VÃNG SANH CHỈ NAM
Biên tập: Nhóm Liên Hữu Miền Nam Đất Việt

 

 

LỜI NÓI ĐẦU

 

Nam Mô Bổ Sư Thích Ca Mâu Ni Phật.

Kính thưa chư liên hữu gần xa!

Cổ đức đã thiết tha khuyên nhủ:

Sớm tu được sớm kề sen báu,
Sớm tu thì phiền não sớm tan.
Mau tu chớ để muộn màng,
Vô thường chẳng đợi thời gian không chờ!

Ấn Tổ cũng đã từng chỉ dạy:

* “Thông minh bất năng địch nghiệp. Phú quý khởi miễn luân hồi” (Thông minh chẳng cự nổi nghiệp. Phú quý chẳng tránh khỏi luân hồi). Sanh tử xảy đến, không có gì để nương dựa cả, chỉ có câu vạn đức hồng danh A Di Ðà Phật là nương nhờ được mà thôi! Thật tiếc thay người đời quá ít ai biết. Kẻ biết đến, mà chân thật tin và chân thật niệm Phật lại càng ít hơn nữa!

* Một pháp Niệm Phật chính là diệu pháp bậc nhất để xả bỏ trần lao, quay về bờ giác, phản bổn quy nguyên về nơi xưa cũ. Đối với người tại gia, pháp này lại càng gần gũi thân thiết. Vì người tại gia, thân trong lưới trần, công việc đa đoan, gia duyên bận buộc, đối với những việc như nhiếp tâm tham thiền, tụng kinh trong tịnh thất… do hoàn cảnh sẽ chẳng làm được nổi hoặc chẳng đủ sức. Chỉ riêng có pháp môn Niệm Phật này là thuận tiện và dễ dàng bậc nhất.

*Đối với những điều như: Muốn tâm chẳng tham đắm sự vật bên ngoài, chuyên niệm Phật nhưng chẳng thể chuyên, cứ mãi chuyên nhớ lo chuyện khác; chẳng thể niệm, cứ muốn niệm những sự khác; chẳng thể nhất tâm, tâm cứ lang mang nơi chuyện khác v.v… thì chẳng có pháp tắc kỳ đặc, áo diệu nào khác cả; cứ lấy một chữ Tử dán ngay trên trán, rủ xuống tận lông mày, tâm luôn nghĩ:

“Ta là người nào mà từ vô thỉ mãi cho đến đời này đã tạo ác nghiệp vô lượng, vô biên. Giả sử ác nghiệp có hình tướng thì tận mười phương hư không chẳng thể chứa đựng nổi. Đời trước do may mắn nào, nay được thân người, lại được nghe Phật pháp. Nếu chẳng nhất tâm niệm Phật cầu sanh Tây Phương, khi một hơi thở ra chẳng trở lại, quyết sẽ phải thọ khổ trong vạc dầu sôi, lò than đỏ, rừng gươm, núi đao nơi địa ngục, chẳng biết phải trải qua ngàn đời vạn kiếp.

Dù thoát địa ngục, lại đọa vào ngạ quỷ, bụng to như biển cả, họng nhỏ như chiếc kim, đói khát bao kiếp dài lâu. Trong họng lửa cháy, chẳng được nghe đến tên nước, khó được no lòng chốc lát. Từ ngạ quỷ ra, lại làm súc sanh: bị người cưỡi cổ, hoặc gieo thân vào nhà bếp, quán ăn. Dù được làm người, cũng ngu si, vô trí, coi tạo nghiệp là vui thích, coi tu thiện là gông cùm. Chẳng qua mấy mươi năm lại bị đọa lạc; trải qua kiếp số nhiều như cát bụi mãi mãi luân hồi trong lục đạo. Dù có muốn thoát ra, cũng vô vọng đành bất lực chẳng biết phải làm sao!”.

Nghĩ được như thế thì những việc mong muốn nói trên sẽ thành tựu được ngay. Bởi thế, ông Trương Thiện Hòa, Trương Chung Quỳ, lâm chung tướng địa ngục hiện, niệm Phật mấy tiếng liền tận mắt thấy Phật đến tiếp dẫn vãng sanh. Lợi ích như thế, trăm ngàn vạn ức pháp môn khác trong cả một đời giáo hóa của Đức Phật đều không có. Thế nên: “Chín pháp giới chúng sanh rời pháp môn này thì trên là chẳng thể viên thành Phật đạo. Mười phương chư Phật bỏ pháp môn này thì dưới là chẳng thể độ hết mọi loài” Ấy là vì lẽ này vậy!

* Đã có lòng tin chân thành, nguyện thiết tha, phải nên chí tâm chấp trì sáu chữ thánh hiệu “Nam Mô A Di Đà Phật”. Bất luận đi, đứng, nằm, ngồi, nói năng, im lặng, mặc áo, ăn cơm, và đại tiểu tiện v.v… đều chẳng lìa sáu chữ hồng danh (hoặc trì bốn chữ A Di Đà Phật cũng được). Cần phải niệm sao cho toàn tâm là Phật, toàn Phật là tâm, tâm Phật chẳng hai, tâm Phật nhất như. Nếu có thể niệm tại đâu chú tâm tại đó, niệm đến cùng cực, tình mất sạch, tâm rỗng không, Phật hiện, sẽ chứng được tam muội ngay trong đời này. Đến lúc lâm chung, sanh trong Thượng Thượng Phẩm, có thể nói là đã hoàn tất sự tu trì đến cùng cực vậy.

*Nếu như biết thân người khó được, Phật pháp khó nghe, pháp môn Tịnh Độ lại càng khó gặp. Nay mình may mắn đã được thân người, lại được nghe pháp môn Tịnh Độ khó tin nhất, dám đâu để ngày tháng hữu hạn bị tiêu hao hết sạch bởi sắc, thanh, của cải, lợi lộc, để rồi vẫn sống thừa, chết uổng như cũ, vẫn lại trầm luân lục đạo, không ngày thoát ra ư?

Hãy đem ngay một chữ Tử dán vào trán. Hễ những cảnh chẳng nên tham luyến hiện ra liền biết đấy chính là vạc dầu sôi, là lò than đỏ của chính mình, quyết sẽ chẳng đến nỗi như con thiêu thân đâm đầu vào lửa, cam chịu đốt mình! Với những sự mình phải nên làm sẽ biết đấy là thuyền từ để thoát khổ, quyết sẽ chẳng đến nỗi gặp việc nhân bèn thoái thác, thấy việc nghĩa chẳng làm! Như thế thì trần cảnh sẽ là duyên để nhập đạo, há cần phải dứt sạch trần duyên mới kham tu đạo chăng? Bởi đã làm chủ được tâm, chẳng bị cảnh chuyển thì trần lao chính là giải thoát.”

Hối sớm chớ sắp tàn mới hối,
Tu mau đừng gần trối mới tu.
Thân người như tử hình tù,
Phút qua là mỗi phút thu ngắn đời.

Do nhân duyên may mắn, chúng tôi gặp được “Giáo Trình Huấn Luyện Đạo Đức” của Ban Hoằng Pháp ngôi Tây An Cổ Tự, trải nhiều năm tháng suy tư, nhận thấy rất bổ ích cho những hành giả Tịnh Tông. Với ước mong được nhắc nhở sách tấn lẫn nhau, vì vậy, chúng tôi đã chọn ra vài bài, rồi tìm những chuyện xưa tích cũ để dẫn vào làm chứng minh, cũng như trích dẫn thêm những lời khai thị của chư cao tăng thạc đức cho quý bạn đồng tu dễ dàng lãnh hội.

Kính gởi cúng dường chư liên hữu khắp mọi nơi, ngưỡng mong quý vị luôn để tâm nghiền ngẫm!

Hằng âm thầm nguyện cầu Hồng Ân mười phương Tam Bảo, chư Long Thiên Thiện Thần gia hộ độ trì cho chư vị luôn an lòng vững bước để sớm ngày: “Trời Tây sen báu ngát hương!”

Việc làm này nếu có chút ít công đức nào, nguyện hồi hướng cho tất cả pháp giới chúng sinh đồng sanh Tây Phương, đồng thành Phật đạo!

Nam Mô A Di Đà Phật!                          
Bảo Lâm, ngày rằm tháng giêng, năm Mậu Tuất (2018).
Nhóm Liên Hữu Miền Nam Đất Việt biên tập!

 

CHƯƠNG MỘT: GẤP NIỆM PHẬT

“Muốn niệm Phật bất cần sớm tối,
Ghi vào lòng sáu chữ Di Đà.”

