Cho con ăn miếng cháo!

Mẹ em múc nửa chén cháo đem lại. Ăn xong, em nói:

– Sao bữa nay, mẹ làm cái gì con ăn cũng thấy ngon hết… Mẹ, bữa nay mẹ đừng có đi đâu hết, nghen mẹ! Mẹ ở trọn ngày nay với con đi, rồi… đau đớn thế nào con cũng chịu đựng được hết… Mẹ ở đây với con, con vui lắm đó… Từ đó tới giờ, con có hổn ẩu, lầm lỗi gì với mẹ, mẹ tha thứ cho con, nghen mẹ!…

Gương mặt em hôm nay, bỗng dưng thay đổi hẳn, hồng hào, tươi tắn, không còn sưng như mấy ngày trước nữa, nghe trong lời nói của con có cái gì đó làm chị linh cảm, dường như sắp sửa phải đến lúc phân ly! Thường khi, thì chị ít nghĩ đến giờ phút ấy, hay đúng hơn là không dám nghĩ tới nó.

Bởi, cảm tình của một bà mẹ… không bao giờ muốn con phải rời khỏi tầm tay mình, ra đi mà không ngày gặp lại!

Em còn nói:

– Mình nhiếp tâm niệm Phật tới 7 ngày mà mình không có vọng động, không nghĩ về cha mẹ, thế gian và chuyện gì quanh quẩn hết thì Phật hiện thân đến rước mình về Tây Phương Cực Lạc đó mẹ…! Mẹ ơi! Nếu con có gì thì mẹ đừng có khóc! Mẹ hứa với con đi! Nếu con có gì, mẹ niệm Phật cho con thì con yên tâm. Mẹ hứa với con đi!

Câu này em nói tới ba lần. Khi mẹ em hứa rồi thì em nói tiếp:

– Con có gì thì mẹ niệm Phật cầu cho con vãng sanh, chớ đừng cầu hết bịnh. Cầu cho con hết bịnh, con hổng chịu!…

Đến hơn 11 giờ trưa, em nói:

– Thôi, con nói chuyện với mẹ hồi sáng tới giờ, con không nói nữa, bây giờ con niệm Phật đặng con ngủ nghe mẹ. Con ngủ luôn à! Mẹ niệm Phật tiếp con đi!

Khi bà niệm, em cũng niệm ra tiếng “Nam Mô A Di Đà Phật” đến câu thứ năm, mẹ em thấy vậy nên nói:

– Con còn yếu quá hà! Con niệm ra tiếng thì mệt lắm. Thôi, con niệm thầm trong tâm đi, để mẹ niệm ra tiếng cho. Niệm trong tâm, Đức Phật cũng chứng mà…! Con niệm Phật thì niệm trong tâm đi rồi mẹ niệm tiếp cho!

Em nói:

– Vậy, hả mẹ! Vậy con niệm thầm rồi con ngủ luôn nghe mẹ! Con không nói chuyện nữa, mẹ niệm tiếp cho con đi! Mẹ niệm theo điệu nhạc niệm Phật!

Em nhìn lên ngôi Tam Bảo rồi nhìn mẹ, hai lần như vậy, kế đến em nằm nghiêng bên phải mà nhẹ nhàng thanh thản trút hơi thở cuối cùng. Lúc nầy đúng 12 giờ trưa, nhằm ngày 13 tháng 2 năm 2014.

Hộ niệm thêm 16 giờ, khi thăm dò thân thì thấy các khớp xương mềm mại, đảnh đầu ấm trong khi mọi nơi đều lạnh, gương mặt hồng hào, đôi môi giống như thoa son.

Bảy tuần thất trôi qua, mẹ em vẫn còn ray rứt, không biết con mình có được vãng sanh hay không mà không báo mộng cho mình biết gì hết trơn, để mình mừng. Tối lại, chị nằm mộng thấy em, thân tướng vô cùng to lớn, cực kỳ xinh đẹp nghiêm trang, chị nhìn mà chẳng biết là ai, khi nghe âm thanh mới phát hiện quả thực là con mình. Em nói rằng:

– Con báo tin cho mẹ biết, đặng mẹ đừng có lo cho con. Con đã về Tây Phương Cực Lạc rồi…!

Khi tỉnh giấc, niềm an lạc vô biên tràn ngập trọn cõi lòng chị. Từ đó trở đi, nỗi hoài nghi trong tâm của chị thảy đều bay biến hết.

(Chuyện Vãng Sanh 2016, tập 1, tr 390–NLHMNĐV sưu tập)

 

**********

B/- Hiện thực đáng buồn

Một sự việc hết sức phổ biến cũng đã làm hoang mang, và bức xúc không nhỏ cho đa số đồng tu niệm Phật cầu vãng sanh. Đó là, tại sao xung quanh chúng ta có quá nhiều trường hợp cả đời trường chay niệm Phật, sáng chiều 2 thời lễ bái, hoặc 3,4 thời lễ bái, nhưng lúc ra đi thì hỡi ôi vô vàn ảm đạm thê lương, hoàn toàn không có một dấu hiệu gì của vãng sanh hết, ngược lại sắc tướng hiện ra trên thi thể, nếu căn cứ vào kinh điển thì chắc chắn họ đã chiêu cảm thọ báo nơi ba ác đạo! Như thế là tại sao?

Sinh vào quỷ thần đạo

Bà Nguyễn Thị Bùi, cư ngụ tại huyện Thốt Nốt, tỉnh Cần Thơ. Bà có cả thảy 8 đứa con, 5 trai 3 gái. Gia đình bà sinh sống bằng nghề làm ruộng.

Năm 1979 cô con gái thứ Năm tên Lê Thị Kim Trâm bị bạo bệnh trong giây lát rồi mãn phần, cô này rất giỏi giang gánh vác mọi chuyện trong gia đình, lúc ấy cô 18 tuổi. Nhờ nhân duyên đó, cả nhà bà từ chồng con cho tới dâu cháu thảy đều ăn chay niệm Phật, lễ bái tu hành.

Tính tình bà nhã nhặn từ hòa, ưa thích bố thí giúp người. Năm 1998 các cháu nội, cháu ngoại xuất gia ở chùa thuộc tỉnh Vĩnh Long,  nên chẳng bao lâu bà cũng xuất gia theo. Xâu chuỗi ít khi rời khỏi tay. Năm 2005 bà vấp té nên chân bị bong gân. Sau khi điều trị khỏi, lại bị té vài lần sau đó, cuối cùng trở thành cố tật nên không còn đi lại được nữa, các con mới rước bà về nhà tiện bề chăm sóc.

Nhà bà là khu vườn yên tĩnh, các con thì ra riêng cất nhà bên ngoài cũng không xa lắm. Riêng hai người con một nam một nữ không lập gia đình đều xuất gia, luôn túc trực lo việc phục vụ bà.

Tháng 10 năm 2006, con bà muốn cho nắm chắc phần vãng sanh nên đã đề nghị bế cửa để nhập thất chuyên niệm Phật. Được bà ưng thuận liền tiến hành. Qua 8 tháng chuyên tu, bệnh lần chuyển nặng, các con bèn mở cửa cho con cháu và mời bà con lối xóm cùng đồng đạo vào cộng tu với bà, cứ 7 – 9 giờ tối là niệm Phật mỗi ngày. Niệm như vậy thêm 3 tháng nữa bà mới mất. Những tuần lễ cuối, chương trình hộ niệm xuyên suốt đêm ngày, các cơn ngặt mình, các cơn đau kịch liệt xuất hiện liên tục, và bà thường chìm vào cơn hôn mê. Vào khoảng 9 giờ sáng mùng 8 tháng 9 năm 2007, bà lên cơn mê mệt, cơn mệt này kéo dài tới 8 giờ tối bà mới trút hơi thở sau cùng. Lúc ấy trong nhà ngoài sân chật cứng đồng đạo, âm thanh Phật hiệu của hơn năm, bảy mươi người vang rền đưa tiển, ai ai cũng chúc mừng cho bà, và ai ai cũng ao ước cho mình trong tương lai cũng được ngần ấy đồng đạo đến niệm Phật tiễn đưa.

Bà dứt hơi được hơn bốn giờ, con trai bà và Huynh Tư thăm dò sơ bộ về điểm ấm, thì thấy vùng bụng nóng dữ dội. Một giờ chiều hôm sau mới tiến hành tẩn liệm và lễ an táng, gương mặt hiện rõ hình dáng: miệng há, mắt trợn, các khớp đều rất cứng. Có điều nổi bậc là gương mặt ánh lên màu vàng rực. Tổng hợp các dữ kiện trên cho thấy quả báo thân sau của bà, mà bài kệ của Cổ Đức đã ghi là tương ưng với quỷ thần đạo, nhưng là thuộc loại quỷ có tài của. Khi tuần thất thứ 7 hoàn mãn, con bà mang di ảnh vào an trí thờ nơi chùa mà lúc sanh tiền bà đã xuất gia và ở tu, chùa này thuộc địa hạt thành phố Vĩnh Long.

Chín năm sau (2016), con bà vì tranh chấp tài sản với nhau mà kiện tụng rùm beng với nhau ra làng xã, bà mới nhập vào bà chị thứ Út ở lối xóm để than thở bao nỗi xót xa ưu buồn. Lúc đầu những người chứng kiến không tin bèn nêu lên nhiều câu hỏi, bà mới kể lể huyên thuyên về dĩ vãng đời tư. Sau đó được cô con gái cả của bà xác nhận: “Nếu không phải là bà thì không thể biết được những sự việc đó!”. Bà còn khoe: “Lúc này tui ở chùa bên bển… chớ tui khỏe lắm chị ơi!”

*Thiết tưởng quá rõ ràng, nhan nhản trước mắt chúng ta có rất nhiều người suốt mấy mươi năm sống hạnh xuất gia, chăm chỉ chuyên tu ở núi non hoặc am cốc, thậm chí còn có nhiều vị từng vân du rày đây mai đó diễn thuyết truyền bá pháp môn Tịnh Độ, khích lệ đồng đạo niệm Phật cầu sanh Tây Phương, được mọi người tán thán kính trọng; vậy mà bản thân họ khi lìa đời cũng không hơn không kém gì cho mấy so với bà Nguyễn Thị Bùi trong câu chuyện trên!!!

Cổ nhân cũng đã đưa ra các gương điển hình. Trong đó có:

Sư Ngộ Khai

Sư Ngộ Khai, một bạn đạo của Ấn Quang Đại sư, vốn là người có căn trí, song tánh Sư cao vọng và háo thắng. Ban sơ, Sư tham cứu Thiền tông, khinh thường Tịnh Độ. Ít lúc sau, nhờ Thông Trí Pháp sư khai thị, Sư lần để tâm nơi Tịnh Độ. Dầu Sư đã có lòng tin Pháp môn Tịnh Độ, song hành trì không chuyên, tâm cao vọng không bớt, Ấn Quang Đại sư từng khuyên nhắc: nên thấp mình chuyên tu. Nhưng vẫn không thể vãn hồi tâm chấp định của Sư.

Sau một thời gian đó đây giảng diễn, Sư mang bệnh bèn trở về Phổ Đà.

Vừa về đến núi, cùng sư huynh là Sư Nguyên Thông chuyện vãn thăm nom.

Hàn huyên chưa dứt, Sư đã mệt mỏi chẳng nói ra lời. Sau giờ ngọ ngày kế

thì Sư mất. Trọn không có chút điềm lành, cũng không một điểm tốt nào đủ chứng nghiệm là vãng sanh hay giải thoát cả.

(Đường Về Cực Lạc – H.T  Thích Trí Tịnh)

*Trở lại câu chuyện của bà Nguyễn Thị Bùi, gần 30 năm trường chay tu niệm, ngay cả thân người ở đời sau còn không giữ được, thật có oan uổng hay không?

Khi yên tĩnh trầm lặng suy tư, tận tường kiểm điểm, thì cũng không có gì khó hiểu cho lắm. Đó là, mặc dù đã tu mấy mươi năm nhưng chỉ có hình thức thôi, chứ không có thực chất. Mà đạo thì quý ở sự thực, quý ở cái ruột bên trong, chớ không xem trọng cái vỏ bên ngoài. Đúng như câu:

“ Tu thành do ở tâm can,

Tu không thành ở chỗ mang bộ đồ.”

Từ khi khởi đầu tu cho đến ngày ra đi, bao nhiêu tập khí tham lam, sân hận ở nơi bà chẳng những không giảm bớt, mà sợ còn nhiều hơn nữa là khác. Lúc nào cũng mong muốn có thật nhiều của cải để cho con, cho cháu. Ngoài môi thì nói buông xả muôn duyên một lòng niệm Phật để vãng sanh nhưng trong tâm luôn nhớ con thương cháu, lo lắng rất nhiều những thứ toàn là vặt vãnh không cần thiết.

Miệng tuy niệm Phật, tay tuy lần chuỗi, mà ý tưởng thì chẳng có Phật. Người phát nguyện cầu về Tây Phương thiết tha thì rất sợ khách khứa viếng thăm, vì họ mang vô số điều thị phi đến, làm mất chánh niệm; Bà thì… không sợ mà còn rất thích những thứ phiền phức này. Nếu đứa con hay đứa cháu nào lâu quá mà không đến thăm bà, là bà hờn bà trách!

Vấn đề bố thí giúp người thì không xuất phát từ lòng thương yêu chân thật, mà chỉ vì hư danh, thích nghe nói ngọt; mong được người khen ngợi, cung kính. Khi được người khen ngợi, cung kính bà rất đổi vui mừng sung sướng. Mặc khác còn một thói quen chướng ngại lớn nhất cho sự tu nữa, đó là lời nói và tâm ý không giống y như nhau, không thật lòng, nói cụ thể là không chân thật! Căn bệnh này khá phổ biến ở thời đại hiện nay.

Điều đáng lưu ý ở đây là các con trợ duyên cho bà, nhất là hai vị xuất gia trực tiếp kề cận bên cạnh săn sóc và tu chung với bà, sự hiểu và hành của họ lúc ấy chưa được chuẩn xác chi cho lắm, vượt chẳng qua ngưỡng cửa danh lợi nên cũng không giúp bà được gì!

Tóm lại, 30 năm tu mà lòng tham không tiêu bớt, còn mãi tăng trưởng thêm hơn, thì quả báo của đường ngạ quỷ chắc chắn là tương ứng; nhưng vì ưa thích bố thí nên làm loại ngạ quỷ có phước báo. Khổ nỗi là lúc nào bà cũng thấy mình tu rất tốt, rất đúng. Tự lầm lẫn mà không tự hay biết; thậm chí nhiều người bên cạnh cũng nhận định sai lầm, trừ những người thực sự có công phu kha khá một tí mới phát giác ra bộ mặt thật của vấn đề.

Thông thường người ta hay nghĩ rằng mấy mươi năm trường chay niệm Phật, sáng chiều duy trì đều đặn các thời lễ bái, ăn hiền ở lành, chẳng mích lòng một ai… thì đủ để lâm chung Phật rước về Cực Lạc! Chắc chắn sẽ được vãng sanh.

Xin thưa rằng ngàn vạn lần đừng nên dựa vào hình thức mà vội vàng khẳng định như vậy! Nếu khẳng định như vậy dễ vướng phải sai sót, lệch lạc đáng tiếc, nhất là làm thất bại đời tu của mình và của người!

Lời Cổ Đức hằng cảnh tỉnh:

“Muốn được Phật hóa thân đến rước,

Phải nhứt tâm niệm Phật chí thành.

Giữ lòng niệm Phật cho thanh,

Tất nhiên được Phật rước lên sen vàng.

Thấy nhiều kẻ muốn sang Cực Lạc,

Mà lòng như bụi rác cống mương.

Thế là dù Phật có thương,

Cũng không thể hiện bên giường rước đi.

Làm tội ác trong khi chưa biết,

Khi biết rồi cương quyết tránh xa.

Một lời niệm Phật phát ra,

Đủ làm sức cảm Di Đà tiếp linh”.

(trích: Lá Thư Đông Kinh – Thanh Sĩ)

Ca dao cũng có câu:

“Sân si nghiệp chướng không chừa,

Bo bo giữ lấy tương dưa ích gì.”

********

*Mực thước là tiêu chuẩn, là pháp tắc cần phải y cứ, cần phải nương tựa. Giống như ông thợ mộc hay cô thợ may không xa rời mực thước. Xin thử hỏi: “Có ông thợ mộc hay cô thợ may nào không cần sử dụng thước đo, chỉ nhắm chừng thôi, cũng làm ra các vật dụng và y phục khéo tốt sắc xảo được hay không?”

Chuyện tu cũng vậy, càng tu nhiều ngày bao nhiêu thì các thứ tham sân si phiền não, ích kỹ nhỏ mọn càng giảm nhẹ bấy nhiêu; tâm ngày càng thanh tịnh an lạc, trí ngày càng sáng suốt hơn. Nếu được như thế thì sự tu học đã đúng đường, sự hành trì mới được xem như là đúng hướng. Đấy là tiêu chuẩn, là thước đo cho công phu tu trì.

************

C/- Nguyên lý-nguyên tắc vãng sanh

Theo Tịnh Độ tông thì điều kiện niệm Phật vãng sanh gồm có: Tín – Nguyện – Hạnh, ba thứ này gọi là tam tư lương. Chữ có nghĩa là tiền tài vàng bạc; chữ lương có nghĩa là lương thực. Bởi vì thuở xưa người nào muốn đi xa, có tiền bạc mà không có lương khô cũng không được, do quán ăn chẳng phổ biến như thời nay. Vậy nếu ai niệm Phật cầu vãng sanh mà đầy đủ Tín – Nguyện – Hạnh thì nhất định nắm chắc phần vãng sanh.

Tín: tin có cõi Cực Lạc, cõi ấy có Đức Phật A Di Đà là giáo chủ.

Nguyện: là mình muốn được sanh về đó.

Hạnh: sáu chữ Nam Mô A Di Đà Phật, hoặc bốn chữ A Di Đà Phật cũng được, trì niệm trong mọi oai nghi: đi, đứng, nằm, ngồi; trong mọi nơi, mọi lúc; trong mọi công việc tay chân, tức là những công việc không cần phải suy nghĩ tính toán đều niệm được hết.

Ba yếu tố Tín – Nguyện – Hạnh này được gọi là tôn chỉ của người tu Tịnh Độ.

Ngoài ra, tôn chỉ của người tu Tịnh Độ còn có cách nói khác nữa, là: Phát bồ đề tâm, nhất hướng chuyên niệm.

Hay là: Tin sâu nguyện thiết – Buông xả muôn duyên.

Hoặc là: Thật vì sanh tử phát lòng bồ đề;

Dùng tín nguyện sâu trì danh hiệu Phật.

Cách nói thì tuy khác nhau nhưng nghĩa lý đều tương đồng, dung thông với nhau.

Người có tâm địa thiện lương, quê mùa, thật thà chất phác, không so đo tính toán phải quấy hơn thua. Nếu ai có hỏi họ: “Tam tư lương là gì? Tín là thế nào? Nguyện ra sao? Hạnh ra sao? Sao gọi là phát tâm bồ đề, nhất hướng chuyên niệm? Sao gọi là Tin sâu nguyện thiết – Buông xả muôn duyên?”.v.v… và  v.v… cái gì, cái gì họ cũng đều không biết mô tê chi cả; Vậy mà khi giới thiệu sơ lược về pháp môn niệm Phật, chẳng hạn như: “Cõi đời là khổ, kiếp sống vốn vô thường ngắn ngủi mong manh, rán niệm Phật vãng sanh thì là hết còn đau khổ!”. Nghe xong họ chân thật hành trì, chỉ vỏn vẹn trong vòng năm ba năm hành trì là họ biết trước ngày giờ ra đi,  không bệnh, đứng mà vãng sanh, ngồi mà vãng sanh, như ông thợ vá nồi, hay bà vợ của tướng quân Lương… ở các câu chuyện trên, Cổ Đức còn cho biết phẩm vị mà họ đạt được rất thù thắng; Còn chúng ta cái gì cũng biết, hỏi một đáp mười, thao thao bất tuyệt như gió bão trời giông, hay dòng sông mùa lũ, chừng lâm chung chợt đến, đêm ngày nằm mê mê mang mang, cứ thở phì phò, phì phò… rốt cuộc cái vé Tây Ninh cũng hãy còn xa, huống hồ là trực đáo Tây Phương! Hãy bình tỉnh chân thật mà thương xót cho chính mình! Thành tâm khuyên nhắc lẫn nhau rán ghi khắc điều này!!!

Nữ cư sĩ Trương Thị vãng sanh

Nữ cư sĩ Trương Thị, người Thanh Đảo, có một con trai, một con gái. Gia cảnh bần hàn, chồng làm nghề kéo xe. Trương Thị cư trú ở gần Trạm Sơn tinh xá. Tinh xá có thành lập Hội Phật Học, mỗi ngày chủ nhật đều có pháp sư do chùa Trạm Sơn phái đến đó giảng kinh. Mọi người nghe giảng kinh xong đều niệm Phật một giờ rưỡi đồng hồ. Trương Thị do nhân duyên đó mà quy y Tam Bảo. Nhờ được nghe Phật Pháp, tin tưởng vào Đức Phật A Di Đà, thường ở nhà niệm Phật. Ngày lễ thì dẫn hai đứa nhỏ đến Phật Học Hội để nghe kinh, nghe rồi cùng mọi người niệm Phật. Cuối năm Dân Quốc 26 (1937), một hôm vào sáng sớm, bà bỗng bảo chồng:

– Ông hãy trông con cho tốt nhé ! Hôm nay tôi sẽ về đất Phật.

Chồng bà bận rộn về kinh tế, không để ý gì đến Phật Pháp, tức giận nói:

– Đừng nói xàm! chúng ta nghèo còn chưa đủ ư, bà còn nói bậy gì nữa!

Nói rồi, ông không thèm để ý đến vợ, bèn đi kéo xe. Trương thị dặn dò hai con:

– Hôm nay mẹ sẽ về thế giới Tây Phương Cực Lạc, các con phải nghe lời bố bảo, đừng ngỗ nghịch!

Lúc đó các con bà, đứa lớn chưa đến 10 tuổi, đứa bé chừng 5, 6 tuổi không hiểu mẹ nói gì, nên theo lệ thường chạy rong ra ngoài chơi giởn. Trương Thị thu vén chuyện nhà xong, rửa mặt, chải đầu, vì nhà nghèo không có quần áo mới chỉ thay quần áo cũ đã giặt sạch, ngồi hướng về phương Tây niệm Phật rồi vãng sanh.

Hai con bà chạy ra ngoài chơi rất lâu, đói bụng, về nhà đòi ăn cơm. Thấy mẹ ngồi trên giường không nấu cơm, bèn gọi không thấy trả lời, dùng tay sờ cũng không động. Lúc đó các trẻ mới biết mẹ chết. Do đó khóc lóc đi báo tin cho hàng xóm biết. Họ kéo đến thấy Trương Thị vãng sanh ở tư thế ấy vô cùng cảm kính trộn lẩn nỗi vui mừng.

Ông chồng khi  hay tin, về đến nhà thấy thế khóc lóc hết sức thảm thiết. Vì gia đình quá nghèo, nên hậu sự đều do Phật Học Hội lo liệu.

(trích: Tịnh Không pháp ngữ)

Tội phạm ở Tân Gia Ba niệm Phật vãng sanh

Ở Singapore buôn bán ma túy, án duy nhất là tử hình, là hình phạt treo cổ. Số người buôn bán ma túy rất nhiều, hơn nữa đều rất trẻ tuổi. Sau khi họ bị bắt, nhốt vào ngục tù thì chỉ chờ lên đài để hành hình. Cư sĩ Lý Mộc Nguyên của Cư Sĩ Lâm Phật giáo, vào trại giam khuyên họ tụng Kinh Vô Lượng Thọ, niệm “A Di Đà Phật” cầu sanh Tịnh Độ. Đại đa số tội phạm đều tiếp nhận, trong ngục tù giống như Phật thất tinh tấn của một Niệm Phật Đường. Vì họ đều biết ngày nào sẽ vãng sanh, do đó buông xuống tất cả thế giới bên ngoài của thân tâm, chân chân thật thật ở đó niệm Phật. Người không niệm Phật, khi lên đài hành hình, toàn thân tê liệt (rã rời), phải có mấy người khiêng lên, khi treo cổ chết đi thì thất khổng (bảy lỗ: mắt, tai, mũi, miệng…) chảy máu. Người niệm Phật không cần người dìu đỡ, tự mình bước lên một cách tự nhiên, một tí sợ hãi cũng không có. Sau khi bị treo cổ chết đi, mặt mày bình thường, bất khả tư nghì! Sau khi hỏa táng, nhặt được viên cứng rắn (kiên cố tử), xá lợi tử. Màu sắc đẹp, lại to, rắn chắc, khi rơi xuống đất phát ra âm thanh như kim loại, bất khả tư nghì! Một người phải lên hành hình treo cổ, toàn bộ phạm nhân trong ngục đều niệm Phật để tiễn đưa họ. Chứng minh như trong kinh nói: “Nhược nhất nhật đáo nhược thất nhật niệm Phật” (Niệm Phật từ một ngày đến bảy ngày), chân thật sám hối, nhất tâm niệm Phật cầu vãng sanh, là có thể thật sự thành công.

Trước hai ngày họ bị treo cổ, Phật hiệu ngày đêm không ngừng, diện mạo đều thay đổi. Người nhà của họ đến thăm, nhận ra rất rõ ràng; trước khi bị bắt nhốt vào trại giam, mặt mày của họ rất xấu, người nhà đều không muốn đếm xỉa tới. Vậy mà sau khi ở trong ngục niệm Phật, tướng mạo cả con người đều biến đổi, biến thành được thanh tịnh, hiền thiện, từ hòa. Người nhà quyến thuộc nhìn thấy, không một ai mà không hoan hỷ. Vì thế, có không ít người buôn ma túy ở Singapore vãng sanh thành Phật. Ai cũng có nhân duyên, tuy nhân duyên khác nhau, họ được vãng sanh thành Phật lại là một điều không phải giả. Điều này cho chúng ta một sự gợi mở nhận thức rất lớn.

(trích: Tịnh Không pháp ngữ)

************

D/- Cảnh duyên khi lâm chung

Điều mà mọi người cần phải nên biết là hầu hết ai trước khi mãn phần đều phải nếm trãi cái khổ lúc chết, đó là:

1.-Thân thể đau đớn dữ dội, khó kham nhẫn;

2.-Tinh thần không còn tỉnh táo sáng suốt, hôn hôn mê mê hoặc là cuồng loạn, người nhà mà cũng chẳng nhận biết;

3.-Thân quyến than khóc bi thương, ồn náo, rối loạn dễ làm cho thần trí hỗn tạp lưỡng lự phân vân,  ý niệm tình ái khởi dậy rất khó buông xả, rất khó siêu thoát.

4.-Lại thêm bạn ác phá hoại chánh tri chánh kiến, làm cho đương sự đọa lạc vào ác đạo nhanh hơn, sâu hơn. Mà bạn ác được nói ở đây chẳng phải ai xa lạ mà chính là những người gần gũi mình nhất, là con cháu hay bạn thân, những người thương yêu mình nhất; nhưng do vì những vị ấy không có tu, hoặc cũng có tu nhưng không thật sự hiểu biết đúng đắn về Phật Pháp, nên càng thương thì càng gây tai hại nhiều hơn, tai hại càng nghiêm trọng hơn. Câu chuyện dưới đây là một điển hình:

Con còn nhớ một ông Sư nọ,

Từ sau khi rời bỏ thê nhi;

Xuất gia đầu Phật quy y,

Suốt đời trai lạt trụ trì thiền môn.

Được lối xóm tiếng đồn sư thiện,

Ông cũng lo tu luyện hằng ngày;

Một hôm thời tiết đổi thay,

Ông liền phát bịnh mấy ngày nằm luôn.

Ông lại thấy hơi buồn trong dạ,

Miệng thèm ăn thịt cá vô cùng;

Làm cho rạo rực trong lòng,

Đêm không ngủ được suốt trong mấy ngày.

Kẻ lối xóm vãng lai thăm viếng,

Ông liền đem kể chuyện ấy ra;

Một người trong số đàn na,

Làm thinh lén trở về nhà trước đi.

Liền hôm nọ thừa khi vắng khách,

Người ấy mang một xách đồ ăn;

Nào là chả gỏi gà măng,

Nào là thịt nướng cá chưng nực nồng.

Khiến ông bắt thêm lòng thèm khát,

Đồng thời người ấy đốt lên thêm,

Rằng là: “Trong lúc ban đêm,

Không ai hay biết chớ hềm ngại chi.

Sư cứ việc ăn đi chắc mạnh,

Nếu không dùng bịnh chẳng lành đâu”.

Ông còn ngần ngại hồi lâu,

Sau rồi ông lại gật đầu liền ăn.

Trai lạt mấy mươi năm gìn giữ,

Chỉ một cơn thách thử tan tành;

Bịnh ông không những chẳng lành.

Ít hôm sau đó bịnh tình nặng hơn.

Kế ông thấy tâm thần tán loạn;

Niệm Di Đà cũng chẳng nhớ rành;

Hôn mê cho đến bỏ mình,

Đầu thai trở lại gia đình hàng heo.

Từ nhỏ đến lớn theo nghề ấy,

Lành xưa không nhớ lại chút nào;

Cứ gây tội lỗi chuyền lao,

Bị giây oan nghiệt dẫn đầu thai luôn.

Chịu lắm kiếp vào cuồng ra dại,

Gặp nhiều đời chết hãi sống kinh;

Càng ngày mờ ám chơn linh,

Lòng không còn biết tưởng tin đạo mầu.

Con ơi chớ quên câu chuyện ấy,

Tu gần thành mà hoại có thường;

Nhà sư ấy miệng rau tương,

Nhưng trong lòng vẫn còn vương mùi trần.

Mùi trần ấy chỉ dằn chỉ nhẫn,

Nhưng ông không diệt hẳn nó đi;

Nên khi xác yếu thần suy,

Lòng còn thèm muốn những gì hiện ra.

Trong lúc ấy thắng qua nó được,

Tất nhiên là Phật rước đi ngay;

Còn nghe theo nó khiến sai,

Thì đành chịu kiếp đọa đày khó ra.

Trai lạt chẳng phải là ngoài miệng,

Phải lạt trai cho đến trong lòng;

Tu đâu phải lạt trai không,

Mà còn giới luật và lòng từ bi.

Tất cả những hành vi đạo đức,

Từ đáy lòng thành thật làm ra;

Dù nơi không có người ta,

Cũng không để thói vạy tà phát sanh.

Cuối cùng cũng trọn lành trọn sáng,

Gần lâm chung chẳng tán loạn tâm;

Di Đà vẫn nhớ niệm thầm,

Linh hồn không bị dẫn lầm đường đi.

Lành mạnh cũng như khi bịnh hoạn,

Bình tĩnh không hốt hoảng tinh thần;

Từ trong tâm đến ngoài thân,

Việc nào cũng được xét phân rõ ràng.

Nếu tất cả trong hàng thiện tín,

Giữ được lòng bình tĩnh như trên;

Cõi nào mình muốn siêu lên,

Tức là sẽ được toại nguyền chẳng không.

Tuy dễ được mà không phải dễ,

Vì phần đông những kẻ lâm chung;

Thường hay mê sảng trong lòng,

Ít ai tỉnh đến khi hồn lìa thân.

Biết sắp chết tâm trần chưa bỏ,

Vừa tiếc thương vừa sợ hoảng lên;

Càng thêm buộc cái oan khiên,

Nên càng sớm trở lại miền trần gian.

Gần dứt thở vững vàng trong trí,

Giũ sạch không nhớ nghĩ sự đời;

Chỉ còn lòng nhớ Phật thôi,

Tức thời có Phật đến nơi rước về.

Lòng đại độ tràn trề khắp chốn,

Sức thần thông rộng lớn vô biên;

Chúng sanh vừa dứt phát nguyền,

Thì là có Phật đến liền rất nhanh.

Trong nháy mắt siêu sanh Tịnh Độ,

Khỏi phải cần hành khổ dụng công;

Ấy là giũ sạch bụi hồng,

Trước giây phút trút linh hồn ra đi.

Phát tâm Phật thì qui cõi Phật,

Phát tâm phàm thì rớt cõi phàm;

Phật phàm do chỗ phát tâm,

Tâm nào cõi nấy không lầm một ai.

Chúng sanh muốn sớm ngày giải thoát,

Thì phải nên sớm phát Phật tâm;

Trồng lâu thì rễ ăn thâm,

Đời dù lay lắc khó làm tróc nghiêng.

Biết lo trước là yên vững nhứt,

Để muộn rồi chạy chọt uổng công;

Trong khi muốn lội qua sông,

Những đồ mang gánh lòng thòng bỏ đi.

(trích: Đường Giải Thoát – Thanh Sĩ)

*Ở thế gian xưa nay, ai ai cũng ao ước mong cầu “Ngũ phước lâm môn”. Mà trong năm thứ đó thì phước báu cuối cùng là: “Thiện chung”, nghĩa là ngày cuối đời  ra đi trong trạng thái: Thân không bệnh khổ bức bách.Tâm thần luôn tỉnh táo sáng suốt, an định, tươi vui; không tham luyến, sợ hãi, lo âu. Vui vẻ cáo biệt mọi người rồi qua đời.

Trường hợp này cũng thường hay gặp, phần nhiều là những người có đời sống trong sạch thanh cao, hiền từ nhân đức, ưa thích bố thí giúp người. Hiện tượng ra đi này chứng tỏ cho thấy phước báu người ấy rất sung túc trong hiện tại cùng tương lai đời sau.

Đối với người niệm Phật cầu vãng sanh, nếu lúc lâm chung mà được như thế, thì người ấy chắc chắn đạt kết quả thành công mỹ mãn. Đúng như lời của Thiện Đạo Đại Sư đã khẳng định: “… mười kẻ niệm mười kẻ được vãng sanh, trăm người tu trăm người về Tịnh Độ”.

Căn cứ theo luật Nhân – Quả, muốn thu hoạch bông trái ở mùa vụ sắp tới thì ngay bây giờ phải lo cày bừa trồng tỉa. Nếu ngay bây giờ không lo cày bừa trồng tỉa, mà mơ ước sau này sẽ được giặt hái bông trái là chuyện mộng mị viễn vông. Hay nấu cát mong được cơm. Nếu đem cát đi nấu thì cát muôn đời vẫn là cát nóng, chứ cát không thể nào biến thành cơm được, bởi vì nhân quả không tương ưng. Cũng thế, phước báu chẳng thể tự nhiên khi khổng khi không từ trên trời rớt xuống để cho ta dùng, mà chính mỗi người chúng ta phải tự tạo lấy, chư Phật và chư Bồ Tát chỉ hướng dẫn phương pháp chính xác cho chúng ta biết mà thôi, chứ các Ngài không thể làm giùm cho chúng ta được!

Thuở xưa khi Đức Thế Tôn dạy Hoàng thái hậu Vi Đề Hi phương pháp tu hành để được sanh về thế giới Cực Lạc, thì trước tiên Ngài dạy bà phải tu “Ba loại phước nghiệp thanh tịnh”. Đặc biệt Ngài còn cho biết rằng bất kỳ một ai muốn ra khỏi sanh tử luân hồi tiến lên quả vị Phật, đều bắt buộc phải tu ba thứ phước này, chứ không phải chỉ dành riêng cho người tu niệm Phật. Ba thứ đó là:

1/- Phước báu Nhân – Thiên.

2/- Phước báu Tiểu thừa.

3/- Phước báu Đại thừa.

Ba loại phước này cũng giống như nhà lầu vậy. Tầng một có rồi mới xây tầng thứ hai, tầng thứ hai có rồi mới xây thêm tầng ba, không thể đảo lộn thứ tự của nó; Cũng vậy, phước báu Nhân Thiên nếu không làm xong thì hai loại sau chẳng thể nào làm được.

Đối với người niệm Phật chỉ có phước báu Nhân Thiên cũng đủ để được vãng sanh. Nếu làm được trọn cả ba thì phẩm vị vãng sanh rất cao.

Thời hiện nay số người niệm Phật rất đông nhiều, nhưng thực sự vãng sanh lại quá ít, xét ra có hai nguyên do:

*Một là: phước  báu Nhân Thiên là thứ thấp nhất trong ba thứ, vậy mà họ vẫn không làm được, hoặc không chịu làm, không muốn làm. Nói cách khác, làm một con người tốt, một con người bình thường trong xã hội mà làm còn không nổi, làm không xong, thì còn bàn chi đến chuyện làm Phật, vì vãng sanh là thành Phật.

*Hai là: hầu hết không biết cách thức hồi hướng phước báu này về Tây Phương. Cũng như  người gánh nước đổ vào bồn chứa. Anh ta tận hết sức lực săn sái cho nước vào bồn nhiều lắm. Nhưng bồn bị lũng lổ to tướng mà anh ta không thèm quan tâm nhét kín lại. Nên rốt cục như dã tràng xe cát, phí uổng công lao mà chẳng tự hay biết.

Cách thức hồi hướng phước báu về Tây Phương là thế nào? Thiết tưởng đây là một vấn đề vô cùng quan trọng, kính mong chư vị đồng tu  lưu ý, và bỏ ra chút ít thời giờ để nhất tâm suy nghiệm cho chính chắn vấn đề quan trọng này, ngõ hầu không rơi vào tình trạng đáng tiếc ở tương lai mai sau của chính bản thân mình!!!

Cổ Đức đã dạy:

“Nếu như ai cố chí làm lành,

Chuyên niệm Phật cầu sanh Phật Quốc.

Cả vũ trụ khắp cùng vạn vật,

Dầu Tiên, Phàm, Ma, Quỉ, Súc sanh.

Cứ nhứt tâm tín, nguyện, phụng-hành,

Được cứu cánh về nơi an dưỡng.

Chỉ một kiếp Tây phương hồi hướng,

Thoát mê đồ dứt cuộc luân hồi.”

Hai câu đầu:

“Nếu như ai cố chí làm lành,

Chuyên niệm Phật cầu sanh Phật Quốc.”

Đây là nguyên lý nguyên tắc cốt lõi của hồi hướng, rất là cao minh và thỏa đáng!

Bởi tập khí thói quen của chúng ta, đa phần đều dính mắc rất dễ dàng và vô cùng kiên cố, tức là đụng đâu dính đấy, làm cái nào dính cái nấy, y như là mủ mít vậy đó!

Thí dụ ta làm các việc lành, từ việc phúc lợi từ thiện xã hội như: bắc cầu, bồi lộ, chẩn bần, cứu trợ, ủy lạo, công quả cho chùa đình… cho đến: cầu nguyện, lễ Phật, niệm Phật, tụng kinh, trì chú, bái sám…v.v… và …v.v. Các việc này đều là việc thiện lương, việc tốt lành cả, đều có phước báu vô lượng vô biên. Nhưng chúng ta phải nên giữ làm sao cho tâm mình đừng dính mắc vào các việc ấy, đừng để cho tâm của mình giống mủ mít mới được! Vì nếu ta dính mắc vào nó thì sẽ sinh ra bao thứ tệ hại như: vui-buồn, thương-ghét, tốt-xấu, đúng-sai, chê-khen, hơn-thua, được-mất …khi làm mà người khen mình nghe vui thích, khỏe nhẹ thân tâm, càng làm càng không biết mệt; nếu lỡ như bị người vô ý hay cố tình khinh chê thì lòng ủ dột, tay chân dở lên không muốn nổi, thậm chí ậm ực khó chịu trong lòng suốt năm ba ngày mà chẳng hiểu nguyên nhân gì.

Nói rõ hơn, bất cứ việc tốt lành cao đẹp nào cũng có kết quả hai chiều, tức là sẽ được nhiều người khen ngợi, thương mến, quý kính, tặng quà… và cũng sẽ bị nhiều người đố kỵ, ganh tỵ, gièm pha, phỉ báng …cả hai điều này dễ làm cho tâm mình dính mắc vào. Thuận ý thì sinh vui mừng, thích thú, rồi đâm ra hãnh diện, kiêu ngạo… Ngược lại thì buồn bực, tức giận, oán thù…

Một khi đã có ý niệm kiêu ngạo hay bực bội, hận thù rồi thì vô số mầm mống xấu ác sẽ ào ạt phát sinh sau đó, chẳng mấy chốc chúng sẽ đơm bông kết trái.

Đây chính là những lỗ rò to tướng làm rĩ chảy công đức và phước báu mà mình đã vất vả lắm mới tu tạo có được.

Cho nên cách thức hồi hướng phước đức về Tây Phương là làm lành thì thân phải “cố chí làm lành”, tận hết sức mà làm; Còn tâm thì “Chuyên niệm Phật cầu sanh Phật Quốc.” Do tâm luôn tưởng niệm Đức Phật A Di Đà, luôn nhớ nghĩ đến Thế giới Cực Lạc, nên không dính mắc trên việc làm lành, không sinh buồn vui, thị phi, được mất…Vì vậy phước đức sẽ còn nguyên vẹn, không bị rĩ chảy. Chắc chắn ngày lâm chung chúng ta được thọ hưởng, chuyện vãng sanh nhất định thành công!

Hay nói cách khác, thân khẩu làm hết tất cả các việc lành, bỏ hết các điều ác, giữ tâm ý luôn trong lặng, thanh tịnh niệm Phật nhất định sẽ vãng sanh!

Dẫu biết rằng tâm ý của chúng ta rất khó trong lặng, rất khó thanh tịnh, nó cứ lăng xăng mãi, chẳng dừng nghỉ; Nhưng vì quá tha thiết muốn về Tây Phương, luôn nhớ Phật, niệm tưởng Phật, luôn nhớ Cực Lạc nên không còn nhớ những thứ trần hồng cõi tạm lăng xăng đó nữa.

Cho nên “Chuyên niệm Phật cầu sanh Phật Quốc” đối với pháp môn niệm Phật, được xem: Là kim chỉ Nam cho người còn lầm lũi lang thang trong rừng rậm phiền não vô minh; Là chiếc phao an toàn cho nạn nhân nổi trôi giữa biển khổ sinh tử; Là lá bùa hộ mệnh cho lữ khách vạn lý độc hành; Là linh đơn diệu dược cứu chữa mọi dày dò cho bệnh chứng nan y. Những gương vãng sanh sau đây là một điển hình:

Cụ bà Nguyễn Thị Chín

Cụ bà Nguyễn Thị Chín sinh năm 1913, nguyên quán tại rạch Xẻo Cuông, ấp Thạnh Lợi I, xã Trung An, huyện Thốt Nốt, tỉnh Cần Thơ.
Khi đến tuổi trưởng thành, bà lập gia đình, sinh được năm người con thì chồng mất, lúc đó bà 31 tuổi. Ít lâu sau, bà tái giá với ông Nguyễn Văn Lạt, người cùng xứ sở, sinh thêm một gái và một trai. Nghề nghiệp chính là làm ruộng.

Tính tình của cụ rất hiền hậu, chân thật, hòa nhã với mọi người.
Vào khoảng tháng 4 năm 1969, lúc đó bà 56 tuổi, bèn phát tâm trường chay. Mặc dù thất học nhưng ký ức của bà rất tốt, kệ sám nghe qua vài lần liền thuộc lòng.

Kể từ lúc ông chồng mất, kinh tế gia đình lần lần sa sút, rồi rơi vào hoàn cảnh cơ hàn nghèo khó, thiếu thốn mọi mặt, nhà thì quá chật hẹp, cơm gạo không đủ ăn cho nên bà đã cảm nhận sâu sắc về lẽ vô thường và nỗi khổ của kiếp nhân sinh. Đúng như lời cảnh tỉnh của chư Cổ Đức:

“Cõi Ta Bà thế giới,

Hữu hình thì tất hoại.

Vạn vật chung số phần,

Chẳng phải riêng nhân loại

Ai cũng lo giàu nghèo,

Ai cũng lo thắng bại.

Giàu nghèo rồi cũng thôi,

Thắng bại rồi cũng bãi.

Người đời không trường sanh,

Sự vật chẳng tồn tại.

Vật nối nhau tiêu tàn,

Người nối nhau chết mãi.

Cách sống có nhiều phương,

Cách chết có nhiều loại.

Sống đều sống không lâu,

Chết đều thân tan hoại.”

Bạn đạo thân thiết với bà là bà Ba Vàng, bà Nguyễn Thị Xinh, Trương Thị Hần,… thỉnh thoảng, thường rủ nhau đi cầu an cầu siêu hoặc cùng nhau niệm Phật.

Trong hàng thân quyến có vị thông hiểu giáo lý nên mỗi khi đến thăm, đều khuyên bà ráng tu để mà giải thoát. Giảng giải tận tường về lý nhân quả, diễn tả cảnh thù thắng của thế giới Cực Lạc, nơi mà không còn một mảy may khổ đau nhơ nhiễm, với 48 lời đại thệ độ sanh của Đức Từ Phụ A Di Đà, cuối cùng, hướng dẫn bà phát nguyện vãng sanh và chí thành niệm Hồng Danh của Ngài, trong mọi oai nghi, mọi thời, mọi lúc, không phân ngày đêm, không chia sớm tối. Thế là, bà vui vẻ thực hành vì nhận thấy cảnh khổ của chính mình, của gia đình mình và của tất cả chúng sanh, lòng tin của bà ngày càng sâu chắc, công phu ngày một chuyên cần, xâu chuỗi không lúc nào rời tay. Những mong:

“Lòng luôn cho đời là vật hoại,

Nên chán không nên quảy vào tâm.

Mượn giả thân mở đạo huyền thâm,

Lấy kiếp giả để làm kiếp thật.

Sống thác vẫn một lòng theo Phật,”

Năm 1985 mắt bà bị cườm, dần dần không thấy đường nhưng vẫn tự chăm sóc, sinh hoạt cá nhân bình thường. Trong nhà chỉ có cô con gái thứ Bảy, hằng ngày bán bánh bò và tương chao nuôi bà, vì cô này sống độc thân, trường chay, tu hạnh xuất gia, còn người con trai thì đi làm ở xa. Lúc này bà niệm Phật tinh chuyên hơn, thường ngồi niệm Phật mãi, có khi suốt cả đêm.

Vào khoảng tháng 4 năm 1994 bà nhiễm bệnh rất nặng, song dần dần thuyên giảm, ba tháng sau bỗng nhiên tái phát, mỗi lúc một nghiêm trọng.
Đến ngày 27 tháng 7 năm 1994 cụ ngưng ăn, chỉ uống nước trắng mà thôi. Tình trạng này kéo dài suốt 50 ngày, mặc dù đau nặng nhưng cụ rất tỉnh táo, tay vẫn luôn lần chuỗi. Thấy thể trạng của bà rất nguy kịch, có người bàn với cô con gái của bà nên đi coi thầy. Cụ nghe được, ngăn lại và nói:

– Bỏ dị đoan mới thấy đạo mầu.

Vào ngày 15 tháng 9 năm 1994, cụ nói với con:

– Mẹ thấy cảnh hoa sen và hoa cúc nở rộ đẹp lắm!

Và còn nói:

– Má thấy có người tướng mạo đẹp lắm, cho má biết bảy ngày nữa, má sẽ về Phật!

Từ lúc ấy về sau, thần sắc của bà luôn vui vẻ khác thường. Ngày 17 tháng 9, cụ bảo con gái đi gọi hết các con lại để bà gặp mặt lần cuối. Cũng ngày này, bà ngưng luôn uống nước, liên tiếp ba ngày. Khoảng 1 giờ sáng ngày 21 tháng 9 năm 1994, có một luồng ánh sáng thật sáng, rọi xuống mùng, con trai thứ Năm đang hộ niệm cho bà, cứ ngỡ là đèn của người đi soi cá, vì lúc này, vào mùa nước nổi.

Đến 6 giờ 30 có bà con lại thăm, trong đó có liên hữu Lầm, anh hỏi bà:

– Bà còn nhớ niệm Phật không, bác Chín ?

Cụ gật đầu. Liên hữu đề nghị:

– Đâu bác niệm lớn thử coi!

Cụ liền cất tiếng niệm lớn, âm thanh rõ ràng, mọi người đều nghe. Hộ niệm đến 7 giờ 30, tay cụ đang lần chuỗi, bỗng lặng yên mà qua đời. Cụ hưởng thọ 81 tuổi. Bốn tiếng đồng hồ sau, rất nhiều đồng đạo khám nghiệm tử thi thì thấy các nơi đều lạnh, duy đỉnh đầu hãy còn nóng ấm.
Một liên hữu thường đi đây đó quảng bá Phật Pháp, đã kính cẩn dâng lên bà mấy dòng thi như sau:

“Xẻo Tràm cô Chín xã Trung An,

Tám mươi mốt tuổi chết thanh nhàn.

Chay lạt hăm lăm, năm tháng lẻ,

Quyết lòng niệm Phật đến Tây Phang.

Ấm lạnh tình đời không vướng bận,

Khen chê được mất cũng chẳng màng.

Biết được bảy ngày nương Phật cảnh,

Mới hay Tịnh Độ diệu muôn ngàn!”

(Chuyện Vãng Sanh 2016, tập 1, tr 40 – NLHMNĐV sưu tập)

Bà Nguyễn Thị Hai

Bà Nguyễn Thị Hai sinh năm 1947, nguyên quán huyện Lấp Vò, tỉnh Đồng Tháp. Cha là cụ ông Nguyễn Văn Bền, mẹ là cụ bà Lê Thị Tư.

Khi đến tuổi trưởng thành, bà kết hôn với ông Nguyễn Tấn Thành, sinh được một trai và một gái, cư ngụ tại ấp Mỹ Phú, xã Định Mỹ, huyện Thoại Sơn, tỉnh An Giang. Gia đình bà sống bằng nghề làm mướn.

Theo tập tục cổ lệ, bà dùng chay kỳ mỗi tháng bốn ngày, sáng chiều cũng lễ Phật, niệm Phật nhưng thời gian rất ngắn.

Bà có đức tính hiền hòa, đối với lối xóm chưa hề cãi vã mích lòng một ai.

Ngày 18 tháng 12 năm 2013, đột nhiên bà phát bịnh nặng, đưa đến Bệnh Viện Đa Khoa huyện Thoại Sơn, hai ngày sau chuyển ra Bệnh Viện Đa Khoa An Giang. Bác sĩ chẩn đoán là “Khối u gan ác tính” nên đề nghị gia đình làm thủ tục chuyển lên Sài Gòn. Nhưng gia đình nghèo khó, không đủ điều kiện chữa trị nên xin xuất viện, nhằm ngày 23 tháng chạp. Về nhà bà liền phát tâm trường chay, ông chồng cũng hưởng ứng ăn chay theo bà để hồi hướng cho vợ mình.

Không bao lâu, đến ngày 16 tháng 2 năm 2014 bịnh tái phát dữ dội, người thân đưa bà vào Bệnh Viện Đa Khoa Thoại Sơn. Ở đây được 6 ngày, bác sĩ khuyên ông chồng:

– Thôi! Chú đem cô về đi! Lên thành phố vô hóa chất rụng tóc hết mà sống được một năm rồi cũng chết hà! Hơn nữa, chú không có khả năng, nghèo quá… nên thôi đi!

Về nhà, bà quyết lòng niệm Phật cầu sanh Tây Phương. Ông chồng luôn ở bên cạnh để đốc thúc bà cố gắng hành trì. Sau rằm tháng 3, bà nhờ chồng mời Ban Hộ Niệm. Ngày 23 tháng 3 năm 2014, Ban Hộ Niệm của liên hữu Sáu Phúc đến cộng tu, suốt một tháng rồi ngưng một tuần. Đợt sau, đến cộng tu và hộ niệm thêm 10 ngày nữa thì bà mãn phần.

Những ngày mới cộng tu, có lần bà nghe văng vẳng bên tai có tiếng nói:

– Thôi! Niệm Phật đầy bụng rồi, đừng có niệm nữa!

Biết đây là oan gia trái chủ nên đồng đạo đã khai thị, hướng dẫn bà phóng sanh và sám hối, một lòng thành tâm khẩn thiết niệm Phật, nguyện sanh Cực Lạc. Sau đó thì không còn nghe nữa.

Thân quyến của bà đi hốt thuốc Nam và mua thuốc Tàu cho bà uống, hầu giảm đi những cơn đau hành hạ, nhưng đến ngày mùng 2 tháng 5 năm 2014 khi người nhà sắc thuốc bưng đến thì bà không chịu uống, khi hỏi lý do thì bà trả lời:

– Bây giờ không uống thuốc nữa, chỉ mong chết được vãng sanh mà thôi!

Bởi thấy thuốc không còn tác dụng, và không muốn bị phân tâm nên bà luôn hoan hỉ chấp nhận trả nghiệp, càng đau thì càng niệm Phật, không hề rên than. Mắt bà luôn chăm chú hướng về tấm ảnh Đức Phật A Di Đà mà Ban Hộ Niệm đã treo trên vách, tay luôn lần chuỗi, miệng luôn nhép môi niệm Phật, có khi niệm ra tiếng,chồng con luôn kề cận hộ trợ liên tục. Bởi vì, bà đã quá chán ngán cõi trầm luân qua lời khai thị của Cổ Đức:

“Kiếp chúng sanh vô thường,

Cõi thế gian mộng mị.

Cứ nối nhau sanh thành,

Cứ nối nhau tiêu hủy.

Không phải là mới đây,

Mà đã từ vô thủy.

Khổ lão không thể ngăn,

Khổ tử không thể trị.

Thời đại có khác nhau,

Sống chết vẫn một lý.

Đen trắng khác mặt mày,

Vui buồn đồng tánh ý,

Sống theo lối cảm tình,

Sống theo lòng ích kỷ.

Nào tha thiết ái ân,

Nào mong cầu danh vị.

Kẻ trẻ chưa vừa lòng,

Người già chưa mãn ý.

Ai cũng muốn trường sanh,

Ai cũng muốn phú quí.

Bệnh tật ai cũng ghê,

Chết chóc ai cũng kỵ.

Nhưng bệnh tật khó lìa,

Nhưng chết chóc khó tị.

Ai cũng tốn công lao,

Ai cũng hao tâm trí.

Thân sống không giữ còn,

Muốn ham chẳng được phỉ.

Định mạng của người đời,

Xưa nay không sai dị.

Người cũng nên tỉnh hồi,

Người cũng nên suy nghĩ.

Giải thoát kiếp vô thường.”

Nên:

“Kiếp này nguyện cõi Tây Phương trực chỉ,

Đức Di Đà thọ ký mới là ưng.

Cánh sen vàng đem thay cái nhục thân,

Kiếp sanh tử luân trầm không còn nữa!”

Đến ngày mùng 9 tháng 5 năm 2014, nhận thấy thể trạng của bà đã cạn kiệt vì đã hai tuần lễ ngưng ăn nên Ban Hộ Niệm tập trung toàn bộ lực lượng, hộ niệm cho bà. Tới gần 5 giờ chiều, bà đang niệm Phật thảnh thót theo đại chúng, bỗng dưng niệm đến chữ Đà thì dừng lại. Ai cũng ngỡ bà ra đi ngay lúc ấy, nhưng kéo dài hơn mấy mươi phút mà vẫn chưa dứt hơi. Ông chồng bèn đề nghị Ban Hộ Niệm tạm ngưng, ra ngoài nghỉ một tí để cho cô con gái tắm rửa, vệ sinh cho bà. Sau khi xong xuôi, mọi người trở vào, tiếp tục hộ niệm thì bà cũng chấp tay nhép môi niệm Phật theo mọi người. Khoảng 15 phút sau thì bà mỉm cười hai lần, rồi nhẹ nhàng vãng sanh, đúng vào lúc 5 giờ 30 chiều ngày mùng 9 tháng 5 năm 2014. Bà hưởng thọ 67 tuổi.

Cuộc hộ niệm vẫn tiếp tục duy trì cho đến sáng hôm sau. Khi khám nghiệm, các khớp xương đều mềm mại, đặc biệt là gương mặt xinh đẹp lạ thường.

 (Thuật theo lời Nguyễn Tấn Phương, chồng của bà)

**********

Có hai bạn đồng tu cảm kích, kính tặng bà vài dòng thi như sau:

“Chị Hai mang bịnh ngặt nghèo,

Khối u ác tính nó đeo vào mình.

Khốn thay hoàn cảnh gia đình,

Gạo tiền giới hạn cảnh tình rất nguy!

Sâu duyên, chị quy y Tam Bảo,

Nguyện trường chay trực đáo Tây Phang.

Đêm ngày Phật hiệu ngân vang,

Bịnh đau mặc kệ thuốc thang chẳng màng.

Tháng năm, mùng chín rõ ràng,

Chiều năm giờ rưỡi nhẹ nhàng dứt hơi.

Mỉm cười hai lượt tuyệt vời,

Giã từ cõi thế về nơi Liên Đài.

Hộ niệm thêm chân tay mềm dịu,

Mặt đẹp xinh hơn lúc bình thường.

Dường như nhắn khách trần dương,

Tin sâu – Nguyện thiết Tây Phương có phần!”

(Chuyện Vãng Sanh 2016, tập 1, tr 384 – NLHMNĐV sưu tập)

Bà Lê Thị Cúc

Bà Lê Thị Cúc sinh năm 1932, cư ngụ tại ấp Thới Bình, xã Thới Thuận, huyện Thốt Nốt, tỉnh Cần Thơ. Thân phụ là cụ ông Lê Văn Quởn; thân mẫu là cụ bà Mai Thị Lựu. Bà là con thứ bảy trong gia đình có mười anh em.

Khi lên 19 tuổi, bà kết hôn với ông Lưu Phước Hiền, tục danh là Ba Đực, sinh được bốn trai, bốn gái. Gia đình sống bằng nghề làm ruộng.

Lúc bà về làm dâu, do mẹ chồng mất sớm, cha chồng không tục huyền, em trai thứ Bảy của chồng mới 10 tuổi, nên bà phải nhận thêm trách nhiệm chăm sóc trẻ, mãi cho đến khi cậu Út này ăn học nên người. Về sau gia đình bà ra riêng, đến định cư tại chợ Thới Bình, và mở cửa tiệm buôn bán tạp hóa để tăng thêm thu nhập, nâng cao tiện nghi sinh hoạt gia đình.

Bà rất hiền hậu, điềm đạm, từ hòa… khi gia đình thân tộc hay lối xóm láng giềng hữu sự, nhất là lúc sanh nở ốm đau, bà đều tận tình tùy phần săn sóc giúp đỡ, nên bà được nhiều người quí mến.

Năm 42 tuổi (1974), thiện căn quá khứ chín muồi, bà giác ngộ Phật pháp, liền phát tâm trường trai chuyên tu pháp môn Tịnh Độ, ngày bốn thời lễ niệm. Bà nhận thấy hình tướng cũng phần nào giúp ích cho sự tu nên tất cả y phục bà đã thay đổi bằng những bộ vạc mẻ, và mỗi lần ngắm nhìn nó bà cảm nghe lòng mình dâng tràn niềm vui thích lạ thường! Các con của bà cũng lần lượt phát tâm tu theo, những mong sớm được giải thoát, vĩnh viễn ra khỏi vòng sinh tử luân hồi nghìn trùng thống khổ… Bà cũng thường đi chùa, viếng non nên quen biết bạn đạo rất đông. Các thiện tri thức cũng thường xuyên ghé nhà để trợ duyên khích lệ gia đình về Phật Pháp, trọng điểm vẫn là đạo lý căn bản “bổn phận làm người” của cư sĩ tại gia và nguyên tắc niệm Phật cầu sanh Tây Phương Cực Lạc thế giới.

Quanh vùng, khi có những bịnh nhân nào cần hộ niệm, bà thôi thúc các con tham gia. Ban ngày thì lo làm việc, tối đến chúng hăng hái tranh thủ cùng đi với chư đồng đạo. Nếu gặp ca hộ niệm nào mà gia đình nghèo, bà bảo con mang gạo theo để giúp đỡ họ.

Năm 1980 (bà 48 tuổi), xương sống của bà phát cơn đau nhức. Sau nhiều tháng thay thầy đổi thuốc, tiêm chích đủ thứ mà không thuyên giảm. Cuối cùng bà uống ba thang thuốc Nam của ông thầy ở Phú Tân, bịnh tình mới được tạm bình phục. Từ đó, bà thường xuyên sang phòng thuốc từ thiện của chùa Khánh Vân để chặt thuốc, và phơi thuốc hằng ngày.

Có lần bà bị bịnh, đến Bệnh Viện Đa Khoa An Giang, bác sĩ khám thấy bà thiếu máu trầm trọng, lại biết bà đang ăn chay nên đã đề nghị bà phải ăn mặn thì mới điều trị. Bà hỏi bác sĩ:

– Tui bị bịnh gì mà ăn mặn mới điều trị được, thưa bác sĩ?

Bác sĩ trả lời:

– Cô thiếu máu trầm trọng mà cô ăn tương, biết chừng nào đủ máu mà trị!

Bà nói:

– Nếu như vậy thì thôi để tui đi về!

Thế là bà ra về. Vào cuối tháng 10 năm 1981, bà bị tai biến mạch máu não nên liệt nửa người bên phải. Gia đình đưa bà đi chích thuốc ở Long Xuyên mười ngày, dùng ghe tàu để chở, sáng đi thì chiều về, nhưng bịnh vẫn không tăng không giảm. Biết mệnh số đã an bày, bà vui vẻ nhận chịu, hoan hỷ trả nghiệp, chuyên lo niệm Phật để sớm vãng sanh Tây Phương. Lúc này, bạn đồng tu tấp nập ghé thăm. Các liên hữu cũng thường đến an ủi khuyến tấn. Nhờ tin sâu lý nhân quả, nghiệp báo nên mặc dù bịnh khổ hành hạ khốn đốn nhưng lúc nào bà cũng vui tươi, không bực bội cáu gắt, hay than trời oán người; thân tuy bệnh mà tâm không bệnh, lúc nào cũng nhớ nghĩ cái chết luôn luôn cận kề, và hành trang cần thiết là những gì mà mình cần cố gắng lo liệu cho được chu toàn để khỏi phải ân hận về sau:

“Thân nghiệp chướng chứa đầy bao bệnh khổ,

Đau chỗ nào cũng tột độ xốn xang.

Mãi hoành hành cứ dai dẳng suốt canh tràng,

Chưa chợp mắt mơ màng bỗng trời chợt sáng.

Một mai kia mạng căn khi đúng hạn,

Rời dương gian cùng bè bạn lẫn người thân.

Rồi đìu hiu quạnh quẻ chốn mộ phần,

Muôn ngàn thứ của thế trần đều bỏ lại.

Nên giác ngộ khá toan lo hối cải,

Thời gian qua như ngựa sải chẳng chờ ai.

Tỉnh đi thôi kiếp sinh tử mộng đêm dài!

Trì Phật hiệu để chờ ngày ngồi sen báu!”

Vào mỗi chiều tối chồng bà đi làm về, ông thường nói với các con:

– Bữa nào đi ruộng về… mệt thiệt!… Nhưng nhìn thấy má mầy vui vẻ, ba ăn cơm… ba thấy ngon; còn bữa nào đi về… mà thấy… má mầy nằm nhẹp lép như vậy ba buồn… ba ăn không vô!

Vì thế, mặc dù trong người có bức ngặt cỡ nào bà cũng canh chừng lúc ông chồng sắp về tới, là bà rán gắng gượng ngồi dậy vui vẻ nói chuyện để cho ông ăn được ngon miệng.

Đến ngày 13 tháng 2 năm 1982, tới giờ cơm sáng, bà không dùng và nói với các con rằng:

– Từ nay tới ba ngày nữa, thỉnh nước cúng cho má uống thôi, chớ má không ăn cơm. Uống nước cúng cho sạch sẽ đặng má về với Phật!

Mặc dù lúc đó bà vẫn còn ăn uống bình thường, dường như khi ăn thức ăn vào bà cảm thấy khó chịu. Đồng thời bà bảo các con mời chư đồng đạo đến cầu an và hộ niệm cho bà, liên tục ba đêm. Bà còn dặn con nên cho mấy cậu hay tin bà sắp mất, nhưng đừng cho dì Út biết. Chừng nào bà mất rồi mới báo cho dì biết. Con bà lấy làm lạ liền hỏi:

– Sao vậy má? Có hai chị em, dì Út thương má lắm mà! Sao má không cho dì Út hay?

Bà nhẹ nhàng giải thích rằng:

– Ừ! Bởi vì có hai chị em… Dì Út thương má lắm! Nếu cho dì hay… dì khóc lóc bịn rịn, má không có vãng sanh được. Đợi chừng nào má đi rồi, mới cho dì Út hay!

Chồng bà và các con đều làm y theo lời bà căn dặn. Cầu an và hộ niệm được 2 ngày, đến ngày thứ 3 là ngày rằm. Chiều hôm đó, khi bắt đầu lễ nguyện cầu an thì bà đề nghị với liên hữu Út Giềng:

– Cô Út ơi! Đêm nay cô đừng có cầu an nữa… mà cô cầu siêu đi. Cầu siêu cho tôi mau được vãng sanh về cõi Cực Lạc. Chớ đừng có cầu an nữa!

**********

Thông thường đối với bịnh nhân còn khỏe thì chỉ hộ niệm đầu hôm, đến khuya thì ai về nhà nấy, phần thời gian còn lại gia quyến tự bố trí lo liệu. Nên gần khuya, nhóm đồng đạo của cô Út Giềng ở chùa Khánh Vân chuẩn bị ra về, bà nói:

– Út ơi! Bữa nay Út ở với tui một đêm đi. Chớ Út đừng có về chùa làm chi, đặng sáng tui đi!

Bởi vì ai cũng ngỡ là bà ao ước vãng sanh quá nên mới nói như vậy cho vui thôi, chứ không ngờ rằng đó lại là sự thật! Cho nên cô Út vừa cười vừa đáp:

– Đi đâu mà đi! Mấy em còn ở đây… mà chị đi cái gì!

Thế là quý cô đồng hoan hỉ nhận lời, hôm đó cùng nhau ở lại nghỉ tại nhà của bà. Đêm ấy, trong khi mọi người đang niệm Phật bà cũng niệm Phật theo, thỉnh thoảng bà la lên:

– Đi chỗ khác coi! Làm cái gì vậy!

Cô Út thấy thế liền lên tiếng gọi:

– Chị Ba! Chị Ba! Niệm Phật chị Ba!… Chị nói cái gì ạ?

Bà trả lời:

– Tui đang niệm Phật mà nó đem ba khía tới nó kêu tôi ăn. Tui đuổi, tui đạp nó đi chỗ khác… Mà nó kêu: Ăn! Ăn! Ăn!

Cô liền khuyên:

– Niệm Phật đi chị Ba! Chị niệm theo em, chị niệm lớn lên đi chị!

Bà bèn niệm Nam Mô A-di-đà Phật lớn theo mọi người. Lát sau bà cũng la đuổi nữa, vì bà thấy có một đám người mang thịt cá đến bảo bà ăn. Ban Hộ Niệm cũng lay tỉnh và bảo bà niệm Phật lớn lên. Từ đó đến sáng, tình trạng ấy đã lặp đi lặp lại vài lần như thế.

Sáng ra, bà nhờ các con thay đồ, mặc áo vạc mẻ cho mình. Xong xuôi, mọi người vây quanh hộ niệm cho bà. Đến trưa thì liên hữu Ba Đô vô tới. Một, hai ngày trước chú có ghé thăm bà, khi cáo từ ra về chú ngậm ngùi nói:

– Thím Ba bịnh như vầy mà con không có ở đây được, con đã lỡ lãnh cắt lúa cho người ta rồi!

Hồi sáng này chú đang cắt lúa, sao nghe trong người nóng bức, trong lòng rất xốn xang bồi hồi. Chợt nhớ đến bà, chú bỏ cắt đi về, chạy xe riết vào thì vừa đúng 11 giờ, lúc đó bà quay sang chào hỏi chú, rồi nằm chắp tay, miệng nhép môi niệm Phật theo mọi người. Niệm đến 12 giờ thì bà nhẹ nhàng an tường vãng sanh, tay vẫn còn chắp giữa ngực. Nhằm ngày 16 tháng 2 năm 1982, bà hưởng dương 50 tuổi.

Hộ niệm thêm 8 giờ sau thì thấy các khớp xương đều mềm mại, gương mặt tươi đẹp hồng hào, đỉnh đầu ấm nóng trong khi các nơi đều lạnh.

(Thuật theo lời Lưu Thị Duyên, cô con gái thứ Tư của bà).

(Chuyện Vãng Sanh 2016, tập 2, tr 116 –NLHMNĐV sưu tập)

Càng bịnh càng tinh tấn

Cư sĩ Ổ Dư Khánh thời Dân Quốc, người huyện Phụng Hóa, tỉnh Triết Giang; tánh tình trung hậu, thuần phác.

Năm Dân Quốc 35 (1946), ông đến Ðài Loan, kinh doanh xưởng phụ tùng xe hơi Quốc Quang và xưởng dụng cụ giao thông Trung Lập công việc làm ăn của ông khá thành công. Năm Dân Quốc 56 (1967), ông được đồng hương rủ đến chùa Pháp Hoa ở Ðài Bắc nghe hòa thượng Tịnh Không giảng kinh; ông liền theo học Phật, tiếp nhận sự un đúc của Phật Pháp. Ông quy y với lão hòa thượng Quảng Khâm ở Thổ Thành và trưởng lão Sám Vân ở Thủy Lý, thọ trì Tam Quy, Ngũ Giới.

Mùa Ðông năm Dân Quốc 67 (1978), ông đến chùa Vĩnh Minh ở núi Dương Minh để thọ giới Bồ Tát tại gia. Ông nghiêm trì giới luật, chuyên tu Tịnh nghiệp, niềm tin vững vàng, ý nguyện thiết tha cầu sanh Tây Phương. Ông thường cúng dường Tam Bảo, phụng sự sư trưởng, bố thí làm phước chẳng tiếc sức lực. Ông cùng các liên hữu thành lập Phật Giáo Tịnh Nghiệp Lâm ở Tam Giáp Hoành Khê. Ông được cử làm Lâm Trưởng (người đứng đầu Tịnh Nghiệp Lâm), lãnh đạo đại chúng cùng trụ trong Lâm để cùng tu.

Mùa Hạ năm Dân Quốc 70 (1981), vì bệnh tật, ông phải về nhà chữa trị, nhưng niệm Phật càng thêm tinh tấn chẳng lười. Ðầu tháng 3 năm Dân Quốc 72 (1983), chợt ông bị bí đường tiểu tiện, trị liệu cách nào cũng vô hiệu, phải đưa vào bịnh viện Trung Hưng ở thành phố Vĩnh Hòa để chữa. Tuy đau đớn tột bậc, trong tâm ông vẫn niệm Phật chẳng ngớt. Ngày hai mươi mốt tháng 3, ông chợt bảo người con trưởng đang trông bệnh rằng:

– Từ ngày mai các con đừng có đi đâu!

Ngày hôm sau, gần trưa, bác sĩ đến khám toàn thân, thấy tất cả đều bình thường, dặn dò ông phải nghỉ ngơi chu đáo, ông Ổ bảo:

– Hiện tại tôi rất thoải mái, cảm ơn ngài!

Lát sau, ông bảo đứa con gái Út nâng đầu giường lên cao hơn, kê gối cho ông dựa. Cô hỏi:

– Có chuyện gì làm ba không được thoải mái hả?

– Không có!

Ðúng mười một giờ trưa, ông chợt mỉm cười, hai đùi chợt khép sát vào nhau, hai tay giở lên như thể đang co chân ngồi dậy, chắp tay; há miệng niệm Phật mà qua đời, thọ bảy mươi tư tuổi. Toàn thể quyến thuộc đều vây quanh cao giọng trợ niệm. Trưởng lão Sám Vân và các vị pháp sư, cư sĩ và đạo sư của Tịnh Nghiệp Lâm, lâm hữu v.v… cũng theo nhau đến, tính ra hơn bốn mươi người luân phiên trợ niệm. Ðến khoảng sáu giờ tối, toàn thân đều lạnh, chỉ còn mỗi đảnh đầu là ấm.

Trợ niệm đến chín giờ rưỡi mới bắt đầu rửa ráy, thay áo. Vì tứ chi của ông đã cứng đờ nên trưởng nữ dùng khăn nóng ủ lên hai khủy tay, chợt ngửi thấy mùi hương thanh khiết bốc ra từ hai tay áo ông. Ngày hôm sau đại liệm, hai tay ông mềm mại, những vệt đen trên mặt biến đâu hết, vẻ mặt ông vui tươi đẹp đẽ hơn lúc sống.

Từ lúc ấy, dù ngày hay đêm, quyến thuộc đều nghe trên không có tiếng niệm Phật, cho đến lúc pháp hội Niệm Phật bốn mươi chín ngày đã nghỉ rồi vẫn nghe có tiếng niệm Phật từ phương Tây vẳng tới.

(theo tạp chí Huệ Cự, bộ 22, kỳ 9)

Nhận định:

Một phen nghe giảng kinh liền theo Phật môn, thọ trì Tam Quy, Ngũ Giới, chuyên tu Tịnh Nghiệp, đấy chính là căn lành từ bao kiếp thành thục.

Lập Tịnh Nghiệp Lâm để cộng tu là tự lợi, lợi tha. Càng bịnh càng tinh tấn là mượn bịnh để tiến tu. Chợt dặn dò ngày mai đừng đi đâu là biết trước thời khắc.

Mỉm cười chắp tay ắt là thấy Phật hiện đến tiếp dẫn. Khiến cho quyến thuộc thường nghe tiếng niệm Phật từ phương Tây vẳng lại để họ biết là mình đã vãng sanh trong thượng phẩm, nhằm khiến họ đều phát tâm tín nguyện cầu sanh Tây Phương. Phàm những ai tuổi già lắm bệnh, xin hãy bắt chước gương hạnh của ông mà cố gắng tinh tấn tu hành!

*************

Bởi vậy cả đời Tổ sư Ấn Quang chỉ kêu gọi mọi người tận hết sức tu tròn đạo làm người, kế đó là tin sâu nhân quả làm lành lánh dữ, rồi niệm Phật cầu sanh Tây Phương. Thông qua lời dạy ngắn gọn, trình  bày thứ lớp rõ ràng này những ai quyết tâm thực hiện đều đạt lợi ích bất khả tư nghì. Thế nên số người tu theo sự hướng dẫn của Tổ đã vãng sanh nhiều đến đổi không sao tính đếm được.

Tóm lại phước báu là nền tảng không thể thiếu để chúng ta niệm Phật cầu vãng sanh. Hay nói một cách khác Tín-Nguyện-Hạnh phải đặt trên nền tảng của Phước báu Nhân – Thiên.

E/- Phước báu Nhân – Thiên

Theo lời Phật dạy trong kinh Quán Vô Lượng Thọ thì Phước báu Nhân – Thiên gồm có 4 việc:

a/- Hiếu dưỡng phụ mẫu (Thảo nuôi cha mẹ).

b/- Phụng sự sư trưởng  (kính thờ thầy Tổ).

c/- Từ tâm bất sát  (từ tâm không sát hại).

d/- Tu thập thiện nghiệp (tu mười nghiệp lành).

*************

*Dưới đây chúng ta sẽ tìm hiểu sơ bộ trọng điểm từng điều một.

a/- Hiếu dưỡng phụ mẫu (Thảo nuôi cha mẹ).

Cha mẹ đối với chúng ta có ân đức rất to lớn mà người xưa thường dùng hình ảnh của núi cao biển rộng để so sánh, cho nên phận làm con phải luôn luôn suy niệm về ân đức  sanh thành dưỡng dục này:

Ta sanh ra cõi đời được có hình hài để hoạt động từ thuở bé cho đến lúc trưởng thành, đủ trí khôn ngoan, trong khoảng bao nhiêu năm trường ấy, cha mẹ ta chịu biết bao khổ nhọc; nhưng sanh ra cha mẹ là nhờ có tổ tiên, nên khi biết ơn cha mẹ, cũng có bổn phận phải biết ơn tổ tiên nữa.

Muốn đền ơn cha mẹ, lúc cha mẹ còn đang sanh tiền, có dạy ta những điều hay lẽ phải ta rán chăm chỉ nghe lời, chớ nên xao lãng làm phiền lòng cha mẹ. Nếu cha mẹ có làm điều gì lầm lẫn trái với nhân đạo, ta rán hết sức tìm cách khuyên lơn ngăn cản. Chẳng thế, ta cần phải lo nuôi dưỡng báo đền, lo cho cha mẹ khỏi đói rách, khỏi bệnh hoạn ốm đau, gây sự hòa hảo trong đệ huynh, tạo hạnh phúc cho gia đình, cho cha mẹ vui lòng thỏa mãn. Rán cầu cho cha mẹ được hưởng điều phước thọ. Lúc cha mẹ quá vãng, hãy tu cầu cho linh hồn được siêu thăng nơi miền Phật cảnh, thoát đọa trầm luân.

Còn đền ơn tổ tiên, là đừng làm điều gì tồi tệ, điếm nhục tông môn, nếu tổ tiên có làm điều gì sai lầm, gieo họa đau thương lại cho con cháu, ta phải quyết chí tu cầu và hy sinh đời ta làm điều đạo nghĩa, rửa nhục tổ đường.”

(SGTVGLTB  2004, trang 174)

*Đối với hành giả niệm Phật cầu sanh Tây Phương, Ngài Ưu Đàm Đại Sư dạy:

Người tin chắc Tịnh Độ, phát tâm niệm Phật là lúc gieo giống trong ao sen, người nhất tâm niệm Phật dùng mọi điều lành mà trang nghiêm, đó là lúc hoa sen ra khỏi nước. Công phu niệm Phật thành tựu, nhân duyên Tịnh Độ chín muồi, đó là lúc hoa nở thấy Phật.

Là con Phật luôn nhớ Phật, trước hết phải tôn thờ song thân, tận tâm hiếu thảo, không lãng quên ý niệm báo hiếu dù trong khoảnh khắc, luôn thuận theo tính tình của cha mẹ, xem xét sắc diện song thân trong khi phụng dưỡng, vừa thấy trái ý cha mẹ thì liền cố gắng điều hòa.

Lại nên nghĩ mạng sống của cha mẹ như đèn treo trước gió, phải đề phòng đến lúc vãng sanh. Đem tất cả duyên lành, việc tốt của cha mẹ tu hành cả đời và công đức trợ tu của mọi người tập hợp lại thành một lá sớ, thường thường đọc cho cha mẹ nghe để làm cho cha mẹ sanh lòng hoan hỷ. Lại nên khuyên song thân khi ngồi, lúc nằm thường hướng về phương Tây, nhất tâm niệm Phật, không quên Tịnh Độ. Mọi người đồng thanh thường niệm, khiến cho câu niệm Phật tiếp nối không dứt, chớ để tình đời bi luyến làm mất chánh niệm. Đến lúc xả bỏ báo thân cũng cần phải chú ý. Nếu được như vậy, tất nhiên Thánh chúng đến đón rước vãng sanh Tịnh Độ, trong hoa sen báu quyết định thành Phật.

Con hiếu thảo, hầu hạ phụng dưỡng cha mẹ chính là lúc này, không nên lười biếng. Đây là việc lớn của người con hiếu phụng sự song thân lúc sắp mạng chung. Lấy việc này làm hiếu thảo mới thật là chí hiếu.

Vả lại, từ xưa đến nay, người niệm Phật vãng sanh Tây Phương rất nhiều, lược nêu vài điều để làm gương cho người niệm Phật: Quốc vương Ô Trường thấy Phật đến đón rước, hoàng hậu Tùy Văn nương hương lạ về Tây, bà Diệu Hạnh xin Phật đợi chờ, Tống thái tử hầu mẹ cũng vãng sanh. Như thế, thật đáng gọi: “Một nhảy vào thẳng đất Như Lai”.

Niệm Phật là chỗ cốt yếu của các pháp, hiếu dưỡng là hạnh đứng đầu trong trăm hạnh. Tâm hiếu tức là tâm Phật, hạnh hiếu tức là hạnh Phật. Muốn được đạo đồng như chư Phật, trước phải hiếu dưỡng song thân. Thế nên, Thiền sư Sách nói: “Một chữ hiếu là cánh cửa của mọi sự huyền diệu. Những lời Phật dạy lấy hiếu làm tông chỉ, kinh Phật nói lấy hiếu làm giới. Trong lời nói không mờ tối thì miệng phát ra ánh sáng giới, ngay đó rõ ràng nhanh chóng khai mở tâm địa”.

Nói về hiếu, có hiếu của tại gia, có hiếu của xuất gia.

Hiếu tại gia là được cha mẹ thương yêu, vui mừng mà không lãng quên bổn phận làm con; bị cha mẹ ghét bỏ, phải sống lao nhọc mà không hề oán hận. Luôn thuận theo sắc diện của song thân để làm tròn việc phụng dưỡng.

Đạo hiếu của người xuất gia là cắt đứt ân ái, từ giã song thân để cứu xét đạo huyền vi phù hợp bản tánh, thâm nhập lý vô vi, trên đền đáp ân cùng cực, tiến bước trên con đường giải thoát. Đây là lối tắt báo đáp ân đức của mẹ cha, chẳng những đời vị lai được lợi ích mà ngay trong hiện tại cũng được thành công.

Thế nên, đức Như Lai nửa đêm vượt thành, đạo quả viên mãn trên non Tuyết. Ngài Huệ Năng dùng bạch kim gởi gắm mẹ mà nối pháp ở Huỳnh Mai. Nhưng vì pháp mà đoạn dứt thâm ân, ắt cần phải nghĩ suy báo đức. Do đó, đức Thế Tôn về thăm phụ vương ở thành Ca Tỳ La Vệ, lên trời Đao Lợi thuyết pháp cho mẫu thân.

Còn như cha mẹ nghèo thiếu không nơi nương tựa, theo lý phải nên tự mình hầu hạ. Vì thế, ngài Tất Lăng Già Bà Ta hàng ngày đi khất thực để phụng dưỡng mẹ già. Đại sư Hoằng Nhẫn dựng lập Dưỡng Mẫu Đường. Ngài Trần Mục Châu đan hài nuôi mẹ. Pháp sư Lãng gánh cha mẹ mà đi du học khắp nơi.

Vậy thì, người xuất gia lấy pháp vị làm thức ăn ngon ngọt, nhưng cũng không quên đem dâng hiến cho song thân; lấy Phật sự làm việc chuyên cần, nhưng không bỏ sót lễ nghi của nhân thế. Không chỉ cha mẹ một đời, mà cha mẹ nhiều đời đều báo đáp được. Không chỉ cha mẹ một thân này, mà cha mẹ khắp trong pháp giới đều được độ thoát, đồng lên bờ giác. Đạo hiếu người xuất gia lợi ích rộng lớn thay!

Nếu như nhân duyên chưa đủ, cha mẹ không cho phép thì nên ở tại nhà làm tròn đạo hiếu, siêng năng tu tập nhân xuất thế. Nếu có thể ở ngay nơi thế tục mà thực hành đạo chân thật thì vẫn có con đường để thành Phật.

Chỉ mong được trở lại như lúc trẻ thơ, để khi cha mẹ nghiêm khắc, được quỳ dưới gối nhằm báo đáp sự nhọc nhằn chăm sóc của song thân.

Do đạo hiếu mà dẫn đến chỗ Nhất Thừa viên mãn, liền khiến cho Bồ Tát tại gia đạt được sự hiểu biết và tu hành không nghi ngờ. Hàng cao nhân xuất tục, nhân ở đây có thể soi xét.

Nếu có người chỉ hạn cuộc ở việc phụng sự Phật Pháp, không thể làm tròn việc phụng sự song thân, xem nơi đây ắt sẽ cảm xúc trong lòng, có thể khắc phục để vẹn toàn đạo hiếu.

Than ôi! Thời gian dễ trôi qua, cha mẹ khó quên lãng. Còn song thân ở nhà cũng như chư Phật tại thế; dùng hạnh hiếu để báo đáp ân đức của song thân, hoàn thành trọn vẹn công phu niệm Phật. Thế nên biết, cha mẹ vui vẻ thì chư Phật vui vẻ, tâm này thanh tịnh thì cõi Phật thanh tịnh.

Như thế, thật đáng gọi là:

Vẻ quê không núi non cách trở,

Ánh trăng xuyên nước đẹp vô ngần.

(trích: Liên Tông Bảo Giám

Đại Sư Ưu Đàm – Thích Minh Thành dịch)

*Cổ nhân đã cho biết: “Muôn việc lành hiếu thuận đứng đầu”.

Con người sở dĩ được xem là loài động vật cao cấp có tánh linh hơn hết, hơn các động vật khác ở chỗ có “Hiếu Đạo”, tức là có lòng biết ân và có hành động báo đáp ân đức nghĩa tình trong cuộc sống. Một khi hiếu đạo mất đi rồi, tức cái gốc làm người sẽ không còn.

“Phản bộ”“quỵ nhũ” là hai thành ngữ người xưa thường dùng. Trong các loài vật, khi con quạ đến lúc già không thể tự tìm thức ăn cho mình được nữa, thì quạ con tha mồi về đút cho mẹ của nó; hay dê con trước khi bú, nó phải quỳ trước mẹ của mình.

Hai hình ảnh trên là hai hình ảnh tiêu biểu về hiếu kính, mà  cổ nhân luôn nhắc nhở chúng ta rằng: Nếu hiếu thảo không có thì chúng ta không sánh bằng loài vật, hay nói cách khác là chúng ta không xứng đáng làm người vậy!