Về sự niệm Phật, Tổ Thầy dạy chúng ta chẳng đợi sớm đợi chiều mà lúc nào cũng niệm. Danh hiệu Phật luôn luôn ấn vào tâm khảm của mình, lòng mình niệm Phật một cách thành kính, mỗi một niệm đều từ trong đáy lòng của mình phát ra, chớ không như bao cái niệm của người khác chỉ ở đầu môi chót lưỡi. Được như thế, sự niệm Phật mới có ấn chứng mau lẹ.

Niệm Phật “chỉ ở đầu môi chót lưỡi” là niệm cho lấy có, các bậc thạc đức thường dùng danh từ là “hữu khẩu vô tâm”: Miệng niệm Di Đà tâm tán loạn; Hét bể cổ họng cũng luống công!

Nếu được “mỗi một niệm đều từ trong đáy lòng của mình phát ra”  thì “sự niệm Phật mới có ấn chứng mau lẹ”. Ấn chứng mau lẹ ở đây là chỉ cho tâm mình sẽ thanh tịnh, sẽ tràn đầy an lạc, mà hiện tại thanh tịnh an lạc là nhân, mai kia được vãng sanh Cực Lạc là quả. Vả lại, hiện tại mà tâm hồn luôn thanh tịnh an lạc, thì đó là hạnh phúc nhất trên trần gian, đây là loại hạnh phúc chân thật nhất, tốt đẹp nhất, thiện lương nhất và cũng là sáng suốt bậc nhất, mà cổ nhân thường tán thán bằng từ ngữ: “Chân – Thiện – Mỹ – Tuệ!”

Niệm Phật thì cần phải niệm liên tục mọi phút mọi giây, mọi nơi mọi chỗ “chẳng đợi sớm đợi chiều mà lúc nào cũng niệm”. Hầu hết chúng ta hay có cái bệnh chung giống nhau là mãi hẹn lần hẹn lựa, viện dẫn đủ các duyên cớ để chần chừ do dự, làm cho thời giờ quý báu trôi qua một cách trống không thật đáng tiếc!

Và nếu “lòng mình niệm Phật một cách thành kính” thì từng câu từng chữ Phật hiệu sẽ “luôn luôn ấn vào tâm khảm của mình”.

Thế nào là thành? Định nghĩa chữ Thành là: “nhất niệm bất sanh thị vị Thành” (một niệm chẳng sanh gọi là Thành). Trong khi niệm Phật mà cứ nhớ nghĩ lung tung xẻng tức là lòng không có thành, là mình đang ấn bao nhiêu thứ tham sân si vào tâm của mình rồi vậy. Vì tất cả những nhớ nghĩ, như chuyện năm xưa tháng cũ, chuyện làng trên xóm dưới, chuyện phải quấy thị phi… toàn là tham sân si ở trong đó, bởi từ hồi nào tới giờ mình đã quá thân thiện quen thuộc thường nghĩ tưởng ba cái thứ này, không biết nó có chứa tham sân si, không biết nó toàn là lỗi lầm, là họa hại, nhận giặc làm con, để rồi nó cuốn hút trói buộc lôi dẫn mình mãi trôi lăn trong vòng sanh tử luân hồi!

Một khi chúng ta biết được pháp môn Tịnh Độ, đã hiểu bốn mươi tám lời đại nguyện của Đức Phật A Di Đà, mỗi người chúng ta đều cảm nhận ngay rằng lời nguyện ấy rất lớn lao thành thật, chúng ta hành đạo và tin tưởng Đức Phật một cách chí thành, hẳn Đức Phật y theo lời nguyện của Ngài sẽ không bao giờ bỏ chúng ta. Nói rõ hơn, chúng ta đã tin tưởng bản nguyện rất lớn của Đức Phật, nên chúng ta đều tinh chuyên nhất tâm niệm Phật.

Nhưng sự niệm Phật cần phải sớm được chừng nào hay chừng nấy. Vì cái chết không hẹn ngày, hẹn giờ và nó không từ một ai cả, nếu chúng ta trễ biếng gặp phải lúc bất trắc, thử hỏi còn đủ thì giờ để niệm Phật không? Có bảo cái sống nán lại để niệm Phật được không? Hẳn không. Nếu không bảo cái sống nán lại được và không chận đứng sự tai nạn trong lúc đưa lại bất ngờ được, thì trong lúc yên tĩnh vô sự cần phải nhất tâm gấp rút niệm Phật. Chừng ngày kia có sự biến đổi như thế nào, mình cũng đã giao cảm với Đức Phật bằng tâm niệm từ lâu, tức là mình đã dự bị sẳn công đức rồi, dù có chết cũng được Đức Phật tiếp độ cho.

*Thuở xưa, có vị Tăng khuyên một người bạn là Trương Tổ Lưu rán lo niệm Phật để sớm giả thoát sanh tử luân hồi. Ông bạn bèn đáp: “Tôi có ba việc chưa làm xong: Một là quan tài ông thân còn để ở nhà mồ chưa chôn, hai là đứa con trai chưa cưới vợ, ba là đứa con gái chưa gả chồng. Chờ ba việc xong xuôi cái đã, tôi sẽ vâng lời của Ngài.”

Mấy tháng sau, ông bạn bị bạo bịnh mà chết. Vị tăng đến tụng kinh cầu siêu, và có điếu một bài thi như sau:

Bạn tôi tên là Trương Tổ Lưu,
Khuyên ông niệm Phật, hẹn ba điều.
Ba điều chưa vẹn, vô thường bắt,
Đáng trách Diêm Vương chẳng nể nhau!

Trong bài thi, ý vị tăng nói: ông hẹn khi xong ba việc sẽ niệm Phật, nhưng ngặt nỗi vô thường bất ngờ đến, nó có chờ hẹn ông đâu? Xem đấy chúng ta ai dám bảo đảm chắc chắn rằng chính mình chẳng phải là Trương Tổ Lưu thứ hai ư? Cho nên người quyết chí tu hành, được hở giây phút nào liền niệm Phật ngay giây phút ấy, đừng nên đạp nhầm dấu xe đổ của người xưa mà ngậm ngùi ôm hận ngàn thu!

 

*******

Nhớ lời đức Như Lai chỉ giáo,
Thân huyễn hư đời ảo mộng trần;
Giả đời giả cảnh giả thân,
Ta Bà sanh chúng đạo chân khá tìm.
Xưa nay vẫn đắm chìm biển khổ,
Lặn hụp luôn đâu có an vui;
Đời dù có nếm đủ mùi,
Cuối cùng cũng chết có người nào không.
Qua rồi kiếp cha ông cũng thế,
Lần lượt đây đến kế cháu con;
Nối nhau đi mãi không mòn,
Đường sanh tử cũng vẫn còn tử sanh.
Không ai dạy tự mình cũng rõ,
Nhưng ít người tìm ngõ thoát ly;
Đường trần cứ nhắm mắt đi,
Ai sao mình vậy sống lì ngày qua.
Nào cái bịnh cái già đục khoét,
Kế sau cùng cái chết đến tha;
Thế là hết kiếp người ta,
Trong đời ai cũng chỉ là thế thôi.
Để tâm xét kỹ rồi thấy rõ,
Muốn thoát ly cảnh khổ chúng sanh,
Không chi hơn việc tu hành,
Xác thân được nhẹ hồn linh được nhàn.

A. Thân người khó được

Trong kinh luận, Phật thường nói: “Thân người khó được, Phật pháp khó nghe”, hai câu nói này, chúng ta rất khó thể hội. Trong kinh Phật dùng rất nhiều thí dụ để giảng giải cho chúng ta nghe, nói rõ trong dòng sanh tử luân hồi cơ hội được thân người không phải là dịp dễ dàng.

Một hôm, Đức Phật khơi một chút đất dính vào đầu móng tay rồi đưa lên hỏi:

– Này chư tỳ kheo! Các thầy thấy thế nào về điều này, đất trên đầu móng tay của Như Lai so với đất trên quả địa cầu này, đất nơi nào là nhiều hơn?

Tôn giả A Nan đại diện cho các tỳ kheo, thưa rằng:

– Kính bạch Đức Thế Tôn, đất trên quả địa cầu có nhiều vô số kể, còn đất nơi đầu móng tay của Đức Thế Tôn thật là quá ít không đáng kể, không đáng so sánh, bởi vì đất trên quả địa cầu là rộng lớn mênh mông so với đất dính nơi đầu móng tay của Đức Thế Tôn thật là cỏn con nhỏ bé!

Lúc đó Đức Phật bảo:

– Này chư tỳ kheo! Cũng như vậy, số người sau khi chết tái sinh kiếp sau trở lại làm người thật là quá ít, không đáng kể, ít như đất nơi đầu móng tay của Như Lai; Còn số người sau khi chết đi rồi, do ác nghiệp mà tái sinh kiếp sau trong tam ác đạo là địa ngục, ngạ quỷ, súc sinh thật là quá nhiều, không sao tính đếm được, nhiều như đất trên quả địa cầu. Vì vậy, các thầy nên tinh cần nỗ lực tu học đừng nên giãi đãi!