Lễ tháp cứu mẹ

Pháp sư Tử Lân, chùa Đại An Quốc, nhà Đường, cha họ Phạm, mẹ họ Vương, mẹ Ngài không tin Tam Bảo, không cho Ngài xuất gia, Ngài phải trốn đi tu, xuất gia với luật sư Quảng Tu ở chùa Quảng Ái, Đông Đô. Một hôm nọ bỗng nhớ về cha mẹ, Ngài liền về thăm song thân. Lúc bấy giờ cha Ngài mắt đã bị mù, còn mẹ thì đã mất ba năm rồi. Ngài lập tức đến miếu Đại đế ở Đông Nhạc tụng kinh Pháp Hoa, thề rằng phải gặp Nhạc Đế, để biết mẹ mình chết sinh về phương nào. Đêm ấy, mộng thấy Nhạc Đế báo mộng cho thầy rằng:

– Mẹ thầy chết đọa địa ngục, hiện đang chịu các khổ sở.

Ngài nghe xong khóc lóc xin Nhạc Đế bày cách giải thoát nỗi khổ cho mẹ. Nhạc Đế bảo:

– Thầy có thể đến chùa A Dục Vương ở Mậu Sơn, lễ xá lợi Phật thì cứu được mẹ thầy.

Ngài lập tức đến chùa A Dục Vương ở Mậu Sơn, lạy được 40.000 lạy, bỗng có tiếng gọi tên Ngài, ngẩng đầu nhìn lên, thấy mẹ đang nhìn Ngài cám ơn:

– Nhờ sức công đức lạy xá lợi Phật của con, mẹ đã được sanh lên cõi trời Đao lợi.

Nói xong liền biến mất.

Lời bàn: Lòng hiếu thuận của Mục Liên cảm động Đức Phật, dạy Ngài vào ngày rằm tháng bảy, ngày Phật hoan hỷ cúng tăng cứu mẹ; lòng hiếu của pháp sư Tử Lân cảm động thần minh, dạy Ngài lạy xá lợi cứu mẹ. Lòng chí hiếu đến được với Thần Minh, đâu thể không tin?

(Trích Gương Sáng Người Xuất Gia – 2006, trang 78

Đại Sư Liên Trì – Chơn An dịch)

Niệm Phật cứu mẹ

Thiền sư Tông Trách sống vào đời Tống, người Tương Dương, tỉnh Hồ Bắc, từ nhỏ đã sớm mồ côi cha. Mẹ thầy là Trần thị liền đưa thầy về nương náu với người cậu, nuôi dưỡng lớn khôn. Thuở thiếu thời thầy thông suốt sách Nho, đọc hiểu khắp sách vở thế gian.

Năm lên 29 tuổi, thầy nhận ra được sự vô thường của kiếp người, liền lập chí nghiên cứu và thực hành Phật Pháp. Từ đó tìm đến thiền sư Viên Thông Pháp Tú ở chùa Trường Lô thuộc Trân Châu xin xuất gia tu học, tham cứu thông suốt nghĩa lý huyền diệu, thấu rõ tông yếu.

Sau đó, thầy nghĩ đến ân sâu nuôi dưỡng dạy dỗ của mẹ, muốn tìm cách báo đáp, liền đón mẹ về cùng ở trong chùa, sửa dọn một căn phòng để bà ở về phía Đông phương trượng, sớm chiều đều sang hầu hạ phụng dưỡng. Ngoài việc lo cung phụng vật chất đầy đủ ra, thầy còn khẩn thiết khuyên nhủ, hướng dẫn mẹ chuyên tâm niệm Phật cầu vãng sinh về Tây Phương Tịnh Độ. Mẹ thầy tin nhận lời thầy, hết lòng tu tập theo pháp môn Tịnh Độ.

Bảy năm sau, mẹ thầy an nhiên vãng sinh trong tiếng niệm Phật. Thiền sư còn có trước tác “Khuyến Hiếu Văn” lưu truyền hậu thế. Toàn bộ bài văn có 120 thiên; 100 thiên đầu nói rõ cách phụng dưỡng cha mẹ bằng vật chất; 20 thiên sau hướng dẫn việc nên khuyên cha mẹ thực hành pháp môn Tịnh Độ, cầu được vãng sinh Tây Phương Cực Lạc. Cách báo hiếu trọn vẹn như Ngài dạy trong văn này chính là ý nghĩa báo hiếu mà tất cả những người con Phật đều phải noi theo.

(trích: Tịnh Độ Thánh Hiền Lục)

Những người con hiếu thảo

Câu chuyện có thật dưới đây vẫn được lưu truyền qua nhiều thế hệ như một tấm gương sáng về lòng hiếu thảo của con cái đối với bậc sinh thành của mình.

Vào triều Thanh, tại huyện Sùng Minh, tỉnh Giang Tô có người họ Ngô sinh được bốn đứa con trai. Vì gia đình quá nghèo khổ không đủ sức nuôi dưỡng nên đành phải cho đi làm tôi tớ cho một người nhà giàu.

Mặc dù vậy, nhờ siêng năng cần mẫn nên khi lớn lên thì cả 4 người con trai ấy đều dần dần thoát khỏi cảnh tôi tớ và tự lập thân mình. Sau khi cưới vợ, họ xây dựng được một căn nhà lớn và cả đại gia đình cùng chung sống.

Lúc đầu, họ bàn nhau rằng bốn anh em phải thay phiên nhau phụng dưỡng cha mẹ, mỗi người lo trong một tháng. Nhưng có một người con dâu lại nói:

– Nếu mỗi gia đình phụng dưỡng trong một tháng, hóa ra phải chờ đến 3 tháng sau mới lại có cơ hội hầu hạ phụng dưỡng cha mẹ. Như vậy tình cảm đối với cha mẹ chẳng phải sẽ phát sinh khoảng cách hay sao? Chi bằng mỗi người chỉ lo phụng dưỡng trong một ngày sẽ tốt hơn!

Nhưng rồi những người con dâu khác cũng không chịu. Một người nói:

– Nếu mỗi người phụng dưỡng một ngày, như vậy cũng phải đến 3 ngày sau mới đến lượt mình, cũng là quá lâu. Thôi thì mỗi người hãy phụng dưỡng cha mẹ trong một bữa mà thôi.

Và tất cả mọi người đồng ý thỏa thuận với nhau từ đó về sau cứ mỗi người lo việc phụng dưỡng chu đáo cho cha mẹ một bữa ăn trong ngày, sau đó đến người khác, cứ luân phiên như vậy.

Thật là kỳ thú, cái vòng xoay luân phiên phụng dưỡng cha mẹ như thế kéo dài qua nhiều năm mà vẫn trước sau như một, không có ai trong bọn họ tỏ ra chán nản hay mệt mỏi. Cho đến khi Ngô lão ông đã được 99 tuổi, lão bà cũng đã 97 tuổi, con trai trưởng 77 tuổi, con trai thứ 76 tuổi, còn con trai thứ ba và tư cũng đều bạc tóc, mà cả đại gia đình họ vẫn sống chung ấm êm hòa thuận.

Gia đình họ Ngô này cả năm thế hệ cùng sống chung dưới một mái nhà, cháu chắt đông đúc, cả thảy đến hơn 20 người, thật là hiếm có trên đời. Đó đều là do nơi lòng hiếu thuận của những người con và dâu của Ngô lão, tất cả đều đồng lòng lo việc đáp đền công ơn cha mẹ. Thật đáng kính phục lắm thay, rất đáng làm tấm gương sáng để mọi người cùng noi theo.

(trích: Ngư Dương dạ đàm)

Hiếu thảo là cái gốc làm người

Mẫn Tử Khiên là người nước Lỗ thời Xuân Thu (770TCN – 476TCN), là học trò của Khổng Tử, rất nổi tiếng vì đức hạnh hơn người. Khổng Tử từng ngợi khen ông rằng: “Mẫn Tử Khiên, thật hiếu thảo lắm!”. Trong dân gian từ xưa đến nay vẫn lưu truyền câu chuyện Ðơn Y Thuận Mẫu” (Tạm dịch: Quần áo đơn sơ hiếu thuận mẹ) như một tấm gương mẫu mực về lòng hiếu thảo.

Mẹ Mẫn Tử Khiên chết sớm. Cha đi bước nữa và sinh thêm được hai người con trai. Tử Khiên kính trọng và chăm sóc cha cùng người mẹ kế, nhưng mẹ kế không thương yêu ông, còn thường xuyên ngược đãi. Mùa đông rét mướt, bà ta cho hai người con trai mặc áo bông dày ấm áp, còn Tử Khiên chỉ được mặc mỗi chiếc áo khoác làm bằng hoa lau vốn không cách nào giữ ấm được.

Một ngày đông nọ, cha có việc đi ra ngoài, sai Tử Khiên kéo xe. Nhưng vì rét run, tay Tử Khiên không cầm nổi dây và để xe bị ngã. Cha ông rất bực mình, trách mắng và lấy roi đánh khiến chiếc áo khoác bị rách, hoa lau bên trong bay ra. Khi đó người cha mới biết rằng Tử Khiên đã bị mẹ kế ngược đãi. Cha ông nổi giận quay về nhà, muốn đuổi người mẹ kế đi. Mẫn Tử Khiên liền quỳ xuống cầu xin cha tha thứ cho kế mẫu, khóc và nói: “Mẹ ở lại chỉ mình con chịu lạnh, mẹ đi rồi cả ba đứa rét sương”. Người cha vô cùng cảm động và theo lời thỉnh cầu của ông.

Người mẹ kế sau khi biết chuyện đã hết sức hối hận và cảm động, thế là từ đó thương yêu Tử Khiên như con ruột của mình.

Có thơ khen rằng:

Mẫn Thị hữu hiền lang

Hà tằng oán vãn nương

Phụ tiền lưu mẫu tại

Tam tử miễn phong sương

Có nghĩa là:

Họ Mẫn có con hiền

Chẳng hề oán kế mẫu

Xin cha, mẹ ở lại

Ba trẻ miễn gió sương

Văn hóa Đông Phương rất chú trọng tu dưỡng đạo đức, một trong những giá trị của đạo đức là “Nhẫn”, chẳng thế mà trong dân gian vẫn lưu truyền câu thơ : “Nhẫn một chút sóng yên gió lặng – Lùi một bước biển rộng trời cao”. Câu chuyện cổ về Mẫn Tử Khiên – một người con chí đạo chí hiếu, cũng đồng thời là tấm gương sáng về tấm lòng thiện tâm nhẫn nhục, lấy đức báo oán, đã mãi mãi lưu truyền hậu thế.

(Nguồn: trithucvn.net)

Lòng biết ơn khiến thần minh cảm động

Hoàng Chung sống vào triều Minh, là người châu Diên Khánh, từ lúc 4 tuổi đã mồ côi cha mẹ, được bác trai nuôi dưỡng. Người Bác trai này gia cảnh bần cùng, hai vợ chồng mỗi ngày ăn cám bã, khi nào mà có được một chút cơm cũng đều nhường cho Hoàng Chung ăn. Hoàng Chung rất cảm kích ân đức của hai bác mình. Khi ông mới 6 tuổi đã khóc nói với bác trai, muốn được học hành để tương lai sẽ thành tài, báo đáp ơn hai bác. Nhưng mà người bác rất nghèo, không thể có tiền cho cậu đến trường.

Có một ngày, châu quan Thái công nằm mộng thấy thần Thành Hoàng nói với ông:

– Trong quận của ngươi quản có một cậu bé, ngày sau sẽ làm Thuận Thiên Phủ Doãn, hiện đang bần cùng không thể đến trường, nhưng mà cậu bé này có một thiện tâm muốn báo đáp ân đức nuôi dưỡng của bác mình, đã làm cảm động Thần Minh. Ngươi hiện tại có thể giúp đỡ cậu bé. Chính là cậu bé ngày mai vào trong miếu chơi đùa dẫm qua đầu vai của ta.

Ngày hôm sau, châu quan đi vào miếu, ngắm nhìn tượng thần Thành Hoàng, thấy hoàn toàn giống với giấc mơ đêm qua. Hơn nữa trên hai vai trái phải quả nhiên có dấu vết đứa trẻ nhỏ dẫm qua. Châu quan cho gọi bọn nhỏ chơi đùa trong miếu lại, mới biết được là do Hoàng Chung gây nên, hỏi cậu bé vì sao lại dẫm lên vai tượng, cậu nói là muốn đứng lên tìm tổ chim. Sau đó hỏi cậu chuyện trong nhà ra sao, mới biết gia cảnh cậu bé bần cùng.

Từ đó, châu quan mỗi tháng cấp cho một thạch gạo, để cho người bác trai nuôi dưỡng Hoàng Chung. Hơn nữa còn tìm một người thầy giáo, cho cậu bé đi học, học phí đều lo trả hết. Ba năm sau châu quan bãi chức phải rời đi, lúc này Hoàng Chung mới 10 tuổi, đã có thể viết thơ làm văn, nhưng châu quan cũng chưa từng tiết lộ lời tiên đoán trong mộng với bất kỳ ai.

Hoàng Chung năm 18 tuổi thì được quan địa phương tiến cử vào kinh thành dự thi, sau đó thi đậu tiến sĩ. Châu quan Thái Công sau khi từ quan trở về, đặc biệt đến gặp Hoàng Chung, lúc này mới kể lại giấc mộng mình gặp phải. Hoàng Chung rất biết ơn, tiếp đãi ông rất cẩn thận. Về sau quả nhiên Hoàng Chung làm quan đến chức Thuận Thiên Phủ Doãn, ông cũng phụng dưỡng hai người bác mình phi thường kính cẩn.

 (Theo tientri.net)

b/- Phụng sự sư trưởng  (kính thờ thầy Tổ).

Chúng ta thường xưng Đức Phật Thích Ca là “Bổn Sư”. Danh từ “Bổn Sư” có nghĩa là ông thầy gốc, ông thầy căn bản. Phụng sự sư trưởng là vâng lời thầy dạy. Ông thầy đệ nhất của chúng ta là ‘Bổn Sư Thích Ca Mâu Ni Phật’. Ngài dạy chúng ta học theo A Di Ðà Phật, cho nên A Di Ðà Phật cũng là ‘Bổn sư’ của chúng ta! Lời của Phật và chư Tổ dạy thế nào, chúng ta cố gắng làm theo thế nấy.

*Con người nhờ tổ tiên cha mẹ sanh ra nuôi dưỡng, nhờ đất nước tạo kiếp sống cho mình, ấy về phương diện vật chất.

Về phương diện tinh thần, con người cần nhớ đến sự giúp đỡ của Phật, Pháp, Tăng khai mở trí óc cho sáng suốt. Phật là đấng toàn thiện, toàn mỹ, bác ái vô cùng, quyết cứu vớt sanh linh ra khỏi vòng trầm luân khổ hải. Thế nên Ngài mới truyền lại giáo pháp, tức là những lời chỉ dạy cho các chư tăng, đặng đem nền Đạo cả của Ngài ban bố khắp trần thế. Các chư tăng chẳng ai lạ hơn là các đại đệ tử của Đức Phật vậy. Bởi vì Đức Phật luôn luôn chỉ dẫn và cứu vớt quần sanh thoát miền mê khổ, nên ta phải kính trọng Phật, hãy tin tưởng và tín nhiệm vào sự nghiệp cứu đời của Ngài, làm theo những điều chỉ dạy do các chư tăng cho biết. Tổ tiên ta đã hiểu rõ sự nhiệm mầu, lòng quảng ái của Phật đối với chúng sanh, đã kính trọng sùng bái Ngài, đã hành động đúng theo khuôn khổ Ngài đã dạy và đã vun trồng bồi đắp cho nền Đạo được phát triển thêm ra, xây dựng một tòa lâu đài Đạo hạnh vô thượng vô song rọi truyền mãi mãi với hậu thế.

Nên bổn phận chúng ta phải noi theo chí đức của tiền nhân hầu làm sao cho trí tuệ minh mẫn đặng đi đến con đường giải thoát, dẫn dắt giùm những kẻ sa cơ, và nhứt là phải tiếp tục khai thông nền Đạo đức đặng cái tinh thần từ bi bác ái được gieo rải khắp nơi nơi trong bá tánh. Như thế mới chẳng phụ công trình vĩ đại của Đức Phật và của tiền nhân để lại, và không đắc tội với kẻ đời sau vậy.

(SGTVTB 2013, trang 175)

Lý do “Phụng sự sư trưởng”:

– Người xuất gia coi Sư trưởng như cha và mẹ, người đã sinh cho ta giới thân và tuệ mạng. Vì vậy người xuất gia lấy việc phụng sự Sư trưởng là việc làm đầu tiên trên lộ trình tu học Phật Pháp. Phải thực hành đầy đủ các tâm cung kính, vâng lời và biết ân đối với Sư trưởng để thành tựu hạnh hiếu, phải tinh tấn tu học để đền ơn Sư trưởng.

– Đối với người Phật tử tại gia phải thực hành tâm cung kính vâng lời và biết ơn, nhất tâm tu tập theo sự chỉ dạy của Thầy và làm tròn bổn phận của người Phật tử tại gia. Tùy phần, tùy sức cúng dường bốn thứ: thức ăn, y phục, mùng mềm và thuốc men.

Binh nạn không lìa thầy

Thiền sư Ấn Giản, triều Nguyên, người Ninh Viễn, Sơn Tây, tám tuổi đã bái thiền sư Quán Chiểu làm thầy, năm lên mười tám tuổi, quân Nguyên đánh vào thành Ninh Viễn, mọi người đều trốn chạy cả, riêng Ấn Giản vẫn hầu hạ thầy, không có chút gì tỏ ý bỏ chạy, Thiền sư Quán Chiểu nói với ngài:

– Thầy đã già, không còn làm được gì nữa cả, con còn trẻ, còn có nhiều việc phải làm, ở lại với thầy để làm gì, con chạy đi!

Ngài khóc nói:

– Nhân quả đành rành, sống chết có mạng, con làm sao có thể bỏ thầy, ham sống sợ chết.

Ngày hôm sau thành Ninh Viễn đã bị công phá, sử công Thiên Trạch quân Nguyên hỏi Ấn Giản:

– Ông là người gì?

– Người xuất gia.

– Ông ăn thịt không?

– Thịt gì?

– Thịt người.

Ấn Giản đáp:

– Loài súc sanh hung ác như hổ báo mà còn không ăn thịt đồng loại, huống gì con người?

Sử nghe xong rất tán thưởng, nhân đó phóng thích Ngài.

(Trích Gương Sáng Người Xuất Gia – 2006, trang 69

Đại Sư Liên Trì – Chơn An dịch)

Lễ sám cho Thầy

Pháp sư Trúc Pháp Quảng ở núi Thế Thanh, nhà Tấn, người Hạ Bì, mồ côi mẹ từ nhỏ, cha lấy vợ kế, sau cha cũng qua đời, ngài thờ phụng mẹ kế rất hiếu thuận, hiếu thuận đến có danh tiếng.

Sau ngài xuất gia với pháp sư Đàm Ấn. Có một lần thầy ngài mắc trọng bịnh, thập tử nhất sinh, ngài đã liên tục bảy ngày đêm kiền thành lễ sám, hồi hướng cho thầy. Đến ngày thứ bảy, bỗng nhiên thấy tia sáng năm màu chiếu sáng gian phòng. Sư phụ ngài có cảm giác như có ai lấy tay vuốt ve thân mình, sau đó lành bịnh.

(Trích Gương Sáng Người Xuất Gia – 2006, trang 60

Đại Sư Liên Trì – Chơn An dịch)

*************

c/- Từ tâm bất sát  (từ tâm không sát hại).

Từ tâm là lòng thương yêu hết thảy mọi loài chúng sanh, lòng thương yêu đó rộng lớn không có biên giới, không có điều kiện, không phân biệt chủng loại, giai cấp, sắc da, màu tóc… Lòng thương yêu đó rất chân thành, rất hòa dịu tươi mát, lúc nào cũng mong ước tất cả mọi loài chúng sanh đều được sống thật sự an lạc hạnh phúc, không  một tí xíu nào khổ đau cả!

Bất cứ mỗi chúng sanh nào cũng yêu quý mạng sống của chính mình, cũng muốn được bảo vệ an toàn một cách triệt để. Theo luật nhân quả báo ứng thì chém một dao phải trả một dao, giết  một mạng phải đền một mạng. Do đó không sát hại sinh mệnh của mọi chúng sanh là một chân lý, nếu mình muốn có cuộc sống bình an thì nhất định cần phải tôn trọng sinh mệnh của mọi loài chúng sanh.

Từ tâm không sát hại là nền tảng căn bản của sự tu, thế nên Ngài Liên Trì Đại sư là vị Tổ thứ tám của Tịnh Độ tông đã khẳng định:

“Nhân-Lễ-Nghĩa-Trí-Tín” là năm điều kiện cơ bản làm người, mà “Nhân” là đứng đầu; “Từ bi hỷ xã” là bốn tâm vô lượng của người tu hành, học Phật, thì ‘Tâm từ’ đứng đầu. Nếu như không có tâm từ, thì dẫu là bác học, đa văn, chứng được thần thông tam muội, bất quá chỉ là ma quỷ mà thôi!

Đối với người tại gia cư sĩ, do làm ăn sinh sống mà có những nghề nghiệp liên quan đến sát hại sanh mạng vật loại, nếu chưa thể đổi nghề được thì cũng phải khởi tâm thương xót đến chúng, đừng vì ham lợi mà quên sự đau đớn của chúng; chúng cũng có quyến thuộc, cũng có nỗi khổ khi phải xa lìa nhau…

Thợ kim hoàn, Tỳ kheo và con ngỗng

Trưởng lão Tissa đã  từng thọ thực tại nhà một người thợ kim hoàn hình như suốt mười hai năm. Ông bà chủ nhà phục vụ Ngài một cách tận tình, xem đó như bổn phận con cái đối với bậc cha mẹ của mình.

Một hôm thợ kim hoàn đang ngồi chặt thịt, có Trưởng lão ngồi đối diện. Đúng lúc vua Ba Tư Nặc gởi đến ông một viên ngọc rất quý, bảo ông mài sạch, dùi lỗ xong trả vua. Vừa mới nhận xong ông cầm lấy máu dính lây sang viên ngọc. Ông bèn đi vào phòng trong rửa tay.

Trong nhà ông có nuôi một con ngỗng, rất cưng quí. Con ngỗng từ phía sau đáp xuống và ngửi thấy mùi máu nó cho viên ngọc là miếng thịt nên nuốt chửng trước mắt Trưởng lão. Khi thợ kim hoàn quay trở ra không thấy viên ngọc đâu, bèn hỏi vợ con, nhưng không ai biết. Ông nghi là Trưởng lão đã lấy. Bà vợ không đồng ý vì đã bao năm lui tới, Trưởng lão chưa hề sai sót điều gì. Nhưng ông bối rối quá, không biết làm sao nên cũng phải hỏi Trưởng lão, và xin Ngài trả lại viên ngọc. Trưởng lão xác nhận rằng mình không lấy, nhưng lúc đó chỉ có hai người, nên thợ kim hoàn cứ đinh ninh ngoài Trưởng lão không ai có thể lấy viên ngọc được. Vì trị giá viên ngọc quá lớn, mọi người trong nhà dù có làm nô lệ cũng không trả nổi, nên ông quyết định tra tấn Trưởng lão. Ông lấy y quấn quanh đầu Ngài và lấy gậy đập vào đầu Ngài. Máu tuôn xối xả từ đầu, tai, mũi và mắt của Ngài. Đau quá Ngài ngã lăn xuống đất nằm bất tỉnh. Thợ kim hoàn  nghỉ tay đi uống nước. Con ngỗng đánh hơi máu, đến sát Trưởng lão liếm máu. Thợ kim hoàn khi quay lại trong cơn tức giận, thấy thế đập cho ngỗng một gậy, con ngỗng liền lăn ra chết tốt. Một lát sau, trưởng lão thấy vậy bảo nới y quanh đầu Ngài ra, hỏi thăm con ngỗng thế nào, và khi biết chắc nó đã chết, Ngài mới cho biết chính con ngỗng đã nuốt viên ngọc. Nếu con ngỗng không chết, thà Ngài chết hơn là nói sự thật. Khi mổ bụng ngỗng ra, thấy viên ngọc, thợ kim hoàn bủn rủn chân tay, tim ông đập loạn lên, ông gieo mình xuống chân Trưởng lão van xin:

– Hãy tha thứ cho con, Tôn giả. Vì vô minh con đã làm như thế!

Trưởng lão bình thản đáp:

– Cư sĩ, tất cả không phải tại ông, cũng không phải tại tôi, chỉ có luân hồi chịu trách nhiệm việc này. Tôi tha thứ cho ông.

– Bạch Tôn giả, nếu thật sự Ngài tha thứ cho con, một lần nữa con xin Ngài hãy thường xuyên đến nhà và nhận cúng dường từ chính tay con.

Vua Ba Tư Nặc hay tin liền sai người khiêng trưởng lão vào cung, đồng thời ra lệnh cho quan ngự y chăm sóc Ngài. Trong đêm ấy Ngài chứng A La Hán quả. Nhưng vì thương tích quá nặng sức lực không sao phục hồi được, nên hôm sau Ngài nhập Niết Bàn.

(trích: Tích Truyện Pháp Cú)

Cắt tai cứu gà rừng

Pháp sư Trí Thuấn, núi Chướng Hồng, thời nhà Tùy, người Triệu Châu. Một lần đi du sơn, khi ngang qua núi Hứa, thấy cảnh trí nên thơ nên dựng am trụ ở đây. Một hôm nọ có người thợ săn đuổi theo con gà rừng, con gà bay vào thất sư, Ngài tha thiết khuyên người thợ săn tha mạng con gà, nhưng người thợ săn không nghe, Ngài lập tức cắt tai mình đổi mạng con gà, người thợ săn thấy vậy thất kinh, cảm nhận tội lỗi của mình, bỏ cung tên, không làm nghề thợ săn nữa.

Việc này cảm động người cả mấy thôn trang, tự động bỏ nghề săn bắn. Pháp sư mỗi lần thấy người nghèo đói đều rơi lệ, cởi áo đang mặc trên thân cho họ mặc cho ấm, chia bớt phần ăn của mình cho họ đỡ đói, như vậy Ngài bố thí khắp nơi.

Lời bàn: Mạnh Tử nói: “Làm việc với tâm chí thành, không ai không bị cảm động.” Từ đức hạnh của pháp sư Trí Thuấn, đã chứng minh câu này.

(Trích Gương Sáng Người Xuất Gia – 2006, trang 106

Đại Sư Liên Trì – Chơn An dịch)

Thương con đứt ruột

Đời nhà Tấn, Hứa Chân Quân thuở trẻ thường ưa thích săn bắn và lấy đó làm vui. Một hôm, anh đi vào rừng thấy một con hươu con, liền giương cung bắn chết. Hươu mẹ tự nhiên ở trong lùm cây gần đó chạy ra, nó không sợ người, không sợ cung tên, đến chỗ hươu con âu yếm liếm vết thương cho con, nước mắt tuôn rơi, rồi ngã lăn ra chết.
Hứa Chân Quân tự nghĩ: “Thật lạ, tất cả thú vật thấy người, thấy cung tên đều hoảng sợ bỏ chạy, tại sao con hươu này không sợ và tại sao nó lại ngã lăn ra chết như vậy?”.
Hứa Chân Quân đem cả hai con hươu về, trong lòng cứ thắc mắc mãi về cái chết của con hươu mẹ. Khi làm thịt, mổ bụng hươu con không thấy gì lạ, lúc mổ bụng hươu mẹ thấy đứt từng khúc ruột. Anh liền bật khóc, tỉnh ngộ, động mối thương tâm. Than rằng: “Mình thật là ngu si không bằng loài thú. Con hươu này cũng chỉ vì thương con mà không sợ chết, đau đớn quá đến nỗi đứt từng khúc ruột như thế này. Vậy mà từ xưa đến nay người ta vẫn tự hào là khôn hơn loài thú vật, có tình thương hơn thú vật. Nếu con mình chết mình đau khổ như thế nào, thì con nó chết nó cũng đau khổ như thế đó. Tại sao con người vì miếng ăn ngon mà giết hại thú vật? Thật là bất nhân, không tôn trọng sự sống”.
Hứa Chân Quân vô cùng hối hận, bèn lấy cung tên bẻ gãy vất bỏ, nguyện không bao giờ săn bắn thú vật nữa. Về sau được làm quan, làm việc một thời gian, Hứa Chân Quân từ chức, vào núi chuyên tâm tu hành, cho đến ngày công viên quả mãn. Vua nhà Tống xét đức độ tu hành và công lao cứu nhân độ thế của Hứa Chân Quân, nên đã sắc phong là Thần Công Diệu Tế Chân Quân.

(Lành dữ nghiệp báo – Thích Chân Tín)

Bầy lươn xin cứu mạng

Vào khoảng năm Vạn Lịch đời nhà Minh, tại Hồ Thư Hàng Châu, có một gia đình phú hộ họ Vu, bình nhật không sát sinh mà thích bố thí, làm nhiều việc thiện.

Năm ấy có một nhà láng giềng bị kẻ trộm lấy hết của cải, họ Vu liền mở hầu bao lấy tiền cứu trợ. Người đàn bà láng giếng rất cảm kích trước tấm lòng cao thượng ấy, nên một hôm đem biếu khoảng mười con lươn cho cụ bà họ Vu để dùng làm thức ăn. Nhưng gia đình họ Vu ít khi nào dám sát sinh, nên đem số lươn ấy thả vào trong một cái chum to, rồi lấy đồ đậy lại, chờ đem phóng sinh. Chẳng may, cả mẹ lẫn con đều quên bẵng chuyện ấy.

Trải qua thời gian khá lâu, vào một đêm nọ, lúc sắp tàn canh, bà cụ mơ thấy khoảng mười người mặc áo vàng, đầu đội mũ nhọn, đột nhiên đi vào trong phòng quỳ xuống thưa: “Xin Thái phu nhân mở lòng từ bi ban cho chúng tôi đường thoát nạn”.

Bọn mặc áo vàng ấy nói xong liền ra đi. Thái phu nhân chợt tỉnh giấc, trong lòng băn khoăn bất an, chợt nghĩ miên man mà chẳng hiểu cứu mạng sống cho những ai. Do đó, bèn mời một ông thầy bói về nhà để xem việc tốt xấu thế nào. Bốc sư bói xong một quẻ, liền bảo: “Thái phu nhân chớ nên lo lắng, quẻ này lành chứ không dữ, tại quý tôn phủ đang có những sinh mạng thỉnh cầu phu nhân phóng thích”.

Phu nhân liền ra lệnh cho người nhà tìm kiếm khắp trong nhà ngoài sân, cuối cùng mới phát hiện ra mười con lươn lớn đang rọng trong cái chum to. Số lươn này tương ứng với mười vị mặc áo vàng mà phu nhân trông thấy trong giấc mộng. Bà hoảng kinh, thất sắc nói: “Nguy thay, suýt chút nữa ta làm hại mười sinh mạng này rồi”. Lập tức bà truyền lệnh cho người nhà đem số lươn ấy thả vào trong hồ. Từ đó về sau, con cháu nhà họ Vu ngày càng thịnh vượng.

(Sự tích cứu vật phóng sanh – HT Tịnh Không)

Bát canh chiếc đũa ngọc

Ngày xưa tại Ôn Châu tỉnh Tích Giang bên Trung Quốc có một thanh niên tên là Tiêu Chấn. Ðêm nọ, anh ta nằm mộng thấy một vị Thần mặc áo giáp vàng đến nói với anh:

– Này chú bé, tuổi thọ của con chỉ có mười tám năm mà thôi.

Khi thức giấc, Tiêu Chấn cảm thấy sợ hãi. Anh ta rất buồn và lo lắng cho mình sẽ chết sớm.

Thân phụ anh vốn là một vị quan thanh liêm ở triều đình. Ông được thăng chức và đổi đến trấn nhậm tại tỉnh xa Tứ Xuyên. Tiêu Chấn không muốn rời nhà đi theo cha, vì anh ta nghĩ rằng mình không còn sống được bao lâu. Thân phụ anh không biết gì về giấc mơ của Tiêu Chấn, cho nên ông lại muốn anh ta theo hầu bên mình.

Một ngày sau khi thân phụ anh đến nhiệm sở nhận chức vụ mới, thì ông được các quan ở tỉnh Tứ Xuyên mở tiệc thiết đãi. Và dĩ nhiên Tiêu Chấn cũng bị bắt buộc đến tham dự. Theo tục lệ của tỉnh Tứ Xuyên, hễ sau ba tuần thưởng thức rượu ngon vật lạ thì nhà bếp sẽ dâng lên một món ăn đặc biệt gọi là “Bát Canh Chiếc Ðũa Ngọc”.

Phương pháp nấu tô canh này rất là tàn nhẫn. Người ta nung chiếc đũa sắt nóng đỏ rồi đặt nó dưới vú con bò cái. Sữa nơi vú chảy tràn ra trên chiếc đũa. Khi người đầu bếp lấy chiếc đũa ra trông nó giống như ngọc thạch. Bát canh nấu với sữa đó, trở thành một món ăn tuyệt hảo.

Trong lúc chờ đợi buổi tiệc bắt đầu, bất ngờ Tiêu Chấn đi xuống nhà bếp. Anh thấy con bò bị trói nơi cây cọc, và chiếc đũa sắt được nung trong lò than đỏ. Anh ta liền hỏi người đầu bếp và được ông ta trình bày cặn kẽ cách thức sửa soạn món ăn tàn ác đó. Nghe vậy, Tiêu Chấn hết sức kinh ngạc liền đi đến gặp thân phụ nài nỉ ông bảo người đầu bếp hãy ngưng không nấu thực đơn ấy. Anh nói:

– Người ta đem chiếc đũa sắt nóng đỏ nung vào vú con bò để làm thành món ăn tuyệt hảo ấy; như thế chắc con bò sẽ đau đớn vô cùng! Vậy xin thân phụ ra lệnh đình chỉ việc chế biến một thức ăn vô cùng ác đức như thế!

Thân phụ của Tiêu Chấn vốn là người nhân từ liền tức khắc bảo thay đổi món ăn khác và thả con bò ra ngay.

Mấy hôm sau, Tiêu Chấn nằm mơ thấy một vị Thần mặc áo giáp vàng đến nói với ông rằng:

– Này cậu bé, con đã làm một việc phúc đức. Do đó, con không bị chết yểu mà tương lai con sẽ làm quan đến Tể Tướng, một chức vụ cao nhất của triều đình Trung Hoa. Bởi vì con có lòng từ bi cứu sống con bò.

Quả nhiên về sau, Tiêu Chấn lớn lên thi đậu được bổ nhậm làm quan cao cấp trong triều đình và ông sống thọ đến hơn chín mươi tuổi mới qua đời.

(Lòng thương yêu sự sống –

THE LOVE of LIFE -Tác giả: G.B. Talovick –

Người dịch: HT. Thích Trí Chơn)

Món ăn Quán miết giáp – Rót nước vào mai ba ba

Ở Thượng Hải, có nhà triệu phú họ Bành, một doanh thương cự phú ở đô thị. Ông nghiên cứu được món ăn rất hấp dẫn, mệnh danh là món “quán miết giáp” (rót nước vào mai ba ba). Ông chế một chiếc nồi đất, trên vung có đục một lỗ nhỏ vừa bằng đầu con ba ba chui lọt. Rồi cho ba ba vào nồi nước đem đặt lên bếp đun. Dĩ nhiên, một lúc sau nước nóng ba ba chịu không nổi phải tìm lối thoát và nó chỉ còn một cách duy nhất là cho cổ chui ra khỏi lỗ vung nồi, nhưng thân mình thì đâu dễ gì thoát khỏi. Nước càng nóng ba ba chỉ còn biết hả miệng chờ chết, thế là nhà cự phú họ Bành đàng hoàng ngồi đổ gia vị vào miệng ba ba (dầu, hành, húng lũi, mỡ, thịt băm nhỏ…) rồi bịt kín nồi hầm nhừ thành một món ăn mà họ Bành cho là “dzách lầu” ở trên thế gian này… Họ Bành thường ăn như vậy và thường làm cả trăm con một lúc để đãi khách.

Thế nhưng “ác giả thì ác báo”. Một hôm nhà họ Bành xảy ra hỏa hoạn, lúc ấy họ Bành đang say sưa trong giấc mộng đẹp sau một đại tiệc toàn là món miết giáp. Khi phát hiện ra hỏa hoạn, họ Bành tỉnh giấc thì đã muộn, lửa cháy chung quanh, luống cuống, họ Bành tìm không ra chìa khóa cửa.

Vì là cự phú nên ông rất sợ bị bắt cóc và trộm cướp cho nên lúc nào cũng ở trong phòng kiên cố trên lầu, cửa sắt bao bọc vững chắc. Lửa cháy tứ tung kéo đến gần kề. Cùng đường họ Bành thấy còn một lối thoát duy nhất là chiếc cửa sổ, ông liền chui đầu qua song sắt, nhưng khốn nỗi thân mình to béo với cái bụng nước lèo không thể lọt qua. Lúc ấy xe cứu hỏa tới, vì đầy khói nên không thấy họ Bành, cứ phun nước vào mặt mũi làm ông chết ngạt, đồng thời trong phòng lửa cháy dần dần thui sống ông trong thật thê thảm. Nhìn cảnh ấy ai cũng liên tưởng tới món miết giáp của ông. Trước kia ông hành hạ những con ba ba vô tội hết sức tàn ác, thì bây giờ ông cũng bị chết trong trường hợp y hệt như những con ba ba nạn nhân của ông. Thật là luật nhân quả có vay có trả, lúc nào cũng cân xứng.

(Nguồn : thienphatgiao.org)

*********

d/- Tu thập thiện nghiệp (tu mười nghiệp lành).

Thông thường khi nói đến mười nghiệp thì đại đa số các kinh luận đều trình bày theo thứ tự là 3 nghiệp của thân, kế tiếp 4 nghiệp của khẩu, rồi sau cùng là 3 nghiệp của ý. Riêng kinh Vô Lượng Thọ lại nêu khẩu trước tiên, rồi mới tới thân và ý nghiệp. Điều này cho biết khẩu nghiệp rất dễ tạo, vì miệng lưỡi là cầu nối liên hệ giữa người này và người khác, nên vị trí của nó rất quan trọng trong đời sống hằng ngày. Do đó mới có câu ‘tu cái miệng là tu hơn nửa đời người’

Sách xưa có câu: “phù sĩ xử thế, phủ tại khẩu trung, sở dĩ trạm thân, do kỳ ác ngôn”. Nghĩa là, xét người ở đời, búa để trong miệng, sở dĩ giết người, do lời nói ác. Cổ nhân cũng có dạy: “Bệnh tùng khẩu nhập, hoạ tùng khẩu xuất” nghĩa là: bệnh từ cái miệng do ăn uống mà đem vào; họa cũng từ cái miệng do nói chuyện thị phi mà tạo ra.

Ngoài 4 nghiệp chính ra, cái miệng còn tạo thêm nhiều nghiệp nữa như: 5/ ăn uống cầu kỳ, 6/ phê bình, khen chê, 7/ rêu rao lỗi của mọi người,… toàn là những điều tổn phước, tổn đức và tội phải đoạ vào địa ngục, cũng như làm mích lòng, gây mâu thuẩn, hận thù giết hại lẫn nhau. Do vậy kinh cũng dạy, trong sinh hoạt hằng ngày có 4 hạng người chúng ta nên tránh:

1/ Hay nói lỗi kẻ khác.

2/ Hay nói chuyện mê tín, tà kiến.

3/ Miệng tốt, bụng xấu (khẩu Phật, tâm xà).

4/ Làm ít kể nhiều.

Của cải dù to lớn như núi, nhưng cái miệng ăn lâu ngày cũng hết. Phước đức dù cực khổ gieo tạo nhiều đời, nhưng do cái miệng tạo nghiệp, phê bình, chỉ trích, nói lời ác… thì trong giây phút cũng có thể tiêu tan. Làm ơn hay bị măc oán, cũng do cái miệng nầy hay kể công, mắng nhiếc, nói sỉ nhục người.

“Thần khẩu nó hại xác phàm,

Người nào nói quá họa làm khổ thân.

Lỡ chân gượng được đỡ lên,

Lỡ miệng gây họa phải đền trả thôi”

Cái miệng nầy rất tai hại, ăn uống thì cầu kỳ muốn nuốt vào những món ngon vật lạ cho khoái khẩu, vừa hao tốn tiền của, vừa đem bệnh vào thân, vì động thực vật bây giờ sản xuất chạy theo lợi nhuận nên xử dụng hóa chất rất nhiều, nếu không biết kiêng cữ thì bệnh nan y mang vào thân rất nhanh chóng dễ dàng, để rồi tự làm khổ mình và làm khổ bao người, phải lo chạy chữa, là chuyện đương nhiên.

Ngoài ra, người xưa cũng có dạy: “Khẩu khai thần khí tán. Thiệt động thị phi sanh” tức là mở miệng nhiều lời sẽ hao tỗn thần khí, lưỡi động thường nói chuyện phải trái, hơn thua, đẹp xấu, khen chê…để rồi đi đến tranh luận, mạ lị, đả kích lẫn nhau khiến sanh ra lắm chuyện thương tâm, ngàn đời hối hận cũng chỉ vô ích muộn màng!

Đấy là chỉ nói sơ qua những điều tai hại thường xảy ra hằng ngày của cái miệng, còn lại suốt trong một đời người, do thoả thích cho cái miệng mà chúng ta đã tạo không biết bao tội lỗi. Do vậy mà Tây phương cũng có dạy: “trước khi nói phải uống lưỡi bảy lần” là vậy. Cũng có kệ rằng:

“Trăm năm vật đổi sao dời.

Một câu quý giá muôn đời còn ghi.

Mở lời trước phải xét suy.

Rằng ta cất tiếng ích chi chăng là”.

Lại có thơ:

“Lời nói đổi trắng thay đen,

Thiên đàng, điạ ngục bon chen lối vào?

Trực ngôn tâm chẳng lao xao.

Giữ tâm thiền định biết bao an lành”

(trích : Tu cái Miệng là Tu hơn nửa đời người-

Nguồn : vuonhoaphatgiao.com)

 I. –LƯỠNG THIỆT (Lưỡi đôi chiều)

Định nghĩa:

Ác nơi khẩu nhứt là Lưỡng thiệt.

Với người này dùng lời tha thiết,

Đến kẻ kia đâm thọc cho gây.

Khá chừa đi hương đảng bớt rầy,

Dùng sự thiệt giải bày tâm trí.

Người choảng nhau tại mình gia vị,

Mà cũng không hưởng được lợi danh.

Sau rõ ra chúng lại ghét ganh,

Chiêu cảm quả bất lành thêm nữa.

(Khuyến thiện – Vô Danh cư sĩ)

Lưỡng thiệt còn gọi là: ly gián ngữ, lời đòn sóc hai đầu, đâm bị thóc thọc bị gạo…

*Đứng đầu các tội ác do miệng lưỡi gây ra, ác lưỡng thiệt này đã làm duyên cớ cho những sự hiểu lầm nhau, những sự cãi vã, gây gổ sanh oán sanh thù. Sự phải của người thì bớt, sự quấy của người thì thêm, cái lưỡi đã tạo những sự chia rẽ, những cuộc phân tranh, phá tan sự đoàn kết, tình thân yêu giữa nhân loại. Nó cũng là nguồn cội của bao nhiêu bất hoà, hiềm khích.

Để giải trừ những tai vạ ấy, phải giữ cho lời nói mình được thành thật, chánh đáng, được vậy trong hương đảng mới bớt rầy rà, ngoài xã hội không điều xích mích và mình cũng không còn chịu ác cảm, tránh sự miệt khinh của kẻ khác.

(SGTVTB 2004, tr. 190)

Dẫn chứng:

Ác khẩu lưỡng thiệt

Ngày xưa có một ông trưởng giả rất giàu có, tiền muôn bạc triệu, tài sản xài suốt đời không hết, vợ lại vừa xinh đẹp vừa hiền đức, nên đã hạnh phúc ông lại càng hạnh phúc hơn. Nhưng niềm vui của ông ngắn ngủi, hạnh phúc thật vô thường, người ta chẳng thường nói “hoa không nở ba tháng, người không sướng ba năm” hay sao? Chẳng bao lâu sau, vị phú ông này từ từ bước vào hố thẳm của khổ đau. Không ai còn thấy ông với vẻ mặt hân hoan của những ngày hạnh phúc xưa nữa, tại sao vậy ? Vì đứa con trai của ông mà ra cả.

Ông lập gia đình một thời gian lâu mới sinh được một đứa con trai, ngày đứa bé ra đời ông vui mừng không kể xiết. Nhưng bất hạnh thay, con ông mới oe oe chào đời là đã mắc bệnh nặng. Theo lời thầy thuốc chẩn bệnh thì đó là những mụn nhọt độc hại mọc trên da đứa bé khiến nó khóc cả ngày, thế mà danh y nào mời đến cũng đều lắc đầu chịu thua. Vì thế mà nét mặt ông càng ngày càng ủ dột buồn rầu.

Tội nghiệp đứa bé, rất nhiều thầy thuốc đã bó tay rồi, nó chỉ còn biết đêm ngày khóc la kêu đau, cuộc sống thật là khổ sở.

Tiếng khóc gào rên rỉ của nó làm náo động tới làng xóm, nên người ta đặt tên cho nó là thằng “Khóc Gào”. Ngày qua như nước trôi, cuốn đi những năm tháng thơ ấu của Khóc Gào, chẳng bao lâu cậu đã lớn khôn, nhưng bệnh tật trên người thì vẫn chẳng hề bớt chút nào, đêm ngày cậu vẫn đau đớn, ai nghe tiếng rên khóc của cậu cũng phải buồn thương cho cậu. Gần nhà cậu có một ông hàng xóm già, nghe tiếng rên la đau đớn của Khóc Gào, trong lòng thấy bất nhẫn, bèn tìm đến nhà cậu thăm hỏi và nói với cậu rằng:

– Tôi nghe rất nhiều người về khen ngợi tán thán rằng tại tinh xá Kỳ Viên có một vị Ðại Y Vương, bệnh trên thân hoặc bệnh trong tâm của chúng ta Ngài đều có thể chữa trị được hết. Ngài có phương tiện thần thông nhiệm mầu, bệnh của cậu có trầm trọng đến đâu cũng sẽ tức khắc lành, cậu nên mau mau tìm đến Ngài cầu xin chữa bệnh.

Khóc Gào nghe người hàng xóm nói thế, vui mừng vô kể, vội mang tấm thân bệnh hoạn tìm đến tinh xá Kỳ Viên xin được gặp đức Phật.

Khi Khóc Gào nhìn thấy 32 tướng tốt, 80 vẻ đẹp và thân của Phật uy nghi sáng chói, cậu hân hoan tán thán ngay. Những đau đớn khổ não của cậu giảm thiểu đi rất nhiều, lập tức gieo năm vóc xuống đất lễ bái đức Phật.

Ðức Phật từ bi chưa từng bỏ rơi bất cứ chúng sinh bệnh khổ nào, nên khi thấy Khóc Gào tới, Ngài rất hoan hỉ, bèn tuyên thuyết cho cậu những pháp môn thù thắng có năng lực diệt trừ tất cả mọi khổ não. Khóc Gào nghe đức Phật thuyết pháp xong bèn sám hối tội lỗi. Lúc ấy nhọt độc đã hành hạ cậu trên mười năm qua lập tức tan biến, bệnh khổ của cậu hoàn toàn được tiêu trừ nên tâm cậu sinh khởi niềm cung kính hoan hỉ chân thành, cậu bèn cầu xin đức Phật cho phép cậu được xuất gia làm tỳ kheo. Cậu tu hành tinh tiến, chẳng bao lâu đắc quả A La Hán.

Các vị tỳ kheo khác thấy tình cảnh của Khóc Gào như thế, cho đó là điều rất hy hữu, bèn thỉnh Thế Tôn nói về nhân duyên khiến cho cậu phải chịu quả báo lúc trước. Ðức Phật giảng cho các đệ tử nghe rằng:

– Vô lượng kiếp về trước, ở thành Ba La Nại có hai vị phú ông nọ. Bình thường hai người đã không ưa nhau và đố kỵ nhau, nên một trong hai người đem rất nhiều vàng bạc châu báu lên dâng tặng nhà vua. Khi nhà vua nhận những vật cống hiến của ông này rồi, thì rất quý trọng ông. Vì thế khi ông này phê bình ông kia trước mặt nhà vua, nói rằng “người ấy vô cùng hiểm ác, thường dùng mưu độc ám hại tôi, xin đại vương hãy nghiêm trị người ác để bảo vệ dân lành”, vì nhà vua vốn đã nhận vật cống hiến rồi nên không còn sáng suốt nhận định, nhất nhất tin lời ông này và ra lệnh bắt giam, không đếm xỉa tới những lời biện hộ của người kia, còn đem ra tra tấn tàn khốc. Người này phải chịu tất cả những hình phạt đau đớn nhất, thương tích đầy thân như vẩy cá, phải nhờ gia đình xuất tiền chuộc tội mới thả cho ông về nhà.

Về tới nhà ông suy nghĩ không ngừng, thấy rằng con người vì có thân cho nên mới có khổ, mới bị lắm tai nhiều họa, mình và người kia không hề có oán thù chi mà họ lại có thể hại mình đến mức thân tàn ma dại như thế này. Không lâu sau, ông bỏ vào núi tu hành và thành Bích Chi Phật. Vị Bích Chi Phật phát tâm đại từ bi, sợ rằng người kia kiếp sau sẽ chịu quả báo đau khổ nên tới nhà người ấy thị hiện đủ loại thần thông, khiến người kia thấy những biến hóa bất khả tư nghì như thế, sinh tâm kính ngưỡng, lập tức thỉnh Bích Chi Phật lên tòa ngồi và chuẩn bị đủ loại thực phẩm đặc biệt để cúng dường và sám hối tội cũ của mình đối với Ngài.

Ðức Phật nói đến đây, ngừng một lúc rồi nói tiếp :

– Các ông phải biết cái người sàm tấu với vua chính là tỳ kheo Khóc Gào đã chịu khổ trong kiếp này. Sau, nhờ ân huệ của Bích Chi Phật, sám hối tội lỗi cũ, và nhờ công đức thành kính quy y Tam Bảo nên ngày nay được Như Lai cứu độ, mau đắc quả thánh.

Ðừng nghĩ rằng những lời sàm tấu nói ra mà không ai biết. Nghiệp tội không trốn được, dẫu trong đường tơ kẽ tóc. Nhưng đã phạm tội như thế rồi mà biết sám hối thì có thể được cứu độ.

(Truyện Cổ Phật Giáo – Thích Minh Chiếu sưu tập)

Đòn ghen kinh người của nàng Trịnh Tụ

Trong lịch sử các triều đại, các mỹ nhân, phi tần trong hậu cung có vô vàn cách ghen tuông. Có thể nói, đòn ghen của nàng Trịnh Tụ là vô cùng “thâm hậu”, có một không hai.

Sở Hoài vương (trị vì: 328 TCN-299 TCN), tên thật là Hùng Hoè, là vị vua thứ 40 của nước Sở, chư hầu của nhà Chu trong lịch sử Trung Quốc. Sở Hoài Vương là ông vua đa tình nhưng rất kém về việc trị nước.

Một hôm, vua Ngụy để cầu hòa nên đã tiến cống cho Sở Hoài Vương một người con gái xinh đẹp, sắc nước hương trời. Nữ nhân ấy nết na đằm thắm ai cũng yêu mến.

Thế nhưng, Sở Hoài Vương có một người thiếp yêu tên Trịnh Tụ, nhan sắc mặn mà nhưng tính tình hung ác, hiểm độc.

Trịnh Tụ biết Sở Hoài Vương sủng ái mỹ nhân thì ghen ghét vô cùng, nhưng bề ngoài lại phải tỏ ra hiền hòa thân ái.

Trịnh Tụ thường xuyên lui tới thăm hỏi mỹ nhân, làm như chính mình cũng bị mê hoặc bởi nhan sắc mỹ nhân hiếm gặp này.

Nàng muốn ăn gì, mặc gì, đi đâu chơi, thích người hầu gì… Trịnh Tụ đều quan tâm, sắm sửa cho hết.

Sở Hoài Vương thấy thế thì khen ngợi Trịnh Tụ giống như người con có hiếu thờ cha mẹ, người bầy tôi trung thờ vua vậy.

Khi đã thân nhau như chị em, Trịnh Tụ thủ thỉ với mỹ nhân của chồng rằng:

– Vua yêu mến nhà ngươi lắm, nhưng ghét cái mũi ngươi.

Mỹ nhân thấy thế hốt hoảng hỏi rằng:

– Thế thì muội phải làm sao đây ?

Trịnh Tụ khi đó mới bày cách:

– Giá từ nay, hễ ngươi trông thấy vua, ngươi cứ che lấy cái mũi đi, thì vua yêu mến được mãi đấy.

Mỹ nhân nghe lời, từ đó cứ mỗi lần gần gũi nhà vua, nàng đều lấy tay hoặc lấy khăn che mũi lại.

Một thời gian sau vua ghé cung thăm Trịnh Tụ. Trịnh Tụ liệu chừng nhà vua tin mình, liền nói:

– Ngọc thể bệ hạ có mùi hương cao quý như thế này mà lại có người nói rằng bệ hạ hôi như chuột xạ, thế có đáng hận không ?

Sở Hoài Vương nhớ ra, nàng mỹ nhân nói chuyện với mình, thường lấy tay che mũi. Sở Hoài Vương tức giận hét vang như sư tử! Nhà vua liền truyền lệnh cho thị vệ lôi mỹ nhân ra xẻo mũi, lóc thịt hành hình cho đến chết.

Trong lịch sử Trung Hoa, các mỹ nhân, phi tần trong hậu cung có muôn hình vạn trạng cách ghen tuông. Nhưng đòn ghen như Trịnh Tụ phải nói là vô cùng “thâm hậu”, có một không hai.

Tuy nhiên, sau này, Sở Hoài Vương làm mất nước, đại bại dưới tay Tần Thủy Hoàng, số phận nàng Trịnh Tụ cũng vì thế trở nên bi thảm.

(Theo Phunutoday)

Nói Lưỡng Thiệt và quả báo nơi địa ngục Cắt Lưỡi cho đến địa ngục A Tỳ

Trong 4 tội lỗi của khẩu nghiệp, thì Nói Lưỡng Thiệt là tội nặng nhất. Người phạm phải tội này sau khi chết sẽ bị đọa vào địa ngục cắt lưỡi cho đến địa ngục A Tỳ.

Vậy nói lưỡng thiệt là gì? Nói lưỡng thiệt là nói những điều khiêu khích thị phi qua lại. Loại nghiệp này nặng hay nhẹ phải xem sự khiêu khích của quý vị ảnh hưởng sự việc nhỏ hay lớn. Thế nào là nhỏ? Thế nào là lớn?

* Nhỏ là khiêu khích hai người bất hòa. Ở trước mặt anh A thì nói xấu anh B không tốt, ở trước mặt anh B thì nói xấu anh A không tốt, khiến cho hai người họ bất hòa, dẫn đến phá nát gia đình người ta.

* Lớn là khiêu khích hai quốc gia bất hòa. Nếu hai quốc gia bất hòa thì sẽ xẩy ra chiến tranh, dẫn đến chết rất nhiều mạng người.

Trong sự khiêu khích còn có tội nghiệp càng nghiêm trọng hơn chính là phá hoại Tăng đoàn, phá hoại sự giảng Kinh thuyết Pháp, phá hoại sự tu học của người khác. Cái tội lỗi này còn nặng hơn cái tội khiêu khích hai quốc gia chiến tranh. Do nguyên nhân gì? Phật thường nói:

– Hai nước giao chiến thì chết rất nhiều người, tức là rất nhiều chúng sanh bị giết hại. Còn nếu họ khiêu khích thị phi phá hoại việc tu học của người khác, tức là họ đã đoạn tuyệt huệ mạng của chúng sanh. Cái tội đoạn tuyệt huệ mạng của người khác còn nặng hơn tội giết hại chúng sanh. Vì sao? Vì chúng sanh chết rồi còn có thể đầu thai trở lại, còn huệ mạng của một người một khi đã mất rồi thì rất khó gặp được.

Trong bài kệ khai Kinh có nói: “Trăm ngàn muôn kiếp khó gặp được.”

Trăm ngàn muôn kiếp không dễ gì gặp được cơ hội được tu hành. Nay họ khiêu khích thị phi làm cho người khác không còn tin tưởng vào vị Thầy nào đó, dẫn đến không còn muốn tiếp tục tu học nữa, quý vị nghĩ xem tội này có nặng hay không? Quý vị giết người tức giết một sanh mạng, đời sau họ lại được thân người, nhưng với một người có cơ hội học Phật, mà quý vị lại phá hoại họ, làm cho họ mất đi cơ hội trong đời được độ thoát, thì cái tội này rất nặng. Tạo tội nghiệp này, Phật tại trong Kinh có nói là đoạ địa ngục A Tỳ.

Con người thường hay vì cái lợi nhỏ trước mắt, hoặc là lúc nóng giận thì hay tạo tội nghiệp nặng như vậy. Lúc gây tạo tội nghiệp nào hay biết là mình đang mở ra con đường địa ngục cho chính mình.

Cho nên mới nói không nên tạo tội nghiệp lưỡng thiệt, cho dù chúng ta nghe người khác nói thị phi về một sự việc hay một người nào đó, chúng ta cũng không nên tuyên truyền cho mọi người biết. Có người nói với chúng ta rằng người này đối với người kia thế nào đó, chúng ta nghe rồi thì phải quên ngay không nên để trong tâm, càng không nên nói ra. Có như vậy, thì đức hạnh của mình mới được viên mãn, thiện nghiệp của mình mới được thành tựu.

Cổ nhân thường hay khuyên chúng ta:

– Nói ít một câu chuyện,

Niệm thêm một tiếng Phật.

Đánh chết ác niệm rồi,

Thì pháp thân mới sống.

(trích: Tịnh Không Pháp sư pháp ngữ)

Quả báo của lời nói, hành động Đâm Thọc Ly Gián

Xưa có một vị tỳ kheo tên Kondaahana kể từ khi vị này xuất gia, hễ thầy đi đâu thì sau lưng thầy cũng có một người phụ nữ đi theo sau, riêng thầy thì thầy không biết gì cả, nhưng ai ai cũng đều thấy.

Khi đi khất thực, những thí chủ cúng dường để vào bát thầy hai muỗng cơm, muỗng thứ nhất họ nói: Muỗng này là phần thầy, và muỗng thứ nhì là phần cô bạn của thầy.

Các vị tỳ kheo thấy như vậy đinh ninh thầy phạm giới Bất cọng trụ mới đi nói với trưởng giả Cấp Cô Ðộc và yêu cầu ông đuổi thầy tỳ kheo Kondaahana ra khỏi chùa. Ông trưởng giả không dám, chư tỳ kheo cho bà tín nữ Visakha biết, bà cũng không dám. Các thầy mới vào chầu Ðức vua Ba Tư Nặc và thuật tự sự. Ðức vua nhận lời. Chiều lại vào chùa, vua cho quan quân bao vây chánh điện, còn vua thì lên điện, thầy Kondaahana nghe ồn ào mới ra coi, thì vua thấy sau lưng thầy có một người phụ nữ, riêng thầy thì biết vua đến liền trở vào. Gặp thầy vua không đảnh lễ, nhưng vua lại không thấy hình người phụ nữ lúc ở ngoài. Vua tìm trong kẹt cửa dưới gầm giường cũng không thấy, mới hỏi:

– Bạch thầy, trẫm vừa trông thấy một người phụ nữ ở tại đây, cô ấy đâu rồi?

– Tâu Ðại vương, bần đạo không thấy.

– Chính trẫm thấy một người phụ nữ đứng sau lưng thầy.

Thầy tỳ kheo vẫn quả quyết.

– Bần đạo không biết và không thấy.

Ðức vua nghĩ:

– Chuyện này sao kỳ thế!

Vua mới nói:

– Vậy xin thầy hãy đi ra ngoài.

Khi thầy đi thì lập tức có người phụ nữ theo sau lưng. Vua trông thấy rõ rồi, mới mời thầy vào. Thầy trở vào và ngồi xuống. Khi thầy đi vào, vua trông chừng theo hình của người phụ nữ ấy, nhưng bỗng dưng lại biến mất. Vua lấy làm lạ mới hỏi:

– Bạch thầy, còn người phụ nữ ấy đâu?

– Tâu Ðại vương, bần đạo chẳng thấy người phụ nữ nào cả.

– Xin thầy thành thật nói cho trẫm rõ.

– Tâu Ðại vương, hàng đại chúng đều nói rằng có một người phụ nữ đi sau lưng bần đạo, mà bần đạo thì không thấy.

Vua mới nghĩ rằng đây là hình giả, nhưng hãy còn nghi nên lại phán rằng:

– Vậy xin mời thầy đi khỏi chỗ này lần nữa.

Thầy ra đứng ngoài thì hình người phụ nữ lại hiện ra đứng sau lưng. Ðức vua hỏi thầy vẫn trả lời như trước. Vua mới nghĩ:

– Quả thật là hình giả.

Vua mới thưa rằng:

– Bạch thầy, một khi đã có điều không được trong sạch thế này, thì không có ai trong sạch cúng dường cho thầy, vậy từ đây thầy cứ vào cung nội, trẫm xin cúng dường những vật dụng cho thầy.

Các thầy tỳ kheo mới nói với nhau rằng: Quý thầy nghĩ xem nhà vua ương hèn thái quá, chúng ta đã mời vào để xem tình tệ như thế này lại không chịu đuổi thầy tỳ kheo phá giới ấy, mà còn mời vào cung để cúng dường. Rồi các thầy mới nói với thầy Kondaahana rằng:

– Này kẻ phá giới! Nhà vua cũng là kẻ hèn như ngươi vậy.

Lúc trước thầy không có bằng cớ để đáp lại, nhưng bây giờ đã được nhà vua làm chứng nên liền trả lời rằng:

-Các người là kẻ phá giới, các người là kẻ dẫn gái đi.

Các thầy tỳ kheo mới đem chuyện ấy vào bạch với Ðức Thế Tôn.

Ðức Thế Tôn gọi thầy vào hỏi:

– Thầy có mắng các thầy tỳ kheo kia không?

Thầy bạch:

– Bạch Thế Tôn, vì các thầy ấy nói đệ tử.

Ðức Thế Tôn hỏi các thầy kia:

– Tại sao các thầy lại mắng thầy tỳ kheo này?

– Bạch Thế Tôn, vì chúng con thấy một cô phụ nữ đi theo sau lưng của thầy tỳ kheo này.

Ðức Thế Tôn mới phán hỏi thầy tỳ kheo Kondaahana rằng:

– Các thầy tỳ kheo này có thấy một người phụ nữ đi theo sau lưng ngươi, vậy tại sao ngươi lại không thấy, mà lại gây gỗ với các thầy tỳ kheo này. Quả này cũng do nơi nghiệp đê tiện của ngươi kiếp trước, vậy mà hiện nay tại sao ngươi cũng không bỏ tánh đê tiện ấy?

Lúc ấy các thầy tỳ kheo đồng bạch với Ðức Phật:

– Bạch Ðức Thế Tôn, thầy Kondaahana làm nghiệp thế nào trong quá khứ?

Ðức Thế Tôn mới dạy rằng:

– Trong thời kỳ Ðức Phật Ca Diếp, có hai vị tỳ kheo yêu thương nhau chẳng khác nào anh em cùng một cha mẹ. Thời kỳ ấy, mỗi năm chư Tăng hội làm lễ Phát Lồ một lần. Gần đến ngày Phát Lồ, hai thầy rủ nhau đi định đến nơi làm lễ Phát Lồ.

– Lúc đi giữa đường, có một vị chư thiên ở cõi trời Ðao Lợi thấy hai vị thương nhau mới nghĩ rằng: “Hai vị tỳ kheo này rất thương yêu nhau, ta có thể chia rẽ được không?”.

Trong khi đang nghĩ kế chia rẽ, thì một trong hai thầy nói rằng:

– Xin thầy vui lòng đợi tôi một chút, tôi cần đi vệ sinh.

Vị chư thiên mới đợi cho thầy tỳ kheo ấy đi vệ sinh xong, khi từ trong bụi đi ra, vị này liền hóa ra một người phụ nữ một tay nắm lấy quần, một tay vén tóc làm như mới vừa ân ái với thầy tỳ kheo ấy xong. Vị chư thiên cố ý đợi cho thầy tỳ kheo kia thấy rồi mới biến mất.

Do đó, khi thầy tỳ kheo này đến thì vị kia liền nói:

– Thầy là người phá giới.

– Thưa thầy đâu có!

Vừa rồi tôi thấy có một cô gái đi sau thầy.

– Thưa thầy chuyện này thật tôi không có.

Hai thầy cãi nhau, kết cuộc hai thầy chia đường nhau đi không bao giờ hợp nhau, vì không bằng lòng cùng nhau làm lễ Phát Lồ. Vị chư thiên thấy kết quả tai hại như vậy mới nghĩ rằng: “Ta đã làm nên tội quá đáng lắm rồi”, liền hiện xuống nói:

– Giới đức của vị tỳ kheo này vẫn trong sạch, đây là do nơi tôi muốn thử hai Ngài thôi. Xin hai Ngài cùng làm lễ Phát Lồ chung.

Chừng ấy, hai vị tỳ kheo mới chịu nghe theo và hoan hỷ cùng nhau làm lễ Phát Lồ.

Vì nghiệp đê tiện ấy, sau khi chết, vị chư thiên mới bị đọa vào địa ngục A Tỳ, thời gian nhiều kiếp, đến nay mới sanh làm Kondaahana.

Khi nhắc tiền kiếp của thầy tỳ kheo Kondaahana xong, Ðức Thế Tôn mới phán rằng:

– Ngươi vì nghiệp đê tiện ấy nên mới có chuyện phi thường như hôm nay. Thế mà ngươi vẫn giữ tánh đê tiện ấy. Ngươi không nên nói tiếng gì với các thầy tỳ kheo. Ngươi phải nín lặng như người câm, khi ngươi làm được như thế mới mong hết nghiệp và chứng đạo quả…

(Truyện Cổ Phật Giáo – Thích Minh Chiếu sưu tập)

 II. Ỷ NGÔN

Định nghĩa:

Ác thứ nhì Ỷ ngôn chất chứa,

Đợi cho người lầm lỗi xéo vày.

Của tiền nhiều tự phụ rằng hay,

Chủ ỷ thế nhiếc xài kẻ dưới.

Lắc léo chi có ba tấc lưỡi,

Quan ỷ khôn mạt sát dân ngu.

Nghèo ỷ lanh láo xược lu bù,

Ôi ! thấy thế lòng đau tợ cắt.

Khuyên bá tánh giữ gìn cho chặt,

Đừng để cho quỉ dắt đường cong.

Dùng từ ngôn nói tận đáy lòng,

Dầu trên dưới cũng không mấy khác.

Chúng vô phước đời này dốt nát,

Người khôn ngoan chỉ dẫn mới là.

Lời trang nghiêm êm ái thốt ra,

Đừng bao biếm mới là nhơn thiện”.

(Khuyến thiện – Vô Danh cư sĩ)

Ỷ ngôn:- Nói đến tội này tức là nói đến những vụ chủ ỷ quyền nhiếc xài tôi tớ, quan ỷ thế mắng chưởi dân ngu. Kẻ giàu có thường ỷ tiền bạc xài xỉ người nghèo, kẻ xảo quyệt ỷ sự khôn lanh nói những điều thất thiệt, kẻ học thức ỷ sự khôn ngoan dùng lời nói hạ nhục người dốt nát.

Hãy tránh những sự hiếp người như thế ấy, vì những kẻ dưới tay mình cũng có đầu óc, cũng biết nghĩ suy, nhưng tại họ bạc phước vô phần nên phải chịu lụy mình vậy. Nếu họ có lỗi lầm hãy dạy dỗ họ, dùng những cam ngôn mỹ từ, những lời trang nghiêm êm dịu chỉ bảo, không khá bao biếm mà mang điều tội lỗi. 

(SGTVTB 2004, tr. 190-191).

Ỷ ngôn: Cũng gọi là Ỷ ngữ, có nghĩa: Ỷ thị và thêu dệt.

Ý nói người cậy vào sự học thức, khôn lanh, tước quyền, giàu có mà nhiếc xài kẻ dưới tay, kém thế… Hoặc là dệt thêu, xảo quyệt khiến người hiểu sai sự thật, hay trau chuốc lời hát ca tình tứ làm mờ đục tâm trí kẻ khác.

Dẫn chứng:

Không nên coi thường nói đùa

Vào thời Đông Chu liệt quốc, Tống Mẫn Công có người tướng tên là Nam Cung Trường Vạn. Một hôm đi đánh nước Lỗ, Nam Cung sa cơ thất thế bị giặc bắt. Cũng chính lúc ấy, nước Tống bị thiên tai, Lỗ Trang Công không nghĩ đến thù xưa, còn sai người sang cứu giúp. Tống Mẫn công thấy thế cho sứ giả đến tạ ơn và xin tha cho Nam Cung Trường Vạn. Nam Cung được thả về nước, Tống Mẫn Công ra nói đùa:

– Trước kia ta rất coi trọng ngươi, bây giờ ngươi đã là tù nhân thì ta không còn trọng nữa đâu!

Thấy Nam Cung ngây ra, mặt đỏ tía tai, hết sức hổ thẹn, Đại phu Cừu Mục nói với Tống Mẫn Công:

– Vương công chớ nên coi thường sự đùa dỡn mà sinh ra lòng khinh nhờn hay dẫn đến sự phản nghịch.

Tống Mẫn Công trả lời:

– Ta với Nam Cung Trường Vạn rất thân thiết, khanh chớ có sợ.

Một ngày nọ, Tống Mẫn tổ chức yến tiệc và sai Trường Vạn múa kích để mua vui và hàng trăm cung nhân, quần thần đã vỗ tay khen ngợi tài năng của Vạn, nên Tống Mẫn công có ý ganh tài bèn sai sắp cờ đánh với Nam Cung Trường Vạn, nếu ai thua thì bị phạt một chén rượu lớn. Thua liền năm ván và uống liền năm chén rượu nên Vạn hơi say và xin đánh một ván cuối để gỡ lại. Tống Mẫn công lại đùa:

-Tù nhân chẳng bao giờ thắng được vua, có đánh trăm ván nữa cũng vậy thôi.
Nam Cung Trường Vạn lại bị xúc phạm rất tức giận nhưng đành giữ trong lòng. Vừa lúc đó, sứ giả đến báo tin Trang Vương nhà Chu băng hà nên Tống   Mẫn công sai người sang triều kiến. Trường Vạn lại nói rằng:

-Nghe đồn kinh đô nhà Chu rất đẹp mà tôi chưa tận mắt thấy, xin chúa công cho làm sứ giả.

Tống Mẫn công cười cợt:

-Khi nào nước Tống không còn có người thì mới đến lượt tù nhân đi sứ.
Cung nhân và quần thần cười theo khiến Vạn rất xấu hổ. Giận quá mất khôn Nam Cung Trường Vạn hét lớn:

-Ngươi đừng tưởng tù nhân thì không biết giết ngươi!

Tống Mẫn công mắng lớn bảo đã là tù nhân mà dám vô lễ. Lúc này, Trường Vạn vừa bị sỉ nhục, cơn tức đã lên đến đỉnh điểm nên đã cầm bàn cờ đánh Tống Mẫn công té xuống đất rồi bồi thêm mấy đấm chết ngay tại chỗ, rồi làm loạn.

Sự nói đùa dẫn đến nghiệp báo như thế.

*Người xưa có câu: “Thiện ý một câu ấm ba đông, lời ác lạnh người sáu tháng ròng” đủ để thấy sức mạnh của một lời nói là to lớn đến nhường nào. Đôi khi đùa cợt, phỉ báng người khác tưởng chừng như vô hại, dù chưa gây ra tác hại to lớn gì đối với người nghe nhưng đối với bản thân người nói thì đã là đang tạo nghiệp rồi.

Về phương diện nói chuyện, cả nhà Nho, nhà Đạo và nhà Phật đều nhấn mạnh vấn đề tu khẩu. Người xưa có câu: “Xuất khẩu thương nhân” (Tức là: Gây đau khổ cho người khác bằng lời nói)Câu nói ám chỉ rằng miệng nói ra những lời xằng bậy, lời ác đều sẽ làm tổn thương người khác, như vậy chính là đang tạo nghiệp. Hơn nữa, cố tình nói sai sự thật, phỉ báng, vu khống làm người khác đau khổ vô vàn, là hành vi của kẻ ti tiện tiểu nhân. Cách cư xử như vậy sẽ phải trả nghiệp thống khổ vô vàn.

Xưa kia có một người đàn ông tên là Chúc Kỳ Sinh. Anh ta thường hay dùng lời nói của mình mà bẻ cong sự thật, chế nhạo, mỉa mai những thiếu sót của người khác. Hơn nữa, anh ta còn thường ưa thích việc dẫn dụ người khác làm điều xấu hại người.

Mỗi khi gặp người có tướng mạo xấu xí, Chúc Kỳ Sinh liền cười nhạo châm biếm họ. Mỗi khi gặp người xinh đẹp tuấn tú, anh ta liền dùng lời nói đùa cợt trêu ghẹo họ. Mỗi khi gặp người trí thức thông minh, Chúc Kỳ Sinh lại bình phẩm một phen “từ đầu đến chân” của người này, ngược lại nếu gặp người ngốc nghếch hơn mình, anh ta sẽ ra sức bắt nạt ức hiếp họ.

Nếu gặp một người bần cùng nghèo khổ, anh ta không những không thương xót giúp đỡ mà còn khinh bỉ họ, gặp người giàu có thì lại ghen ghét, phỉ báng họ.

Khi gặp quan chức, Chúc Kỳ Sinh liền tìm kiếm và moi móc đời tư của vị này cho mọi người biết. Mỗi khi gặp một vị học giả, anh ta lại loan truyền bí mật của người này, khi gặp người hoang phí tiền bạc, Chúc Kỳ Sinh lại ca tụng họ là người rộng rãi. Còn khi gặp kẻ nham hiểm chuyên lừa lọc, độc ác với mọi người thì anh ta ca tụng người này là cao cả.

Đặc biệt là khi gặp người nào đàm luận về thuyết của nhà Phật, Chúc Kỳ Sinh không tiếc lời nhạo báng và châm chọc họ là người ăn chay. Khi gặp người nào nói về Nho học và tu đức hạnh, anh ta cười và gọi họ là đạo đức giả, ngụy quân tử.

Khi thấy ai nói lời tử tế anh ta lại giễu cợt họ rằng: “Chỉ được cái nói hay!”. Khi gặp người làm việc thiện, anh ta không những không khuyến khích họ mà còn châm chọc họ rằng: “Thật là kỳ cục, tại sao anh làm việc tốt này mà không làm việc tốt kia?”. Đi tới đâu, anh ta cũng bình luận và nói những lời lẽ trái với sự thật.

Về sau đến lúc trung tuổi, Chúc Kỳ Sinh đột nhiên mắc bệnh lở lưỡi. Bệnh của anh ta không những không có cách chữa mà mỗi ngày còn phải dùng kim đâm vào đầu lưỡi, để máu chảy đầy miệng mới bớt đau đớn. Hằng ngày Chúc Kỳ Sinh đều bị đau đớn vô cùng từ năm đến bảy lần. Anh ta quằn quại cực độ mỗi khi muốn nói lời nào đó. Cuối cùng, anh ta chết vì lưỡi bị teo.

Trong giới tu hành cho rằng có nhiều loại nghiệp khác nhau, chúng gây ra những loại bệnh tật khác nhau. Nhìn thì thấy như là bệnh trên thân thể, nhưng nguyên nhân chính lại từ nghiệp mà ra, mà “khẩu nghiệp” là loại nghiệp mà mọi người dễ gặp nhất. Đôi khi chỉ lỡ lời, nói những điều mà không đặt mình vào hoàn cảnh của họ là đã làm tổn thương họ, thậm chí khiến họ tìm đến đường cùng. Lời nói như dao sắc, có tính sát thương rất mạnh, vì vậy, ai ai trong chúng ta đều phải chú ý đến vấn đề này. Câu chuyện có thật trên đây như là một bài học cho tất cả mọi người.

(Theo Secretchina)

 

Lời nói tạo ra vận mệnh

Ở phủ Hà Giang có người tên là Phùng Thụ Nam, thông minh và viết văn hay. Nhưng anh ta đã lưu lạc ở kinh thành suốt hơn 10 năm trường mà vẫn không thành công. Mỗi khi gặp được cơ duyên thì cuối cùng luôn luôn bị tan vỡ. Khi anh ta nhờ người khác giúp, thì ngoài mặt họ bằng lòng nhưng thực tế là không hề quan tâm gì đến anh ta cả. Cuộc sống của anh ta rất khó khăn, trong lòng vô cùng thất vọng và buồn rầu. Có một lần, anh ta vào miếu khẩn cầu Thần linh gợi ý và hướng dẫn cho vận mệnh của mình.

Đêm đó, anh ta mơ thấy một vị Thần nói với mình:

– Anh chớ oán giận đường đời gian khổ. Thực ra, vận mệnh cả đời anh đều là tự anh tạo thành cả, oán hận có ích gì? Kiếp trước anh thích dùng lời dối trá để giành được tiếng thơm là một vị trưởng lão trung hậu. Thấy người khác gặp việc khó khăn, anh biết rõ việc đó không thể thành công, nhưng lại cực lực xúi bẩy người khác làm, khiến người ta cảm ơn anh đã tán thành và gợi ý cho họ. Thấy kẻ ác phạm pháp, biết rõ hành vi tội lỗi của người đó là không thể tha thứ được, anh lại nhiều lần biện bạch cho họ, làm cho người khác cảm kích anh. Anh làm như thế, khiến bao nhiêu những lời cảm ơn tốt đẹp đều dành cả cho anh, còn bao nhiêu oán thù phẫn hận toàn quy kết hết cho người khác. Tâm anh hiểm ác như thế, còn cần phải chỉ ra hay sao? Bởi vậy có thể thấy, người khác đối với anh có vẻ như thân thiết, thực ra là xa cách, tưởng như quan tâm, thực ra là lạnh nhạt thờ ơ, đó cũng là lẽ tất nhiên. Anh tự ngẫm lại xem, như thế có xứng đáng hay không? Đối với một con người, nếu người đó vô tình phạm vài lỗi lầm nào đó, thì có thể dùng một việc thiện nào khác để bồi thường lại. Nhưng nếu một người rắp tâm làm điều sai trái, đó chính là vi phạm đạo đức, không thể tha thứ được. Nếu anh cố gắng làm việc tốt mới có thể được may mắn mà thôi !

Phùng Thụ Nam nghe xong vô cùng hối hận, sau đó không lâu thì bệnh chết.

(Nguồn: chuahuevien.com)

Lỡ lời làm chó

Tỳ kheo trẻ mắng Tỳ kheo già,

Biết thành tâm sám hối nên tội giảm.

Song năm trăm đời vẫn làm thân chó,

Chỉ một lời nói, phải bị khổ khôn cùng.

Một thời, Đức Phật Thích Ca Mâu Ni ngụ tại tinh xá Kỳ Viên, khi ấy tôn giả Xá Lợi Phất mỗi ngày thường dùng thiên nhãn xem xét chúng sinh đang thọ khổ trong sáu đường luôn hồi, xem ai là người có nhân duyên đáng được độ, tức liền đến giáo hoá giúp chúng sinh ấy thoát khổ được vui.

Lúc ấy, có rất nhiều thương nhân, kết bạn đi buôn. Họ tìm đến nước lân cận buôn bán. Trong số đó có một thương buôn mang theo con chó để nó canh giữ hàng hoá ban đêm.

Trên đường đi, họ dừng ngủ ở một doanh trại bên đường. Con chó lẻn cắp thịt của những thương buôn khác. Sau đó, người chủ phát giác bị mất thịt, loan báo khiến mọi người trong đoàn hết sức tức giận, hè nhau lấy cây đánh chó gãy chân rồi đem nó vất ngoài đường.

Cũng lúc đó, tôn giả Xá Lợi Phất bằng thiên nhãn thanh tịnh thấy rõ hết sự việc, Ngài biết con chó không thể đi nổi, đau đớn rên la, chắc chắn bị đói lạnh mà chết.

Tôn giả đi xin thức ăn rồi vận dụng thần thông mang đến cho con chó. Con chó được cho ăn, nên mạng sống được kéo dài, nó vẫy đuôi lộ vẻ vui mừng.

Tôn giả Xá Lợi Phất vì con chó giảng nói Phật pháp vi diệu, sau khi được nghe pháp mầu, tội chướng của nó tiêu trừ, nó cảm tạ ân cứu mạng và chết ngay khi ấy.

Nói đến con chó chết rồi, chuyển kiếp sinh làm người, sinh ra trong một gia đình Bà la môn trong thành Xá Vệ.

Hôm ấy tôn giả Xá Lợi Phất cầm bát đi đến trước cửa Bà la môn khất thực, Bà la môn hỏi tôn giả:

-Thưa tôn giả, Ngài đi một mình, không có thị giả theo hầu sao?

Tôn giả đáp:

-Tôi không có thị giả. Nghe nói gia chủ có một đứa con trai, vậy gia chủ có bằng lòng cho đứa bé theo hầu tôi không?

Gia chủ đáp:

-Tôi có một đứa con tên Quần Đề, song tuổi còn rất nhỏ, chưa biết gì hết, nên không thể theo hầu ngài được. Đợi nó lớn một chút, thì tôi sẽ cho theo Ngài làm thị giả.

Tôn giả bằng lòng.

Thời gian trôi qua, người con trai của Bà la môn ấy được 7 tuổi, tôn giả Xá Lợi Phất nhớ lời hứa cũ nên tìm đến nhà Bà la môn để xin cho đứa bé xuất gia. Bà la môn ấy vô cùng hoan hỉ, cho con trai Quân Đề xuất gia làm sa di.

Tôn giả dẫn Quân Đề đến tinh xá Kỳ Viên, thế phát cho làm sa di, Quân Đề sáng tâm hiểu đạo, chứng được quả A La Hán được thần thông tự tại.

Sau khi chứng đạo, sa di Quân Đề vận dụng trí túc mạng nhớ lại những kiếp trong đời quá khứ của mình đã làm gì? Ở đâu? Do đó nhớ duyên đời trước khi làm con chó được tôn giả Xá Lợi Phất từ bi cứu mạng, nói pháp tế độ, nên được làm thân người, đời này vẫn tiếp tục tế độ khiến cho ngài thoát khỏi đau khổ ràng buộc trong vòng luân hồi. Khi ấy sa di Quân Đề rất đỗi vui mừng, muốn báo đáp ân trọng, nên phát nguyện trọn đời theo hầu tôn giả Xá Lợi Phất.

Sa di Quân Đề kể lại:

– Đời trước sở dĩ ta phải mang thân chó là do kiếp xa xưa ta đã lỡ tạo khẩu nghiệp. Vào thời Phật Ca Diếp, ta từng xuất gia tu học. Bấy giờ ta cùng với đại chúng tụng kinh. Trong ấy có một tỳ kheo già âm thanh tụng kinh khàn đục, rất khó nghe. Ta ỷ mình tuổi trẻ, âm thanh trong trẻo, nhiều người khen ngợi, nên khởi niệm chê tiếng tụng kinh của vị tỳ kheo già giống như chó sủa. Lúc đó, vị tỳ kheo đã chứng A La Hán, Ngài bảo ta:

– Tỳ kheo kia, ngươi chê lầm ta rồi.

Tỳ kheo trẻ nói:

– Tôi biết ngài là bậc tỳ kheo thượng tọa ở đây phải không ?

Tỳ kheo già nói:

– Ta tuy tụng niệm âm thanh khó nghe, song ta đã thoát ly sinh tử, không còn thân sau nữa.

Lúc bấy giờ khi nghe vị tỳ kheo già nói thế, tâm ta kinh sợ, tự biết đã lỡ lời, vô cùng hổ thẹn, cầu xin sám hối. Vị tỳ kheo già hoan hỷ chứng minh cho ta sám hối, nên ta miễn được đọa địa ngục, nhưng phải bị quả báo liên tiếp năm trăm đời mang thân chó, trả nợ cho câu nói chê bai bậc đã chứng thánh quả.

Song, cũng do nhân lành trước kia đã xuất gia học Phật Pháp, giữ giới thanh tịnh, chính nhờ công đức ấy mà ngày nay ta được gặp tôn sư cứu mạng, còn tế độ giúp ta chứng được quả thánh. Ôi! Công đức của Thầy thật là thênh thang vô kể!

Khuyên tất cả mọi người, dè dặt từng tiếng nói, không để phạm lỗi lầm bị quả báo khổ như ta.

Chê người tụng kinh tiếng như chó sủa,

Phải bị năm trăm đời làm thân chó.

Nhân quả theo nhau nghìn muôn kiếp

Xét theo đây đủ biết tội Ỷ Ngôn tai hại vô ngần !

(Truyện kể về những bậc Thánh siêu phàm trong     Phật giáo – Ngô Trọng Đức- Từ Nhân dịch)

Cá trăm đầu

Kinh Hộ khẩu ghi:

Vào thời quá khứ, có Đức Phật Ca-diếp xuất hiện ở đời, giảng nói giáo pháp. Khi việc giáo hóa đã hoàn mãn, Ngài vào cảnh giới Vô Dư Niết Bàn. Sau khi Đức Phật nhập Niết Bàn, có một vị tam tạng tì kheo, tên là Hoàng Đầu. Chúng tăng nói với Hoàng Đầu:

– Tất cả các việc vụn vặt thầy khỏi phải làm, chỉ xin thầy lo giảng dạy diệu pháp cho hàng hậu học.

Bấy giờ, tì kheo Tam Tạng trong lòng khinh miệt nhưng không thể làm trái mệnh lệnh của tăng, bất đắc dĩ Hoàng Đầu phải diễn giảng nghĩa kinh cho hàng hậu học, nhưng trong lúc giảng kinh, ông lại gọi người học:

– Kẻ đầu voi kia hãy tiến nhanh về phía trước!

Cứ như thế lần lượt ông gọi người khác là đầu ngựa, đầu lạc đà, đầu heo, đầu dê, đầu sư tử, đầu hổ. Ông gọi những người nghe pháp bằng tên các loài thú như thế nhiều không sao kể hết.

Tuy Hoàng Đầu giảng dạy kinh điển, nhưng ông cũng không khỏi tội ấy. Sau khi qua đời, ông bị đọa vào địa ngục, trải qua mấy nghìn vạn kiếp chịu khổ vô cùng. Tội báo chưa hết nên từ địa ngục sinh vào trong biển lớn mang thân của loài ở nước. Một thân có một trăm đầu, hình thể to lớn vô cùng. Các loài khác trông thấy nó đều tránh xa.

(Chư Kinh Tập Yếu.- Quyển 14. – Chúc Giải – Huệ Hạnh dịch)

 III ÁC KHẨU

 Định nghĩa:

Tới Ác Khẩu thứ ba bày biện

Tiếng tục tằn thô lỗ hung hăng.

Nào chưởi cha, mắng mẹ lăng xăng,

Chẳng kể đến luân thường thảo hiếu.

Hăm đánh giết những người hèn yếu,

Hiếp xóm chòm cô bác chẳng kiêng.

Trong gia đình chưởi rủa liên miên,

Hết Dương thế kêu sang Thần Thánh.

Chẳng kiêng nể Phật Trời thượng cảnh,

Cõi Long cung mời thỉnh tối ngày.

Đời ám u tội trạng thảm thay,

Khuyên bá tánh bá gia rán bỏ.

Gương tổ phụ còn roi lại đó,

Sao không theo nề nếp gia phong.

Chư Thánh Thần đâu có mất lòng,

Mà kêu réo Đông,Tây, Nam, Bắc ?

Mấy câu trên toàn là ròng rặc,

Những đàn bà khe khắt cháu con.

Kể từ nay phải giữ cho tròn,

Không chừa dứt ắt mang tai ách.

Lựa lời tiếng dịu dàng trong sạch,

Khi thốt ra đoan chánh hiền từ.

Tích thiện thì thường có phước dư,

Bằng tích ác họa ương đeo đắm.

(Khuyến thiện – Vô Danh cư sĩ)

Ác khẩu.- Những tiếng thề thốt, lỗ mãng, chưởi  mắng tục tằn làm ra tội này; con chưởi mẹ mắng cha, không kể luân thường thảo hiếu, mạnh bạo hăm he đánh giết những kẻ yếu hèn, hiếp đáp xóm chòm cô bác. Mở miệng ra chưởi gió mắng mây, trù rủa gia đình, không kiêng Thần Thánh. Tối ngày kêu réo Phật Trời, mời thỉnh Long cung, làm cho tội lỗi càng thêm chồng chập.

Hãy bỏ những tiếng tục tằn thô lỗ, làm cho đời sống được êm dịu thanh bai hơn. Đối với cha mẹ phải có lễ độ, với gia đình, với bà con cô bác, với xóm chòm quen thuộc, lời nói mình phải đoan trang nghiêm chỉnh. Đối với con cháu trong nhà, không nên nói những điều ác đức, phải dùng lời nói dịu dàng hiền hậu dạy dỗ chúng.

(SGTVTB 2004, tr. 191)

Dẫn chứng:

Lời thề của anh chàng bán ngọc

Xưa, trào vua Dật Độ, con là Thái Tử Pháp Thí, người tài đức song toàn, nên được vua cha và quần thần yêu mến. Vua lại có một thứ phi tên là Hãnh Thiếp, tánh tình chẳng tốt, tư thông với quan Tướng Quốc, ngầm mưu cướp ngôi, họ đang tìm cách hại Thái Tử trước.

Hôm nọ, Thái Tử dạo huê viên một mình. Hãnh Thiếp bấy lâu đã say mê tài mạo Thái Tử nên bước đến kiếm lời trêu ghẹo, nhưng Thái tử khước từ và trực dạ khuyên can. Hãnh Thiếp lỡ cơ toan bắt ép Thái tử, Ngài vội xô ra, bỏ chạy, rủi bị cành cây gạt rớt cái mão. Hãnh Thiếp lượm mão đem khóc lóc với Vua:

-Thái Tử vào huê viên giở trò không tốt với thiếp. Thiếp la lên, Thái Tử bỏ chạy còn rớt cái mão lại đây, xin Bệ Hạ định xét.

Vua vẫn biết con mình là người đoan chánh, nhưng bằng chứng sờ sờ chẳng biết nói sao. Hãnh Thiếp giả bộ nhào khóc thảm thiết. Vua túng thế đành hạ lịnh xử trảm Thái Tử. Triều thần hay tin hết lời can gián, Vua mới đổi lịnh, cho đày Thái Tử ra biên giới 3 năm. Thái Tử cùng vợ con lên đường, dân chúng mến đức kéo theo Ngài rất đông.

Ít lâu Hãnh Thiếp và Tướng quốc mạo một tờ lịnh: Thái tử và dân chúng ở biên giới đang mưu đồ phản Vua, phải móc đôi mắt gởi về mới hết tội. Được lịnh Vua, Thái Tử đưa vợ con về nước (cha vợ) chia tiền cho mỗi binh dân…rồi móc cặp mắt gởi về trào. Hãnh Thiếp đón lấy, đem tẩm thuốc không cho sình rã rồi cất vào tủ, dấu nhẹm chuyện ấy.

Bấy giờ Thái tử chỉ còn một mình, với cây đờn, vừa đờn vừa xin ăn lần lần đến nước của Vua nhạc phụ. Thời may Vua nước nầy đang chọn nhạc sĩ…Thế là Thái tử được tuyển vào đờn cho Vua nghe thử. Người vợ nghe tiếng đờn biết là chồng liền ra nhìn…Khi rõ hết sự tình, Vua (cha vợ) cho Quan lính đưa vợ chồng Thái tử về nước minh oan.

Lúc ấy Vua Dật Độ mới rõ sự thật liền ra lịnh bắt Tướng Quốc và Hãnh Thiếp đem trị tội bằng cách: dùng roi có gai đánh cho rách da, chảy máu rồi lấy mũ nấu sôi thoa vào và đem chôn sống tại ngã ba đường.

Khi đó các Đệ tử bạch hỏi Phật:

– Nhân duyên gì mà có cảnh trạng như thế ?

Phật kể tiếp: Thời quá khứ, có anh thanh niên chuyên bán ngọc ngà châu báu. Một hôm anh vừa đi vừa rao bán ngọc, bỗng có một tiểu thơ kêu lại mua, nhưng khi lựa được viên ngọc quí, tiểu thơ cười duyên và liếc anh một cái rồi bảo tên đánh xe đẩy đi, chớ không trả tiền bạc gì hết. Anh bán ngọc tức quá bèn mắng:

– Ta không đắm sắc ngươi đâu, nếu ngươi không trả tiền viên ngọc, ta thề theo móc cho được cặp mắt của ngươi mới vừa bụng.

Tiểu thơ liền bảo tên đánh xe hăm lại:

– Nếu anh không bằng lòng để cô ta lấy viên ngọc làm đồ chơi, cô ta sẽ cho người dùng roi gai đánh cho rách da, rồi lấy mũ nấu sôi thoa vào và đem chôn sống cho ngươi tởn. Anh bán ngọc quá giận tức, nhưng xét mình cô thế đành ôm hận ra đi!…

Do ác khẩu, hai đàng đều kết dây oan trái với nhau, nên kiếp nầy ba người cùng sanh gặp nhau trong một trào để trả quả: Anh bán ngọc đầu thai làm Thái Tử Pháp Thí. Tiểu thơ thuở nọ nay là Hãnh Thiếp, còn tên đánh xe là quan Tướng quốc. Thái tử trước vì thề móc mắt Tiểu thơ nên nay bị Hãnh Thiếp ra lịnh móc mắt lại. Tiểu Thơ liếc mắt cười duyên với anh bán ngọc, nên nay thầm yêu Thái Tử, nhưng không được. Còn tên đánh xe a tòng với Tiểu thơ, hăm dọa anh bán ngọc nên nay tư thông với Hãnh Thiếp và hai người cùng bị tội đánh rách da, thoa mũ nấu sôi vào thân và chôn sống tại ngã ba đường, nay kết quả y theo lời hăm dọa thuở trước.

Kết luận câu chuyện. Phật khuyên các môn đồ nên chừa dứt “ác khẩu”. Kinh Pháp Cú, Ngài từng nói: “Luận kẻ ở đời như búa ở trong miệng, sở dĩ chém mình là do lời nói ác”. (Phù Sĩ xử thế, phủ tại khầu trung, sở dĩ trảm thân, do kỳ ác ngôn).

(Khuyến Thiện chú giải – C.S Thiện Tâm)

Công chúa Kim Cương

Chính tôi được nghe: Một thời Ðức Phật ở nước Xá Vệ, tại vườn cây của ông Cấp Cô Độc và Thái Tử Kỳ Đà.

Khi đó phu nhân của Vua Ba Tư Nặc là Mạt Lợi, sinh được cô con gái đặt tên là Kim Cương. Tướng người rất xấu! Da sần sù hình như da ngựa, tóc tựa lông đuôi ngựa, hình vóc không giống người, chẳng khác gì quỷ Dạ Xoa, thực là trên đời chưa từng có một người thứ hai như cô.

Nhà vua thấy Công chúa như vậy, lấy làm buồn giận! Nhưng, không biết làm thế nào phải giao cho một người nuôi riêng nơi nhà kín ngoài ra không dám cho ai biết.

Khi lớn tuổi nhà vua lại càng thêm khó nghĩ, chẳng lẽ nuôi con mãi, không lập gia đình, nếu gả chồng, thì sánh vào hạng người nào? Nhà vua và Hoàng hậu bàn nhau như vầy:

Vua nói:

– Bây giờ Kim Cương đã lớn tuổi, bà tính sao, có gả chồng cho nó không?

Hoàng hậu nói:

– Tâu Bệ hạ! Thiếp nghĩ rất khó! Trong triều văn võ bách quan, ai là người lấy nó, nếu họ nhìn thấy nó họ cũng phải chết khiếp.

Vua nói:

– Tôi tính như vầy: Bây giờ sẽ tìm cho nó một người dân thường, nhưng phải dòng quý phái và có học thức, bà nghĩ có được không?

– Vâng! Bệ hạ ! Thiếp cũng đang nghĩ như vậy!

Ngày mai nhà vua gọi quan Lại thần vào nói rằng:

– Ta có một chút việc riêng. Khanh vào các thôn quê tìm cho ta một người học trò nhà nghèo, chừng hai mươi tuổi, nhưng phải dòng quý phái mới được!

Quan Lại thần đáp:

– Dạ! Hạ thần xin tuân mạng!

Cách ít bữa sau, ông tìm được một thanh niên khôi ngô tuấn tú, ra vẻ bút nghiên kinh sử, và cũng đúng như lời vua dặn. Cậu con nhà quý phái, nhưng chỉ một nỗi nghèo. Chàng được thấy vua triệu vào cung trong dạ mừng thầm và cũng lo thầm! Chưa biết cát hung thế nào? Rồi cùng ông quan này lên đường về kinh. Tới kinh, Lại thần nói:

– Anh hãy đứng đây để tôi vào tâu vua trước.

– Dạ! Xin đứng đây chờ Ngài.

Lại thần vào trước sân rồng quỳ xuống tâu rằng:

– Muôn tâu Bệ hạ! Theo thánh chỉ hạ thần đã đi tìm được một thanh niên hiện đương ở ngoài cổng thành!

Nhà vua nói:

– Trẫm cho phép, khanh đưa nó vào đây!

Lại thần bái tạ, trở ra đưa chàng vào cung. Vua hỏi chàng:

– Anh năm nay bao nhiêu tuổi?

Đáp:

– Kính tâu Hoàng thượng! Con năm nay hai mươi tuổi!

– Học hành thế nào?

– Dạ! Con đương theo học khoa tú tài!

– Cha mẹ còn sống hay chết?

– Dạ! Cha chết đã lâu, còn mẹ già hàng ngày làm mướn cho con đi học!

Vua nói:

– Hôm nay kêu ngươi vào đây, vì trẫm có người con gái hình thù xấu xa, trong triều không thể sánh duyên cùng ai được, nghe biết ngươi tuy nghèo, nhưng dòng hào tộc, vậy ta gả con ta cho, ngươi có ưng thuận không?

– Dạ! Muôn tâu Thánh thượng, nhà con có đầy phúc đức nên nay mới được Hoàng thượng ngó tới, thực là “hữu duyên thiên lý năng tương ngộ” con xin tuân theo lời ngọc chỉ, không dám trái mạng. Tâu Thánh thượng! Con gái của Thánh thượng tuy xấu, nhưng dầu sao cũng là con của Thánh thượng, là khí huyết của Thánh thượng sinh ra, thực là phước đức cho con vô cùng vô tận, hôm nay nếu Thánh thượng có gả con chó cho con, thì con cũng không dám từ chối, nữa là được diễm phúc sánh hàng phò mã.

Nhà vua nghe anh nói mỉm cười, rồi định ngày làm lễ đính hôn cho con gái.

Ngày lễ này nhà vua cũng giấu, không cho bá quan và nhân dân biết, chỉ trong hoàng cung làm lễ sơ sơ. Sau cuộc này nhà vua cho hai vợ chồng chàng rể ở riêng một tư thất nơi hậu viên bảy lần cửa khóa cây cối âm u, có vẻ kín đáo. Vua dặn riêng chàng: Luôn luôn để vợ trong cung cấm, nếu có đi đâu phải khóa cửa, và một điều ngặt nhất chớ cho ai ngó thấy, vì lỡ để thiên hạ chê cười!

Từ đó anh học trò nghèo vinh hạnh được nhà vua thâu nạp làm phò mã, nên được thụ hưởng giàu sang sung sướng, thoát khỏi nỗi cơ hàn bần khổ nơi hương thôn hủ tục, chung dự với những hàng quan liêu trong triều chính, chẳng khác gì đại long thoát khỏi chốn ao tù ra nơi biển cả, phượng hoàng sổ cánh bay bổng chốn mây xanh.

Gặp thời buổi thanh bình bốn phương an lạc, nơi kinh thành những thú vui dồn dập. Khi ấy các quan triều và các nhà quý phái, kết hội với nhau, hàng tháng có những ngày họp mặt, để thưởng thức những thú vui! Ông phò mã này cũng vào một chân. Khi tới hội ai cũng đem theo vợ, nhưng riêng ông phò mã chỉ đi có một mình, nên một số người tò mò thắc mắc, tự nói với nhau rằng:

– Ông phò mã này kỳ nào cũng đi một mình, không thấy vợ đi! Một là vợ đẹp, hai là vợ ông xấu, hôm nay chúng ta tìm cách để xem vợ hắn vì lý do gì mà không tới hội.

Mọi người đều thuận lời bàn ấy, hôm đó họ mời ông phò mã uống rượu rất say, xong cuộc ăn uống, phò mã bị say ngủ bất tỉnh, họ cởi trộm lấy chìa khóa rồi sai năm người tới nhà xem cô vợ của ông ra sao?

Giữa lúc Phò mã đi dự hội, cô Kim Cương một mình ngồi trong nhà, thơ thẩn buồn bực tự than rằng:

– Không biết kiếp trước ta tạo tội gì, kiếp này bị thân hình xấu ác, suốt tháng quanh năm vua cha giam giữ trong nhà kín, không nhìn ngó thấy bóng mặt trời mặt trăng cho đến một ai, là thân người không khác gì loài chim lồng cá chậu, thực là khổ quá không biết bày tỏ cùng ai!

Cô lại nghĩ như vậy:

– Hiện nay Ðức Phật ra đời cứu giúp quần sinh muôn loại, rất nhiều người được hàm ân thoát khổ, ta cũng không được tới nơi Ngài mà chiêm ngưỡng, để cầu Ngài cứu khổ ban vui!

Nói rồi cô lấy hương đốt, hướng về núi Linh Sơn nơi Ðức Phật ngự, một mình chí thành đảnh lễ khấn rằng:

– Kính lạy Ðức Thế Tôn! Mở lượng từ bi thương xót đến con, tới đây để con được cúng dường, và giáo hóa cho con.

Vì lòng thành kính thiết tha cầu nguyện của cô, nên Ðức Phật dùng thần túc hiện bay đến chỗ cô ở, đầu tiên Ngài cho cô nhìn thấy tóc của Ngài xanh, nhỏ mềm, có ánh quang minh.

Cô quỳ xuống lễ lạy vui mừng! Nên bộ tóc đuôi ngựa của cô tự nhiên biến thành tóc xanh nhỏ mướt. Lần thứ hai Ngài cho cô nhìn thấy dung nhan như vầng mặt trăng đêm rằm, tươi đẹp siêu phàm. Thấy thế, cô vui mừng! Một lòng tha thiết lễ kính. Vì thế bộ diện sù xì của cô đã biến thành cô gái tiên nga, mắt sáng tựa sao, mồm tươi hoa nở.

Lần thứ ba Ngài hiện toàn thân cho cô chiêm ngưỡng, thân tướng của Ngài như quả núi vàng, làm sáng rực cả căn nhà của cô. Cô sung sướng quá! Lễ kính dưới chân, ăn năn hối lỗi ! Vì thế nên những tướng xấu da thô, được tiêu tan, thân cô tự nhiên đoan chính, tươi đẹp siêu nhân.

Tới đây Ðức Thế Tôn thuyết pháp cho cô nghe. Những điều kiêu mạn sân si nên bỏ, lòng từ bi khiêm nhượng nên tu.

Cô nghe lời giáo hóa, như người được uống nước cam lồ, vội vàng thụp lạy xin thọ giáo. Cũng do lòng thành phát khởi, nên những nghiệp ác của cô đã tạo từ đời quá khứ được tiêu tan, ngay giờ phút ấy tự nhiên trí óc sáng tỏ, chứng được quả Tu Đà Hoàn.

Đức Phật nhận thấy cô đã thoát nghiệp, và chứng quả nên Ngài ẩn hình biến về Linh Sơn.

Đoạn này nói đến năm người, vừa lúc Ðức Phật ra về thì họ mở cửa bước vào. Nhìn thấy cô họ thưa rằng:

– Thưa cô! Xin lỗi cô, có phải cô là vợ phò mã không?

– Thưa phải, các ông tới đây có việc gì?

– Thưa, chúng tôi tới đây có chút việc tư, muốn gặp phò mã!

– Hôm nay phò mã đi chơi!

Năm người xin cáo lui, ra đường, họ nói cùng nhau rằng:

– Quả nhiên vợ anh đẹp nên anh không mang đi đấy thôi.

Trở về họ trả lại chìa khóa cho phò mã. Sau đó phò mã tỉnh rượu về nhà nhìn không thấy vợ, chỉ thấy cô gái đẹp!

Ông hỏi:

– Xin lỗi cô tới đây có việc gì?

– Thưa ông tôi là bạn của Kim Cương đây!

– Thưa! Kim Cương đi đâu cô biết không à?

Cô phì cười thưa rằng:

– Đố anh tìm thấy Kim Cương đấy?

Phò mã còn đương hoang mang, cô nói tiếp:

– Em chính là Kim Cương, không phải ai đâu? Anh đừng có lạ! Hôm nay em buồn vì sự xấu xa của em nên em đốt hương cầu nguyện Ðức Phật Thích Ca Mâu Ni từ tâm cứu tế, Ngài tới đây em được lễ kính nên những tội ác nhiều đời của em được tiêu tan, biến thân gái xấu, đổi thành đẹp, nên anh không nhận được, có phải ai đâu, cửa anh khóa còn ai vào được. Bây giờ anh đến tâu phụ vương và mẫu hậu để em lên yết kiến.

Phò mã vui quá! Biết đích là vợ mình, vội lên vương cung tâu vua rằng:

– Tâu phụ vương, Kim Cương muốn lên để yết kiến phụ vương!

Vua đáp:

– Thôi! Ta bận việc anh cẩn thận, chớ cho nó đi đâu để khi nào ta đến thăm!

Phò mã tâu:

– Tâu Phụ Vương! Kim Cương hôm nay được nhờ công Ðức Phật biến thân gái xấu đổi thành đoan chính tươi đẹp, giờ đây phụ vương có nhìn cũng không nhận được!

Vua nói:

– Thế à! Quả như vậy thì anh về mau đem nó lại ta xem.

Phò mã tất tưởi về đưa vợ lên yết kiến vua và Hoàng hậu, nhìn thấy Kim Cương tươi đẹp khác xưa trong tâm vui vẻ nói:

– Nam Mô Phật! Đức Phật xuất thế làm lợi ích cho muôn loài chúng sinh, con ta hôm nay được Ngài giải thoát tội lỗi, lại được đổi xấu thành đẹp, thực là phúc đức vô lượng! Biết lấy gì đền đáp được Ngài.

Sớm ngày mai nhà vua sửa soạn lễ vật, rồi cùng đi yết kiến Phật, tới nơi mọi người đều lễ Phật rồi lui về một bên, vua Ba Tư Nặc bạch Phật rằng:

– Kính lạy Ðức Thế Tôn! Chẳng hay đứa con gái của con đời quá khứ làm phước gì, nay được sinh vào nhà tôn quý, và không rõ tạo tội gì, phải chịu thân gái xấu, da tóc thô kịch hình như súc sinh, kính xin Ngài chỉ bảo cho chúng con được biết nguyên do?

Phật nói:

– Ông muốn biết tội căn và phước báo của Kim Cương tôi sẽ nói ông hay. Người ta ở trên đời đẹp tốt hay xấu xa cũng do nghiệp hành đời trước, tội hay phước cũng do báo ứng của trần thế.

Thuở đời quá khứ đã lâu lắm, bấy giờ có một nước lớn tên là Ba La Nại, nước ấy có ông trưởng giả giàu có vô cùng, ông biết tôn kính ngôi Tam Bảo cúng dường chư Tăng. Ông phát nguyện xin suốt đời cúng dường một vị Bích Chi Phật, vị ấy thân thể thô kịch hình dáng nhem nhuốc xấu xa, ông có cô con gái còn nhỏ tuổi, khi thấy vị Bích Chi Phật lại nhà, thì sinh lòng khinh mạn rồi nói:

– Ông này thân thể thô kịch xấu xa, da dẻ sần sù, ghê tởm lắm như vậy.

Song Ngài vẫn làm thinh, và thường thường đến nhận các món cúng dường của ông trưởng giả.

Vị Bích Chi Phật khi sắp tịch diệt vào Niết Bàn, muốn để những người tin theo ngôi Tam Bảo phát khởi lòng tu cho bền chắc, cho tinh tiến; nên Ngài bay lên hư không để hiện các phép thần thông; trên mình Ngài phun ra lửa, dưới phun ra nước, đầy cả hư không rồi hiện bên Đông, lặn bên Tây, hiện bên Nam, lặn bên Bắc; hoặc nằm, hoặc ngồi, hoặc đi, hoặc đứng, trên hư không. Khiến cho cả nhà ông trưởng giả coi thấy phép thần biến, rồi từ trên hư không bước xuống đi vào nhà ông trưởng giả. Ông rất vui mừng và thận trọng kính mến. Người con gái nhỏ lúc đó tự biết mình có tội nói xấu Ngài, kiếp sau quyết bị quả báo, sợ hãi ăn năn, tới trước chắp tay quỳ thẳng thưa với Ngài rằng:

– Muôn xin Tôn giả tha thứ, trước đây con không biết Ngài là bậc Thánh, đem lòng khinh mạn, ác tâm nói xấu tội con quá nặng, kính xin Tôn giả xá tội và chớ để tâm.

Vị Bích Chi Phật cũng thể lòng từ bi cho cô sám hối.

Đại Vương nên biết, người con gái ấy nay là Kim Cương, con của ông, lúc đó ác tâm chê dèm bậc Thánh nhân, cho nên từ kiếp ấy đến nay, sinh vào thế giới nào cũng phải chịu thân hình xấu ác, vì biết hối lỗi, nên nay mới được đoan chính tốt tươi, anh tài vượt chúng, cũng do sự cúng dường vị Bích Chi Phật nên đời đời thường được sinh vào nhà tôn quý hưởng sự giàu sang sung sướng, và cũng do nhân duyên này mà được giải thoát, như thế đó. Đại Vương! Tất cả chúng sinh phải nên gìn giữ thân, miệng, ý cho cẩn thận chớ nên càn dỡ khinh người chê bai mắng chửi, sau chịu quả báo đau khổ khó mà thoát khỏi.

Bấy giờ vau Ba Tư Nặc và quần thần cùng tất cả đại chúng, nghe Phật nói căn do quả báo của Kim Cương như vậy, ai nấy đều sợ hãi, và phát tâm tin kính, nhân sự tín tâm đó nên có người chứng sơ quả cho đến tứ quả, cũng có người phát tâm bình đẳng vô thượng và cũng có người trụ ngôi bất thoái, ai nấy đều khát ngưỡng lời giáo hóa của Phật, vui vẻ tuân theo cúi đầu tạ lễ lui ra.

(Kinh Hiền Ngu)

Tỳ kheo ni Kim Sắc

Cô gái xấu xí cúng dường tháp Phật

Cảm được thân thể màu vàng ròng

Lúc đức Như Lai ở thành Vương Xá, có người phụ nữ gia đình nghèo sinh hạ một em bé gái có 18 tướng xấu. Cha mẹ của em đều hết sức buồn rầu. Cha em nói:

– Đứa con xấu như vậy, nhân lúc trời tối, hãy đem nhận nước cho chết đi.

Người mẹ đau buồn nói:

– Chàng không nên nói như vậy, giết người là hành động trời đất không thể dung thứ, huống gì nó lại là con của chúng ta. Ít ra hãy đợi nó lớn lên, có thể tự sinh sống, rồi hãy đuổi nó ra khỏi nhà cũng không muộn.

Người chồng suy nghĩ, đồng ý. Từ đó về sau, hai vợ chồng họ giấu kín em trong nhà, không để cho bất kì ai thấy mặt. Đến lúc em có thể tự nuôi sống lấy mình, vợ chồng họ bèn đuổi em ra khỏi nhà.

Em đi lang thang khắp đầu đường cuối xóm, xin ăn khắp nơi, nhưng ngày ngày đều cơm không đủ no, áo không đủ ấm. Em vốn dĩ tướng mạo đã xấu xí, bây giờ lại bị bệnh hủi, quả thật thống khổ không thể chịu nổi, luôn lăn lóc rên siết bên lề đường.

Thầy A Nan xem thấy tình cảnh thảm thương của em như vậy, bất chợt trong tâm cảm thấy thương xót vô cùng. Không chần chừ, thầy liền bước đến ôn hòa hỏi thăm:

– Này em bé! Em tên gì? Nhà ở đâu? Sao lại ra nông nổi thế này?

Thần trí của em vẫn còn tỉnh táo, bèn cầu xin thầy một cách hết sức bi thương:

– Kính bạch Tôn giả! Nhất định là do chiêu cảm nghiệp xấu đời trước nên con mới bị tình cảnh như ngày hôm nay. Ngưỡng mong Tôn giả từ bi giúp con tiêu trừ nghiệp xấu này!

Thầy A Nan thương xót an ủi em:

– Em không nên lo lắng, thầy sẽ dạy em tu thiện, dùng nghiệp lành để tiêu trừ nghiệp xấu.

Thế là thầy A Nan tìm một ít dầu vừng, hương hoa, đưa cho em rồi bảo em mang đến tháp thờ tóc và móng tay của đức Như Lai để cúng dường…

Khi ấy, đúng lúc trưởng giả Cấp Cô Độc cũng vừa đến nơi đó, thấy chuyện như vậy bèn thưa hỏi thầy A Nan. Thầy liền kể lại ngọn ngành sự việc cho ông ta nghe. Trưởng giả Cấp Cô Độc thấy quần áo của em rách nát, lòng từ bi sinh khởi, liền tặng em một bộ áo quần mới.

Đức Thích Ca Mâu Ni Như Lai quán xét biết rõ về em bé đáng thương này, bèn đích thân đến nơi tháp. Em bé xấu xí nhìn thấy kim thân đức Như Lai tam môn tịch tĩnh, tướng hảo trang nghiêm, viên mãn nghiêm sức, liền sinh khởi tín tâm cực lớn, thầm nghĩ:

– Công đức mình cúng dường tháp thờ tóc và móng tay của đức Như Lai đã rất lớn, nếu hôm nay có thể cúng dường kim thân của Ngài, công đức càng không thể nghĩ bàn.

Em suy nghĩ trong giây lát, liền dùng bộ áo quần trưởng giả vừa cho mình để cúng dường đức Thế Tôn. Cúng dường xong, em chắp tay cầu nguyện một cách vui mừng khôn xiết. Ngay lúc đó em qua đời với tâm đầy hoan hỉ.

Sau khi chết, em được đầu thai vào một gia đình lái buôn giàu có. Lúc vừa chào đời em đã được thân thể hết sức đoan trang xinh đẹp, da màu vàng ròng, do đó cha mẹ đặt tên là “Kim Sắc”.

Năm Kim Sắc vừa tròn 7 tuổi đã sinh khởi niềm tin thanh tịnh vào Phật Pháp. Khi được sự đồng ý của cha mẹ, em xuất gia sống đời tỉnh thức theo giáo pháp giải thoát của đức Thế Tôn Thích Ca Mâu Ni. Sau khi xuất gia, em ngày đêm tinh tấn tu tập, không bao lâu đã dứt hết phiền não, chứng đắc thánh quả A La Hán, trở thành một vị A La Hán đầy đủ thần thông.

Sau khi chứng quả, Kim Sắc dùng thần thông quán sát đời trước của mình, biết được nhờ thầy A Nan cứu mình thoát khỏi thân người bần tiện với 18 tướng xấu xí, cho nên hết sức cảm kích, ngày nào cũng cung kính cúng dường thầy.

Chúng tỳ kheo thấy chuyện như vậy bèn đến thưa thỉnh đức Thế Tôn:

– Kính bạch đức Thế Tôn! A La Hán Kim Sắc có nhân duyên gì mà được sinh vào gia đình giàu sang phú quí, toàn thân có màu vàng ròng? Lại vì sao khi tuổi hãy còn nhỏ mà đã có niềm tin thanh tịnh vào giáo pháp giải thoát của đức Như Lai, xuất gia chứng quả? Xin đức Thế Tôn chỉ dạy cho chúng con được rõ.

Đức Thế Tôn ôn tồn nói:

– Các thầy có còn nhớ cô gái với 18 tướng xấu ở thành Xá Vệ trước kia không?

– Kính bạch đức Thế Tôn! Chúng con còn nhớ! Cô ta thật hết sức xấu xí.

– Lúc cô gái ấy cúng dường tháp thờ tóc và móng tay của ta, ta đích thân đến thọ nhận. Khi vừa thấy ta, cô gái ấy liền sinh khởi tín tâm và vui mừng cực độ. Ngay trong lúc tràn đầy tín tâm và niềm vui đó, cô qua đời. Do đó, cô chuyển sinh vào gia đình lái buôn giàu sang, vừa ra đời đã có được thân thể màu vàng ròng.

Các vị tỳ kheo lại cung kính bạch hỏi đức Như Lai:

– Kính bạch đức Thế Tôn! Thế thì trước đây cô ta từng gây tạo nghiệp xấu gì mà phải chịu quả báo bần tiện, có 18 tướng xấu như vậy?

Đức Như Lai từ tốn đáp:

– Đây là do nghiệp lực đời trước của cô ta đã thành thục. Vào thời đức Phật Ca Diếp còn tại thế, tuổi thọ con người tới 20.000 tuổi, tại vườn Lộc Dã ở Ấn Độ có người con gái của một thương gia, sinh khởi niềm tin thanh tịnh với đức Phật Ca Diếp, cũng xin cha mẹ cho cô được xuất gia sống đời tỉnh thức. Sau khi xuất gia, cô bộc lộ bản tính cứng đầu, cậy tài háo thắng, thường mắng nhiếc người khác là “người hèn”, “người xấu”… Sau đó, cả đời tu hành thanh tịnh Phạm hạnh, trước khi lâm chung cô phát nguyện:

– Cả đời con xuất gia tu hành phạm hạnh, tuy chẳng có được thành tựu gì to lớn lắm, song nhờ công đức xuất gia này, hi vọng được an trú trong giáo pháp của đức Thích Ca Mâu Ni Như Lai, được Phật hoan hỉ, xuất gia tu hành chứng quả A La Hán, và nguyện cho ác nghiệp mắng chửi người sẽ không thành thục.

Nhưng, nhân quả không hư dối, nghiệp ác mắng chửi người đó thành thục trước, khiến cô trở thành cô gái bần tiện có 18 tướng xấu. Sau đó, nguyện lành thành thục, được gặp Phật và sinh tâm tín ngưỡng, vui mừng đối với Như Lai, do đó được chuyển sinh thành cô gái có sắc thân màu vàng ròng, cuối cùng được xuất gia chứng quả A La Hán. Đây là nhân duyên đời trước của A La Hán Kim Sắc.”

(Những chuyện nhân quả – Pháp sư Thích Hải Đào –

Đạo Quang dịch – Nguyễn Minh Tiến hiệu đính)

Mấy mươi năm ở trong bụng mẹ

Kinh Bách duyên ghi:

Lúc Đức Phật còn ở đời, bấy giờ trong thành Vương Xá có một trưởng giả giàu có, tiền tài của báu nhiều không sao tính kể. Vợ trưởng giả mang thai đủ mười tháng, đến ngày khai hoa nở nhụy, bà chuyển bụng, nhưng không sinh được.

Sau đó, vợ trưởng giả lại mang thai, đủ mười tháng, sinh được một người con nhưng thai nhi mang lần đầu tiên vẫn còn nằm bên hông phải. Theo thứ tự như thế, bà mang chín lần, lần nào cũng tròn mười tháng là sinh con. Chỉ riêng thai nhi đầu tiên cứ nằm hoài trong bụng mẹ.

Một hôm, vợ trưởng giả bị bệnh nặng, mặc dù đã dùng nhiều loại thuốc để chữa trị nhưng bệnh vẫn không thuyên giảm. Biết là hết cách, bà dặn người nhà:

– Đứa con trong bụng tôi vẫn còn sống. Nếu tôi qua đời, mọi người nhất định phải mổ bụng tôi để cứu lấy đứa con và nuôi dưỡng nó.

Bấy giờ, người mẹ không thể vượt qua khỏi căn bệnh hiểm nghèo và đã qua đời. Thế là những người thân đem thi thể của bà bỏ ngoài bãi tha ma, và mời thầy thuốc Kỳ Bà mổ bụng ra xem. Quả nhiên họ thấy có một bé trai, thân hình rất nhỏ mà râu tóc bạc phơ. Nó lom khom bước đi, ngoái nhìn bốn phía và nói với những người thân:

– Các người biết không! Vì đời trước tôi dùng lời độc ác mắng nhiếc, nhục mạ chúng tăng nên nay mắc quả báo ở trong bào thai, trải qua sáu mươi năm chịu khổ sở như thế, khó có thể nói cho hết được.

Những người thân nghe đứa bé nói, tất cả đều khóc, nghẹn ngào không nói nên lời.

Bấy giờ, Đức Phật từ xa biết được đứa bé này thiện căn đã thuần thục. Ngài cùng các tì kheo đi đến chỗ tử thi và hỏi đứa bé:

– Ngươi có phải là trưởng lão tì kheo không?

Đứa bé thưa:

– Dạ phải.

Đức Phật hỏi lần thứ hai, thứ ba, đứa bé vẫn nói ‘Phải’.

Các tì kheo đi theo Đức Phật, chứng kiến cuộc đối đáp như vậy, lấy làm lạ, liền bạch:

– Bạch Đức Thế Tôn! Đứa bé này đời trước tạo nghiệp gì mà nay phải chịu quả báo ở trong bụng mẹ, đầu tóc bạc phơ, lom khom bước đi, lại cùng với Như Lai đối đáp như thế?

Đức Phật nói với các tì kheo:

– Trong kiếp Hiền, có Đức Phật ra đời hiệu là Ca Diếp. Bấy giờ vào mùa hạ, chúng tăng an cư. Mọi người đều nhất trí sai một vị tì kheo già làm duy na cho tăng. Đồng thời đặt ra quy định: “Trong mùa an cư, người nào đắc đạo mới cho phép cùng chúng tăng tự tứ; nếu ai chưa đắc đạo thì không cho phép tự tứ”. Lúc ấy, chỉ có một mình thầy duy na kia không đắc đạo, nên tăng không cho phép bố tát, tự tứ. Vì đó, lòng ông ta buồn bã, bực tức nói: “Tôi trông coi công việc của tăng để các ông an ổn tu hành, vậy mà nay trở mặt không cho tôi tham dự tự tứ, bố tát, yết ma”.

Thế là, vị duy na nổi giận mắng chửi chúng tăng. Chúng tăng liền bắt ông giam vào trong phòng tối. Ông càng bực tức mắng: “Tôi sẽ làm cho bọn các ông ở trong chỗ tối tăm, mù mịt không thấy ánh sáng, giống như nay các ông giam tôi trong nhà tối!”.

Nói xong ông tự kết liễu đời mình. Sau khi chết liền bị đọa vào địa ngục, chịu khổ vô cùng, mãi đến nay mới thoát khỏi, nhưng vẫn phải mắc quả báo ở trong bào thai chịu khổ như thế.

Chúng tăng nghe Đức Phật dạy rồi, mọi người tự giữ gìn ba nghiệp, nhàm chán đường sinh tử. Có người chứng được bốn quả Sa môn; có người phát tâm cầu chứng quả Bích Chi Phật; có người phát tâm cầu chứng quả Vô Thượng Bồ Đề.

Thế rồi, trưởng giả đem đứa bé về nhà nuôi dưỡng. Đứa bé ngày một lớn khôn, họ cho đứa bé theo Phật xuất gia, tu tập và chứng quả A La Hán.

Phật bảo các tì kheo:

– Vì trong quá khứ người ấy từng cúng dường chúng tăng và làm duy na trông coi công việc của tăng nên nay mới được gặp Phật, xuất gia, chứng quả.

*******

*Lại thêm một câu chuyện khác, Kinh Bách duyên có ghi: “Có người vợ của một ông trưởng giả, khi mang thai thân thể hôi hám không ai có thể đến gần. Đến kỳ khai hoa nở nhụy bà sinh ra một bé trai giống như bộ xương, gầy còm không ai dám nhìn; phân tiểu chảy ra khắp thân. Đứa bé mỗi ngày một lớn, nhưng nó không muốn ở nhà chỉ thích ăn phân nhơ, không cách nào bỏ được. Cha mẹ và những người thân đều chán ghét không muốn thấy nó nên cho nó ở riêng trong một ngôi nhà cách họ rất xa. Được tự do ở bên ngoài, đứa bé tha hồ mà ăn phân. Mọi người thấy vậy, gọi nó là Đạm Bà La. Sau đó, đứa bé gặp được Phật xuất gia, tu hành chứng quả A La Hán.

Nhân duyên là vào thời Phật Câu Lưu Tôn, đứa bé xuất gia, trụ trì một ngôi chùa. Bấy giờ, có Phật tử tại gia cúng dầu thơm để chúng tăng xoa thân sau khi tắm rửa. Trong chúng tăng có một vị đã chứng quả A La Hán, vị trụ trì thấy vậy liền nổi giận mắng vị A La Hán:

– Ông là người xuất gia mà còn dùng dầu thơm xoa thân thể, thì chẳng khác gì dùng phân người bôi lên thân.

A La Hán cảm thương vị trụ trì nên thị hiện thần thông. Vị trụ trì thấy thế liền thành khẩn sám hối, mong trừ diệt được tội chướng.

Vì tạo nghiệp ác mắng chửi như thế nên vị trụ trì phải mắc quả báo trải qua năm trăm đời thân thường bị hôi thối, không ai dám gần gũi, nhưng nhờ thuở xưa xuất gia và đã tha thiết sám hối với vị A La Hán nên nay được gặp Phật xuất gia chứng đắc đạo quả. Vì thế chúng sinh nên giữ gìn khẩu nghiệp, chớ có mắng chửi, nhục mạ người”.

(Chư Kinh Tập Yếu – Quyển 14 – Chúc Giải – Huệ Hạnh dịch)

 IVVỌNG NGỮ (Nói lờigiả dối)

Con người sinh ra trong cõi đời hiện nay vật chất phát triển ồ ạt, đạo đức suy tàn, cặn bã văn minh đã làm cho xã hội nhiễm ô lắm điều xấu xa nhơ bẩn; đã mang xác thân giả tạm, trôi nổi bềnh bồng ở trong thế giới hư vọng dường thể mộng mị đêm dài. Vì thế, ý nghĩ thường là viễn vông bâng quơ không thật, miệng lưỡi hay bịa đặt vô số điều vu khống, tâm ý đầy dẫy mê hoặc, điên đảo nghịch lòng, trái lý, lời nói giả dối, mê hoặc mọi người, làm cho họ hiểu sai, dẫn đến muôn vạn khổ đau bủa vây, trăm ngàn sầu lo trói cột. Nếu đã gieo nhân hư dối thì ắt phải gặt quả: hèn hạ nơi nẻo súc sanh, đói khát nơi loài ngạ quỷ, kịch khổ nơi đường địa ngục,… nào là nước sôi, than nóng, rừng kiếm, vạc dầu… Do nói dối phải gặp quả báo đau thương như thế, vì không hiểu chánh pháp, chẳng biết giả chơn mà ra.

Định nghĩa:

Ác Vọng ngữ thứ tư cũng cấm,

Nói thêm thừa huyễn hoăc đủ điều.

Ghét người thời kiếm chuyện dệt thêu,

Thương viện lẽ thấp cao bào chữa.

Đời bất công mấy ai xem sửa,

Trên điêu ngoa dưới chẳng phục tòng.

Khuyên nhơn sanh lấy lẽ chí công,

Mà ăn ở nói năng chơn chất.

Phật từ bi độ trong nhơn vật,

Là luật kinh dạy rất tinh tường.

Nếu chẳng nghe hồn vướng tai ương,

Chừng ấy mới kêu mời khó rước.

Người dương thế chẳng ưa bốc xước,

Phật Thần nào gần kẻ xảo ngôn.

Đã tu hành đừng có bôn chôn,

Tưởng hay giỏi khoe khoang tài cán.

Người hiểu rành mới càng thêm chán,

Chi bằng ta bỏ lối trớ trêu.

Nói với ai cũng phải lựa điều,

Đừng tráo chác cho người khinh dể.

(Khuyến thiện – Vô Danh cư sĩ)

Vọng ngữ.- Thêm thừa huyễn hoặc, có nói không, không nói có, ác vọng ngữ đã làm nguyên nhân cho những sự bất công của nhân loại. Thương người nào kiếm cách bào chữa, giấu giếm sự quấy và thêu thùa sự tốt ra, ghét ai đặt điều nói xấu và che đậy cái điều phải của họ. Khoe khoang tự đắc, xảo trá đa ngôn, những kẻ điêu ngoa làm cho thiên hạ khinh khi miệt thị.

Muốn tránh những điều khiến cho tư cách nhân quần phải bị giảm hạ, hãy tập tánh nói năng chân chánh, bỏ lối láo xược trớ trêu. Chẳng nên tráo chác với người, bỏ tiếng xảo ngôn và phải dùng lời chơn chất.

(SGTVTB 2004, tr.191-192)

 Dẫn chứng:

Nói dối phải đền tội

Có năm vị tỳ kheo giả làm người tu hành đắc đạo. Họ đến một vùng đất lạ, cất một cái chòi cao, che phướn, lộng, rồi một người lên ngồi nghiêm trang, mắt lim dim, còn bốn người kia đi vào làng kêu gọi mọi người đến xem có một vị tiên tu hành đắc đạo, nếu ai đến lễ lạy, cúng dường sẽ được nhiều phước báu. Cứ thế mà họ thay phiên nhau đi quảng cáo để được cúng dường.

Kiếp sau đó, vào thời Đức Phật còn tại thế, có bốn người khiêng kiệu và một người bảo vệ kiệu cho Hoàng hậu Mạt Lợi đến nghe Phật thuyết pháp. Khi Hoàng hậu đi nghe pháp thì cởi bỏ vòng vàng, nữ trang để trong kiệu. Năm người phụ trách kiệu xe nằm ngủ, kẻ ăn trộm đến ăn cắp tất cả nữ trang của Hoàng hậu. Quân lính cho tra khảo đánh đập tàn nhẫn. Hoàng hậu đến thỉnh ý Phật về nhân duyên gì mà có chuyện như thế. Đức Phật đáp rằng:

– Năm ông đó kiếp trước là năm thầy tu giả mạo, còn bà là một tín nữ sùng đạo, hết lòng cung kính cúng dường họ. Bây giờ họ phải làm lính khiêng kiệu cho bà để đền nợ trước.

Nghe xong, Hoàng hậu vô cùng kinh hãi, sợ mang tội với thầy nên bảo tha và không cho họ khiêng kiệu nữa. Nhưng họ khóc lóc, quì lạy, năn nỉ:

-Xin lệnh bà rủ lòng thương xót, cho chúng con tiếp tục hầu hạ lệnh bà. Chúng con hứa từ nay sẽ cẩn thận không bao giờ dám ngủ quên như thế.

Hoàng hậu thỉnh ý Phật thì Đức Thế Tôn trả lời:

– Nghiệp báo, họ trả nợ chưa dứt thì làm sao mà họ ra đi dễ dàng được.

(trích: Kinh Vị Tằng Hữu Thuyết Nhân Duyên)

*Phật giáo coi trọng sự thật và điều thật, nên nói dối là một trong những nghiệp tội nặng. Người mà mở miệng ra là nói dối, nói dối không chớp mắt, nói dối tới quen miệng, thuận lời, không cần suy nghĩ, chính mình còn không cảm nhận được mình đang nói dối. Thật là nguy hiểm!

Những người này đôi khi nói dối cũng không phải là để hại người mà nói dối cho vui, ba hoa, nhưng không biết rằng như thế là rước họa vào thân. Người gặp thì đề phòng, bạn bè gặp thì lánh xa, nhân duyên gặp thì vụt mất. Vì, Phật dạy về cuộc sống, dù nói dối xuất phát từ hảo tâm hay ác ý đều là tạo nghiệp xấu, làm tổn hại danh dự và hạ thấp bản thân.

*Nói dối là nói không đúng sự thật, chuyện có nói không, chuyện không nói có. Theo các nhà nghiên cứu khoa học, mọi người nói dối là do họ sợ hậu quả khi nói ra sự thật. Khi một người bị mắc lỗi, họ sẽ cố gắng che dấu sự thật để không bị người khác cho rằng mình ngu ngốc, trình độ kém cỏi hay đơn giản là để người khác không trút cơn giận lên họ. Ngoài ra, có người nói dối là vì họ sợ bị phạt, bị khước từ những lợi ích cá nhân trong cuộc sống,… Do đó, tùy vào hoàn cảnh mà mọi người viện đủ các lý do để che đậy tội lỗi của mình.

Về mặt sức khỏe, nói dối không có lợi.

Như chúng ta đã biết, hệ thống thần kinh của chúng ta có sự liên quan chặt chẽ đến hệ thống miễn dịch trong cơ thể. Mọi hoạt động, suy nghĩ, ý thức, cảm giác và xúc cảm của chúng ta đều có ảnh hưởng trực tiếp đến sức khỏe của bản thân. Nói đơn giản hơn là cơ thể của bạn sẽ hành động theo những gì bạn suy nghĩ.

Khi nói dối, bạn sẽ cảm thấy lo lắng, áy náy hay nói chung là stress về một vấn đề nào đó. Lúc này cơ thể bạn sẽ sản sinh ra nhiều loại hoóc môn khác nhau như cortisol và norepinephrine. Cortisol sẽ làm giảm thiểu sự sản sinh chất endorphins (hoóc môn hạnh phúc) trong cơ thể, làm tăng lượng đường trong máu và làm suy yếu hệ thống miễn dịch. Chất norepinephrine sẽ kích thích nhịp tim đập nhanh và dẫn đến bệnh cao huyết áp. Bên cạnh đó, các nhà nghiên cứu khoa học còn cho rằng, những người thường xuyên nói dối thường hay lo âu, suy nhược về thể chất lẫn tinh thần và dễ dẫn đến các chứng bệnh viêm loét, đau đầu, mất ngủ hay paranoia (chứng hoang tưởng bộ phận).

Về mặt xã hội, nói dối đem lại nhiều tác hại.

Nói dối là một thói xấu và là một căn bệnh của con người ngày nay. Nói dối cũng chính là sự không trung thực, hành động đó dần sẽ làm cho con người không sống thực với chính bản thân mình, làm mất đi lý trí và sẽ sống trong sự giả dối của chính lương tâm.

Nói dối quen miệng sẽ trở thành cái tật rất khó diệt trừ. Nói dối mà người ta biết được thì kể như mình bị cô lập, không còn ai muốn thân cận với mình, nghĩa là nói dối sẽ làm cho uy tín mình không còn nữa.

Ðối với đạo Phật, nói dối tai hại trên nhiều mặt.

Thứ nhất, nói dối ảnh hưởng tiêu cực đến sự ổn định xã hội. Nói dối phá hoại sự ổn định đó. Con người chỉ có thể sống chung với nhau trong một bầu không khí tin cậy lẫn nhau, tin cậy rằng, trong giao tiếp, mọi người đều nói thật. Nếu mọi người đều nói dối, thì đó là dấu hiệu của xã hội giải thể và tan rã.

Thứ hai, trên bình diện cá nhân, nói dối có tác dụng tai hại là phản ứng dây chuyền. Nghĩa là, lời nói dối này kéo theo lời nói dối khác rồi một lời nói dối khác nữa, còn nghiêm trọng hơn, cho tới khi bản thân mình cũng bị bao bọc bởi tấm màn dối trá do mình tạo ra. Một con người như thế ngày càng tách rời xa đích giải thoát và giác ngộ, ngày càng sa đọa vào vòng tội lỗi, khó gỡ ra được. Một người đã sống không thật với người khác, và với bản thân mình, thì sẽ không bao giờ tìm tới sự thật, chứ đừng nói chứng ngộ sự thật.

Ngày xưa khi Đức Phật dạy La Hầu La lấy một cái chậu đựng nước để Đức Phật rửa chân. La Hầu La vâng theo lời Phật dạy và bưng vào một chậu nước trong sạch. Khi Đức Phật rửa chân xong liền bảo La Hầu La:

– Nước rửa chân này có dùng uống được không?

La Hầu La thưa:

– Kính bạch Đức Thế Tôn, nước rửa chân này không thể dùng để uống được.

Đức Phật dạy:

– Người nói dối cũng như nước rửa chân không thể dùng uống được.

Đức Phật dạy tiếp:

– Này La Hầu La hãy đem chậu nước đổ đi.

La Hầu La làm theo lời Phật dạy và đem chậu vào. Đức Phật hỏi:

– Cái chậu này có thể dùng đựng cơm ăn được không?

La Hầu La trả lời:

– Bạch Thế Tôn cái chậu này không thể dùng đựng cơm ăn được.

Đức Phật dạy:

– Người nói dối cũng như cái chậu đựng nước rửa chân không thể nào dùng được.

Bởi vậy, người phạm giới nói dối thì không bao giờ tu chứng đạo.

Vì vậy, trước những hoàn cảnh bất lợi, gây cho ta những cảm giác không thoải mái hay không an toàn, hãy chọn cách thẳng thắn đối mặt và giải quyết vấn đề. Không nên bắt đầu những lời nói dối nhỏ, “chỉ một lần thôi” bởi một khi đã biết nói dối, đã quen với việc nói dối, hậu quả nhận lại sẽ ngoài sự tưởng tượng của con người.

Kinh Mười Điều Lành, Đức Phật dạy:

“Người không nói dối được tám niều lợi ích như sau:

1/. Được thế gian kính phục.

2/. Lời nói nào cũng đúng lý, được người, trời kính yêu.

3/. Miệng thường thơm sạch, nói ra có mùi thơm, như hoa ưu bát la.

4/. Thường dùng lời êm ái, an ủi chúng sanh.

5/. Được hưởng lạc thú như ý nguyện, và ba nghiệp đều trong sạch.

6/. Lời nói không buồn giận, mà còn tỏ ra vui vẻ.

7/. Lời nói tôn trọng, được người trời đều vâng theo.

8/. Trí tuệ thù thắng, không ai hơn.”

Tóm lại, nói thật là tốt nhất. Một khi giới luật được Đức Phật dạy: không nên nói dối thì nó rất quan trọng cho đời sống của người tu hành. Vì thế chúng ta luôn luôn nhớ lời dạy này để không bao giờ nói dối.

Lily Tran (tổng hợp)

Theo phatphapungdung.com

Hậu quả của lời nói dối

Trong cuốn sách “Người Do Thái dạy con” có mẩu chuyện với nội dung như sau:

Ngày 4 tháng 7 năm 1946, phát xít Đức đã bị diệt vong được đúng một năm hai tháng. Vậy mà tại một thị trấn cách thủ đô Varsovie của Ba Lan khoảng 170km, có đông đảo dân chúng chạy ùa ra ngoài đường, cứ gặp người Do Thái là đánh chửi, bắt bớ. Nhiều người Do Thái đã bị đánh chết tươi. Cuộc tàn sát đẫm máu kéo dài từ 10 giờ sáng đến 4 giờ chiều và có tới 42 người bị giết, trong đó có cả hai người Ba Lan bị giết nhầm.

Điều khó tin hơn cả là nguyên nhân của cuộc tàn sát này là do một lời nói dối của đứa bé tên Herian gây ra. Đứa bé ấy là con của một thợ giày người Ba Lan, cả gia đình chỉ mới dọn về thị trấn này ở được hơn tuần lễ. Ngày 1 tháng 7, đứa bé chưa quen với cuộc sống ở nơi mới này bèn bỏ nhà trốn sang làng bên cạnh chơi với bạn cũ và đến ngày 4 tháng 7 mới về. Thấy con về, ông bố giận lắm, giơ cao chiếc roi da chỉ vào mặt chú bé:

– Mấy hôm nay mày đi đâu mà bây giờ mới về? Mày bị bọn Do Thái bắt à?.

Herian lúc này sợ quá, mặt tái xanh, co dúm người lại rồi vội tát nước theo mưa nhận bừa rằng đã bị người Do Thái bắt, nhốt ở nhà số 7 phố Palandi. Ông thợ giày thấy con nói thế vội tức tốc đến báo cho sở cảnh sát. Tin này nhanh chóng lan truyền, một đồn mười, mười đồn trăm, làm dân chúng sục sôi căm hờn. Thế là xảy ra vụ tàn sát đẫm máu nói trên vì ảnh hưởng của phong trào chống Do Thái lúc đó còn khá nặng nề.

Đến nay, ngôi nhà số 7, phố Palandi đã được trùng tu và trở thành nhà tưởng niệm về vụ tàn sát này.

(Báo Bình Phước – 16/07/2013)

Chú bé chăn cừu và chó sói

Một ngày nọ có một cậu bé chăn cừu buồn rầu ngồi trên sườn núi nhìn những con cừu của làng. Để làm vui vẻ cho mình, cậu hít một hơi thật sâu rồi la lên:

– Sói! Sói! có sói đang đuổi bắt cừu!

Dân làng chạy ngay lên núi để giúp cậu bé đuổi chó sói. Nhưng khi họ đến đỉnh núi thì không thấy con chó sói nào hết. Cậu bé nhìn những khuôn mặt đang giận dữ của dân làng và cười. Người dân liền bảo với cậu bé:

– Này cậu bé chăn cừu, đừng hô sói khi không có chó sói.

Rồi họ tức giận bỏ xuống núi. Hôm sau cậu bé lại la toáng lên:

– Sói! Sói! Có sói đang đuổi bắt cừu!

Vì sự vui sướng nghịch ngợm của mình, cậu bé lại thấy người dân chạy lên núi để giúp cậu đánh đuổi sói. Nhưng khi người dân không thấy chó sói đâu họ liền nghiêm nghị nói với cậu bé:

– Hãy giành bài ca đáng sợ của cậu cho khi nào có việc xấu thực sự! Đừng hô sói khi không có chó sói!

Nhưng cậu bé chỉ nhe răng cười nhìn họ tức giận xuống núi một lần nữa.

Về sau khi cậu bé nhìn thấy một con sói thực sự đang rình mò đàn cừu của cậu. Rất hoảng sợ, cậu bé vắt chân lên chạy đi dùng hết sức gọi toáng lên:

– Sói! Sói!

Nhưng dân làng nghĩ rằng cậu bé lại lừa họ nên không ai chạy lên núi. Hoàng hôn xuống, mọi người tự hỏi tại sao không thấy cậu bé và đàn cừu trở về. Họ liền leo lên đồi để tìm cậu bé và họ thấy cậu đang vừa khóc vừa nói:

– Thực sự đã có một con sói ở đây! Bầy cừu đã chạy tan tác! Cháu đã hô có Sói! Tại sao các bác không tới?

Khi trở về làng, một cụ già đã khoác tay lên cậu bé và an ủi:

– Sáng mai chúng ta sẽ giúp cháu tìm những con cừu bị mất, không ai tin một kẻ nói dối ngay cả khi họ đang nói thật cháu ạ!

*Khi chúng ta làm sai một điều gì đó, hiển nhiên chúng ta phải bị trừng phạt. Một kẻ nói dối, sẽ không phải là người xấu nếu hắn biết làm lại.
Và khi đó, điều hắn ta cần, chính là một cơ hội! Nếu không thể cho hắn cơ hội, thì hãy để cho hắn tự tìm lấy điều đó, đừng dè bỉu hắn!

 (Nguồn: Zing)

***************

*Nếu như nói dối gây tác hại cho đời sống con người bao nhiêu thì lời nói chân thật sẽ mang lại lợi ích vô cùng to lớn bấy nhiêu. Mẫu chuyện dưới đây biểu trưng một cách khái quát:

Hoa vương

Xưa, có một vị minh quân cai trị một vương quốc trù phú thanh bình, nhân dân an cư lạc nghiệp. Đức vua tuy tuổi khá cao, nhưng đã nhiều năm trôi qua, vua vẫn chưa có được một hoàng nam nối nghiệp.

Một ngày đẹp trời, vua cho yết bảng, truyền lệnh với các đồng tử, tuổi từ 7 đến 12 vào sân rồng cho Ngài tuyển chọn người kế nghiệp. Các thần dân của đức vua trong lứa tuổi ấn định lần lượt kéo nhau về kinh đăng ký… Bất kể gia tộc, giàu nghèo, sang hèn, mỗi cậu bé đều được nhận một hạt giống tí tẹo từ vua. Các cậu bé phải đem hạt giống về, tự tay gieo trồng, chăm bón… Đến bao giờ hạt giống nảy mầm, nứt lộc đâm chồi, ra nụ kết hoa…thì sẽ mang đến hoàng cung dự thi.

Ngày khảo thí được quy định vào đêm trăng rằm tháng tám. Chậu hoa nào được đức vua và hoàng hậu chấm giải nhất thì người gieo trồng đó sẽ được vua tuyển vào cung làm hoàng tử, người sẽ kế vị đức vua lên làm ngôi cửu ngũ sau này.

Rồi ngày chờ đợi cũng đã đến. Vườn ngự uyển chất đầy các lẵng hoa không chê vào đâu được… nhưng đức vua và hoàng hậu xem chừng như vẫn chưa hài lòng, vừa mắt. Sau cùng, một chú bé khoảng tám tuổi, áo quần rách rưới nhưng mặt mũi dễ thương, xin được vào gặp đức vua của chú. Mọi người cười ồ khi thấy chú bé khư khư ôm cái chậu đất nung chứa đầy phân và đất mịn. Vị thần dân tí hon này quỳ trước bệ rồng, nước mắt chảy quanh, sụt sùi nói:

– Muôn tâu! Con đã gắng hết sức mình. Con đã chọn chiếc chậu lành lặn nhất, đặt vào đó thứ đất mịn nhất, trộn vào chậu thứ phân có nhiều chất nhất… rồi mới đặt hạt giống của đức vua ban cho con vào đó. Con đã phơi sương, ủ nắng và tưới nước cho nó, vậy mà nó không chịu nứt một cái mầm nào cả…

Nghe đến đây, nhà vua không dấu được nỗi xúc động. Ngài bước xuống ngai, ôm chầm lấy chú bé dân giả, reo lên:

– Ôi! Con chính là vị hoàng tử mà ta và toàn thể thần dân đang chờ mong!…

Mọi người đều kinh ngạc lẫn bất bình. Đức vua vuốt râu, mỉm cười giải thích:

– Tất cả các hạt giống trước khi trao cho thí sinh đều đã được hấp chín nên nó chỉ có thể nở một đóa hoa vô hình nhưng trung thực mà thôi!

Đưa tay chỉ chiếc chậu đầy đất bẩn của chú bé, nhà vua tiếp:

– Đóa hoa ấy đã đâm chồi nảy lộc ở trong mỗi một chiếc chậu này mà thôi. Con người đã gieo trồng được loài hoa ấy nhất định sẽ là vị minh quân mà đất nước chúng ta chờ đợi!

Đức vua đã không lầm trong sự lựa chọn ấy.

(Nguồn: hoavouu.com)

Thành thực

Vợ thầy Tăng Tử đi chợ. Con khóc, đòi đi theo. Mẹ bảo:

– Con ở nhà, rồi mẹ về, mẹ làm thịt lợn cho con ăn.

Lúc vợ về, thầy Tăng Tử đi bắt lợn làm thịt. Vợ nói:

– Tôi nói đùa nó đấy mà!

Thầy Tăng Tử bảo:

– Nói đùa là thế nào? Đừng khinh trẻ thơ là không biết gì. Cha mẹ làm gì, nó thường hay bắt chước. Nay mình nói dối nó, chẳng là mình dạy nó nói dối ư!

Tăng Tử nói xong, làm thịt lợn cho con ăn thật.

Lời bàn:

Thầy Tăng Tử nhà nghèo, phải giết lợn, mẹ thầy Mạnh Tử cũng cố mua miếng thịt lợn nhà láng giềng cho con ăn, đều là vì đã trót nói đùa với trẻ con ăn thịt lợn, thì không muốn nói dối nó, để giữ lấy lòng thành thực của nó. Phàm là cha mẹ, ai không muốn con mình thành thực. Muốn vậy, tất mình phải giữ gìn, chớ nói dối nó bao giờ. Lục Chi có câu nói rằng: “Nếu mình không hết lòng thành mà mong người ta hết lòng thành, chắc người ta chán mình mà không theo mình nữa. Lần này mình không có lòng thành, mà bảo lần sau rồi có lòng thành, chắc người ta ngờ vực mà không tin được nữa.”

(Cổ Học Tinh Hoa)

Câu chuyện “Quý Trát treo kiếm” khiến ai ai đều cảm động, bởi ông giữ lời hứa với ngay cả người đã mất. Mặc dù lời hứa này cũng chỉ tồn tại ở trong lòng ông chứ người được hứa hẹn cũng không hề hay biết.

Năm 544 trước Công nguyên, Quý Trát phụng mệnh đi viếng thăm nước Lỗ. Ông có mang theo một đoàn tùy tùng và xuất phát từ thủ phủ của nước Ngô. Lúc họ đi qua khu vực nước Từ, chứng kiến cảnh dân chúng nước Từ an cư lạc nghiệp, cuộc sống giàu có yên vui thì trong lòng họ không khỏi ngưỡng mộ: “Vua nước Từ trước tới nay nổi tiếng là dùng nhân nghĩa đối đãi với dân chúng, hôm nay được chứng kiến điều này, quả là danh bất hư truyền!”

Thế là, Quý Trát liền nảy sinh ý muốn tới thăm hỏi vua nước Từ một chút để thổ lộ lòng ngưỡng mộ của mình. Vua nước Từ sớm đã được nghe danh tiếng về tài đức của Quý Trát, hôm nay lại đặc biệt được ông ghé thăm nên trong lòng rất vui mừng phấn khởi. Ông vội vàng sai tôi tớ tổ chức yến tiệc để chiêu đãi. Hai người họ nói chuyện thật vui vẻ, vua nước Từ rất thích thanh bảo kiếm mà Quý Trát đeo trên người, mấy lần ông muốn nói nhưng lại không tiện mở miệng.

Quý Trát là người thông minh nên chỉ liếc mắt đã hiểu thấu lòng vua nước Từ, muốn tặng lại thanh bảo kiếm cho vua nước Từ. Nhưng đột nhiên ông lại nghĩ:

– Mình mang theo bảo kiếm đi sứ nước khác, là một sự tôn trọng lại càng là lễ tiết. Nếu bây giờ đem bảo kiếm tặng lại cho vua nước Từ thì chẳng phải là bất kính với vua nước Lỗ sao?

Nghĩ như vậy nên Quý Trát đã từ bỏ ý nghĩ tặng bảo kiếm cho vua nước Từ. Nhưng ông cũng đã tự hứa hẹn trong lòng mình rằng:

– Đợi lúc đi nước Lỗ trở về, nhất định ta sẽ tặng lại thanh bảo kiếm này cho vua nước Từ.

Từ biệt vua nước Từ, Quý Trát lại dẫn đoàn người hướng về nước Lỗ. Sau khi tới nước Lỗ, ông cũng được quốc vương nước Lỗ nhiệt tình đón tiếp và chiêu đãi. Quý Trát cũng dựa vào tài hoa và trí tuệ của mình khiến cho người dân nước Lỗ bội phục và yêu kính.

Sau khi nán lại ở nước Lỗ hơn một năm, Quý Trát bắt đầu trở về nước. Ông cũng không quên lời hứa tặng lại thanh bảo kiếm cho vua nước Từ mà ông đã để trong lòng mình hơn một năm qua. Lúc đi ngang qua biên giới nước Từ, ông quyết định vào thăm vua Từ để thực hiện lời hứa của mình. Nhưng, khi đến nơi ông lại nhận được một tin tức vô cùng bất hạnh, đó là vua nước Từ đã tạ thế.

Lúc này, Quý Trát cảm thấy vô cùng hối hận và đau khổ. Ông cởi thanh bảo kiếm ra và tặng lại cho người kế thừa của vua Từ. Đoàn người tùy tùng đi theo ông vội ngăn cản và nói:

– Thanh bảo kiếm là quốc bảo của nước Ngô, sao có thể tùy tiện đem tặng cho người khác? Huống hồ bây giờ vua Từ cũng đã qua đời, thì cần gì phải tặng cho người thừa kế chứ?

Quý Trát nghe mọi người nói vậy liền trả lời:

– Lần trước trong lúc nói chuyện cùng với vua Từ, ta không tặng bảo kiếm cho ngài là vì ta còn phải có nhiệm vụ đi sứ nước Lỗ. Nhưng trong lòng ta sớm đã hứa sẽ tặng nó cho vua Từ rồi. Đã hứa rồi, sao có thể vì vua Từ đã mất mà lừa gạt lương tâm của mình đây? Hơn nữa, ta là công tử và sứ giả của nước Lỗ mà lại không coi trọng chữ tín, nếu như điều này truyền đi thì đâu còn mặt mũi nào mà đối mặt với mọi người? Người khác sẽ nhìn chúng ta như thế nào?

Lúc ấy, người kế thừa của vua Từ cũng từ chối không nhận mà nói:

– Ta không có di mệnh của người đã mất, nên không dám tiếp nhận thanh bảo kiếm này.

Thế là, Quý Trát liền đem thanh bảo kiếm treo trên cây liễu trước mộ của vua Từ. Hành động này của ông khiến thần dân nước Từ ai ai cũng ngợi ca, họ còn sáng tác một ca khúc để ca tụng về ông. Cũng từ đó câu chuyện “Quý Trát treo kiếm” được lưu truyền cho đến thời nay.

Qua câu chuyện này chúng ta có thể nhận thấy ý nghĩa sâu sắc của “thành tín”. Quý Trát đã giữ lời hứa với ngay cả người đã mất. Mặc dù lời hứa này cũng chỉ tồn tại ở trong lòng ông chứ người được hứa hẹn cũng không hề hay biết. Loại cảnh giới cao thượng này thực sự khiến con người phải cảm động.

(Theo: daikynguyen)

Tầm quan trọng của việc giữ lời hứa

Cậu bé Qi và những chai bia Đức

Trước đây, ở phía nam dãy Himalaya của Nepal, rất ít người nước ngoài đến thăm. Nhưng sau đó, một số lượng lớn du khách Nhật Bản đã đến thăm nơi đây, nguyên nhân là do một cậu bé ở Nepal đã giữ lời hứa của mình.

Hơn mười năm trước, vào một ngày nọ, một số nhiếp ảnh gia Nhật Bản đã đến thăm các khu vực núi non của Nepal để chụp ảnh cho các dự án của họ. Họ đã đến một ngôi làng ở độ cao 1500 mét. Các làng đều không có nước, điện, không có đường cho xe du lịch. Sau khi họ làm việc chăm chỉ, họ muốn uống một chút bia. Vì họ đã phải đi con đường núi hiểm trở nên họ đã không thể mang theo ngay cả một chai bia để cho hành lý nhẹ nhàng nhất có thể.

Có một thiếu niên tên là Qi Duoli trong làng. Thông qua thông dịch viên, Qi nói với các nhiếp ảnh gia rằng cậu có thể đi xuống một ngôi làng nhỏ ở chân núi để mua bia Đức cho họ. Các nhiếp ảnh gia đã rất ngần ngại lúc đầu, bởi vì đường đi rất xa. Nhưng cậu bé khăng khăng rằng cậu sẽ đi nhanh chóng và trở lại trước khi trời tối. Như đã hứa, Qi trở về trước khi trời tối với năm chai bia trong túi vải nhỏ của mình.

Ngày hôm sau, Qi lại tình nguyện đi mua bia cho các nhà nhiếp ảnh. Họ đưa cậu nhiều tiền hơn và một túi vải lớn hơn. Tuy nhiên, Qi đã không trở lại đêm đó. Sáng hôm sau, khi các nhiếp ảnh gia hỏi thăm về cậu bé, dân làng nói với họ rằng có thể Qi đã mang tiền bỏ chạy, bởi vì nhà Qi trong làng khác và cậu ta chỉ đi học ở đây thôi.

Đoàn khách Nhật rất hối tiếc, nhẽ ra họ không nên vấy bẩn sự tinh khiết của một đứa trẻ bằng tiền. Nhưng vào giữa đêm, họ nghe tiếng người gõ cửa. Khi mở cửa, họ trông thấy Qi với bộ quần áo rách toạc đầy bùn, trên người cậu xuất hiện nhiều vết bầm tím. Qi giải thích rằng cậu chỉ có thể mua bốn chai bia tại ngôi làng đầu tiên, và cậu đã phải leo qua một ngọn núi tới một ngôi làng khác để mua thêm sáu chai. Nhưng không may, cậu bị ngã và làm vỡ ba chai bia Đức. Qi sau đó trao trả bia, tiền lẻ và những mảnh thủy tinh vỡ cho họ.

Các nhiếp ảnh gia Nhật Bản xúc động đến nỗi che mặt lại và khóc, có lẽ họ xấu hổ vì đã nghi ngờ sự trung thực của Qi. Khi câu chuyện dần lan rộng ở Nhật Bản, tất cả những người nghe được câu chuyện vô cùng cảm động và muốn gặp người thiếu niên đơn giản biết giữ lời hứa của mình, và muốn tới miền núi nơi cậu lớn lên. Kết quả là, khu vực này đã ngày càng có nhiều hơn và nhiều hơn nữa khách du lịch Nhật Bản.

(Theo kangzhongguo) 

VTÀ DÂM

Định nghĩa:

Ác Tà Dâm thứ năm càng tệ,

Chúa hôn mê chiếm đoạt thê thần.

Làm đảo huyền tất cả quốc dân,

Tôi bất chánh hoàng cung dâm loạn.

Tội lỗi ấy diễn nhiều thảm trạng,

Từ xưa nay Trời đất đâu dung.

Giàu của nhiều dâm hiếp bần cùng,

Quan lấn thế dâm ô dân khó.

Trai liều lĩnh điều này nên bỏ,

Đừng phá trinh hại tiết nữ nhơn.

Gái lẳng lơ tiếng huyễn lời đờn,

Hoa có chủ đèo bồng tình mới.

Cất tiếng gọi nữ nam ơi hỡi,

Bỏ những điều điếm nhục tông môn.

Đứng nam nhi học lấy điều khôn,

Lòng trung hiếu gìn theo đạo lý.

Hàng phụ nữ gương xưa nối chí,

Những mẹ hiền dâu thảo roi truyền.

Niệm Phật mà gây lấy thiện duyên,

Cho đẹp mặt Tổ tiên nòi giống.

Thờ Phật Đạo tỉnh cơn ác mộng,

Thoát mê đồ thường phóng quang minh.

(Khuyến thiện – Vô Danh cư sĩ)

Tà dâm.- “Muôn việc lành hiếu thuận đứng đầu, ngàn việc dữ tà dâm đứng trước”. Sách sử thường bảo như thế.

Lần dở xem sử sách, thời thấy tội ác ấy lan diễn khắp nơi, từ trào nội cho đến thứ dân, từ trong gia đình đến kẻ xa người lạ; nó là mầm gây ra biết bao thảm trạng! Gương của vua Tề với vợ Thôi Tử, An Lộc Sơn với Dương Quý Phi há chẳng còn lưu liên hậu thế ? Giàu ỷ của hiếp dâm kẻ khó, quan ỷ quyền cưỡng bức đám dân hèn. Gian phu, dâm phụ, từ xưa đến nay luôn luôn đều có.

Muốn tránh sự bại hoại nền luân lý nước nhà, muốn giữ gìn tiếng tăm của gia thế, phải đừng để dục tình lôi cuốn, bắt chước gương xưa trau giồi lòng hiếu trung, trinh  tiết .

(SGTVTB 2004, tr, 189-190).

 Dẫn chứng:

An Lộc Sơn và Dương Quý Phi

Dương Quí Phi sanh đời Đường, hiệu là Thái Chân. Nàng có sắc đẹp khuynh thành và trí thông minh, được Thái Tử Long Cơ yêu, cưới về làm vợ. Song vua cha là Đường Huyền Tông quá say mê sắc đẹp Thái Chân, bèn đoạt lấy phong làm Dương Quí Phi. Còn An Lộc Sơn làm Tiết Độ Sứ cho vua Đường. Sơn a tùng với Lý Lâm Phủ (tôi gian nịnh) vào làm con nuôi của Quí Phi, rồi cùng tư thông với Quí Phi và mưu đồ cướp ngôi nhà Đường.

Tháng giêng năm 776, An Lộc Sơn xưng Đại Yến Hoàng Đế tại Lạc Dương, đến tháng 6 đã đánh bại quân Đường tại Đồng Quan rồi tiến thẳng về Tràng An, Đường Huyền Tông (lúc này làm Thái thượng hoàng – con trai là Đường Túc Tôn lên thay) thấy nguy cấp liền bỏ chạy xuống miền Nam.

Trên đường lánh nạn vô cùng gian nan khổ nhọc. Ngày 14 tháng 7 năm 756, mọi người đến Mã Ngôi thì tướng sĩ không chịu đi nữa, vì lương thực đã hết lòng căm phẫn đối với họ Dương dâng cao tột độ, nên đã bức vua đem thắt cổ Dương Quý Phi thì họ mới chịu phò vua. Vì họ cho rằng Quý Phi là mầm sinh đại loạn. Nhà vua không còn cách nào khác, đành phải hy sinh Dương Quý Phi. Khi đó bà 38 tuổi.

Về sau, trong nội bộ quân phiến loạn xảy ra lục đục, An Lộc Sơn bị con trai là An Khánh Tế giết chết, quân Đường đã nhân cơ hội này phản công chiếm lại được Tràng An và Lạc Dương. Ít lâu sau, bộ tướng của An Lộc Sơn là Sử Tư Minh đã giết chết An Khánh Tế và đánh chiếm lại Lạc Dương, cũng xưng là Đại Yến Hoàng Đế, nhưng sau đó cũng bị con trai là Sử Triều Nghĩa giết chết. Cuối cùng Sử Triều Nghĩa lại bị quân nhà Đường tiêu diệt. Cuộc phiến loạn kéo dài trong suốt 8 năm trời này được lịch sử gọi là “An Sử chi loạn”.

Chiến cuộc đã gây nên thảm cảnh điêu tàn thê lương, tổng nhân mạng tử vong khoảng 2/3 dân số toàn quốc, và cũng là bước ngoặt khiến triều nhà Đường từ hưng thịnh đến suy thoái, nền kinh tế Trung Hoa phải mất hơn 100 năm sau mới khôi phục lại nguyên trạng!!!

(NLHMNĐV tổng hợp)

Tề Trang Công với vợ Thôi Tử

Thời Trung Quốc cổ đại, kẻ leo lên được ngôi cao chí tôn sẽ phải đạp đổ rất nhiều người, thậm chí chôn vùi không ít những sinh mạng vô tội. Điều lạ lùng là trong cơn bão tranh quyền đoạt lợi ấy đã có không ít những đấng anh hùng phong lưu đã phải chết dưới chân mỹ nhân.

Thời Xuân Thu có cặp quân thần có mối quan hệ vô cùng thân thích, nhưng cũng chỉ vì góa phụ lẳng lơ mà đã làm rạn nứt mối liên minh quyền lực đó, dẫn đến vụ án “ Thôi Tử giết vua” nổi tiếng trong lịch sử.

Thôi Tử là đại phu Tề quốc thời Xuân Thu, nhân lúc Tề Linh Công mang trọng bệnh, Thôi Tử đã ra tay giết chết thái tử và Thái Phó, đón thái tử đã bị phế là Công tử Quang tức vị. Thôi Tử nghiễm nhiên trở thành trọng thần tâm phúc và được tín nhiệm nhất của tân quân Tề Trang Công.

Khi nắm quyền triều chính, Thôi Tử ngang tàng, kiêu ngạo ngút trời. Ông ta thường lợi dụng vương quyền của Trang Công cả gan làm nhiều việc tày đình. Trang Công cũng mượn tay ông ra tay trừ khử những người chống đối. Một người là quân, một kẻ là thần, kẻ tung người hứng, kết hợp vô cùng ăn ý, bất kể điều gì cũng không phân biệt. Nhưng thói đời trớ trêu, quyền lực có thể san sẻ nhưng không thể chia sẻ mỹ nhân.

Thôi Tử có người vợ tên Đông Đường Khương, vốn là một đại mỹ nhân đương thời. Đông Đường Khương là vợ Đường Công, khi Đường Công chết, Thôi Tử đã bỏ qua mọi lời ngăn cản để rước nàng góa phụ có sắc đẹp mê hồn này về làm thiếp. Không ngờ, Tề Trang Công gặp nàng cũng mê mẩn, nên thường lợi dụng lấy thân phận quân vương để lén lút thông dâm với Đường Khương và cắm sừng Thôi Tử.

Khi Thôi Tử phát hiện ra việc này, thì mọi sự đã rồi. Thôi Tử rất hận, từ đó mối quan hệ liên minh giữa ông và vua rạn nứt, Thôi Tử luôn tìm cơ hội giết Tề Trang Công rửa hận.

Mùa hè năm 548 trước công nguyên, Tề Trang Công thiết yến tiệc ở Thành Bắc đãi sứ giả nước Cử. Thôi Tử cáo bệnh ở nhà, Tề Trang Công mượn cớ đến Thôi Phủ hỏi thăm nhưng thực ra muốn đến gặp người tình. Đường Khương mắt cười lúng liếng đưa Trang Công vào nội thất, sau đó cùng Thôi Tử luồn ra cửa hông, đóng cổng chính để chuẩn bị vây đánh chó xé rào chui vào nhà.

Điều nực cười, Tề Trang Công không hề hay biết mình sắp chết, vẫn ôm cột uống rượu, vẻ mặt hoan hỉ chờ đợi người tình. Đúng lúc này, giáp sĩ trốn dưới đất bất ngờ chui lên, dồn Trang Công vào góc tường và giết chết. Đám thần tử theo hầu Trang Công cũng bị Thôi Tử ra lệnh cho thuộc hạ giết chết để làm vật tùy táng cùng tên vua háo sắc.

Sau khi Thôi Tử giết chết Trang Công, đưa Khương Chử Cữu lên làm tân quốc quân chính là Tề Cảnh Công, bản thân tự đảm nhiệm chức tể tướng đương triều, đồng thời phong cho Khánh Phong làm tả tướng. Nhằm ngăn chặn sự phản đối của các đại thần trong triều, Khánh Phong và Thôi Tử muốn các đại thần cùng nhau thề sẽ trung thành với Thôi Tử và Khánh Phong. Dưới sự uy hiếp của đao kiếm, đến kẻ ngu dốt cũng hiểu rằng ngoan ngoãn nghe lời lúc này sẽ là thượng sách.

Hai năm sau tại Thôi gia có biến, vì Thôi Tử mê Đường Khương muốn lập Thôi Minh con của Đường Khương kế tục sự nghiệp nên hai người con trai vợ cả là Thôi Cương và Thôi Thành uất ức chạy đến cầu cứu Khánh Phong.

Từ lâu đã muốn trừ khử Thôi Tử để chuyên quyền, nên Khánh Phong đã cấp quân cho Thôi Thành và Thôi Cương quay về Thôi Phủ giải quyết thù hận. Thôi Tử và vợ thoát được ra ngoài, đến cầu cứu Khánh Phong, không ngờ đã mắc mưu, Khánh Phong đưa quân xông vào Thôi phủ tận diệt thế lực gia tộc họ Thôi.  Hai vợ chồng Thôi Tử trở về nhà thấy nhà cửa tan hoang, cả họ bị giết không còn ai, mới nhận ra mưu đồ của Khánh Phong. Ông cùng vợ tự sát.

(Theo: kienthuc.net.vn)

Quả báo tà dâm và cự tuyệt tà dâm (Quan hệ bất chính)

*Vào triều đại nhà Minh, tại Ninh Ba có một vị thư sinh tên là Tôn Đạo. Vì nhà nghèo khó nên anh ta phải chăm chỉ dạy học thuê để kiếm sống. Về sau, ngay cả chức nghiệp này anh ta cũng không giữ được thế là đành phải nương nhờ vào việc ghi chép cho gia đình họ Trương ở Đường Tây sinh sống.

Một hôm đêm đã rất khuya, nhà họ Trương có một tỳ nữ lén lút chạy đến phòng của Tôn Đạo. Tôn Đạo biết rõ ý đồ của tỳ nữ này nên đã dùng lời lẽ nghiêm nghị mà cự tuyệt. Nhưng tình cảnh này lại bị một vị thầy giáo dạy học cho trường học tư của nhà họ Trương nhìn thấy. Ông ta liền lén lút gọi mời tỳ nữ này đến gặp gỡ.

Đến tiết Đoan Ngọ, ông đó phát bệnh toàn thân đau nhức, không có cách nào chữa trị. Lúc này, chủ nhà đành phải mời Tôn Đạo lên làm thầy giáo đứng lớp chính.

Một hôm, Tôn Đạo gặp người chú của thầy giáo ấy tại Giang Khẩu. Người chú kinh ngạc hỏi:

Bởi vì con trai của ta bị bệnh nên ta đến miếu thờ Thành Hoàng cầu nguyện. Đến lúc trời tối, ta ngủ luôn ở đó, không ngờ mơ thấy Thần Thành Hoàng ngồi trên điện. Sau đó, vị Thần Thành Hoàng kêu thuộc hạ dâng cuốn sổ ghi chép những người có mệnh bị chết đói lên để sửa đổi. Từng tên từng tên được đọc lên, khoảng chừng mười mấy người thì ta nghe thấy có tên của ngươi. Ta vụng trộm hỏi vị minh quan: “Vì sao mà Tôn Đạo lại được cải sửa?” Vị minh quan nói: “Trong bổn mệnh của người này, vào năm 46 tuổi sẽ bị chết đói nơi đất khách quê người. Nhưng bởi vì vào đêm ngày 18 tháng Tư năm nay anh ta đã nghiêm khắc cự tuyệt dâm với một tỳ nữ, cho nên sẽ kéo dài tuổi thọ của anh ta thêm hai kỷ nữa (tức 24 năm). Đồng thời cải sửa tự mệnh phải chịu đói khát thành được hưởng bổng lộc.

Nói đến đây, người chú này liên tục nói lời chúc mừng Tôn Đạo.