Cổ đức cũng đã từng khuyến tấn:

Đời là giả hay là chơn thật,
Để tâm suy xét tất biết ngay;
Đời chính là một giấc mộng say,
Đời là cõi chôn thây thiên hạ.
Thấy như thật nhưng toàn dối giả,
Không một ai được thỏa tấm lòng;
Rốt cuộc điều chi cũng hóa không,
Dù người có luống công bịn rịn.
Nào phú quí nào mùi chung đỉnh,
Nào công danh nào miếng lợi quyền;
Như vừng mây như bọt nước xuyên,
Không thể giữ được thiên tuế nguyệt.
Số định của người là sanh diệt,
Vạn vật là đồng kiếp vô thường;
Có lên mây cũng khó ẩn nương,
Dù xuống đất vô phương trốn thoát.
Cái chết vẫn luôn luôn đeo sát,
Dù người không muốn thác mặc tình;
Thấy rằng trong đời của nhơn sinh,
Có ẩn sức vô hình chi phối.
Mang xác thịt không ai tránh nổi,
Sanh làm người đều phải như nhau;
Trẻ rồi già rồi yếu rồi đau,
Rồi phải chết người nào chạy khỏi.
Ấy sự thật không cần phải hỏi,
Ai cũng đều biết rọi như nhau;
Há không tìm phương pháp siêu cao,
Hầu sớm có tẩu đào kiếp chết.
Nghe lời Phật nợ trần trả hết,
Nghiệp thế gian nhất thiết không gây;
Tất nhiên đường sanh tử khỏi ngay,
Không duyên cớ đầu thai lại nữa.
Lo tu gấp chớ nên lần lựa,
Đạo sớm thành nghiệp khổ sớm tan;
Cái chết không biết được thời gian,
Đợi gần tống linh sàng thì muộn.
Khi sắp chết trong lòng luống cuống,
Không dễ gì niệm tưởng Di Đà;
Có nhiều người Phật chẳng nhớ ra,
Chết mê sảng hoặc là bất đắc.
Như thế tất dứt đường Tiên Phật,
Dù lai sanh cũng chắc vô duyên;
Khó được nghe lời Phật pháp truyền,
Kiếp luân chuyển nối liền không hở.
Việc ấy rất đáng làm lo sợ,
Hiện thời nên hối ngộ mau đi;
Một lòng thành cầu đạo qui y,
Cho sớm được thoát ly mê khổ.

Điều đáng kinh sợ nhất là trong dòng tử sinh luân hồi của mỗi chúng sanh bị màn vô minh che phủ như người mù, và tham ái như sợi dây cột siết cổ, nghiệp như người dẫn dắt chúng sanh luẩn quẩn nơi dòng tử sinh luân hồi trong ba cõi sáu đường chắc chắn khó mà tránh khỏi tam ác đạo là địa ngục, ngạ quỷ, súc sinh.

Mỗi người ai cũng có quyền chủ động tự lựa chọn tạo nghiệp cho mình, hoặc tạo thiện nghiệp, hoặc tạo ác nghiệp; nếu khi đã tạo nghiệp nào rồi thì nghiệp ấy chỉ thuộc về của riêng mình không phải là của chung với ai.

Khi nghiệp nào có cơ hội cho ra quả, thì mỗi người tự nhận lãnh, hoàn toàn bị động, không có quyền lựa chọn hay khước từ quả an lạc cũng như quả khổ đau mà mình đã gây tạo nên.

Tuy nhiên, quả an lạc hay quả khổ đau không chỉ riêng ta là người trực tiếp thừa kế quả của nghiệp ấy, mà còn gián tiếp liên quan đến người khác, chúng sanh khác thân cận gần gũi với ta nữa.

Nếu khi thiện nghiệp có cơ hội cho quả tốt, quả an lạc thì ta hoan hỷ thừa hưởng quả tốt của thiện nghiệp ấy của ta; Nếu khi ác nghiệp có cơ hội cho quả xấu, quả khổ thì ta cũng phải biết nhẫn nại chịu đựng chấp nhận quả khổ của ác nghiệp của ta, mà không nên than trời oán người, không nên trách cứ đến một ai cả, bởi vì tất cả đều do ta làm ra mà thôi.

Phải chịu kiếp luân hồi quả báo,
Đó là do nghiệp tạo thế gian.
Trọn lành về chốn Liên Bang,
Thung dung tự tại khổ nàn đều không.
Làm hung ác chịu còng chịu trói,
Chốn ngục hình lửa khói đốt thiêu.
Đọa đày chịu đủ bao nhiêu,
Đầu thai sáu nẻo theo chiều nghiệp mê.
Nào sanh, lão ê chề bệnh, tử,
Mãi sầu ưu đủ thứ lo toan.
Trên đời kẻ tiện người sang,
Là do nghiệp trước đeo mang mỗi người.

Đức Phật luôn nhắc nhở chúng ta “ác đạo rất đáng sợ”. Đó là ba đường ác mà kinh đã nói, đường ác dễ bước vào, khó bước ra. Ba đường ác do nguyên nhân nào mà hình thành? Phật nói với chúng ta, đường ngạ quỷ do lòng tham, tâm tham nặng đọa vào đường ngạ quỷ; đường địa ngục do tâm sân hận; đường súc sanh do tâm ngu si.

Tâm ngu si là đối với tà-chánh, thật-giả, thiện-ác, lợi-hại… đều không rõ ràng, mơ mơ hồ hồ, đó là ngu si. Thế gian này người tốt người xấu đều không phân rõ ràng, việc tốt việc xấu cũng không tường tận, đúng cho là sai, sai cho là đúng, tốt cho là xấu, xấu lại cho là tốt… luôn làm những việc điên đảo, quả báo sẽ ở đường súc sanh. Chúng ta đừng cho rằng, đường súc sanh dường như tuổi thọ ngắn, lo gì không dễ dàng thoát khỏi đường súc sanh. Thực ra, đường súc sanh có một số loài tuổi thọ ngắn nhưng cũng có loài tuổi thọ rất dài. Cho dù tuổi thọ ngắn, cũng không dễ gì thoát khỏi. Bởi vì, súc sanh ngu si nên nó chấp trước cái thân tướng đó chính là nó, là đẹp đẽ, hoàn cảnh nó cư trú sinh hoạt là sạch sẽ, mọi hưởng thọ là vui vẻ hạnh phúc, nên sau khi chết vẫn trở lại súc sanh, rất khó đi đến được đường khác để thọ sanh. Việc này sẽ rất phiền phức, thí dụ trên kinh Phật kể một câu chuyện.

Năm xưa lúc Đức Phật còn tại thế, Kỳ Viên Tịnh Xá có một ít công trình, khi thi công thấy dưới đất có một ổ kiến. Đức Phật thấy liền mỉm cười, các học trò đi theo Phật liền hỏi: “Vì sao Ngài mỉm cười những con kiến này?”

Phật liền trả lời: “Đàn kiến ngu si, bảy vị Phật xuất thế mà nó vẫn chưa thoát khỏi thân kiến”.

Một vị Phật xuất thế mất đến ba a tăng kỳ kiếp, huống hồ bảy vị Phật xuất thế, hai mươi mốt a tăng kỳ kiếp, mà nó vẫn còn làm kiến, khi kiến chết rồi đầu thai lại vẫn làm kiến, đời đời kiếp kiếp làm kiến, không thể thay đổi một thân khác. Cho nên làm súc sanh cũng không dễ gì thoát khỏi đường súc sanh.

Trong Kinh Phật còn có câu chuyện như thế này: Một ngày nọ, Đức Phật cùng Ngài Xá Lợi Phất đi ra bên ngoài tản bộ thì nhìn thấy một con chim ưng đang đuổi theo một chú chim bồ câu, chú chim bồ câu vô cùng hoảng hốt nên đã rớt ngay bên cạnh của Thế Tôn. Bởi vì ánh nắng chiều rọi vào người của Thế Tôn cho nên bóng của Ngài lúc đó che lên trên con bồ câu, chú chim bồ câu lúc này cảm thấy rất là an toàn giống như được ánh từ quang chiếu đến vậy, lập tức chẳng còn sợ hãi nữa.

Khi Đức Phật đi qua, Ngài Xá Lợi Phất liền bước đến, khi cái bóng của Ngài Xá Lợi Phất vừa trùm lên chú chim bồ câu này thì nó bắt đầu run rẩy hoảng sợ. Ngài Xá lợi Phất lấy làm lạ liền hỏi Thế Tôn:

– Thưa Thế Tôn! Vì sao Ngài có thể làm cho chú chim bồ câu này cảm thấy an toàn; còn con thì lại khiến cho nó hoảng sợ như vậy?

Phật trả lời rằng:

– Bởi vì Thầy chỉ mới chứng được quả vị A La Hán, tuy rằng đã đoạn được phiền não rồi, nhưng mà những tập khí của tham, sân, si vẫn chưa thể đoạn hết, thế nên chú bồ câu vẫn cảm nhận được tập khí của tam độc này, vì vậy khiến cho nó sợ hãi.

Phật lại bảo Ngài Xá Lợi Phất:

– Thầy hãy nhập định mà quan sát chú chim bồ câu này, xem nó đã làm bồ câu bao nhiêu lần rồi?

Ngài Xá Lợi Phất bắt đầu nhập định, quán sát chú chim bồ câu này trong 80.000 đại kiếp về trước thì phát hiện mỗi một kiếp nó đều làm chim bồ câu, đã 80.000 đại kiếp rồi mà vẫn không hề thay đổi.

Sau khi xuất định thì Ngài Xá Lợi Phất đem chuyện này thưa lại với Phật. Nghe xong, Đức Phật lại bảo tiếp:

– Bây giờ Thầy lại tiếp tục nhập định xem tương lai của chú bồ câu này sẽ như thế nào, đến khi nào thì mới thoát khỏi kiếp bồ câu?

Ngài Xá Lợi Phất liền nhập định để quan sát, thì phát hiện 80.000 đại kiếp trong tương lai nó vẫn còn làm chim bồ câu. Sau khi Ngài xuất định, Ngài liền đem thắc mắc nêu ra:

– Thưa Thế Tôn! Tại sao trong 80.000 đại kiếp quá khứ và tiếp tục trong 80.000 đại kiếp tương lai, chú chim bồ câu vẫn không thể thoát khỏi số kiếp làm chim?

Phật liền trả lời:

– Đó chính là vì sự ngu si của chúng sanh, sự mê muội điên đảo từ vô lượng kiếp đến nay, khiến cho luôn mãi chìm sâu trong biển khổ không có ngày ra. Bởi vì thần thông của A La Hán chỉ có thể nhìn thấy trong vòng 80.000 đại kiếp, còn xa hơn nữa thì không thể nhìn thấy, nhưng Phật thì có thể nhìn thấy tương lai dù có xa hơn hằng hà sa kiếp đi nữa. Cuối cùng thì chú chim cũng có thể thoát được kiếp bồ câu, chuyển kiếp làm người. Sau khi được làm người 500 kiếp thì nó mới từ từ trở thành một người lợi căn, tức là tìm thấy niềm vui trong Phật pháp, hoan hỷ tu học, trồng được thiện căn nên dần dần có cơ hội thoát khỏi luân hồi.

Thật ra chúng ta cũng không nên cười chú chim này, có thể trong quá khứ vô lượng kiếp chúng ta cũng giống như vậy. Ta thấy trong Kinh, Thích Ca Mâu Ni Phật có nói rằng Ngài từ vô lượng kiếp trước đã ở trong luân hồi cũng mang kiếp chú chó màu trắng, nếu đem xương của nó chất thành đống thì còn cao hơn cả núi Tu Di. Hãy thử nghĩ xem chú chó này đã chuyển kiếp hết bao nhiêu lần rồi?

Cũng vì nghiệp ác gây vào,
Chúng sanh cứ mãi chuyền lao trong trần.
Nay không chấm dứt ác nhân,
Sẽ lưu ác báo cho thân mai này.
Khổ thân chẳng phải phút giây,
Mà là khổ ấy kéo dài vô biên.
Sống trong cảnh khổ triền miên,
Thức thần do đó đảo điên lu mờ.
Chúng sanh lắm kiếp không ngờ,
Trước kia thú vật bây giờ người ta.
Khi người khi thú khi ma,
Đều do nghiệp tạo sanh ra sáu đàng.
Làm người còn trí minh quang,
Sa vào thú vật hoàn toàn tối tăm.
Khó nghe được pháp huyền thâm,
Khó gần chư Phật khó sanh làm người.
Đọa đày biết thuở nào thôi,
Thân nầy vừa tắt kế mồi thân sau.
Vô cùng thảm khốc đớn đau,
Mỗi đời mỗi khổ đời nào được vui.
Đốt người kế bị người thui,
Sớm đi đóng quách chiều chui vào hòm.
Nếu đem mắt huệ ra dòm,
Mỗi sanh chúng có mỗi non xác trần.
Mỗi lần sanh mỗi bỏ thân,
Có ai được hưởng trường sanh bao giờ.
Chúng sanh vì quá mê mờ,
Bao nhiêu kiếp trước hiện giờ đều quên;

********

Chúng ta cũng cần nên biết tuổi thọ của đường ngạ quỷ rất dài, trong kinh Đức Phật nói, một ngày trong cõi quỷ bằng một tháng ở nhân gian chúng ta. Tuổi thọ của cõi quỷ cũng giống như nhân gian chúng ta vậy. Một năm ba trăm sáu mươi lăm ngày, mười hai tháng, thế nhưng phải ghi nhớ một ngày của họ là một tháng của nhân gian chúng ta. Tuổi thọ của họ, đoản mạng cũng phải mất một ngàn tuổi, mạng dài đến ngàn ngàn tuổi, có đáng sợ không? Đã đọa vào đường ngạ quỷ thì lúc nào mới có thể ra được. Nếu tính cũng phải đến mấy vạn năm sau mới có thể thoát ra. Những ngày tháng đó thật khốn khổ. Trong cõi quỷ thì mặt trời, mặt trăng và các ngôi sao, ba loại ánh sáng này đều không nhìn thấy, bầu trời luôn một màu tối đen. Chúng ta mấy ngày không nhìn thấy mặt trời đã cảm thấy rất khó chịu, huống hồ ở trong cõi quỷ phải chịu mấy vạn năm không nhìn thấy mặt trời, nghĩ thử xem những ngày tháng đó có khổ không? Đời sống cõi quỷ rất khủng khiếp.

Xưa kia có một trào vua nọ,
Có một ông quan võ bất lương.
Mỗi lần đi đến thôn hương,
Bắt dân làng phải nộp lương nộp tiền.
Bò heo có phải khiêng đến nạp,
Có gái xinh phải dắt tới hầu.
Bắt dân làm việc ngựa trâu,
Lớp thì bị giết bị tù thảm thương.
Gặp già cả không nhường không kể,
Thấy tăng sư chẳng lễ chẳng chào.
Rất là ngạo mạn tự cao,
Không tin quả báo chẳng nao tuần huờn.
Một hôm nọ sau cơn yến tiệc,
Bỗng nhiên ông thổ huyết chết đi.
Sanh làm ngạ quỉ tức thì,
Mặt mày xấu xí dị kỳ hình dung.
Cổ quá nhỏ vật không nuốt chạy,
Bụng thì to bằng cái bụng trâu.
Ngày đêm đói khát buồn rầu,
Vất vơ chẳng có chỗ nào ẩn thân.
Cơm vừa đút tới mồm thành lửa,
Nước ngậm vào miệng hóa dầu sôi.
Làm cho phỏng lưỡi cháy môi,
Chịu điều đau nhức tanh hôi suốt đời.
Trả quả lúc làm người tiền kiếp,
Nhưng thường không được biết tỉnh ra.
Ôm lòng oán hận sâu xa,
Càng làm cho kiếp quỉ ma kéo dài.
Con ơi! lấy chuyện nầy để biết,
Những hành tung tiền kiếp mất đâu.
Làm cho thiên hạ đau sầu,
Là gây hậu quả độc sâu cho mình.
Quan ấy lúc sanh bình oai khí,
Khi thác rồi làm quỉ đói đau.
Người đời thử nghĩ thế nào,
Có nên ham thứ hùng hào ấy không?
Chỉ một lúc thỏa lòng ham hố,
Mà để cho đau khổ muôn đời.
Là điều nên nhịn con ơi!
Ăn quen khó nhịn, nhịn thời cũng quen.
Có quả báo nên khuyên hướng thiện,
Không đáo đầu ai khuyến trừ tà.
Chết rồi tội mới thấy ra,
Chừng ni có hối cũng là muộn thay!

Đường súc sanh gọi là huyết đồ. Súc sanh chết đều do con lớn ăn con nhỏ, đều có máu chảy vì nhai nuốt lẫn nhau, súc sanh không được chết yên ổn.

Đường ngạ quỷ còn gọi là đao đồ. Luôn có cảm giác như có người cầm đao đến giết hại mình, nên thân tâm của họ thường bất an, luôn sống trong nỗi lo sợ.

Địa ngục gọi là hỏa đồ. Tội nhân luôn thọ nhận đau khổ của một biển lửa.