Về sau, học sinh theo học Tôn Đạo càng ngày càng đông, mỗi năm tiền học phí mà Tôn Đạo thu được lên đến hơn 100 lượng vàng. Đến năm 36 Vạn Lịch, Tôn Đạo 46 tuổi, quả nhiên năm đó mất mùa, giá gạo vô cùng đắt đỏ, những người nghèo hầu như không có tiền mua, người chết đói vô cùng nhiều. Nhưng Tôn Đạo không những tránh được kiếp nạn này mà còn vô cùng giàu có. Lúc về già, gia đình Tôn Đạo vẫn thuộc hàng giàu có. Khi năm Tôn Đạo 70 tuổi, không bệnh mà chết (ứng nghiệm với việc được kéo dài 24 năm).

*Bùi Chương là người ở Hà Đông, Sơn Tây. Cha của Bùi Chương là bạn thân thiết của Thần tăng Đàm Chiếu pháp sư. Pháp sư Đàm Chiếu là người tinh thông tướng thuật. Ông xem tướng Bùi Chương, thiên đình đầy đặn, địa các tròn trịa, công danh sự nghiệp trong tương lai nhất định có thành tựu lớn.

Năm Bùi Chương 20 tuổi, anh ta lấy vợ tên là Lý Thị. Năm sau, Bùi Chương đến Thái Nguyên làm quan còn người vợ ở nhà. Mấy năm sau, Bùi Chương gặp lại pháp sư Đàm Chiếu, ông hết sức kinh ngạc nói:

Mấy năm trước, ta nhìn cậu có tướng hiển quý sao bây giờ lại đổi khác như vậy? Thiên đình đầy đặn của cậu trước đây sao bây giờ lại hõm vào như vậy? Địa các vốn tròn trịa sao bây giờ lại nhọn như vậy? Hơn nữa, lòng bàn tay còn có vùng khí đen, e rằng sẽ gặp họa, cậu nên đề phòng. Tướng của cậu trở nên như vậy, không biết là cậu đã làm việc thiếu đạo đức gì?

Bùi Chương nghe xong liền ngẫm nghĩ lại những việc làm của mình mấy năm qua. Nghĩ đi nghĩ lại, Bùi Chương chỉ thấy duy nhất một việc trái với luân thường đạo lý là đã “ăn ở” với một người phụ nữ ở Thái Nguyên, còn lại không làm việc gì thất đức cả.

Pháp sư Đàm Chiếu thở dài một hơi rồi nói:

Cậu vốn có tiền đồ sáng lạn, vậy mà lại không biết trân quý mà cùng người phụ nữ khác hành dâm. Cậu đúng là đã tự hủy hoại phúc đức của mình, thật là quá đáng tiếc!

Không lâu sau, đúng như lời pháp sư nói, tai họa ập xuống Bùi Chương. Lúc anh ta đang tắm rửa thì bị thuộc hạ lẻn vào hành thích, con dao đâm trúng vào bụng khiến cho nội tạng bị lòi ra mà chết. Nhất sinh nhất tử, thiện ác báo ứng thật sự không sai.

Người xưa nói: “Bách thiện hiếu vi tiên, vạn ác dâm vi thủ.” (Tạm dịch: Trong trăm cái thiện thì hiếu đứng đầu, trong vạn cái ác thì dâm – quan hệ nam nữ bất chính- đứng đầu) để nói rõ rằng phạm tội dâm sẽ bị báo ứng nặng nhất. Người tu hành thời xưa một khi phạm vào tội tà dâm thì vĩnh viễn mất đi cơ duyên tu luyện, thật đáng sợ! Những bài học này vẫn còn nguyên giá trị đạo đức cho người thời nay chiếu theo học tập.

(Theo NTDTV- Mai Trà biên dịch)

*Người phạm tà dâm sau khi chết sanh vào các ác đạo: Địa ngục, Ngạ quỷ, Súc sanh. Sau khi hết quả báo ở các ác đạo, nếu sanh làm người sẽ bị 20 quả xấu:

1- Là người có nhiều người oan trái.

2- Là người có nhiều người thù ghét.

3- Là người nghèo khổ, thiếu thốn.

4- Là người ngủ không được an lạc.

5- Là người thức không được an lạc.

6- Là người không tránh khỏi 4 cõi ác giới (địa ngục, atula, ngạ quỷ, súc sinh).

7- Là người ái nam, ái nữ (không phải đàn ông, cũng không phải đàn bà).

8- Là người có tính hay nóng giận.

9- Là người sinh vào dòng họ thấp hèn, hạng người thấp hèn.

10- Là người có tính không minh bạch, hay che giấu tội lỗi.

11- Là người có thân hình tật nguyền, xấu xí.

12- Là người có sắc diện mặt mày sầu não, khổ tâm.

13- Là người bị mọi người coi thường khinh bỉ, không tin tưởng.

14- Là người khuyết tật: Đui mù, câm điếc,…

15- Sinh làm người đàn bà (tiền kiếp là người đàn ông).

16- Là người có nhiều chứng bệnh đáng ghê sợ.

17- Là người không biết đủ, sống khổ cực.

18- Là người sống nơi nào cũng không được an lạc.

19- Là người gặp nhiều tai hại, oan trái với mọi người.

20- Là người sống xa người thân yêu, hay bị ruồng bỏ.

Đó là 20 quả xấu của ác nghiệp tà dâm từ kiếp quá khứ. Ngược lại, người không phạm tà dâm sẽ được 20 quả báo tốt đẹp:

– Là người không có người oan trái.

– Là người được mọi người thương yêu quý mến.

3- Là người có nhiều của cải giàu sang phú quý.

4- Là người ngủ được an lạc.

5- Là người thức được an lạc.

6- Là người có thể tránh được 4 cõi ác giới (địa ngục, atula, ngạ quỷ, súc sinh).

7- Sinh làm người đàn ông hoàn toàn 100%.

8- Là người có tính ôn hòa, ít nóng giận.

9- Là người sinh ra trong dòng họ cao quý, có tính khiêm nhường.

10- Là người có tính minh bạch rõ ràng, không che giấu tội lỗi.

11- Là người không có tật nguyền, có thân hình xinh đẹp, đáng ngưỡng mộ.

12- Là người có sắc diện trong sáng.

13- Là người được mọi người tin tưởng.

14- Là người có ngũ quan (5 giác quan của con người) đầy đủ và tốt đẹp.

15- Là người có tư cách đáng kính.

16- Là người không có những chứng bệnh đáng ghê sợ.

17- Là người có trí tuệ, đời sống được an lạc.

18- Là người sống nơi nào cũng được an lạc.

19- Là người không có tai hại, không có người gây oan trái.

20- Là người thường được sống gần gũi với người thân yêu.

Đó là 20 quả báu tốt của thiện nghiệp không tà dâm từ kiếp quá khứ.

(Theo: Nền Tảng Phật Giáo – Soạn giả: Tỳ khưu Hộ Pháp)

Háo sắc giết người, bị oan hồn lấy mạng

Vào một ngày năm Canh Ngọ thời vua Càn Long, quan khố bị phát hiện mất ngọc quý, vì thế nghi ngờ tập trung vào viên quan tạp dịch. Trong đó có một vị tên là Thường Minh, khi bị thẩm vấn, bỗng nhiên giọng nói thay đổi, dùng giọng nói của một đứa trẻ nói:

– Ngọc quý không phải hắn trộm, nhưng hắn là người đã hại ta. Ta chính là oan hồn của người bị hắn giết.

Quan thẩm án nghe vậy thì hoảng hồn, càng tra hỏi thì càng đúng sự thật. Nếu là chuyện xảy ra ở thời hiện đại, khẳng định là đã nhanh chóng đưa đi xét nghiệm tâm thần. Nhưng thời ấy, từ triều đình cho đến dân chúng, đều tin quỷ thần. Nói đến chuyện quỷ thần, quan phá án kia vẫn có chút sợ, ông không dám tùy tiện quyết định, bèn lệnh đưa Thường Minh đến Hình bộ.

Hình bộ vừa hay lúc đó là cha của Kỷ Hiểu Lam tiếp nhận bản án này. Ông cùng với quan phủ Giang Tô thụ lý vụ án. Phụ thể bám trên người Thường Minh nói:

– Ta tên là Nhị Cách, năm nay 14 tuổi, nhà ở Hải Điến. Cha ta tên là Tinh Vọng. Ngày 15 tháng Giêng tức Tết Nguyên Tiêu năm kia, Thường Minh cùng ta đi xem hội đèn lồng. Nào ngờ Thường Minh thích ta, lúc về đã trêu chọc ta. Ta liền liều mạng chống cự, la hét. Thường Minh nghe vậy liền cuống cuồng, dùng dây lưng siết cổ ta đến chết, rồi chôn xác ta ở dưới bờ sông. Sau đó, cha ta nghi ngờ Thường Minh hại ta, nên đã đến tuần thành Ngự Sử tố cáo hắn. Vụ án được đưa đến hình bộ, nhưng vì không có chứng cứ, kết luận cần truy bắt thủ phạm khác. Vì vậy, oan hồn của ta luôn luôn bám theo Thường Minh, mới đầu đứng cách hắn chừng 4-5 thước đã thấy nóng hừng hực, không thể tới gần. Sau thì nhiệt độ tiêu giảm dần, ta có thể tới gần hắn chừng 2-3 thước, rồi có thể gần hắn 1 thước. Ngày hôm qua ta cảm thấy không còn nóng, cuối cùng có thể bám vào trên người hắn.

Hình bộ tìm lại hồ sơ vụ án trước kia, quả nhiên đúng như lời oan hồn nói. Quan chủ thẩm hỏi:

– Xác của ngươi hiện tại ở đâu?

Oan hồn Nhị Cách nói rằng xác chôn bên cạnh cây liễu ở bờ sông. Quan chủ thẩm cho người đến điều tra, quả nhiên đã đào thấy một xác chết, vẫn chưa bị thối rữa. Quan chủ thẩm triệu cha của Nhị Cách tới nhận dạng, vừa nhìn thấy cái xác, ông liền khóc to:

– Con ơi, cha bây giờ mới tìm được con!…

Vụ án tưởng chừng không có chứng cứ, đường đường là Hình bộ triều đình, rồi bao nhiêu quan phủ thẩm án cùng đám bà cốt vẫn không tìm ra chút manh mối. Nhưng mà oan hồn Nhị Cách đã chứng minh từng tình tiết vụ án, đều là sự thật, chứng cứ vô cùng xác thực.

Sau đó lại tra hỏi thêm Thường Minh, vừa gọi tên Thường Minh, thì là giọng của Thường Minh rất tỉnh táo ngụy biện; nhưng vừa gọi tên Nhị Cách, thì lại là giọng nói của Nhị Cách, mê mê tỉnh tỉnh. Tra thẩm đến cuối cùng, chứng cứ đã hết sức xác thực, không thể chối cãi, Thường Minh chỉ có thể nhận tội.

Bản án đến đây đã rõ ràng, Hình bộ trình báo với vua Càn Long. Kết quả, Thường Minh bị phán quyết xử trảm.Vừa đưa ra phán xét, oan hồn Nhị Cách hưng phấn lạ thường, bỗng nhiên lớn tiếng hét to “Bán… bánh” – chính là lúc còn sống Nhị Cách đi bán bánh vẫn thường rao như vậy. Tiếng rao đó so với lúc Nhị Cách còn sống là giống nhau như đúc.

Cha của Nhị Cách nghe thấy vậy thì xúc động nói:

– Lâu rồi ta mới được nghe thấy tiếng con!.

Ông lại hỏi:

– Con ơi, bây giờ con muốn đi đâu?

Oan hồn Nhị Cách nói:

– Con cũng không biết, cha, con phải đi rồi!

Từ đó về sau, khi hỏi lại Thường Minh, thì không thấy hắn nói giọng của Nhị Cách nữa.

(Theo “Duyệt vi thảo đường bút ký”)

Hồn ma theo báo oán

Vương Cần Chính, người huyện Lạc Dương, cùng người phụ nữ hàng xóm có gian tình với nhau, cả hai cùng hẹn nhau chuẩn bị bỏ trốn; nhưng Vương Cần Chính sợ người chồng của nhân tình phát hiện, sẽ đuổi theo họ, vậy nên mãi cứ do dự không dám hành động.

Thật không ngờ rằng, người phụ nữ này lại vì vậy mà đã xuống tay giết hại chồng mình, chuẩn bị cùng với Vương Cần Chính cao chạy xa bay. Vương Cần Chính sau khi biết chuyện, trong lòng vô cùng kinh hãi, lập tức bỏ trốn một mình, một mạch đi đến huyện Giang Sơn cách xa 70 dặm, còn tự nhủ rằng: “Mình đã trốn xa đến vậy rồi, có thể thoát thân, tránh được tai họa rồi!”

Lúc này, Vương Cần Chính cảm thấy bụng đói cồn cào, liền ghé vào một quán ăn. Không ngờ, chủ quán lại chuẩn bị phần cơm cho hai người dùng. Vương Cần Chính hỏi chủ quán rằng:

– Tôi chỉ đi có một mình, sao ông lại chuẩn bị phần ăn cho hai người vậy?

Chủ quán nói:

Mới nãy tôi nhìn thấy một người đàn ông đầu bù tóc rối đi sát bên cạnh ông. Lẽ nào hai người các ông không phải là đi chung với nhau hay sao?

Vương Cần Chính nghe thấy chủ quán nói như vậy không khỏi rùng mình, biết rằng oan hồn của người đàn ông đã bị giết chết đó đã đi theo sau mình, liền đến quan phủ tự thú.

Vương Cần Chính và người phụ nữ hàng xóm, tuy không ở cùng một nơi, nhưng lại bị đưa ra pháp trường, nhận án tử hình trong cùng một ngày.

Câu chuyện oan hồn đòi mạng này, điều đặc biệt ở chỗ: họ Vương trên bề mặt vốn không có động thủ giết người, nhưng ông ta thông gian với vợ người ta, là nguyên nhân khiến cho người vợ xuống tay giết chồng. Vậy nên, họ Vương tuy không giết người, và đã lập tức bỏ trốn, nhưng đạo trời không dung, khó tránh khỏi cái chết. Đôi gian phu dâm phụ, mỗi người thân tuy ở một nơi khác nhau, nhưng lại nhận lấy cái chết trong cùng một ngày, cũng thật là ông trời khéo an bài, lấy đó mà cảnh tỉnh người đời!

(trích:“ Tập phúc tiêu tai chi đạo”

-Tiểu Thiện, dịch từ epochtimes.com)

Sướng Khổ do Nghiệp tạo thành

Vào thời vua Hán Cảnh Đế, Bùi Độ là anh chàng nghèo khổ lang thang, làm nghề bán dầu, được thầy tướng số cho biết sẽ chết đói do có hai đường chỉ chạy xéo từ cằm lên mép miệng.

Một lần, Bùi Độ gặp thiếu nữ tên Ngọc Hà, ngồi khóc bên giếng sâu. Hỏi ra sự tình mới biết thiếu nữ mang vàng đi để chuộc tội oan cho cha, chẳng may đánh rơi vàng xuống giếng. Ai cũng nói dưới giếng có con trăn to khiến thiếu nữ đang tuyệt vọng muốn quyên sinh. Bùi Độ thương tình, nghĩ mình trước sau cũng chết đói nên liều mạng leo xuống tìm. Kết quả tìm được vàng cho thiếu nữ. Nhờ đó gia đình thiếu nữ được phục hồi danh dự và quyền thế.
Tình cờ trong một lần gặp lại, nhà tướng số kinh ngạc nói rằng tướng chết đói của Bùi Độ đã biến mất mà thay vào đó là tướng công khanh phú quý rực rỡ.

Quả nhiên, sau này người thiếu nữ sau khi cứu được cha đã tìm đến đền ơn, đem Bùi Độ về dạy học và giao ước vợ chồng rồi mới thưa với phụ thân. Cha nàng gửi gắm Bùi Độ sang một người bạn khác để nhờ tiến cử. Thời gian xa cách Ngọc Hà, Bùi Độ đã lạc lòng với những hình bóng giai nhân khác.

Trên bước đường tiến quan, Bùi Độ ghé vào thăm nhà tướng số cũ để tạ ơn, nhưng ông bảo Bùi Độ đã hiện lại tướng chết đói. Bùi Độ tức giận bỏ đi.
Sau khi được làm quan, Bùi Độ đánh mất nhân cách, chỉ tìm cách cưỡng bức các cô gái đẹp, bị triều đình hạ lệnh bắt về kinh trị tội. Bùi Độ sợ hãi trốn vào rừng rồi chết đói cạnh một mỏm đá. Ngọc Hà đau khổ tìm chồng, trông thấy bộ xương và cũng gục chết bên cạnh.

Qua câu chuyện ta thấy cái phước của Bùi Độ xuất hiện do tâm niệm liều mạng tìm vàng cứu cô gái. Phước đó lớn đã giúp Bùi Độ chuyển hẳn tướng mạo và số mệnh để trở thành quan chức vinh hiển. Nhưng rồi, Bùi Độ lại thể hiện tư cách tầm thường do tham dục chi phối, mà đã phá vỡ phước cũ để cho nghiệp chết đói đủ cơ duyên xuất hiện trở lại.

(Theo: hoalinhthoai.com)

Maha Kàla bị giết

Ðiều ác tự mình làm

Tự mình sanh mình tạo,

Nghiền nát kẻ ngu si,

Như kim cương ngọc báu.

Phật dạy bài kệ trên tại Kỳ Viên liên quan đến một cư sĩ tên là Mahà Kàla đã đắc quả Dự Lưu.

Vào ngày thứ tám trong tháng, Mahà Kàla tự mình thọ trì bát quan trai giới, và ở lại Tinh xá suốt đêm nghe pháp. Có vài tên trộm sau khi đột nhập một gia đình giàu có, khua vang đồ đạc làm chủ nhà thức dậy rượt đuổi. Chúng ném hết của đã lấy rồi phân tán mạnh ai nấy chạy. Một tên lọt vào Tinh xá vào lúc sáng sớm, ném món đồ trước mặt Mahà Kàla đang rửa mặt bên bờ ao, rồi chạy mất. Chủ nhà chẳng thấy tên trộm đâu, chỉ thấy cư sĩ với tang vật, hét vào mặt anh:

– Té ra anh là người xông vào nhà tôi ăn trộm đấy hẳn! Vậy mà anh làm như suốt đêm đã nghe pháp đấy!

Anh không kịp thốt lời nào đã bị đánh tới tấp đến chết. Họ bỏ xác anh trên đường rồi đi mất.

Sáng sớm các Tỳ kheo trẻ và Sa di ôm bình rời Tinh xá đi lấy nước, thì phát hiện xác chết của cư sĩ. Họ đến thưa chuyện với Thế Tôn:

– Cư sĩ đã ở lại suốt đêm để nghe pháp và bị chết thảm như thế, thật ngược với công lao của anh!

Phật bảo:

– Quả đúng như vậy, này các Tỳ kheo! Cái chết của Mahà Kàla không chính đáng nếu chỉ xét kiếp hiện tại này. Nhưng so với các nghiệp ác đã gây ở kiếp trước thì không oan uổng.

Và Ngài kể:

(Chuyện quá khứ: người lính và người có cô vợ đẹp)

Thật xa xưa ở một làng ven biên giới thuộc xứ của vua Ba La Nại, một băng trộm thường phục kích khách đi đường tại lối vào rừng. Vua phải chốt một người lính tại đó, và tùy thời người lính sẽ hộ tống khách vào rừng rồi trở ra.

Ngày kia có hai vợ chồng vào rừng trên chiếc xe nhỏ. Người lính thấy cô vợ quá đẹp nên lọt vào lưới tình. Khi họ xin được hộ tống thì người lính bảo đã quá muộn, phải chờ sáng mai. Khách nài nỉ vì mùa này trời tốt nên xin được đi ngay, nhưng người lính nhất quyết không chịu. Anh ra dấu cho người phụ tá quay đầu xe dù khách phản đối. Rốt cuộc khách phải ở lại trong nhà người lính.

Hừng đông người lính gây tiếng động làm như trộm vào nhà. Ngay sau đó viên phụ tá của anh đến báo cáo viên ngọc quí của anh bị trộm mất. Anh tức tốc ra lệnh cho người gác cổng làng khám xét mọi người ra vào. Sáng sớm khách thắng xe đi ra, bị khám và bị bắt quả tang viên ngọc giấu trong xe, viên ngọc do anh lính lén bỏ vào xe để vu oan. Họ mắng chửi khách không tiếc lời và tặng thêm một trận đòn nên thân, xong dẫn tới xã trưởng. Khách bị xử đánh đến chết, xác bị ném ra xa.

Ðó là việc làm của cư sĩ kiếp trước. Mạng chung anh bị đọa Địa ngục A tỳ, chịu cực hình khổ sở rất lâu, nhưng vì ác báo chưa dứt nên anh vẫn bị đánh như thế liên tiếp một trăm kiếp.

(trích: Tích truyện Pháp Cú)

Người tâm địa xấu xa không thoát khỏi hậu quả thê lương

Những năm đầu Càn Long đời nhà Thanh, phía nam tỉnh Hà Bắc có một người họ Hồ vô cùng giàu có, là tài chủ một phương, gọi là Hồ Đại Hộ. Làng kế bên có một thầy Nho tên là Trương Nguyệt Bình, người con gái lớn trong nhà xinh đẹp như hoa như ngọc, có thể nói là “bậc quốc sắc thiên hương”. Hồ Đại Hộ vừa trông thấy cô, trong lòng đã tương tư, muốn lấy cô làm thiếp.

Người đọc sách thời bấy giờ rất coi trọng danh tiết, Trương Nguyệt Bình lại là người “thẳng thắn cố chấp”, tất nhiên là sẽ không đồng ý cho con gái làm tiểu thiếp của người ta. Hồ Đại Hộ vốn tâm địa thâm sâu, ủ giấu chuyện này trong lòng. Ông ta suy nghĩ tìm mọi cách, nhưng miệng lại không nói ra. Ông ta bèn nghĩ ra một kế, mời Trương Nguyệt Bình đến nhà làm thầy tư thục, dạy con em mình đọc sách. Linh cữu của cha mẹ Trương Nguyệt Bình ở tỉnh Liêu Đông, bởi điều kiện kinh tế khó khăn, xưa nay vẫn không cách nào chuyển về, là nỗi đau trong lòng bấy lâu nay.

Một lần khi chủ và khách trò chuyện, trong lúc vô tình đã nhắc đến chuyện này, Hồ Đại Hộ hào phóng quyên tiền, chở linh cữu về, lại tặng cho Trương Nguyệt Bình một mảnh đất để chôn cất ba mẹ. Về sau, trong nhà Trương Nguyệt Bình xảy ra một sự cố lớn, có người đột nhiên chết trong mảnh đất của nhà ông, người chết lại có thù sâu với Trương Nguyệt Bình. Quan phủ liền nghi ngờ do Trương Nguyệt Bình làm ra. Trong lúc nguy cấp, Hồ Đại Hộ đã ra mặt, bỏ tiền chạy vạy khắp nơi, cuối cùng đã giải quyết êm xuôi chuyện này giúp Trương Nguyệt Bình.

Một lần nọ, vợ của Trương Nguyệt Bình dẫn theo con gái đến nhà mẹ ở vài ngày, nên ông đành phải xin nghỉ mấy hôm để chăm sóc ba đứa con nhỏ ở nhà. Lúc này cũng không biết Trương Đại Hộ đột nhiên nảy sinh ý định, hoặc là đã chờ cơ hội này từ lâu rồi. Ông ta lén bố trí người, vào lúc đêm khuya tĩnh lặng, khóa chặt cửa ngoài của nhà Trương Nguyệt Bình lại, sau đó phóng hỏa đốt nhà, Trương Nguyệt Bình và ba đứa con đều chết cháy trong nhà. Sau sự việc, Hồ Đại Hộ còn giả vờ làm ra vẻ rất là kinh ngạc, một lòng giúp đỡ lo liệu hậu sự, an táng người đã khuất, và nhận nuôi hai mẹ con không nơi nương tựa. Chuyện này làm đến đầu xuôi đuôi lọt, mọi người lúc đó đều cho là hỏa hoạn vô tình gây nên.

Người vợ và con gái của Trương Nguyệt Bình, tất nhiên vô cùng đội ơn ân đức của Hồ Đại Hộ, và phải sống cuộc sống ăn nhờ ở đậu nhà ông ta. Có người đến làm mai mối, trước tiên bàn bạc với Hồ Đại Hộ, ông ta trong lòng mừng thầm, mà ngoài mặt lại giả vờ tìm cách thoái thác. Thời gian lâu dần, dần dần lộ ra ý muốn lấy cô gái này làm thiếp. Cô gái tuy không đồng ý, nhưng đã chịu ân huệ sâu nặng của người ta, hơn nữa cô nhi quả mẫu, không nơi nương tựa, nên cũng đành phải nhận lời.

Hồ Đại Hộ nạp thiếp được hơn một năm, thì hạ sinh được một đứa con trai, đặt tên là Hồ Duy Hoa. Cô con gái họ Trương này sinh con xong, không được bao lâu liền mắc bệnh qua đời. Đứa trẻ sinh ra này rất thông minh lanh lợi, sáng suốt hơn người. Trong nháy mắt, nhiều năm trôi qua, tất cả chuyện xưa dường như đều đã trở thành cát bụi phai mờ theo năm tháng, tưởng như đã được chôn xuống mồ. Hai chữ “nhân quả” cứ giống như phù vân nơi chân trời, với nhà này tựa như không có quan hệ gì cả.

Như đã kể trên, đứa con trai mà Hồ Đại Hộ và con gái nhà họ Trương kia, đặt tên là Hồ Duy Hoa. Là người thông hiểu sử sách, nổi tiếng khắp nơi. Ngày nọ, y hội tụ người trong tà giáo, toan tính mưu phản. Tập trung binh lực ở phía nam tỉnh Hà Bắc, binh lính chuẩn bị chia làm hai đường, một đường đi vào Bắc Kinh, một đường đi vào Thiên Tân. Nếu sự việc thành công thì xưng làm hoàng đế thống trị thiên hạ, còn nếu như không thành, lui về Thiên Tân, sau đó lên thuyền trốn thẳng ra biển. Lúc này, tin tức bị rò rỉ ra bên ngoài, chẳng mấy chốc liền bị triều đình sai quân đến bao vây tiêu diệt. Kéo bè kết phái tạo phản là tội trạng gì? Hậu quả này không cần nói thì ai ai cũng rõ.

Chuyện này đã đến bước này, mới thật sự được coi là báo ứng đã định. Năm xưa Hồ Đại Hộ tâm địa thâm hiểm như thế, mưu mô chu toàn đến thế, không hề để lọt chút sơ hở gì. Chỉ là giấu trời giấu đất, nhưng lại không giấu được quy luật nhân quả của vũ trụ. Năm xưa, chỉ vì muốn có được con gái nhà người ta, ông ta đã dùng đủ thủ đoạn tạo ra vụ thảm án diệt môn cho nhà họ Trương. Bây giờ chính là con trai của con gái nhà họ Trương này sinh ra đã mang đến họa diệt tộc cho cả dòng họ ông ta. “Truyện Thủy Hử” có câu nói: “Đức độ lớn thì phúc cũng lớn, mưu mô nham hiểm thì họa cũng sâu khôn lường”, thật là chí tình chí lí vậy!

(Tiểu Thiện, dịch từ NTDTV.com)

Tránh sắc dục – Tích đại âm đức (Tránh tà dâm, được phước đức)

Lữ Thanh sống vào triều Minh, thường ngày ưa thích đàm luận việc dâm ô và nhìn trộm phụ nữ; khi anh ta được 30 tuổi, gia cảnh bần cùng đến cực điểm, hai người con đều lần lượt qua đời.

Một ngày kia, Lữ Thanh đột nhiên chết bất đắc kỳ tử và nhìn thấy ông nội rất tức giận, nói với anh ta:

– Nhà chúng ta hai thế hệ đều tích thiện, mệnh của cháu lẽ ra phát tài lớn; chẳng ngờ đến cháu, tâm ưa sắc đẹp, mắt miệng đều tạo nghiệp chướng, phúc báo đều sắp cạn sạch rồi. Ta e rằng cháu sẽ thật sự phạm phải việc tà dâm, như thế hậu duệ cả nhà chúng ta sẽ không còn hy vọng gì nữa; do đó ta mới cầu xin Diêm Vương bắt cháu xuống âm tào địa phủ để xem xem, cho cháu biết lợi hại thế nào!

Lữ Thanh nói:

– Nghe nói tư thông với vợ người khác mới phải nhận báo ứng là tuyệt tự; sự thật cháu rất sợ nhận phải báo ứng này nên mới chưa từng phạm phải!

Vị Minh Lại đứng bên cạnh nói:

– Há chỉ là tuyệt tự không thôi! Nếu như là người nữ chủ động đến cám dỗ mà tự mình thuận theo chứ không chối từ, thì tội nghiệt này chính là báo ứng tuyệt tự. Còn nếu là tự mình dụ dỗ thúc ép người ta, hơn nữa tái phạm nhiều lần, làm bại hoại luân thường người ta, khiến người ta phá thai, thậm chí giết chồng giết con, thì chính là đại tội, há chỉ là tuyệt tự không thôi? Đối với tội tà dâm, pháp luật ở thế gian quá ư khoan hồng, thế nhưng pháp luật ở âm gian lại rất nghiêm khắc. Phàm là người hễ động dục niệm tà dâm, thì ba thần xác sẽ đến tự thú, Táo Quân và Thành Hoàng sẽ đến trình tấu sự thật; nếu như họ giấu diếm hoặc bỏ sót, thì cũng là lỗi nặng! Ngươi thử xem hôm nay xử trí thế nào thì sẽ rõ ngay.

Một lúc sau, đám quỷ tốt đưa rất nhiều phạm nhân từng phạm tội tà dâm đến trước mặt; họ đều đeo xiềng xích, quỳ trên mặt đất; Diêm Vương nghiêm khắc phán:

– Người này biến thành kẻ ăn xin vừa điên vừa câm, người này biến thành kỹ nữ mù mắt, người này hai đời làm trâu, người này mười đời làm heo.

Diêm Vương phán xét xong xuôi, đám quỷ tốt lại áp giải họ đi đầu thai. Lữ Thanh xem xong sợ đến sởn cả gai ốc. Vị Minh Lại nói:

– Còn có nhiều trừng phạt nghiêm khắc hơn nhiều! Ngươi nhất thiết không được vì chốc lát thèm muốn hoan ái mà đánh mất thân người, cần phải tránh sắc như tránh mũi tên, đồng thời mau chóng in bài văn để khuyên răn người đời!

Một lúc sau, Diêm Vương lệnh thả Lữ Thanh về dương gian. Lữ Thanh in một vạn bài viết du địa phủ để cảnh tỉnh thế nhân, lại rất cố gắng làm việc thiện.

Khi Lữ Thanh được 40 tuổi thì liên tục sinh hai người con, gia tài lên tới bạc triệu, giàu có phi thường. Lữ Thanh sau đó quyết định đoạn tuyệt duyên trần, đi về Nam Hải tu Đạo.

Đây là đồng hương Thái Tinh của Lữ Thanh ghi lại.

(Theo: adidaphat.jimdo.com)

Thành tâm tu mà thoát được tai nạn

Ở tại Thương Ngu, tỉnh Chiết Giang có một Phật tử làm nghề buôn gạo, tánh tình hiền lương. Trong nhà người này có thờ Quán Âm Đại Sĩ rất trang nghiêm, hàng ngày lại chiêm bái, xưng niệm Thánh hiệu Đại sĩ. Gia đình Phật tử này chỉ có hai vợ chồng. Một ngày nọ Phật tử này sắp đi xa thì đêm ấy nằm mộng thấy Quán Âm Bồ Tát đến bảo: “Ngươi sắp có đại nạn nên Ta đến để cứu độ”. Nói dứt lời, Bồ tát đọc bài kệ 4 câu và căn dặn Phật tử ấy phải ghi nhớ cho kỹ. Bài kệ ấy như sau:

Âm:

Phùng kiều mạc đình chu,

Ngộ du tức mạt đầu.

Đấu cốc tam thăng mễ,

Thanh đan bổng bút đầu.

Nghĩa:

Gặp cầu chớ đậu ghe,

Gặp dầu liền xoa đầu.

Đấu thóc ba thang gạo,

Ruồi xanh đậu ngòi bút.

Phật tử ấy khi thức dậy vẫn nhớ rõ ràng và rất lấy làm lạ về bài kệ nói trên nhưng vẫn dặn lòng cố nhớ đừng quên. Phật tử này sau đó thuê chiếc ghe chở gạo đi bán. Đi đến ngày thứ hai thì gặp phải mưa to gió lớn giữa đường, người lái ghe có ý muốn đậu lại dưới chiếc cầu lớn để tránh gió mưa thì Phật tử này lúc ấy bổng nhớ lại lời dặn trong mộng của Bồ Tát: “Gặp cầu chớ đậu ghe”, nên hối thúc người lái thuyền đi nhanh qua chớ không đậu lại.

Quả nhiên, khi chiếc ghe vừa qua khỏi cầu thì nghe một âm thanh chát tai, ngó lại thì chiếc cầu vừa bị sập xuống. Phật tử ấy cảm thấy sự linh nghiệm của Quán Âm Đại Sĩ thật là không thể nghĩ bàn nên từ đó về sau, tụng niệm càng tinh tấn, lễ bái càng kiền thành.

Một ngày nọ, khi ông vừa trở về nhà, lúc đang cúi xuống lễ Phật trong nhà thì chiếc đèn lưu ly treo trước Phật đài bổng rớt xuống đất, đổ dầu lênh láng. Lúc ấy, ông bổng nhớ đến câu kệ thứ hai của Bồ tát đã dạy “Gặp dầu liền xoa đầu”, nên liền dùng tay xoa dầu đổ dưới đất lên đầu mình. Vào lúc nửa đêm, khi đang ngủ thì ông bỗng nghe có mùi máu huyết tanh hôi, ông đốt đèn lên xem thì thấy vợ ông đã bị giết chết.

Lúc hừng sáng ông chạy vội sang nhà cha mẹ vợ báo tin xấu thì nhạc phụ của ông liền cật vấn về nguyên do cái chết của vợ ông, nhưng ông không thể đáp lại được lời nào. Lúc ngày thường, ông là người rất tín phụng Phật Pháp nhưng vợ ông thì ngược lại nên nhạc phụ ông lúc ấy nghi ngờ là do có chuyện bất hòa thất thường giữa hai vợ chồng ông nên mới xảy ra vụ việc này. Nhạc phụ ông vì thế đầu đơn đến quan huyện tố cáo ông tội giết người. quan huyện cho người đến bắt ông, khi giải ông về đến nha môn, quan huyện nhìn sắc diện thì thấy hoàn toàn không có vẻ gì là người sát nhân.

Khi lấy khẩu cung của ông thì quan huyện nhận thấy trong nhà ông, dù tiền bạc và đồ vật không phải là ít nhưng hoàn toàn không bị cướp đi món nào, khám xét hiện trường thì cửa sổ nhà thì không bị phá, vách tường cũng không bị đào lổ,… nên đoán chắc hung thủ chắc không phải là trộm. Quan huyện lại tiếp tục tra hỏi giữa gia đình ông và hàng xóm có hiềm khích gì không thì ông liền đáp:

– Từ nào đến giờ đối với hàng xóm gia đình ông không hề mất lòng.

Quan huyện suy nghĩ: “Nhà này không có kẻ oan gia đối đầu, đây không phải là vụ trộm cướp, mà thời điểm án mạng lại xảy ra trong lúc nửa đêm, vậy thử hỏi ai vào đây giết người, hung thủ chỉ có thể là Phật tử buôn gạo này mà thôi, không còn nghi ngờ gì nữa.”

Quan huyện sau khi lấy khẩu cung hoàn tất và suy nghĩ như vậy định hạ bút xuống phê vào lời khai thì bổng nhiên có một con ruồi xanh bay đến, đậu vào ngòi bút. Quan huyện đang lấy làm lạ tại sao có con ruồi đậu trên ngòi bút thì Phật tử này bổng nhiên la lớn:

– Ruồi xanh đậu ngòi bút, thật là ứng nghiệm không sai!

Quan huyện nghe ông la lớn như vậy nên hỏi nguyên do thì Phật tử buôn gạo bèn đem sự việc trong mộng mà Bồ Tát đã dạy và những việc ứng nghiệm đã trải qua thuật lại hết cho quan huyện nghe.

Lúc bấy giờ quan huyện cùng với thuộc hạ mới cùng nhau suy nghĩ về bài kệ thì thấy câu 1, 2 và 4 đều ứng nghiệm, giờ chỉ cần hiểu được câu kệ thứ 3 là gì thì chắc sẽ tìm ra hung thủ.

Suy đi nghĩ lại thì quan huyện bắt đầu hiểu được câu kệ thứ 3 – đấu thóc có 3 thăng gạo, vậy thì 7 thăng còn lại phải là thăng trấu, như vậy thì tên nghi phạm hoặc là tên Thất Khang (tức là 7 thăng trấu) hay là Khang Thất. Nghĩ ra như vậy thì quan huyện lập tức cho người đi dọ hỏi thì quả nhiên gần nhà của Phật tử buôn gạo có người tên Khang Thất. Quan huyện liền bắt đưa về nha môn để tra hỏi, chỉ sau một lần dùng hình phạt hỏi cung thì tên này đã vội vàng khai.

Trước nay, Khang Thất có tư tình với vợ của Phật tử này nên đêm ấy, lúc Phật tử buôn gạo trở về thì Khang Thất không kịp chạy trốn bèn vội núp trong phòng, lúc ấy hắn nảy sinh ý định giết ông để cho tiện thỏa ý tư tình với vợ ông. Do trong phòng tối không có đèn nên chờ cả nhà ngủ say, hắn bò ra để giết ông. Khi sờ vào đầu của ông bị dính dầu hắn tưởng là của vợ ông nên quay sang nhằm đầu người không dầu mà giết, ngờ đâu giết lầm tình nhân của mình. Quan huyện lấy lời khai xong thì ra lệnh hạ ngục Khang

Thất và cho người đưa Phật tử buôn gạo về nhà.

Quan huyện được chứng kiến sự việc nói trên và cảm thấy sự linh nghiệm của Quán Âm Bồ Tát phi thường, không bỏ rơi người có thiện tâm khi bị nạn nên liền phát tâm thâm tín với Phật Pháp và chính mình cũng nguyện thờ Quán Âm Đại Sĩ hàng ngày, chiêm bái xưng niệm cúng dường.

Riêng Phật tử buôn gạo sau sự việc đã xảy ra thì cảm thấy sự dâm nhiễm là nguyên nhân gây ra thống khổ cho thế gian nên sanh lòng chán ngán, ông bèn xuất gia tu hành và sau này đắc đạo quả.

(trích: Quán Thế Âm Bồ Tát Phổ Môn phẩm giảng lục)

Từ Ngang – cải biến tướng mạo

Từ Ngang người Dương Châu, mùa xuân đến kinh thành ứng thi, trong thành có Vương thầy tướng xem bói rất chuẩn. Từ Ngang nghe nói vậy cũng đến coi xem, Vương thầy tướng nói:

– Nhìn tướng mặt ngươi mà xem, mệnh của ngươi không có con.

Sau khi Từ Ngang thi đỗ, được phái đến Tây An làm quan. Trên đường đi có mua một cô gái rất xinh đẹp với ý định làm vợ bé, hỏi hoàn cảnh gia đình cô gái, cô gái trả lời:

– Cha của thiếp làm quan tại Mỗ Địa, mấy năm trước chết rồi, địa phương xảy ra thiên tai, đói kém, một đám cướp đã đem thiếp bán vào kinh thành.

Từ Ngang nghe xong cảm thấy thương cho thân phận cô gái, bỏ ý định lấy cô làm thiếp, đem văn tự bán mình của cô gái đốt đi. Đến Tây An, Từ Ngang lựa chọn một chàng trai tài đức cho cô ấy rồi giống như gả con gái đi lấy chồng vậy.

Hết thời hạn đảm nhiệm trọng trách tại Tây An, Từ Ngang trở về kinh thành, Vương thầy tướng sau ghi gặp Từ Ngang ngạc nhiên nói:

– Từ biệt mấy năm, tướng mạo ngài đã biến đổi rất nhiều, “đoạn tử tướng” (tướng không có con) đã cải biến thành “đa tử tướng” (tướng có nhiều con), nhất định là ngài đã tích được đại âm đại đức rồi.

Không lâu sau, vợ của Từ Ngang lần lượt sinh hạ được năm người con trai.

(Mai Trà biên dịch từ Secretchina

Theo daikynguyenvn.com)

VI ĐẠO TẶC

Định nghĩa:

Ác thứ sáu ấy là Đạo Tặc.

Lấy của người sắm ăn sắm mặc,

Chẳng kể công nước mắt mồ hôi.

Phá lương dân dạ luống bồi hồi,

Ngày làm lụng đêm lo gìn giữ

Trốn pháp luật tập tành đủ thứ,

Nào đào tường, khoét vách khuân đồ.

Tội chập chồng đâu biết ở mô,

Trốn người khỏi trốn Trời sao khỏi.

Nay đuốc huệ Từ Bi đã rọi

Vào thâm tâm những kẻ gian phi.

Hãy tu thân chừa thói vô nghì,

Của phi nghĩa làm chi xong chuyện.

Luật nhơn quả thật là cao viễn,

Suốt cổ kim chẳng lọt một ai.

Vậy ta nên làm việc thẳng ngay,

Cứ bền chí có ngày thong thả.

(Khuyến thiện – Vô Danh cư sĩ)

Đạo tặc: –  Câu “Bần cùng sanh đạo tặc” cần phải là một câu chữa mình của bọn bất lương vô Đạo. Những kẻ này ngày vẩn vơ đầu đường xó chợ, tối kiếm chỗ khoét vách đào tường, không làm muốn có ăn, không lo muốn có mặc. Lớp người cặn bã của xã hội này, sống ngoài vòng pháp luật, trốn nhủi trốn chui, phá rối sự an ninh của dân chúng, chuyên lo giết người cướp của, đoạt giựt tài sản lương dân, không nghĩ rằng phải tốn bao nhiêu giọt mồ hôi, bao nhiêu dòng nước mắt mới làm ra được. Họ là giống sâu làm rầu nồi canh, là tội nhân gây ra những tai biến trong những gia đình cần lao kiệm-tiết, là nguyên nhân của sự nghèo sự khó, họ phá hoại hạnh phúc của con người.

Cơ hàn đói khổ, thay vì phải làm lụng như những kẻ khác mưu cuộc sống còn, họ gây cái lỗi này rồi đến cái lỗi khác, phạm tội này rồi tới tội nọ, tạo chẳng biết bao nhiêu chuyện bất lành cho nhân chủng. Lưới Trời tuy thưa nhưng khó lọt, những kẻ ấy dầu họ không bị luật hình của loài người phân xử, song cơ Trời cũng sẽ báo ứng đến những hành vi đen tối, nếu họ không chịu ăn năn chừa lỗi, sửa tánh tu thân, bỏ thói vô nghì, lánh điều phi nghĩa.

(SGTVTB 2004, tr. 188-189)

Dẫn chứng:

Chiếm gia sản của người, chết không được yên

Ở huyện Tính Dương tỉnh Hà Nam có một người đang lâm trọng bệnh tên là Lưu Quân Tường. Khi biết mình sắp chết, anh ta liền gọi cậu em tên là Lưu Quân Kỳ đến và buồn bã trăn trối:

– Vợ anh mất sớm mà con anh thì lại còn thơ dại, nên anh nhờ em giữ hộ gia sản và nuôi dạy cháu giúp anh. Dù anh có làm ma làm quỷ đi nữa cũng không bao giờ quên báo đáp ơn này.

Nhưng ai ngờ Lưu Quân Kỳ đã không làm đúng theo lời phó thác của người anh mà lại còn bỏ bê cháu của mình đi lang thang ngoài các phố huyện, rồi một mình chiếm trọn toàn bộ gia tài của anh.

Năm năm sau, có người hàng xóm tên là Trương Thiện Tường trong khi đang làm việc vào ban đêm bỗng thấy Lưu Quân Tường hiện ra trước mặt đưa một bức thư và nhờ trao lại cho Lưu Quân Kỳ.

Trương Thiện Tường ngỡ mình gặp quỷ, sợ quá nên bất tỉnh. Sau khi tỉnh lại, ông vội đem bức thư trao lại cho Lưu Quân Kỳ. Ba ngày sau chỉ thấy Lưu Quân Kỳ vừa luôn miệng kêu lớn “Mong anh tha tội chết” vừa đập đầu vào tường đến nỗi vỡ não mà chết. Vì thế những người hàng xóm mới biết: Đây là ác báo của sự vong tình bội nghĩa, quên mất tình thâm cốt nhục chỉ vì lòng tham.

Thật là một bài học đích đáng cho những kẻ bất nhân bất nghĩa.

(Nguồn : rongmotamhon)

Âm mưu chiếm đoạt tài sản của người

Ông Bảy là người giàu có ở Trà ôn. Đất của ông cò bay thẳng cánh. Ông góa vợ từ lâu, thường ra chợ Trà Ôn, kết thân cùng ông Tỷ bán tạp hóa. Ông Bảy thích vợ ông Tỷ, ông Tỷ biết ý ông Bảy nên bàn với vợ :

– Ông Bảy đã 80 tuổi rồi, chẳng sống bao lâu, nếu em là vợ của ông ấy, khi ông ta chết, tất cả tài sàn của ổng sẽ là của em…

Lúc đầu vợ ông Tỷ không thuận, nhưng vì chồng thiếu nợ ông Bảy quá nhiều, nên bà quyết định tạm xa chồng con một thời gian…để thực hiện âm mưu này.

Ông bà Tỷ đã thỏa thuận xong, sau đó lập mưu kế ra tòa ly dị. Tòa xử Bà Tỷ được chia gia tài là tiệm tạp hóa và có trách nhiệm nuôi con. Ông Tỷ thì được số tiền lớn và có cuộc đời tự do.

Như mưu kế đã lập, sau khi ly dị ông Tỷ, bà Tỷ được ông bảy cưới chính thức làm vợ. Đám cưới tổ chức rất linh đình, đãi tiệc suốt ba ngày ba đêm, lớn nhất Trà Ôn. Mời cả chính quyền địa phương tham dự. Bà con hàng xóm đi xem đám cưới rất đông, vì người đàn bà tái giá đặc biệt chỉ 40 tuổi lấy ông chồng giàu 80 tuổi.

Cưới được vợ, Ông Bảy phấn khởi hủy luôn số tiền mà ông Tỷ nợ trước kia. Bà Tỷ còn nói với ông Bảy là trả lại tiệm tạp hóa cho ông Tỷ để ông nuôi con, Bà có tự do hạnh phúc với ông Bảy.

Bảy ngày sau, thật không ngờ, bà Tỷ trúng gió chết. Mới đám cưới tiếp tục đám tang. Tang lễ cho bà Tỷ xong, ông Bảy bắt đầu kiện ông Tỷ để lấy lại tiệm tạp hóa, vì ông Bảy bây giờ là chồng chính thức trên danh nghĩa của bà Tỷ. Tòa xử ông Bảy thắng kiện. Ông Bảy đến chợ Trà Ôn lấy lại tiệm tạp hóa, đuổi ông Tỷ ra ngoài!

Ông Tỷ mưu khá sâu nào ngờ sự việc đảo ngược, khí uất trào dâng, mất vợ mất luôn cửa tiệm, cha con lang thang khổ sở không có mái nhà che thân. Ông loạn tâm thần, lâu lâu lại đến đạp cửa tiệm tạp hóa và miệng nói nhảm mãi câu chuyện cùng vợ mưu tính của mình. Ông Tỷ cười khóc trong cơn điên loạn, và xin ăn tại chợ Trà Ôn cho đến khi chết. Câu chuyện quả báo này, vẫn còn được nhắc đi nhắc lại tại địa phương cho đến ngày nay.

(Lời kể của Ni Sư Giác Liên,

Trụ trì chùa Phước Hải, Vĩnh Long)

Vong ân bội nghĩa làm chó để trả nợ

Quy luật nhân quả báo ứng rất nghiêm minh không chút sai lệch. Người lòng dạ vong ân bội nghĩa, ắt sẽ phải trả giá; cả gia đình nhà Quế Thiên trong câu chuyện dưới đây cũng không ngoại lệ. Câu chuyện quả là một lời răn dạy sâu sắc cho người đời, rằng ‘được ân nhớ trả cho người’!

Năm Thiên Thuận triều Nguyên, ở phủ Tô Châu tỉnh Giang Nam có một vị viên ngoại ưa làm việc thiện tên gọi Thi Tế. Bởi đi thi nhiều lần mà không đỗ nên ông ta một lòng kết giao bè bạn để giúp đỡ người nghèo, mong được nhờ đó mà nổi danh.

Cha của Thi Tế là Thi Giám vốn là một người giàu có nhưng luôn gìn giữ bổn phận, sống rất tiết kiệm, không bao giờ tiêu pha phí phạm một đồng. Nay người cha thấy con tiêu tiền như rác thì xót ruột quá bèn lén đem vàng bạc chôn giấu nhiều nơi, không cho ai biết, định bụng đến lúc sắp chết mới nói cho con hay.

Ông già nghĩ vậy nhưng có ngờ đâu người đang khỏe mạnh bỗng một hôm đang đêm đột ngột phải về trời, chưa dặn dò được con câu gì, thế là chuyện giấu vàng thành một bí mật mãi mãi.

Bấy giờ Thi Tế đã quá bốn mươi, còn chưa có con trai. Ông ta khấn nguyện với đức Quan Âm Bồ Tát nếu sinh được con trai, sẽ cúng ba trăm lượng bạc để tu sửa điện thờ Ngài. Một năm sau, bà vợ là Nghiêm Thị quả nhiên sinh được một cậu bé. Hai vợ chồng nghĩ đến chuyện hoàn ơn Bồ Tát bèn đặt tên cho con trai là Thi Hoàn.

Hôm đứa bé được đầy tháng, Thi Tế mang ba trăm lượng bạc đến điện thờ Quan Âm ở núi Hổ Khâu để thực hiện lời hứa nguyện. Ông ta thắp hương xong, cúi đầu cúng, chợt nghe có tiếng khóc ở bên ngoài, bèn bước ra xem thì thấy người bạn học cùng thuở bé là Quế Thiên đang ngồi bên bờ ao nhìn xuống nước mà khóc nức nở. Thi Tế bước tới hỏi vì sao, Quế Thiên chỉ nước mắt lã chã, không nói nên lời.

Thi Tế bèn kéo bạn vào trong miếu điện, hỏi đi hỏi lại mãi, Quế Thiên mới kể rõ nguồn cơn. Thì ra ông ta sai lầm nghe theo người ta, đem gia sản thế chấp để vay 300 lượng bạc về làm vốn liếng ra ngoài buôn bán, cuối cùng bị mất sạch, chủ nợ đến đòi, lãi mẹ đẻ lãi con, bắt cả nhà ông ta phải làm tôi tớ gán nợ. Ông ta cấp bách quá, đang đêm bỏ trốn, nhưng chẳng còn đường nào mà đi bèn chạy đến đây định nhảy xuống ao tự tử.

Thi Tế nghe xong, lập tức lấy 300 lượng bạc để cúng trả ơn đưa cho Quế Thiên, bảo ông ta mau đi cứu vợ con về. Quế Thiên mừng quá bèn bước tới trước điện Bồ Tát dập đầu thề rằng:

– Con chịu ơn cứu mạng của ông Thi, nếu kiếp này không báo đáp được thì kiếp sau nguyện làm chó ngựa để đền ơn ông.

Thi Tế về nhà, lại lấy ra 300 lượng bạc khác đưa cúng đức Quan Âm. Ba ngày sau, Quế Thiên dẫn đứa con trai lớn mười hai tuổi tên Quế Cao đến bái tạ. Thi Tế rất vui, làm cơm rượu khoản đãi. Rồi bảo với Quế Thiên rằng:

– Cứu người phải cứu đến nơi, nhà tôi ở phía ngoài thành có một cái vườn trồng dâu, mấy gian nhà tranh và mười mẫu ruộng xấu. Nếu ông không ngại thì đến đó mà trồng trọt, cũng có thể sống được.

Quế Thiên vô cùng cảm động, rối rít tạ ơn rồi cùng con trai cáo biệt đi về. Sau khi đến vườn dâu, Quế Thiên bảo vợ là Tôn Thị mang lễ vật đến nhà họ Thi tạ ơn. Tôn Thị biết ăn nói, dễ làm người nghe vui lòng. Vừa mới gặp Nghiêm Thị là đã tỏ ra thân thiết như thể chị em. Bấy giờ Tôn Thị đang có thai 5 tháng, Nghiêm Thị nói:

– Chị đã có hai thằng con trai rồi, nếu lần này mà sinh được đứa con gái thì sẽ kết thông gia với nhau.

Tôn Thị về kể lại với chồng, hai người hết sức vui mừng. Sau quả nhiên Tôn Thị sinh được đứa con gái, Nghiêm Thị sai người đến thăm, từ đó hai nhà thường xuyên qua lại, như bà con với nhau vậy.

Ở chỗ vườn dâu mà vợ chồng Quế Thiên ở có một cây bạch quả mọc đã lâu đời, nghe đồn ở đó có thần linh hiển hiện, trước đây người coi vườn cứ đến mùng một tháng Chạp là đến thắp hương khấn cầu thần linh phù hộ. Năm đó, Quế Thiên cũng đến thắp hương. Bỗng thấy một con chuột trắng chạy quanh gốc cây một vòng rồi chui vào phía dưới biến mất. Quế Thiên nhìn kỹ, chỉ thấy dưới gốc cây có một cái lỗ to bằng miệng bát, bèn vội vàng bảo vợ mang xẻng đến đào sâu xuống. Đào được độ ba thước thì thấy ba cái hũ sành, mở ra thấy toàn là bạc nén trắng xóa.

Hai vợ chồng mang về nhà đếm, được khoảng một ngàn năm trăm lượng. Quế Thiên định lấy ba trăm lượng đem trả nhà họ Thi, nhưng Tôn Thị nói ngay:

– Không được! không được!

Quế Thiên hỏi:

– Vậy theo mình thì nên làm thế nào?

Tôn Thị nói:

– Theo tôi thì nếu cứ dựa vào mười mẫu ruộng dâu này, ở nhờ nhà người ta cũng không thể lâu dài được, chi bằng đem số bạc này đến nơi khác mua ít ruộng rồi dần dần thoát thân khỏi đây, tự mình làm ông chủ, bấy giờ hãy trả ơn cho họ, vậy chẳng hơn sao?

Quế Thiên nói:

– Đàn bà khôn ngoan, còn hơn cả đàn ông! Mình nói đúng đấy, tôi có người bà con xa ở huyện Cối Kê, phủ Thiện Hưng, có thể nhờ ông ta lo chuyện đất đai.

Mùa xuân năm sau, Quế Thiên lấy cớ đi Cối Kê thăm bà con, ngầm mua ruộng đất ở đó rồi nhờ người trông coi, mỗi năm đến một lần tính toán tiền nong, khi về bao giờ cũng mặc quần áo cũ, không lộ vẻ người có tiền. Cứ như vậy năm năm, nhà họ Quế đã có một cơ ngơi lớn mà nhà họ Thi không hề hay biết.

Thời gian thấm thoắt, lại qua ba năm nữa, Thi Tế đột nhiên bị bệnh qua đời. Tôn Thị bèn thúc giục chồng thừa dịp bỏ đi. Nghiêm Thị cố giữ ở lại không được, đành nước mắt rưng rưng mà tiễn họ. Bởi Thi Tế là người khảng khái, sống rất rộng rãi, nên trong nhà từ lâu đã chẳng có gì, nay lại thêm chuyện tang ma nên mắc một số nợ. Nghiêm Thị lại không biết quản lý tiền nong, nên năm, sáu năm sau mẹ góa con côi thành nghèo túng đến nỗi không sao sống nổi.

Thi Tế khi còn nhỏ có người bạn học rất thân tên gọi Chi Đức. Vừa đúng lúc ông này từ quan trở về quê, nghe nói nhà họ Thi sa sút như vậy, lòng rất xót xa, bèn đặc biệt đến thăm. Thi Hoàn ra nghênh đón, rất là lễ độ. Ông Chi hỏi han, biết cậu này chưa đính ước với ai, bèn gả luôn con gái của mình. Mẹ con Nghiêm Thị vô cùng cảm kích.

Nhưng ông Chi tuy làm quan mà không giàu có gì, sống rất thanh liêm, bây giờ lại phải lo thêm cho nhà con rể nữa nên cũng khó khăn. Rồi chợt nghe nói chuyện Quế Thiên ở Cối Kê giàu lắm, mọi người đều gọi ông ta là Kế Viên ngoại, ông Chi bèn khuyên con rể nên đi Cối Kê một chuyến, chắc Quế Thiên nghĩ đến ơn huệ trước kia thế nào cũng báo đáp hậu hĩ. Thi Hoàn về bàn với mẹ, Nghiêm Thị nói:

– Hồi ấy bà Tôn với mẹ tình cảm như chị em, bây giờ phất lên rồi, nhất định sẽ không xử tệ với mẹ con mình. Vậy mẹ cùng đi với con.

Thế là hai mẹ con đến huyện Cối Kê. Chỉ thấy đúng là nhà họ Quế nhà cao cửa rộng, gia nhân đầy tớ tấp nập. Thế nhưng khi gặp mẹ con họ Thi, họ rất lạnh nhạt, hoàn toàn không nhớ gì đến ơn cứu mệnh ngày trước, chỉ cho hai mẹ con hai chục lượng bạc làm tiền lộ phí. Hai mẹ con rất giận, đành buồn bã ra về.

Nghiêm Thị bị cái đòn đó, lại thêm đi đường vất vả, mệt nhọc, về đến nhà là ngã bệnh không sao dậy nổi, được ít ngày thì qua đời. Để lo tang ma cho mẹ, Thi Hoàn đành phải đem bán ngôi nhà tổ tiên để lại rồi dọn đến ở nhà bố vợ. Lúc dọn đồ đạc, bỗng thấy trên trần phòng ông nội mình có một cuốn sổ, trong đó ghi rõ ràng, chỗ nào chôn bao nhiêu lượng bạc, chỗ nào chôn bao nhiêu, bao nhiêu. Thi Hoàn mừng rỡ vô cùng, trước hết đào chỗ ngạch cửa được hai ngàn lượng, đem đi chuộc lại ngôi nhà tổ.

Sau đó lại cứ theo sổ đào tiếp, đào hết được tất cả mấy vạn lượng bạc trắng. Chỉ có chỗ dưới cây bạch quả chôn một ngàn năm trăm lượng thì đào không thấy, chỉ còn lại ba cái hũ không. Từ đó nhà họ Thi lại trở thành nhà phú hào.

Lại nói chuyện Kế Viên ngoại là tài chủ giàu có ở Cối Kê nhưng do việc sai dịch phải làm cho phủ quán quá nhiều nên rất bực bội. Có người hàng xóm là Vưu Sinh khuyên ông ta nên bỏ tiền ra mua lấy chức quan. Làm quan chẳng những rạng rỡ cửa nhà mà còn được miễn chuyện sai dịch, thật là nhất cử lưỡng tiện. Quế Thiên tin lời, chuẩn bị ba ngàn lượng bạc trắng, cùng Vưu Sinh đi đến kinh đô. Đến nơi, Quế Thiên giao cả số bạc cho Vưu Sinh để hắn lo liệu.

Qua nửa năm Vưu Sinh dùng số bạc của Quế Thiên mua chức quan cho mình. Lúc này Quế Thiên mới biết mình bị lừa, căm giận không sao giết chết được Vưu Sinh đi. Nhưng đến đêm hôm đó, nơi nhà trọ tại kinh đô, Quế Thiên nằm mơ, thì thấy mình đi đến một ngôi nhà đồ sộ, cửa nẻo đóng kín chỉ có một lổ trống bên cạnh. Quế dùng hai tay chống xuống đất chui vào thì thấy ở nhà trên, đèn lớn sáng trưng, có một lão Ông ngự nơi bàn án. Quế nhìn kỹ thì chính là Thi Tế. Quế vô cùng hổ thẹn, muốn đưa tay lên vái chào nhưng hai tay bị dính chặt dưới đất không thể giơ lên, Quế bò ra vườn sau thì thấy vợ mình và hai con đều hiện diện ở đó. Nhìn kỹ thì tất cả đều là hình dáng chó chứ không phải là người, ngó lại bóng mình cũng đã hóa thành chó. Quế quá kinh hãi nên hỏi nguyên do. Tôn Thị nói:

– Ông không còn nhớ lời thề ở trước Quán Âm Đại Sĩ hay sao? Bấy giờ còn hỏi lại làm chi?

Quế giật mình thức dậy thì biết đó là giấc mộng bèn vội vã sắp xếp hành trang trở về Cối Kê. Vừa về đến nhà thì nhìn thấy trong nhà có hai chiếc quách, trên bàn có bài vị của hai đứa con mình, Quế hãi hùng bước vào trong thì thấy Vợ cũng đang bị bệnh nguy ngập sắp tắt hơi. Quế đứng bên cạnh gọi lớn thì vợ ông bổng mở mắt, nhưng lạ lùng là người vợ của Quế cất giọng hỏi ông bằng giọng của đứa con trai lớn:

– Tại sao hôm nay cha mới về, quá chậm trễ như vậy? Gia đình mình phụ ơn bội nghĩa nhà họ Thi, nên Minh Vương căn cứ vào lời thề của cha ngày trước phạt ba người là mẹ và anh em chúng con đến sáng ngày mai sẽ đến nhà họ Thi đầu thai làm chó. Trong ba con chó đó có hai con đực chính là anh em chúng con, con chó cái trên lưng có bướu chính là mẫu thân. Riêng phần cha, đến tháng 8 mùa thu năm nay, cũng sẽ làm chó nhà họ Thi để trả lại lời thề trước. Chỉ có em gái của con thì được khỏi nạn ấy mà thôi vì trên Thiên Đình cũng như Âm Phủ đều đã định nó cùng với đứa con trai nhà họ Thi làm vợ chồng.

Đứa con trai nói mấy lời ấy xong thì thần thức rời khỏi thân xác. Quế nghe những lời nói vừa rồi thì hoàn toàn ứng hợp với giấc mộng, nhưng cố gắng không nghĩ đến để lo việc tẩn liệm thi hài của vợ và chôn cất hai con.

Họa vô đơn chí, nhà Quế lúc ấy đột nhiên bị hỏa hoạn nên tử thi của vợ và hai con đều cháy rụi thành đống tro tàn.

Chỉ trong chớp mắt gia nghiệp của Kỳ Viên Ngoại biến thành mây khói, đúng như lời người xưa đã từng than thở:

Phận sương mai lâu dài chi đó,

Kiếp phù sinh nào có trường tồn.

Bọt bèo sóng nước dập dồn,

Hoa tươi thoáng chốc, hoàng hôn úa tàn!

Bấy giờ họ Quế cùng với đứa con gái ngây thơ không một nơi nương tựa, dắt nhau đến Tô Châu, mong kết thân với nhà họ Thi. Ông ta nghĩ chắc nhà họ Thi nghèo túng lắm, cậu con trai chắc chưa lấy vợ. Nào ngờ, đến nơi thấy họ Thi giàu có hơn trước, chỉ có là bà Nghiêm Thị mất rồi. Quế Thiên thấy xấu hổ quá, vội tạ tội với Thi Hoàn và xin vào cúng Nghiêm Thị phu nhân. Ông ta vừa bày xong đồ cúng, bỗng có ba con chó đen chạy tới, quấn quanh rồi ngậm gấu quần ông ta mà sủa kêu liên tục như có điều gì muốn nói. Họ Quế nhìn kỹ trên lưng con chó cái thì quả nhiên có cái bướu. Lòng ông đau như cắt nước mắt tuôn trào, lễ bái và thuật lại hết nguyên do. Cuối cùng ông nói:

– Hiện giờ gia sản tan tành, cha con tôi không nơi nương tựa, vạn bất đắc dĩ phải đến đây, xin Ngài nhận đứa con gái này làm tỳ nữ cho phu nhân. Tôi cũng xin được vào hàng nô bộc, nguyện trọn đời đem sức lực của mình hầu hạ cho Ngài, chỉ ước mong sao cho khỏi báo thân làm chó là mãn nguyện rồi.

Thi Hoàn nghe qua thì vô cùng xúc động, mắt ngấn lệ, rồi an ủi cha con họ Quế rằng:

– Bác và tiểu thư cứ an tâm ở nơi đây, tôi sẽ cung phụng đầy đủ.

Đêm ấy, họ Quế nằm mộng thấy vợ con mình đến cung kính tạ ơn nói rằng:

– May mắn là lang quân đã biết ăn năn tội lỗi nên song thân của Thi Hoàn đã vì lang quân mà xin cho chàng khỏi thọ thân làm chó, mà mẹ con tôi cũng được thoát thân súc sanh đê tiện này rồi.

Quả nhiên đến sáng, ông nghe tin ba con chó đêm vừa rồi đều chết. Quế Thiên biết rằng đây là vợ con mình biến thành bèn khóc òa lên ngã lăn xuống đất.

Về sau, Thi Hoàn cưới con gái Quế Thiên làm thiếp. Quế Thiên cũng ở lại giúp việc trong nhà họ Thi. Riêng ông ăn chay niệm Phật một lòng sám hối, từ đó không hề bị bệnh tật hay tai nạn gì cả, sống đến hết tuổi già ở nhà họ Thi.

(NLHMNĐV  tổng hợp)

Quả cam oan nghiệt

Dưới triều chúa Ðịnh Vương, tại thành Qui Nhơn có người Tàu gốc Quảng Ðông, tục gọi Tàu Dư, cứ mỗi năm đến tháng chạp, chở hàng hóa lên thôn Vĩnh Thạnh, huyện Tuy Viễn, bán cho người địa phương. Hiểu rõ tâm lý người dân Việt Nam và hoàn cảnh chốn thôn quê lúc gần tết, Tàu Dư bán hàng chịu, kẻ đáng nhiều thì nhiều, kẻ đáng ít thì ít, rồi đến mùa gặt lúa tháng ba sang năm, mới trở lại thu tiền. Nhờ vậy hàng chú không bao giờ ế, và người địa phương đối với chú rất có cảm tình.

Ở Vĩnh Thạnh có người bán bánh bèo tên là Phan Phiên. Nhà cửa tuy nhỏ nhưng rất ngăn nắp, lại có vườn rộng và quán bánh ở bên đàng. Vì tiện lợi cho sự buôn bán nên mỗi khi đến Vĩnh Thạnh thì Tàu Dư đến ở đậu nhà Phan Phiên. Hai bên rất tương đắc.

Năm năm lui tới yên vui, Tàu Dư bỗng mất tích. Lúc bấy giờ nhằm lúc nhà Tây Sơn khởi nghĩa binh đánh lấy thành Qui Nhơn. Người thì đoán rằng Tàu Dư sợ giặc giã đi lánh cư nơi khác. Người thì cho rằng chú đã gặp rủi ro trong chốn ba quân. Kẻ bàn người tán, xôn xao trong ít lâu, rồi công ăn việc làm xóa mờ dần dĩ vãng.

Rồi noi dấu Tàu Dư, Phan Phiên đi Qui Nhơn mua hàng về bán tết. Và mỗi năm đi buôn chỉ một lần, mà chưa đầy năm năm, trong nhà đã dư ăn dư để. Chàng dẹp lò bánh bèo, mua trên vài chục mẫu ruộng tốt cho làm rẽ, dỡ bỏ mấy căn nhà cặp nhỏ hẹp, cất lại một tòa nhà mái ba gian, có hồ sen có non bộ, nghiễm nhiên thành một người giàu sang nhất vùng. Ai nấy đều cho rằng nhờ Thần tài phù hộ.

Ðể tạ ơn trên trước, Phan Phiên rước hát bội đến hát. Chàng định hát một đêm một ngày. Rạp hát cất cổ lầu, đồ trần thiết mướn toàn đồ Tàu, vàng thêu rực rỡ. Người đến xem đông như kiến. Chủ nhân lựa tuồng Tiểu Giang San để tôn vương xong là bế mạc.

Mặt trời vừa gác núi, tiếng trống chầu trống chiên đã nổi dậy vang lừng. Và trong nhà cúng tế vừa xong thì ngoài rạp bắt đầu khai diễn. Bao nhiêu con mắt đều dồn lên sân khấu. Trống chầu đôi gióng, trống chiên thúc.

Anh kép đóng vai Khương Linh Tá bước ra giáo đầu. Ðiệu bộ thật khéo. Tiếng chầu thưởng dòn. Nhưng vừa toan cất tiếng xưng danh thì anh kép liền ngậm miệng, mặt dớn dác, chân bước lui… Vừa vào buồng, bị thôi thúc, anh kép trở ra lại, nhưng cũng vừa toan cất tiếng thì liền ngậm miệng lại, và hốt hoảng chạy vào buồng. Anh kép khác ra thay, rồi anh kép khác ra thay nữa, nhưng anh nào cũng vừa muốn cất tiếng thì liền ngậm miệng, hốt hoảng chạy vào buồng. Ông bầu hỏi duyên do, anh nào cũng làm thinh, lấy tay khoát, có vẻ sợ hãi.

Cả rạp đều ngạc nhiên hết sức!

Ông bầu đề nghị cùng chủ nhân cho thay vở tuồng khác, rồi tự mình ra giáo đầu. Ông bầu đóng vai Quan Công phò nhị tẩu vừa bước ra sân khấu thì liền được khán giả hoan nghênh. Nhưng cũng vừa toan cất tiếng xưng danh thì liền ngậm miệng lại bước lui mấy bước, rồi cũng hốt hoảng chạy vào buồng. Ngoài rạp nhao nhao… Hai vị phụ lão cầm chầu quăng dùi đứng dậy bỏ về. Chủ nhân vừa lo ngại vừa tức giận vào cự bầu hát. Bầu hát không nói không rằng, chỉ hối thúc con em lo dọn gánh rút lui. Thế là đám hát bị tan rã.

Cho là điềm xấu, Phan Phiên đâm đơn kiện người bầu hát đã làm mất thể diện mình.

Ðể Ly Tuy Viễn lúc bấy giờ là quan huyện họ Tàu, có tiếng là công bình chính trực. Ðêm trước hôm Phan Phiên đầu đơn kiện, Tào Công đang ngồi đọc sách dưới đèn, thì một người Tàu vào đặt ngay thư án một quả sơn đỏ, rồi vái hai vái mà lui. Công mở quả xem thì thấy một trái cam chín thắm. Công toan cầm cam lên ngửi thì một con quạ bay đến, lấy chân quắp tha đi, Công vội đuổi theo thì vấp ngã… Giật mình tỉnh dậy thì là một giấc chiêm bao. Vì vậy sáng hôm sau nhận được đơn của Phan Phiên, Công đoán chắc có sự liên quan giữa giấc chiêm bao và vụ kiện. Công sức trác đòi đoàn hát bội đến và tự mình lấy khẩu cung.

Ông bầu gánh cùng mấy người kép đều khai giống nhau rằng khi ra tuồng, chúng vừa toan cất tiếng thì một người Tàu cầm quả cam chín thắm nhét vào miệng không cho nói. Sợ quá chúng phải bỏ cuộc rút lui. Tào Công ngẫm nghĩ:

– Thật là kỳ! Cũng chú Tàu, cũng quả cam chín thắm! Nhất định có điều gì bí ẩn chi đây.

Công cho đoàn hát bội về nhà, rồi cùng một viên thuộc hạ lên thẳng Vĩnh Thạnh. Ðến nhà Phan Phiên, Công không đề cập đến vụ kiện chỉ truyền đưa đi xem quanh vườn.

Vườn rộng chừng nửa mẫu, cau chuối xanh tươi, chim se sẻ từng đoàn bay kêu ríu rít. Không thấy chi lạ, Công toan trở vào nhà xét xem, thì nơi góc vườn bỗng nghe tiếng quạ kêu não ruột. Lòng sanh nghi hoặc, Công lần bước theo tiếng quạ kêu. Ði được vài mươi bước thì Công dừng ngay lại: một cây cam xanh tốt đứng choán một góc vườn nhưng trên cành sum sê chỉ có vỏn vẹn một quả chín thắm. Thấy quả cam trên cành giống quả cam trong mộng, Công đứng ngẩn người. Ðương tần ngần suy nghĩ thì một con quạ bay đến đậu nơi cành cam, kêu mấy tiếng não nùng, rồi lấy mỏ mổ vào quả cam đoạn cất cánh bay mất… Liền đó một vòi máu từ quả cam quạ mổ vụt phun ra… Viên thuộc hạ hết hồn. Phan Phiên sợ run cầm cập. Tào Công lấy làm kinh dị tự nhủ: “Nhất định có kẻ bị chết oan”.

Bèn sai đào gốc cam lên. Cây cam vừa ngã thì bày ra một bộ xương khô! Phan Phiên hãi hùng, thét lên một tiếng rồi cắm đầu chạy trốn. Tào Công một mặt cho tẩn liệm bộ xương và chôn cất tử tế, một mặt cho bắt giải Phan Phiên đến huyện đường. Ðến huyện đường, không cần tra tấn, Phan Phiên quỳ cung:

– Bộ xương ấy là của Tàu Dư. Tàu Dư đến buôn bán tại Vĩnh Thạnh rất phát đạt. Thấy y chân chất và không vợ con, tôi bèn làm mối cô em vợ tôi cho y. Y bằng lòng, bàn cùng tôi tậu ruộng nương, cất nhà cửa tử tế rồi lo việc gia thất. Tôi tán thành, y về Qui Nhơn lo thu xếp công việc. Một đêm tôi vừa thiu thiu ngủ thì nghe tiếng Tàu Dư gọi cửa. Lúc bấy giờ vợ con tôi đã ngủ say. Tôi dậy mở cửa. Y gánh vào một cặp bầu cũ kỹ, ngó quanh quất rồi thẳng vào buồng nhà trong. Y chỉ cặp bầu nói cùng tôi:

– Tài sản của tôi có chừng nấy.

Ðoạn mở bầu lấy ra hai chĩnh sành, một chĩnh đựng toàn vàng nén, một chĩnh đựng toàn bạc nén. Chưa bao giờ thấy của giàu như thế, mắt tôi hoa lên! Tàu Dư nói:

– Không nên để trong nhà. Hãy đem chôn ngay ra sau vườn.

Tôi lấy cuốc thuổng rồi cùng Tàu Dư khuân hai chĩnh vàng bạc ra sau vườn. Tôi cuốc đất, Tàu dư xúc đổ. Vừa làm việc tôi vừa nghĩ đến hai chĩnh vàng bạc… Cảnh giàu sang hiện ra trước mắt tôi, lòng tham của tôi tưng bừng nổi dậy. Thấy Tàu Dư đương chú ý vào việc xúc đất thuận tay tôi trở đai cuốc xáng mạnh xuống đầu, y vỡ sọ chết tức khắc. Sẵn hầm đào đã sâu, tôi liền lấp xác chết. Rồi bứng cây cam bên cạnh trồng lên trên. Từ trong nhà đến người ngoài không một ai hay biết.

Rồi để che mắt thế gian, tôi bỏ nghề bánh bèo, bắt chước Tàu Dư đi mua hàng về bán tết… Tôi trở nên giàu có. Năm năm trôi qua, không còn ai nhắc nhở đến Tàu Dư, cũng không hề thấy ai đàm luận đến sự giàu sang của tôi, tôi liền rước hát bội về hát để tạ ơn kẻ khuất mặt đã phù hộ. Nào ngờ…

Tào Công quăng bút thở dài! Ðoạn truyền đem giam Phan Phiên vào ngục thất. Chợt nhớ đến quả cam, Công sai người thắng ngựa đi lấy. Ngựa chưa kịp thắng, thì một con quạ bay đậu trước huyện đường kêu inh ỏi. Công trông ra: một quả cam chín thắm từ chân quạ rơi xuống mặt sân. Sai lượm lên xem là quả cam nơi vườn Phan Phiên, nhưng ruột trống rỗng, mà nơi quạ mổ vẫn còn vết máu tươi.

Công hội ý, ra lệnh tịch biên gia sản Phan Phiên, trích ra một số tiền làm chay cầu siêu cho Tàu Dư, ba ngày ba đêm. Ðêm thứ ba, giờ tý, hồn Tàu Dư hiện đến, lạy trước bàn Phật ba lạy rồi biến mất, và trên không một con quạ vừa bay vừa kêu.

(Quách Tấn)

Ngạn Trai tiên sinh

Ngạn Trai tiên sinh người huyện Nghi Hưng, lúc thi đậu tú tài gia cảnh rất nghèo nhưng tính tình rất ngay thẳng, không tùy tiện lấy đồ vật của người, lại hay giúp đỡ người ta. Khi gặp người có chuyện, nhất định cứu giúp dù có tổn hại danh tiết cũng không cần.

Ngạn Trai dạy học để kiếm sống. Một năm đêm trừ tịch, trên đường về nhà gặp một người đàn bà trung niên vừa đi vừa khóc. Ông thấy lạ bèn hỏi chuyện nhưng bà ta không trả lời. Ông cứ hỏi đi hỏi lại mãi. Bà ta tức giận bảo :

– Người đi đường, mỗi người có tâm sự riêng, ai rỗi hơi mà kể cho người khác nghe !

Ngạn Trai nhìn sắc mặt bà ta buồn thảm bèn an ủi :

– Tôi không phải tùy tiện mà hỏi, nhưng nếu bà có chuyện gì hãy nói tôi biết, biết đâu tôi có thể nghĩ cách giúp bà giải quyết.

– Chồng tôi là lý trưởng làm hụt công quỹ 30 lạng bạc, bị bắt bỏ ngục; mỗi ngày đều bị đánh đập rất khổ sở. Lần trước đi thăm ông nói nếu quá kỳ hạn không nộp đủ tiền nhất định bị xử tử. Chồng tôi giục tôi bán đứa con gái lấy tiền bồi hoàn. Tôi theo lời, nhưng người trung gian lấy cớ cuối năm khó tìm người mua để ép giá chỉ bán được 10 lạng. Đã mất con gái mà chồng cũng không được thoát tội, tôi thật không nghĩ ra biện pháp gì, chỉ định bán thân để thêm chút tiền cứu chồng. Chồng thì tù tội, con gái thì bị bán làm tỳ thiếp, thân mình cũng chẳng giữ được, chỉ chớp mắt cả nhà đã bị tan rã !

– Ba chục lạng cũng không phải là nhiều, chẳng lẽ không có thân thích bạn bè nào để vay mượn sao ?

Người đàn bà thở dài :

– Ông ơi! Nói thì dễ lắm! Bạn bè thân thiết thì nghèo nàn họ lo cho họ còn chửa xong làm sao lo cho mình. Những người có tiền nghe tin đều lánh xa, tưởng gặp mặt cũng khó, nói gì nhờ cứu giúp ?

Nói rồi khóc lớn, định đi. Ngạn Trai ngăn lại :

– Chờ chút, tôi tuy không có tiền nhưng 30 lạng cũng có thể vay mượn được. Nhưng con gái bà đã bán rồi có tiền có thể chuộc lại được không ?

– Tôi tuy bán cháu nhưng chưa làm khế ước, nếu có tiền có thể chuộc lại được.

Ngạn Trai lấy ra 12 lạng trao cho bà ta :

– Bà hãy lấy tiền này đi chuộc con gái về, ngày mai tôi nhất định đem đủ tiền giúp bà.

Người đàn bà không ngờ Ngạn Trai lại nhiệt tâm giúp đỡ như thế, cúi đầu khóc lạy và xin hỏi tên và địa chỉ, còn nói:

– Ngày mai chuộc cháu gái về, nhất định đưa đến nhà ông làm tỳ thiếp.

– Xin bà đừng nói vậy! Tôi chỉ thương hại mẹ con bà cốt nhục bị phân ly, chứ không muốn nhận con gái bà làm tỳ thiếp.

Do đó, không cho biết tên họ và địa chỉ, chỉ hẹn gặp lại ở một địa chỉ khác. Khi đi rồi còn quay đầu lại dặn:

– Ngày mai nhớ đến sớm, đừng chậm trễ !

– Dạ!

Ngạn Trai về đến nhà, bà vợ hỏi tiền đong gạo.

– Thật là phí công dạy học! Đường núi quanh co, vấp té mấy lần tưởng rơi xuống vực, may mà sống sót, làm sao giữ được túi tiền ?

Bà vợ biết ông thích giúp người, liền cười bảo :

– Nếu như ngã rơi mất tiền còn có thể tìm lại được, chỉ sợ ông lại đem đi giúp người thôi.

– Chính vậy đó, nhưng còn chưa đủ, biết làm sao ?

Bèn thuật cho vợ nghe. Bà vợ vốn là người hiền thục, nghe rồi không nửa lời trách oán, còn khen ngợi :

– Thật là một việc tốt! Nhưng năm cùng tháng tận đi đâu mà mượn được 20 lạng đây? Ông đã hứa với người ta thì phải lo cho trọn. Nhà mình hãy còn đủ dùng ông không phải lo cho nhà.

Tiên sinh rất cao hứng bèn đi mượn thân hữu được hơn 10 lạng, nhưng vẫn chưa đủ. Trong thành có một người cho vay, nhưng nếu không có đồ vật gì để cầm thì 1 xu cũng không cho dù là họ hàng hay bạn bè thân thiết. Trong nhà chẳng có vật gì quý để cầm; Ngạn Trai là người giữ chìa khóa nhà từ đường của tộc họ, chỉ còn cách lấy đồ đạc trong từ đường đem đi cầm. Ngày hôm sau đem tiền đến nơi ước hẹn, giao cho người đàn bà rồi trở về nhà. Người đàn bà bèn len lén đi theo thấy Ngạn Trai nói chuyện với một người trên đường, bèn gạn hỏi người đó để biết tên và địa chỉ. Vài ngày sau, bà ta dẫn chồng và con gái đến nhà lạy tạ ơn và thỉnh cầu cho con gái ở lại làm tỳ thiếp. Ngạn Trai thấy đứa bé gái chưa tới 10 tuổi nhưng dung mạo đẹp đẽ bèn nói :

– Hãy mang cháu về nhà, sau này kiếm nơi tốt mà gả chồng cho cháu. Đừng để tôi mang tội bất nghĩa!

Cả gia đình lạy tạ mà đi.

Đến ngày nguyên đán, mọi người trong họ đến từ đường để lễ tổ tiên ông bà, thấy từ đường trống không. Mọi người đều hoảng sợ tưởng rằng bị trộm. Ngạn Trai nói :

– Tết đến vì không có tiền nên tạm mượn để cầm, khi nào có tiền sẽ xin chuộc lại.

Mọi người tức giận trách mắng, Ngạn Trai vẫn yên lặng, không giải thích cũng không mắc cỡ hay tức giận. Vị tộc trưởng biết ông là người trung hậu, lại hay giúp người, chắc phải có nguyên nhân bí ẩn gì đây, nên bảo mọi người tạm thời về nhà, 3 ngày sau sẽ lại thương nghị. Tộc trưởng đến nhà Ngạn Trai hỏi riêng bà vợ, biết chuyện rồi cao hứng, triệu tập người trong họ lại, nói rõ nguyên nhân và bảo :

– Đây là một chuyện rất tốt! Kỳ thi năm nay Ngạn Trai nhất định sẽ trúng tuyển. Nhưng đem cầm đồ từ đường là một tội không thể tha. Vậy cấm Ngạn Trai không được vào từ đường, đợi trúng tuyển rồi mới cho vào.

Mọi người đều bằng lòng.

Khi ra bảng, Ngạn Trai quả nhiên đậu cử nhân hạng rất cao, được triều đình bổ làm Thông Chân Học Chính (hiệu trưởng một trường huyện).

(Thiện Hữu Thiện Báo)

Tiến sĩ Dương Tiện

Ông cử Dương Tiện là một người học hành rất xuất sắc, gia cảnh lại phong lưu. Mùa hạ năm đó cùng đồng bọn kết bạn tham dự kỳ thi Hội. Đã đỗ đầu kỳ thi Hương, trong túi lại có nhiều tiền, mỗi ngày ông đều cùng bạn bè nơi quán trọ uống rượu, ngâm thơ làm vui. Cùng trọ trong quán có một vị thuật sĩ, tướng thuật rất cao minh, nói đâu trúng đó. Dương Tiện thường chuyện trò với ông ta rất tâm đầu ý hợp. Một hôm, Dương Tiện xách một con cá vào phòng thuật sĩ cười bảo :

– Ông rất giỏi xem tướng, ông xem tôi có ăn được con cá này không ?

Vị thuật sĩ xem cá, xem ông Dương Tiện rồi nói :

– Không được!

Dương Tiện mang cá vào bếp chiên, sau đó mang về phòng để lên bàn, rồi đi mời thuật sĩ tới cùng ăn, chuẩn bị cười ông đoán sai.

– Tôi có ăn được cá không?

– Không được!

Nói chưa dứt lời thì một con rắn từ trên trần nhà rớt xuống làm đổ đĩa cá. Mọi người kinh sợ hét lên. Con rắn bèn bò đi mất. Dương Tiện không ăn được cá rất thán phục thuật sĩ, ông ta khiêm nhượng:

– Tướng thuật của tôi có đáng gì! Vì ông định ngạo tôi nên tôi cũng đùa một chút chơi chứ con cá này chẳng quan hệ gì đến tướng thuật cả.