Kinh Phật có nhiều cách nói khác nhau về tuổi thọ của địa ngục nhưng tuyệt nhiên không phải Phật nói sai. Sở dĩ khác biệt của tuổi thọ lớn là bởi vì chủng loại địa ngục không như nhau, có một số tuổi thọ trong địa ngục rất dài nhưng cũng có một số chịu khổ trong địa ngục tương đối nhẹ nên tuổi thọ ngắn hơn một chút.

Vậy chúng ta căn cứ trên kinh để biết trong đường địa ngục, một ngày bằng hai ngàn bảy trăm năm ở nhân gian. Kinh Phật nói, địa ngục cũng được tính là một năm ba trăm sáu mươi lăm ngày, nhưng một ngày của họ dài hơn hai ngàn bảy trăm năm chúng ta. Yểu mạng của họ cũng một vạn tuổi, trường thọ thì đến vạn vạn tuổi, rất khủng khiếp! Cho nên mỗi giờ mỗi phút nhất định phải đề cao cảnh giác, không nên tạo nghiệp địa ngục, nghiệp của ba đường càng không thể tạo. Phật nói trong mười ác nghiệp, nghiêm trọng nhất chính là đọa địa ngục, kế đến đọa ngạ quỷ, nhẹ nhất là đến súc sanh.

Mười ác nghiệp, thân đã tạo ra sát sanh, trộm cắp, tà dâm; miệng tạo ra nói dối, nói hai chiều, nói thêu dệt bằng lời ngon ngọt mê hoặc lòng người, nói thô lỗ; ý nghiệp tham sân si. Giả như mỗi ngày tạo mười loại nghiệp này thì tiền đồ của ta không cần đi hỏi người khác, nhất định đến ba đường ác. Cho nên càng nghĩ càng đáng sợ, chúng ta nhất định không làm việc này, không những chúng ta không chịu đọa ba đường ác mà ba đường thiện trong sáu cõi, chúng ta cũng không cần, vì sao? Vì không cứu cánh.

Biển trần kiếp tạm nổi trôi,
Không tu khổ mãi chẳng đời nào yên.
Sanh ra trong cõi trần duyên,
Người nào cũng bị não phiền chẳng không.
Không ai trăm việc vừa lòng,
Mà ai cũng có não nồng nọ kia.
Dục tâm óc ách như đìa,
Đem thân ra để làm bia đạn trần.
Biết rằng rốt cuộc bỏ thân,
Nhưng mà các dục vọng trần không buông.
Quên rằng tài vật dư muôn,
Bỏ thân tài vật bỏ luôn đâu còn.
Chết thân tan rã lần mòn,
Nhưng bao tội lỗi hồn còn đeo mang.
Xác tan nhưng tội không tan,
Đầu thai trở lại thế gian trả đền.
Vì mê nên kiếp trước quên,
Hay đâu ăn trước nay đền trả sau.
Trả đền hoặc chậm hoặc mau,
Đã vay không một người nào trốn qua.
Chúng sanh nơi cõi Ta Bà,
Sao không nghĩ tới để mà tu thân.
Nếu không trốn khỏi tử thần,
Dù đeo đắm cuộc hồng trần luống công.

Nếu tu phước báo nhân thiên, đời sau được thân người lại hưởng phước, người hưởng phước hiếm ai có đầu óc tỉnh táo, hiếm người không mê hoặc, nên dễ dàng tạo ác nghiệp, đến khi phước hưởng hết thì sẽ thọ khổ nơi ác đạo.

Thế gian này người có phước báo rất nhiều, chúng ta cũng có lúc có cơ hội gặp được. Họ hưởng phước tạo tội nghiệp, muốn giúp họ mà không thể giúp. Dù có khuyên lơn, họ cũng bỏ ngoài tai, không nghe, căn bản không muốn ai nói thêm nữa, vậy thì không còn cách nào. Họ vẫn tùy theo tập khí, tùy theo nghiệp chướng của họ, trải qua đời sống cuồng vọng tham dục, tiêu hao hết sạch phước báo của đời quá khứ đã tu được. Sau đó đến ba đường ác để đối chất. Chỉ như vậy, chúng ta xem thấy thật đáng thương nhưng không cách gì cứu, cho nên nhất định phải thường giữ tâm “Khiếp sợ đường ác”.

Thế nay trong đời này chúng ta gặp được Phật pháp thật sự là điều hết sức may mắn, đặc biệt là gặp được pháp môn Niệm Phật này là điều may mắn trong may mắn, đây chính là có hy vọng được độ thoát. Cho nên chúng ta cần phải trân quý cái cơ hội này, cần có tâm tha thiết ngay trong đời này quyết chí niệm Phật cầu sanh Tịnh Độ. Chúng ta phải biết rằng đây là con đường duy nhất mà cũng là cơ hội duy nhất của chúng ta để có thể thoát ra khỏi luân hồi lục đạo.

Kinh kệ vốn là chìa khóa ngục,
Chúng sanh là kẻ nhốt trong tù;
Xem kinh mà chẳng chịu tu,
Như chìa khóa có mà tù không ra.
Trai lạt mặc dù là khó nuốt,
Giới răn tuy là việc khó gìn;
Đó là phương pháp vãng sinh,
Nên gìn giữ trọn chớ quên ngày nào.

* Trong kinh còn có một thí dụ gọi là “rùa mù gặp bọng cây”

Hôm nọ, trong buổi thuyết pháp, Đức Phật bảo các Tỳ kheo rằng:

-Giả sử chốn đại địa này biến thành biển cả; bấy giờ có con rùa mù sống lâu vô lượng năm, cứ qua trăm ngàn năm nó mới ngóc đầu lên mặt nước một lần. Tại biển cả có một khúc cây nổi lênh đênh, khi đông khi tây, khi nam khi bắc, vì bị sóng dập gió dồi liên tiếp; mà trong thân cây có một cái lỗ. Thế thì khi rùa ngóc đầu vừa đúng lúc khúc cây vừa trôi tới, rùa bèn chui vào bọng cây để gió đưa vào bờ. Cơ hội ấy có dễ gặp không?

Ngài A Nan trả lời rằng:

– Bạch Đức Thế Tôn! Khó mà gặp được, bởi lẽ rùa thì rùa mù, biển thì mênh mông, cây lại cây nổi, trôi theo chiều sóng đẩy gió đưa bất định; đông tây nam bắc bốn hướng nào có định đậu nơi nào. Cho nên chắc chắn khó mà gặp được nhau!

Phật dạy:

– Rùa mù, cây trôi tuy khó gặp được nhau, nhưng có hy vọng; còn như kẻ phàm phu ngu si trôi nổi trong ba cõi sáu đường mà tái sanh được thân người, mới thật là khó hơn rùa gặp bọng cây ấy gấp mấy lần nữa. Vậy nên các thầy ngày nay phải tinh tiến tìm mọi phương tiện phát khởi tâm học đạo mới được! Nếu không, thì chúng ta mãi nhận chịu bao nhiêu thứ khổ đau trói buộc bức bách:

Việc khổ nạn chất chồng khắp đất,
Không lúc nào người được thảnh thơi,
Bốn mùa không lúc nào rời;
Đông thời lạnh lẽo, Hạ thời nóng oi.
Xuân mưa tạt, Thu trời dông tố,
Giàu nghèo đều thọ khổ như nhau;
Trong khi đói phải ăn vào,
Ăn rồi lại bắt lo nào tiêu ra.
Bao nhiêu đó cũng là thấy khổ,
Huống chi còn tật nọ tật kia;
Xác thân đòi phải trau tria,
Qua cơn ăn uống tới bề mặc mang.
Giàu muốn được cao sang hơn nữa,
Nào cát lầu xe ngựa ngọc ngà;
Nghèo thời tần tảo bôn ba,
Lo cơm hai bữa, lo nhà để nương.
Quên hết lúc dầm sương phản mại,
Lấn chen sao cho lại với người;
Đêm ngày nào được rảnh ngơi,
Cứ lo cho đến thở hơi cuối cùng.

Trong kinh còn một thí dụ nữa, việc này mọi người đều đã biết, gọi là “Tu Di sỏ kim”. Ở trên đỉnh núi Tu Di thòng xuống một sợi chỉ, bên dưới có một cây kim thêu, sợi chỉ đó thòng xuống vừa vặn sỏ qua được lổ kim.

Không cần nói đến núi Tu Di, chỉ cần ở trên tòa lầu 5 tầng thòng một sợi chỉ xuống, ở dưới lầu để một cây kim thêu, hãy thử sỏ xem, cho thời gian một ngày 24 giờ, chúng ta có thể sỏ thử một sợi qua hay không? Đây đều là ví dụ thân người dễ mất mà khó được, nếu hiểu rõ được sự thật này thì ta mới biết trân trọng thân người vô cùng quý báu.