– Tôi có đậu được tiến sĩ không ?

Thuật sĩ do dự :

– Tôi sợ ông giận.

– Cứ nói đi, có quan hệ gì?

Thuật sĩ định nói lại thôi, Dương Tiện năn nỉ hai ba lần, thuật sĩ miễn cưỡng bảo :

– Ông không có hy vọng trúng tuyển, hơn nữa sắc mặt ông rất xấu, canh 3 ba hôm nữa ông sẽ chết không toàn thây. Ở đây không xa nhà ông mấy, ông mau trở về ngay.

– Có tránh được không?

– Như tôi thấy thì không thể được.

Dương Tiện thấy ông ta nói chắc như thế, trong lòng hoảng sợ, sửa soạn hành lý đi về. Bạn bè trách thuật sĩ nói láo, giữ không cho Dương Tiện về. Dương Tiện đành lưu lại quán nhưng lòng riêng không an. Ba hôm sau, trời sáng trăng, bạn bè đều ngủ cả. Dương Tiện lo lắng nằm ngồi không yên, bèn trở dậy ra ngoài tản bộ. Bỗng nghe có tiếng khóc nức nở từ một căn nhà đổ nát. Dương Tiện đẩy cửa bước vào thì thấy một người đàn bà đang ôm hai đứa nhỏ khóc lóc rất ai oán. Dương Tiện gạn hỏi thì ra chồng của thiếu phụ thiếu nợ một phú ông 50 lạng bạc bị đối phương thưa kiện, bị bắt bỏ tù, bị đánh đập khổ sở, chỉ còn cách bán vợ, đợ con để hoàn trả. Bà mẹ không nỡ xa con nên mới khóc thương tâm như thế. Dương Tiện nghĩ bụng: tiền thì mình không thiếu, nhưng như thuật sĩ nói mình sắp chết, giữ tiền lại có ích gì chi bằng giúp cho gia đình này khỏi tan nát, bèn hỏi:

– Đã làm khế ước chưa ?

– Còn chưa.

– Nếu có tiền có thể giải quyết được không ?

– Được !

– Người môi giới ở đâu ?

– Ở gần đây thôi.

– Vậy hãy mời ông ta tới đây, tôi về nhà lấy tiền giúp bà.

Người thiếu phụ nghi ngờ Dương Tiện có dụng ý gì khác do dự không chịu đi. Dương Tiện cười nói:

– Tôi vì không nỡ thấy gia đình bà cốt nhục phân ly, do đó mới giúp. Bà hãy đi ngay đi, đừng chần chờ nữa.

Người đàn bà vui mừng ra đi, Dương Tiện cũng trở về quán trọ lấy 70 lạng bạc mang đến. Khi vào nhà thấy người đàn bà và một ông lão ngồi đó bèn hỏi ông là ai. Ông lão cho biết là người môi giới bán người. Dương Tiện trao tiền cho thiếu phụ và nói rõ nguyên nhân. Ông lão kinh ngạc:

– Thầy chỉ là một người qua đường mà trọng nghĩa như thế, huống hồ tôi là hàng xóm của bà đây. Nhờ hậu ân của thầy, việc bán thân không cần phải nói nữa. Bây giờ lão sẽ mang tiền nộp quan phủ để họ thả ông chồng bà này về.

Nói rồi mở túi tiền ra xem, thấy thừa 20 lạng.

Dương Tiện liền lên tiếng:

– Tiền thừa là để giúp vợ chồng họ mưu sinh, tránh không bị thiếu tiền người khác nữa.

Ông lão tấm tắc thán phục:

– Thầy thật là chu đáo, là cha mẹ tái sanh của vợ chồng họ.

Chuyện xong rồi, Dương Tiện trở về quán trọ nghĩ đến lời thuật sĩ không ngủ được, nghe trống báo canh ba nghĩ bụng:

– Đã tới lúc rồi!

Đương nghĩ ngợi bỗng nghe có tiếng gọi cổng bèn ra mở cửa thì ra là hai vợ chồng thọ nạn đến cảm ơn. Dương Tiện an ủi hai vợ chồng rồi tiễn họ ra cửa. Định trở về phòng ngủ thì bỗng nhiên nghe ầm một tiếng vội chạy vào xem thì ra bức tường bị đổ đè ụp xuống giường ngủ gẫy nát. Nếu Dương Tiện nằm trên đó thì đã tan xương nát thịt.

Ngày hôm sau, Dương Tiện đến thăm thuật sĩ cười ông đoán bậy. Thuật sĩ ngắm nghía một lát rồi bảo:

– Ông đừng dối tôi. Nhất định hôm qua ông đã làm một việc gì đó ân đức rất lớn khiến mặt ông đầy vẻ tốt lành. Không những ông không chết mà còn thi đậu tiến sĩ nữa.

Dương Tiện rất khâm phục. Năm đó, quả nhiên đậu tiến sĩ rồi được triều đình bổ nhiệm vào Hàn Lâm Viện.

(Thiện Hữu Thiện Báo)

Mỗ Sinh.

Mỗ sinh trước làm ăn mày, sau làm trộm, cuối cùng giàu có, con cháu có người làm quan, khiến ông cũng được gia phong.

Khi ông làm trộm, trong thành có một nhà giàu có, đàn ông trong nhà đều chết cả, chỉ còn lại ba chị em dâu. Hai chị lớn không con, chỉ có cô em dâu út đang mang thai. Mọi người đều hy vọng cô sinh một đứa con trai để nối dõi tông đường. Lễ thanh minh năm đó, hai chị dâu lớn đều về quê tảo mộ. Vì đường đi về mất ba ngày, em dâu út không tiện đi cùng, chỉ đành lưu lại một bà già ở lại hầu hạ. Mỗ sinh biết được tình hình, chiều tối leo tường vào thấy thiếu phụ và bà già cầm đèn đi soi cửa ngõ, bèn nấp vào phòng thiếu phụ. Thiếu phụ ngồi dưới đèn đọc sách, bà già đứng bên phục thị, coi bộ buồn ngủ lắm, giục thiếu phụ đi ngủ. Thiếu phụ bảo:

– Bà ra đóng cửa rồi đi ngủ, đừng làm phiền tôi xem sách.

Bà già bèn đi ra. Một lúc sau bỗng có một người xô cửa bước vào. Mỗ sinh nghĩ là đồng bọn ăn trộm, nhưng sao không chờ thiếu phụ ngủ rồi mới vào? Hơn nữa hắn ăn mặc rất đẹp. Thiếu phụ thấy thanh niên vào thì kinh sợ, định kêu. Gã ôm chầm lấy thiếu phụ định giở trò. Thiếu phụ một mặt kháng cự, một mặt kêu bà già. Nhưng không nghe tiếng bà già lên tiếng. Gã thanh niên thấy thiếu phụ kháng cự, rút trong tay áo ra một con dao:

– Cô không nghe lời, ta sẽ giết chết.

– Nhà ta gia thế thanh bạch, không để ngươi làm ô uế đâu ! Muốn giết thì cứ giết, dẫu chết ta cũng không chịu nhục.

Thanh niên lại kề dao vào cổ thiếu phụ cưỡng ép. Mỗ sinh ở trong chỗ nấp, phẫn nộ xông ra đoạt lấy dao và đâm cho gã kia một nhát. Gã thanh niên ngã xuống đất. Thiếu phụ thấy một người nữa xuất hiện thì kinh hãi nói không ra lời. Mỗ sinh bèn ra mở cửa kêu lớn:

– Bắt trộm! Bắt trộm!

Hàng xóm nghe kêu đều chạy đến:

– Trộm đâu? Trộm đâu? Ngươi là ai?

Mỗ sinh trong lúc tức giận quên béng đi chính mình là trộm, bèn cười:

– Tôi là kẻ trộm, nhưng có kẻ trộm còn ác ôn hơn nữa! Mọi người hãy theo tôi!

Bèn dẫn mọi người vào phòng thiếu phụ. Mọi người thấy một gã thanh niên bị thương nằm trên đất, bèn đem đèn lại xoi, thì ra là một gã trong xóm. Mọi người hỏi tại sao gã lại ở đó, gã không trả lời. Lại hỏi Mỗ sinh, chàng bèn kể lại đầu đuôi, mọi người bèn trói cả hai người dẫn lên quan phủ.

Khi quan phủ thẩm vấn, gã thanh niên lại vu cáo thiếu phụ và Mỗ sinh thông gian, gã đến để bắt gian. Mỗ sinh thưa:

– Mọi người đều biết tôi là kẻ trộm, dù thiếu phụ có bất trinh cũng không thèm thông gian với kẻ trộm.

Lại kể ra vanh vách các vụ mình đã trộm để chứng minh mình là kẻ trộm thật; sau đó tường thuật lại tường tận chuyện xảy ra ở nhà thiếu phụ. Quan phủ cho điều tra, rồi lại dùng nghiêm hình tra vấn gã thanh niên, cuối cùng gã đành phải khai thật. Từ lâu gã đã thèm thuồng nhan sắc của thiếu phụ, gã lại mua chuộc thông lưng với bà già. Bà già lén báo tin tức cho gã biết nhà không người nên gã định đến làm bậy. Quan phủ sau khi tra xét tường tận, y theo luật pháp trừng trị gã thanh niên và bà già đồng lõa, biểu dương trinh khiết của thiếu phụ và khen ngợi nghĩa cử của Mỗ sinh, thả hắn tự do.

Mỗ sinh được thả rồi vẫn tiếp tục ăn trộm. Một hôm bị sự chủ phát hiện bèn chạy trốn, sự chủ đuổi theo rất gấp. Mỗ sinh chạy thục mạng, lạc đường chẳng biết là mình ở đâu. Bỗng thấy một tòa miếu hoang, bèn vượt tường vào định trốn dưới gầm bàn thờ. Vì vội quá xô phải thần tượng bằng đất, vấp té xuống đất, hôn mê bất tỉnh. Mỗ sinh bỗng thấy vị thần mặt xanh, tóc đỏ lồm cồm bò dậy quát lớn:

– Ngươi lại dám xô ngã ta?

Vừa hét, vừa định chém Mỗ sinh. Bỗng trên điện có tiếng mắng:

– Người này vừa bảo toàn tiết tháo và hương hỏa của người khác, âm đức rất lớn, trời đã ban cho hậu phúc, đồ tiểu quỷ ngươi sao dám làm phiền.

Liền sai người lôi thần mặt xanh ra đánh trăm roi. Lại gọi Mỗ sinh lại bảo:

– Dưới điện có nhiều vàng bạc ban cho ngươi hưởng dụng.

Mỗ sinh cảm tạ, đứng dậy xuống điện xem thấy vàng chất một đống, mừng rỡ vội chạy lại không ngờ bị vấp té, giật mình tỉnh mộng. Ngẩng đầu nhìn xem thấy vài vì sao còn lấp lánh, trời chưa sáng hẳn. Mỗ sinh nhớ lại lời thần vừa bảo, bèn đi quanh quẩn dưới điện tìm kiếm, chỉ kiếm được một đồng xu. Cho là thần đùa cợt mình, Mỗ sinh lên đường vào làng, thấy một quán bên đường có bán khoai từ bèn lấy đồng xu nhặt được mang ra mua một củ ngồi ăn. Không lâu có một cụ già cũng lại mua khoai từ, ngồi cạnh Mỗ sinh mà ăn. Ăn xong đứng dậy đi. Mỗ sinh cũng định đi, chợt thấy một cái túi vải, biết là ông lão bỏ quên. Bèn mở ra xem thì thấy trong túi có 2 đính vàng, hơn trăm lạng bạc và bốn cuốn sổ trước bạ. Mỗ sinh sợ chủ hàng trông thấy vội thắt túi lại. Lại nghĩ không lẽ đây là tiền thần nhân hứa cho sao? Nhưng nếu ta lấy đi thì ông lão mất sổ không đòi tiền được. Dù là thần thánh có cho đi nữa, ta cũng không thể nhận. Nghĩ rồi bèn ngồi đợi ông lão trở lại. Ngồi rất lâu người bán khoai khó chịu :

– Cậu chỉ bỏ ra một xu mà ngồi lâu vậy, chẳng lẽ muốn ngủ đêm ở đây ?

– Không, tôi còn muốn ăn thêm.

Bèn lấy trong túi ra vài xu mua vài củ khoai vừa ăn vừa đợi. Không lâu, quả nhiên ông lão hấp tấp trở lại, mồ hôi nhễ nhại, thấy Mỗ sinh còn ngồi ăn bèn hỏi :

– Cậu còn chưa đi ? Vừa rồi lão bỏ quên một túi vải, cậu có thấy không?

Mỗ sinh cười :

– Nếu không vì túi vải của cụ thì tôi đã đi lâu rồi!

Liền đưa túi vải ra trả.

– Hãy còn nguyên đây, tôi chỉ lấy vài xu mua khoai, hy vọng cụ không trách.

Ông cụ mở túi ra kiểm, cũng không tạ ơn chỉ nói :

– Nhà tôi cũng ở gần đây, cậu hãy đi với tôi.

Mỗ sinh đồng ý, hai người đi bộ vài dậm tới một nhà rất lớn, ngoài cửa gỗ xếp cao như núi. Hai người vào nhà, ông lão vào thay quần áo rồi ra cầm tay Mỗ sinh:

– Tôi là người nước Sở, sống ở đây bằng nghề buôn gỗ, các tiệm đồ gỗ trong tỉnh đều do nơi đây cung cấp. Tư kim gần mười vạn lạng. Một nửa là cho mượn, tất cả đều ghi trong các cuốn trước bạ trong túi, may mà cậu hoàn trả nếu không thì tài sản tôi đi đời. Để tôi đem ngàn vàng đáp tạ.

Mỗ sinh từ chối. Ông lão thấy chàng thành thật bèn hỏi:

– Cậu làm gì?

Mỗ sinh mắc cỡ :

– Cháu chẳng có nghề ngỗng gì.

– Nhà cậu có mấy người ?

– Chỉ có mình cháu.

– Vậy làm sao sống?

– Thực không dám dấu cụ, cháu là tiểu tặc.

– Cậu tên gì?

– Dạ, tên Mỗ.

Ông lão nhìn kỹ Mỗ rồi hỏi :

– Lúc trước lão có nghe trong thành có một nghĩa tặc, nguyên lai là cậu đây?

– Dạ, chính là cháu.

– Cậu là người thấy lợi không lấy, quang minh lỗi lạc, ngay cả sĩ đại phu chưa chắc đã làm nổi. Nhà lão tiền của nhiều, nhưng chưa có người thân tín để giao phó. Nếu cậu không ngại có thể theo tôi. Ăn mặc, tiêu dùng tùy ý, làm lại một người lương thiện có được không?

– Dạ, được!

Mỗ sinh vui mừng đồng ý ở lại giúp ông lão. Vì Mỗ sinh cũng biết dăm ba chữ nên ông lão cho chàng giữ sổ sách. Chàng làm việc rất cần cù, thận trọng, tỷ mỉ từng ly, từng tý không bao giờ cẩu thả. Được hai năm vì ông lão không con bèn nhận Mỗ sinh làm nghĩa tử. Cuối cùng dẫn chàng về quê. Vì ông lão xa quê lâu ngày nên mọi người đều tưởng chàng là con ruột. Khi ông lão qua đời, chàng kế thừa tài sản, lấy vợ , rồi con cháu đầy nhà. Con cái có người đậu cử nhân làm quan đến Quận thú, Quán sát.

(Thiện Hữu Thiện Báo)

Thư Lão

Thư Lão người tỉnh Giang Tây, sống bằng nghề dậy học tại hai tỉnh Hồ Nam, Quảng Đông. Một năm nọ, cùng một số bạn đồng hương Giang Tây đáp thuyền về quê. Khi thuyền neo lại bờ để nghỉ, ông bèn lên bờ đi tản bộ. Bỗng nghe có tiếng khóc nức nở, thảm thiết, lại gần xem thì là một thiếu phụ, bèn hỏi :

– Sao nàng khóc thảm như vậy?

– Chồng tôi thiếu tiền quan 13 lạng, bị quan phủ đòi rất gấp, không còn cách nào nữa, chồng tôi định bán tôi đi để lấy tiền đền. Nhưng nếu tôi bị bán đi thì đứa con nhỏ chưa dứt sữa tất phải chết, làm sao không thương tâm cho được?

– Nàng đừng khóc, bọn đồng thuyền với tôi đều là người đồng hương Giang Tây, chỉ cần mỗi người cho một lạng là giải quyết được vấn đề.

Nói rồi, ông trở về thuyền thuật lại câu chuyện với mọi người, nhưng chẳng ai nghe ông. Ông đành đem hết tiền dành dụm hai năm trời ra giúp thiếu phụ. Thiếu phụ khóc tạ mà đi. Lương thực mang theo ăn đã hết, lại không có tiền mua, người trên thuyền đều trách ông:

– Mình đã không đủ sức cứu người, ai bảo còn mua chuyện, nay không có gì ăn chỉ tại mình, còn trách được ai?

Tuy vậy, cũng có người thương hại mời ông cùng ăn. Nhưng vì ăn của người, ông không dám ăn no. Nhịn đói hai ngày, về tới nhà ông bảo vợ :

– Tôi đói quá, mình đi thổi cơm đi.

– Nhà hết gạo rồi.

– Thì đi vay hàng xóm.

– Mượn đã nhiều lần, hứa khi ông về sẽ đem trả, nay ông về rồi thì lấy cớ gì mà vay?

Ông bèn kể lại chuyện dọc đường. Bà vợ bảo :

– Nếu đã thế thì đành ăn rau vậy.

Bà vợ vào núi hái rau đắng, nấu lên hai vợ chồng ăn no rồi đi ngủ. Đêm đến, hai người đều nằm mộng thấy có người đọc cho hai câu:

Ngày nay ăn rau đắng,

Năm sau sanh Trạng nguyên.

Đến khi thức dậy, hai người kể cho nhau nghe, đều lấy làm lạ. Năm sau bà vợ sanh một bé trai bụ bẫm, về sau lớn lên quả nhiên thi đậu Trạng nguyên.

(Nhân Quả Báo Ứng lục)

Người ăn mày không tham tiền, cứu người được thiện báo

Vào Triều đại nhà Thanh, tại thị trấn Phong Kiều, Tô Châu là nơi tụ tập của các thương gia buôn bán lương thực bằng thuyền. Bên cạnh Thị trấn Phong Kiều có một ngôi chùa cổ, có một người ăn mày vô gia cư buổi tối thường đến tá túc tại đây, hai chân của người ăn mày bị bệnh nên anh không đi được xa, buổi sáng anh ta chỉ đi quanh thị trấn để xin ăn.

Người ăn mày buổi sáng khi đi vào nhà vệ sinh, thì thấy bên cạnh nhà vệ sinh có ai đó đánh rơi một túi nhỏ, anh mở ra xem thì thấy có khoảng mấy trăm lượng bạc. Anh nghĩ rằng: đây là tiền mà người đi đường đánh rơi, mình vốn là người bạc mệnh, có thể hưởng số tiền này không? Mà mình lại không biết tiền này dùng để làm gì, nếu như đây là tiền để đi cứu mạng ai đó, nếu mình lấy thì có phải là sẽ có người thiệt mạng hay sao, mình sao lại tham như thế được. Anh quyết định hôm nay không đi ăn xin nữa, mà ở đây đợi người bị mất quay lại tìm.

Đến buổi trưa, quả nhiên có người hớt hải chạy tới, vội vàng tìm kiếm thứ gì đó, vẻ mặt rất lo lắng. Người ăn mày liền hỏi:

– Anh đang tìm đồ đánh rơi à?

Người kia trả lời:

– Đương nhiên là tôi bị rơi đồ, chẳng nhẽ anh nhặt được đồ của tôi sao?

Người ăn mày trả lời:

– Đúng thế!

Sau đó người ăn mày hỏi kỹ để đảm bảo túi tiền đúng là của vị này hay không. Sau khi xác nhận là đúng anh liền đưa trả túi tiền cho người kia. Người đánh rơi đồ vui mừng quá, đã tặng người ăn mày một nửa số tiền để cảm ơn. Người ăn mày cười, rồi nói:

– Cả túi tiền của anh tôi còn không cần, tôi lại đi nhận nửa túi tiền của anh sao? Mà tiền của anh thiếu đi một nửa, sợ rằng đi làm việc sẽ có khó khăn, mau đi làm việc của anh đi. Đừng làm mất thời gian xin ăn của tôi.

Người kia nghe thế bất đắc dĩ phải dời đi, nhưng trước khi rời bước anh nhét 10 lượng bạc vào túi người ăn xin, coi như để cảm ơn, người ăn mày cuối cùng đành đồng ý nhận 10 lượng bạc.

Buổi chiều, người ăn mày đi xin ăn ở đường, bỗng nhìn thấy một cô gái trẻ đang ôm cha khóc lóc thảm thiết. Người ăn mày hỏi những người đứng xung quanh xem sự tình ra sao. Có người nói cho anh ta:

– Chủ nợ đang bắt con gái của ông này đi gán nợ, cho nên cô gái này mới khóc lóc thảm thiết.

Người ăn mày hỏi kỹ thì biết, hai cha con này chỉ bị thiếu nợ người ta có 10 lượng bạc. Lúc này người ăn mày mới giận giữ mắng mỏ chủ nợ bất nhân bất nghĩa, chỉ vì 10 lượng bạc mà làm gia đình người ta tan nát. Chủ nợ nhìn người ăn mày, vừa cười chế nhạo vừa nói:

– Đã như vậy thì anh hãy trả nợ giúp họ đi!

Người ăn mày liền lấy ra 10 lượng bạc mà người đánh rơi tiền ban nãy nhét vào túi mình, giúp bố con nhà này trả nợ, chủ nợ không cách nào khác đành phải chấp nhận rời đi.

Kỳ thực mục đích của tên chủ nợ kia không phải vì 10 lượng bạc, mà là nhìn thấy cô gái tướng mạo xinh đẹp nên mới mưu đồ mà thôi. Chủ nợ cho rằng người ăn mày này đã can thiệp vào chuyện của ông ta, vì thế ghi hận trong lòng, nghĩ ra cách vu cáo người ăn mày là kẻ trộm, và 10 lượng bạc đó là tiền đi ăn trộm mà có. Huyện lệnh Trần Mỗ sau khi nhận được đơn tố cáo, đã nghiêm túc thẩm tra xử lý, và biết rằng người ăn mày đã bị oan uổng. Thật trùng hợp, chuyện này đã đến tai người bị rơi tiền, ông này liền đến quan để làm chứng, oan khuất của người ăn mày đã được giải.

Huyện lệnh khi đó tán thưởng người ăn mày, và nghiêm trị tên chủ nợ vu khống. Sau đó quan phủ hạ lệnh, gạo mẫu mà các thương nhân hàng ngày phải giao nộp cho quan phủ để kiểm nghiệm, nay toàn bộ phải đưa cho người ăn mày, không để cho anh phải đi ăn xin nữa.

Người ăn mày dựa vào gạo được ban thưởng, dần dần tích cóp được một chút, liền muốn mời thầy thuốc chữa trị đôi chân cho anh. Sau đó anh may mắn gặp được một đạo nhân đưa cho anh một đơn thuốc. Người ăn mày dựa vào đơn thuốc đó chữa trị liền mấy ngày sau, quả nhiên chân của anh đã hồi phục bình thường, anh có thể làm việc kiếm tiền giống như người bình thường. Thời gian qua đi, chưa đến 10 năm anh đã từ một người ăn mày trở thành một phú ông.

Một người ăn mày mang bệnh, vậy mà thấy tiền không ham, còn làm việc thiện cứu người, cuối cùng trở thành một người giàu có. Thật sự khiến người ta không khỏi cảm thán: “Thiện hữu thiện báo!” Qua đó có thể thấy, hành thiện tích đức thì có thể mang đến phúc phận cho con người.

(Theo: Đại Kỷ Nguyên tiếng Trung Thiên Minh biên dịch)

VIISÁT SANH

Định nghĩa:

Ác thứ bảy Sát Nhơn gây vạ,

Tánh hung hăng đâm chém chặt bầm.

Chất chứa điều hung dữ trong tâm,

Chờ đắc thế ra tay hạ sát.

Viết đến đây động lòng rào rạt,

Gẫm nhiều người bội bạc thâm ân.

Nào kể chi là đạo Quân Thần,

Tôi giết chúa, con đành sát phụ.

Lúc nguy cơ tớ mong hại chủ,

Trò giết thầy tội ấy đáng không.

Thêm chồng giết vợ, vợ giết chồng,

Niềm huynh đệ cùng nhau xâu xé.

Cũng hiếm lúc con còn giết mẹ,

Giành của tiền cốt nhục giết nhau.

Tranh lợi danh giết lẫn đồng bào,

Tình nhơn loại phân chia yểm bách.

Giết sanh vật đầy lòng kiêu cách,

Tưởng rằng mình như thế là ngoan.

Khuyên bá gia bá tánh việt-đàn,

Chớ sát hại mạng người như thế.

Bớt giết vật đặng mà cúng tế,

Gẫm Thánh Thần đâu có tư riêng.

Rủi ốm đau bởi tại căn tiền,

Hoặc hiện kiếp làm điều bạo ác.

Phải ăn năn phước điền tạo tác,

Lo thuốc thang khẩn vái Phật Trời.

Nguyện sửa lòng ắt Phật giúp đời,

Xuống phước rộng từ bi hỉ xả.

Đấng Thần Minh công bình trực dạ,

Đâu ăn lo đổi họa làm may.

Mở tâm linh nghĩ đến đoạn này,

Điều họa phước ấy cơ báo ứng.

Chẳng biết thân còn toan chứa đựng,

Quả bất lành chưa trả vay thêm.

Cầu cho đời sóng lặng gió êm,

Đặng bá tánh an nhàn tu niệm.

(Khuyến thiện – Vô Danh cư sĩ)

Sát sanh. – Con người mới sanh ra ở đời đều có tánh hiền lành cả. Song đến lúc lớn khôn vì phải sống chung chạ với thế giới người hung tàn bạo ngược, tánh nết liền ô nhiễm những sự xấu xa hèn kém, trở nên độc ác dữ dằn.

Loài người giết nhau vì tiền bạc, vì sắc đẹp, vì lợi danh, vì quyền thế, vì thù hềm, vì háo thắng … nghĩa là họ giết nhau vì sự ích lợi của một người, của một nhóm người, của một đẳng cấp xã hội, của một quốc gia; họ muốn tiêu diệt tất cả nhân loại, không một ai có quyền sống sanh cùng họ cả.

Tại trào nội, sự mà vua coi bầy tôi như cỏ rác, bầy tôi sánh vua như thể địch thù đã làm nguyên nhân cho biết bao cuộc tương tàn tương sát. Ngoài lê thứ thì con giết mẹ cha, tớ hại chủ, trò giết thầy, chồng vợ giết nhau, đệ huynh xâu xé. Những cuộc tương tàn rất thường xảy ra trong nhân loại không ngoài các lý do đã kể trên. Đó là người đối với người.

Người đối với thú cầm sanh vật còn tàn nhẫn gấp mấy nữa: họ giết thú vật vì miếng ăn, vì sự dị đoan mê tín, vì sự vui thích. Đành rằng mình không thể dứt tuyệt giết các sanh vật (gà, vịt, heo) để nuôi thân sống, nhưng chẳng khá dựa vào lý “vật dưỡng nhơn” (thú vật sanh ra đặng nuôi con người) mà giết nó một cách quá đáng. Chỉ cần dùng nó vừa đúng theo sự nhu cầu cần thiết của các món thực phẩm mình thôi mà không nên hoang phí hy sinh nó, nếu sự hy sinh ấy không ích lợi cho mình lắm. Nhứt là chẳng khá giết các thú vật trong khi tế lễ. Người ta tưởng rằng khi mình phạm tội với Thánh, Thần, Trời Đất có thể sát sanh hại vật cúng tế cầu cho tội quả tiêu trừ. Sự tin tưởng ấy rất sai lầm, huyễn hoặc, vì đứng vào bực siêu hình cao cả như chư-vị Thánh Thần, có lý nào vì một tình riêng làm sai chạy lẽ công. Khi gặp tai nạn bất ngờ hay rủi ro đau ốm, con người không chịu thuốc thang, khẩn vái Phật Trời cầu cho tai qua nạn khỏi, lại giết các thú vật tế Thần cúng Thánh, kêu cốt, kêu đồng. Họ không chịu tìm nguyên nhân các sự họa hoạn, không chịu tìm hiểu rằng những tai biến xảy ra đều do căn tiền báo quả hậu, và không chịu ăn năn chừa lỗi, tạo tác phước điền. Trong khi giết các thú vật đặng tế lễ, họ đã phạm thêm một tội ác lúc họ chưa đền các tội ác trước được.

Chẳng những vậy thôi, họ còn giết các thú vật vì sự vui thích của mình; kẻ bắn chim đang bay trên trời, người chặt cá đang lội dưới nước. Họ bắt thú vật làm tấm bia cho họ nhắm trong những khi cao hứng, quên hẳn rằng sanh vật cũng có linh hồn, cũng có thân xác, cũng biết tìm lẽ sống còn như nhân loại vậy.

Thế nên, hãy tha thứ cho chúng, hãy dung dưỡng chúng và nhứt là đối với các gia súc: trâu, bò, ngựa, chó, mèo … chẳng khá sát hại, vì chúng đã giúp ích cho ta trong các việc sanh hoạt hằng ngày. Tóm lại, không có sự sát sanh vô cớ nào có thể tha thứ được và trong những ngày chay lạt hãy cử hẳn.

(SGTVTB2004, tr.187-188)

Tự tử    

Vấn đề tự tử trong quan niệm của Phật giáo được xem tương đương với tội giết người.

Nạo phá thai không khác gì giết người, sẽ gánh nghiệp báo nặng nề

Theo cơ sở khoa học, nạo phá thai có thể gây hậu quả nghiêm trọng cho sức khỏe người phụ nữ. Còn theo giáo lý nhà Phật, nạo phá thai tương đương tội sát nhân và sẽ phải gánh nghiệp báo nặng nề.

Chủ tâm nạo phá thai theo giáo lý nhà Phật không khác gì giết chết một mạng người vô tội. Tệ hơn nữa sinh linh này bị giết chết khi đang chuẩn bị chào đời. Theo giáo lý nhà Phật, một sinh linh bị giết chết do kết quả của hành động nạo phá thai có chủ ý sẽ vất vưởng trong đói khát, lạnh lẽo và cực kỳ thương tâm ở một không gian khác vì chưa được luân hồi ngay mà phải chờ rất, rất lâu sau. Vì người chủ tâm nạo phá thai đã gây ra nỗi thống khổ này của sinh linh vô tội, người đó chắc chắn bị báo ứng.

Trên thực tế, báo ứng có thể thấy rõ ngay trong đời này đối với những người cố tình nạo phá thai, đó là người đó sẽ bị vô sinh hoặc các chứng bệnh phát sinh sau đó.

Nạo phá thai có chủ ý hay xảy ra nhất ở nữ giới chưa lập gia đình trong độ tuổi từ 16 đến 20 tuổi. Những người này vì dục vọng nhất thời đã mang trong mình một sinh linh bé nhỏ chờ chào đời. Tuy nhiên vì hoàn cảnh không cho phép, họ đã chủ tâm nạo phá thai, gây nghiệp lớn cho bản thân.

Nghiệp lực thể hiện rõ nhất đối với họ sẽ triển hiện trên phương diện khoa học. Các bác sĩ tại một bệnh viện sản ở Trung Quốc mới đây cho biết, vì cơ thể nữ giới dưới 20 tuổi chưa hoàn thiện cơ quan sinh sản, nên nếu thạo phá thai, họ dễ bị tổn hại sức khỏe, thậm chí nghiêm trọng.

Một số trường hợp nạo phá thai còn bị tử vong do mất máu quá nhiều vì cơ địa yếu. Một số trường hợp khác sau nạo phá thai sẽ gánh hậu quả nghiêm trọng về sau như bệnh phụ khoa, vô sinh…

Các chuyên gia sản khoa cảnh báo, chủ tâm nạo phá thai rất nguy hiểm cho nữ giới, đặc biệt dưới 20 tuổi. Lý do là vì trong quá trình nạo hút thai, rất có thể còn sót lại một phần bào thai, đặc biệt là phần xương. Điều này sẽ gây chảy máu bất thường, đau đớn dữ dội vào kỳ kinh nguyệt, nghiêm trọng hơn là vô sinh.

Người nữ giới nạo phá thai hơn 3 lần sẽ đối mặt nguy cơ vô sinh vĩnh viễn. Vì vậy, nên hỏi ý kiến bác sĩ nếu còn muốn sinh con sau khi nạo phá thai. Như vậy, khoa học đã ý thức được hậu quả nghiêm trọng của nạo phá thai.

Còn về mặt tâm linh, nạo phá thai không khác gì giết người, chặn đứng đường sống của một sinh linh vô tội, gây nghiệp báo nặng nề. Theo giáo lý nhà Phật, mỗi một sinh linh đầu thai đều là do Thiên ý an bài. Thần linh đều ý thức được sự tồn tại của sinh linh này.

Việc nạo hút thai bằng sự can thiệp thô bạo của con người thật độc ác. Sinh linh vô tội khi ấy chắc chắn cố bám vào bụng mẹ, nhưng vẫn bị lực ép ra ngoài và kết liễu cuộc đời. Linh hồn đứa trẻ vô tội ấy có thể sẽ bám theo người mẹ tội lỗi và khiến họ gánh chịu nhiều nghiệp báo nặng nề về sau.

(trích:Theo Tinhhoa.net)

*Trong bài giảng của pháp sư Tịnh Không về chủ đề phá thai thông qua cuộc phỏng vấn vào năm 2011, có đoạn Ngài nói như sau:

Phật pháp và các tôn giáo đều tin thuyết nhân quả báo ứng. Đức Phật dạy chúng ta: phận con cái có bốn duyên với cha mẹ. Nếu không duyên thì sẽ không sinh vào nhà bạn. Bốn duyên đó là gì? Là: báo ân, báo oán, đòi nợ, trả nợ. Ba mươi năm trước khi lần đầu tiên tôi đến Hồng Kông thuyết pháp lưu trú tại giảng đường Bát Nhã, đường Lam Đường, là đạo tràng của hòa thượng Thọ Dã. Lúc vừa bước vào Điện Phật của Ngài, đầu tiên là tôi nhìn thấy một bức liễn đối. Đôi liễn trước có viết: “Vợ chồng là duyên, có duyên tốt, có duyên xấu, oan oan báo nhau”. Liễn sau viết câu: “Con cái là nợ, có đòi nợ, có trả nợ, không nợ không đến”. Nếu như đứa trẻ này đến để báo ân mà bạn lại đem nó đi giết thì ân biến thành thù. Còn nếu nó đến để báo thù thì khi bạn giết nó, oán thù sẽ chồng chất, như vậy thì làm sao được. Cái thứ oán hận này phiền phức lắm, đời đời kiếp kiếp không khi nào dứt, cứ báo thù nhau mãi, phiền phức lắm đó! Còn nếu như nó đến để đòi nợ, bạn chưa trả mà đã vội giết nó thì lại thêm nợ, thêm thù. Còn nếu nó đến để trả nợ thì điều đó là tốt, nhưng chưa trả mà bạn đã vội giết nó thì sẽ trở thành oan gia đối đầu, nghiêm trọng rồi. Bây giờ người ta không tin nhân quả, không tin là có luân hồi nhưng chuyện nhân quả luân hồi đây, trên khắp thế giới chỗ nào ta cũng thấy những câu chuyện hiện rõ, làm sao mà coi thường được. Cho nên tôi cảm thấy đây là nhân tố hàng đầu dẫn đến tai nạn nghiêm trọng.

(Biên dịch: TT Thích Minh Kiết).

Nỗi lòng thai nhi

Đã ba tháng rồi con nằm trong bụng mẹ

Nhưng chưa một lần được nghe mẹ nói tiếng yêu thương.

Cha lìa bỏ mẹ từ khi con hiện diện

Con chẳng thấy mặt cha vì tình đã chia xa.

Chiều lại chiều, mẹ và con ngồi trong thinh lặng

Dưới bóng cây Ngọc Lan hoa nở trắng sân nhà,

Nghe trái tim mẹ đập mãi nhịp âu lo

Con biết mẹ đang gặp nhiều ngang trái

Cay đắng cuộc đời phủ lên khuôn mặt mẹ xanh xao.

Hãy gọi con đi bằng lời yêu từ mẫu,

Ve vuốt con qua bụng mẹ căng tròn,

Hãy thầm thì bên con những buồn vui cuộc sống,

Để mẹ con mình nâng đỡ, ủi an nhau.

Biết mẹ buồn, lòng con khắc khoải

Muốn giơ đôi tay vừa mới hình thành

Để ôm lấy đôi vai gầy của mẹ.

Con muốn khóc nhưng mắt chưa có lệ

Cảm nhận tình đời đã cho con nhiều nỗi xót xa.

Cha phụ bạc mẹ để con thành người con không có bố

Nay mẹ lại đành lòng chối bỏ tình mẫu tử thiêng liêng?

Đừng đưa con đi, mẹ ơi, tới nơi con khiếp sợ,

Dao kéo vô tình sẽ hủy hoại đời con,

Tặng vật mà Thượng Đế đã trao ban cho mẹ

Khi mới là bào thai con đã là một “Thiên Ân” cao trọng.

Mầm xanh địa cầu lòng mẹ cưu mang.

Con mong ước chào đời trong vòng tay ấp yêu của mẹ

Trong hân hoan đón nhận của cuộc đời,

Con sẽ lớn lên trong cao quý tình người.

Ấm áp gia đình, thiêng liêng, cuộc sống,

Con sẽ góp trí óc, trái tim và bàn tay lao động

Cùng mọi người dựng xây một thế giới tươi vui,

Không chiến tranh, hận thù, tham lam, ích kỷ,

Chỉ có ngày mai hạnh phúc thanh bình

Con sẽ là con của mẹ với tấm lòng hiếu thảo

Với tất cả yêu thương và lòng tận tụy hy sinh.

Mẹ yêu ơi! Xin vì mẹ, vì con mà can đảm,

Bảo vệ con dù tủi nhục đắng cay.

Rồi mai đây khi sóng êm gió lặng,

Mẹ con mình sẽ mãi mãi bên nhau.

Dưới bóng cây Ngọc Lan hoa nở trắng sân nhà

Tình mẫu tử ngọt ngào như hương hoa hạnh phúc.

(Dương Vân Loan, Sài Gòn)

Hãy nói lời xin lỗi con với tất cả tấm lòng, đừng viện cớ, đừng bào chữa, đừng đổ thừa hoàn cảnh, bởi vì, dù có cớ gì và hoàn cảnh chi cũng không hợp lý để có thể tước quyền sống của một con người cả!

 

Dẫn chứng:

Không xin được tiền mua điện thoại và đi chơi game, nghịch tử 15 tuổi ở Lạng Sơn giết mẹ rồi giấu xác trong nhà

Thông tin từ Công an tỉnh Lạng Sơn cho biết, tại thôn Còn Chuông, xã Tràng Phái, huyện Văn Quan, tỉnh Lạng Sơn đã xảy ra vụ án mạng kinh hoàng: con trai giết mẹ đẻ.

Theo thông tin ban đầu, vụ việc chấn động trên xảy ra từ chiều 11.1. 2017. Vào thời gian trên, Hoàng Duy Khương (SN 2002, trú tại xã Tràng Phái, Văn Quan, Lạng Sơn) về nhà xin tiền mẹ ruột với mục đích mua điện thoại mới và chơi game.

Tuy vậy, do gia đình khó khăn, nên mẹ Khương bảo không có. Cho rằng mẹ có tiền và cố tình giấu đi không cho nên Khương đã tức tối, khó chịu. Đỉnh điểm, Khương đã “máu lạnh” dùng khăn siết cổ mẹ đẻ tới chết. Gây án xong, đối tượng này dùng bao tải trùm lên đầu mẹ giấu xác trong nhà.

Sau nhiều ngày không thấy mẹ Khương ra khỏi nhà, bà con hàng xóm bắt đầu nghi ngờ và đã tìm tới nhà Khương để hỏi thăm, tuy nhiên không nhận lại được sự phản hồi.

Qua khe cửa mọi người phát hiện phía trong nhà có những dấu hiệu bất thường. Linh tính có chuyện chẳng lành, người dân đã phá cửa xông vào thì sửng sốt khi phát hiện người phụ nữ này đã tử vong. Quá sợ hãi, người dân nhanh chóng báo cáo lên cơ quan chức năng.

(Nguồn: danviet)

Mâu thuẫn về chuyện đất đai trong lúc nhậu, Cao Văn Công (Lào Cai) dùng dao phát đánh bố rồi bỏ trốn

Khoảng 18 giờ 30 phút ngày 15-12-2016, Công an huyện Bảo Thắng (tỉnh Lào Cai) phối hợp với Công an phường Kim Tân (TP Lào Cai, tỉnh Lào Cai) bắt giữ Cao Văn Công (SN 1989), trú tại thôn Đồng Lục, xã Gia Phú, huyện Bảo Thắng về hành vi cố ý gây thương tích dẫn đến chết người.

Theo lời khai của Cao Văn Công tại cơ quan cảnh sát điều tra, khoảng 16 giờ ngày 15-12-2016, Công cùng bố đẻ của mình là ông Cao Ngọc Lành (SN 1952) uống rượu tại nhà. Trong mâm rượu, hai người nói chuyện bán đất thì xảy ra mâu thuẫn và cãi vã. Sau một hồi cự cãi, không được bố đồng ý cho đất, Công đã lấy con dao phát để ở gầm giường đập nhiều phát vào ông Lành.

Sau khi đánh bố, Công cầm con dao bỏ trốn khỏi hiện trường.

Khi chạy đến đường sắt song song với Quốc lộ 4E thuộc địa phận xã Gia Phú, Công bẻ gãy cán dao rồi giấu lưỡi dao trong người và bắt xe khách lên TP Lào Cai để xin tiền chị gái nhằm bỏ trốn khỏi địa phương. Khi đi đến địa phận phường Kim Tân, TP Lào Cai, Công đã bị lực lượng chức năng bắt giữ. Tại cơ quan cảnh sát điều tra, đối tượng Cao Văn Công khai nhận toàn bộ hành vi của mình.

(Theo Báo Lào Cai)

Bị rầy la, con đâm chết cha ruột

Sáng 30-6-2015, công an tỉnh Tiền Giang cho biết Công an huyện Gò Công Đông vừa bắt giữ đối tượng Huỳnh Thanh Khải (SN 1989, ngụ xã Bình Nghị) và bàn giao cho công an tỉnh để điều tra về hành vi giết người.

Theo thông tin ban đầu, do thường xuyên uống rượu say xỉn nên Khải hay bị cha ruột là ông Huỳnh Hữu Dũng la rầy. Chiều 29-6-2015, sau khi đi uống rượu về Khải bị ông Dũng la rầy nên giữa cha con lại xảy ra cự cãi. Khi thấy Khải hung hăng, ông Dũng bỏ nhà lánh mặt sang hàng xóm thì Khải cầm dao đuổi theo và đâm cha trọng thương.

Ông Dũng được mọi người đưa đi cấp cứu nhưng đã tử vong tại bệnh viện. Sau khi gây án, Khải bỏ trốn nên công an huyện tổ chức truy bắt. Đến tối cùng ngày, đại tá Lưu Hoàng, Trưởng Công an huyện cùng các trinh sát đã bắt được Khải trên đường bỏ trốn.

M.Sơn (maivang.nld.com.vn)

Người vợ tử vong bởi hàng chục nhát dao, chồng ra đầu thú

Người phụ nữ mới về nước đã không qua khỏi vì hung thủ đâm nhiều nhát dao trúng cơ thể.

Vụ án mạng xảy ra sáng sớm 12/1/2017, tại thôn Yên Mỹ, xã Bình Yên, huyện Thạch Thất (Hà Nội).Theo đó, vào thời điểm kể trên, người dân địa phương nghe thấy tiếng cãi vã rất lớn phát ra từ nhà của Vương Văn Hải (40 tuổi, trú thôn Yên Mỹ) nên vội vã chạy tới. Khi họ đến nơi thấy chị H. (35 tuổi) ngã gục trên vũng máu.

Được đưa đi cấp cứu nhưng nạn nhân không qua khỏi bởi hàng chục nhát dao. Theo người dân địa phương, chị H. mới đi lao động nước ngoài về mấy ngày. Tuy nhiên, khi mới về nhà, hai vợ chồng chị đã liên tục xảy ra mâu thuẫn, cãi vã.

Liên quan đến vụ việc trên, lãnh đạo Công an huyện Thạch Thất cho biết Vương Văn Hải đã ra công an đầu thú.

(Theo Long Nguyễn/ Lao Động)

 Quả báo giết anh

Ngàyxưa ở Ấn Độ có một gia đình có hai anh em, cha mẹ chết sớm, rất thương yêu nhau. Khi lớn lên người anh cưới vợ xinh đẹp, làm ăn giàu có, sống êm đềm hạnh phúc. Nhưng người anh, một hôm nghe Phật thuyết pháp, biết ân ái là ràng buộc, gia đình là khổ đau, gặp Phật ra đời là khó, cho nên anh từ giã vợ và em để xuất gia theo Phật.

Theo phong tục bấy giờ, người anh chết hoặc đi tu thì người em phải cưới chị dâu và quản lý gia nghiệp. Nhưng khi người em ở với chị dâu thì chị dâu thấy em trai thô lỗ, cộc cằn, còn chồng cô ngày trước thì thuần lương, hiền hậu. Thấy thế nên cô buồn tủi không vui. Người em biết chị dâu còn thương anh mình, hơn nữa sợ anh mình hối hận, thôi tu, bỏ về thì mất gia nghiệp giàu có. Vì thế người em mướn người giết anh mình để dứt hậu hoạn.

Các người lãnh tiền mướn giết, đi tìm thầy tỳ kheo. Khi các người giết mướn thấy thầy tỳ kheo hiền hậu thì không nỡ giết. Nhưng không giết thì làm sao nhận tiền, các người giết mướn mới đem việc đó nói với thầy tỳ kheo. Thầy tỳ kheo nói:

– Tôi thật chưa chứng đạo. Đợi tôi gặp Phật và tu trong 7 ngày rồi hãy giết.

Các người giết mướn đồng ý chờ đợi. Thầy tỳ kheo đến ra mắt đức Phật, xin Phật chỉ pháp môn tu rồi thầy tìm chỗ vắng tinh tấn thiền quán và đắc A La Hán. Các người giết mướn liền giết và chặt lấy một cánh tay đem về làm tin và lấy tiền mướn.

Khi người chị dâu thấy cánh tay, hỏi ra mới biết người em ác độc đã nhẫn tâm giết chết anh. Cô vào triều tâu vua. Vua sai quân lính bắt người em trị tội theo pháp luật hiện hành, tức phải xử tử.

Ngài A Nan bạch Phật:

– Thầy tỳ kheo đó đã chứng thánh quả mà còn bị chặt tay. Đó là do ác nghiệp gì?

Phật dạy: Về kiếp xa xưa, có vị vua đi săn bắn, gặp một vị Bích Chi Phật đang ngồi tu. Vua hỏi có thấy con nai chạy qua đấy không. Vị Bích Chi Phật vì đau tay nên lấy chân chỉ hướng khác. Nhà vua nổi giận, chặt đứt cánh tay của vị Bích Chi Phật. Sau vua ăn năn sám hối, đem vị Bích Chi Phật về băng bó vết thương, tứ sự cúng dường và phát nguyện rằng nhờ công đức này sau được gặp Phật, nghe pháp và chứng thánh quả.

Phật kết luận: Tiền thân thầy tỳ kheo bị chặt tay là nhà vua đã chặt tay Bích Chi Phật nên nhiều đời bị ác báo chặt tay.

Tâm người thật ác độc

Giết anh để giàu sang

Liền bị quả báo ác

Án tử hình phải mang

(Góp nhặt lá Bồ Đề

Tác giả : Thích Tịnh Nghiêm)

Hồn ma báo mộng

Vào khoảng niên hiệu Nguyên Gia đời Tống Văn Đế Nam triều, Chư Cát Hộ giữ chức Thái thú Nguyên Chân bị bệnh qua đời khi đang tại chức. Lúc đó, người thân quanh ông không có ai, duy nhất chỉ có người con trai trưởng là Nguyên Sùng lo việc đưa linh cữu cha về quê chôn cất. Có người học trò của Chư Cát Hộ là Hà Pháp Tăng vì muốn chiếm đoạt toàn bộ tài sản của họ Chư nên xuống tay thâm độc, nhận nước Nguyên Sùng cho đến chết.

Ngay đêm đó, mẹ của Nguyên Sùng là Trần thị nằm mộng thấy Nguyên Sùng toàn thân ướt sũng, chạy về nhà khóc lóc báo rằng cha đã qua đời còn mình thì bị Hà Pháp Tăng nhận nước chết để chiếm đoạt tài sản.

Bà mẹ Nguyên Sùng vừa tỉnh giấc mộng, trong người bần thần khác thường, hoang mang lo sợ không biết hư thực thế nào. Bà lập tức viết thư cho người anh họ là Từ Đạo Vị lúc đó đang giữ chức Trưởng sử Giao Châu, kể rõ mọi việc. Từ Đạo Vị tức khắc cho người đến chỗ Chư Cát Hộ đang nhậm chức để dò hỏi, quả nhiên mới biết Chư Cát Hộ đã chết mà con trai là Nguyên Sùng cũng mất tích một cách bí ẩn.

Từ Đạo Vị liền đích thân đến gặp quan tuần phủ địa phương, nói rõ nghi án và yêu cầu mở cuộc điều tra. Không bao lâu, quan phủ đã tìm được rất nhiều chứng cứ và cho bắt ngay Hà Pháp Tăng về xét hỏi. Tên học trò bất nghĩa vừa bị bắt lên công đường đã lúng ta lúng túng, giấu đầu lòi đuôi, cuối cùng phải thú nhận tất cả. Sự việc được sáng tỏ, quan phủ y theo pháp luật lúc bấy giờ xử y tội chết. Quả đúng là nhân quả báo ứng ngay trước mắt không hề sai chạy.

(trích: Oan Hồn Chí)

Giết người đền mạng

Thuở xưa, quan thứ sử quận Giao Chỉ là Hà Xưởng trong một lần về thăm nhà phải đi đường bộ chạy dọc theo một dãy núi. Khi đi đến quận Thương Ngô thuộc huyện Cao Yếu thì trời đã nhá nhem tối, quan thứ sử liền lệnh cho thuộc hạ dừng lại nghỉ tạm ở Thước Bôn Đình.

Vì đi đường mệt mỏi, Hà Xưởng nằm trăn trở qua đến hết canh hai cũng vẫn chưa ngủ được. Đang lúc mơ màng nửa tỉnh nửa mê, bỗng thấy xuất hiện một thiếu nữ trạc tuổi ngoài đôi mươi, tướng mạo đoan trang, từ trên lầu bước xuống, đến trước mặt ông cúi chào rồi thưa:

– Oan cho thiếp lắm, cúi xin đại nhân thương xót giải nỗi oan này.

Quan thứ sử liền ngồi dậy, trong lòng cảm thấy vô cùng nghi hoặc, liền cất tiếng hỏi:

– Cô là phận gái, vì sao đang đêm lại tìm đến chỗ hoang vắng này? Cô nói có oan tình, vậy hãy kể rõ ra cho ta nghe xem sao.

Cô gái vừa khóc thúc thít vừa nói:

– Thưa đại nhân! Tôi vốn họ Tô tên Nga, nhà ở xóm Tu Lý, huyện Quảng Tín. Cha mẹ sớm đã lìa trần, rồi chồng tôi cũng vắn số. Từ đó tôi phải sống đơn chiếc với một người hầu gái tên Trí Phú, không có anh em quyến thuộc gì cả. Tài sản trong nhà còn lại được 120 cây vải the. Cách đây ít lâu, việc làm ăn sa sút, cảnh nhà túng thiếu, tính toán thế nào cũng không thể giữ nguyên vẹn được vật dụng trong nhà, nên tôi liền mang số vải đó sang quận Quảng Ninh để bán, kiếm chút ít tiền về làm vốn sinh nhai. Để chở vải đi, tôi thuê một cỗ xe bò của người cùng huyện tên là Dương Bá, rồi cùng với người hầu gái đánh xe đi Quảng Ninh. Hôm ấy là ngày 17 tháng 4 năm ngoái, khi xe vừa đến đây thì trời đã tối, khách đi đường vắng vẻ chẳng có ai. Tôi sợ giữa đường gặp chuyện bất trắc nên không dám đi tiếp, liền ghé lại đây tạm nghỉ qua đêm. Rủi thay, người hầu gái bỗng nhiên bị đau bụng, tôi phải vội vã đi nhóm lửa để hơ và đi xin thuốc cho nó uống. Khi trở lại xe thì thấy có người đình trưởng tên Củng Thọ đang cầm dao đứng đó, dáng hung hăng hỏi thiếp: “Cô ở đâu đến đây, trên xe chở những vật gì?” Tôi thấy bộ dạng của hắn đã ngờ là kẻ bất lương, nhưng không biết làm sao tránh mặt nên đánh bạo hỏi lại: “Tôi chỉ là khách đi đường tạm nghỉ lại đây, không làm điều gì sai trái, vì sao ông phải tra hỏi tôi như vậy?” Củng Thọ bỗng cười hềnh hệch rồi nắm chặt lấy tay tôi, nói: “Nào có chuyện gì đâu, ta thấy nàng tuổi trẻ lại có nhan sắc dễ thương nên muốn cùng nàng chung vui đêm nay thôi mà! Lúc ấy, tôi hoảng sợ, biết là khó tránh bị kẻ lưu manh cưỡng bức, bèn cố sức kháng cự, hất tay hắn ra. Song hắn dùng sức mạnh quyết cưỡng bức tôi. Thấy tình thế nguy cấp, tôi liền lớn tiếng kêu la cầu cứu. Củng Thọ không ngờ tôi phản ứng quá quyết liệt như thế, lúc đó lấy làm hốt hoảng vì sợ có người gần đó nghe thấy tiếng tôi kêu cứu, liền vung dao đâm mạnh vào bụng tôi, khiến tôi chết ngay tại chỗ. Giết tôi rồi, hắn sợ lộ chuyện nên nhẫn tâm giết luôn người hầu gái, rồi đào một cái hố dưới lầu này để kéo xác tôi và đứa hầu gái chôn vào dưới đó. Hắn cướp lấy hết tài sản tôi mang theo đem về nhà, lại giết bò ăn thịt rồi đốt luôn cả chiếc xe. Hiện bánh xe và xương bò bị hắn vất xuống cái giếng phía đông của đình này vẫn còn nguyên dưới đó. Tôi chết thảm đã hơn một năm nay, ôm mối oán hận này mà không biết tố cáo cùng ai. Nay có đại nhân đi qua đây, xin ra ơn giúp đỡ làm rõ việc này, để tên ác tặc kia sớm phải đền tội ác”.

Khi ấy, quan thứ sử Hà Xưởng mới biết đó là hồn ma báo mộng. Tuy nhiên, ông vẫn bình tĩnh nói:

– Những gì cô vừa kể với ta thật chưa biết thực hư ra sao, chưa đủ làm bằng chứng. Bây giờ nếu ta quật thi thể của nàng lên để khám nghiệm thì biết lấy gì để chứng minh là sự việc đúng như lời nàng nói?

– Thưa đại nhân! Xin cứ khảo nghiệm. Nếu đúng là thi thể của tôi thì áo quần trên người đều toàn là vải trắng, bên tay trái vẫn còn đeo một chiếc xuyến.

Cô gái nói xong, cúi đầu bái tạ rồi biến mất. Quan thứ sử Hà Xưởng cũng giật mình tỉnh cơn mộng, trong lòng bần thần không yên, từ đó đến sáng không sao chợp mắt ngủ lại được. Đợi đến khi trời vừa sáng, lập tức sai người đào đất dưới lầu lên, quả nhiên tìm thấy y như lời báo mộng.

Quan thứ sử liền cho người tìm bắt ngay tên Củng Thọ giải đến và khảo vấn tại đó. Ban đầu hắn còn cố tình chối cãi quanh co, nhưng khi nhìn thấy cái hố chôn hai xác chết đã được khai quật lên thì mặt mày hắn tái mét, lập tức cúi đầu nhận tội.

Quan thứ sử lại tiếp tục cho người đến huyện Quảng Tín để xác nhận xem có cô gái nào tên là Tô Nga hay không. Quan sở tại cho biết mọi việc quả y như lời trong mộng.

Quan thứ sử Hà Xưởng sau khi tra xét rõ ràng mọi việc liền cho lập bàn xét xử ngay tại nơi đã xảy ra vụ án, lại lập bàn thờ cho Tô Nga rồi bắt Củng Thọ đến trước bàn thờ thắp hương nhận tội, cuối cùng mới phán xử tội giết người phải đền mạng.

Hôm đó, dân chúng trong huyện kéo nhau đi xem xử án rất đông, ai nấy đều kinh ngạc trước vụ án ly kỳ này, đều bảo nhau rằng việc báo ứng thiện ác ở đời quả nhiên không cách gì có thể trốn chạy được.

(Nhân Quả Báo Ứng Hiện Đời

Đường Tương Thanh biên soạn –

Đạo Quang dịch – Nguyễn Minh Tiến hiệu đính)

 Mẹ chết con sống

Thuở ấy, Phật đang ở trong vườn Kỳ Thọ Cấp Cô Độc, gần thành Xá Vệ, với chúng đệ tử một ngàn hai trăm năm mươi người.

Lúc đó, có một vị vua tin theo đạo Bà la môn, hết lòng tin cậy nơi các thầy Bà la môn. Vua có một người phi tần trẻ tuổi, xinh đẹp, được vua yêu thương nhất. Bà này có thai, sắp đến kỳ sanh nở. Những phi tần khác của vua đem lòng ganh ghét bà này, lấy vàng bạc mua chuộc một thầy Bà la môn, bảo thầy tìm cách mà hại bà ấy.

Thầy Bà la môn nhận vàng bạc rồi, một hôm tìm đến gặp vua tâu rằng:

– Người phi tần đang có thai là một người kém đức lắm. Nếu sanh con ra sau này sẽ có hoạ lớn trong nước.

Vua nghe mấy lời ấy, lấy làm sợ sệt, mới hỏi thầy Bà la môn rằng:

– Bây giờ phải làm sao?

Thầy Bà la môn đáp:

– Chỉ có một cách thôi, là phải giết cả hai mẹ con đi thì mới khỏi hoạ.

Vua nói:

– Mạng sống con người ta quý giá lắm, làm sao trẫm có thể vô cớ giết đi cho được?

Thầy Bà la môn nói:

– Nếu không làm việc ác nhỏ, về sau thế nào bệ hạ cũng phải mắc hoạ to, ắt sẽ phải mất nước và bỏ mạng.

Vua tin theo những lời ấy của thầy Bà la môn, nên người phi tần đang sắp sanh nở phải bị chết oan. Người ta đem chôn bà sơ sài ngoài bãi đất hoang. Không ngờ đứa con trong bụng bà không chết mà tự chui ra được. Nó sống trong mồ, ôm lấy phân nửa thân mình của người mẹ chưa tan rã mà nút lấy sữa. Nhờ vậy mà được sống sót. Rồi như một phép lạ, nó chui theo kẽ đất mà ra khỏi mồ, bò lê trong bãi đất hoang, ăn những sâu bọ rễ cây, uống những sương móc mà lớn lên. Đến năm được ba tuổi, nó lân la về các xóm làng gần đó, được người ta thương cho ăn mà sống, tối lại quay về ngủ ở bên mồ mẹ nó.

Khi đứa nhỏ được sáu tuổi, đức Phật từ bi biết hết thảy câu chuyện thương tâm của mẹ con nó, lại biết đã đến lúc có thể cứu nó thoát khỏi cuộc sống u tối xưa nay. Ngài liền cùng với các vị đệ tử tìm đến bãi đất hoang nơi nó sinh sống, gọi nó đến và hỏi rằng:

– Con là con cái nhà ai?

Đứa nhỏ vừa nhìn thấy đức Phật với dáng vẻ từ bi hoan hỷ thì vui mừng lắm, nó đáp:

– Con từ nhỏ lớn lên không biết cha mẹ. Hằng ngày về xóm xin ăn, tối lại về đây ngủ. Hôm nay gặp được Ngài, xin Ngài cho con theo với.

Phật lại hỏi:

– Con muốn theo ta làm gì?

Bé đáp:

– Con muốn được như các vị đệ tử của Ngài đây. Xin Ngài nhận cho.

Đức Phật liền nhận đưa nó về tinh xá. Khi nhìn thấy chúng tăng oai nghi, phúc hậu, nó càng lấy làm thích lắm. Nó thưa với Phật rằng:

– Con cũng muốn được làm một vị sư.

Phật liền dùng tay vuốt tóc nó, tóc liền rụng hết, và có một bộ áo cà sa hiện ra trên thân nó. Đức Phật lại đặt pháp danh cho là Siêu Tử.

Thầy Siêu Tử tu hành tinh tấn, lại thông minh sáng dạ, nghe đâu hiểu đấy, nên tư tưởng thầy tiến bộ rất nhanh chóng. Trong bảy ngày, thầy thông hiểu đạo lý và chứng được quả A-la-hán, có đủ thần thông tự tại. Một hôm, đức Phật gọi thầy Siêu Tử đến dạy rằng:

– Con đã giải thoát khỏi mọi phiền trược của thế gian rồi. Nay ta cho con biết rằng cha của con là một vị quốc vương, xưa nay vẫn tin theo ngoại đạo tà kiến. Con nên đến đó tìm cách mà cứu độ cho vua cha.

Thầy vâng lời, cung kính lễ Phật rồi lui đi. Rồi thầy dùng thần thông hiện đến trước cung vua, xin được vào ra mắt đức vua. Quân hầu vào tâu rằng:

– Bên ngoài có một vị sa môn muốn được gặp bệ hạ.

Vua liền cho vào. Hai bên chủ khách chào hỏi xong, nhà vua liền đến đứng trước thầy và hỏi:

– Bạch thầy, trẫm có một việc lo buồn, không phải nên làm thế nào?

Thầy Siêu Tử hỏi:

– Bệ hạ lo buồn việc việc chi?

Vua nói:

– Trẫm nay đã lớn tuổi, không còn sống được bao lâu, mà vẫn chưa có người kế vị. Vì thế nên trẫm lo buồn.

Thầy Siêu Tử nghe vua nói lời ấy xong thì bỗng nhiên thầy bật cười. Vua lấy làm giận, sai quân đuổi ra. Quân lính đến lôi thầy đi, thầy liền hiện thân bay lên hư không, đứng giữa hư không, rồi hiện ra nhiều phép thần biến khác, làm cho mọi người đều trông thấy. Vua thấy vậy lấy làm khiếp sợ, lấy làm hối hận, nói rằng:

– Trẫm thật là người có mắt không tròng, chẳng phân chân giả. Nay đại đức có gì chỉ dạy xin nói ra cho.

Thầy Siêu Tử từ trên hư không lại hiện xuống trước mặt vua và nói:

– Này bệ hạ, như có người đang đói khát, lại mang những món cao lương mỹ vị sẵn có trong nhà mình ra vất bỏ ngoài bãi đất hoang, rồi đi than vãn với mọi người rằng: Tôi đói quá! Tôi đói quá! Bệ hạ nghĩ sao về người ấy?

Vua đáp:

– Ấy thật là người ngu xuẩn và chuyện ấy thật đáng buồn cười!

Thầy Siêu Tử nói:

– Bệ hạ cũng không khác chi người ấy. Từ bao lâu nay vẫn mong cầu một đứa con trai nối nghiệp, thế mà có người phi tử sắp hạ sanh vương tử lại đem giết bỏ chôn ngoài bãi đất hoang, nay lại than vãn lo buồn về nỗi không con cái, há chẳng đáng cười lắm sao?

Vua nghe nói tái mặt, vừa sợ vừa buồn, nhớ lại tội ác đã làm, liền nói:

– Đại đức quả là thần thông diệu trí, có thể biết hết cả mọi chuyện trong thâm cung. Trẫm năm xưa làm việc ác độc ấy cũng là vì tin theo lời các thầy Bà la môn, nay nghĩ lại hối hận thì chuyện đã rồi. Xin đại đức nghĩ cách cứu độ cho.

Thầy Siêu Tử nói:

– Lời nói của thầy Bà la môn là vô căn cứ, bệ hạ lại mù quáng tin theo. Trong việc này bệ hạ không phải là không có lỗi. Nay muốn cải tà quy chánh thì vẫn còn kịp đó. Mong bệ hạ sớm biết tìm đường ngay nẻo thẳng mà đi.

Vua quỳ xuống thưa rằng:

– Lời đại đức dạy thật là thấu tình đạt lý. Từ nay trẫm xin được quy y theo đại đức.

Thầy Siêu Tử nói:

– Bần tăng tuy đã đạt được quả vị giải thoát, nhưng hãy còn kém xa đức Phật. Nay Phật đang còn tại thế, bệ hạ nên đến quy y với Ngài.

Ngay khi đó, vua ra lệnh cho quan quân chuẩn bị long xa để vua ngự đến tinh xá lễ Phật. Đến nơi, vua cung kính lễ Phật, phát nguyện quy y Tam bảo và giữ theo Ngũ giới, làm người cư sĩ tu tập tại gia. Phật dạy rằng:

– Này đại vương, sa môn Siêu Tử đây chính là con của người vợ có thai mà đại vương đã giết, vì tin theo lời ác của thầy Bà la môn. Người mẹ đã chết chôn dưới mộ, nhưng may là đứa con đã đủ tháng tự chui ra. Nhờ có phân nửa thân mình người mẹ chưa phân rã, vẫn còn sữa mà đứa con được bú. Khi lên sáu tuổi, nó theo ta mà học đạo. Nay trở thành sa môn Siêu Tử đây.

Vua nghe mấy lời của Phật, hiểu ra sự thật thì càng lấy làm sợ hãi. Phật lại kể tiếp cho vua nghe một câu chuyện như thế này:

– Ngày trước có một vị vua tên Phu Sô Ta. Trong nước ông ta có một người dân nghèo không nhà cửa, thường ngày đi làm thuê cho các nhà giàu. Người ấy thường giữ việc dắt bò ra cho ăn ngoài đồng. Khi thấy nhân dân trong nước cung kính các vị sa môn, người ấy mới theo hỏi rằng:

– Vì sao các ông cung kính những vị ấy?

Họ đáp:

– Chúng ta thờ Phật, trọng tăng, ngày sau sẽ được hưởng phúc.

Người ấy lại hỏi:

– Hưởng phúc như thế nào?

Họ đáp:

– Người nào có lòng lành, thường cúng dường các vị sa môn, thì ngày sau dù ở đâu cũng được yên ổn, lại được kẻ khác thương mến, kính trọng và không gặp nạn khổ.

Khi đó, người ấy tự nghĩ rằng:

– Ta cũng rất muốn cúng dường các vị sa môn để ngày sau được hưởng phúc, nhưng ta nghèo quá, phải đi giữ bò thuê cho người. Chính mình không có đủ thức ăn hằng ngày, thì lấy gì mà cúng dường cho các vị sa môn?

Rồi người ấy lại nghĩ:

– Được rồi, ta có thể vắt lấy sữa bò mà cúng dường.

Nghĩ sao làm vậy, người ấy lấy lòng thành mà vắt lấy sữa bò cúng dường cho các vị sa môn. Các vị ấy thọ nhận rồi chú nguyện rằng:

– Nguyện cho nhà ngươi được hưởng phước đời đời!

Từ đó về sau, trải qua nhiều kiếp luân hồi, người ấy luôn được hưởng nhiều phước lành. Cho đến một đời kia, người ấy được làm vua, trong lúc đi săn với triều thần có hoàng hậu đi theo. Đi chưa đến rừng, thấy một con bò cái giữa đồng. Hoàng hậu từ trước chưa đi săn bao giờ nên bảo mấy người thợ săn bắn nó cho mình xem. Vua ngần ngừ, nói:

– Ấy là bò của dân nuôi, chẳng phải bò rừng. Vả lại, không nên giết bò cái, e là nó đang có mang.

Nhưng hoàng hậu không nghe, bảo thợ săn bắn chết con bò. Ngay lúc đó, người chủ bò đến, thấy con bò cái đang có mang của mình đã bị bắn chết, liền rọc bụng đem được con bò con còn sống ra mà nuôi. Người ấy lấy làm oán giận, thề rằng:

– Vô cớ mà giết bò của ta, ngày sau ta thề phải trả thù này.

Nhà vua thuở ấy, sanh ra làm Siêu Tử đây, phải chịu cái khổ chưa ra khỏi lòng mẹ mà mẹ đã chết rồi, vì ngày trước không cản được hoàng hậu để cho con bò con phải sinh ra mà không có mẹ. Hoàng hậu thuở ấy tâm địa ác độc, muốn giết con bò mẹ chỉ để xem chơi, nay sanh làm mẹ của Siêu Tử, phải bị người ta giết oan để trả mối nợ cũ. Còn thầy Bà la môn xúi giục vua giết mẹ thầy, ấy là người chủ con bò cái ngày trước, vì lòng oán hận mà đeo đuổi theo nhau để trả thù. Nhưng thầy Siêu Tử sở dĩ muôn phần chắc chết mà vẫn còn sống được, là nhờ đời trước đã có lòng thành dâng sữa cúng dường cho các vị sa môn. Phật dạy:

– Nhân quả ở đời như bóng theo hình, không hề sai chạy. Người làm lành tất phải được hưởng phước, người làm ác tất phải mang lấy hoạ.

Vua nghe Phật thuyết xong, hiểu thấu lý nhân quả, tín tâm sâu vững, chứng được quả Tu Đà Hoàn là quả đầu tiên trong bốn Thánh quả. Những người theo vua đều phát tâm thọ trì Ngũ giới, tu pháp Thập thiện (mười điều lành).

(Chuyện Phật đời xưa – Đoàn Trung Còn biên soạn,

Nguyễn Minh Tiến hiệu đính)

Vùi trong bếp lửa

Bên nhà một phú ông ở Hoa Đĩnh có thân cây khô rất to. Ông sắp đốn, thì đêm lại mộng thấy một lão nhơn dẫn nhiều người tới, xin hãy thong thả chậm lại ít hôm cho dời đi. Phú ông biết trong cây đó có vật lạ, sai người trèo lên nhìn xem, thì thấy cây đó bọng ruột. Trong bọng cây vô số rắn lạ nằm khoanh. Ông liền bảo đầy tớ đổ dầu đốt cháy cây ấy. Lúc đó hơi tanh hôi bay xa cả dặm, phú ông đắc ý vỗ tay cả cười.

Không bao lâu, ban đêm phú ông thấy có đám lửa to bay vào nhà. Ông gọi gia nhân thức dậy đến cứu chữa, nhưng lại tịnh nhiên không có chi cả. Việc như thế xảy ra nhiều lần rồi đều lặng lẽ, cả nhà không lấy làm lạ. Đêm nọ đứa tớ gái trộm củi đem nấu đồ riêng, bỗng lửa cháy phát đỏ. Phú ông và tất cả gia nhân đều cho là trạng thái cũ, nằm nghỉ luôn không thức dậy. Nhưng lần này cháy thật, cả gia quyến đều bị vùi trong lửa.

(Nhân Quả Luân Hồi Tạp Lục

-Thích Thiền Tâm)

Ham thú giết hại sinh linh gặp báo ứng chết đau đớn

“Thiện có thiện báo, ác có ác báo”, chuyện xấu làm quá tuyệt tình, khi gặp ác báo thì có hối cũng đã muộn rồi.

Tháng 7 năm Tuyên Đức thứ 4, thái giám Chu Giác Thành chuyên quản mỏ bạc huyện Ninh Đức làm mưa làm gió quen rồi, bỗng nhiên nảy sinh ý tưởng, đến một nơi có tên “Thập Tam Đô Thanh Nham” của huyện này, lệnh hạ độc đàn cá để tìm niềm vui. Thủ hạ không dám không nghe theo, trên các con suối nung đỏ những tảng đá lớn có độc, rồi quăng xuống nước, đá lớn bị ném xuống, nước suối sôi lên, khói độc bao trùm. Rùa cá trong nước kinh hoàng hoảng loạn, muốn chạy thoát thân nhưng lại cùng đường bí lối, tranh nhau nhảy lên mặt nước quay cuồng lăn lộn. Chu Giác Thành ở bên cạnh cười đắc chí, hoa chân múa tay lấy làm thích thú lắm.

Hôm đó, có một vị đạo sĩ chạy vào nơi ở của Chu Giác Thành khóc lóc nói rằng:

– Hết thảy sinh linh đều có Phật tính, rùa cá cũng giống như con người, đều muốn được sống. Xin ông đừng có quăng mấy tảng đá độc đó nữa, để cho các loài thủy tộc trong hồ nước còn có thể giữ được mạng nhỏ mà sinh sôi nảy nở đời sau.

Chu Giác Thanh hoành hành ngang ngược quen rồi, nào có xem sự sống chết của cá tôm ra gì, chỉ giữ Đạo sĩ ở lại ăn một bữa cơm chay. Đạo sĩ không còn cách nào khác, nuốt nước mắt, ăn xong cơm rồi rời đi.

Không lâu sau, hết thảy thủy tộc trong các con suối, toàn bộ đều đã chết sạch cả, mặt nước trên bờ dày đặc xác chết cá tôm. Trong đó có một con cá vàng lớn hình dạng vô cùng kỳ lạ, khác với những đàn cá khác. Sau khi mổ bụng của con cá ra, cơm rau mà nó ăn vẫn còn nguyên ở trong đó.

Chu Giác Thành về sau đã mắc bệnh nặng, trong lúc mơ màng nhìn thấy vị đạo sĩ kia dẫn theo vô số con cháu tìm đến nhà ông ta đòi mạng. Không lâu sau, Chu Giác Thành vô phương cứu chữa, chết rất đau đớn.

Quả đúng là, “Thiện có thiện báo, ác có ác báo”, chuyện xấu làm quá tuyệt tình, khi gặp ác báo thì có hối cũng đã muộn rồi.

(Nguồn : tinhhoa.net)

Cổ vũ sát sinh phải chịu báo ứng

Nhân quả báo ứng thật nghiêm minh, “nhân” dù nhỏ đến mức nào cũng sẽ chờ nhân duyên hội đủ mà nhận “quả” tương xứng.

Rất lâu trước kia ở Ấn Độ, có một Bà La Môn tầng lớp phú ông, gia tài bạc vạn. Ông chỉ có một đứa con duy nhất, năm ấy vừa mới 20 tuổi, vừa mới cưới vợ chưa đầy 7 ngày. Hôm đó, hai vợ chồng trẻ ra vườn nhà mình ngắm hoa, người chồng thấy vợ rất yêu thích một bông hoa ở trên cây, vì thế, chiều vợ anh ta háo hức trèo lên cây cao để hái hoa tặng vợ. Không ngờ cành cây đột nhiên bị gãy, người chồng kia ngã rơi xuống đất mà chết.

Chuyện xảy ra bất ngờ giống như sấm sét giữa trời quang, người nhà ôm cậu con trai xấu số khóc lóc thảm thiết. Cả hai cha mẹ, người vợ mới cưới đều khóc như muốn ngất đi. Sau khi an táng xong xuôi, cả nhà vẫn không thôi buồn thảm, oán hận ông trời không có mắt, chuyện không may sao lại rơi vào nhà họ. Về sau, Đức Phật biết chuyện này, Ngài quyết định đến an ủi:

– Hãy nghe ta nói, mọi sự vạn vật đều là vô thường, có sống thì có chết, họa và phúc là tương liên. Hiện tại, đứa con này đã chết, ba người các ngươi vì cậu ta mà khóc lóc. Nói cho cùng, các người còn không biết rốt cuộc ai là con, ai là cha mẹ của cậu ta?

Nghe Đức Phật nói vậy, phú ông lập tức minh bạch ý của Đức Phật, vì thế ngừng khóc, khẩn cầu Ngài khai thị. Đức Phật nói:

– Rất lâu trước kia, từng có một đứa bé tay cầm cung tên, đi đến dưới một cái cây cổ thụ, ngửa đầu giơ cung tên chuẩn bị bắn một con chim đang đậu trên đó. Lúc ấy, bên cạnh có ba người bạn đang chơi thì chạy đến cổ vũ nói: “Cậu nếu mà bắn trúng, thì mới được gọi là anh hùng”.

Vì thế cậu bé kia liền đắc ý bắn tên. Quả nhiên, con chim đã bị bắn trúng chết. Ba người bạn bên cạnh, bởi vậy cũng vỗ tay tán thưởng không ngớt.

Đức Phật nhẹ nhàng thở dài rồi nói với vị trưởng giả Bà La Môn:

– Về sau, trải qua vô số lần sinh tử luân hồi, ba người bạn của đứa trẻ kia, một người từng là Thiên Thần trên Thiên giới, một người từng là Long Vương dưới biển, còn người còn lại kiếp này chính là ngươi. Cậu bé giương cung bắn chết con chim, kiếp này chuyển sinh ở nhân gian, trở thành con trai của ngươi, bất hạnh leo lên cây rồi ngã xuống mà chết. Cậu ấy trong tiền kiếp từng là con của vua trời, sau đó đầu thai làm con trai của Long vương. Nhưng vừa mới đầu thai lại bị một con chim đại bàng lớn ăn thịt. Con chim lớn ấy chính là con chim bị cậu ta bắn chết trong kiếp này. Hiện tại, ba ngươi cùng ở một chỗ mà vì cậu ta khóc lóc, một là Thiên Thần, một là Hải Vương, một là ngươi. Các ngươi đều là vì mất đi nhi tử mà cực kỳ bi thương thống khổ, toàn bộ đều là do kiếp trước đã từng cổ vũ cậu ta bắn chết con chim kia, sau lại còn tán thưởng một phen. Cho nên kiếp này, cả ba ngươi từ Thiên giới, từ trong biển, cùng tại nhân gian đây mà thương tâm khóc vì cậu ta.

Nghe Đức Phật khai thị xong, vị phú ông liền minh bạch, thì ra kiếp này thống khổ, tất cả đều là nghiệp báo từ kiếp trước.

Đây là câu chuyện khiến chúng ta không thôi cảm thán về nhân quả báo ứng và luân hồi. Ba cậu bé vì “kiếp trước cổ vũ bắn chim, sau lại hoan hô vỗ tay” mà phải bồi hoàn nghiệp báo không sai chạy. Dù là trải qua vô vàn kiếp luân hồi, trời nam đất bắc xa xôi, dù ở Thiên giới, hay biển cả, hay thân phận khác nhau, cuối cùng cũng phải nhân duyên trùng hợp, lấy quan hệ phụ tử, phu thê mà kết hợp, cuối cùng phải cùng khóc một tiếng. Đến đây, chung quy không thể trốn tránh nghiệp lực hồi báo.

Kiếp trước đều hoan hô cổ vũ người bạn, không thể ngờ rằng kiếp này cũng phải đồng thanh khóc lóc. Bởi vậy có thể thấy được, cổ vũ chuyện sát sinh cũng vô cùng nghiêm trọng. Nhân quả báo ứng thật nghiêm minh vô tình đáng sợ. Không kể là thời không thay đổi như thế nào, thân phận chuyển biến ra sao, “nhân” dù nhỏ đến mức nào cũng sẽ chờ nhân duyên hội đủ mà nhận “quả” tương xứng, không hề sai lệch.

(Nguồn : tinhhoa.net)

Giết vật tàn nhẫn hại đến con cháu

Ở Hàng Châu thuộc tỉnh Triết Giang có một người con gái rất hung ác, tánh ưa sạch sẽ. Vì thế, các loại côn trùng như chuột, gián… ở trong nhà đều bị cô ta tìm cách giết sạch. Ngoài ra, ở sân trước, sân sau hễ chỗ nào có giun dế, châu chấu, muỗi, ruồi… cô ta cũng tìm cách giết hết, không để sót một con nào thì mới hài lòng. Cô ta đã giết hại vô số sanh mạng của các loài nhỏ bé và lấy đó làm niềm vui.

Sau này, cô ta lấy chồng và sanh được một người con trai. Nhưng đứa bé này toàn thân mọc đầy mụn nhọt. Cô ta đã mời nhiều thầy thuốc giỏi đến chữa trị, song tất cả đều bó tay. Bệnh này còn tiết ra một chất ngọt nên khiến cho vô số các loài trùng kiến, muỗi, ruồi kéo đến. Vì thế, cô ta suốt ngày phải ngồi đuổi chúng. Cô ta rất đau lòng về chứng bệnh kỳ lạ của con mình. Sau một thời gian, cậu con trai chết, cô ta nhân đó mà phát điên.

Mọi người thấy vậy bảo nhau rằng: Đây là sự báo ứng ngay trong đời hiện tại về tội giết hại các sanh mạng nhỏ bé của cô ta.

Cô gái này giết hại đã quen thành tánh, chẳng có chút lòng từ bi. Cô ta đâu biết rằng mọi con vật cũng đều biết đau khổ, cũng biết yêu quý mạng sống của nó, giống như tình thương của cô ta đối với người con trai của mình vậy.

Những người hiểu biết đều cho rằng: Cô ta mang nghiệp sát sanh quá nặng, đúng lý phải tuyệt tử tuyệt tôn, nhưng nỗi đau mất con và sự nổi điên cũng là một quả báo thích đáng về những việc làm của cô ta trong đời hiện tại.

Người đời ai mà chẳng thương con, nhưng nếu chúng ta đem tình thương đó trang trải đến với mọi loài thì cũng chính là che chở cho đứa con thân yêu của mình. Xin mọi người hãy suy nghĩ cho kỹ và làm theo lời khuyên này.

( Nhân Quả Báo Ứng

Tác giả: Văn Xương Đế Quân – Quảng Tráng lược dịch)

Mua trâu phóng sinh được trâu báo đáp

Vào triều đại nhà Minh, tại Giang Sơn có một thư sinh tên là Chu Khải, tên chữ là Thọ Nhân. Chu Khải thật thà chất phác, từ nhỏ đã rất hiếu học. Gia đình họ Chu trải qua ba đời đều không ăn thịt trâu, thịt bò và thịt chó.

Chu Khải mồ côi cha từ nhỏ, bệnh tật lại nhiều. Vậy mà mỗi lần bị ốm nặng, Chu Khải chỉ cần uống một bát canh thịt bò thì sức khỏe của anh lại chuyển biến tốt hơn. Vì vậy, từ nhỏ đến lúc trưởng thành, Chu Khải ăn thịt bò không phải ít. Chu Khải hàng ngày đều đi sang làng bên dạy học kiếm tiền sinh sống.

Vào Tết Đoan ngọ của năm nọ, khi Chu Khải chuẩn bị về nhà, anh được chủ nhà trả tiền thù lao, tổng cộng hơn 8 lượng bạc. Trên đường về nhà, trời bỗng nhiên đổ mưa, Chu Khải bèn đến ngôi miếu cổ ven đường trú mưa. Vừa bước vào miếu, anh nhìn thấy trên tường có dán hai tờ giấy, một tờ ghi: “Quả báo của giết trâu (bò)”, một tờ ghi: “Quả báo của ăn thịt trâu (bò)”. Những lời được viết trong hai tờ giấy này rất rõ ràng, dễ hiểu mà lại thống thiết bi ai. Khiến cho Chu Khải nhớ lại hồi nhỏ ăn thịt bò không ít, nên cảm thấy vô cùng hổ thẹn. Anh ta thầm nghĩ:

– Mình năm nay đã 29 tuổi, đến bây giờ vẫn không thi đậu tú tài, có thể là do duyên cớ ăn thịt bò. Hơn nữa, Chu gia chúng ta lại có giáo huấn của tổ tiên đã ba đời nay không ăn thịt bò, thịt chó. Mình lại vi phạm lời giáo huấn này, đây là tội bất hiếu. Trâu bò vì chúng ta mà cày cấy ruộng đồng, vận chuyển lương thực, công lao to lớn vậy mà mình lại ăn thịt chúng, đây là tội bất nhân. Phóng túng ham muốn ăn uống của bản thân, đây thuộc về bất nghĩa. Nhìn thấy loại hành vi này là có báo ứng nghiêm trọng mà không cải sửa là thuộc về không có trí tuệ. Mình đã phạm phải bốn trọng tội, chỉ e tai họa đang sắp rơi xuống rồi huống chi nói đến công danh, phúc báo?

Thế là Chu Khải bèn đi đến trước mặt tượng Thần, dập đầu cầu xin, thề từ đó trở đi không bao giờ ăn thịt trâu bò nữa.

Sau khi mưa tạnh, Chu Khải đang chuẩn bị lên đường về nhà thì gặp ngay người chuyên giết thịt trong làng tên là Vưu Quang Vũ đi tới. Chu Khải hỏi:

– Anh sao lại đến miếu này?

Vưu Quang Vũ trả lời:

– Nhà tôi mới mua một con trâu rất gầy, tôi đang lo sẽ lỗ vốn nên đến miếu để xin quẻ.

Chu Khải lại hỏi:

– Thế con trâu đó ở đâu?