Được thân người khó đến mức độ như vậy, được thân người lại được gặp Phật pháp thì càng khó hơn, khó chồng thêm khó, cho nên trên kệ khai kinh có nói là “trăm ngàn muôn kiếp khó được gặp”.

Rõ ràng nơi cảnh Ta Bà,
Vừa tanh hôi cũng vừa là khổ đau.
Tuổi sống ngắn còn bao nạn ách,
Người ở ăn tánh cách tham gian;
Không ai trọn hưởng thanh nhàn,
Nếu càng lánh sớm là càng rảnh thân.

Xuống lên nơi cõi hồng trần,
Chịu đường sanh tử, chịu phần khổ lao.
Bị làn sống nghèo giàu lôi cuốn,
Bắt đấu tranh bắt muốn hơn thua;
Lợi danh lo bán lo mua,
Ái tình lo hốt lo vùa vào thân.
Đi cặp với tâm trần ham hố,
Nào ưu sầu tai khổ muôn trùng;
Mạng căn như đóa phù dung,
Muốn ham chưa thỏa kế chun vào hòm.

Được thân người thật đáng quý ở chỗ chính là nghe Phật pháp, nếu như được thân người không thể nghe được Phật pháp thì kiếp người này có ý nghĩa gì chứ? Vẫn phải tiếp tục đọa lạc sáu nẻo luân hồi. Chúng ta chính mình cần phải nhận biết, ở trong sáu nẻo nhất định là thời gian của ba đường ác dài, thời gian của ba đường thiện rất ngắn. Tại vì sao? Đạo lý này không khó hiểu! Trong tâm của ta là tâm thiện, ý niệm thiện, hành vi thiện, thì mới có thể được quả báo của ba đường thiện; Nếu như chúng ta khởi tâm động niệm, ý niệm của chúng ta là niệm ác, tư tưởng là tư tưởng ác, hành vi là hành vi ác, thì đó chính là nghiệp nhân của ba đường ác, không cần suy nghĩ nhiều. Hãy tự nghĩ xem, chúng ta từ sớm đến tối, sáng sớm thức dậy đến lúc đi ngủ một ngày như vậy, ngay trong mười mấy giờ đồng hồ, khởi tâm động niệm của chúng ta là niệm thiện nhiều hay là niệm ác nhiều? Như vậy thì liền biết được tương lai chính mình thế nào rồi. Đây mới mười mấy giờ đồng hồ còn như vậy. Nếu như là niệm ác nhiều, niệm thiện ít, nếu khởi tâm động niệm tư tưởng hành vi cả đời của chúng ta, mỗi niệm đều là hại người lợi mình thì quyết định đọa vào ba đường ác.

Tiêu chuẩn của thiện ác, Phật nói căn bản nhất là năm giới mười thiện, đây là tiêu chuẩn của thiện ác. Nếu như tư tưởng hành vi của chúng ta trái với ngũ giới, tương ưng với mười ác, thì ắt sẽ đọa vào đường ác. Ngay trong một đời này của chúng ta, tâm hạnh có thể tương ưng với năm giới, tương ưng với mười thiện, thì đời sau còn có thể có lại được thân người. Việc này rất quan trọng, đây mới là một việc lớn nhất. Trong một đời này của chúng ta, được thân người có tốt không vậy? Được thân người nếu như không thể lợi dụng cơ duyên này để vượt khỏi ba cõi, thoát khỏi sáu đường, đi làm Phật, làm Bồ Tát, thì chúng ta tuy là có được thân người rồi, không cố gắng tận dụng tu tập vẫn là điều đáng tiếc.

Khó biết trước thời gian chết đến,
Cái chết không nhất định trẻ già,
Đời nhiều cách chết xảy ra,
Cho nên thường có tre già khóc măng.
Việc sanh tử Phật rằng đại sự;
Còn luân hồi còn tử sanh luôn;
Tử sanh không gỡ cho suông,
Dù làm đến bậc đế vương ra gì.
Do lẽ ấy cần qui y Phật,
Giải quyết xong tạm vật hồng trần;
Hoàn toàn khỏi cuộc chuyển luân,
Không còn mang ngũ trược thân nặng nề.
Đời nếu chẳng say mê đến nữa,
Tất nhiên không còn cớ sanh ra;
Còn tham ái cõi Ta Bà,
Thì còn phải chịu sanh ra hồng trần.
Muốn giải thoát phải cần phủi cả,
Chẳng còn lưu trong dạ sự đời;
Siêu sanh chỉ một lần thôi,
Đời dù cám dỗ mặc đời không theo.
Nghiệp rán gỡ chớ đeo thêm nữa,
Tội lo chừa đừng có gây thêm,
Sóng tình cố lóng cho êm,
Đường trần lùi lại chớ kềm chân lâu.

Giả như tay ta cầm cây kim ném giữa biển khơi thì dễ, mà nhảy xuống mò tìm để được trở lại thì quả là quá khó! Thân người mất rất dễ dàng như hành động ném cây kim, một khi chết đi rồi mà có được thân người trở lại thì khó như mò kim đáy biển!

Cổ đức dùng ví dụ này để nói được thân người rất khó:

Thiên niên thiết thọ khai hoa dị,
Nhất thất nhân thân vạn kiếp nan.
(Ngàn năm cây sắt trổ hoa dễ,
Thân người mất đi được lại khó).

Đây là nói lên ý nghĩa hiếm có khó được, tuy nhiên cây sắt ngàn năm cũng có thể trổ bông, còn thân người mất đi khó mà tìm lại được, vì đại đa số con người trên thế giới ít ai giữ tròn năm giới là: sát sanh, trộm cắp, tà dâm, nói dối, uống rượu. Tức là khó hơn cây sắt trổ hoa nữa, cây sắt mà trổ hoa chỉ là một ẩn dụ sâu sắc, để giúp người tu chúng ta phải tỉnh giác trong từng phút giây mà cố gắng giữ tròn giới hạnh. Bây giờ được làm người chắc chắn rằng nhiều kiếp trước mình đã có tu hành giữ giới, nên hôm nay mới gặp được Phật pháp, thế nên cần phải trân quý cơ duyên hy hữu này.

Đời cứ mãi sống say chết ngủ,
Lên xuống hoài chịu đủ đắng cay;
Mỗi lần người bị bào thai,
Mỗi lần bỏ một xác thây tại trần.
Thây xác ấy nếu dồn chất lại,
Sẽ lấp đầy cả Thái Bình Dương,
Chúng sanh nào biết nào tường;
Cứ say đắm mãi trên đường mê ly.

B. Pháp Phật khó được nghe

Thuở xưa, Đức Phật ngồi dưới cội Bồ đề, hàng phục chúng ma, chứng thành đạo quả nơi đạo tràng Thiện Thắng nước Ma-kiệt-đà. Ngài tự tư duy rằng: “Chánh pháp cam lộ ngày nay đã thấm nhuần khắp tam thiên thế giới. Nhớ thuở xưa, lúc ta còn đang khổ tu, phụ vương đã sai năm người cúng dường các thứ ngũ cốc và hầu hạ ta rất có công lao. Nay ta nên trả ân cho họ”.

Năm người này hiện nay ở nước Ba-la-nại. Cho nên đức Như Lai đứng dậy rời khỏi tòa đi đến nước đó. Đức Như Lai với tướng hảo trang nghiêm, từ quang tỏa chiếu khắp đất trời, oai thần chấn động khiến ai thấy cũng sinh lòng hoan hỉ. Trên đường đi, Ngài gặp một người Phạm Chí tên là Ưu-hô. Ông này đã từ bỏ quyến thuộc, gia đình đang đi tìm sư học đạo, ông trông thấy tôn dung vi diệu của Đức Thế Tôn vừa kinh ngạc vừa hoan hỉ, dừng lại bên đường, cất tiếng khen:

– Vị này đức độ cảm người, oai nghi đỉnh đạc, không biết theo học với vị thầy nào mà được nghi dung như thế!

Đức Phật nghe vậy, liền đọc lên một bài kệ để trả lời:

Tự giác bát chánh đạo,
Nơi đời, không nhiễm ô.
Phá lưới dục, dứt ái,
Ta không học với ai.
Hạnh ta không thầy dạy,
Chí ta khác mọi ai.
Duy nhất được thành Phật,
Đường Thánh mở từ nay.

Ưu-hô nghe kệ bỗng thấy buồn bã, hỏi Đức Thế Tôn định đi về đâu?

Ngài đáp:

– Ta định đến nước Ba-la-nại chuyển Vô thượng pháp luân đem giáo pháp cam lộ lợi ích cho chúng sinh. Trong ba cõi chưa từng có ai chuyển đại pháp luân giúp chúng sinh chứng nhập Niết bàn như ta hiện nay.

Phạm Chí Ưu-hô nghe vậy mừng rỡ nói rằng:

– Lành thay! Lành thay! Nếu đúng như lời Ngài nói sau này rỗi rảnh tôi sẽ đến để nghe pháp mầu.

Ông Phạm Chí nói xong vòng tay chào Phật rồi bỏ đi. Trên đường đến chỗ thầy học đạo, ông tá túc lại một nơi ngủ qua đêm. Đêm đó ông ta bỗng nhiên qua đời. Đức Phật dùng đạo nhãn thấy rõ việc này rất thương xót nói rằng:

– Thế gian ngu si cho là mạng sống trường tồn, gặp được Phật lại bỏ đi,  phải chịu mất mạng. Trống pháp vang rền mà họ không nghe. Vị cam lộ diệt khổ song họ không nếm. Do đó, vòng sinh tử cứ tiếp nối vô tận, trôi lăn mãi trong sáu đường, không biết kiếp nào họ mới được độ.

Kế đó, đức Phật từ mẫn nói kệ rằng:

Ngộ chân lý, thanh tịnh,
Thoát khỏi vòng tử sinh.
Phật ra đời soi sáng,
Trừ ưu khổ hữu tình.
Khó thay, sinh làm người,
Khó thay, được sống thọ.
Khó thay, Phật ra đời,
Khó thay, được nghe pháp.

Lúc đức Phật nói kệ này, năm trăm chư thiên giữa hư không được nghe pháp mầu vô cùng hoan hỉ, chứng đắc quả Tu-đà-hoàn.

Ngày nay được biết quy y,
Là do tiền kiếp đã đi đường lành.
Tu thêm nhứt định sẽ thành,
Cũng như giàu có nhờ dành nhiều năm.
Đạo lành rõ mối huyền thâm,
Như mù được sáng hết lầm đường đi.
Sự vui còn có chi bì,
Chúng sanh còn ngại nỗi gì thờ ơ.

*********

Vào thời xưa, kiếp là đơn vị thời gian của người Ấn Độ xưa nói, hiện tại các nhà khoa học gọi đơn vị thời gian lớn nhất là năm ánh sáng, dùng tốc độ đi của ánh sáng gọi là năm ánh sáng. Đơn vị thời gian Ấn Độ xưa gọi so với ngày nay vẫn lớn hơn, thời xưa dùng kiếp làm đơn vị.

Kiếp có tiểu kiếp, có trung kiếp, có đại kiếp. Tiểu kiếp cũng có rất nhiều cách nói, thường được nghe nhất gọi là tăng giảm kiếp. Phật nói thọ mạng của con người, ngắn nhất là mười tuổi, khi con người đến mười tuổi thì lại tăng dần lên, mỗi một trăm năm tăng thêm một tuổi, tăng đến 84.000 tuổi. Tuổi thọ của con người dài nhất là 84.000 tuổi, đến 84.000 tuổi rồi thì liền dần giảm xuống, mỗi một trăm năm giảm xuống 1 tuổi, và cứ như vậy giảm xuống còn mười tuổi.

Một lần tăng một lần giảm thì gọi là một tiểu kiếp, 20 tiểu kiếp thì là một trung kiếp, bốn trung kiếp thì gọi là một đại kiếp tức 1 tỷ 334 triệu 240 ngàn năm, đây là đơn vị dùng để tính thời gian.

Trong Tam giới thì tuổi thọ dài nhất là cõi trời Vô Sắc giới. Trời Vô sắc giới có bốn tầng, tầng trên cao nhất là trời Phi Tưởng Phi Phi Tưởng Xứ, tuổi thọ là 80.000 đại kiếp. Chúng ta nghe đến cái số tự này, có thể nói là không thể nghĩ bàn.

Cõi trời Dục Giới gần với chúng ta nhất, cõi Dục giới gần nhất là trời Tứ Thiên Vương. Chúng ta có dịp đến các Tự Viện Am Đường, thì sẽ thấy nơi cửa có thờ Điện Thiên Vương, thờ Tứ Đại Thiên Vương, tục gọi là Tứ Đại Kim Cang, kỳ thực đó là Tứ Đại Thiên Vương. Cõi trời Tứ Thiên Vương này rất gần với chúng ta. Phật đã nói, tuổi thọ của trời Tứ Thiên Vương dài hơn so với chúng ta nhiều, một ngày của trời Tứ Thiên Vương là 50 năm của nhân gian chúng ta, con người chúng ta sống được 100 tuổi thì ở trời Tứ Thiên Vương xem ra chỉ có 2 ngày, tuổi thọ của họ 500 tuổi. Họ cũng tính theo cách tính của chúng ta, một năm 365 ngày, thế nhưng ta phải ghi nhớ, một ngày của họ là 50 năm ở nhân gian của chúng ta, như vậy thì liền biết được tuổi thọ của họ dài, phước báo rất lớn, nhân gian chúng ta không cách gì so sánh được với họ.

Lại thêm một tầng cao hơn là trời Đao Lợi, còn gọi là Ngọc Hoàng Đại Đế. Phước báo của Đao Lợi Thiên Vương lớn hơn nhiều so với Tứ Thiên Vương. Một ngày của Đao Lợi Thiên là 100 năm nhân gian chúng ta, tuổi thọ 1.000 tuổi, chỗ này chúng ta có thể tính toán ra được.

Lại hướng lên trên nữa thì đều là tăng thêm gấp bội. Một ngày của trời Dạ Ma là 200 năm ở nhân gian chúng ta, tuổi thọ của họ là 2.000 tuổi.

Trời Đâu Suất là tầng thứ tư (Bồ Tát Di Lặc hiện tại đang ở trời Đâu Suất), một ngày của trời Đâu Suất là 400 năm nhân gian chúng ta. Cho nên người ở trời Đâu Suất xem tuổi thọ người thế gian này của chúng ta giống như chúng ta xem tuổi thọ của loại trùng nhỏ vậy. Giống thứ gì vậy? Loài phù du trên mặt nước, tuổi thọ chỉ có mấy giờ đồng hồ thì hết, đích thực là như vậy. Một ngày của họ là 400 năm của nhân gian, tuổi thọ ở đây là 4.000 tuổi.

Càng thăng lên trên, các cõi trời càng cao thì tuổi thọ càng dài, dài nhất là Phi phi tưởng thiên, sống đến 80 ngàn đại kiếp

Ở các cõi trời do phước đã tu tạo, nên y báo và chánh báo đều tốt đẹp thù thắng hơn cõi người gấp trăm ngàn lần, nhưng phải biết khi thọ huởng thú vui, nghĩa là sáu căn tham luyến các thứ dục lạc của dục giới, an hưởng trạng thái an lạc của thiền nơi cõi sắc giới và vô sắc giới, hầu hết sau khi thọ mạng dài lâu đã mãn thảy đều bị sa đọa vào ba ác đạo. Nên chư Phật mười phương thường thành đạo ở cõi người, và khuyên đệ tử coi cõi trời là hiểm nạn chướng ngại sự giải thoát, chớ nên cầu sanh về đó.

Không cần phải nói đến sự vui thú cõi trời làm chi, ngay trên trần gian này chúng ta thử quan sát tường tận xem, những người giàu sang quyền thế, có mấy ai tinh tấn tu hành? Kiếp trước họ có tu nên kiếp này mới được giàu sang phú quý, nhưng khi hưởng thụ phú quý thì mê ở trong đó, đây gọi là si phước. Chỉ có Bồ Tát thứ thiệt mới không bị đắm nhiễm phước báo của năm dục sáu trần này mà thôi!

Nơi cõi tạm thiên sầu vạn khổ,
Người tự làm nào có ai gây;
Muôn điều bởi một chữ say,
Khiến cho sanh chúng đọa đày chung thân.
Con ơi! Chốn hồng trần mù mịt,
Bị lợi danh phủ bít chơn linh;
Khiến cho hầu hết chúng sinh,
Quên tìm kiếm lối cứu mình khỏi mê.
Tự mê đã chưa hề tỉnh giác,
Còn làm khôn dẫn dắt người mê;
Đường mê thêm nỗi dọc dề,
Gây thành cái thứ bệnh mê lưu truyền.
Kẻ đã thức nhớ khuyên người tỉnh,
Thắp đuốc lên cho cảnh sáng ra;
Ở trong tim não người ta,
Nhiệm mầu có đủ rán mà phát minh.
Chớ để đến thúi sình mất xác,
Lỗi công sanh phí mất một đời;
Một khi để kiếp qua rồi,
Muốn tìm trở lại làm người khó thay.
Làm người được là may muôn thuở,
Cũng là do xưa có nghiệp lành;
Bây giờ nếu biết tu hành,
Tất là sẽ được trở thành Phật Tiên.