Vưu Quang Vũ nói:

– Ở ngay ngoài miếu kia.

Chu Khải đi ra ngoài xem xét, nhìn thấy một con trâu gầy, hai đầu gối quỳ trên mặt đất, nước mắt rơi xuống như mưa. Nhìn thấy nó, Chu Khải cảm thấy rất thương xót, liền hỏi Vưu Quang Vũ con trâu đó giá bao nhiêu tiền. Vưu Quang Vũ trả lời:

– Con trâu này giá 7 lượng bạc.

Chu Khải lấy đủ số bạc ra trả cho Vưu. Vưu nghĩ rằng giá mà anh ta đưa ra thấp nên lại đòi thêm một chút, Chu Khải cũng đồng ý và trả đủ cho anh ta.

Sau khi Chu Khải mua được con trâu này, liền lấy ra một miếng gỗ rồi viết lên bốn chữ: “Thần minh phóng sinh” rồi treo ở trên cổ con trâu. Sau đó, anh ta cởi dây thừng xỏ trên mũi con trâu ra và thả cho nó đi.

Đúng vào năm đó, Chu Khải thi đậu tú tài hơn nữa còn trở thành con rể của Vương gia. Vương gia là một gia tộc danh giá trong vùng.

Ngay hôm cưới, lúc Chu Khải đang uống rượu với cha vợ và kể về chuyện năm xưa thì một người hầu đi vào nói:

– Thưa chủ nhân, ở ngoài cổng nhà ta có một con trâu, trên cổ đeo một tấm gỗ, đuổi thế nào cũng không chịu đi ạ!

Chu Khải nghe vậy liền ra xem xét, anh nhận ra đúng là con trâu mà mình đã phóng sinh. Chu Khải bèn sai người hầu dắt con trâu đó đến một phòng trống đằng sau vườn.

Trong làng họ, có một tên tội phạm đã phạm tội nhiều lần hiểu rất rõ về gia đình nhà Vương gia. Hắn ta thấy của hồi môn của con gái Vương gia quá nhiều nên đã nảy sinh ý định ăn trộm. Thế là, tên ăn trộm này đã đào một đường hầm từ ngay bên cạnh phòng mà con trâu đang ở để đến thẳng phòng của Chu Khải. Vào đến phòng tân hôn, tên trộm vơ vét hết quần áo và đồ trang sức cho vào một cái túi để chuẩn bị trốn đi. Con trâu kia đột nhiên xông tới, xô đổ cái bàn làm phát ra tiếng động rất lớn. Chu Khải nghe thấy tiếng động liền tỉnh giấc kêu “Có trộm!”. Cả nhà Vương gia đều tỉnh giấc và tập trung bắt trộm. Tên trộm sợ hãi, liền bò ra bên ngoài, con trâu thấy vậy giơ chân lên chặn cái túi lại. Lúc này, tiếng hô bắt trộm như ở ngay sát bên, khiến cho tên trộm đành phải vứt bỏ cái túi lại, chật vật tẩu thoát. Cha vợ của Chu Khải nhìn thấy đồ vật trong chiếc túi vẫn còn nguyên vẹn nên vô cùng cảm kích con trâu này. Ông liền xỏ dây thừng vào mũi nó và nuôi ở phòng trống bên cạnh, cũng từ đó ông thề không ăn thịt trâu bò.

Sau đó không lâu, vào một buổi tối trời mưa, tên trộm đó lại đến nhà Vương gia. Sau khi phá cổng sau vườn, nhìn thấy con trâu tên trộm vô cùng căm phẫn. Hắn dắt con trâu đi, lấy tấm gỗ vứt bỏ và bán cho một chủ lò mổ lấy bốn lượng bạc.

Vừa hay, ngày hôm sau Chu Khải đi thu nợ thay cha vợ, vừa đến cổng lò mổ liền nhìn thấy con trâu kia. Chu Khải tiến đến hỏi thăm nguyên do và được chủ lò mổ kể lại đầu đuôi sự tình. Con trâu vẫn giống như lần trước, quỳ hai gối trên mặt đất và nước mắt chảy ra. Chu Khải lại một lần mua con trâu ấy và viết lên một tấm gỗ bốn chữ “Lôi điện phóng sinh”, treo ở cổ con trâu và thả cho nó đi.

Sau đó mấy năm, Chu Khải lại tới gia đình người phú hào tên là Chung Khoan ở Cổ Điền dạy học. Lúc ấy, ở làng bên có một toán cướp. Gia đình Chung Khoan giàu có nên vô cùng lo lắng. Chu Khải giúp Chung Khoan bày mưu tính kế, tập hợp người làm để tu sửa nhà, xây tường cao để đề phòng bất trắc. Bỗng nhiên, có người đến báo:

– Có một con trâu không biết từ đâu đến đây, trên cổ còn treo một tấm gỗ, một mực đứng ở bên ngoài phòng dạy học.

Chu Khải nghe xong chấn động nói:

– Đây chính là con trâu trước đây ta phóng sinh. Nó rất nhanh trí nhạy bén. Bây giờ nó đã đến đây tức là có ý báo rằng bọn trộm cướp cũng đã sắp đến đây.

Thế là, Chu Khải kể lại đầu đuôi vụ trộm đã xảy ra ở nhà cha vợ trước đây cho Chung Khoan nghe, đồng thời nhắc nhở ông phải đề phòng cảnh giác. Đến canh hai, ngày thứ ba quả nhiên bọn cướp đến nhà Chung Khoan. Bọn chúng cầm đao và đứng ở bên ngoài Chung gia phóng hỏa. Chung Khoan trèo lên chiếc thang hướng ra ngoài xem xét. Ông nhìn thấy, trong đám lửa, có một con trâu đang gầm thét, dùng sừng lao thẳng vào bọn cướp. Bọn cướp sợ hãi chạy toán loạn. Lúc mọi người trong nhà tụ tập lại thì thấy bọn cướp đã bỏ đi chỉ còn con trâu đã ở vào tình trạng kiệt sức, nằm ngửa mặt lên trời và chết.

Bên cạnh trâu còn có hai tên trộm đang nằm dưới đất. Mọi người cầm nến ra soi thì phát hiện một tên là Vưu Quang Vũ và một tên là tội phạm ăn trộm nhà Vương gia lần trước. Mọi người áp giải hai tên cướp đến nha môn xét xử, truy xét ra đồng bọn và bắt giữ hết lại. Nạn cướp bóc trong vùng được dẹp yên. Chung Khoan cảm động ân đức của con trâu kia, liền đem trâu đi chôn cất và lập một tấm bia mộ có dòng chữ “Nghĩa ngưu mộ”. Chung gia cũng thề từ đó không ăn thịt trâu bò. Có người từng nói:

– Vì thương cảm con trâu, mua về phóng sinh vậy mà từ một thư sinh nghèo khó, trở thành một người có tiền đồ, hẳn là Chu Khải có công đức lớn rồi. Chỉ có điều, không hiểu sao con trâu có thể dự báo trước là trộm cướp sẽ đến? Hơn nữa, nó còn biết chỗ ở mới nhất của Chu Khải. Là quỷ thần sai khiến hay chính là sự linh cảm của con trâu này?

(Theo Daikynguyenvn)

Cứu người chính là cứu mình

Đây là câu chuyện kể về vị danh tướng Dwight Eisenhower. Ông  là một vị tướng 5 sao trong Lục quân Hoa Kỳ và là Tổng thống Hoa Kỳ thứ 34 từ năm 1953 đến 1961. Trong thời Đệ nhị Thế chiến, ông phục vụ với tư cách là tư lệnh tối cao các lực lượng đồng minh tại Châu Âu, có trách nhiệm lập kế hoạch và giám sát cuộc tiến công xâm chiếm thành công vào nước Pháp và Đức năm 1944 – 1945 từ mặt trận phía Tây.

Vào thời xa xưa đó, một hôm ông Eisenhower cùng với đoàn tùy tùng của ông vội vã lái xe về tổng hành dinh quân đội ở Pháp để tham dự một cuộc họp khẩn cấp. Lúc đó trời đang mùa đông lạnh buốt lại thêm mưa tuyết rơi phủ đầy khắp nơi. Xe đang chạy thì ông bất ngờ để ý nhìn thấy có hai vợ chồng già người Pháp ngồi ở bên lề đường đang run rẩy vì cái lạnh giá buốt. Ông lập tức ra lệnh cho đoàn tùy tùng ngừng lại và muốn phái một thông dịch viên tiếng Pháp tới hỏi thăm cặp vợ chồng này. Một viên tham mưu nhắc nhở ông là nên để cho nhân viên công lực tại địa phương lo chuyện này, phái đoàn phải đi nhanh lên vì sợ trễ cuộc họp. Ông nói nếu đợi cảnh sát địa phương tới thì sợ là quá muộn và hai người này sẽ chết cóng.

Sau khi hỏi thăm, ông Eisenhower biết được là họ đang muốn tới Paris để gặp con trai nhưng xe của họ bị chết máy giữa đường. Ông bảo hai vợ chồng già mau lên xe của ông. Ông không hề quan tâm đến chức phận của ông và không hề tỏ thái độ gì trước hai kẻ đang gặp nạn này. Ông chỉ theo bản tính lương thiện vốn sẵn có của ông là luôn luôn muốn giúp đỡ người hoạn nạn mà thôi. Ông liền ra lệnh thay đổi lộ trình, đưa cặp vợ chồng tới Paris trước, rồi ông và đoàn tùy tùng mới lái xe tới tổng hành dinh để dự cuộc họp.

Không ngờ chính sự chuyển hướng đi thình lình ngoài kế hoạch này đã cứu mạng ông! Quân Quốc Xã có tin tình báo nên biết chính xác hành trình của ông và đã bố trí sẵn các tay súng bắn tỉa nấp rình tại các ngã tư. Nếu ông tới thì sẽ bị hạ sát ngay chỗ đó. Nhưng hóa ra chỉ nhờ vào cái tâm  lương thiện, cái lòng từ bi đã giúp ông đổi lộ trình và tránh thoát cuộc mưu sát này. Quả là tự cứu mình bằng cách giúp người khác.

(Theo: phatgiao.org.vn)

Con nai trả ơn

Năm Dân quốc thứ 9, ở Đài Trung xảy ra một chuyện lạ. Một nhà cư ngụ ở dưới chân núi mới cưới dâu được sáu ngày; hôm đó làm lễ tạ ơn tổ tiên, bỗng nhiên một con nai hoảng hốt xông vào nhà núp dưới bàn thờ. Thì ra con nai này bị người thợ săn xua đàn chó săn đuổi theo; con nai trong lúc nguy cấp tìm đường trốn bèn xông đại vào nhà. Cô dâu mới thấy chuyện kỳ lạ, bèn đề nghị:

– Xin bố mẹ đừng trả thợ săn con nai này. Có lẽ nó có nhân duyên với nhà mình. Chung quanh là nơi khoáng dã sao không chạy, lại chạy vào núp dưới bàn thờ ? Chúng ta phải cứu nó.

– Con nói có lý lắm.

Do đó bố mẹ cũng không có ý trả nai cho thợ săn. Nhưng thợ săn bảo:

– Tuy là con nai chạy vào nhà các người, nhưng là do bầy chó của tôi đuổi nên nó mới chạy đến. Nếu các người muốn giữ nó thì hãy trả tiền, tôi bằng lòng nhượng lại.

Đôi bên tranh cãi. Cô dâu mới hỏi thợ săn:

– Vậy ông định đòi bao nhiêu tiền ?

– 20 lạng.

Bố mẹ chồng nghĩ mình cưới dâu cũng chỉ mất 15 lạng, nay lại phải trả 20 lạng thì quá đáng, bèn có ý trả lại con nai. Cô dâu mới nhất định khuyên bố mẹ chồng cứu con nai. Hai người vì mới cưới dâu không nỡ cự tuyệt bèn thương lượng với thợ săn cuối cùng thỏa thuận 15 lượng. Ông bà có vẻ buồn bảo nàng dâu:

– Chúng ta rước con về nhà đã tốn 15 lạng, nay lấy đâu ra 15 lạng nữa để mua nai?

– Chuyện này không quan hệ, chỉ cần bố mẹ đồng ý là được, còn 15 lạng thì con lấy tiền bồi giá ra trả.

Bố mẹ chồng thấy con dâu kiên quyết bèn đồng ý. Thợ săn nhận tiền rồi đi. Cô dâu mới kéo con nai từ dưới gầm bàn thờ ra, lại vỗ vỗ trên đầu nó an ủi. Con nai có vẻ cảm kích chạy vòng vòng trước nhà một lúc rồi chạy thẳng lên núi không thấy nữa.

Chuyện này lan truyền khắp xóm, mọi người đều cười cô dâu ngu xuẩn dùng một số tiền lớn như thế để phóng sinh. Mặc ai nói sao, cô dâu mới cũng không để bụng.

Hai năm sau cô đã sinh được một đứa con trai bụ bẫm. Hôm đó vừa được đầy tháng, mọi người đang bận sửa soạn ăn mừng. Mọi người bèn để đứa bé trong cái nôi có quai xách trên ghế tràng kỷ. Đột nhiên con nai lại xuất hiện, lấy sừng móc vào quai cái nôi đứa bé chạy quanh nhà 2 vòng rồi hướng ra ngoài chạy thẳng. Mọi người thấy con nai ăn trộm đứa bé bèn hô hoán đuổi theo. Chạy được một quãng bỗng nghe có tiếng ầm. Mọi người ngoảnh đầu nhìn lại thì ra núi lở, đổ xụp xuống nhà. Nếu mọi người ở trong đó thì đã bị vùi chết hết. Lúc đó con nai bỏ cái nôi xuống đất và chạy vào núi. Bấy giờ mọi người mới hiểu thì ra con nai để báo ơn cô dâu cứu mạng bèn dùng cách ăn trộm đứa bé để dụ mọi người chạy ra ngoài mà thoát nạn.

(Nhân Quả Báo Ứng Thực Lục)

Cứu người được tăng tuổi thọ

Vương Chí Nhân là một thương nhân người An Huy, tuổi đời đã quá 40, tuy công việc buôn bán được thuận buồm xuôi gió, tiền của tích chứa ngày một nhiều, song điều đáng tiếc là vẫn chưa có được đứa con nào, khiến cho cảnh nhà tuy giàu có mà không khỏi phải quạnh hiu, buồn bã.

Theo quan niệm thời xưa, việc không có con nối dõi tông đường là điều tối kỵ. Vì thế, Vương Chí Nhân ngày đêm lo lắng, lòng dạ như lửa đốt, mỗi khi nghe ai nói có nơi nào cầu đảo linh thiêng đều cất công tìm đến, nhưng nhiều lần như vậy màkhông có kết quả gì.

Một hôm, có vị thầy tướng số lỡ đường ghé vào cửa tiệm của Vương Chí Nhân xin ngủ trọ. Vương Chí Nhân tiếp đãi rất chu đáo. Trước khi chia tay, thầy tướng nhìn thẳng vào mắt ông rồi nói:

– Lẽ ra tôi không thể nói việc này, nhưng thấy ông là người nhân đức hiền hậu, chỉ mới gặp tôi lần đầu mà đã hết lòng giúp đỡ. Chút tình tri ngộ này tôi không thể không báo đáp, vậy có mấy lời mong ông ghi nhớ. Tướng mạo của ông cho thấy là trong đời này ông không thể có con, vậy ông nên từ bỏ mọi sự cầu đảo, đừng phí công vô ích. Hơn nữa, trong mắt ông có nhiều ám khí, chỉ trong vài tháng tới đây nhất định sẽ gặp tai họa lớn, tính mạng khó bảo toàn. Ông nên cẩn thận giữ gìn.

Vương Chí Nhân nghe qua mấy lời này thì không cầm được nỗi lo sợ, mặt biến sắc, mồ hôi ướt đẫm cả thân, cảm thấy tất cả những gì mình có trong đời đều là vô nghĩa, vì đã không còn hy vọng có con nối dõi, mà mạng sống cũng chẳng còn được bao lâu. Ngay hôm đó liền đóng cửa tiệm, chuẩn bị hành lý lên đường trở về nhà.

Trên đường về nhà, ông tạm nghỉ nơi một quán trọ nhỏ ven đường. Lúc đó đang là mùa mưa, suốt từ đầu hôm đến gần giữa khuya trời nổi gió lớn, mưa đổ xuống như trút nước khiến căn nhà trọ như bị lung lay từng hồi theo những luồng gió giật. Khoảng nửa đêm thì mưa gió mới ngừng tạnh. Vương Chí Nhân trằn trọc mãi vẫn không tài nào chợp mắt được, lòng miên man suy nghĩ về những lời của thầy tướng số. Hồi lâu liền mở cửa nhìn ra ngoài, thấy trời quang mưa tạnh, trăng sáng vằng vặc. Mấy chậu hoa trước sân quán trọ đua nhau tỏa hương khắp nơi, trên cành lá vẫn còn lưu lại những giọt nước mưa long lanh dưới ánh trăng sáng, trông đẹp lạ kỳ.

Phong cảnh tú lệ sau cơn mưa dưới ánh trăng càng thêm thanh thoát vô cùng, cảnh đêm tịch mịch càng làm cho lòng người thêm hứng khởi, Vương Chí Nhân liền mở cửa bước ra ngoài đi dạo một lát. Ông thong thả bước từng bước nhẹ nhàng ra hướng bờ sông, bỗng nhiên từ xa thoáng thấy một người thiếu phụ tay ôm đứa bé cùng nhảy xuống sông. Vương Chí Nhân kinh hãi vô cùng, định nhảy xuống sông cứu người nhưng sực nhớ lại là mình không biết bơi. Đang lúc hoảng hốt liền ngẩng đầu nhìn quanh, thấy gần đó có mấy chiếc thuyền của dân chài, Vương Chí Nhân liền cất tiếng la lớn kêu cứu. Nhưng ông la đã khản cổ mà người trên thuyền chỉ thấy bước ra mạn thuyền đứng xem, dường như chẳng ai nghĩ đến việc cứu người. Vương Chí Nhân liền nói lớn:

– Nếu ai cứu được người dưới sông sẽ được trả 20 lượng vàng.

Vừa nghe ông nói như vậy, rất nhiều người dân chài liền tranh nhau chèo thuyền đến, cuối cùng cứu sống được người thiếu phụ và em bé.

Vương Chí Nhân giữ lời hứa trao đủ số vàng 20 lượng cho người cứu được mẹ con thiếu phụ kia. Sau đó ông mới quay sang hỏi người thiếu phụ xem duyên cớ vì sao lại ôm con nhảy xuống sông như thế. Người thiếu nữ khóc lóc kể rằng:

– Chồng tôi quanh năm đi làm thuê cho người ta kiếm sống, trong nhà nuôi được một con heo, định bán để trả tiền thuê nhà. Hôm qua có người mua heo đi ngang qua nhà, tôi gọi vào bán. Sau khi ông ta đi rồi mới phát hiện số bạc ông ấy đưa toàn là bạc giả. Tính chồng tôi rất nóng nảy, nếu chàng biết được sẽ đánh tôi chết mất! Hơn nữa nhà tôi lại quá nghèo, nay gặp việc này không biết lấy đâu ra tiền trả tiền thuê nhà, cũng chẳng có tiền nuôi con, tôi chỉ còn cách ôm con nhảy xuống sông chết quách cho xong!

Vương Chí Nhân nghe cô kể lể sự việc thì động lòng trắc ẩn, thương xót vô cùng, không hỏi thêm một lời nào, lặng lẽ dốc hết số bạc mang theo còn lại trong túi đưa cho cô và nói:

– Số bạc này tuy không lớn lắm nhưng chắc cũng đủ để vợ chồng cô làm vốn buôn bán nhỏ mà sinh sống. Cô nên nghe lời tôi, trở về nói thật với chồng, đừng nghĩ quẩn nữa.

Thiếu phụ mừng rỡ vô cùng, hết lời cảm tạ ơn cứu mạng của Vương tiên sinh. Cô lập tức trở về nhà, cũng đúng lúc người chồng đi làm thuê ở xa vừa về đến. Thiếu phụ kể lại một cách tường tận chuyện bán heo bị lừa lấy phải bạc giả và cả chuyện mình vì sợ trách mắng nên ôm con nhảy xuống sông tự vẫn, sau đó gặp vị ân nhân ra tay cứu giúp cho chồng nghe.

Người chồng nghe xong cũng hết sức cảm động, liền bảo vợ lập tức đưa mình đến quán trọ để cảm ơn Vương tiên sinh.

Lúc hai vợ chồng họ đến quán trọ, trời đã quá khuya, không gian tĩnh mịch như tờ, mọi người đang chìm sâu trong giấc ngủ. Vương Chí Nhân cũng đã đóng cửa an giấc nồng, người thiếu phụ liền gõ cửa và nhỏ nhẹ gọi Vương tiên sinh. Vương tiên sinh nhận ra giọng nói của thiếu phụ lúc nãy, liền ngồi thẳng trên giường trả lời với giọng hết sức nghiêm túc:

– Cô là gái đã có chồng, tôi lại đang ở một mình, làm sao có thể gặp mặt nhau vào lúc nửa đêm khuya khoắt như thế này? Cô hãy mau trở về nhà đi!

Người chồng đứng bên nghe vậy liền nói lớn:

– Thưa ân nhân, cả hai vợ chồng chúng tôi cùng đến đây để cảm tạ đại ân đại đức của ân nhân.

Vương Chí Nhân nghe có giọng nói của người đàn ông thì không còn hiềm nghi gì nữa, mới khoác áo bước xuống giường đẩy cửa bước ra ngoài để mời vào. Ngờ đâu đúng vào lúc đó bỗng nghe trong phòng có tiếng động rất lớn, khiến cả ba người đều giật mình. Nhìn lại trong phòng thì hóa ra một cây xà gỗ lớn trên mái nhà đã rơi xuống đè bẹp ngay trên chiếc giường của Vương tiên sinh vừa nằm lúc nãy. Vương Chí Nhân kinh hãi nói lớn:

– Ôi chao! Nguy hiểm thật! Nếu không có hai người gõ cửa gọi tôi ra, nhất định tôi đã bị đè chết rồi! Thật cảm ơn hai người!

Hai vợ chồng người thiếu phụ đồng thanh nói:

– Chúng tôi nào có công gì, đây quả là ông trời có mắt, tiên sinh ở hiền gặp lành nên mới thoát được đại nạn đó!

Vương Chí Nhân trở về nhà, bỏ hẳn công việc buôn bán, nghỉ ngơi luôn mấy tháng, trong lòng vẫn chưa hết lo sợ về lời cảnh báo của thầy tướng số, song vẫn cứ bình an vô sự không thấy gì xảy ra. Nhưng rồi cứ nằm nhà mãi không có việc gì làm cũng đâm ra buồn chán nên ông quyết định mở lại cửa tiệm buôn bán. Gần một năm sau, một hôm bỗng nhiên gặp lại thầy tướng số cũ. Vương tiên sinh nhớ đến lời tiên đoán của ông ta liền mời vào cửa tiệm, vừa cười vừa nói:

– Năm ngoái ông có lời đoán tướng mạo của tôi, tôi vẫn tin ông nên rất lo sẽ có tai họa xảy tới. Đừng nói là trong vòng vài tháng, tôi chờ đến nay đã hơn một năm rồi mà có thấy tai họa gì đâu. Ông không nói đùa với tôi đấy chứ?

Thầy tướng số nghiêm nét mặt, quan sát Vương Chí Nhân hồi lâu rồi mới nói:

– Tôi vốn xem ông là người tốt, làm sao có thể dám nói lời đùa cợt? Sự thật là khí sắc của ông ngày nay đã hoàn toàn thay đổi, chắc chắn ông đã làm được một việc gì rất tốt đẹp, như cứu sống mạng người chẳng hạn. Ông hãy tự soi gương mà xem, ngày trước râu ria của ông chỉ như mấy sợi lông tơ, nay bỗng nhiên mọc ra rậm rạp, giọng nói trầm hùng, tia mắt lại chiếu sáng lấp lánh không còn ám khí. Cứ theo tướng mạo lúc này mà nói thì ông chắc chắn không chỉ có nhiều con mà sẽ còn được tăng thêm tuổi thọ nữa.

Vương Chí Nhân nghe nói hết sức vui mừng, niềm hy vọng có con nối dõi lại bắt đầu nhen nhúm. Quả nhiên, chỉ ngay trong năm đó vợ ông đã sinh được một người con trai, rồi những năm sau đó lại lần lượt sinh thêm ba người con trai nữa. Về sau, Vương Chí Nhân sống thọ đến 96 tuổi mới an nhiên lìa trần.

(trích: Đức Dục Cổ Giám)

Thái tử trong bụng cá

Thuở xưa, có một người làm ruộng, sau chết được đầu thai làm con vua. Đời trước là người đi cày, đời sau lại là một ông hoàng, chuyện ấy ngẫm ra thật ít có. Đó là nhờ người ấy đã tu nhân tích đức trong nhiều đời trước, thường cúng dường tăng chúng và bố thí cho kẻ đói nghèo, lại có nguyện giữ trọn một đời không hề sát sanh hại mạng.

Một hôm, hoàng hậu bồng thái tử đi chơi trên cầu, ra đến đoạn giữa sông, có con cá lớn lắm quẫy đuôi đập nước vọt lên rất mạnh, làm hoàng hậu giật mình sẩy tay khiến hoàng tử rớt xuống nước. Liền đó, con cá hả miệng ra nuốt mất thái tử vào bụng rồi lội đi.

Thái tử ở trong bụng cá đến bảy ngày mà không chết, cũng không đói, không khát. Lúc ấy, cá lội đi rất xa, đến một nước khác thì bị dân chài bắt được. Thấy con cá to lạ thường, họ mới đem dâng lên cho vua nước ấy. Lúc người nhà bếp của vua sắp làm thịt con cá, thái tử ở trong bụng cá kêu lớn rằng:

– Các người làm cá cho thận trọng, kẻo phạm nhằm ta!

Ai nấy nghe vậy đều lấy làm kinh hãi, nhưng cũng đánh bạo mà đến chặt đầu cá, thì thấy thái tử ở trong bò ra. Mọi người thấy rõ ràng là một bé trai xinh xắn đẹp đẽ khôi ngô, bèn dâng lên vua và kể lại mọi chuyện.

Vua vốn không có con, muốn nhận ngay cậu bé con mình, lập làm thái tử. Nhưng câu chuyện ly kỳ về việc tìm được thái tử trong bụng cá đã lan truyền nhanh chóng trong nhân dân, chẳng bao lâu liền đến tai vị vua cha của thái tử. Ngài liền sai sứ sang xin đón thái tử về. Nhưng vua bên này lại không thuận trao trả, nói rằng mình đã tìm được thì tất nhiên phải thuộc về mình. Hai bên giằng co nhau mãi, chẳng ai chịu nhường ai, mỗi người đều quyết giành về phần mình, đã sắp phải động binh đao để phân thắng bại.

Nhưng cũng may là hai vua đều có đạo tâm, đều đã quy y Tam Bảo. Vì thế, cuối cùng họ đồng ý tìm đến một vị sa môn đạo cao đức trọng để nhờ phân xử. Vị này sau khi hỏi rõ đầu đuôi câu chuyện, liền khuyên dạy rằng:

– Nếu hoàng hậu bên này không sanh ra thái tử, thì làm sao có thái tử để hai vua tranh nhau? Nhưng thái tử đã vào bụng cá, mười phần chắc chết cả mười, nếu vua bên kia không bắt được cá mà kịp thời cứu thái tử ra, thì biết đâu thái tử chẳng đã phải bỏ mạng rồi? Một bên có công sanh ra, một bên có công cứu mạng, xem ra cũng đồng như nhau. Nay ta có một cách, giúp cho hai bên có thể hòa thuận với nhau, mà bên nào cũng được thương yêu, nuôi dưỡng thái tử. Ấy là nên dựng lên một cung điện ở chỗ biên giới hai nước, để thái tử ở nơi cung đó và lập người làm thái tử cả hai nước.

Hai vua cho là phải, thuận tình với nhau, trở về cùng cho người chung sức xây dựng cung điện nguy nga cho thái tử ở. Về sau, hai vua đều giao việc trị nước cho thái tử.

Ấy là một người làm ruộng mà sau được đầu thai làm hoàng tử, sau lại làm vua hai nước, đều là nhờ có lòng từ thiện cứu giúp chúng sanh. Hơn nữa, thái tử ở trong bụng cá bảy ngày mà vẫn sống, ấy là nhờ đời trước giữ giới chẳng sát sanh hại mạng bao giờ.

(Chuyện Phật Đời Xưa –

Đoàn Trung Còn biên soạn, Nguyễn Minh Tiến hiệu đính)

 VIIITHAM LAM

Định nghĩa:

Ác thứ tám là lòng Tham hiểm,

Muốn bao gồm của thế một mình.

Tham nhà cao, cửa rộng, thân vinh,

Tham vườn ruộng cò bay thẳng kiếng.

Thấy của người thèm khô nước miếng,

Tính làm sao lường gạt lấy đi.

Sẵn túi tham bất cứ chuyện gì,

Dầu xấu tốt cũng là dồn chứa.

Nhớ lời Phật khi xưa dạy sửa,

Của thế trần như mật dính dao.

Trẻ tham ăn kê miệng liếm vào,

Chừng đứt lưỡi mới là hối hận.

Tham của tạm làm điều tàn nhẫn,

Nhắm mắt rồi đâu có mang theo.

Tham tiền tài thường vướng nạn eo,

Tham sắc đẹp nhà tan cửa nát.

Lúc tận số nằm trơ một xác,

Gẫm kim tiền bội bạc bất tài.

Không làm cho ta được sống dai,

Lại chẳng bước tiễn đưa một bước.

Thà nghèo thanh hơn giàu mà trược,

Lo vun trồng cội phước về sau.

Muốn trừ tham phải liệu cách nào,

Phải bố thí diệt lòng ích kỷ.

Tâm chánh niệm thường thường suy nghĩ,

Vật ở trần như bọt nước làn mây.

Thân Ta còn rày đó mai đây,

Của ấy cũng khi tan khi hiệp.

(Khuyến thiện – Vô Danh cư sĩ)

Tham lam.- Tánh tham lam đã làm cho loài người phải chịu bao nhiêu thảm khổ: chiến tranh, cướp bóc, giết người … tham danh, tham lợi, tham sắc, tham tài, tham quyền, tham thế … Những sự ấy đã xô đẩy con người vào chẳng biết bao nhiêu cuộc chiến đấu ác liệt, gây nên những thảm họa tày trời. Những tấn tuồng giặc giã, cướp của sát nhơn, những vụ hối lộ, những vụ tranh thế giành quyền đã làm cho nhân sanh điêu linh trong vòng tai nạn khốc hại. Cái tham ấy cũng đã làm cho con người đau buồn hận khổ, phải khóc đứng than ngồi, phải liều mình tự sát chỉ vì sự ham muốn không được thực hiện; người ta quyên sinh vì tình yêu, vì lợi quyền, vì thất trận…. Những cuộc cấu xé lẫn nhau, những vụ nồi da xáo thịt, những tương sát tương tàn, những điều hung hăng bạo ác cũng do sự tham lam mà ra cả. Ngày giờ nào loài người diệt được tánh ham muốn của mình, ngày giờ ấy bớt được một phần lớn của sự khổ. Vả lại, ở đời phải có những lúc thăng trầm chìm nổi, có thì ta xài, không ta nhịn, can gì phải bày mưu tính kế chiếm đoạt của kẻ ngoài. Của là của chung trong thiên hạ, đời ta còn, nó còn; đời ta mất, nó mất; gương Thạch Sùng  Vương Khải há không để lại cho ta một bài học đích đáng lắm ru ? Thế nên, hãy nghĩ đến người cũng như mình nghĩ đến mình, hãy dẹp lòng vị kỷ tham lam, lo vun trồng phước đức, bố thí cho kẻ nghèo hèn, rán công phu sám hối để có thể yên vui nơi miền Cực Lạc, lánh sự giả tạm ở cõi trần này.

(SGTVTB 2004, tr. 192-193)

 

Dẫn chứng:

Thạch Sùng – Vương Khải

Thạch Sùng ở Thanh Châu đời Tây Tấn. Từ thuở nhỏ, ông có tư chất thông minh, nhiều mưu trí.

Thạch Sùng lớn lên, nhờ tài năng nên năm 20 tuổi (268) được bổ làm quan lệnh ở Tu Vũ, rồi sau đổi ra làm Thái thú Dương Thành. Nhân vì có công bình định nước Đông Ngô nên ông được vua phong làm An Dương Hầu.

Vua Tấn Vũ Đế thấy Thạch Sùng có tài, cho làm Thứ sử Kinh Châu, kiêm chức hiệu uý Nam man. Lúc ở Kinh Châu, Thạch Sùng tư thông với giặc cướp, cướp của những người đi buôn, nên chẳng bao lâu, Thạch Sùng trở nên đại phú. Về sau, Thạch Sùng được thăng Thái Bộc và Vệ Úy.

Thạch Sùng cất một biệt thự rất tráng lệ ở Lũng Kim Cốc, thường hội họp bạn bè ở đây để ăn uống, chơi bời.

Càng ngày Thạch Sùng càng giàu có, xây cất lầu các nguy nga, giăng toàn gấm vóc, đồ trân quý nhiều không kể hết, tài sản to lớn, được xem là bậc nhất thiên hạ khi đó.

Thời bấy giờ có quan Hậu tướng quân là Vương Khải, em của Văn Minh hoàng hậu, nhà cũng rất giàu có và ăn tiêu xa xỉ.

Một hôm, Vương Khải và Thạch Sùng cạnh tranh nhau về sự giàu có.        Vương Khải nói:

   -Nhà tôi lấy mật rửa chảo.

Thạch Sùng nói:

-Nhà tôi lấy nến bạch lạp làm củi.

Các quan nghe vậy liền bảo rằng:

-Lời nói không lấy gì làm bằng, muốn biết ai hơn kém thì phải lấy những thứ quý nhất đem ra, hễ ai nhiều thì được.

Vương Khải bèn lấy trướng lụa đem ra trải đường được 40 dặm. Thạch Sùng cũng đem trướng lụa ra trải, dài được 50 dặm. Vương Khải dùng phấn đá đỏ quét vôi nhà thì Thạch Sùng lại dùng hồ tiêu quét lên vách.

Các quan trong triều thấy Thạch Sùng đều hơn nên rất khen ngợi. Vua Tấn Vũ đế thấy Vương Khải kém thế nên tặng cho Vương Khải một cây san hô cao hai thước. Vương Khải liền đem cây san hô ra thi. Thạch Sùng liền lấy cây gậy ngọc Như Ý đập cây san hô ấy vỡ tan. Vương Khải cả giận nói:

-Túc hạ không có của quý như thế mà đem thi, nên mới đập cây san hô của ta!

Thạch Sùng vội đáp:

-Xin ngài đừng vội giận, ta xin đền cây khác lớn hơn.

Nói rồi xin trở về nhà đem đến bốn cây san hô đều cao bốn thước, sáng rực, lấy một cây đền cho Vương Khải.

Các bạn hai bên đều xin hòa, ai trở về nhà nấy.

Vua Tấn Vũ Đế chết, thái tử Trung lên nối ngôi, tức là Tấn Huệ Đế. Từ lâu, Huệ Đế nhu nhược, quyền hành về tay Tám vị Thân vương và Hoàng hậu Giả Nam Phong. Giả hậu mưu giết Dương Thái Hậu và các thân vương mà tranh quyền, gây ra Loạn bát vương.

Một hoàng thân là Triệu vương Tư Mã Luân, đem quân vào cung, bắt vua Huệ Đế phải bỏ Giả Hậu, rồi bắt Giả Hậu giết đi, bình được mối loạn Giả Hậu, nắm giữ binh quyền. Tư Mã Luân làm Tướng quốc, tin dùng một gia thần là Tôn Tú.

Tôn Tú nghe nói Thạch Sùng có nàng ái cơ tên là Lục Châu, nhan sắc xinh đẹp lạ thường, lại thêm cầm kỳ thi họa đều giỏi, múa hát rất hay, vẫn được Thạch Sùng yêu mến, để ở riêng trên lầu Kim Cốc. Tôn Tú lập tức sai sứ đến bắt.

Khi sứ đến, Thạch Sùng ra tiếp. Sứ giả nói:

-Tôn thị trung (tức Tôn Tú) nghe nói ngài có nhiều người hầu đẹp, sai tôi đến đây muốn mượn ngài một người.

Thạch Sùng bèn gọi ra vài mươi người, cho sứ giả chọn, nhưng sứ giả nói:

– Mấy người này ăn mặc thì đẹp, nhưng quan thị trung bảo tôi phải tìm được nàng Lục Châu. Xin ngài đưa Lục Châu ra đây tôi rước về dâng cho Tướng quốc.

Thạch Sùng đáp:

-Không được, Lục Châu là ái cơ của ta, dẫu thế nào cũng không cho bắt được.

– Quân hầu am hiểu sự đời, sao không nhận rõ thời thế hiện nay, nếu cưỡng lại ắt có vạ to. Quân hầu nên nghĩ lại.

Thạch Sùng nhất định không nghe. Sứ phải trở về báo lại với Tôn Tú. Tôn Tú cả giận, muốn giết Thạch Sùng, lại nhân có thù cả với bạn đồng liêu của ông là Phan Nhạc, bèn vào bẩm với Tư Mã Luân:

-Thạch Sùng, Phan Nhạc có ý phản, ỷ thế giàu có âm mưu làm loạn, nếu bây giờ không trừ, sau hối không kịp.

Tư Mã Luân nói:

-Nếu thế thì cứ bắt nó giết đi.

Tôn Tú được lệnh, đem 200 quân đến vây nhà Thạch Sùng. Thạch Sùng đang ở trên lầu với nàng Lục Châu, thấy quân kéo đến, hô lệnh bắt. Thạch Sùng cả sợ nói:

-Tôi vì nàng mà bị tội, không rõ họ bắt tôi đem đi đâu?

Lục Châu khóc thưa rằng:

-Quân hầu đã vì thiếp mà phải tội thì thiếp cũng vì Quân hầu mà chết. Thiếp xin chết trước chớ mặt nào lại vào cửa khác để nhục đến Quân hầu.

Nói rồi nàng nhảy từ lầu cao xuống đất tự tử. Quân lính vào bắt Thạch Sùng đưa đi. Ông nói:

-Ta không có tội, chỉ vì chơi bời rộng rãi mà thôi

Khi quân lính giải đến pháp trường, Thạch Sùng mới biết mình bị xử tử, bèn khóc than rằng:

Bọn người giết ta, chỉ vì tham gia tài của ta mà thôi!

Người áp giải nói:

-Đã biết tiền của hay làm họa cho người, sao không phát tán đi từ trước?

Bạn đồng liêu của ông là Phan Nhạc cũng bị giải đến, Thạch Sùng ngạc nhiên hỏi vì sao Nhạc cũng bị bắt tới, Phan Nhạc khóc, nhắc lại câu chuyện có lần đến chơi lầu Kim Cốc của ông, làm bài thơ có câu: Đầu bạc cùng chỗ về, nay thấy ứng nghiệm.

Thạch Sùng bị chém chết, gia sản bị tịch thu. Năm đó ông 52 tuổi.

(Theo: wikipedia.org)

Ác ý khinh Tăng

Ngạ quỷ bụng to, thân bị thiêu cháy

Muôn kiếp ngàn đời, sống rất khổ đau

Vợ dốt, keo tham bày mưu kế độc

Cúng tăng vật uế, chịu khổ khôn lường.

Vua Tần Bà Sa La quốc vương nước Ma Kiệt Đà ở miền nam nước Ấn Độ là vị đại hộ pháp của Phật giáo thời bấy giờ.

Vua thường cung thỉnh đức Phật thuyết pháp, đặc biệt xây dựng giảng đường rộng lớn ở ngoại thành Vương Xá, đó là tinh xá Trúc Lâm. Tinh xá này là ngôi chùa được xây dựng sớm nhất thế giới, đức Phật thường ngự ở đây nói pháp độ sinh.

Tôn giả Xá Lợi Phất và Mục Kiền Liên là hai đệ tử thuộc hàng thượng thủ của đức Phật. Mỗi ngày trước khi thọ thực, hai vị thường khởi lòng từ bi dùng thần thông quán xét chúng sinh có nhân duyên cứu độ đang chịu khổ trong ba đường địa ngục, ngạ quỷ, súc sinh, sau đó ngài mới thọ thực.

Một hôm, tôn giả Mục Kiền Liên quán xem thấy một ngạ quỷ bị nghiệp lực hành hạ rất đáng thương. Thân của nữ ngạ quỷ ấy giống như cây cột bị thiêu cháy, cái bụng giống như gò núi, cổ họng nhỏ như cây kim, không thể nuốt vật gì vào được. Do nghiệp lực nên bất cứ ăn thức ăn nào đưa đến miệng đều biến thành lửa than. Trong miệng lại luôn phát ra lửa đỏ, thiêu đốt mặt mày cả ngày lẫn đêm. Tóc trên đầu sắc bén như dao kiếm cắt thân thể làm máu luôn chảy mãi, tứ chi đều phát lửa tự đốt, thật thống khổ không thể nào tả hết. Tôn giả thấy cảnh ngạ quỷ thọ khổ kia, khởi tâm thương xót, dùng thần thông đến trước mặt quỷ ấy hỏi:

– Trước kia bà tạo tội gì, mà nay phải chịu quả báo thảm thương như thế?

Nữ ngạ quỷ đáp:

– Nay tôi bị hành hạ khổ sở thế này, không còn chút khí lực nào để đáp lời hỏi của tôn giả, hiện nay có đức Phật ra đời, vì chúng sinh nói pháp giải thoát, trí của Ngài sáng như mặt trời, đối với tất cả nghiệp lành dữ phát xuất từ ba nghiệp thân khẩu ý của chúng sinh trong ba đời quá khứ, hiện tại, vị lai, Phật đều biết rõ, xin tôn giả hãy đến hỏi Đức Phật.

Bấy giờ, tôn giả Mục Kiền Liên trở về tinh xá nơi Đức Phật đang ngự, thưa hỏi nguyên do nào mà ngạ quỷ kia lại bị tội khổ như thế?

Khi ấy, sau khi thuyết pháp xong, Đức Thế Tôn nhìn thấy tôn giả Mục Kiền Liên đang có mặt trong pháp hội và đảnh lễ Phật, nên hỏi:

– Mục Liên, hôm nay ông phát hiện ra điều gì mới lạ chăng?

Tôn giả kể lại sự việc đã thấy nghe và thưa:

– Bạch Thế Tôn, khi còn sống ngạ quỷ ấy đã tạo tội gì mà nay phải chịu vô vàn thống khổ như thế, cúi xin Thế Tôn từ bi nói rõ cho con cùng tất cả hội chúng đây biết rõ mà ngăn ngừa lỗi lầm về sau.

Đức Thế Tôn nói:

– Trước kia, trong thành Xá Vệ có một người giàu có nhiều phước đức, trong nhà mướn rất nhiều người làm công phụ giúp việc mua bán nước mía, nên trở thành người giàu có. Lúc ấy, có vị xuất gia tu hành chứng quả Bích Chi Phật, rộng độ chúng sinh. Vị Bích Chi Phật đang mang bệnh nên thân thể mệt nhọc bất an, cần nước uống cho đỡ nhiệt. Có người mách chỉ, nên Vị Bích Chi mang bát đến trước cửa nhà phú gia bán nước mía, xin khất thực nước ấy. Vị chủ nhà đạo đức thấy vị xuất gia rất hoan hỉ và cung kính. Nhưng khi ấy, ông có việc phải đi gấp nên không kịp lấy nước mía cúng dường cho vị tăng, nên ân cần dặn vợ:

– Phú Na Kỳ, bà thay tôi ép nước mía cúng dường vị sư này.

Người vợ trả lời:

– Ông an tâm, tôi sẽ cúng dường thay ông.

Sau khi chồng đi rồi, người vợ nghĩ thầm:

– Nước mía nhà ta trước nay chỉ bán, nếu hôm nay phá lệ cho không thì e rằng sau này sẽ có nhiều người đến xin, lúc đó đâu không phải là phiền não sao!

Vì tâm bỏn xẻn, nên khi ấy người vợ sinh niệm xấu, đến lấy bát của vị sư đem ra sau tiểu vào đó rồi đổ một ít nước mía đem ra đưa cho vị sư.

Riêng vị sư khi nhận ra bát nước nhơ uế ấy đi xa xa đổ ra đất trống và tẩy rửa bát thật sạch, rồi trở về chỗ ở.

Còn người vợ bỏn xẻn kia không lâu sau thì qua đời đọa vào loài ngạ quỷ chịu đói khổ như đã thấy.

Chúng sinh đường ác sa vào,

Do tâm bỏn sẻn chớ nào tại ai.

Quả báo khi đã tàn phai,

Làm người mạt rệp, gia tài trống trơn.

*Kinh ghi: “Nếu người đối với Tam Bảo sinh lòng cung kính thì phước đức vô lượng vô biên, ngược lại, nếu ai có tâm không cung kính thì tội báo cũng vô lượng vô biên”.

*Có người nói: “Do không biết nên không có tội”, câu nói này sai lầm. Bà Phú Na Kỳ vì không biết kính trọng người tu, ham tiền khinh người nên tạo nghiệp ác xấu, phải chịu quả khổ đến thế.

(Truyện kể về Những Bậc Thánh Siêu Phàm

Trong Phật Giáo – Ngô Trọng Đức Từ Nhân dịch)

 Đói khổ suốt đời

Lúc ấy, Phật ở với chư tỳ kheo gần thành Xá Vệ, trong vườn Kỳ thọ Cấp Cô Độc. Trong thành có một người vợ của người bà la môn có thai, sinh ra một đứa con trai hình dung cực xấu, thân thể nhớp nhúa. Khi bú vú mẹ, sữa mẹ liền chua đi, chẳng thể bú được. Khi nhờ người khác cho bú lại cũng như thế. Vì vậy, đành phải lấy bơ với mật trét vào miệng cho trẻ ấy nút cầm hơi mà sống. Nhân đó mới đặt tên là Lê Quân Chi.

Đứa trẻ ấy cũng dần dần lớn lên, nhưng thật là xấu số, chẳng lúc nào được ăn no đủ. Thấy các vị tỳ kheo đi khất thực được người ta cúng dường thức ăn trong bát, Lê Quân Chi sanh lòng hoan hỷ, nghĩ rằng:

– Ta nên đến chỗ Phật mà cầu xuất gia, tất sẽ được ăn no.

Nghĩ rồi liền đến nơi tinh xá Kỳ Hoàn lạy Phật xin xuất gia. Phật nói:

– Lành thay đó, tỳ kheo!

Tức thì, râu tóc tự nhiên rụng sạch, áo cà sa hiện ra nơi thân, thành một vị tỳ kheo oai nghi đầy đủ. Chuyên cần tu tập, chẳng bao lâu đắc quả A La Hán. Dù đã chứng quả, nhưng mỗi khi tỳ kheo Lê Quân Chi đi khất thực vẫn thường đói thiếu. Trong lòng tự hối trách, liền vào trong tháp Phật mà lễ bái, thấy có bụi bặm liền chuyên tâm quét dọn sạch sẽ. Hôm ấy đi khất thực được một bữa ăn no. Trong lòng vui vẻ, liền bạch với tăng chúng rằng:

– Từ nay về sau xin cho tôi được lo việc quét dọn tháp Phật. Vì nhờ quét tháp Phật tôi mới có thể khất thực được no lòng.

Tăng chúng nghe vậy cũng đều đồng ý. Đến một ngày nọ, Lê Quân Chi ngủ mê dậy muộn, đã quá giờ quét dọn mà vẫn còn ngủ. Gặp lúc Xá Lợi Phất và năm trăm vị đệ tử từ nơi khác đến viếng Phật, thấy trong tháp có bụi bặm liền tiện tay quét dọn sạch sẽ ngay. Lê Quân Chi thức giấc thấy Xá Lợi Phất đã quét tháp rồi, liền nói rằng:

– Ngài quét tháp Phật, ấy là khiến tôi hôm nay phải nhịn đói rồi.

Xá Lợi Phất hỏi nguyên do, nghe xong liền nói rằng:

– Ngài không phải lo, hôm nay có thể cùng đi với tôi vào thành khất thực, chắc được no đủ.

Lê Quân Chi nghe nói vui mừng, đến giờ khất thực liền ôm bát đi theo Xá Lợi Phất. Đến nhà đàn việt, ngờ đâu gặp lúc vợ chồng cãi nhau chẳng ai cúng dường, đành ôm bát không mà về.

Ngày thứ hai, đến giờ khất thực Xá Lợi Phất liền nói rằng:

– Hôm nay có người trưởng giả trong thành thỉnh đến cúng dường, Ngài nên cùng đi với tôi, chắc được no đủ.

Liền cùng nhau đến đó. Lễ cúng long trọng, người ta dọn thức ăn rất nhiều. Chư tỳ kheo ngồi thành hàng dài, những người dọn thức ăn đặt từ phía dưới lên, đến chỗ Lê Quân Chi thì vừa hết mất. Những người dọn từ phía trên xuống, đến chỗ ông lại cũng vừa hết. Vậy là trong chúng hội chỉ mỗi mình ông chẳng có thức ăn. Ông liền lớn tiếng gọi rằng:

– Tôi chưa có thức ăn.

Nhưng chẳng hiểu sao chủ nhân chẳng nghe thấy tiếng ông gọi. Đành nhịn đói mà về. Khi ấy, ngài A Nan nghe kể lại sự việc, sanh lòng thương xót, đến ngày thứ ba liền đến nói với Lê Quân Chi rằng:

– Sáng nay tôi được cùng đi với Phật thọ nhận cúng dường, sẽ vì ông mà mang thức ăn về, giúp ông được no đủ.

Nói vậy rồi mới đi. Ngài A Nan vốn là người đa văn đệ nhất, nghe và nhớ được hết tất cả những kinh Phật thuyết dạy, chưa từng quên mất điều gì. Vậy mà hôm ấy bỗng nhiên quên khuấy mất lời hứa với Lê Quân Chi, thọ thực xong lại ôm bát không mà về!

Đến ngày thứ tư, ngài A Nan lại vì Lê Quân Chi mà nhận thức ăn vào bát mang về. Ngờ đâu nửa đường gặp con chó dữ, chồm lên hất bát đổ hết thức ăn. Đành ôm bát không mà về, Lê Quân Chi phải nhịn đói thêm một hôm nữa.

Ngày thứ năm, ngài Mục Kiền Liên biết chuyện, liền vì Lê Quân Chi mà xin thức ăn mang về, lại gặp con chim Kim sí cực lớn giật lấy bát mà mang luôn ra ngoài biển. Lại phải nhịn đói thêm ngày nữa.

Ngày thứ sáu, ngài Xá Lợi Phất liền quyết ý giúp Lê Quân Chi. Xin được thức ăn cẩn thận mang về đến tận cửa phòng rồi, cửa bỗng nhiên đóng chặt. Xá Lợi Phất liền dùng thần lực mà hiện vào trong phòng, chẳng ngờ nhanh quá nên sẩy tay rơi bát. Ngài lại dùng thần lực mà ngăn giữ, thu hồi nguyên vẹn lại mà đưa cho Lê Quân Chi. Cầm bát thức ăn trên tay, miệng liền dính cứng chẳng mở ra được. Giờ ăn qua rồi, miệng liền tự mở ra được.

Vào ngày thứ bảy, Lê Quân Chi sinh tâm xấu hổ cùng cực, liền ra trước đại chúng vốc cát mà ăn, ăn xong uống nước rồi nhập Niết Bàn.

Chư tỳ kheo thấy sự việc của Lê Quân Chi thảy đều kinh quái, liền thưa hỏi Phật về nguyên do các nghiệp thiện ác mà tỳ kheo Lê Quân Chi đã làm. Phật bảo chư tỳ kheo:

– Các ngươi hãy chú tâm lắng nghe, ta sẽ vì các ngươi mà phân biệt giảng nói. Về thuở quá khứ cách đây đã vô số kiếp, xứ Ba La Nại có vị Phật ra đời hiệu là Đế Tràng, cùng với chư tỳ kheo đi giáo hóa nhiều nơi. Bấy giờ có người trưởng giả tên là Cù Di, thấy Phật với chư tăng thì sanh lòng kính tín, liền thỉnh về nhà mà cúng dường, ngày nào cũng vậy. Một thời gian sau, trưởng giả ấy chết đi. Người vợ tiếp tục cúng dường, nhưng đứa con trai lòng tham lam chẳng thuận việc cúng dường, bố thí, liền ngăn cản mẹ. Người mẹ không nghe, con trai liền lường thức ăn cho mẹ mỗi ngày. Người mẹ lại nhịn một nửa phần ăn của mình, tiếp tục cúng dường Phật với chư tăng. Đứa con thấy vậy thì tức lắm, liền nhốt mẹ vào một cái phòng trống, chẳng cho ăn uống gì cả. Cho đến bảy ngày, mẹ đói quá cầu khẩn xin ăn, đứa con đáp rằng:

– Sao chẳng ăn cát mà uống nước, lại phải theo ta xin ăn?

Nói vậy rồi lại bỏ mà đi mất. Rốt cục, người mẹ đói quá mà chết. Người con ấy sau mạng chung liền sanh vào địa ngục A tỳ, chịu khổ báo qua vô số kiếp. Mãn nghiệp ấy rồi, được sanh làm người lại phải chịu đói khổ như vậy!

Phật lại dạy rằng: “Người con trai chẳng cho mẹ ăn ngày trước, nay là tỳ kheo Lê Quân Chi đó. Nhờ phước cúng dường trước đó, nên nay được gặp Phật, xuất gia đắc đạo”.

Các vị tỳ kheo nghe Phật thuyết nhân duyên này xong thảy đều vui mừng tin nhận.

(Một Trăm Bài Kinh Phật

Đoàn Trung Còn – Nguyễn Minh Tiến dịch và chú giải)

Ông già bần cùng

Khi Phật còn tại thế, có ông già bần cùng. Ông sống đến 150 tuổi, râu tóc ra dài bạc phơ, nghèo khổ đói rách, không biết nương tựa vào ai. Ông nghe Phật Thích Ca ra đời đem lại sự an vui giải thoát cho chúng sanh. Ông lê cái thân gìa nghèo khổ tìm đến đức Phật, nhưng khi đến cổng thì chư thiênĐế Thích không cho vào. Ông buồn khổ khóc lóc, than thân trách phận.

Phật biết được, liền sai ngài A Nan ra đưa vào. Khi thấy Phật, ông sụp lạy và bạch rằng:

– Không biết đời trước con tạo tội gì mà hôm nay thân con phải chịu khổ? Muốn chết cũng không được, còn sống thì cơm không có ăn, áo không có mặc. Không biết con tạo nhân là gì mà hôm nay con phải chịu khổ như thế? Xin đức Thế Tôn từ bi chỉ dạy cho con.

Phật dạy:

-Vào thời quá khứ xa xưa, có một thái tử lòng rất tham lam keo kiết, không biết bố thí là gì. Thái tử chỉ mong lấy của người khác, làm cho những người mất của khổ đau không ít. Nhà vua lại cưng chiều ông nên ông tha hồ tác oai tác quái với dân chúng. Có một vị tỳ kheo thiếu y đến xin ông một cái y. Ông đã không cho mà còn bắt nhốt thầy và bỏ thầy đói đến bốn, năm ngày. Ông quan đại thần biết được khuyên ông thả ra, ông nghe theo thả ra. Thầy tỳ kheo đi vào rừng bị một bọn cướp bắt thầy, muốn đem tế trời.  Thái tử nghe được, cho quân lính đến giải cứu, thả ra.

Phật kết luận: Tiền thân của ông lão là thái tử keo kiệt độc ác, nên nhiều kiếp phải nghèo khổ đói rách. Cho đến kiếp này, cơm áo cũng không đủ ăn mặc. Nhờ ông phát tâm cứu sống vị tỳ kheo nên được mạnh khỏe, sống lâu. Vị tỳ kheo là tiền thân Bồ Tát Di Lặc.

Ông nghe xong, xin sám hối tội lỗi xưa và xin xuất gia tu đạo giải thoát. Phật gọi:

– Thiện lai tỳ kheo!

Thì ông đủ tướng tỳ kheo. Nhờ gặp Phật mà ông thoát được quả báo nghèo đói.

Kinh dạy:

Giả sử trăm ngàn kiếp

Nghiệp đã tạo không mất.

Khi nhân duyên hội đủ

Quả báo trở lại tự chịu.

(Góp nhặt lá Bồ Đề – Tác giả: Thích Tịnh Nghiêm)

Nhân quả báo ứng do tham lam gây ra

Lòng tham lam của con người sẽ khiến họ trở nên vô đạo đức và thậm chí gây nghiệp báo nặng, phải trả nghiệp theo luật nhân quả báo ứng. Nhân quả báo ứng đối với người tham lam của người khác không hề nhẹ, câu chuyện dưới đây sẽ chứng minh điều này.

Có một chủ tiệm kim hoàn thời nhà Minh vốn nổi tiếng gọt giũa các loại đá quý báu. Một ngày nọ có người mang viên đá tới và nói rằng trong đó là viên ngọc quý, nhờ chủ tiệm giúp mình gỡ viên ngọc quý ra mà không để nó bị rạn, vỡ. Chủ tiệm nhận đá, tối đó làm luôn và quả thật thảy ra 1 viên hồng ngọc sáng rực rỡ to bằng quả trứng vịt. Chủ tiệm chưa từng thấy viên ngọc nào đẹp như thế, vợ ông nhìn vậy nổi lòng tham và bảo chồng đánh tráo.

Chủ tiệm ban đầu không đồng ý, nhưng sau nhìn viên ngọc lấp lánh quá đẹp khiến ông xiêu lòng, bèn tìm viên khác kém đẹp hơn thế vào. Hôm sau khách tới hỏi về thành phẩm ngọc quý và nhận được viên ngọc khác. Khách không nghi ngờ gì cám ơn và trả tiền công.

Thời gian trôi đi, viên hồng ngọc vẫn nằm ở nơi cất giữ bí mật của chủ tiệm, hai vợ chồng thỉnh thoảng đem ra ngắm nghía, hoan hỉ. Lại nói chuyện chẳng bao lâu sau vợ chủ tiệm mang thai và sinh quý tử. Tuy nhiên con trai duy nhất của họ không nói không cười, mặt mày ủ rũ, cha mẹ có làm gì đi nữa cũng vô dụng.

Một ngày nọ chủ tiệm đi vắng, vợ trông con ngẫm thấy buồn vì con trai không giống ai, bỗng dưng nghĩ tới viên ngọc quý, liền bế con vào mật thất, tính đem ra dỗ xem có tác dụng gì không. Đứa trẻ nhìn thấy viên hồng ngọc bỗng linh hoạt hẳn, cười nói vui vẻ và đột nhiên dang tay chộp lấy viên hồng ngọc và nhảy khỏi lòng mẹ chạy ra ngoài. Người mẹ bất ngờ không kịp trở tay vội chạy theo con trai, ra tới cửa thấy có sai nha tới bắt giam lập tức, chỉ kịp nhìn thấy con trai mình tự dưng lăn ra đất tắt thở. Hóa ra viên hồng ngọc này chính là thuộc về quan tri phủ, hôm đó sai đầy tớ tới tiệm để gọt giũa mang về, nào ngờ bị chủ tiệm đánh tráo. Đầy tớ đó bị xử tội chết vì dối lừa quan trên, sau đầu thai làm con trai của vợ chồng chủ tiệm để đòi ngọc mang về minh oan cho mình, khi xong việc rồi tự động rời thế gian.

Vợ chồng chủ tiệm sau đó khai nhận hết tội và chịu hình phạt đi đày vì lừa gạt. Lòng tham của con người là một tội ác, nhiều khi đẩy người khác vào cảnh khốn cùng hoặc thậm chí cửa tử, chắc chắn sớm muộn sẽ bị báo ứng.

(Biên dịch từ SecretChina)

Người bán ghè nước

Hai người cùng buôn ghè nước ở thành Xá Vệ. Một người tên Nhân và một người tên Kiệt. Nhân tánh tình cởi mở, hòa ái và chân thật, nên được lòng khách hàng, việc buôn bán của anh cũng mau lẹ và phát đạt. Kiệt tánh tình keo kiết, nóng nảy, thô lỗ và gian xảo, dễ mất lòng khách hàng, việc buôn bán của anh thường gặp nhiều trở ngại.

Một hôm, hai người cùng vào thành phố bán ghè nước. Từ khu họ ở đến thành phố phải vượt qua một con sông. Họ thường rời nhà vào lúc tờ mờ sáng và đến chiều tối mịt mới trở về. Họ cùng thỏa thuận với nhau khi đến thành phố, mỗi người đi một đường. Họ cũng thỏa thuận với nhau nếu ai đi vào một con đường rồi mà bỏ đi thì người kia có quyền đi vào con đường ấy.
Kiệt vừa đi vừa rao:

– Ghè nước đây! Ai mua ghè nước không?

Có một gia đình triệu phú làm nghề đánh cá, bao nhiêu tài sản đầu tư cho con tàu, không may đi ra biển bị bão đắm tàu, toàn bộ người chết hết và tài sản cũng tiêu tan. Còn lại hai bà cháu ở nhà nên sống sót. Gia đình rơi vào cảnh túng thiếu, bà và đứa cháu gái phải đi làm mướn để kiếm sống qua ngày.

Trong nhà, có một cái bát mẻ bằng vàng mà người triệu phú dùng để ăn cơm, do ông chết bất ngờ nên hai bà cháu không biết cái bát mẻ đó là bằng vàng, vì toàn bộ chén bát trong nhà đều màu vàng. Hiện nó nằm lẫn lộn trong đống bát. Bé gái thấy người bán ghè nước đi qua nhà, liền nói với bà nội:

– Nội ơi, nội cho con món gì để đổi lấy ghè nước!

Bà nội thở dài:

– Nhà ta hiện giờ xác xơ, còn cái gì để bán nữa đâu cháu.

Thấy cái bát mẻ nằm trong đống bát.

Đứa cháu liền nói:

– Nội cho con cái bát mẻ này để đổi lấy ghè nước nha?

– Ờ được, con gọi cậu ta vào.

Đứa cháu gái chạy ra cửa gọi anh bán ghè vào:

– Thưa chú, cháu có cái bát mẻ này, xin chú đổi cho cháu một ghè nước!
Cầm cái bát mẻ, anh Kiệt nhìn kỹ và phát hiện ra đó là bát bằng vàng thật. Do lòng tham không đáy, muốn chiếm không của người, anh nói:

– Ôi, cái bát mẻ này không đáng nửa xu nữa. Có bỏ vào thùng rác cũng chẳng ai thèm lượm!

Anh bán ghè giả vờ quẳng bát xuống đất rồi bỏ đi. Anh nghĩ là bà cụ và cô bé không biết đó là bát vàng và sẽ bỏ vào thùng rác. Anh dự định đi một lát rồi quay trở lại để lượm và sẽ trở thành nhà triệu phú. Anh vừa đi khỏi con đường đó thì Nhân đi vào. Anh rao:

– Ai mua ghè nước không?

Đứa bé gái nghe có người khác rao liền chạy ra gọi. Nhân vào nhà. Khi nhìn cái bát, Nhân nhận ra ngay là đồ quý.

– Thưa cụ, cái bát này bằng vàng trị giá 1 triệu đồng.

Bà cụ mừng quá:

– Vậy mà hồi nãy, anh kia nói không đáng giá nửa xu.

– Thưa cụ, hiện con không đủ tiền, con xin tạm ứng cho cụ 500 ngàn đồng và một số hàng hóa ghè nước. Ngày mai, con sẽ trở lại đưa nốt số tiền cho cụ!

Nhìn anh Nhân gương mặt phúc hậu, hiền lành, thật thà, bà cụ đồng ý ngay. Nhân đưa tiền cho bà và nhận bát vàng, rồi trở ra bờ sông để về nhà.
Kiệt trở lại nhà bà cụ và cô bé, hy vọng tìm thấy cái bát vàng trong thùng rác trước cửa nhà, nhưng tìm mãi mà không thấy, anh liền vào nhà nói:

– Đem cái bát mẻ ra đây, ta đổi cho một ghè nước!
Bà cụ chỉ tay vào mặt anh rồi nói:

– Tên dối trá kia! Cái bát mẻ không đáng nửa xu mi còn đến đây làm gì? Bà đã bán cho người bạn của mi rồi!

Bị mất một món hàng béo bở, anh ta tức giận la lên:

– Đồ thằng ăn cướp! Dám phổng tay trên của tao! Đồ ăn cướp! Hãy trả lại cho tao!

Anh giận tức la lối, phóng ra khỏi nhà như kẻ điên, vừa chạy vừa la:

– Trả lại tao! Đồ ăn cướp!

Anh chạy ra tận bờ sông. Thấy chiếc thuyền của Nhân đã đi gần tới bờ bên kia, anh gào hét chửi bới. Vì quá tức giận nên anh hộc máu tươi, ngã lăn xuống đất chết.

(Phỏng tác theo Tiểu Bộ Kinh-H.T Minh Châu dịch-

Lành Dữ Nghiệp Báo – Tác giả: Thích Chân Tính)

Tham lam, buôn gian bán lận thì sẽ mất hết tất cả

Ngu Phù là người bán sơn thuộc nước Việt thời Xuân Thu, cùng thời với Kế Nhiên và Phạm Lãi, không cam chịu sống đời nghèo khổ, nhìn thấy bạn bè nhờ buôn bán mà trở nên giàu có, nên cũng nóng lòng muốn thử buôn bán.

Đầu tiên ông tìm đến Kế Nhiên để thỉnh giáo cách làm giàu, Kế Nhiên nói với Ngu Phù:

– Hiện nay con đường buôn bán sơn rất tốt, sao anh lại không trồng một ít cây sơn để lấy sơn mà đi bán?

Ngu Phù nghe xong trong lòng vui mừng, liền hỏi Kế Nhiên về kỹ thuật trồng sơn, Kế Nhiên tận tâm chỉ bảo. Sau khi trở về nhà, Ngu Phù thức khuya dậy sớm cần cù làm việc, cuối cùng đã khai khẩn được một vườn sơn với quy mô rất lớn.

Sau ba năm cây sơn đã to lớn, Ngu Phù vô cùng vui mừng. Bởi vì nếu có thể lấy được hàng trăm thùng sơn thì đã có thể kiếm được rất nhiều tiền. Thế rồi Ngu Phù chuẩn bị chuyển những thùng sơn lấy được đến nước Ngô để bán, đúng lúc đó có anh vợ đến thăm và nói với Ngu Phù:

– Anh thường đến nước Ngô buôn bán, nên biết được ở đó người ta bán sơn thế nào, nếu làm tốt thì có thể có lãi gấp mấy lần đấy!

Ngu Phù nóng lòng phát tài, lại hỏi làm thế nào mới kiếm được nhiều tiền hơn, anh vợ Ngu Phù nói:

– Ở nước Ngô, sơn bán rất dễ, ta nhìn thấy không ít người nấu lá cây sơn thành cao, rồi dùng cao đó trộn vào sơn để bán, như thế có thể lãi được gấp mấy lần đấy, mà người nước Ngô lại không phát hiện được.

Ngu Phù nghe xong, ngày đêm nhặt lá sơn để nấu cao, xong rồi vận chuyển cao và sơn đến nước Ngô.

Khi đó bởi vì quan hệ nước Ngô và nước Việt vô cùng căng thẳng, không buôn bán qua lại được, nên sơn ở nước Ngô vô cùng hiếm. Lái buôn sơn ở nước Ngô nghe nói Ngu Phù mang sơn đến bán, họ vui mừng không ngớt, còn chạy cả ra ngoài thành để đón Ngu Phù, lại còn sắp xếp chỗ ăn chỗ ở cho anh. Ở chỗ trọ, các lái buôn sơn nước Ngô vừa nhìn thấy sơn của Ngu Phù đúng là loại tốt, bèn thương lượng về giá cả, xong rồi dán niêm phong và hẹn ngày mai đến giao tiền rồi lấy sơn.

Đợi những người buôn sơn rời khỏi, Ngu Phù bèn dỡ niêm phong, suốt đêm anh đổ cao sơn nấu sẵn vào trộn lẫn với sơn. Không ngờ do bận tay bận chân, nên vẫn để lại dấu vết. Hôm sau, các lái buôn đến như đã hẹn, họ phát hiện niêm phong trên thùng sơn có dấu vết bị bóc, nên họ nghi ngờ, rồi mượn cớ không đưa tiền và nói vài ngày nữa sẽ quay lại.

Ngu Phù ở trong quán trọ đợi mấy ngày cũng chẳng thấy mặt mũi những người buôn sơn đâu. Thời gian kéo dài, cao sơn bị trộn lẫn trong thùng sơn biến chất và hỏng. Kết quả, Ngu Phù không bán được ít sơn nào, cuối cùng phải đổ đi hết. Người buôn sơn nước Ngô nghe tin xong, đều phê bình:

Người làm buôn bán cần phải thành thật, chất lượng hàng hóa không thể lừa người được, hôm nay anh bị thế này, có ai lại thương hại anh chứ?

Ngu Phù không còn tiền để về nước, đành ở nước Ngô xin ăn, lại thường bị người ta chế giễu, cuối cùng chán nản vì khốn khó mà chết nơi đất khách quê người.

(Theo chanhkien.org)

Tham y hóa rận

Thuở Phật còn tại thế, ở vườn Cấp Cô Ðộc, có một vị tân Tỳ kheo được cúng một bộ y lụa tuyệt đẹp. Thầy mân mê bộ y không rời, tối dùng làm gối ngủ.

Ðêm ấy rủi  thay thầy bị trúng gió nặng, cấm khẩu, các vị đồng phạm hạnh tìm đủ cách cứu chữa, nào cạo gió, nào thoa bóp dầu nóng, … song đều vô hiệu. Thầy trút hơi thở cuối cùng. Vì tâm thức cuối cùng của thầy là ham thích bộ y mới, nên khi thoát xác, thần thức thầy thác sanh vào loài rận, làm một con rận đeo cứng vào bộ y lụa. Con rận khôn ngoan chui tuốt vào cái giải “Bần bà” (Tương truyền, khi nhiều người cúng vải để may y cho Phật, cái y sắp xong thì có một bà nghèo tới cúng một mảnh vải. Ðức Thế Tôn thương xót nhận của hiến cúng muộn màng để gieo phước cho bà, và bảo thị giả A Nan may vào hai góc y. Do đó sợi dây buộc y ngày nay có tên là “bần bà” để nhớ đến bà già nghèo khó đã cúng dường mảnh vải cho Phật.) để mọi người khỏi thấy.

Sau khi vị Tỳ kheo qua đời, y lệ nhà chùa chúng Tăng chia đều nhau cái tài sản nhỏ bé của thầy, trong đó có bộ y. Với Phật nhãn Đức Thế Tôn rõ biết vị Tỳ kheo đã hóa làm con rận đang ôm giữ chiếc y nên Ngài bảo đại chúng:

– Các ông có “quân Tăng” (chia đều cho Tăng chúng) tài sản của tân Tỳ kheo ấy, thì hãy chừa bộ y lại, để tuần sau hãy cắt chia.

Các Tỳ kheo không hiểu vì sao Thế Tôn bảo chừa bộ y, nhưng không dám trái mệnh bèn đem bộ y ấy xếp để một nơi. Vừa khi bộ y bị dời chỗ, con rận đã cuống cuồn lên, la lối om sòm:

– Trời đất quỷ thần ơi! Người ta cướp giựt của tôi bộ y nè! Ai cứu cho với! Bộ y này là của tôi, không phải của các người! Các người toan mang nó đi đâu, bớ làng nước ơi! Quân cướp giựt!

Con rận la khan cả cổ họng mà nào ai có hay! Có chăng chỉ đức Từ Phụ thần thông quảng đại thấy nghe được nỗi khổ đau của nó. Trong tuyệt vọng con rận chạy quanh cái giải bần bà để cầu cứu lính tuần đến bắt cướp, đã cướp cái y của nó. Chạy rã giò chẳng có ma nào đến cứu, người ta vẫn ngang nhiên nhấc bổng bộ y mang theo khổ chủ không biết đi đâu. Ðức Phật thương xót gọi thị giả A Nan đang ôm bộ y để cất vào tủ:

– Con hãy đem bộ y vào trong tịnh thất của ta.

Tôn giả A Nan vâng lệnh. Ðức Thế Tôn đến bên bộ y, thuyết pháp cho rận nhớ tiền kiếp của mình:

– Này rận, con vốn là một Tỳ kheo vừa thọ giới. Cái y này là của thí chủ cúng cho con. Con đã quên quán sát rằng: “Không có gì là ta, không có cái gì là của ta. Cái này không phải là ta, cái này không phải là của ta, cái này không phải tự ngã của ta”. Vì một chút bất giác cận tử nghiệp (nghiệp xảy ra lúc lâm chung) đã khiến con phải sa đọa vào loài súc sanh. Con hãy tịnh tâm nhớ lại tiền kiếp. Ta là đức Như Lai, đang ở trước mặt con.

Do mãnh lực từ tâm nơi Phật, con rận thoạt nhớ lại kiếp vừa qua của mình, lòng trở nên nhẹ nhàng thanh thản. Rận nằm im bảy ngày không ăn rồi trút hơi cuối cùng. Thần thức rận thác sinh lên cõi trời Tứ Thiền nơi thác sinh của những vị Tỳ kheo siêng tu thiền định.

Khi rận thoát xác, Đức Phật mới bảo Tôn giả A Nan đem bộ y cắt ra chia cho mỗi người một mảnh để làm khăn lau mặt. Các vị Tỳ kheo hỏi lý do vì sao Ngài đợi đến bảy ngày mới phân chia bộ y, đức Thế Tôn kể lại câu chuyện và dạy:

– Nếu các ông chia ngay lúc đó, con rận sẽ nổi sân và bị đọa vào loài quỷ. Nay nhờ nghe pháp, nhờ thần lực của Như Lai, lại nhờ bản thân đã từng tu hành thanh tịnh, mà vị Tỳ kheo hóa rận ấy đã được sanh lên cõi trời.

Các vị Tỳ kheo nghe xong, ai nấy toát mồ hôi hột, ngán ngẫm cho cái “cận tử nghiệp” ác ôn kia. Sợ thay, mà lại mừng thầm cho ai!

(Truyện cổ Phật giáo tập 3
Tác giả : Thích Minh Chiếu sưu tầm)

 

Đầu thai làm chó vì khi chết tham tiếc tiền của

Tiền của là vật ngoại thân, đến khi chết đi cũng chẳng mang theo được gì. Nhưng có nhiều người vẫn không nhận ra điều này mà luôn tham tiếc, cho dù có rời bỏ thế gian này cũng lưu luyến không buông bỏ được. Câu chuyện luân hồi dưới đây là một lời cảnh tỉnh sâu sắc cho chúng ta về điều này.

Ở huyện Nghi Phong, vùng Giang Tây có một chàng trai tên Trâu Sinh, trong nhà có nuôi một con chó, trông rất hiền lành. Mỗi lần thấy chủ nhân đi đâu về nhà, không kể gần xa, con chó này đều sẽ vẫy đuôi nhảy nhót vui mừng, tỏ vẻ nghênh đón chủ nhân trở về.

Có một năm, Trâu Sinh vì thiếu tiền thuế đất nên bị bắt giam trong nhà ngục, hơn mười ngày sau mới được phóng thích về nhà. Vừa về đến nhà, con chó thấy chủ nhân trở về, vô cùng mừng rỡ chạy ra đón, trong lúc vô ý móng vuốt đã cào rách áo của chủ nhân. Trâu Sinh cho rằng bản thân vừa mới ra khỏi nhà ngục lại bị chó cào rách quần áo, rất là không may, bèn nói với vợ rằng:

– Anh vừa mới ra khỏi ngục mà đã gặp phải chuyện như vậy, thật là xui xẻo! Bây giờ chùa Liêu Sơn đang xây dựng miếu thờ, anh muốn đi thăm hỏi những người thợ thi công, làm chút việc thiện; có thể làm thịt con chó này, rồi thêm năm đấu bột mì, cùng mang đi.

Người vợ liền làm theo theo ý của Trâu Sinh. Ngày hôm sau, Trâu Sinh mang theo cái hộp lớn, bên trong đựng thịt chó và bột mì, đưa đến tự viện. Vừa đến cổng chùa, thì có một vị hòa thượng phụ trách quản lý các việc trong chùa nghênh đón trước cổng. Hòa thượng nói:

– Không cần phải mở hộp ra, thí chủ là đưa thịt chó và bột mì đến phải không?

Trâu Sinh nghe xong vô cùng kinh ngạc, hỏi hòa thượng sao lại biết được? Hòa thượng trả lời:

– Thí chủ thường hay đến chùa chúng tôi bố thí tài vật. Chuyện hôm nay, bần tăng nói ra trong lòng thật không nỡ; nhưng nếu không nói, lại cô phụ trọng thác của người khác. Vẫn là nên nói vậy: Buổi tối hôm qua, bần tăng mơ thấy cha của cậu, ông ấy nói với bần tăng rằng: “Bản thân tôi vốn có thể được siêu sinh lên cõi trời trong tam giới, chỉ vì tham tiếc tiền của và lưu luyến gia đình, bèn chuyển sinh thành một con chó trong nhà mình. Vậy nên, bình thường nhìn thấy con trai của mình từ bên ngoài trở về, đều sẽ chạy ra nghênh đón. Hôm nay không may đã cào rách áo của con tôi, vợ chồng nó đã giết chết tôi, sung làm lễ vật mang đến chùa thăm hỏi công nhân. Tôi vì vậy được thoát khỏi đường súc sanh mà cảm thấy vui mừng; nhưng nếu có thể miễn trừ cái khổ bị giết mổ, nấu hầm thì tôi càng cảm kích hậu ân của ngài rất nhiều. Thêm nữa, khi tôi còn sống, bao nhiêu của cải dành dụm được đều chôn dưới đất bên ngoài cái bếp lò, bởi sợ bị người khác lấy mất, vậy nên từ sau khi chuyển sinh thành chó cho đến nay, thường hay ngủ ở nơi chôn giấu số của cải đó. Bây giờ mong đại sư hãy nói lại cho con trai tôi biết, đào số của cải đó lên, một phần dùng vào Phật sự để siêu độ cho tôi được thăng thiên; phần còn lại đủ cho vợ chồng nó sống dư dả một thời gian”.

Trâu Sinh nghe xong những lời này, trong lòng vô cùng đau đớn. Thế là, anh đem thịt chó trong hộp chôn cất ở một nơi đất trống trong chùa. Sau khi về nhà, ở nơi mà cha anh nói trong mộng quả nhiên đã đào được một số bạc lớn. Và dựa theo yêu cầu của cha, anh lên chùa làm một đàn tràng, thỉnh mời hòa thượng tụng kinh, siêu độ vong linh cho cha mình

(Nguồn : ifuture.vn)

Xưa kia có một trào vua nọ

Có một ông quan võ bất lương.

Mỗi lần đi đến thôn hương

Bắt dân làng phải nộp lương, nộp tiền.

Bò heo có, phải khiêng đến nạp

Có gái xinh, phải dắt tới hầu.

Bắt dân làm việc ngựa trâu

Lớp thì bị giết, bị tù thảm thương.

Gặp già cả, không nhường, không nể

Thấy tăng sư, chẳng lễ, chẳng chào.

Rất là ngạo mạn, tự cao

Không tin quả báo, chẳng nao tuần huờn.

Một hôm nọ, sau cơn yến tiệc

Bổng nhiên ông thổ huyết chết đi

Sanh làm ngạ quỷ tức thì

Mặt mày xấu xí dị kỳ hình dung.

Cổ quá nhỏ, vật không nuốt chạy

Bụng thì to bằng cái bụng trâu.

Ngày đêm đói khát buồn rầu

Vất vơ chẳng có chổ nào ẩn thân.

Cơm vừa đút tới mồm thành lửa

Nước ngậm vào miệng hóa dầu sôi.

Làm cho phỏng lưởi cháy môi

Chịu điều đau nhức tanh hôi suốt đời.

Trả quả lúc làm người tiền kiếp

Nhưng thường không được biết tỉnh ra.

Ôm lòng oán hận sâu xa

Càng làm cho kiếp quỷ ma kéo dài.

Con ơi! Lấy chuyện này để biết

Những hành tung tiền kiếp mất đâu.

Làm cho thiên hạ đau sầu

Là gây hậu quả độc sâu cho mình.

Quan ấy lúc sanh binh oai khí

Khi thác rồi làm quỷ đói đau.

Người đời thử nghĩ thế nào

Có nên ham thứ hùng hào ấy không?

Chỉ một lúc thỏa lòng ham hố

Mà để cho đau khổ muôn đời.

Là điều nên nhịn con ơi

Ăn quen khó nhịn, nhịn thời cũng quen.

Có quả báo, nên khuyên hướng thiện,

Không đáo đầu ai khuyến trừ tà.

Chết rồi tội mới thấy ra

Chừng ni có hối cũng là muộn thay.

(Duy Nhất cư sĩ)

Bán ruộng cứu người được làm quan thượng thư

Triều đại nhà Minh có một tú tài người huyện Lâm Hải, tỉnh Triết Giang, tên là Ưng Chí Nhân. Vào lúc nửa đêm, trong khi anh ta đang ngồi đọc sách, bỗng nghe bên ngoài cửa sổ có hai con quỷ nữ nói chuyện với nhau. Trong đó có một con nói rằng:

– Nhà họ Châu ở phố trước có một nàng dâu, nhân vì người chồng đi xa đã 5 năm mà vẫn chưa về nên nàng bị bố chồng ép phải tái giá. Vì vậy, 10 ngày sau cô ta sẽ treo cổ tự tử. Tôi sẽ đến đó dẫn oan hồn của cô ta đi.

Ưng tú tài tuy không tin, nhưng khi tìm hiểu liền thấy phù hợp với sự thật. Anh ta liền bán số ruộng của mình được 10 lạng bạc, lại viết thêm một bức thư đem qua đưa cho nhà họ Châu bảo là của người con gởi về. Ông bố thấy số bạc và lá thư tin là của con mình nên không còn ép nàng dâu tái giá nữa. Sau hơn một năm thì con trai ông ta trở về thật.

Ưng tú tài là người có lòng nhân hậu nên đã cứu sống được một mạng người. Nhờ phước đức này mà về sau anh ta được nhà vua phong cho làm quan đến chức thượng thư.

Vậy kính khuyên mọi người chớ nên cho rằng hoạ phước là không có chứng cứ. Ưng tú tài mới làm một việc thiện mà đã cảm được phước báo như thế huống hồ là người hay làm thiện. Nên biết rằng mình làm thiện tất sẽ được trời cao ban phước.

(Nguồn : rongmotamhon)

Trả lại trâm vàng, cứu được hai người

Vào đời nhà Minh, có một thư sinh người ở Tô Châu tên là La Luân. Một hôm, anh ta cưỡi ngựa và dẫn theo một tiểu đồng cùng lên Nam Kinh dự thi. Trên đường đi, tiểu đồng cười nói rằng:

– Hôm qua thật là vận may, con đã nhặt được chiếc trâm vàng ở trong rãnh nước trước nhà người kia.

Sau khi La Luân hỏi rõ sự việc, lập tức lấy chiếc trâm vàng cưỡi ngựa quay trở lại để trả cho người bị mất. Khi đến nơi thì trời đã tối, từ ngoài đã nghe trong nhà có tiếng nhiều người khóc lóc. Đứa tớ gái vừa khóc vừa nói:

– Con không có lấy chiếc trâm vàng đó.

Cô ta muốn nhảy xuống giếng tự tử để chứng minh sự trong sạch của mình. Bà chủ cũng khóc lóc mà bảo:

– Tôi không có dính líu trong vụ mất cắp này.

Rồi bà cũng đòi treo cổ tự tử để chứng minh mình vô tội. Sau đó, La Luân nghe tiếng đánh đập, chửi rủa của một người đàn ông nên liền lớn tiếng kêu cửa. Người đàn ông ấy liền mở cửa bước ra. La Luân kể rõ cho ông ta nghe việc tiểu đồng của mình bắt được chiếc trâm trong rãnh nước. Người chủ bây giờ mới vỡ lẽ mọi chuyện và ăn năn nói rằng:

– Cám ơn công tử đã kịp thời quay lại, nhờ vậy mà tánh mạng của vợ tôi và đứa hầu gái mới được bảo toàn.

Hoá ra chiếc trâm bị rơi vào bồn rửa rồi theo dòng nước chảy đến bờ rãnh và tiểu đồng nhân đó lượm được. Do đó nên mới tạo ra sự nghi ngờ và hiểu lầm.

Sau đó La Luân tiếp tục đến Nam Kinh dự thi và đã đậu trạng nguyên. Anh ta nhờ trả lại trâm vàng mà cứu được hai mạng người nên phước báo rất lớn. Đây quả là một sự khích lệ lớn lao cho những ai đã và đang làm việc thiện vậy.

(Nguồn: rongmotamhon)

Gương sáng diệt Tham

Tháng 9 năm 2013, Glen James, một người vô gia cư (ăn xin), sống tại một nơi cư trú dành cho người không nhà ở Boston. Ông bất ngờ kiếm thấy một cái ba lô ai bỏ quên trong một thương xá. Ông vẫy tay chặn một viên cảnh sát lại và trao cái ba lô lượm được cho viên cảnh sát. Cái ba lô trong đó có chứa $2,400 tiền Mỹ và gần 40,000 chi phiếu du lịch (traveler’s check) cùng với sổ thông hành và một số giấy tờ cá nhân khác.

Một người vô gia cư ở Mỹ đã được khen ngợi vì tấm lòng thật thà, lương thiện sau khi trả lại 42.000 USD (khoảng 893 triệu VND) cho người đánh rơi.

James làm tùy phái tại một tòa án, vô gia cư từ năm 2005 sau khi bị mất việc. Ông bị bệnh trong lỗ tai, luôn gây ra chóng mặt nên không kiếm được việc làm nào khác. Ông sống bằng phiếu trợ giúp thực phẩm và xin tiền các người qua lại trên đường phố.

Về phần người mất của là một sinh viên người Trung Hoa. Anh đem chuyện sui sẻo của mình kể lể cho những nhân viên trong một cửa tiệm nghe. Những người này bèn giúp gọi báo cho cảnh sát. Cảnh sát kiểm tra thấy đúng nên trao trả chiếc ba lô cho khổ chủ.

Cảnh sát Boston tổ chức một buổi lễ tuyên dương James và trao bằng khen. Nhân dịp này James nói là mình cảm thấy rất thoải mái khi làm việc đó và cũng gửi lời nhắn cám ơn đến tất cả những khách bộ hành lạ mặt đã từng cho ông tiền khi ông ngồi trên đường phố trong thời gian qua. James thổ lộ là ông không nói nhiều vì bị “cà lăm” nên trao cho cảnh sát một tờ giấy trong đó viết là “dù ông có quá nghèo chăng nữa ông cũng không muốn giữ lại một xu nào của người khác khi tìm thấy…” James đầu hói, đeo kính, người nhỏ nhắn tỏ ra thân mật nhưng e thẹn. Khoảng trên 50 tuổi. Nói về chuyện trả lại chiếc túi, Glen James cho biết đó là điều không chỉ ông mà mọi người nên làm.

Sau khi nghe câu chuyện của Glen James, anh Ethan Whittington, 27 tuổi, làm giám đốc kế toán cho một cơ sở tiếp thị ở bang Virginia tỏ ra thán phục sự lương thiện này đã mở một trang web có tên gọi “GoFundMe” để kêu gọi mọi người ủng hộ James vượt qua khó khăn. Whittington chưa từng gặp mặt ông James mà hai người chỉ nói chuyện qua điện thoại.

– Tôi muốn giúp đỡ ông ấy. James là chính là nguồn cảm hứng thúc đẩy tôi làm việc này, Whittington cho biết.

Với ý nghĩ James đã hoàn trả $40.000 thì đáng được quyên tới $50.000. Kết quả tốt không ngờ. Chỉ trong một ngày đầu mà đã thu được hơn số tiền này.

Sau đó trong 2 ngày quyên được hơn $100,000. Hơn 4,000 người gửi tặng. Sau 2 tuần lễ tiền quyên tặng đã lên tới hơn $150,000. Hơn 6,000 người tặng. Cả ở Mỹ lẫn các nước khác như Ba Tây, Pháp và Úc v.v… Người ta tặng cả máy vi tính, quần áo, thực phẩm v.v… Anh Whittington nâng mục tiêu lên, hy vọng đạt tới $250,000 để ông James có thể mua được một căn nhà làm nơi cư trú.

Chia sẻ với tờ Media, anh Whittington cho biết thêm: “Tôi thấy câu chuyện của James thực sự rất cảm động. James đã mang lại niềm hi vọng cho con người và chính ông ấy đã cho chúng ta biết không phải tất cả mọi thứ trên trái đất này đều xấu”.

*Nhân dịp này mọi người lại nhớ tới chuyện của một ông vô gia cư khác nữa, xảy ra khoảng hơn nửa năm trước, đó là ông Billy Ray Harris. Một người ăn xin vô gia cư gây xôn xao nước Mỹ khi trả lại chiếc nhẫn kim cương cho một phụ nữ vô tình đánh rơi trong chiếc cốc xin tiền của ông.

Vào tháng 2 năm 2013, tại Kansas City, Mo., cô Sarah Darling đi trên đường, có lòng tốt nên bỏ ít tiền lẻ vào trong chiếc ly để biếu cho một người “ăn mày vô gia cư” ngồi ăn xin bên lề đường tên là Harris, 55 tuổi. Ông này thường ngủ dưới gầm một cây cầu.

Cô có hai chiếc nhẫn, một nhẫn đính hôn và một nhẫn cưới. Khi thò tay lấy một nắm tiền lẻ trong cái ví tiền này để bố thí cô đã vô tình bốc theo luôn cả chiếc nhẫn đính hôn bỏ vào trong ly của người ăn xin.

Khi cô đã đi rồi ông Harris mới khám phá ra chiếc nhẫn. Ông biết ngay là có sự lầm lẫn. Thoạt tiên ông có ý định muốn bán chiếc nhẫn đi. Ông mang tới một tiệm kim hoàn tại địa phương và được đề nghị trả $4,000. Nhưng sau khi suy nghĩ lại thời ông giữ chiếc nhẫn này kỹ càng, không bán nữa, chờ chủ nhân trở lại. Quả nhiên  khi cô quay lại ông đã vui vẻ hoàn trả ngay chiếc nhẫn. Không ngờ đây lại là một quyết định làm thay đổi cả cuộc đời ông về sau này.

Ông kể lại:

-Chiếc nhẫn lớn đến mức tôi nghĩ rằng nếu nó là kim cương thật thì chắc phải đắt đỏ lắm.

Về phía Darling, cô cho hay mình tháo chiếc nhẫn ra và để vào túi xách vì nó hơi vướng víu. Cho đến hôm sau cô mới phát hiện ra mình bị mất nhẫn và rất buồn rầu vì đó là chiếc nhẫn có ý nghĩa quan trọng đối với cô.

Darling liền quay lại chỗ ông Billy và hỏi xem ông có thấy cô có đánh rơi thứ gì có giá trị ở đây không. Ông Billy lập tức đưa chiếc nhẫn kim cương ra và trả nó lại cho Darling.

Darling nói: “Cứ như là một phép màu vậy. Tôi cứ đinh ninh rằng tôi chẳng thể nào tìm lại được chiếc nhẫn nữa”… “Tôi nghĩ trong cuộc sống chúng ta thường chỉ hay nghĩ đến trường hợp xấu nhất nhưng rồi sẽ có lúc bạn nhận ra rằng xung quanh mình vẫn còn rất nhiều người lương thiện”.

Bất ngờ vì tìm lại được chiếc nhẫn, Darling chỉ kịp móc hết số tiền có trong túi ra đưa cho ông Billy như một lời cảm ơn. Chồng của Darling, Bill Krejci cho biết:

-Khoảng 40-60 USD gì đó thôi, vì chúng tôi không mang theo nhiều tiền lúc đó.

Một người bạn của cô Sarah kể chuyện này cho một phóng viên đài tin tức ở địa phương. Thế là câu chuyện được phóng lên khắp nơi. Bill, chồng cô Sarah cảm động về sự thật thà và tử tế của Harris nên thiết lập ngay một cuộc quyên tiền cho Harris trong 90 ngày trên internet. Mong quyên được $4,000. Không ngờ là Harris nhận được hơn $190,000 sau 3 tháng quyên góp.

Khi hay biết hành động không tham lam của Harris và lòng biết ơn của vợ chồng cô Sarah nhiều người lạ tìm tới Harris để khen ngợi và biếu đồ ăn. Một người viết: “Thật là quý hóa khi thấy sự thật thà vẫn còn tồn tại mà ông Harris là một điển hình.” Người này tặng 25$. Một người khác tặng 100$ và viết thêm: “Mọi người trên khắp thế giới đều hoan nghênh!” Những món tiền tặng  nhiều ít khác nhau – hơn 8,000 khoản – đến từ khắp nơi trên đất Mỹ, lẫn Đức, Thụy Điển, Úc, Ái Nhĩ Lan và các quốc gia khác. Thêm vào những lời chúc mừng và khen ngợi, một vài người tặng tiền cũng nói sẵn sàng giúp đỡ thêm cho Harris để quản lý số tiền nhận được. Harris nhận được 758 cái ôm quý hóa (hugs) của khách qua đường.

Chính Harris thì tỏ ra sửng sốt vô cùng và nói trong một cuộc phỏng vấn rằng không ngờ cả thế giới lại quan tâm như thế đối với một người hoàn trả lại một thứ gì đó không thuộc quyền sở hữu của mình. Harris nói: “Tôi không phải là thánh nhưng cũng chẳng phải là quỷ.” Harris nay có một xe hơi và có tiền đặt cọc để mua một căn nhà. Ông dự định mở một công ty sơn nhà cửa.

Một điều không ngờ khác là nhân dịp này Harris trở nên nổi tiếng và sau khi xuất hiện trên đài truyền hình, thì thân nhân ở phương trời xa nhận diện được ra ông và tìm cách báo tin. Ông có dịp đoàn tụ với các người em gái mình sau gần 16 năm mất liên lạc. Gia đình tưởng là Harris đã chết mất rồi.

(trích: nangluongcuocsong.com.vn)

 IX.- SÂN HẬN

Định nghĩa:

Ác thứ chín Hận sân luận tiếp,

Lửa trong tâm chẳng đốt mà lừng.

Nổi lôi đình đâu có định chừng,

Cho ta biết mà toan giữ trước.

Tánh sân nộ thường làm bạo-ngược,

Nên loài người ở cõi thế-gian.

Giận hờn nhau thù oán dẫy tràn,

Mới có cuộc tranh tài đấu lực.

Hơn tự đắc, khoe khoang dõng sức,

Phải bị người hềm khích ghét ganh.

Thua hổ ngươi làm chuyện bất lành,

Gây nghiệp dữ oan oan tương báo.

Trong cơn giận kể gì nhơn đạo,

Tỷ như con cọp dữ trên rừng.

Gặp thịt toan cấu xé tưng bừng,

Phân từ mảnh mới là thỏa dạ.

Diệt được nó tâm trần thong thả,

Ta thường nên tập tánh khoan-dung.

Thiệt hành đi đừng có ngại ngùng,

Tha thứ kẻ lỗi lầm ngu xuẩn.

Và nhẫn nhịn đừng ham tranh-luận,

Khỏi mất lòng tất cả mọi người.

Tánh thuần lương vẻ mặt vui tươi,

Vậy mới đáng tín đồ Phật Giáo.

Nay ta đã quy y cầu Đạo,

Gây gổ là trái thuyết từ bi.

(Khuyến thiện – Vô Danh cư sĩ)

Sân nộ.- Tánh nóng nảy thường xúi con người làm những chuyện bất công sái phép, chém giết oán thù nhau. Kẻ thắng kiêu hãnh, người bại hổ ngươi nên sự hiềm thù càng lan rộng. “Giận mất khôn”, cơn giận làm cho con người cuồng trí, mất sự tự chủ, trở nên dữ dằn bạo tợn, chẳng còn nghĩ đến việc công bình, lẽ phải trái.

Diệt được nó tâm ta được thảnh thơi, trí ta được thong thả. Hãy mở rộng lượng khoan hồng dung tha kẻ lầm lỗi. Hãy nhẫn nhịn và chẳng nên cãi cọ tranh luận hơn thua làm cho nảy sanh ra những điều hiềm khích.

(SGTVTB 2004, tr. 193)

Dẫn chứng:

Bảy lần báo oan

Thuở xưa vào thời chánh pháp của Đức Phật Thích Ca, có một vị trưởng giả giàu có. Vị này có hai người vợ, người vợ lớn không con, người vợ nhỏ sinh được một đứa con trai khôi ngô tuấn tú, cả  gia đình nhờ thế mà vui vẻ.

Khi ấy người vợ lớn sinh lòng sân hận, đố kỵ, luôn tìm cách để hại đứa bé con người vợ nhỏ, nhưng bên ngoài bà tỏ ra hết lòng thương yêu, chiều chuộng, không một chút ganh tỵ nào.

Một hôm người vợ nhỏ đi vắng, người vợ lớn lén lấy cái kim ghim vào đỉnh đầu đứa bé. Đứa bé từ ấy phát bệnh la khóc suốt ngày, bỏ ăn, bỏ uống, thân hình tiều tụy, qua bảy hôm thì chết. Trong nhà ai cũng sầu khổ. Người vợ lớn cũng tỏ ra đau đớn, tiếc thương. Còn người vợ nhỏ thì vật mình xuống đất, khóc than thảm thiết suốt cả ngày đêm. Nhưng cả nhà chẳng ai biết được vì sao đứa bé ấy chết. Về sau bà vợ nhỏ biết được do lòng ganh tỵ của người vợ lớn  và chính bà ấy giết. Bà vợ nhỏ lập tâm báo thù. Bà đến chùa hỏi các thầy tỳ kheo:

– Bạch đại đức, muốn toại nguyện lòng mong cầu, phải làm công đức gì?

Các thầy tỳ kheo đáp:

– Muồn toại nguyện lòng mong cầu thì phải thọ trì bát quan trai giới, điều cầu xin sẽ được như ý.

Nghe xong, bà xin thọ bát quan trai giới. Sau đó bảy ngày bà chết đầu thai làm con gái bà vợ lớn, thân tướng đẹp đẽ. Bà vợ lớn thương yêu, quí trọng hơn vàng, nhưng oan nghiệt thay, đứa bé ấy chỉ sống được một năm rồi chết khiến cho người mẹ khổ sở đau đớn khôn cùng, khóc lóc thảm thương, bỏ ăn quên ngủ. Oan oan tương báo như thế đến bảy lần, bà vợ lớn đoán biết đây là sự báo oán của  người vợ nhỏ.

Cho đến lần cuối cùng, bà vợ lớn sinh được một bé gái lại càng đẹp đẽ, thân thể đoan trang hơn mấy lần trước, nhưng lần này đứa bé sống được 14 tuổi, sắp có gia đình. Một hôm đang đêm nàng bước ra khỏi cửa, liền ngã lăn ra chết. Bà mẹ khóc lóc kêu gào la hét suốt ngày, lòng thương con cùng cực, khiến bà phát cuồng, không còn biết gì nữa. Bà để xác con giữa nhà, chẳng chịu liệm càng nhìn xác con càng thấy đẹp lạ thường.

Một buổi sáng nọ, có thầy tỳ kheo thiền định, dùng từ tâm quán khắp tâm chúng sinh, thấy người đàn bà ấy bị một chuỗi oan nghiệt nối dài và nay chính là lúc nhờ sự đau khổ cùng tột có thể làm tâm bà bừng sáng. Sau khi dùng từ tâm quán sát, thầy tỳ kheo liền khoác y ôm bát, đến nhà bà vợ lớn khất thực. Đến nơi trước nhà vắng vẻ, bên trong nghe tiếng khóc than quằn quại, thầy rung tích trượng, hồi lâu có kẻ đầy tớ mang cơm ra cúng:

– Bạch Ngài, bà chủ con bận việc không thể ra, xin Ngài từ bi nạp thọ.

Thầy sa môn im lặng, không mở bát ra mà nói:

– Ta muốn gặp thí chủ.

Người đầy tớ trở vào thưa cùng bà vợ lớn rằng thầy sa môn nuốn gặp bà. Bà chủ nói:

– Ta có chuyện buồn khổ, chỉ muốn chết thôi, ta không muốn gặp ai cả, mày hãy mang cơm ra cúng dường thầy sa môn ấy và xin Ngài hãy đi đi.

Nhưng khi người giúp việc mang cơm ra, Ngài cũng không nhận và nói như trước. Bà vợ lớn tự nghĩ:

– Ta đang lúc khổ sở mà vị sa môn này chẳng hiểu được tâm ta, sai người đem cúng dường mà chẳng nhận, quyết muốn gặp ta, không biết Ngài muốn gì?

Khi bà bước ra, thầy sa môn vừa trông thấy liền hỏi:

– Này thí chủ, vì sao bà có vẻ sầu khổ, đầu tốc rối bù, mặt mày hốc hác tiều tụy đến thế?

– Bạch Ngài, từ ngày tôi có gia đình đến nay, sinh bảy đứa con gái đứa nào cũng đẹp đẽ dễ thương, nhưng khi đến một hoặc hai ba tuổi thì chết, duy chỉ có đứa con này đến 14 tuổi, đêm hôm vừa bước ra khỏi nhà liền té xuống đất chết ngay. Tôi quá khổ sở, chỉ có muốn chết nữa mà thôi.

Nói xong bà khóc nức nở. Thầy sa môn bảo:

– Hãy rửa mặt, chải đầu rồi ta sẽ nói cho bà nghe.

Nhưng bà ta vẫn khóc, thầy sa môn nói:

– Này bà, người vợ nhỏ của ông chủ nhà này vì sao chết?

Bà vợ lớn nghe nói trong lòng bối rối sợ hãi, tự nghĩ sao vị sa môn này lại biết được việc nhà ta?

Thầy sa môn nói:

– Người vợ nhỏ của nhà này sinh được một đứa con trai, vì sao đứa con ấy lại chết đi?

Bà vợ lớn nghe nói trong lòng càng sợ hãi, run rẩy chẳng nói nên lời.

– Này bà, do bà giết đứa bé ấy, nên người mẹ của nó đau khổ rồi chết theo, vì oan oan tương báo, người mẹ của đứa bé quyết báo thù, nên bảy lần sinh làm con của bà rồi lại chết, để bà phải đau khổ mà chết theo như bà đã gây ra cho người vợ nhỏ. Giờ đây đứa con bà vừa mới chết, bà hãy xa ra thì sẽ biết đứa con ấy thể nào?

Nghe vị sa môn nói, bà quay lại thì toàn thân đứa con ấy tan rã, hôi thối vô cùng. Trong lòng cảm thấy hổ thẹn khủng kiếp, bà cúi đầu đảnh lễ vị sa môn cầu xin cứu độ.

– Ngày mai bà hãy đến chùa ta sẽ làm lễ qui y cho.

Ngay khi ấy, xác đứa con gái liền biến thành rắn độc, biết được bà vợ lớn sẽ đi thọ giới, nên rắn nằm ngang chặn giữa đường. Thầy sa môn nói với rắn :

– Oan nghiệt đã trải qua mấy đời. Người vợ lớn chỉ giết có một người con của nhà ngươi, tại sao nhà ngươi lại làm khổ người ta đến bảy lần. Tội nhà ngươi rất lớn, hôm nay lại muốn cản đường không cho người ta đi quy y Tam Bảo nữa, tội này đời đời sẽ đọa vào địa ngục, hiện tại nhà ngươi chỉ là thân rắn đâu được thân người.

Rắn nghe nói, liền nhớ lại kiếp trước, đau đớn trong lòng, vặn mình uốn khúc, đập đầu xuống đất, hướng về vị sa môn mà sám hối. Vị sa môn nói:

– Hai người đời trước đã tạo oan nghiệt gây khó cho nhau. Vậy kể từ nay tội lỗi mỗi người sẽ được chấm dứt, đời đời không được có ý niệm giết hại nhau nữa. Cả hai đều ăn năn, rắn độc nhờ sức chú nguyện của vị sa môn liền được thác sinh làm thân người.

(Phạm Đình Nhân

Trích cuốn “Hành Thập thiện

và con đường giải trừ khẩu nghiệp)

Hóa thân làm rắn độc

Lúc ấy, Phật ở gần thành Vương Xá, trong tinh xá Trúc Lâm. Trong thành có một người trưởng giả tên là Hiền Diện, giàu có vô cùng. Người này tánh tình gian hiểm, tham lam, keo kiệt, chưa từng làm việc bố thí giúp người, thậm chí cho đến các loài chim thú cũng xô đuổi chẳng cho đến gần nhà. Mỗi khi có các vị tỳ kheo đến nhà khất thực, đều dùng lời độc ác, thóa mạ mà xua đuổi. Người ấy chỉ lo việc tích lũy của cải mà làm giàu, chẳng tu hạnh bố thí.

Đến khi mạng chung, trưởng giả ấy phải sinh làm thân rắn độc, lại quay về nhà mà canh giữ gia sản. Mỗi khi có ai đến gần đều giận dữ rượt đuổi. Rắn ấy độc hiểm đến nỗi chỉ trừng mắt nhìn cũng đủ làm người bỏ mạng.

Vua Tần Bà Sa La nghe chuyện rắn độc sinh trong nhà trưởng giả Hiền Diện, đã hại mạng rất nhiều người, trong lòng lo sợ lắm, suy nghĩ rằng:

– Con rắn ấy độc hiểm như vậy, nếu không trừ tất còn làm hại nhiều người hơn nữa. Nhưng nó hung dữ đến thế, làm sao trừ được. Nay chắc rằng chỉ có đức Thế Tôn mới điều phục được nó mà thôi.

Vua liền cùng với quần thần đi đến chỗ Phật, lễ bái cúng dường rồi bạch Phật rằng:

– Bạch Thế Tôn! Nay trong thành có một con rắn độc sinh vào nhà trưởng giả Hiền Diện, hại mạng đã nhiều người. Kính mong Như Lai từ bi thu phục nó mà cứu nạn cho bá tánh.

Phật yên lặng nhận lời. Hôm sau, đức Thế Tôn đắp y, mang bát đi vào thành, thẳng đến chỗ rắn độc đang ở. Rắn thấy Phật đến thì ngóc cao đầu, phùng mang phóng đến, ý muốn hại Phật. Phật liền dùng tâm từ bi mà đưa năm ngón tay chỉ vào rắn độc, tức thời phóng ra năm đạo hào quang năm sắc, chiếu khắp thân hình rắn độc. Khi ấy, tâm sân hận, ác độc của rắn độc bỗng nhiên tiêu tan, tự thấy khoan khoái dễ chịu, không còn có ý muốn hại người nữa. Khi ấy Phật biết rắn độc đã được điều phục, liền nói lớn rằng:

– Ngươi vốn trước kia là trưởng giả Hiền Diện, do tâm tham lam, sân hận mà nay phải thọ quả báo sinh làm rắn độc, thân thể xấu xí, tánh tình độc ác. Nay sao ngươi không biết tự hối lỗi xưa, lại còn tạo thêm nghiệp ác, dùng nọc độc mà hại người, càng thêm tệ ác. Cứ như vậy thì trong tương lai không thể tránh được phải nhận lãnh khổ não cùng cực.

Rắn độc được nghe lời Phật, ác chướng tiêu trừ, tự nhiên nhớ biết được kiếp trước của mình, do tâm tham lam tạo các ác nghiệp nên nay nhận chịu khổ báo làm thân rắn độc. Nhớ biết được như vậy rồi liền sinh lòng tin tưởng sâu vững nơi  Phật Pháp. Phật lại bảo rắn độc rằng:

– Ngươi ngày trước làm người, vì chẳng tin theo lời ta nên mới phải rơi vào ác đạo. Ngày nay nên biết hối cải, vâng thuận theo lời dạy của ta.

Khi ấy, rắn bỗng nhiên thốt được tiếng người, đáp lời Phật rằng:

– Xin tùy Phật dạy, con chẳng dám làm sai.

Phật bảo:

– Tâm ngươi nếu đã thuần thục, hãy chui vào bình bát của ta đây.

Phật vừa dứt lời, rắn liền hóa hình chui vào bình bát của Phật, cùng theo về tinh xá Trúc Lâm. Bấy giờ, nhân dân khắp thành Vương Xá đều nghe biết việc Phật thu phục rắn độc tự chui vào bình bát, liền lũ lượt kéo nhau đến xem. Do thần lực của Phật, rắn độc nằm trong bát nhìn ra thấy dân chúng kéo đến xem, liền sinh tâm hổ thẹn, trong đêm hôm đó trút bỏ thân rắn, thác sinh lên cõi trời Đao Lợi. Khi sinh lên đó rồi, tự nghĩ rằng:

– Ta đã tạo phước duyên gì mà được sinh lên cõi trời này?

Nghĩ rồi liền tự quán sát, nhớ lại nhân duyên đọa làm thân rắn độc, nhờ Phật cứu độ nên ác nghiệp tiêu trừ được sinh lên cõi trời.

Vị thiên tử này liền hiện thân trang nghiêm, mang những hương hoa, trân bảo của cõi trời mà đến chỗ Phật, lễ bái, cúng dường rồi chấp tay đứng hầu sang một bên. Phật nhân đó liền thuyết pháp cho nghe, khiến tâm ý được khai mở, đắc quả Tu Đà Hoàn. Thiên tử liền đọc kệ tán thán Phật rằng:

Đức Đại Thánh cao siêu,

Công đức đều đầy đủ.

Soi sáng người mê tối,

Khiến được đắc quả Phật.

Trừ sạch các phiền não,

Vượt qua biển sinh tử.

Nay nhờ ân đức Phật,

Vĩnh viễn lìa ác đạo.

Vị thiên tử ấy tán thán Phật rồi, liền chí thành lễ bái rồi từ biệt trở về thiên cung.

Sáng hôm sau, vua Tần Bà Sa La đến chỗ Phật rất sớm, thưa hỏi rằng:

– Bạch Thế Tôn! Đêm qua có hào quang chiếu sáng nơi tinh xá này, chẳng hay đó là các vị Thích phạm, Chuyển luân thánh vương, hay hai mươi tám bộ quỷ thần đến nghe pháp?

Phật nói:

– Chẳng phải Thích phạm, thiên thần đến nghe pháp. Ấy là trưởng giả Hiền Diện tham lam ngày trước, nay đã được sinh lên cõi trời nên đến cúng dường ta. Do đó mà có ánh hào quang ấy.

Phật thuyết nhân duyên trưởng giả Hiền Diện xong, chư tỳ kheo trong chúng hội liền lìa bỏ lòng tham lam, sân hận, lánh sợ đường sinh tử, có người đắc quả Tu Đà Hoàn, có người đắc quả Tư Đà Hàm, có người đắc quả A Na Hàm, có người đắc quả A La Hán, lại có nhiều người phát tâm cầu quả Phật Bích Chi, cũng có người phát tâm cầu quả Vô Thượng Bồ Đề.

Các vị tỳ kheo nghe Phật thuyết nhân duyên này xong thảy đều vui mừng tin nhận.

(Một Trăm Bài Kinh Phật

Đoàn Trung Còn – Nguyễn Minh Tiến dịch và chú giải)

Một niệm thiện gặp được Thiện Thần, một niệm ác gặp phải ác quỷ

Ý niệm của con người rất quan trọng, nếu là thiện niệm sẽ mang đến vận may còn nếu là ác niệm sẽ sinh ra phiền toái thậm chí là tai họa giết chết bản thân.

Vào triều đại nhà Nguyên, ở Sơn Đông có người nông dân mù chữ tên là Nguyên Tự Thực. Gia cảnh nhà anh ta rất giàu có, sống nhờ vào đồng ruộng và trang viên rộng lớn. Cùng quê với anh ta có một người tên là Mâu Quân, Mâu Quân may mắn được làm một chức quan nhỏ. Vì thiếu tiền đi đường nên Mâu Quân đã đến nhà Tự Thực vay 200 lượng bạc. Tự Thực vì có tình cảm đồng hương nên đã cấp đủ số tiền đó cho Mâu Quân.

Vào những năm cuối triều Nguyên, Sơn Đông đại loạn, Tự Thực bị nhiều toán cướp đến cướp bóc nên gia tài không còn gì cả. Lúc ấy, ở Phúc Kiến lại rất yên ổn. Vì vậy, Tự Thực đã dẫn vợ và con đến Phúc Châu với ý định tìm kiếm Mâu Quân để nhờ vả nương tựa.

Cả nhà họ đến Mâu gia, bái cầu và vừa khóc vừa nói:

– Năm mới sắp đến, vợ con đói khổ lạnh lẽo, trong túi không có một đồng xu, trong thùng cũng không còn một chút thức ăn nào. Trước đây, ngài vay tôi 200 lượng bạc, hôm nay tôi cũng không dám yêu cầu ngài trả lại, chỉ mong ngài cứu giúp chúng tôi khỏi cảnh chết đói là cũng coi như đã ban ơn cho bạn bè xưa cũ rồi. Mong ngài thương cảm chúng tôi một chút!

Nói xong, cả nhà họ quỳ gối, dập đầu xuống mặt đất. Mâu Quân đỡ họ đứng dậy rồi đưa ngón tay ra tính toán:

– Qua 10 ngày nữa sẽ là giao thừa, anh có thể ở tại nhà chờ đợi. Tôi sẽ phái người mang đến nhà anh, hai thạch gạo, hai nén bạc để làm chi phí mừng năm mới. Hy vọng anh không chê ít.

Hơn nữa, anh ta còn cẩn thận dặn dò cả nhà họ cứ yên tâm chờ đợi, không cần ra ngoài mong ngóng. Tự Thực cảm kích quay về, cũng dùng những lời nói của Mâu Quân để an ủi vợ con. Nhưng cứ hết ngày này qua ngày nọ, họ một mực chờ đợi mà vẫn không nhận được những thứ mà Mâu Quân đã hứa.

Ngày hôm sau đã là sang năm mới, vì bị thất hứa nên gia đình Tự Thực không có lấy một nhúm cơm để ăn, vợ con sụt sùi khóc lóc. Tự Thực phẫn nộ, vụng trộm mài sẵn một con dao sắc bén đợi trời sáng.

Đến lúc tiếng trống canh vừa dứt, Tự Thực một mạch chạy đến nhà Mâu Quân, chỉ đợi anh ta ra ngoài sẽ đâm chết. Lúc này, trời vẫn tờ mờ chưa sáng hẳn, trên đường không có bóng dáng một ai, chỉ có một vị hòa thượng Hiên Viên ngồi trong ngôi chùa nhỏ đối diện thắp nến tụng kinh. Vị hòa thượng trông thấy Nguyên Tự Thực đi phía trước, phía sau có mười mấy tên quỷ hình thù kỳ quái đi theo, có tên cầm đao kiếm, có tên quỷ cầm gậy tóc tai bù xù, bộ dạng rất hung ác.

Một lúc sau, Tự Thực lại trở về. Phía sau Tự Thực có khoảng 100 người đầu đội kim quan, thân đeo ngọc bội đi theo. Có người giương cao cờ phiến và dù che, có người lại giơ cao cờ phiến loại khen ngợi với vẻ mặt ôn hòa, điệu bộ vô cùng thảnh thơi. Vị hòa thượng nghĩ rằng Tự Thực chắc chắn đã chết rồi. Sau khi tụng kinh xong, ông liền vội vội vàng vàng đến thăm Nguyên Tự Thực và bất ngờ bởi Tự Thực vẫn bình an vô sự. Hiên Viên hỏi Tự Thực:

– Sáng sớm nay, ông đi đến đâu mà sao lúc đi lại vội vội vàng vàng nhưng lúc về lại chậm rãi như vậy? Hy vọng ông nói cho tôi nghe một chút được không?

Tự Thực không giấu diếm liền kể hết cho vị hòa thượng nghe:

– Mâu Quân không có đạo nghĩa khiến tôi rơi vào cảnh vô cùng khốn đốn. Buổi sáng sớm nay, tôi đúng là đã mang theo dao, định đến giết chết anh ta cho thỏa nỗi uất ức trong lòng. Nhưng đến lúc cổng nhà họ mở ra, tôi lại đột nhiên nghĩ: “Anh ta đúng là đã đắc tội với mình, nhưng vợ con của anh ta đâu có tội tình gì? Hơn nữa, anh ta còn có mẹ già. Nếu như hôm nay ta giết chết anh ta thì cả nhà họ biết nương nhờ vào ai? Thà rằng để người ta phụ lòng mình cũng không để mình phụ lòng người được.” Thế là tôi đành nhịn cơn tức giận quay trở về.

Hòa thượng Hiên Viên sau khi nghe xong, chắp tay hành lễ mà chúc mừng:

– Ông làm như vậy sẽ có hậu phúc bởi vì Thần linh đã minh tỏ chuyện này.

Tự Thực liền hỏi nguyên do. Hiên Viên trả lời:

– Ông có niệm ác thì ác quỷ đến, ông có niệm thiện thì phúc thần (bùa hộ mệnh) sẽ phủ xuống. Điều này là như hình với bóng, như là tiếng vọng từ âm thanh mà thôi! Cho nên đừng nảy sinh tâm làm điều ác, cũng không thể phạm tội mà tổn đức.

Hiên Viên còn đem chuyện mình đã nhìn thấy kể lại hết cho Tự Thực, đồng thời cũng tận tình an ủi, lấy ra một ít gạo và tiền cứu trợ gia đình họ.

Thời gian sau lúc Tự Thực cuốc đất, chợt nghe thấy tiếng loong koong, phát hiện ra bốn đĩnh bạc chôn dưới đất vì vậy cuộc sống cũng đỡ khó khăn hơn. Lần hồi gia thế hưng thạnh. Còn Mâu Quân sau này vì chiến tranh loạn lạc nên bị Vương Tướng quân giết chết và cướp hết gia tài.

Nguyên Tự Thực vào thời khắc mấu chốt có thiện niệm đã cải biến được phần đời còn lại. Đối với con người ngày nay có lẽ cũng là bài học để tham khảo!

(trích: Theo Đại Kỷ Nguyên tiếng Trung

-Mai Trà biên dịch)

Câu chuyện cả giận mất khôn của Thành Cát Tư Hãn

 Vị vua Mông Cổ Thành Cát Tư Hãn chém chết con chim quý khi tức giận để rồi phải hối hận suốt đời. Câu chuyện mang đến cho hậu thế bài học không nên quyết định điều gì khi giận dữ.

Theo sách Nguyên Sử quyển 1, Thành Cát Tư Hãn tên thật là Thiết Mộc Chân, sinh năm 1162 (có một vài tài liệu ghi ông sinh năm 1155), là vị vua nổi tiếng của Mông Cổ, một nhà lãnh đạo lỗi lạc trong lịch sử thế giới.

Cha qua đời từ sớm nên ngay khi còn nhỏ, Thiết Mộc Chân buộc phải đấu tranh sinh tồn vô cùng khắc nghiệt trên thảo nguyên Mông Cổ. Khoảng 20 tuổi, ông khẳng định được vị thế của mình là chiến binh và thủ lĩnh đáng gờm.

Sau khi tập hợp được đội quân gồm những người ủng hộ, ông bắt đầu xây dựng liên minh. Đến năm 1206, Thiết Mộc Chân trở thành lãnh đạo của đế chế Mông Cổ rộng lớn và được phong danh hiệu Thành Cát Tư Hãn, có nghĩa là “người thống trị vạn vật”.

Lịch sử ghi lại, quân đội của Thành Cát đánh đến đâu, thắng đến đó. Hầu hết quân đội và các thành phố đều sụp đổ trước sức mạnh áp đảo của quân Mông Cổ. Đế chế vĩ đại của ông trải dài từ miền Trung nước Nga xuống tới biển Aral ở phía Tây và từ miền Bắc Trung Quốc xuống đến Bắc Kinh ở phía Đông.

Một buổi sáng nọ, Thành Cát Tư Hãn có nhã hứng nên cùng các thuộc hạ vào rừng gần lâu đài để săn bắn. Những người đi săn cùng đều mang theo cung tên nhưng nhà vua chỉ mang theo con chim ưng ông yêu thích.

Ông cho rằng nó sẽ bắt mồi nhanh hơn và chính xác hơn bất cứ mũi tên nào, bởi loài chim có thể bay vút lên trời cao và nhìn thấy mọi vật mà con người không thể thấy.

Dù lùng sục cả buổi sáng nhưng đoàn người không săn được gì cả. Đến trưa, mọi người quay lại chỗ cắm trại. Để không cáu kỉnh với thuộc hạ, Thành Cát Tư Hãn một mình rong ruổi cùng chiến mã tách đoàn đi riêng.

Ông thông thuộc mọi đường đi lối lại trong khu rừng này. Vì vậy, trong khi cả đoàn đi săn trở về lâu đài bằng con đường ngắn nhất, ông lại quyết định đi băng qua thung lũng dù biết theo đường này sẽ mất nhiều thời gian. Sau một ngày dài rong ruổi, nhà vua khát nước đến mức cổ họng như có lửa đốt. Chú chim ưng rời khỏi vị trí quen thuộc trên cổ tay chủ, bay vút lên trời, bao giờ nó cũng tìm được đường về cung. Trong sức nóng của mùa hè, mọi dòng suối đều khô cạn và ông không tìm được nước để uống.

Thành Cát Tư Hãn cho ngựa phi nước kiệu khi nhớ ra ở gần con đường mòn có dòng suối nhỏ. Thế nhưng, trong sức nóng của mùa hè, mọi dòng suối đều khô cạn. Bỗng ông nhìn thấy dòng nước nhỏ chảy ra từ một tảng đá ngay trước mặt.

Thành Cát biết những giọt nước này xuất phát từ con sông hay cái hồ nào đó trên kia. Ông nhảy xuống ngựa, lấy ra chiếc cốc bằng bạc mà lúc nào cũng mang theo bên mình. Thật lâu nước mới chảy đầy cốc nhưng vừa lúc ông đưa lên miệng thì con chim ưng bay lên và giật đổ xuống đất.

Vị vua giận lắm, nhưng vì quá yêu quý con chim nên ông cho rằng có lẽ nó cũng khát nước. Ông cúi xuống nhặt chiếc cốc lên, lau sạch bụi đất và tiếp tục hứng nước. Lần này, khi nước chỉ mới được nửa cốc, con chim ưng lại lao đến tấn công và làm đổ nước lần nữa.

Dù rất quý con chim nhưng Thành Cát không thể chấp nhận sự vô lễ như vậy, nhất là khi trong lúc ông đang khát cháy họng. Không chừng, ai đó nhìn thấy cảnh này từ xa và sẽ kể lại cho các chiến binh của ông rằng một nhà chinh phục vĩ đại lại không thể thuần hóa nổi con chim.

Lần này, ông rút kiếm ra khỏi vỏ, nhặt chiếc cốc và lại hứng nước, một mắt canh chừng dòng nước chảy, còn mắt kia để ý con chim ưng. Ngay lúc ông có đủ nước trong cốc và sắp uống thì con chim lại bay lên và lao vào hất đổ. Tức giận, Thành Cát vung kiếm đâm thủng lồng ngực con vật mình yêu quý. Khi quay lại, nhà vua phát hiện chiếc cốc đã rớt xuống giữa khe đá hẹp mà không thể nhặt lên được.

– Nhất định ta sẽ tìm được nước uống từ con suối này, ông tự nhủ.

Sau đoạn đường dài lội ngược lên thượng nguồn, Thành Cát Tư Hãn tìm thấy một vũng nước, nhưng ngay ở giữa là xác con rắn độc. Nếu lỡ uống dòng nước kia, có lẽ ông đã chết. Nhà vua đứng lặng người, quên cả cơn khát và chợt hiểu thông tất cả mọi chuyện. Hóa ra chim ưng vì cứu ông mới hết lần này đến lần khác làm đổ chén nước. Trong đầu ông hiện lên hình ảnh xác con chim tội nghiệp đang nằm trên đất lạnh. Ông trở lại khe đá, nhẹ nhàng đỡ xác con vật tội nghiệp lên tay, đặt nó vào túi săn rồi lên ngựa phi thẳng về cung.

Sau đó, Thành Cát ra lệnh làm một bức tượng con chim bằng vàng, trên cánh khắc dòng chữ: “Thậm chí, khi một người bạn làm điều gì đó anh không thích, người đó vẫn cứ là bạn của anh”. Cánh còn lại ghi “Bất cứ hành động nào được thực hiện trong sự giận dữ đều là hành động đưa đến sự thất bại”.

(Tống Hoa tổng hợp

-Nguồn: news.zing.vn)

A La Hán gặp nạn

Ngày xưa ở nước Kế Tân, Tây Vực, có một vị cao tăng tên gọi là Ly Việt, lúc trẻ xuất gia, ở trong hang động trên một đỉnh núi hoang vắng học đạo, công phu tu hành thiền định rất chuyên cần, chứng được quả A La Hán và lục thần thông. Vì thế nên người người xa gần biết tiếng, tìm đến xin bái Ngài làm sư phụ.

Dưới sự chỉ dẫn khéo léo và từ bi của Ngài, đệ tử Ngài cũng chứng quả A La Hán rất mau, chứng quả xong họ phân tán khắp nơi để lo việc hoằng pháp.

Tuy Ngài Ly Việt đã chứng thánh quả nhưng vẫn không ngừng tinh cần tu trì, rất ít khi nghỉ ngơi. Một hôm có chút giờ nhàn rỗi, Ngài mới nhân đó dọn dẹp hang động, chợt thấy tấm y màu xám mà Ngài thường mặc đã theo thời gian mà ngả sang màu bạc trắng.

Không biết tại sao hôm ấy Ngài lại nổi hứng lên núi hái rễ cỏ và vỏ cây làm thuốc nhuộm rồi đem tấm y trăm mảnh ra nhuộm lại. Bỏ tấm y trong nồi thuốc nhuộm rồi, Ngài dùng một nhánh dương liễu khuấy nước để trộn thuốc nhuộm cho đều, thì quái lạ thay, tấm y bỗng dưng biến thành một tấm da trâu! Chưa hết, thuốc nhuộm trong nồi đang đen như mực, bỗng biến thành màu đỏ như máu, và mấy cái rễ cỏ vỏ cây lại biến thành những miếng thịt trâu. Quái dị hơn nữa là mùi thịt trâu còn bốc ra từ cái nồi đang sôi, khiến Ngài cứ trố mắt ra nhìn một cách kinh ngạc.

Ðúng lúc ấy một người nông phu từ chân núi chạy lên, thấy ngay miếng thịt trâu trong nồi, bèn la hét giận dữ:

–  A, ông thật là to gan ! Hôm nay ông khai giới sát nên mới đem con trâu của tôi ra giết phải không ! Sáng sớm tôi dắt trâu lên núi ăn cỏ, mấy phút sau không thấy nó nữa, đi tìm khắp nơi mà tìm không ra, may mà có mùi thịt dẫn đường nên tôi mới tìm được tới đây ! Thì ra là ông, một kẻ xuất gia, đã ăn trộm con trâu của tôi đem ra làm thịt ! Bây giờ ông có gì nói để tự biện hộ không ? Ði ! Ði với tôi đến gặp vua ngay !

Người nông phu nóng nảy không chịu nghe lời phân trần, lôi Ly Việt xềnh xệch đi đến gặp vua. Thời ấy không có tòa án, không có pháp đình, dân chúng hễ có việc gì bất bình là kéo nhau đi gặp vua, nhờ vua phân xử.

Khi người nông phu kể lể hết sự tình cho vua nghe, vua bèn hỏi Ly Việt có lời nào biện bạch không ? Chứng cớ đã rành rành ra đó, còn có gì để nói nữa, do đó vua xử Ly Việt ngồi tù 12 năm.

Mười hai năm, tức là bốn ngàn ba trăm tám chục ngày hơn chứ có phải ít đâu ! Ly Việt La Hán trong suốt thời gian tù tội phải đảm nhiệm công việc quét dọn nhà lao và chùi rửa cầu xí cho sạch sẽ. Buổi tối, ngài dụng công chuyên cần tu thiền định, không bao giờ nằm xuống. Ngài từ bi nhẫn nại như thế nên đến cả mấy  người cai ngục, người nào cũng hết sức cảm động.

Thời gian 12 năm tù đã mãn hạn, những người đệ tử ngày xưa tham thiền với ngài bỗng không hẹn mà cùng một lúc nhớ nghĩ đến sư phụ trong núi, tất cả bèn dùng thần thông quan sát, biết là sư phụ bị tù oan trong 12 năm trường.

Họ cưỡi gió bay về cung vua, trong không trung khua trống pháp để tỏ sự bất bình. Nhà vua nghe thế hết sức kinh ngạc, vội vàng tự tay phóng thích Ly Việt La Hán ra khỏi nhà giam.

Sau 12 năm tù đày, Ly Việt tóc thì dài râu thì trắng, nhưng khi ngài vừa bước chân ra khỏi cửa ngục thì râu tóc tự động rụng xuống đất, rồi còn bay lên không trung, biến hiện vô lượng hóa thân, mỗi hóa thân phóng ra ánh sáng rực rỡ. Thái độ an nhiên của Ngài không giống một người mới được thả ra khỏi tù chút nào.

Lúc ấy, chư vị A La Hán muốn ra tay trừng phạt nhà vua làm việc không công minh, nhưng Ngài ngăn lại:

– Các con không được ra tay, đây là nghiệp chướng của ta, không thể oán trách bất cứ ai khác. Trong một kiếp quá khứ, ta là một người nông phu, có một con trâu đi lạc. Ta lên núi tìm nó, nhưng đi cùng hết núi cũng không tìm ra, mà lại gặp một vị xuất gia tu hành. Không suy nghĩ gì thêm, ta liền nghi ngờ chính vị này ăn cắp trâu của ta. Trong suốt 12 tiếng đồng hồ ngày hôm đó, trong tâm ta khởi đầy vọng niệm, ta muốn đuổi vị ấy ra khỏi núi, ta muốn bắt vị ấy đưa lên vua để vị ấy bị giam cầm vào ngục tối… Ta đã tạo nghiệp ác, khiến kiếp này phải bị 12 năm tù oan. Giống như chuyện cho vay ăn lãi, thời gian càng lâu thì tiền lãi càng cao, quả báo ta phải bồi thường lên tới 8000 lần số “nợ” ta đã mượn. Ta chỉ hận tại sao lúc đó không làm gì ích lợi cho người khác, không phát tâm bố thí rộng rãi, có phải là kiếp này đã tiêu nghiệp chướng rồi không ?

Các vị mới chứng quả A La Hán, nhà vua và đại thần nghe Ly Việt kể lại chuyện xưa như vậy, ai nấy đều tỉnh ngộ và đều hiểu rằng nguyên tắc nhân quả là một nguyên tắc bất di bất dịch, không một ai có thể đứng ngoài nguyên tắc này. Cho nên:

Chưa làm chỉ tính trong lòng,
Cũng là ảnh hưởng chớ hòng tính gian.

Ở câu chuyện trên, anh nông phu không tận mắt trông thấy vị xuất gia ăn trộm trâu của mình, mà nghĩ rằng đã trộm trâu rồi khởi tâm sân hận, ấy thế quả báo to lớn như vậy, nếu giả sử còn nói ra lời nói nữa thì quả báo quả thật chẳng thể tưởng tượng nổi!

(Phật Giáo Cố Sự Đại Toàn – Diệu Hạnh Giao Trinh dịch)

Người nhẫn nhục sẽ được trường thọ

Huyện Chuẩn An tỉnh Giang Tô có một người họ Cường tên Phú. Ông ta là một người hiền từ nhân hậu, đối đãi với mọi người rất ư độ lượng khoan dung.

Năm nọ, vào đêm giao thừa, bỗng ngoài cửa có một người lớn tiếng chửi mắng ông ta. Gia nhân thấy vậy rất tức giận toan mở cửa ra đánh nhưng ông ta ngăn lại và dạy rằng: “Do mừng năm mới, anh ta quá chén nên không tự chủ được bản thân. Vì vậy anh ta chưởi mắng người khác là chuyện bình thường, các ngươi không nên tranh cãi làm gì”.

Mặc dầu nghe theo lời dạy của chủ nhưng bọn gia nhân vẫn thấy tức giận và bất bình. Ngay đêm hôm đó, ông Cường Phú nằm mộng thấy một vị thần đến trước mặt mình khen rằng:

– Giao thừa là đêm quan trọng mà ngươi nhẫn được việc người khác khó có thể nhẫn. Vì thế trên trời rất tán dương, đặc biệt ban thêm phước thọ cho ngươi.

Ông Cường Phú nhờ thường thực hành hạnh nhẫn nhục, biết khiêm nhường trong mọi việc, tuy trước mắt thấy bị thiệt thòi, song trên thực tế thì được lợi vô cùng. Về sau, ông ta hưởng tuổi thọ rất cao và con cháu cũng được giàu có. Đây thật là phước báo của người có hạnh nhẫn nhục vậy.

(Nhân Quả Báo Ứng

Tác giả: Văn Xương Đế Quân – Quảng Tráng lược dịch)

Cơn sân hận

Trong cuộc sống hằng ngày đôi khi tâm con người trở nên giận dữ, không kiềm chế được nên đã biến thành thù hận, từ đó thường xảy ra những sự xung đột, ấu đả và có thể đi đến chỗ gây thương tích hay giết người không chút xót thương. Báo chí thường đăng quá nhiều tin tức về hậu quả xảy ra bắt nguồn từ những cơn giận dữ đủ loại.

Tháng 1 đầu năm 2014, tại Miami, Florida, Ông Curtis Reeves, 71 tuổi, cựu đại úy cảnh sát, đang xem phim trong rạp thì xảy ra vụ cãi vã với hai vợ chồng ông Chad Oulson, 43 tuổi, là những người ngồi ở băng ghế trước. Nguyên do: Ông Oulson bấy giờ đang dùng điện thoại di độngđể gửi text hoặc gọi cho trung tâm giữ trẻ để biết tin tức về đứa con gái 3 tuổi ở đó. Hai bên lời qua tiếng lại. Theo biên bản lập khi bắt giữ, ông Reeves rút súng bắn ông Oulson ngay khi ông này đứng dậy, và đánh vào mặt ông này bằng một vật gì không rõ. Viên đạn trúng vào ngực ông Olson cũng trúng vào tay bà vợ ông này. Ông Reeves hiện phải trực diện với án tù chung thân nếu bị kết án về tội sát nhân.

Còn biết bao chuyện khác ở Mỹ. Tại Tacoma, Wash. vào tháng 11 năm 2013 ông già Zesbaugh 72 tuổi bị tuyên phạt tới 6 tháng trong nhà tù sau khi nhận tội là đã bạo hành và ác ý quấy rối hai phụ nữ. Nguyên do cũng là chuyện nổi giận khi lái xe trên đường, ông William nghĩ rằng người đàn bà kia đã lái xe cúp ngang đầu xe của ông khi quẹo xe vào một bến phà. Ông lái xe theo họ, nhấn còi ầm ỹ rồi chạy tới sau xe họ khi họ ngừng ở một bảng stop. Khi người đàn bà xuống xe, ông cầm cái gậy dùng để khóa tay lái xe và đánh bà ta. Một nhân viên bến phà nhảy ra can thiệp chấm dứt sự đả thương này.

Tại Kennesaw, Ga. vào tháng 10 năm 2013 nàng Lashayla 22 tuổi, bị truy tố về tội tấn công và giết chết sinh viên Kim Kilgore, 21 tuổi trong một buổi sáng. Nàng dùng súng ngắn bắn nạn nhân ở bãi đậu xe. Nạn nhân được chở vào bệnh viện và sau đó đã chết. Báo chí cho biết nguyên do cũng là nổi cơn giận giữ khi lái xe mà thôi (the crime began as a road rage incident).

Tại Boise, Idaho, vào tháng 11 năm 2013, chàng Fisher 35 tuổi bị truy tố về tội sát nhân khi rút súng bắn vào đầu một chàng trẻ tuổi khác, mới 25 tuổi, lúc nạn nhân trên đường lái xe về nhà sau khi tan sở. Nguyên do chỉ vì có sự đụng nhau giữa hai xe.

Tại Texas vào năm 1998 Feldman, 55 tuổi, lái xe mô tô trên xa lộ bị xe vận tải hạng nặng 18 bánh của Everett, 36 tuổi, cúp ngang. Hắn bèn bắn vài phát súng vào sau xe vận tải. Sau đó hắn nạp thêm đạn và chạy lên ngang xe tải, bắn vào Everett giết chết người này. Hắn lại còn kiểm soát thấy đúng là tài xế xe tải đã chết hắn mới lái xe mô tô bỏ đi về nhà. Trên đường về nhà, 45 phút sau, hắn trông thấy một chiếc xe vận tải 18 bánh khác của Velasquez, 62 tuổi, đang ngừng đổ săng. Không quen biết nhưng ngứa mắt, hắn lại ghé vào trạm săng và bắn 2 phát súng vào lưng giết người tài xế này. Một tuần sau Feldman lại bắn Vega khi người này đang đứng bên ngoài một quán ăn. May mà Vega sống sót.

Trước tòa án Feldman khai rõ rằng hắn bắn Everett vì nổi cơn giận khi bị Everett cúp ngang đầu xe (a result of his anger at Everett for cutting him off). Sau đó hắn bắn Velasquez chỉ vì ông này đứng cạnh cái xe 18 bánh hình ảnh này khiến hắn lại nổi sân (explode again in anger.) Feldman bị tuyên án tử hình. Án đã được thi hành (Texas executes man who killed truckers in road rage.)

Rồi đến chuyện bên Trung Quốc. Tại Beijing vào tháng 7 năm 2013 một bà mẹ để đứa con gái nhỏ 2 tuổi ngồi trên xe đẩy hàng và đứng chờ xe buýt ven đường. Li Ming lái chiếc xe hơi chở Han Lei, 39 tuổi, tới nơi và muốn đậu xe vào chỗ đó. Không được nhường chỗ nên xảy ra cãi lộn. Han Lei nhảy xuống xe, đánh người mẹ ngã xuống đất, túm lấy đứa bé trong chiếc xe, nâng lên khỏi đầu và ném đứa bé xuống đất. Em bé bị thương nặng và được chở vào bệnh viện nhưng qua đời vài ngày sau đó. Han Lei chạy trốn nhưng rồi bị bắt. Toà xử Han Lei về tội sát nhân và tuyên án tử hình. Tòa Án Tối Cao sẽ duyệt xét lại bản án này theo luật. Li Ming lái xe cho Han chạy trốn khỏi nơi đó nên bị 5 năm tù về tội che giấu người phạm tội.

Còn tại Việt Nam thời cũng quá nhiều chuyện sân hận. Tháng 9 năm 2013 tại quận Thanh Xuân, Hà Nội, ông Phúc, sinh năm 1950 và vợ là bà Loan có mâu thuẫn cãi nhau về việc chồng vứt lọ mắm tôm của vợ vào thùng rác bốc mùi khó chịu. Vợ đã nặng lời mắng chửi chồng về việc làm này. Sau khi cãi nhau với chồng, vợ vào nhà vệ sinh đánh răng, rửa mặt chuẩn bị đi ngủ. Lúc này ông Phúc quá tức giận, đã cầm một chiếc búa đinh thường xuyên để dưới gầm tủ quần áo, đập liên tiếp 4 nhát vào đầu vợ, khiến bà Loan tử vong tại chỗ.

Tại Hưng Yên, tháng 5 năm 2012 sau cuộc cãi vã, vợ và con của Thắng (sinh năm 1964) giận dỗi bỏ về nhà bố mẹ đẻ. Thắng ấm ức đạp xe sang đó tìm nhưng không thấy. Chỉ có một mình ông Ứng là bố vợ. Thắng hỏi bố vợ nhưng bố vợ không trả lời. Sau vài câu nói, Thắng và bố vợ đã lời qua tiếng lại và xảy ra mâu thuẫn, cãi cọ nhau. Trong lúc nóng giận Thắng đã chạy xuống nhà bếp lấy con dao gọt hoa quả đâm liên tiếp vào đầu, tay, cổ và lưng ông Ứng. Do bị đâm trọng thương, mất máu nhiều nên nạn nhân đã tử vong ngay sau đó.

Ở tỉnh Lâm Đồng Đà Lạt vào tháng 10 năm 2006 nhà của Công bốc cháy thiêu rụi tất cả bên trong. Cháu Nhựt, 1 tuổi, lồm cồm bò, khóc ngất dưới nền gạch với những vết bỏng nặng nơi mặt và thân thể. Cháu được bồng ra đưa đi cấp cứu nhưng chết vì vết thương quá nặng, Nguyên nhân vụ cháy là do Thùy, vợ của Công. Gần đây giữa vợ chồng thường xảy ra mâu thuẫn, gây gổ cãi vã. Hôm ấy vợ chồng cãi nhau Thùy bỏ mặc con nằm khóc, sang nhà mẹ chồng chửi chồng một trận rồi về viết đơn ly dị. Công không ký bỏ đi, Thùy ở nhà với con và trong cơn sân dữ dội người mẹ đành lòng đốt nhà giết con, một cái chết thương tâm.

Năm 2012 trong một phút nông nổi, Trần Minh Công đốt nhà khiến mẹ bị chết. Chỉ vì tức giận nhất thời mà đứa con được cho là xưa nay hiếu thảo đã gây họa cho gia đình. Sau khi cân nhắc, tòa án Thành phố Đà nẵng đã tuyên phạt Công chín năm tù về tội giết người.

Trãi, 48 tuổi, và chị A. sống chung từ năm 2004. Đến năm 2010, hai bên mâu thuẫn nên chị A. đuổi Trãi. Bực tức vì vừa mất việc và không còn chỗ ở (nhà bán, trả nợ bài bạc cho chị A.), ngày 26.5.2010 Trãi mua xăng đem đến tạt vào người chị A. khi chị này đang đứng gần bếp nên xăng bắt lửa gây bỏng nặng và tử vong sau đó. Trãi cũng bị bỏng nặng hai tay. Tòa án tại Sài Gòn tuyên giảm án cho Trãi từ tử hình còn chung thân vì nguyên nhân một phần lỗi xuất phát từ những cư xử không đúng của chị A.

Sau thời gian quen biết Tây, 23 tuổi, cùng chị T. dọn về sống chung như vợ chồng tại một phòng trọ. Cuộc sống đôi khi cũng có những xích mích, nảy sinh cãi vã. Một hôm tức giận, Tây dùng tay đập mạnh làm cửa kính bị vỡ, sau đó bỏ đi ra ngoài với bạn bè cho hả cơn nóng giận. Khuya đó, Tây về phòng, những tưởng T. sẽ im lặng nhưng T. cứ lèo nhèo mãi khiến Tây lớn tiếng quát bắt im đi. Được đà, chị T. tiếp tục tuôn lời thách thức. Tức giận, Tây tát vào mặt chị T. một cái trời giáng. Bị vợ phản đòn, Tây quật ngã vợ xuống sàn nhà rồi bóp cổ đến khi vợ gục hẳn. Toà tuyên án chung thân về tội “Giết người”. Tây chống án. Tòa phúc thẩm, bác kháng cáo, và tuyên y án.

Chỉ điểm qua một số những bản tin trên chúng ta thấy khi cơn sân hận nổi lên con người dễ phạm tội. Dù là trẻ hay già, dù là nam hay nữ, dù là thân hay sơ, dù là Âu hay Á, dù Đông phương hay Tây phương… Báo chí khắp nơi đăng tải dài dài mãi thôi!

*

“Sân” là cơn giận, lòng giận dữ, nóng nảy, thù hận khi đối diện với một người hay một điều kiện không vừa lòng, không được thỏa thích như ý muốn, bất bình vì bị xúc phạm… nhân đó làm những chuyện sai trái. Sau cơn giận thời giữ lại lòng oán ghét tìm dịp mà trả thù. Hầu như ai cũng từng nổi giận, trong một thời điểm nào đó, với một mức độ nào đó.

Sân hận là biểu hiện cho năng lượng của tâm khi tham ái không được thoả mãn. Sở dĩ sân hận sinh khởi là do lòng yêu thích “cái ta” hay thích “cái của ta”. Nếu người ta mắng nhiếc, chê bai kẻ nào khác thời ta không thấy giận, nhưng nếu ai chửi bới hoặc khiển trách ta hay người thân của ta, hoặc làm tổn hại tài sản của ta lập tức ta cảm thấy khó chịu ngay. Khi khó chịu tăng dần thời sẽ trở thành nóng giận. Sân hận là cánh cửa mở vào địa ngục, và nó dẫn đến sự hủy diệt công đức.

Nhưng nên nhớ rằng trên đời này không ai tránh khỏi bị khiển trách, bị chê bai, khó tránh khỏi miệng thế gian như Đức Phật đã từng đưa nhận xét trong Kinh Pháp Cú:

(Pháp Cú 227)

Người con Phật hãy nghe đây

Chuyện không phải chỉ đời này mà thôi

Từ đời xưa đã nói rồi:

“Làm thinh thời sẽ có người chê bai,

Nói nhiều cũng bị chê hoài,

Dù cho nói ít cũng người chê thôi”.

Làm người không bị chê cười

Thực là chuyện khó ở nơi cõi trần.

Trong quá khứ, trong tương lai và trong hiện tại chưa hề có người nào bị tất cả mọi người chê bai hay được tất cả mọi người khen ngợi, đúng như lời Đức Phật dạy:

(Pháp Cú 228)

Ở đời toàn bị chê bai

Hay toàn nghe tiếng người ngoài khen ta

Từ xưa chẳng thấy xảy ra,

Tìm trong hiện tại thật là khó sao,

Tương lai cũng chẳng có nào.

Nhưng vì bị chê bai mà nổi sân thời tai hại vô cùng vì lúc nóng giận thì con người không còn đủ bình tĩnh để tự kiểm soát hành vi và ngôn ngữ của mình. Khi sân hận phát khởi, nó có khả năng hủy hoại công đức và tâm an lạc. Kinh Hoa Nghiêm có nói: “Một niệm lòng sân hận nổi lên, thì trăm ngàn cửa nghiệp chướng đều mở ra.” Và: “Một đốm lửa sân, có thể đốt hết muôn mẫu rừng công đức.” Đức Phật khuyên: “Hãy từ bỏ nóng giận thì phiền não sẽ không đến với các ngươi.”

Phải tu tâm để đạt tới “vô sân”. Vô sân là không nóng nảy, hết giận hờn. Chúng sinh bị qua nhiều kiếp sinh tử luân hồi chính vì không thắng nổi lòng sân. Chư Phật được tự tại, giải thoát, là do dứt trừ được lòng sân tận gốc. Điều khó nhất là diệt trừ phẫn nộ ngay từ trong tâm. Khi tâm chúng ta không còn nghĩ đến giận hờn thì tự nhiên cơn phẫn nộ sẽ không bộc phát.

Trong khi đốn cây để cất tịnh thất cho mình, thầy Tỳ kheo nọ vô tình làm tổn hại đến cái chồi non của một vị thần cây. Vị này nổi giận, muốn giết thầy nhưng kịp nghĩ suy nên kiềm chế được cơn sân hận của mình đang phát sinh. Đức Phật tán dương và dạy:

(Pháp Cú 222)

Khi cơn giận dữ bùng ra,

Ai mà ngăn được mới là người hay.

Giỏi như hãm lại được ngay,

Chiếc xe đang chạy chở đầy, phóng nhanh.

Nếu không thì bản thân mình,

Cầm cương hờ hững tài tình gì đâu.

Đại đức Mục Kiền Liên hỏi thăm nhiều vị Trời nhờ công đức gì mà được tái sinh vào cảnh trời. Các vị này kể ra những hành động xem ra có vẻ không quan trọng lắm như chân thật, nhẫn nại và bố thí v.v… Khi ngài Mục Kiền Liên bạch hỏi Đức Phật vậy những hành động tuy nhỏ nhưng tốt lành có thể nào dẫn đến các cõi trời không, Đức Phật dạy:

(Pháp Cú 224)

Nói lời chân thật luôn luôn,

Dẹp cơn nóng giận dỗi hờn khó coi,

Dù ta có ít của thôi

Cũng chia bố thí cho người đến xin,

Nhờ ba việc tốt lành trên

Đưa ta đến cõi chư thiên, cõi trời.

Giảng về quả phúc của người cúng dường đến bậc hoàn toàn thanh tịnh, Đức Phật dạy rằng cỏ dại làm hại ruộng vườn thời lòng sân hận cũng làm hại loài người. Vì vậy người nào diệt hết lòng sân hận thì người đó đáng được ngưỡng vọng và khâm phục:

(Pháp Cú 357)

Cỏ hoang làm hại ruộng vườn

Lòng sân gây hại nhiều hơn cho người,

Ai lìa sân hận được rồi

Cúng dường vị ấy chẳng nơi nào bằng

Hưởng về phước báu vô vàn.

Voi là một con vật quan trọng hàng đầu trong số những thú vật được con người huấn luyện để sử dụng. Giống như voi với sức mạnh có thể bứng gốc một thân cây, quấn vòi quanh thân cây ấy để mang đi dễ dàng, Đức Phật dạy rằng con người cũng có thể tạo cho mình tiềm lực vật chất, nghị lực tinh thần, lòng kiên nhẫn và sức mạnh, chẳng khác một con voi thuần thục. Luyện được lòng nhẫn nhục mới là khó:

(Pháp Cú 321)

Luyện voi dự hội, tài thay

Luyện voi vua cưỡi cũng hay vô cùng,

Nhưng mà nếu luyện được lòng

Luôn luôn nhẫn nhục, chẳng còn nổi sân.

Khi nghe phỉ báng bản thân

Mới là điêu luyện, muôn phần tài hơn.

Đức Phật dạy rằng tự chế ngự được mình mới là điều rất quý và người chịu cố gắng, đủ nhẫn nại để tự huấn luyện mình thời cũng sẽ được hưởng kết quả tốt lành như người đã khéo huấn luyện các con thú vật như la, ngựa và voi. Con người thuần thục, giới đức trang nghiêm là hơn tất cả:

(Pháp Cú 322)

Con la được huấn luyện qua

Trở nên thuần tánh, tỏ ra tốt lành,

Ngựa nòi sinh chốn sông xanh

Sau khi huấn luyện, trở thành ngựa hay,

Voi ngà to lớn quý thay

Sau khi huấn luyện voi này tuyệt luân,

Con người nếu chính bản thân

Tự mình thuần hóa được luôn chính mình

Mới là người thật tài tình!

Đức Phật khuyên chúng sinh hãy từ bỏ cả tham lẫn sân. Ngài ví một chiếc thuyền như thể xác, như tấm thân con người do năm uẩn tạm hợp. Thân này sẽ tan rã vì vô thường, nên xét kỹ thời thấy nó quả thật trống không. Nước trong thuyền là những tư tưởng xấu cần diệt trừ. Tát cho khô nước tức là dập tắt ngay lửa tham sân. Khi thuyền khô cạn nước thời thuyền trở nên nhẹ nhàng để mau chóng qua bờ. Thân tâm dẹp sạch tham dục và sân hận thời trở nên thanh tịnh, đó là điều kiện tốt để sớm chứng được cảnh Niết Bàn:

(Pháp Cú 369)

Tỳ kheo tát nước thuyền này

Thuyền không, nhẹ nhõm xuôi ngay theo dòng,

Tham và sân trừ diệt xong

Thân này cũng nhẹ thoát vòng nhiễm ô

Niết Bàn mau chóng qua bờ.

Sân hận là tình trạng bất ổn của tâm. Đối với Phật giáo, hoàn toàn không có cái gọi là sân hận chánh đáng. Sự sân hận, dù ở mức độ nhẹ nhất cũng là bất ổn. Nó được xem như thuốc độc gây hại cho “tâm”. Đức Phật kêu gọi chúng ta lấy tình thương báo đáp thay vì thù hận. Lấy oán báo oán thời oán ấy chất chồng. Lấy ân báo oán thời oán ấy mới tiêu tan. Khi sân hận có mặt thì hạnh phúc không thể hiện diện trong tâm. Nếu chúng ta muốn thế giới này bớt bạo động và trở nên nhân ái hơn thời trước hết chúng ta phải đến với người bằng lòng nhân ái, phải an hòa và trầm tĩnh. Đức Phật từng dạy:

(Pháp Cú 5)

Khắp nơi trong cõi dương gian,

Hận thù đâu thể xua tan hận thù.

Chỉ tình thương với tâm từ,

Làm tiêu oán hận, giải trừ hờn căm.

Đó là định luật ngàn năm.

Khuynh hướng của con người là mong cầu hạnh phúc và loại bỏ đau khổ nên chúng ta cần tu tập để diệt trừ tâm sân hận. Đó không phải là vấn đề cá nhân mà còn là vấn đề xã hội, bởi vì nếu chúng ta muốn thay đổi xã hội, trước hết hãy thay đổi chính mình. Phật thuyết: “Vì vậy, các ngươi phải rèn luyện chính bản thân mình”. Ngài nói tiếp: “Nếu tâm bình thì ác khẩu không khởi, tâm chỉ còn niềm cảm thông trọn vẹn và cởi mở, một tấm lòng đầy từ ái, không còn chi phối bởi bất cứ ác nghiệp nào. Với tâm từ bi rộng lớn, sâu thẳm vô biên, ta sẽ cảm hoá những kẻ ác nghiệp thoát khỏi sân hận và oán thù”.

Theo Kinh “Thập Thiện Nghiệp Đạo” người nào không nổi sân, thì tâm không khổ não, tâm không tranh giành, tâm nhu hòa ngay thẳng, tâm từ bi như Phật, thường làm lợi ích yên ổn cho các chúng sinh, thân tướng trang nghiêm được chúng sinh tôn kính và vì có đức nhẫn nhục nên sẽ được mau sinh lên cõi Phạm Thiên.

Khi nói về hậu quả của sự giận dữ, tác phẩm “Hành Hạnh Bồ Tát” có ghi mấy câu:

“Bao nhiêu công đức tốt đẹp

Tích lũy trong một ngàn kiếp

Như bố thí, cúng dường chư Phật

Tất cả đều tiêu tan trong một cơn giận dữ.”

*

Đức Lạt Lai Lạt Ma từng nói: “Không ai cảm thấy hạnh phúc khi tâm mình nổi cơn giận dữ. Bao lâu trong lòng chúng ta còn chứa đầy sự thù hận, thì sẽ không bao giờ có hạnh phúc lâu dài. Để đạt được sự an lạc, thanh bình và chân thực, chúng ta cần phải chế ngự tính giận dữ và phát triển tình thươngvới cõi lòng rộng mở.” (How To Practice The Way To A Meaningful Life.)

Ngài cũng dạy rằng: “Giận dữ và lòng sân hận chính là kẻ thù của chúng ta. Chúng là những ác tính cần phải khắc phục và loại bỏ, không chỉ nhất thời, mà phải thường xuyên liên tục trong suốt cả cuộc đời của chúng ta.”

Có truyện kể rằng: Một hôm, một vị samurai đến thu nợ của người đánh cá. Người này nói:

– Tôi xin lỗi, nhưng năm vừa qua thật tệ, tôi không có đồng nào để trả Ngài.

Vị samurai nổi nóng, rút kiếm ra định giết người đánh cá. Nhanh trí, người này nói:

– Tôi cũng đã học võ và sư phụ tôi khuyên không nên đánh nhau khi đang tức giận.

Vị samurai nhìn người đánh cá một lúc, sau đó từ từ hạ kiếm xuống.

– Sư phụ của ngươi rất khôn ngoan. Sư phụ của ta cũng dạy như vậy. Đôi khi ta không kiểm soát được nỗi giận dữ của mình. Ta sẽ cho ngươi thêm một năm để trả nợ và lúc đó chỉ thiếu một xu thôi chắc chắn ta sẽ giết ngươi.

Vị samurai trở về nhà khá muộn. Ông nhẹ nhàng đi vào nhà vì không muốn đánh thức vợ, nhưng rất bất ngờ khi thấy vợ mình và một kẻ lạ mặt mặc quần áo samurai đang ngủ trên giường. Nổi điên lên vì ghen và giận dữ, ông nâng kiếm định giết cả hai, nhưng đột nhiên lời của người đánh cá văng vẳng bên tai:

– Đừng hành động khi đang giận dữ.

Vị samurai ngừng lại, thở sâu, sau đó cố tình gây ra tiếng động lớn. Vợ ông thức dậy ngay lập tức, kẻ lạ mặt cũng vậy, hóa ra đó chính là mẹ ông. Ông gào lên:

– Sao lạ vậy. Suýt nữa con đã giết cả hai người rồi!

Vợ ông giải thích:

– Vì sợ kẻ trộm lẻn vào nhà nên thiếp đã cho mẹ mặc quần áo của chàng để dọa chúng.

Một năm sau, người đánh cá gặp lại vị samurai và phấn khởi nói:

– Năm vừa qua thật tuyệt vời, tôi đến để trả nợ cho Ngài đây, có cả tiền lãi nữa.

Vị samurai trả lời:

– Hãy cầm lấy tiền của ngươi đi. Ngươi đã trả nợ cho ta rồi!

*

Nguyện cho tất cả chúng sinh nhổ bật hết mọi cội rễ sân hận và oán thù để trở thành hiện thân của tình thương bao la, trí tuệ và bi mẫn trong một cuộc sống đầy an lạc!

(Tâm Minh Ngô Tằng Giao

Tháng 1- 2014)

 X.- MÊ SI

Định nghĩa:

Ác thứ mười đoạn chót Mê Si,

Nguyên tăm tối từ hồi vô thỉ.

Màn vô minh che mờ căn trí,

Nên thường khi nhận ngụy làm chơn.

Lo huyễn thân vật chất kém hơn,

Chẳng tìm biết tinh thần đạo đức.

Dệt lưới nghi đeo điều phiền phức,

Bịn rịn đời cực khổ tang thương.

Khi nói làm ít chịu suy lường,

Mãi phạm tội nên rằng nghiệp ác.

Diệt mê si phải nương thuyền giác,

Muôn việc làm chính trực khôn ngoan.

Đừng bạ đâu tin bướng nghe càn,

Làm ngu muội đọa thân uổng kiếp.

Ác trừ xong hiện ra thiện nghiệp,

Lóng nguồn chơn Phật tiếp dẫn cho.

Trồng cây lành vị quả thơm tho,

Tuy không thấy mà sau chẳng mất.”

(Khuyến thiện – Vô Danh cư sĩ)

Mê si.- Tội ác này do sự thiếu óc phán đoán, thiếu sự nghĩ suy mà ra; vì vậy, con người ít hay phân biệt được lẽ phải trái, bo bo giữ thiển kiến sai lầm, chẳng chịu nhìn nhận chân lý, suốt cả đời ngu muội, chỉ biết mê man theo những vật nhỏ nhen, mau tan mau rã, chỉ biết tin bướng làm càn, không tìm hiểu con đường giải thoát.

Hãy xoá bỏ các điều mê tín, qui thuận theo tinh thần đạo đức, lánh chốn mê lầm tỉnh cơn mộng huyễn, phá tan màn vô minh che mờ tâm trí, lần bước trên con đường đạo hạnh, đi đến chỗ Bất diệt, Bất sanh.

(SGTVTB 2004, tr. 193)

Dẫn chứng:

Anh chàng tà kiến được Đức Phật độ

Ương Quật Ma La là tên mà dân chúng Kiều Tát La đặt cho Ahimsaka từ khi chàng bắt đầu chuỗi ngày tàn bạo giết người, chặt lấy ngón tay và đeo lên cổ như một vòng hoa (Tên Ahimsaka do cha chàng đặt có nghĩa là “Người vô tội”)

Một cận thần rất trung thành của vua Ba Tư Nặc, nước Kosala, tên  Bhaggava Gagga, thuộc giai cấp Bà la môn, nổi tiếng là bác học, đã phục vụ trong triều, như một quan giáo thụ. Bhaggava và phu nhân tên là Mantani sinh được một đứa con trai. Và theo phong tục thời bấy giờ, người cha phải lập bản tử vi cho đứa con mới sinh ra. Ông đã thất vọng, vì căn cứ theo đó thì con ông chào đời dưới một ngôi sao xấu. Đó là “Đạo Tinh” hay “sao ăn cướp”. Nó cầm bổn mạng cho một người mang tên tướng cướp giết người.

Sáng hôm ấy, khi quan giáo thụ vào yết kiến vua Ba Tư Nặc, và hỏi thăm xem “đêm qua hoàng thượng ngủ ngon không ?”, thì được nhà vua trả lời vua đã trải qua một đêm mộng mị kinh hoàng. Nhà vua nói:

– Trẫm đã thức giấc vào nửa đêm, sau một ác mộng thấy những võ khí sắc bén của trẫm nằm ngổn ngang cạnh giường. Chúng loé lên những tia sáng rùng rợn. Và phải chăng đây làm điềm chẳng lành, báo hiệu một sự đe dọa nguy hiểm cho trẫm, hay cho vương quốc chúng ta ?

Đại thần Bhaggava cũng thuật lại cho nhà vua biết rằng, nhiều hiện tượng kỳ lạ đã xảy ra trong kinh đô, có lẽ là do nguyên nhân vợ ông vừa hạ sinh một đức con trai, mà lá số tử vi của nó, là lá số tử vi của một đại đạo tặc. Nhà vua liền hỏi Bhaggava coi lá số tử vi ấy có nói rõ thằng bé sẽ trở thành đại đạo tặc một mình, hay nó sẽ lập đảng với những tay hung bạo khác. Đại thần Bhaggava thành thật tâu rằng, nó sẽ trở thành đại đạo tặc đơn độc.

Tiếp theo, đại thần Bhaggava cũng thỉnh ý nhà vua xem ông có nên giết đứa bé ngay bây giờ, để ngừa trước sự nuôi dưỡng tội lỗi trong tương lai. Vì là một đệ tử thuần thành của Đức Phật, vua Ba Tư Nặc  liền sáng suốt phân tích rằng, tuy thằng nhỏ có lá số tử vi xấu như thế, nhưng nếu ngay từ bé, chúng ta để tâm giáo dục nó một cách cẩn thận, thì nó sẽ có thể không trở thành đạo tặc. Đoạn nhà vua ra lệnh cho Bhaggava bảo vệ và dạy dỗ thật tốt cho con mình, hầu tránh sự báo trước của lá số tử vi.

Sau đó, vợ chồng Bhaggava và Mantani quyết định đặt tên con là “Ahiṃsaka”,  nghĩa là “Người Vô Hại”, hy vọng danh tánh và sự nuôi dưỡng trong thiện pháp sẽ thay đổi “căn xấu” ẩn nơi tâm khảm của đứa con. Ahiṃsaka lớn lên vừa đẹp trai khỏe mạnh vừa thông minh, và có hạnh kiểm rất tốt. Vì con học giỏi, nên cha mẹ Bhaggava-Mantali phải gởi lên trường Takkasila, một đại học nổi danh thuở bấy giờ ở Ấn Độ, để hoàn tất học nghiệp.

Ðược gởi đến Hoa Thị Thành (Taxila) từ thuở bé, Ahimkasa chỉ thụ giáo với danh sư Mani, và trở thành một sinh viên lỗi lạc. Tài năng và đức hạnh của Ahimsaka chỉ chiếm được lòng tin yêu của sư phụ chàng nhưng lại chuốc lấy nhiều sự ganh tỵ ghét ghen của bạn đồng môn. Ðể lung lạc ông thầy, các bạn đồng môn của Ahimsaka phao tin rằng chàng có tình ý với cô vợ của Mani. Trước những tin đồn bất chánh ấy, danh sư Mani đều tỏ ra dửng dưng không chút xao xuyến, nhưng bà vợ trẻ của ông lại xúc động vì ngỡ rằng chàng trai trẻ thầm yêu mình thật. Thấy chàng khôi ngô tuấn tú, bà tìm cách lân la dọ ý, và chẳng bao lâu bà trở nên say mê Ahimsaka một cách điên cuồng.

Một hôm thừa lúc vắng người, bà cho gọi Ahimsaka đến và ngỏ hết nỗi lòng. Bị chàng trai thẳng thắn cự tuyệt, bà Mani xấu hổ đến cùng cực và bèn rấp tâm mưu hại chàng cho bỏ ghét.

Khi nghe chính miệng vợ mình thuật lại hành vi đê tiện của tên đệ tử thân tín. Mani phừng phừng nổi giận. Nhưng vốn là một tay đa mưu nham hiểm, ông không lộ vẻ bất bình ra mặt chỉ mời Ahimsaka đến, tỏ lời thân ái rồi bí mật bảo:

– Này Ahimsaka! Con theo thầy học đạo đã khá lâu. Lòng cương trực và ý chí cầu tiến của con khiến thầy rất đẹp lòng. Vì vậy thầy nhất định chọn con làm người kế thừa tông môn ta.

Trước thâm tình của sư phụ, Ahimkasa bồi hồi xúc động, chàng kính cẩn thốt lời tạ ân, thì Mani đã tiếp:

– Môn phái của ta có một bí pháp vô cùng tuyệt diệu. Bí pháp này chỉ được truyền trao cho những căn cơ siêu việt. Trước khi thụ huấn bí pháp này con phải tuyệt đối thanh tịnh vô nhiễm. Những ác nghiệp quá khứ của con phải được rửa sạch bằng máu người thay vì máu cừu dê như bọn phàm phu tục tử. Vậy bây giờ ta trao cho con thanh gươm thừa kế này, con phải lập tức khởi hành đi đến rừng Jalini để khởi đầu cuộc sám hối, con chỉ trở về đây gặp ta khi đã giết xong một nghìn người không hơn không kém.

Ahimkasa sững sờ, chàng không muốn tin rằng những lời vừa nghe lại được thốt ra từ miệng của con người khả kính thánh thiện mà chàng đã hết dạ kính yêu. Thấy chàng trai do dự, Mani liền đem hết tài hùng biện ra thuyết phục. Cuối cùng Ahimsaka đành phải vâng lời, gắng gượng ra đi mà lòng hoang mang khôn tả.

Khi vừa hạ sát xong nạn nhân đầu tiên, Ahimkasa kinh hoàng đến điên dại. Từ đó gặp ai chàng cũng vung gươm chém liền, bất kể nam nữ, già trẻ thân sơ. Tiếng than khóc của các gia đình nạn nhân vang đến tai vua quan, nhưng tất cả đều bất lực, bó tay trước tài nghệ vô song của Ahimsaka. Dân chúng run sợ gọi chàng là Vô Não – tức là người mất trí.

Vô não chặt lấy ngón tay út của nạn nhân sưu tập thành một chuỗi dài treo lòng thòng trên cây, về sau sợ quạ diều tha mất bộ sưu tập độc đáo ấy, chàng lại đeo vào cổ giữ khư khư như một bảo vật. Dân chúng lại đổi tên chàng thành Angulimala, có nghĩa là “chuỗi ngón tay.”

Câu chuyện về Angulimala đến tai Phật, nên một hôm trên đường du hóa, Đấng Đạo Sư cố ý chọn con đường xuyên qua rừng Jalini, nơi tên hung thủ khát máu đang hùng cứ, bất chấp những lời can ngăn của cư dân vùng lân cận.

Trong các kinh sách còn ghi lại rằng: Ðức Đạo Sư xuất hiện lúc chàng Angulimala vừa giết xong nạn nhân thứ 999. Thấy bóng Ngài Angulimala vô cùng mừng rỡ, nghĩ rằng đây là một cơ hội tốt để chàng hoàn tất sứ mạng mà tôn sư chàng đã giao phó. Angulimala rảo bước đuổi theo Phật, chiếc gươm đẫm máu cầm sẵn nơi tay, Đức Đạo Sư dùng thần thông khiến Angulimala không tài nào đuổi kịp Ngài, dù y đã thi triển hết tài nghệ. Cuối cùng Angulimala đành dừng chân cất tiếng gọi:

– Ðứng lại! Ðứng lại! Bớ sa môn!

Ðấng Đạo Sư bình thản đáp:

– Này Angulimala! Dù Như Lai đang đi Như Lai đã dừng bước. Còn con, con đã dừng bước hay chưa?

Angulimala ngạc nhiên thầm nghĩ:

– Hàng sa môn đầu trọc này không bao giờ nói láo. Vậy mà ông sư này ổng lại nói là ổng đã dừng chân, còn ta thì đang đi. Thế nghĩa là sao?

Angulimala liền hỏi:

– Này sa môn! Ông đang đi chính tôi mới là người dừng chân. Sao ông lại nói năng tương phản thế, ông muốn nói gì?

– Ðúng vậy, này thanh niên! Như Lai đã dừng chân và dừng chân mãi mãi. Như Lai đã khước từ, vứt bỏ không còn hành hung hay gây thương tổn cho một sinh vật nào. Còn con, bàn tay đang đẫm máu của đồng loại. Sao con lại đem sự đau khỗ hãi hùng cho người khác để mưu cầu hạnh phúc cho riêng mình? Vì thế mà ta bảo rằng Như Lai đã dừng còn Angulimala thì đang tiếp tục.

Angulimala bối rối. Chàng im lặng, lặng lẽ nhìn đấng Đạo Sư hồi lâu. Thái độ từ ái cùng dung mạo phi phàm của Ngài khiến chàng cảm thấy an tâm và lấy lại được sự bình tĩnh khi xưa: “Trước đây còn thơ ấu, ta có nghe thiên hạ đồn đãi rằng sa môn Cồ Ðàm là một bậc giác ngộ. Ngài có một dung nhan sáng rỡ và một giọng nói rất là từ hòa thân ái, có lẽ đây là Ngài chăng?”

Angulimala bèn vứt gươm và quỳ gối trước mặt Đức Phật, hỏi:

– Bạch sa môn! Ngài có phải là sa môn Cồ Ðàm không? Là con của Đức vua Tịnh Phạn?

– Ðúng vậy, này Angulimala! Con đã vứt bỏ thanh gươm đẫm máu kia, có nghĩa là con đã vứt bỏ con đường lầm lạc cũ, con có cần Như Lai giúp đỡ điều gì không?

– Bạch sa môn, đã từ lâu, con không hề quỳ lạy một ai, mà ngược lại ai thấy con cũng run rẫy quỳ mọp van xin được tha mạng. Con đường này không ai dám lai vãng một mình, mà thiên hạ thường rủ nhau đi từng đoàn hàng trăm người. Bạch sa môn! Con đã từng nghe rằng có những sinh vật bị khắc phục bằng võ lực, bằng cù móc hay roi vọt. Nhưng con, một con thú hoang đàng cuồng dại, lại được chế ngự bởi một người không gươm dao hay roi vọt.

Bạch sa môn! Hình bóng từ ái của Người đã khiến con muốn trở về với con đường thuần lương sống yêu thương và giúp đỡ đồng loại như những ngày xa xưa, lúc con chưa điên loạn… Nhưng ai, ai có thể cho phép chở che và giúp đỡ một con người như con – người đã giết chết nghìn nhân mạng?

– Này thanh niên, trên thế gian này có hai hạng người được xem là thanh tịnh: hạng thứ nhất là người không hề gây tội lỗi, hạng thứ hai là kẻ gây tội nhưng biết ăn năn và không bao giờ tái phạm. Nếu lòng con tha thiết muốn hoàn lương Như Lai sẽ giúp con toại nguyện.

– Bạch sa môn, con không dám nghi ngờ gì về lòng từ bi bao la của Ngài đối với con. Nhưng con đã gây tạo một ác nghiệp mà có lẽ không một ai trên thế gian này dám làm. Làm sao con có thể ước mơ làm đệ tử của sa môn Cù Ðàm, một người mà suốt đời chưa hề làm xúc não bất cứ ai?

– Này thanh niên! Ví như có một gian phòng tăm tối suốt cả nghìn năm dài. Nếu muốn thắp sáng cho nó, con cần phải đốt bao nhiêu ngọn đèn và mất bao nhiêu lâu để dẹp cho nó tươm tất?

– Bạch sa môn, bóng tối dù đã ngự trị căn phòng suốt nghìn năm nhưng chỉ cần mỗi một ngọn đèn được thắp lên thì bóng tối sẽ tan ngay, và thời gian để dọn dẹp căn phòng thì tùy thuộc vào khả năng siêng hay nhác của từng người.

– Cũng vậy, này thanh niên dù con đã sát hại cả nghìn đồng loại, nhưng nếu con thành tâm cải hối, thắp lên ngọn đèn bằng ánh sáng trí huệ của con thì bóng tối ác nghiệp u mê sẽ tan biến ngay. Con vẫn có cơ hội ngộ đạo như bao nhiêu người khác. Ðó là điều mà Như Lai xác quyết với con.

Và trưa hôm ấy đức Thế Tôn đi khất thực về với Angulimala làm thị giả, chàng đã vứt bỏ xâu chuỗi ngón tay, xuất gia làm tỳ kheo. Nhưng các bạn đồng phạm hạnh vẫn theo cư dân gọi chàng là huynh Angulimala.

Một hôm vua Ba Tư Nặc, vua nước Kiều Tát La đến yết kiến Phật. Thấy long nhan có vẻ u sầu, Đấng Đạo Sư bèn thăm hỏi:

– Này đại vương! Vì sao mà mặt mũi ủ dột như thế?

– Bạch Thế Tôn, suốt mấy tháng qua con mất ngủ vì hành vi khát máu của một tên du đãng ở rừng Jalini. Dân chúng gọi nó là Angulimala vì hắn chuyên giết người để lấy ngón tay kết vòng đeo cổ. Chính quyền địa phương cùng quân triều đình mất không biết bao nhiêu công của mà vẫn chưa trừ khử được tên vô lại ấy. Ngày nào con cũng nghe báo cáo có người bị giết về tay hắn. Chính vì vậy mà trong thời gian qua con không có thời giờ rảnh rỗi đến thăm viếng Đức Thế Tôn.

– Ðại vương! Nếu hiện giờ có người báo cáo với đại vương hay rằng Angulimala đang ở cách đại vương chưa đầy 50 bước thì đại vương nghĩ sao?

Vua Ba Tư Nặc liền đứng phắt dậy dòm nhớn nhác tóc râu đều dựng ngược, mặt biến sắc nói nhanh:

– Con sẽ huy động quân sĩ giết hắn ngay lập tức để trừ hậu hoạn cho cư dân Kiều Tát La.

– Nhưng nếu Angulimala cạo bỏ râu tóc xuất gia làm tỳ khưu, thì đại vương sẽ đối xử với y như thế nào?

– Bạch Thế Tôn! Nếu đó là một chuyện có thật thì con sẽ đầu thành đảnh lễ Đấng Điều Ngự hy hữu của muôn loài. Nhưng con không tin rằng tên mất dạy ác ôn đó lại có thể thay tâm đổi tánh cho được.

Ðức Phật mỉm cười, đưa tay chỉ một sa môn trẻ tuổi, hình dung tuấn tú, uy nghiêm đang ngồi trầm tư trên một tảng đá gần hương thất bảo:

– Này đại vương! Vị tỳ kheo có dáng điệu từ hòa kia trước đây ba ngày được dân chúng gọi là hung thần rừng Jalini.

Vua Ba Tư Nặc giật mình kinh ngạc hồi lâu mới nói:

– Bạch Thế Tôn! Nếu những lời nói trên không được thốt ra từ kim khẩu của Thế Tôn thì con không thể nào tin được. Bạch Thế Tôn! Con muốn được diện kiến cùng tôn giả ấy.

– Ðại vương cứ tự tiện.

Vua Ba Tư Nặc bèn rời chỗ ngồi, e dè đến chỗ tôn giả Angulimala đang ngồi rồi vái chào và hỏi:

– Thưa tôn giả, Ngài tên là gì?

– Thưa đại vương, tên của tôi là Vô Hại, nhưng vì một ác nghiệp trước ngày xuất gia nên mọi người đều gọi tôi là Angulimala, nghĩa là “Chuỗi ngón tay.”

– Thưa tôn giả, trước đây một tuần, Ngài ở đâu và làm gì?

– Tâu đại dương, tôi trú ngụ tại rừng Jalini và làm tên hung thần ở vùng ấy.

– Bạch đại đức, thật là hy hữu! Thật là kỳ diệu. Xin đại đức cho phép trẫm được cúng dường y bát và ngọa cụ.

– Thưa đại vương! Các bạn đồng phạm hạnh đã cho tôi đầy đủ mọi thứ cần dùng…

Và vua Ba Tư Nặc sau khi đảnh lễ Đấng Đạo Sư tán thán và cáo từ ra về, lòng nhẹ nhõm như một phiến mây.

Tỳ kheo Angulimala tuy đã xuất gia và được Đấng Đạo Sư ân cần khai thị nhưng lòng thầy luôn luôn bị xao động. Lúc nào và ở đâu, thầy cũng nghe văng vẳng tiếng than khóc cùng rên la của các nạn nhân bị chính thầy sát hại dạo trước. Trên đường đi khất thực dân chúng thường nhìn thầy với đôi mắt thù hận lẫn sợ hãi. Tuy đã có lệnh bảo hộ của vua Ba Tư Nặc, nhưng cũng rất nhiều khi, thầy trở về tinh xá với y bát tả tơi, thương tích đầy mình, thầy vẫn im lặng chịu đựng không hề kêu van hay lẩn trốn.

Ngày kia, lúc đi thọ bát tôn giả Angulimala gặp một thiếu phụ đang lâm bồn. Gặp sản phụ nằm rên siết bên đường, động lòng bi mẫn, thầy trở về bạch Đức Đạo Sư, xem có cách gì cứu giúp nạn nhân không? Phật dạy:

– Con hãy đến gặp người thiếu phụ ấy và chúc lành cho nàng như thế này: “Thưa chị, từ ngày sinh ra đến nay, tôi chưa hề cố ý tiêu diệt đời sống một sinh vật nào. Do lời nói chân thật này, ước mong chị được mẹ tròn con vuông.”

Tỳ kheo Angulimala bối rối:

– Bạch Thế Tôn! Làm sao con dám thốt ra câu ấy… khi con là “chuỗi ngón tay”?

– Này tỳ kheo, từ ngày sinh ra cho đến nay có nghĩa là từ khi con xuất gia, sanh vào dòng Thánh vâng giữ đời phạm hạnh.

Thầy tỳ kheo trẻ tuổi liền hoan hỷ hối hả ra đi. Người thiếu phụ vẫn còn nằm rên siết bên vệ đường. Tôn giả Angulimala liền gởi lời chúc lành đến cho nàng sau một bức mành trúc. Kỳ diệu thay, một chú bé kháu khỉnh liền chào đời trong sự vui mừng của tất cả mọi người hiện diện… Từ ngày đó các bạn đồng phạm hạnh gọi thầy Angulimala là Paritta có nghĩa là “chúc lành.”

Và cũng kể từ ngày hôm ấy, tôn giả Paritta thêm vững niềm tin, tinh cần tu tập, chẳng bao lâu thầy đắc quả A La Hán. Câu chúc lành của thầy gởi đến người thiếu phụ lâm bồn dạo nọ được xem như một bài kệ cầu an và được lưu truyền làm mọi người đều kinh ngạc. Người ta muốn biết rằng tại sao một con người hung bạo, đầy dãy nghiệp chướng như thế mà lại có thể đạt đến A La Hán quả, một quả vị mà các bậc hiền nhân đầy phước báu như tôn giả A Nan vẫn chưa chứng đắc.

Ðể giải đáp, Đức Đạo Sư đã dạy:

– Trên thế gian này, mọi người đều bình đẳng với nhau ở khổ đau cũng như giác ngộ. Thầy Angulimala trước kia là người hung bạo, đầy dãy nghiệp chướng như thế, nhưng về sau thầy đã tinh cần miên mật phát huy trí huệ sẵn có của thầy, đánh bạt hết ác nghiệp, giống như vầng trăng ló dạng ra khỏi mây mù, chiếu sáng thế gian. Lời dạy của Đấng Đạo Sư đã được kết tập thành câu pháp cú 173 lưu truyền cho đến ngày nay. Cũng như trong kinh Pháp cú câu thứ 422 đã ghi lại lời khen ngợi của Đấng Đạo Sư khi ngài đề cặp đến đức vô úy lòng khiêm tốn của tỳ kheo Angulimala tức là La Hán Paritta:

“Người vô úy, cao thượng như một bậc đại thánh, người đã tự khắc phục không còn dục vọng, người đã rửa sạch mọi nhiễm ô, đã giác ngộ, người ấy Như Lai gọi là Bà La Môn.”

Danh từ Bà La Môn trên được người Ấn Ðộ dành để gọi những kẽ thuộc giai cấp cao sang quyền quý nhất trong xã hội loài người.

(NLHMNĐV tổng hợp)

Người mù sờ voi 

Thuở xưa có một Quốc Vương

Tên là Cảnh Diệp dễ thương, hiền hòa

Chăm lo dân chúng nước nhà

Nhân từ, thuần hậu, gần xa mến Người

Người đem Phật Pháp dạy đời

Cho nên thời đó khắp nơi an bình

Ngoài dân chúng, trong triều đình

Đạo mầu nhuần thấm, nghĩa tình chứa chan.

*

Tiếc thay bên cạnh ngai vàng

Vẫn còn vài vị đại thần kém may

Tôn thờ ngoại đạo mê say

Luôn gieo mâu thuẫn, mãi gây bất hòa,

Quốc Vương lòng dạ xót xa

Nghĩ suy tìm cách vạch ra lỗi lầm

Mong sao hoán cải thành phần

Còn xa Cửa Phật, chưa gần Thích Ca.

*

Một hôm lệnh Quốc Vương ra

Ai mà bị tật mù lòa bẩm sinh

Đại thần trong chốn triều đình

Phải ra công kiếm, dẫn trình quốc vương.

Các quan kiếm khắp xóm làng

Gom về một đám người mang tật mù

Dắt nhau cùng bước lần mò

Tay khua gậy trúc, chân dò lối đi.

*

Mọi người chẳng rõ chuyện chi

Vua cười khẽ nói: “Có gì lạ đâu,

Những người mù đã từ lâu

Con voi chẳng biết đuôi đầu ra sao

Đưa voi cho họ sờ vào

Để xem họ tả thế nào mà thôi!

Hãy khuyên họ cố tranh tài

Ai mà tả đúng Trẫm thời thưởng cho!”.

*

Vui thay cả đám người mù

Chuồng voi gần đó được đưa ngay vào

Kềm voi kỹ lưỡng trước sau

An toàn, chắc chắn. Đua nhau mà sờ!

Chàng nào cũng nghĩ như mơ:

“Xưa nay mình có bao giờ sai đâu

Tay ta sờ giỏi hàng đầu

Luôn luôn chính xác, từ lâu tinh tường!”.

Sờ voi xong họ vui mừng

Kéo nhau trở lại hoàng cung tranh tài.

*

Người sờ đúng cái vòi dài

Nói voi giống chiếu nhà ai cuốn tròn,

Người sờ phải cái ngà thon

Nói voi giống chiếc sừng non trâu làng,

Người sờ tai, cãi oang oang:

“Con voi giống cái quạt nan mùa hè

Quạt sao mát gớm mát ghê!”.

Chàng mù kế tiếp vội chê mọi người

Hông voi sờ đúng tận nơi

Chàng bèn lên tiếng: “Voi thời khác chi

Bức tường dài, lại phẳng lì

Chính tay tôi đã ôm ghì nó đây!”.

Người sờ chân nói:” Chán thay!

Các anh trật hết! Voi này chẳng qua

Giống như một cái cột nhà

Tôi đây ôm thử khó mà nâng lên!”

Người sờ đuôi vội cãi liền:

“Các anh thật đúng những tên… mù lòa,

Con voi giống chổi quét nhà

Tôi cầm, tôi nắm, tôi chà hồi lâu!”.

*

Thế là cả đám gây nhau

Chàng nào cũng nghĩ mình đâu có lầm!

Nói nhao nhao, cãi rầm rầm

Gậy khua lên tưởng như gần phang nhau.

Vua, quan kẻ trước người sau

Nhìn vào hoạt cảnh tránh đâu khỏi cười,

Quốc Vương nói với mọi người:

“Các khanh thấy đó! Trò đời khác chi!

Chỉ riêng hình dáng voi kia

Người mù nào có biết gì rõ đâu

Vậy mà xúm lại cãi nhau

Nghĩ mình tài giỏi hàng đầu kém ai!”

*

“Trong triều đình cũng vậy thôi

Tà ma ngoại đạo lắm người vẫn theo

Tôn thờ chủ nghĩa, giáo điều

Với bao học thuyết mang nhiều lầm sai,

Chỉ hay một, chẳng biết hai

Mười phần chân lý nào ai tỏ tường!

Giữa vùng ánh Đạo thênh thang

Chỉ riêng Đức Phật vô vàn kính yêu

Là người giác ngộ mọi điều

Dạy ta chân lý cao siêu nhiệm mầu!”

*

“Các quan hổ thẹn cúi đầu

Kể từ khi đó rủ nhau tu hành

Phụng thờ Tam Bảo chân thành

Ước mong thoát kiếp tử sanh luân hồi!”

(Phỏng theo bản văn xuôi của Hoàng Minh

Truyện Cổ Phật Giáo – Truyện Thơ – Tập 2

Tâm Minh Ngô Tằng Giao)

Giấc Mộng Hoàng Lương

Nhắc tới “giấc mộng hoàng lương” chắc không mấy người là không biết. Nhưng hàm ý sâu xa chứa đựng trong đó không hẳn ai cũng biết.
Truyện kể rằng vào đời Đường Thái Tông, có một đạo sĩ tên là Lữ Ông chu du tới Hàn Đan và ở trong một nhà khách nọ. Trong thời gian đó có một người trẻ tuổi tên là Lư Sinh cũng thường tới nhà khách đó để giết thời gian. Sau khi gặp Lữ Ông, Lư Sinh kể chuyện mình sinh ra không gặp thời như thế nào cho Lữ Ông nghe. Một lúc sau, có thể vì nói chuyện đã mệt Lư Sinh ngủ gật. Lữ Ông với tay lấy từ phía sau lưng ra một chiếc gối ruột rỗng bằng gốm đưa cho Lư Sinh và nói:

– Cho anh mượn dùng tạm!

Lư Sinh đón chiếc gối và ngủ ngay lập tức, rồi chỉ một lát sau anh ta chìm vào một giấc mơ. Trong giấc mơ anh ta thấy mình đi tới một cái sân , trong sân có một ngôi nhà lộng lẫy, người chủ ngôi nhà đó nhìn thấy Lư Sinh quần áo chỉnh tề liền mời anh ta vào trong và tiếp đãi rất ân cần , đồng thời lại gả cả con gái cho Lư Sinh. Mọi chuyện của Lư Sinh đều vô cùng thuận lợi. Lư Sinh được ghi tên trên bảng vàng và làm đến chức tể tướng. Nhưng sau đó Lư Sinh đã gặp phải chuyện phiền phức và bị giáng xuống làm tri huyện. Thế nhưng 3 năm sau anh ta lại được triệu về kinh, và không lâu sau lại trở về chức tể tướng. Nhưng đúng vào lúc anh ta đang ở đỉnh cao của danh vọng , mọi chuyện đều như ý thì bị người khác vu cho tội mưu phản và bị bắt. Trước khi vào ngục, Lư Sinh nói với vợ : “Nhớ lại khi xưa lúc ta còn mặc áo vải đi lang thang trên phố Hàn Đan, tuy nghèo khổ nhưng lại tự do, và ăn thấy ngon miệng, ngủ cũng ngon giấc. Nhưng nay thì chẳng còn gì nữa!”. Sau đó Lư Sinh tuy được miễn tội chết, nhưng vẫn bị lưu đày tới vùng biên cương. Mấy năm sau được chứng minh là vô tội, Lư Sinh lại được mời về kinh làm tướng, còn 5 đứa con trai đều làm lên chức quan to. Khi về già Lư Sinh muốn cáo lão về quê song Hoàng thượng không cho, Lư Sinh buồn rầu mà chết.

Đúng lúc đó Lư Sinh tỉnh giấc, mở mắt ra vẫn thấy Lữ Ông ngồi bên cạnh, nồi cháo hạt kê vàng vẫn còn chưa chín, tất cả vẫn như cũ.

Lư Sinh thốt lên:

– Ôi! Thì ra là một giấc mộng!

Lữ Ông nói bằng vẻ sâu xa:

– Đời người vốn dĩ là một giấc mộng mà!

Câu chuyện trên đầu tiên xuất hiện trong “Thẩm trung ký” là cuốn tiểu thuyết truyền kỳ đời Đường, chủ yếu nói về quá trình vinh hoa suy tàn của đời người. Nó mang đậm màu sắc tôn giáo – đó cũng chính là tư tưởng hư vô của đạo gia và tư tưởng về quan niệm vô thường của đạo Phật.

Con người ta sống ở trên đời, bon chen giành giật cũng chỉ vì danh lợi. Người theo đuổi chữ danh hướng về triều đình, người theo đuổi chữ lợi nhìn ra chợ búa. Người dành được vinh hoa phú quý vui sướng hớn hở, người thua cuộc đói nghèo than thân trách phận. Nhưng theo quan điểm của hư vô và vô thường thì tất cả những thứ đó đều là vô nghĩa, giống như giấc mộng hoàng lương !

(Nguồn: annapham82.wordpress.com)                

*Cuộc đời vốn dĩ là mộng mị tạm giả, nhưng vì si mê nên ta thấy là thật rồi sinh ra bám chấp, tạo vô số những nhân xấu ác lỗi lầm, để rồi nhận chịu muôn ngàn nỗi đau thương thống khổ một cách oan uổng. Chư Phật và chư Bồ Tát nhìn thấy mà chua xót xốn xang, các Ngài chẳng quản nài gian lao khó khổ vì bọn phàm mê chúng ta mà ra sức giáo hóa trãi suốt vô lượng vô biên kiếp qua, mỏi miệng đắng lời thở than khuyên nhủ: “Khổ đã lắm đủ rồi xin đừng tạo thêm nữa!” Vậy mà chúng ta vẫn ngoảnh mặt làm ngơ, cô phụ lòng từ bi bao la của các Ngài, cam phận lặn hụp mãi trong bể trầm luân sanh tử:

“Cảnh thế gian dường thể chốn ao tù,

Trong biển khổ mấy ai mà thoát đặng”.

 

CHƯƠNG 5 TÓM KẾT

A/- Nếu muốn vãng sanh thì cần phải có hai điều

Chư cổ Đức hằng khuyên dạy, chúng sanh muốn vãng sanh Tây Phương thế giới, ra khỏi sinh tử trần lao thì cần phải giác ngộ hai điều:

Một là: vô cùng nhàm chán và sợ hãi nỗi thống khổ nơi dòng trầm luân sống chết này.

Hai là: tin tưởng chắc chắn rằng danh hiệu Phật A Di Đà sẽ đưa ta đến bến bờ an vui, giải thoát.

Cho nên cổ nhân có nói rằng: “Ta Bà khổ, Ta Bà khổ, Ta Bà chi khổ thùy năng sổ ; Tịnh Độ lạc ! Tịnh Độ lạc ! Tịnh Độ chi lạc thùy năng giác”. Nghĩa là : Ta Bà là cái cõi khổ mà cái khổ ở nơi Ta Bà có ai kể xiết. Tịnh Độ là cõi vui mà cái vui ở nơi Tịnh Độ có ai biết đặng!

Ôi ! cả sang hèn chẳng ai thong thả,

Sao nhơn sanh cứ mãi đắm say.

Chẳng tu thân đặng dựa Phật Đài,

Cho thong thả hưởng mùi sen báu.

Thần Thức nhập Thai Sen tinh hảo,

Nên khỏi màng lo nỗi khổ sanh.

Thân thì Thân Công Đức hiền lành,

Bất di dịch khỏi vì khổ lão.

Thể Thanh Tịnh thường không huyên náo,

Hết lo toan nắng lạnh gió mưa.

Khổ bịnh kia bởi đó mà chừa,

Ta thoát cuộc lao đao vì nó.

Đường sanh mạng Phật, ta đồng thọ,

Tánh an nhiên bất diệt trường tồn.

Tử thần kia đâu dám dắt hồn,

Thoát luân chuyển khỏi đeo khổ tử.

Cuộc y thực muốn chi đủ thứ,

Không nhọc nhằn lo việc sanh nhai.

Trí yên nhàn nhìn cảnh Phật Đài,

Khỏi quả khổ mưu cầu bất đắc.

Cả Hải Chúng thảy đều vững chắc,

Toàn dân lành đâu có đắn đo.

Dứt ái ân quyến thuộc chuyện trò,

Thoát sống khổ thương yêu ly biệt.

Chữ Hoà Thuận kể sao cho xiết,

Tâm đồng nhau thượng thiện vui vầy.

Cảnh như như chẳng có đổi thay,

Không màng biết phân chia nhơn ngã.

Sẵn vị ngôi rành phân thượng hạ,

Khỏi khổ câu oán ghét gặp nhau.

Thân tâm thường trụ hết rạt rào,

Chất thô trược tiêu tan mất cả.

Cõi Tịnh Độ lắm điều thanh nhã,

Khổ buồn rầu lo sợ chẳng còn.

Chốn Ta bà tim lụn dầu mòn,

Thân tứ đại của người cũng thế.

Mau thức tỉnh tu thân kẻo trễ,

Đến tội rồi mới hối muộn màng.

Chi cho bằng ta sớm lo toan,

Gìn giới luật nghe Kinh trọng Phật.

Đến lâm chung quả lành đâu mất,

Cõi Tây Phương chư Phật đợi chờ.

Việc tu thân thiện tín hẫng hờ,

Chừng họa đến e cho khó tránh.

Môn Tịnh Độ là phương cứu cánh,

Rán phụng hành kẻo phụ Phật xưa.

Lòng từ bi chẳng quản nắng mưa,

Xông thuyền giác rước đưa sanh chúng.

Trong một nước nhân tài hữu dụng,

Kẻ tu hành đa phước thì nên.

Quyết trau thân tánh hạnh cho bền,

Niềm ơn nghĩa toan đền dứt nợ.

Ao sen báu Tây Phương đua nở,

Chờ chúng sanh niệm Phật chí tâm.

(Lời Khuyến Thiện – của Ông Vô Danh cư sĩ)

*Thiện Đạo Đại Sư là Phật A Di Đà thị hiện, cũng là Tổ sư đời thứ hai của Tịnh Độ Tông, Ngài có dạy rằng:

“Người niệm Phật khi sắp mãn phần, muốn được sanh về Tịnh Độ thì điểm cần yếu là đừng sợ chết. Phải thường nghĩ thân này nhơ nhớp, biết bao điều khổ lụy trói vây! Nếu bỏ được thân huyễn hôi nhơ, sanh về Cực Lạc, thọ thân kim cương thanh tịnh, sẽ thoát khỏi luân hồi khổ thú, hưởng vô lượng an vui. Ví như bỏ chiếc áo cũ rách đổi lấy đồ trân phục còn điều chi đáng thích ý bằng. Nghĩ như thế buông hẳn thân tâm, không còn lo buồn tham luyến. Lúc vừa có bệnh thường liền nghĩ đến sự vô thường, một lòng niệm Phật chờ chết. Nên dặn thân thuộc chớ lộ vẻ bi thương, cùng bàn việc hay dở trong nhà, nếu có ai đến thăm chỉ khuyên vì mình mà niệm Phật, đừng hỏi thăm chi khác. Cũng không nên dùng lời dịu dàng an ủi, chúc cho sớm được lành vui, vì đó là chuyện bông lông vô ích. Phải bảo trước cho quyến thuộc biết: lúc mình bệnh ngặt sắp mất, đừng rơi lệ than khóc hoặc phát ra tiếng than thở âu sầu, làm cho kẻ lâm chung rối loạn tâm thần, lạc mất chánh niệm. Nói tóm lại, tất cả chỉ giữ một việc xưng danh trợ niệm cho đến khi tắt hơi. Nếu lại được bậc thiên tri thức, hiểu rành về Tịnh Độ thường đến nhắc khuyên, thật là diệu hạnh!
Như lúc lâm chung, biết áp dụng phương pháp này, tất sẽ được vãng sanh, không còn nghi ngờ chi nữa.
Việc vượt qua cửa tử là điều rất quan hệ lớn lao, phải tự mình gắng sức mới được.
Nếu một niệm sai lầm, tất nhiều kiếp sẽ chịu khổ lụy. Đâu có ai thay thế cho mình? Phải chú ý nghĩ suy và ghi nhớ kỹ!”

*Những tấm gương vãng sanh sau đây là những bài pháp sống động, đáng cho chúng ta ghi khắc vào tâm khảm để thường xuyên cảnh tỉnh tự sách tấn chính mình.

Châu Triệu Pháp

Châu Triệu Pháp người ở phường Nghĩa Ô, tỉnh Triết Giang. Lúc tuổi trẻ ông nổi tiếng nơi nhà trường về văn chương lưu loát, học hành gồm ưu. Nhưng vì cảnh nhà thanh bần khó nổi tiến thân, ông đành gát bỏ việc khoa cử, làm nghề dạy học để nuôi sống.

Hơn sáu mươi tuổi, Triệu Pháp lại phạm phải tật trùng thính, tai nghe lùng bùng. Khi đó ông mới xét tỉnh mộng đời, phát tâm học Phật. Cảnh nhà càng lúc càng khó khăn, lắm khi ông phải tụng kinh mướn để duy trì sự sống. Lúc rỗi rảnh, lại chuyên tâm niệm Phật. Bà vợ của ông đã mù lòa từ trước, cũng theo chồng lo tu Tịnh Nghiệp.

Mùa hạ năm Nhâm Thân thời Dân Quốc, đôi mắt của Triệu Pháp cũng tiếp theo mù lòa, vợ chồng phải chịu khổ sở sống trong cảnh tối tăm chật vật. Biết là nghiệp đời trước phát hiện, ông cam lòng ẩn nhẫn, ngày đêm tha thiết niệm Phật không dứt, cầu được sớm sanh về Tây Phương.

Quang âm thắm thoát, đến sáng ngày mùng một tháng chín, Triệu Pháp bỗng gọi vợ bảo rằng:

-Đêm vừa rồi, Đức A Di Đà Thế Tôn hẹn trước tiết Trùng dương, sẽ tiếp dẫn tôi về Cực Lạc. Bà nên chuẩn bị giúp sức trợ niệm để thêm kết duyên lành!

Bà vợ e dè đáp:

-Ông thử xét nghiệm lại xem? Dù có thật cũng phải cẩn thận, chớ nên vội nói với người ngoài !

Triệu Pháp cũng hối mình lỡ lời, lấy tay vả vào má để tự răn. Tới ngày mùng ba, ông lại ôn tồn khuyên vợ gia công niệm Phật và nói:

-Hãy bền chí cố gắng tinh tấn, chớ nên thương buồn! Hai năm sau tôi sẽ theo Phật đến tiếp dẫn bà sanh về Cực Lạc! Xế mai vào giờ mùi là thời khắc tôi quy Tây. Tới chừng đó bà chớ nên than khóc, gắng bình tĩnh niệm Phật trợ duyên.

Dặn dò xong, liền cùng vợ lần đến Phật đường, khóa tụng như thường lệ.

Đúng ngọ ngày mùng bốn, dùng cháo trưa xong, Triệu Pháp nói:

-Xin giã biệt từ đây về sau tôi không còn ăn nữa !

Nói đoạn lên lễ Tam Bảo, rồi ngồi ngay thẳng niệm Phật, âm vận rất thanh nhuần. Sang giờ mùi, thần thái an lành, ông chấp tay mỉm cười rồi nhắm mắt đi thẳng. Khi nhập liệm, đảnh đầu hãy còn nóng.

Lời bình:

Rõ biển đời sống khổ dập dồn, biết quay đầu tỉnh ngộ cố gắng tu hành, là điều đáng khen thứ nhứt. Gặp cảnh mù lòa nghèo khổ, cam lòng ẩn nhẫn không trách buồn thối chuyển, vẫn tinh tấn tu niệm, là điều đáng khen thứ hai. Bởi thế cho nên, tâm thành cảm cách, Phật Thánh chứng tri, nghiệp chướng tiêu trừ, sớm về Cực Lạc. Thân nhơ huyễn lần tan nơi trược độ, tướng đẹp nghiêm bỗng hiện chốn Liên Trì. Đông buồn tuyết lạnh trẩy qua, xuân sang oanh ca lại đến. Nỗi vui khổ cảnh trần như bóng mộng, nửa thương bi nửa tợ mơ hồ. Duyên đẹp lành cõi ngọc rưới mưa hoa, mùi thanh dịu mùi pha giải thoát. Cảnh duyên của Châu Trệu Pháp đáng thương mà cũng đáng mừng vậy!

(Trích Mấy Điệu Sen Thanh – 1998, tập 4, tr. 196 – HT. Thích Thiền Tâm)

Vương, Trương, Trần

* Vương Thị người ở Thọ Kiều, thôn Đông, huyện Cần. Khi mới sanh ra cô đã không chịu ăn thịt cá. Quy y Tam Bảo từ thuở bé, cô được thầy cho pháp danh là Tịnh Long. Lúc về nhà chồng, Vương Thị mới bắt đầu tín hướng pháp môn Tịnh Độ, chuyên cần niệm Phật. Người chồng tánh thô bạo thường mạ nhục, cô chỉ biết làm thinh nhẫn chịu mà thôi.

Hơn sáu mươi tuổi, Vương Thị tu hành càng thêm tinh tấn. Một đêm bị người hàng xóm lén đốt nhà, bà hay được dập tắt kịp. Sau nhân đến dự Phật hội chùa Bảo Lâm, một vị Tăng hỏi:

– Nếu lúc ấy nhà bị cháy, bà sẽ làm sao?

Vương Thị đáp:

– Thân này đáng nhàm chán, giả sử lâm hoàn cảnh như thế, tôi sẽ nương theo nhân duyên đó mà vãng sanh!

Hơn một năm sau, người hàng xóm lại lén phóng hỏa, lần này lửa bốc cháy nhà dữ dội. Vương Thị không trốn tránh, chỉ điềm nhiên gõ mõ niệm Phật, tiếng nghe rành rẽ rõ ràng. Những người ở cách sông ban sơ thấy khói lửa bao phủ nhà bà. Bỗng đâu giữa ánh lửa hồng, một đạo kim quang tỏa rộng bay lên xông thẳng đến mây xanh. Trong đó phưởng phất có hình bóng Vương Thị đang ngồi kiết già. Khi lửa tắt tro nguội, người nhà tìm thấy di cốt của bà còn ngồi ngay thẳng trên mặt đất.

* Lại ở ấp Hạ của huyện Cần có Trương Thị, cùng với Vương thị đồng sư, pháp danh là Tịnh Âm. Lòng tín hướng niệm Phật và cảnh ngộ bất đắc ý với chồng của bà cũng tương tợ như Vương Thị. Tuy bị trăm điều biếm nhẻ, bà vẫn không lui sụt đạo tâm. Sau Trương Thị bị chứng phong co rút, nằm trên giường bịnh vài năm, song niệm Phật không xen hở. Khi lâm chung bà chấp tay chánh niệm mà vãng sanh, mùi hương lạ bay đầy nhà.

* Và ở Định Kiều thuộc huyện Cần có Trần Thị cũng đồng sư với Vương Thị, pháp danh là Tịnh Thoại. Bà là người chơn chất thật thà, đối với sự niệm Phật, cầu sanh không còn chút nghi ngờ. Bà thường bảo:

– Tôi quyết định được sanh về Cực Lạc!

Lúc lâm chung bà ngồi ngay thẳng, mỉm cười niệm Phật mà vãng sanh.

Lời Bình:

Vương Thị và Trương Thị túc nghiệp rất nặng, nên từ khi sống đến lúc chết, trải qua nhiều nỗi tủi đau gian khổ. Tuy nhiên, nhờ lòng tín nguyện bền chắc, nên kết cuộc đều được thoại ứng lúc lâm chung. Thế nên biết nghiệp nhân kiếp trước, không làm lụy được thắng quả trong đời này. Đến như Trần Thị, túc chướng nhẹ nhàng, dễ thành đạo nghiệp, sức nhẫn so lại không bền chắc bằng hai bạn kia. Song ý chí quyết cầu sanh như kẻ một đi không quay trở lại, cũng chẳng vì nhiều lối rẽ mà lạc mê đường, khiến cho người nhìn trông gương mà tinh thần sanh phấn khởi. Đây có thể gọi là “một nhà ba kiệt khách” vậy.

(Trích Mấy Điệu Sen Thanh – 1998, tập 3, tr. 78 – HT. Thích Thiền Tâm)

Trần Thị

Trần Thị là vợ của Diệp Vĩnh Xương, ở huyện Vụ Nguyên, tỉnh An Huy. Bà bẩm tánh từ ái, hay làm việc ân huệ, mến ưa sự sạch sẽ. Lúc bốn mươi tuổi, vì con trai lớn bị chứng suy lao, bà cầu khấn Phật, phát nguyện ăn chay trường. Song đứa con bởi tội chướng nhiều duyên phước kém, công đức của bà chưa đủ sức cứu vãn, nên bịnh nó chỉ tạm dứt rồi kế mãn phần. Do duyên con trai thân mến yểu vong, Trần Thị xét nghĩ chán kếp người vô thường, cưới vợ lẻ cho chồng, đem hết việc nhà ủy thác cho thứ nam và dâu, phần mình chuyên lo tu hành trì trai giữ giới.

Bà thường ở riêng một gian tịnh thất, trong đó thờ cúng Quán Âm Đại Sĩ. Sớm hôm Trần Thị kính thành lễ bái, niệm hồng danh A Di Đà và thánh hiệu Quán Thế Âm. Sự hành trì cứ liên tục như thế suốt vài mươi năm, không ngày nào bỏ sót. Bà thích hạnh bố thí, hay cứu kẻ khốn cùng cấp nạn, có ai đến xin đều vui vẻ tùy phần giúp đỡ, và khuyên họ nên niệm Phật để mau thoát khổ.

Vào tháng mười niên hiệu Dân Quốc thứ năm, Trần Thị qua đời. Đêm sắp từ trần, bà bảo quyến thuộc rằng:

– Con cháu cứ yên nghỉ, ta sẽ sanh về Tây Phương, đừng lấy làm kinh lạ!

Nói xong vẫn niệm Phật mãi không thôi. Trong thân quyến hãy còn chưa tin, nhưng đến sáng lại thăm chừng thì thấy bà ngồi ngay thẳng hướng về Tây an tĩnh mà vãng sanh rồi. Hôm sau nhập liệm, khi đốt y phục cũ và khăn tắm, bỗng đâu ánh sáng năm sắc nổi hiện lên trên ngọn lửa. Trong đó lại hiện rõ một đóa hoa sen to lớn tươi đẹp, hai bên có hai con rồng đoanh vây. Những người trông thấy đều kinh lạ, thở than khen ngợi. Bà thọ được bảy mươi ba tuổi.

(Trích Mấy Điệu Sen Thanh – 1998, tập 4, tr. 73 – HT. Thích Thiền Tâm)

B/- Tu trong cảnh duyên hiện tại của chính mình

Nếu phước duyên đương sự thù thắng thì tùy nghi chọn lựa môi trường tốt, hoàn cảnh tốt để tu niệm khỏi phải luận bàn; Còn đối với người tại gia cư sĩ, đôi khi phải vất vả đương đầu với chuyện cơm áo gạo tiền đặng duy trì sự sống cho gia đình, nhất là làm những nghề nghiệp bất thiện như: trực tiếp sát giết hay gián tiếp sát (chăn nuôi, kinh doanh thuốc sát trùng, hoặc các phương tiện săn bắt như chài lưới lọp lờ…) hay tà hạnh…miễn đừng vi phạm luật pháp nhà nước, cũng vẫn không trở ngại cho chuyện niệm Phật vãng sanh, hễ thật tâm tu là đạt (Nhưng tránh được thì nên tránh, đổi nghề được thì nên đổi, để cho việc vãng sanh được thuận lợi và chắc chắn hơn). Long Thư Tịnh Độ Văn, Vương học sĩ đã từng khuyên mọi ngành, mọi giới trong xã hội. Xin đơn cử vài nghề, như sau:

♦ Khuyên người làm nghề chài lưới

Người làm nghề chài lưới phải tự nghĩ rằng: “Cá sinh trong nước, không hại chi nơi người. Ta bèn lập xảo kế bắt nó toan đem mua bán, để nuôi mạng sống ta. Bằng ta để tâm thử nghĩ cá ở trong nước nó cũng có bà con của nó, trong bụng nhiều con, mỗi con đều có tánh mạng ta bèn sát hại, tội kia vô lượng”. Nếu biết mà đổi nghề ấy là bậc thượng vậy, bằng chưa hay vội bỏ. Vả đừng sát mạng loài cá nhỏ và các thứ ốc, sò, chình, lươn, những vật khó chết ấy.

Bởi tất cả chúng sinh đều do nhân duyên tạo thành, mà loài người tuy ở một từng bậc cân đối, tế nhị hơn loài súc vật. Nhưng cũng vẫn thuộc từng ấy nguyên liệu, vâng theo từng ấy luật nhân quả nhân duyên, cho nên chỗ chung cùng thì không có những cái riêng biệt.

Vậy nên thường niệm Phật A Di Đà, sám hối và phát lời đại nguyện rằng ‘Nguyện sau khi ta kiến Phật đắc đạo rồi, độ hết tất cả những vật mạng bị ta sát, từ trước đến giờ đều sinh Tịnh Độ’, niệm niệm không dứt, niệm tự thuần thục cũng được sinh về thế giới Cực Lạc.

Nếu đem pháp này dạy người, và khiến người truyền bá rộng ra, thời hiện đời, cũng có thể trừ tai đặng phước, thân hậu cũng chẳng mất phần sinh về ở phẩm hạ của bậc hạ vậy.

♦ Khuyên người làm nghề săn bắt chim

Người làm nghề săn bắt chim phải tự nghĩ rằng: “Loài chim bay trong rừng, ngoài đồng nội, giữa hư không, không hại chi đến người, ta tham ăn thịt, hay sinh nhiều chước khéo để bắt. Ta tiếc mạng ta, nó cũng thương mạng nó, ta thương bà con ta, nó cũng có con của nó”.

Nếu biết mà đổi nghề ấy là người bậc thượng, bằng chưa bỏ liền đặng, thì đừng sát mạng của loài nhỏ và những giống đang ấp trứng. Vả một khi loài người chưa hiểu nỗi đau khổ của đồng loại, của tất cả chúng sinh là hay sẽ là, nỗi đau khổ của chính mình, thì người ấy còn nông nổi và ích kỷ.

Và nếu ta đã biết giác ngộ rằng Cái Tâm rất bình đẳng, phổ biến chung cùng như nước đại dương, thì lẽ nào lại còn đi làm việc trái đạo ?

Vậy nên thường niệm Phật A Di Đà sám hối phát lời đại nguyện rằng ‘Nguyện sau khi ta kiến Phật đắc đạo rồi, độ hết tất cả vật mạng bị ta sát hại từ trước đến giờ, đồng sinh về Tịnh Độ’, niệm niệm không ngớt, niệm tự thuần thục, cũng sinh về thế giới Cực Lạc.

Nếu đem truyền dạy người đời, và bảo người lần lượt khuyến hóa rộng ra, hiện đời cũng có thể trừ tai hết tội, thân hậu cũng chẳng mất phần sinh về phẩm hạ của bậc hạ, hơn hẳn cõi Trời.

♦ Khuyên người bán rượu

Người bán rượu phải tự nghĩ rằng: “Năm giống lúa, vốn để nuôi người, nay đem đâm nát đặt rượu, khiến người uống say, làm những việc bất thiện, tội đó về ai ?”

Thường phải tự sám hối, niệm Phật A Di Đà phát lời đại nguyện rằng ‘Nguyện ta từ khi bán rượu trở lại đây, tất cả những tội phá hoại năm giống lúa, thảy đều tiêu dứt, sau khi ta kiến Phật đắc đạo rồi, đều độ hết chỗ dùng năm giống lúa đặt rượu, khi trồng gieo năm giống lúa, tất cả chỗ sát hại, loài vi tế chúng sinh và tất cả chúng sinh ra sức cày cấy và tất cả những người uống rượu bị say, phá làng xóm, chửi bới thiên hạ, đều sinh về Tịnh Độ’. Như vậy mỗi niệm không dứt, niệm tự thuần thục quyết định sinh về thế giới Cực Lạc.

Nếu đem pháp môn này dạy người bảo người thay nhau khuyến hóa, hiện đời khá dùng diệt tội mà thêm phước, đời sau ắt sinh về phẩm trung vậy.

♦ Khuyên người lập quán ăn

Người lập quán ăn phải tự nghĩ rằng: “Ta dùng thịt các chúng sinh, bằm xắt, nấu, nướng, cầu lợi nuôi sống, ta có bà con, muốn an ổn khoái lạc, nghề làm ăn của ta, chính do sát các loài mà đặng, rất là ác nghiệp”. Nếu thay đổi nghiệp ấy là bậc thượng bằng chưa đổi liền được, vả bỏ bớt sự sát hại loài lươn, cá chình, cua rạm, ốc, sò v.v…

Những vật đó khó chết, và bao nhiêu vật mạng vi tế, tùy phần dùng thịt, ấy là người bậc trung vậy. Nếu lại chưa được, thì cứ niệm Phật A Di Đà, còn khá hơn người không niệm.

Kế sám hối phát lời đại nguyện ‘Nguyện sau khi ta kiến Phật đắc đạo rồi, độ hết tất cả chúng sinh bị ta sát hại từ đời trước đến đời sau và tất cả thịt chúng sinh chỗ ta cần dùng, đều được sinh về Tịnh Độ’, mỗi niệm không thôi, niệm tự thuần thục, cũng sinh về thế giới Cực Lạc.

Nếu đem pháp môn này dạy người và bảo người thay nhau khuyến hóa, thời hiện đời khá tiêu diệt nghiệp tội, đời sau phước báo vô cùng.

♦ Khuyên người làm nghề hàng thịt

Người làm nghề hàng thịt phải tự nghĩ rằng: “Người tham thịt kia, nên nuôi vật mạng. Ta tham lợi kia, nên giết vật mạng. Giết vật mạng kia nuôi dưỡng thân ta, nuôi sống bà con ta. Ta có bà con, muốn an vui không bệnh. Vật kia nó cũng có tánh mạng, nếu ta giết nó, thời mắc tội vô lượng”.

Nếu biết dứt bỏ nghề hàng thịt, ấy là người bậc thượng vậy, bằng người nào chưa dứt bỏ được liền, vả cũng phải giảm bớt ấy là người bậc trung vậy.

Bằng lại chưa đổi nghiệp đặng, cũng thường niệm Phật A Di Đà còn khá hơn người không niệm.

Kế sám hối phát lời đại nguyện rằng ‘Nguyện sau khi ta kiến Phật đắc đạo rồi, độ hết tất cả chúng sinh là đã bị ta sát hại, từ bao kiếp lại đây, đều được sinh về Tịnh Độ’. Như vậy mỗi niệm mỗi niệm không dứt, niệm tự thuần thục, cũng đặng sinh về thế giới Cực Lạc.

Bằng đem pháp này dạy người và bảo người thay nhau khuyến hóa, thời hiện đời khá tiêu trừ nghiệp ác, đời sau được phước báu vô cùng.

♦ Khuyên người hành nghề mại dâm

Người hành nghề mại dâm phải tự nghĩ rằng: “Ta làm người phụ nhân, đã là không phải thiện nghiệp rồi, huống chi ta lại ở chốn phong trần, nghiệp kia lại càng bất thiện nữa”.

Nếu hay tỉnh ngộ được trừ dâm nghiệp, ấy là người bậc thượng vậy, bằng chưa đặng liền được, thì nên thường niệm Phật A Di Đà phát lời đại nguyện rằng ‘Nguyện ta ác nghiệp này lần tiêu, thiện nghiệp mỗi ngày thêm lớn. Áo cơm vừa đủ, sớm bỏ nghề này. Sau khi ta kiến Phật đắc đạo rồi, độ hết tất cả người, nhân ta mà làm nghiệp dâm đều được sinh về Tịnh Độ’. Mỗi niệm không dứt, niệm tự thuần thục, quyết định sinh về thế giới Cực Lạc.

Nếu đem pháp niệm đây dạy người, và khuyên người thay nhau khuyến hóa, hiện đời ắt được tai trừ tội hết, thân đời sau cũng được phước báu vô cùng.

♦ Khuyên người có tội ác

Người có tội ác, phải tự nghĩ rằng: “Ta một đời bình sinh đã tạo nhiều tội ác. Một mai nhắm mắt lại rồi, thì biết làm sao cho đặng”. Chi bằng sớm lo sám hối niệm Phật A Di Đà, phát lời đại nguyện rằng: ‘Nguyện ta sau khi kiến Phật đắc đạo rồi, độ hết tất cả những người mà bị ta sát hại từ bao kiếp lại đây đều được sinh về Tịnh Độ’. Mỗi niệm không dứt, niệm tự thuần thục, thời ác nghiệp cũng có thể bớt dần dần, thiện duyên càng thêm lớn, chắc sinh về thế giới Cực Lạc.

Bằng hay đem pháp môn này dạy người và khiến người thay nhau khuyến hóa, chẳng những hiện đời khá dùng diệt tội, mà thân đời sau, cũng được phước báu vô cùng…

Một kỹ nữ

Thời Dân Quốc, một kỹ nữ ở Thượng Hải, chưa được rõ tên họ, gồm đủ những đặc điểm: sắc đẹp, tiếng thanh, đàn hay, hát giỏi. Đương nhơn bản chất lại thông tuệ, có năng khiếu về thi văn. Cô thường ưa ngâm vịnh thi của Tiết Đào, một danh kỹ đời Đường, nhứt là mấy bài cảm thuật về Xuân, Hạ, Thu, Đông như sau:

XUÂN

Hoa đẹp lay cành bên gộp đá

Liễu mềm lượn gió trước hiên đông

Hoàng hôn ráng đỏ sau ngàn núi

Đêm lặng trăng soi sáng vạn tòng.

HẠ

Sắc biếc che trùm cây cỏ mát

Giai nhơn cười nụ đối gương nga

Hương trầm nhẹ tỏa trong canh vắng

Ánh ngọc xuyên song thấu trường ngà.

THU

Ngàn lau trắng phủ đầm thu bạch

Núi biếc rừng xa lá điểm hồng

Thư nhạn gởi ai người viễn khách?

Giấc vàng chợt tỉnh quạnh phòng không.

ĐÔNG

Gió rít mưa reo cài kín cửa

Tuyết bay đêm lạnh khắp giang thành

Trong phòng lò lửa vầy hơi ấm

Sẽ nhắp hương trà vị cúc thanh.

Vì Tiết Đào có tài, nên Nam Khang Vương Vi Cảo khi làm Tiết Đạt Sứ ở Tây Xuyên, có dâng biểu tiến cử cho cô làm chức Quân Trung Hiệu Thơ. Bởi thế người bấy giờ đều gọi Đào kỹ nữ là Hiệu Thơ.  Cô kỹ nữ này lại ưa ngâm vịnh thi của Tiết Đào, nên khách phong lưu cũng tặng cho danh từ thanh nhã là Hiệu Thơ.

Đang lúc thanh xuân, một hôm cô bỗng tỉnh ngộ việc trần là ô nhiễm, phát tâm quy y Tam Bảo, nguyện giữ mình nghiêm sạch. Từ đó Hiệu Thơ bỏ hết phấn son, chuyên ý tu Tịnh Độ, thuê một căn phố ở Hồng Khẩu tại Thượng Hải, đem bà mẹ về cùng ở. Trên lầu cô trang hoàng tượng Phật và Bồ Tát, có đủ tràng phan bảo cái cùng đồ thờ cúng đẹp nghiêm, mường tượng như cảnh chùa am thanh tịnh. Mỗi ngày sớm hôm, Hiệu Thơ đều lễ bái trì niệm, gót chân ít khi bước ra khỏi cửa. Ngoài số tiền gởi ngân hàng lấy lời để chi dung mỗi tháng, cô còn chút ít tài sản riêng, gởi cho người quen là Lương Quân ở Việt Đông nhờ cất giữ giùm.

Đầu tháng hai năm Dân Quốc thứ mười ba (1924), Hiệu Thơ sai bà làm công mời Lương Quân đến. Sau khi trà nước xong, cô nói:

– Tôi tu hành chưa bao lâu, hân hạnh sớm được giải thoát. Đúng ngày đó tôi sẽ vãng sanh về Tây Phương. Số tiền gởi kia, nhờ Tiên sanh trích ra lo liệu giùm việc tang lễ chôn cất, một phần cúng vào chùa để trai Tăng kinh sám truy tiến, một phần nữa làm việc phước thiện, mỗi khoản chi dụng là ngần ấy. Ngoài ra còn dư lại bao nhiêu, xin Tiên sanh cũng xử lý giùm cho mẫu thân tôi được an dưỡng trong lúc tuổi già !

Nói xong quỳ cúi lạy để gởi gắm tạ ơn trước. Lương Quân không dám nhận lễ, đứng tránh sang một bên và nói:

– Tôi sẽ hết lòng chu tất mọi việc. Nhưng cô còn đang lúc thanh xuân, sao lại vội thốt chi lời ấy ?

Hiệu Thơ yên lặng trang nghiêm không đáp, sau một lúc hỏi han thăm viếng, Lương Quân từ giã ra về.

Đúng ngày như đã dự ước, quả nhiên bà làm công đến cho hay, cô vừa không bịnh an lành niệm Phật sanh về Tây Phương. Lương Quân nghe xong rơi lệ, ngạc nhiên thở than khen ngợi, vội đến lo việc tang lễ chôn cất. Còn các điều kiện kia, ông cũng phân xử rành rẽ như lời Hiệu Thơ đã gửi gắm dặn dò.

Lời bình:

Sanh làm thân nữ, nghiệp duyên đã nặng. Người nữ mà lạc bước phong trần, thật đáng bi cảm, vì duyên nghiệp lại càng nặng hơn. Cho nên: “Bến Tầm trăng nước, nghìn sau còn sót điệu tỳ bà! Lầu Thúy sanh ca, muôn thuở vẫn cám câu bạc mệnh!”. Tuy nhiên, bể nghiệp mênh mang, quay đầu là bến. Bởi tại sao? Vì tất cả chúng sanh đều có Phật tánh và đều có thể thành Phật! Như cô Hiệu Thơ trên, đang tuổi thanh xuân tỉnh bừng hoa mộng, giữ mình nghiêm sạch gieo giống sen lành. Chưa mấy năm đài báu ghi danh, đúng kỳ hạn an lành thoát tục. Thế mới biết: Pháp môn Tịnh Độ hạng người nào cũng có thể kham tu, Vương Long Thơ đã khuyên làng phong nguyệt. Quê xưa chờ đón, khách ly hương muốn về mau trở gót. Niết Bàn kinh ghi Phật tánh thường hằng. Nguyện xin đồng nhơn, sanh lòng chánh tín !

(Trích Mấy Điệu Sen Thanh – 1998, tập 4, tr. 236 – HT. Thích Thiền Tâm)

Vương Ngưỡng Tuyền

Vương Ngưỡng Tuyền, người đời Thanh, quê ở Hàng Châu, làm nghề giết dê bán thịt. Trong thời gian hành nghề, ông giết dê rất nhiều, không biết số là bao nhiêu.

Về sau Ngưỡng Tuyền đau bịnh, thấy bầy dê đến đòi mạng, đứng chật cả trong ngoài. Khi bịnh lành, ông quá sợ hãi, liền đổi nghề, trường trai thờ Phật. Từ đó Ngưỡng Tuyền ngày đêm tụng kinh Kim Cang đủ 1500 biến, rồi tiếp sang lễ bái kinh Pháp Hoa và chuyên niệm Phật.

Lúc được tám mươi mốt tuổi, ông thấy quỉ sứ tới đòi lôi xuống Minh ty đối chất về vụ án mạng, liền kháng cự rằng:

– Đợi Phật đến tôi mới đi !

Rồi chấp tay niệm Phật chí thiết suốt cả ngày đêm. Đến năm ngày sau, Ngưỡng Tuyền thấy Phật A Di Đà hiện thân cao lớn giữa hư không, duỗi tay xuống tiếp dẫn. Ông thuật lại cho người nhà biết, rồi chấp tay vui vẻ mà qua đời.

(Trích Mấy Điệu Sen Thanh – 1998, tập 2, tr. 156 – HT. Thích Thiền Tâm)

C/- Luôn luôn suy gẫm lẽ thực của kiếp sống làm người

Với lòng đại từ đại bi Đức Thế Tôn tha thiết khuyên chúng ta nên phát nguyện cầu sanh Tây Phương, bởi vì chúng ta ở vào thời mạt pháp, nghiệp sâu chướng nặng, trí huệ mỏng manh tình chấp lại kiên cố sâu dày, cho nên ngoài niệm Phật cầu Phật lực tiếp độ ra e rằng không còn môn tu nào mà sức ta có thể tu một đời được giải thóat cả!

Chính vì thế mà người xưa hằng thiết tha cảnh tỉnh:

“Sống trên cõi đời này, người người đều quý trọng săn sóc thân xác của mình, ai biết ai hay thân là gốc khổ! Không phút giây nào mà thiên hạ chẳng tìm cầu giàu sang tiền tài danh vọng, nhưng nào dè giàu sang tiền tài danh vọng quả thật là cái nhân đau khổ sau này!

Thời giờ đi qua lẹ làn nhanh như điện tử, bấm nút một cái là xong; vạn vật chẳng bền, thảy đều suy hao tiêu mòn lụn bại! Giả sử có người sống tám chín mươi tuổi, cho dù dài lâu thế mấy rồi cũng phải lìa đời; kẻ mạng vắn, chỉ được hai ba ngày thì là dứt thở! Biết hôm nay, mấy ai rõ được ngày mai? Đêm đến lên giường nằm ngủ, chắc gì rồi không ngủ luôn, chưa kịp bái biệt đôi dép dưới giường! Một hơi thở ra nếu không hít vô lại, là đã qua đời khác!

Thân nầy dưới da là một khối thịt, tóc răng lông móng, kết tụ khác gì đống rác; gan ruột phổi phèo, chất chứa đồ ăn thức uống, đàm giải máu mủ, hôi thúi tanh dơ  y  hệt hầm cầu! Lại nữa, mùa đông lạnh lẽo ẩm ướt, mùa hạ thì nóng bức khô cằn, thứ nào cũng khổ. Tháng ngày quây quần với vô số căn bệnh hiểm nghèo quái ác, phong cùi ghẻ lác, lở thịt thúi da…đớn đau khốc liệt; tiêu hao sự sống cùng rận rệp, muỗi mòng; năm này sang năm khác lẫn lộn với kiến trùng sâu bọ sống chung! Quả thật tinh tường suy xét: tấm thân ta đây có sạch sẽ hay vui sướng gì đâu mà tối ngày lăng xăng tìm cầu đủ mọi phương thế để mà bổ dưỡng nó, làm cho trí tuệ càng ngày càng thêm mờ ám, ngu đần, không còn lo lắng đến sự tiêu diệt!

Thấu đáo lẽ thật đấy rồi nên nguyện xả ly, sao lại ngu muội điên đảo mê si còn ưa thích se sua chưng diện; trên đầu lâu  khô bày vẽ cài trâm, cài bông, thắt nơ, thắt lụa; trên da thịt thúi hôi lại ướp xạ, thoa hương, phết boi mỹ phẩm hàng hiệu tự khoe mình sành điệu thông minh; áo lụa quần là che trùm cái túi máu mũ; mền gấm chăn bông đắp trọn cái thùng phân nhơ!

Dùng hết trăm mưu ngàn kế, tận sức kiệt lực mong muốn sống mãi muôn năm, chớ đâu hay đâu ngờ đầu nhứt mắt mờ, liền mau đến trước Diêm La để mà trình diện. Lại thêm tóc bạc da nhăn,  răng rụng lưng khòm; quỷ Vô Thường hăm hở cấp tốc mang thơ hối thúc; tử thần cầm lưỡi hái hối hả truy nã săn đuổi kiếm tìm!

Ai cũng như ai đều tham tài đắm sắc, đó là con đường tắt nhanh nhất để mất thân người! Ngày ngày say sưa rượu thịt, nào ngờ đó là trồng sâu gốc rễ Địa Ngục; mưu đồ hưởng thụ vui sướng dài lâu, nhưng nào có được đâu, hưởng thụ vui sướng chỉ nhất thời để rồi thân sau phải thọ nhận khổ đau muôn đời vạn kiếp! Một mai giây phút cận kề cái chết, khi tứ đại phân ly, bên ngoài tay chân co rút, bên trong gan ruột đứt lìa, đớn đau kinh hồn khiếp vía như con rắn bị lột da, hay như con heo giẫy giụa kêu la khi bị người ta đâm họng; Cho dù vợ con có mến thương trọng vọng, cũng không cách nào kéo dài mạng sống dù chỉ một phút một giây!

Giả sử con cháu đầy nhà, thân thuộc đông nhiều thế mấy nào ai thay chết cho mình? Uổng công gia quyến than khóc kêu gào, làm cho kẻ ra đi càng thêm xót dạ đau lòng luyến lưu bịn rịn! Đường trước u ám mịt mờ, xung quanh bạn bè thân quen một người cũng chẳng thấy chẳng gặp! Ngang qua cõi chết, mấy ai mà không run không sợ, hốt hoảng, tán đởm kinh tâm; vừa vào địa ngục, tới nơi phải nhận lảnh vô lượng khảo hình thảm thương thống thiết.

Lìa đời mới bảy ngày, địa ngục trải qua các ty các án; pháp quan xử phạt nghiêm chỉnh phân minh chẳng chút nhân tình khiêm nhượng khoan hồng; quỷ sứ cầm chỉa cầm chày mặt mày vô cùng dữ dằn hung tợn. Người nào lúc còn sanh tiền tích phước tích đức làm lương làm thiện, thì được đưa về cõi Trời cõi Người; nếu khi tại thế làm ác làm gian thì ném vào chuồng cọp, hầm rắn, hố lửa, non đao, rừng kiếm…! Hồi nào nói Nhân Quả là hoang đường, bây giờ mới rõ lời chỉ dạy ấy chẳng sai chẳng trật; Trong gương tội mỗi mỗi đều chiếu lại như phim đầy đủ chỗ nơi năm tháng rõ ràng; chốn địa ngục mọi phương thức trị tội thảy đều không thiếu không sót: Cưa đâm chém chặt, cắt lưỡi, móc mắt, chảo dầu sôi, cột đồng nung, giường sắt đỏ,… nhận chịu bất tận vạn thứ hành hình. Sau đó lại đi đầu thai làm loài súc sinh mang lông đội sừng, trả bao nhiêu nợ nghiệp đã gieo khi trước. Dù anh hồi nào quả thật gan to mật lớn, tới giờ cũng phải khúp núp tái mét mặt mày trước  gươm bén đao nhọn của quỷ sứ mặt ngựa đầu trâu; ai kia thuở xưa đã khinh dễ Trời Phật Thánh Thần, nhạo cười kệ kinh, chê khinh người hiền thiện đức hạnh tu hành, giờ đây cũng phải hướng về Diêm Vương để mà cúi đầu bái lạy.

Hồn phách tuy về âm cảnh, nhưng xác thân vẫn còn nằm tại trong hòm, hoặc ba hôm, năm hôm, hoặc tám, chín tháng, nát rã ra sanh giòi sanh tửa, tuông máu tuông mủ, mùi thúi mùi hôi bốc lên xông khắp đất khắp trời! Nhà nghèo gạo cơm eo hẹp thì vứt bỏ thi thể ngoài gò hoang đồng trống, rừng thẳm núi sâu; còn giàu có của tiền dư dã thì chôn cất hay hỏa táng tử tế đàng hoàng, kèm thêm kèn trống linh đình náo nhiệt lắm người đưa kẻ tiễn!

Thuở xưa thân tướng tốt đẹp hồng nhan, ngày nay bỗng trở thành tro than tiêu tan tàn rụi; hiện thời là đống xương trắng vắng vẻ quạnh hiu, biến thành cát bụi ! Ngày trước bao nhiêu tình sâu nghĩa nặng, giờ đây bỗng chốc tợ mây tợ khói hóa thành không; Trước kia là trang anh hùng lừng danh thiên hạ, nay như bọt nổi đầu ghềnh vỡ tan chỉ trong chớp mắt! Cỏ xanh leo đầy trêu đùa bia mộ, giấy tiền treo lủn lẳn cười cợt mồ ma. Suy cùng xét cạn, tột gốc tột nguồn, thử tra tìm dò hỏi xem ra ai là kẻ có thể tránh qua bao nỗi khổ này?

Nếu người nào muốn vượt thoát khỏi sự luân hồi ắt phải mon men theo đường Phật mà đi, không nên hướng về hang ma ổ quỷ mà bước! Lại cũng phải nên biết rằng, trên tấm thân phàm phu nầy còn có Chơn Tánh thanh tịnh tròn đầy sáng suốt tạm gọi đó là danh hiệu A Di Đà Phật, dù trai dù gái dù trẻ dù già đều có phần, hoặc tăng hoặc tục thảy đều có phận. Hãy gấp rút cầu lối thoát ly bể khổ; phải chuyên cần khẩn cấp tâm tâm tưởng nghĩ đến thân sau; gấp lo gấp liệu nhận định chính xác mục đích nơi quay về đặng mà nương mà tựa!

Nếu vẫn còn mê mang trong trường mộng ảo, hẹn lần hẹn lựa nay mai, bởi do nhận xét lầm sai như vậy nên đành bỏ phí cả tuổi xuân, khiến cho người đời sau lại thương xót cho người đời sau, xương trắng mãi chất cao chập chùng như non như núi. Lục Tự Hồng Danh hãy nhanh nhanh khá mau trì niệm, chớ để Đức Di Đà ngày đêm trông ngóng; Diêm Chúa vô tình, đừng cho hộ khẩu chính mình còn nằm trong sổ bộ của ông ta! Bỏ dữ theo lành, hối cãi sự sai đã qua; chính chắn sửa chữa việc lầm chưa đến. Đối với mọi người phải thương yêu nhau như con một cha, khuyến tấn dắt dìu lẫn nhau vào con đường đạo đức; cùng chung ở một nhà tức là một nhà giải thoát, khiến ai ai cũng đồng giác ngộ tu hành, khiến người người ra khỏi vòng luân trầm sinh tử, chân thật bình yên bên bến bờ giải thoát an vui!

Xin thử hỏi, nếu nay không tin lời Phật lời Tổ thiết tha chỉ dạy, vậy tin lời nào? Niệm Phật vãng sanh dễ tu dễ chứng mà chẳng chịu tu, còn chờ đợi tu pháp môn gì? Hãy cố gắng thực hiện! Hãy cố gắng thực hiện! Chớ để kiếp người quí báu trôi qua rất là phí uổng !?

Dần dà tính thiệt so hơn,

Tuổi xuân qua mất để hờn về sau.

Sáu chữ Phật cùng nhau gắng niệm,

Chín phẩm đài sẽ chiếm ngôi vinh.

Chớ nên mình phụ lấy mình,

Trách sao Viêm Chúa vô tình chẳng dung.

Bỏ điều ác thuận tùng nẻo thiện,

Chừa lỗi xưa, tu tiến đường sau.

Lại vì quyến thuộc bảo nhau,

Cùng khuyên già trẻ sớm mau tu trì.

Khiến mỗi kẻ đều quy bến giác,

Cho muôn người đồng thoát sông mê.

Dù trong lao khổ dám nề,

Đài sen đốt mảnh hương thề nguyền xin.

Nguyền xin quyết vững tin với Phật,

Nguyền từ nay khép chặt phòng thu.

Nguyền kiếp này gắng công phu,

Thân người dễ mất quả tu khó thành.

******

Âm thầm trì niệm đêm thanh,

Rõ rành từng chữ Hồng Danh nối liền.

Chí thành, bền bĩ, tinh chuyên,

Thế Tôn dành sẵn Kim Liên một tòa !.”

(Văn Khuyến Tu – cư sĩ Nhan Bính.

NLHMNĐV tổng hợp nhiều bản dịch của chư Tôn Đức)

**********

D/- Cương lĩnh cần ghi khắc vào tim

Dưới đây là cương lĩnh tối thiết yếu cho những ai thật tâm mong cầu vãng sanh Tây phương một đời siêu thăng, vượt thoát sông mê biển khổ.

Lời chỉ dạy vàng ngọc của Ấn Quang Đại Sư

▪ Bất luận là người tu tại gia hay xuất gia, cần phải trên kính dưới hòa, nhẫn nhục điều người khác khó nhẫn được, làm những việc mà người khác khó làm được, thay người làm những việc cực nhọc, thành tựu việc tốt cho người.

▪ Khi tĩnh tọa thường nghĩ đến điều lỗi của mình. Lúc nhàn đàm đừng bàn đến điều sai trái của người.

▪ Lúc đi, đứng, nằm, ngồi, ăn mặc, từ sáng đến tối, từ tối đến sáng, chỉ niệm Phật hiệu không để gián đoạn: hoặc niệm ra tiếng, hoặc niệm thầm.

▪ Ngoài việc niệm Phật, đừng dấy khởi một niệm nào khác. Nếu khởi vọng niệm, phải tức thời bỏ ngay. Thường có lòng hổ thẹn và tâm sám hối.

▪ Nếu đã tu trì, phải tự hiểu là công phu của ta hãy còn nông cạn, chẳng nên tự kiêu căng, khoa trương.

▪ Chỉ nên chăm sóc việc nhà mình, đừng nên dính vào việc nhà người.

▪ Chỉ nên nhìn đến những hình dạng tốt đẹp, đừng để mắt tới những hình dạng xấu xa bại hoại.

▪ Hãy xem mọi người đều là Bồ Tát, còn ta chỉ là kẻ phàm phu.

Nếu quả có thể tu hành được như những điều kể trên, thì nhất định được sinh về Tây Phương Cực LạcThế Giới.

*Để kết thúc tập sách Vãng Sanh Khái Yếu này, kính mong chư vị đọc giả hữu duyên ghi khắc lời dạy của Đại sư Thiện Đạo, ngõ hầu buông xả bao nhiêu thứ dây sợi lòng thòng giữa cõi bụi hồng vốn dĩ đầy tang thương khổ lụy, đầy tạm giả mộng mị này, để thẳng tiến về quê xưa chân thật an lạc, chân thật an bình, mà ngàn năm qua vô lượng, vô số người đã thực hiện thành công, đã thực sự vãng sanh nhờ suy gẫm lời vàng ngọc này:

Da mồi tóc bạc lần lần,

Lụm cụm bước run mấy chốc.

Dù sang vàng ngọc đầy nhà,

Vẫn khổ suy già bịnh tật.

Ví hưởng khoái lạc ngàn muôn,

Đâu khỏi vô thường chết mất?

Duy có đường tắt thoát ly        

Chỉ niệm A Di Đà Phật!

Và vài câu Khuyến Thiện của ông Vô Danh cư sĩ, xem như là kim chỉ Nam cho sự di cư về Lạc Bang thắng địa:

“Nếu như ai cố chí làm lành,

Chuyên niệm Phật cầu sanh Phật Quốc.

Cả vũ trụ khắp cùng vạn vật,

Dầu Tiên, Phàm, Ma, Quỉ, Súc sanh.

Cứ nhứt tâm tín, nguyện, phụng hành,

Được cứu cánh về nơi an dưỡng.

Chỉ một kiếp Tây phương hồi hướng,

Thoát mê đồ dứt cuộc luân hồi.”

Tập sách này góp nhặt lời khai thị của chư Tổ Sư và chư Tôn Đức, xin giới thiệu sơ lược những điểm then chốt về Pháp môn Tịnh Độ, kính mong chư liên hữu khắp gần xa đừng ngại xem nghe đi nhiều lần, xem nghe lại nhiều lượt, để cho niềm tin của mình trong âm thầm tự nhiên sẽ ngày càng thêm sâu, giúp ý nguyện cầu sanh Tây Phương sẽ ngày một thêm khẩn thiết. Kính chúc chư vị cùng gia quyến phước huệ trang nghiêm, phước thọ tăng long, luôn nương câu Hồng Danh Vạn Đức (Nam Mô A Di Đà Phật) mà cuộc sống hiện tại ngày một luôn được an lạc, vạn sự kiết tường như ý, mai sau khi xả bỏ báo thân cùng hội ngộ nhau nơi thế giới Tây phương Cực Lạc của Đức từ phụ A Di Đà!!!

*************************

 

E/- Phụ đính

Trong cuộc sống, đối diện với hoàn cảnh thực tế hiện tại, đôi lúc tang sự xảy ra, để làm tròn Hiếu Đạo hoặc báo đáp nghĩa tình hương thôn bè bạn, cho dù vốn liếng về Phật Pháp của chúng ta không có chi nhiều, chỉ cần tin tưởng tuyệt đối vào lời khai thì của Tổ sư Ấn Quang dưới đây mà áp dụng thì cũng đủ để giải quyết được thành công tốt đẹp, kính mong những bậc con hiền cháu thảo cố gắng lưu ý quan tâm nghiền ngẫm ngõ hầu ứng dụng khi hữu sự.

BA ĐIỀU QUAN TRỌNG VĨ ĐẠI KHI LÂM CHUNG

(Lâm Chung Tam Đại Yếu Quyết)

Điều bi thảm nhất trong thế gian thật không chi bằng cái chết, nhưng khắp cả người đời có ai may mắn thoát được nổi? Vì vậy, người hữu tâm muốn lợi mình lợi người thì chẳng thể không sớm lo liệu… Kẻ chẳng biết Phật Pháp chỉ đành mặc cho nghiệp xoay chuyển, không làm thế nào được. Nay đã được nghe pháp môn Tịnh Độ phổ độ chúng sanh của Đức Như Lai thì phải nên tín, nguyện niệm Phật, sắp sẵn tư lương vãng sanh, hầu mong thoát được huyễn khổ luân hồi sanh tử, chứng sự vui chơn thật Niết Bàn thường trụ.

Nếu ai có cha, mẹ, anh, em và các quyến thuộc mắc phải trọng bệnh, bệnh tình khó bề thuyên giảm thì nên phát tâm hiếu thuận, từ bi, khuyên họ niệm Phật cầu sanh Tây Phương và trợ niệm cho họ ngõ hầu người bị bệnh nhờ đó sau khi chết liền được sanh về Tịnh Độ. Sự lợi ích như thế kể sao cho xiết?

Nay tôi nêu lên ba điều trọng yếu để làm căn cứ hòng thành tựu sự vãng sanh cho người lâm chung; ý vốn lấy từ kinh Phật. Nguyện người thấy nghe, gặp được nhân duyên này đều cùng làm theo ba pháp này, quyết sẽ được tiêu trừ túc nghiệp, tăng trưởng Tịnh nhân, được Phật tiếp dẫn, vãng sanh Tây Phương, dần dần đạt đến viên thành Phật quả mới thôi. Đây toàn là nhờ vào sức trợ niệm của quyến thuộc.

[Có làm được như thế] mới là chơn thật hiếu, đễ, từ, huệ; dùng những điều ấy để vun bồi thêm cái nhân Tịnh Độ của mình. Xin thưa với những người cùng tin tưởng là cứ lâu ngày chày tháng sẽ nào có khó gì mà chẳng tập thành lề thói được. Nay tôi sẽ trình bày từng điều một để lúc lâm chung khỏi bị bối rối vậy.

Thiết tha khuyên người bịnh buông xuống hết thảy, nhất tâm niệm Phật. Nếu như cần phải giao phó việc gì thì phải mau giao phó. Giao phó xong chẳng đếm xỉa đến nữa, chỉ nghĩ ta nay theo Phật vãng sanh cõi Phật; tất cả sự giàu vui, quyến thuộc thế gian, các thứ trần cảnh đều là chướng ngại, thậm chí khiến mình mắc hại, chẳng nên sanh tâm niệm quyến luyến. Phải biết là một niệm chơn tánh của chính mình vốn chẳng có chết. Cái chết vừa nói đó chỉ là giả danh, chỉ là báo thân do túc nghiệp đời trước cảm thành đã đến lúc tận. Vì thế, xả thân này để lại thọ thân khác mà thôi. Nếu chẳng niệm Phật thì sẽ phải thuận theo nghiệp lực thiện, ác để lại thọ sanh trong nẻo lành, dữ.a. Điều thứ nhất là khéo chỉ bày, an ủi, khiến sanh chánh tín:

Nếu như trong lúc lâm chung, nhất tâm niệm Nam Mô A Di Đà Phật thì do tâm niệm Phật chí thành ắt sẽ quyết định cảm được Phật phát đại từ bi, đích thân tiếp dẫn khiến mình được vãng sanh. Đừng nghi rằng: mình là nghiệp lực phàm phu, chỉ do niệm Phật trong một thời gian ngắn sao lại có thể thoát khỏi sanh tử, vãng sanh Tây Phương? Nên biết rằng: vì Đức Phật đại từ bi nên kẻ tội nhân thập ác, ngũ nghịch rất nặng lúc lâm chung, tướng địa ngục hiện ra mà nếu có thiện tri thức dạy cho niệm Phật bèn hoặc niệm mười tiếng hoặc chỉ một tiếng thì cũng được Phật tiếp dẫn, vãng sanh Tây Phương. Hạng người ấy chỉ niệm mấy câu còn được vãng sanh, sao lại ngại mình nghiệp lực nặng, niệm Phật ít ỏi mà sanh lòng nghi nữa ư?

Phải biết là chúng ta vốn có chơn tánh, chơn tánh của ta và chơn tánh của Phật chẳng hai; chỉ vì ta hoặc nghiệp còn sâu nặng nên chẳng thọ dụng được! Nay đã quy mạng nơi Phật như con nương về cha chính là trở về với cái ta vốn sẵn có, chứ nào có phải là điều gì bên ngoài đâu! Xưa kia, đức Phật đã phát nguyện: “Nếu có chúng sanh nghe danh hiệu của ta mà chí tâm tin ưa, dẫu chỉ mười niệm mà nếu chẳng được vãng sanh thì chẳng lấy ngôi Chánh Giác”. Vì thế, hết thảy chúng sanh lúc lâm chung phát tâm chí thành niệm Phật cầu sanh về Tây Phương thì không một ai là chẳng được ngài rủ lòng từ tiếp dẫn. Ngàn vạn phần chẳng được hoài nghi nữa! Hoài nghi chính là tự mình lầm lạc, họa ấy chẳng nhỏ.

Vả lại, lìa cõi khổ não này sanh về thế giới vui vẻ ấy là điều hết sức khoái ý cho nên phải sanh tâm hoan hỷ, ngàn vạn phần chẳng được sợ chết. Dẫu sợ chết cũng chẳng tránh khỏi cái chết, lại còn mất phần vãng sanh Tây Phương nữa vì tâm mình trái với tâm Phật vậy. Dẫu Phật sẵn lòng đại từ bi cũng vô phương cứu tế chúng sanh chẳng nương theo lời dạy của Phật! Vạn Đức Hồng Danh của Phật A Di Đà giống như lò luyện lớn lao; tội nghiệp trong nhiều kiếp của chúng ta như một mảnh tuyết trong hư không. Nghiệp lực phàm phu do bởi niệm Phật nên nghiệp liền tiêu diệt, giống như mảnh tuyết bám vào bên lò lửa lớn liền bị tiêu hết chẳng còn gì nữa. Nghiệp lực đã tiêu thì bao nhiêu thiện căn tự nhiên tăng trưởng thù thắng; sao lại còn ngờ chẳng được vãng sanh, Phật chẳng đến tiếp dẫn nữa ư?

Chỉ dạy, an ủi ngọn ngành, uyển chuyển như thế khiến cho bịnh nhân tự mình sanh tâm chánh tín. Trọn chẳng nên thuận theo thói tục cầu thần, tìm thuốc. Mạng lớn đã sắp hết thì làm sao quỷ thần, thuốc men giữ cho khỏi chết được! Đã nhọc lòng vì những sự vô ích như thế thì đối với sự niệm Phật sẽ bớt thành khẩn, làm sao cảm thông với Đức Phật được!

b. Thứ hai là cả nhà thay phiên niệm Phật để giúp tịnh niệm.

Trước đó, đã giáo hóa bịnh nhân khiến họ sanh chánh tín; nhưng vì tâm lực người bịnh ấy yếu ớt, chưa kể đến hạng người lúc còn khỏe mạnh chưa bao giờ niệm Phật, chẳng dễ niệm liên tục lâu được. [Cho đến lúc này] lấy niệm Phật làm việc chánh thì cũng hoàn toàn nhờ vào người khác trợ niệm mới có thể có sức. Quyến thuộc trong nhà nên cùng phát tâm hiếu thuận, từ bi vì người ấy trợ niệm Phật hiệu.

Nếu bịnh tình còn chưa đến nỗi sắp chết vào bất cứ lúc nào thì nên chia ban niệm Phật. Mỗi ban hạn định mấy người. Ban đầu tiên niệm Phật ra tiếng, ban thứ hai và thứ ba niệm thầm. Nếu có việc gì cần làm thì nên lo liệu trong lúc niệm thầm; trong lúc trực ban trọn chẳng nên bỏ đi. Ban thứ hai niệm xong, ban thứ ba niệm tiếp; xong rồi lại trở lại từ đầu. Niệm một tiếng, nghỉ hai tiếng; [như vậy thì niệm] suốt cả ngày đêm thì cũng không mệt nhọc lắm.

Phải biết là mình chịu giúp người đạt được Tịnh niệm vãng sanh thì mình cũng sẽ được hưởng báo có người trợ niệm. Chớ có nói là chỉ vì cha mẹ nên mới phải tận hiếu như vậy, đối với người dưng cũng phải nên vun bồi ruộng phước của mình, trưởng dưỡng thiện căn của mình thì mới đúng là cái đạo tự lợi, chẳng uổng làm người. Thành tựu một người được vãng sanh Tịnh Độ chính là thành tựu một chúng sanh làm Phật. Công đức thế ấy há nghĩ lường nổi ư!

Ba ban liên tục, tiếng niệm Phật chẳng ngớt. Nếu sức bịnh nhân niệm nổi thì nương vào đó mà niệm nho nhỏ theo. Chẳng niệm nổi thì lắng tai nghe kỹ, tâm không có niệm gì khác thì tự có thể tương ưng với Phật vậy. Tiếng niệm Phật chẳng nên quá to; to thời tổn hơi, khó niệm lâu được; cũng chẳng thể quá nhỏ khiến bịnh nhân chẳng nghe được rõ. Chẳng nên niệm quá mau, cũng chẳng nên quá chậm. Từng chữ phân minh, từng câu rành mạch khiến từng chữ, từng câu lọt tai thấu dạ bịnh nhân; nhờ vậy mà họ được lợi.

Pháp khí dùng để niệm Phật chỉ nên dùng dẫn khánh, còn các thứ khác đều chẳng nên dùng. Tiếng dẫn khánh trong trẻo khiến tấm lòng người nghe thanh tịnh. Tiếng mõ trầm đục chẳng thích hợp cho việc trợ niệm khi lâm chung. Lúc bắt đầu thì niệm vài câu sáu chữ; rồi sau đó chỉ niệm bốn chữ A Di Đà Phật. Do ít chữ dễ niệm nên bịnh nhân sẽ để tâm niệm theo hoặc nhiếp tâm lắng nghe, đều tốn ít tâm lực. Quyến thuộc trong nhà niệm như vậy mà thỉnh thiện hữu ở ngoài đến cũng niệm như vậy. Nhiều người hay ít người đều phải niệm như thế, chẳng nên niệm một chốc, lại nghỉ một chốc rồi mới lại niệm tiếp khiến bịnh nhân niệm Phật gián đoạn. Nếu cần ăn cơm thì nên ăn vào lúc thay phiên, đừng để tiếng niệm Phật gián đoạn. Như lúc bịnh nhân sắp tắt hơi thì cả ba ban cùng niệm cho đến tận sau khi đã tắt hơi hẳn rồi mới lại chia ba ban niệm suốt ba tiếng đồng hồ nữa (niệm càng nhiều càng tốt). Sau đấy, mới lo liệu, sắp đặt mọi việc.

Trong lúc niệm Phật, chẳng để cho bè bạn đến trước bịnh nhân thăm hỏi, vỗ về. Đã có lòng đến thăm thì hãy cùng đại chúng niệm Phật mấy thời. Ấy mới là tấm tình yêu mến chơn thật, có ích cho bịnh nhân. Còn nếu cứ theo thói tục thường tình thì chính là đã xô người xuống biển. Tình ấy tuy đáng cảm, nhưng [để xảy ra] sự ấy mới thật là đau đớn. Toàn là cậy vào người chủ chốt hiểu rõ đạo lý, bảo trước với người đến thăm để khỏi tổn thương tình cảm, tránh làm hại bịnh nhân phân tâm.

c. Thứ ba là kiêng dè xáo động, khóc lóc để khỏi làm hỏng đại sự

Lúc người sắp chết chính là lúc phân biệt giữa thánh phàm, người, quỷ, [tình trạng khác nào] ngàn cân [treo] đầu sợi tóc; khẩn yếu cùng cực. Chỉ nên dùng Phật hiệu khai thị, dẫn dắt thần thức người ấy; trọn chẳng nên tắm rửa, thay áo, hoặc dời chỗ nằm. Người ấy nằm như thế nào, cứ để yên người đó nằm trong tư thế ấy, chẳng nên có chút dời động. Cũng chẳng nên đối với việc ấy mà sanh bi cảm hoặc đến nỗi khóc lóc.

Ấy là do khi đó [người chết] thân chẳng tự chủ được; mỗi lay động là toàn thân lẫn chân tay đều bị đau đớn như bị cắt chặt, giằng xé. Hễ đau đớn thì sanh tâm sân hận nên tâm niệm Phật bị ngưng dứt, phần nhiều bị đọa vào độc loại, đáng sợ hãi thay. Nếu [người chết] thấy [thân quyến] buồn đau, khóc lóc thì tâm mến luyến phát sanh nên tâm niệm Phật cũng bị ngừng nghỉ. Vì mang tâm ái luyến mà ra đi nên đến nỗi đời đời, kiếp kiếp chẳng được giải thoát.

Lúc ấy, điều có lợi nhất không chi bằng nhất tâm niệm Phật; điều tai hại nhất không chi bằng vọng động, khóc than đến nỗi [người chết] sanh lòng sân hận cùng mến luyến thì có muốn sanh Tây Phương, cả vạn trường hợp cũng chẳng được một! Thêm nữa, người sắp chết hơi nóng rút dần từ dưới lên trên là tướng siêu sanh, còn hơi nóng từ trên rút xuống dưới là tướng đọa lạc. Vì vậy, có thuyết:

Đảnh thánh, nhãn thiên sanh, Nhân tâm, ngạ quỷ phúc. Súc sanh tất cái ly, Địa ngục cước phản xuất.

Nhưng nếu cả nhà chí thành trợ niệm thì người chết ắt tự có thể sanh thẳng về Tây Phương; chẳng nên rờ rẫm, thăm dò khiến cho khi thần thức người chết chưa rời khỏi xác, nhân đấy bị đau đớn, tâm sanh phiền đau đến nỗi chẳng được vãng sanh. Lỗi họa ấy thật là vô lượng vô biên. Nguyện ai nấy khẩn thiết niệm Phật, chẳng cần dò xem nóng lạnh ở chỗ nào. Làm con nên lưu tâm điều này mới là thật hiếu. Nếu cứ thuận theo các thói tục thế gian thì hóa ra là xô người thân xuống bể khổ, để mong một lũ vô tri vô thức xúm lại khen mình tận hiếu ư?

-HẾT –