Cho nên ta phải đem những việc này làm cho rõ ràng, làm cho thông suốt thì mới biết được, thời gian con người ở thế gian này rất ngắn ngủi, thế nhưng rất là đáng quý. Trong sáu đường, con người có thể vượt tam giới, thoát sanh tử, làm Phật làm tổ, là một cơ duyên tốt nhất. Hôm nay chúng ta gặp được rồi, đó là “ức kiếp mới được gặp”, ngày nay chúng ta gặp được rồi, chúng ta được thân người, cũng đã được gặp Phật pháp thì có thể có được thành tựu hay không? Việc này hoàn toàn ở chính mình, không ở nơi người khác.

Chúng ta tu học tham khảo Phật pháp nhiều năm như vậy, đạo lý, phương pháp này rõ ràng tường tận, thông suốt thấu đáo thì có được thành tựu hay không? Then chốt là chính mình có thể khắc phục phiền não tập khí của chính mình hay không? Có nhiều đồng tu nhận thấy phiền não tập khí của chính mình không dễ gì khắc phục, chẳng biết phải làm sao? Nếu không khắc phục được thì tiếp tục đọa lạc trong dòng sanh tử luân hồi mà thôi, tiếp tục đi vào đường ác, chỉ có con đường này, ngoài con đường này ra còn có con đường nào nữa đâu?

Đạo chớ tưởng là đường dễ gặp,
Kinh khởi tâm muốn đọc khó thay.
Có người đọc sách liền tay,
Nhưng không hề đọc một bài kệ kinh.
Kinh kệ thấy lòng mình muốn đọc,
Đã có duyên với Phật xưa rồi.
Dịp nầy nếu để cho trôi,
Sẽ là khó kiếm dịp hồi thiện tâm.

Nếu ta biết ba đường là khổ, biết rằng được thân người nghe được Phật pháp là cơ duyên khó gặp, ta phải nên hạ quyết tâm phải buông bỏ tự tư tự lợi, cần phải biết vô lượng kiếp đến nay, ai đã làm cho chúng ta thành ra như thế này? Chính cái ý niệm tự tư tự lợi đã hại ta. Chân thật giác ngộ rồi thì sẽ không làm nữa, không bị cái hại này. Khởi tâm động niệm là vì tất cả chúng sanh, nhất định không vì chính mình thì đúng rồi. Chỉ cần đem cái ý niệm này chuyển đổi lại, tức nhiên sẽ siêu phàm nhập thánh.

Mến của tất chết theo vì của,
Vật không còn thân nọ ra ma;
Người đời chịu khó suy ra,
Tự nhiên thấy rõ đâu là bèo mây.
Trôi theo nước cuốn quây theo gió,
Cứ rày đây mai đó không yên;
Có quyền chẳng giữ đặng quyền,
Có tiền không nắm được tiền dài lâu.
Tiền là bạc nó đâu chung thỉ,
Quyền là hành nó cứ đổi thay;
Từ ngàn xưa đến ngày nay,
Ngoài  hai việc ấy cứ hoài vậy thôi.
Thế mà người cứ xuôi theo nó,
Không chịu tìm đường ngỏ cao hơn;
Món chi ăn mãi cũng lờn,
Ở trần lâu phải chán trần chớ không!

Khác biệt của phàm và thánh chính là ở một niệm, một niệm mê thì chính là phàm phu, chính là sáu nẻo luân hồi; một niệm giác chính là pháp giới nhất chân, chính là thế giới Cực Lạc. Nhất định phải giác ngộ, chính mình phải khẳng định, phải nhận biết. Không giác ngộ thì là tiếp tục phải luân hồi, nhất định không tránh khỏi khổ báo của ba đường địa ngục, ngạ quỷ, súc sanh, ta không thể tránh khỏi. Việc này không phải hù dọa người, đó là chân tướng sự thật!

Những sự tướng này do từ đâu mà ra? Đều là từ vọng tưởng phân biệt chấp trước của chính mình mà biến hiện ra, giống như mọi người khi nằm ngủ đều có thấy mộng. Mộng từ do đâu mà ra? Cảnh mộng biến hiện ra từ vọng tưởng phân biệt chấp trước của chính mình. Sáu nẻo luân hồi cũng là do vọng tưởng phân biệt chấp trước biến hiện ra. Phật nói cảnh mộng không thật, nó là giả. Chúng ta sau khi tỉnh dậy thì biết đó là giả. Phật nói sáu nẻo cũng không thật, “phàm hễ có tướng đều là hư vọng, tất cả pháp hữu vi như mộng huyễn bào ảnh”, Phật thấy không hề sai. Thế nhưng ta bất giác nên mê ở trong đó, ta thật bị cái khổ đó.

Khi nằm mộng, gặp một con cọp muốn ăn thịt ta, làm cho toàn thân ta toát cả mồ hôi lạnh vì ta không biết đó là giả. Nếu như có thể biết được đó là giả, thì ta đã học Phật rồi, xả thân nuôi hổ, vậy thì ta rất tự tại, rất an vui thôi.
Giữa mê và ngộ chỉ là, giác ngộ rồi thì có thể xả, khi mê rồi thì không thể xả. Khi ngộ thì liền có thể xả, triệt để xả bỏ, ngay đến thân cũng không thể lưu luyến. Thân này là giả, không phải là thật, trên Kinh Bát Nhã giảng giải rất rõ ràng.

Những đại đạo lý này cùng chân tướng sự thật, ngay trong một đời này của chúng ta tỉ mỉ mà thể hội, tỉ mỉ mà quan sát, sau đó mở Phật kinh ra để đối chiếu thì ta sẽ phát hiện, quan sát của ta, thể hội của ta so với trên kinh Phật đã nói hoàn toàn tương ưng, không hề khác biệt. Như vậy chúng ta mới chân thật bội phục Thích Ca Mâu Ni Phật từ đáy lòng là Ngài có trí tuệ chân thật, giáo huấn của Ngài là chân thật.

Mê mấy cũng rán mà mở mắt,
Đừng để cho mộng dắt đi sâu,
Mộng thì tan chẳng còn đâu,
Dù cho mộng ấy đài lầu vinh quang.
Tìm sống thật cho an hồn xác,
Sống mộng chi cho nát thân tâm;
Phải can đảm nhận đời lầm,
Quyết bừng tỉnh dậy kiếm tầm đường tu.
Đạo mới giải được câu đời tạm,
Đời vẫn nằm trong phạm vi mê;
Bởi mê thành khổ nhiều bề,
Mà điều chi cũng chẳng hề được lâu;
Thân không thật vật đâu có thật,
Người luống công giành giựt đeo mang;
Hơi tàn mọi vật đều tàn,
Dù cho vật ấy nồng nàn thương yêu.
Đời tan hợp là điều khó tránh,
Thân mất còn là cảnh người đời;
Trong khi còn mấy tấc hơi,
Nên lo giải thoát hỡi người thế gian!
Chớ rằng bận lo toan việc thế,
Mà chẳng lo tìm kế thoát thân.
Đến khi thấy mặt tử thần,
Bảo đừng nó chẳng hề đừng cho đâu.
Phải tính trước khỏi câu hận tiếc,
Đợi nguy rồi mới biết muộn màng.
Sớm tu thì sớm được an,
Chỉ tu mới cứu khỏi đàng trầm luân.
Tu là phúc của thân hiện tại,
Tu là vui của cái đời sau.
Tu làm nhẹ kiếp khổ đau,
Tu cho hồn khỏi đọa vào đường mê.

Chúng ta cần phải sáng suốt để thấy rằng, thọ mạng của mình liên tục suy giảm. Mỗi ngày, mỗi phút giây trôi qua là mỗi khoảng thời gian ta tiến đến cái chết gần hơn. Tương tự như con dê được dắt đến lò mổ, mỗi bước chân của nó bước tới là mỗi bước gần kề cái chết một bước.
Chính vì vậy mà Bồ Tát Phổ Hiền cảnh tỉnh chúng ta rất là thống thiết qua bốn câu kệ:

“Thị nhật dĩ quá.
Mạng diệc tuỳ giảm.
Như thiểu thủy ngư.
Tư hữu hà lạc”.
(Ngày giờ trôi qua rất mau.
Mạng sống con người cũng giảm dần,
Giống như con cá ở trong bể nước bị rò rỉ,
đang chờ chết thì có gì là vui)

Đã biết như vậy rồi, chư Tổ sư mới ân cần từ bi khuyên nhủ:

“Đại chúng đương cần tinh tấn.
Như cứu đầu nhiên.
Đản niệm vô thường.
Thận vật phóng dật”
(Ngưỡng mong đại chúng nỗ lực tinh tấn,
gấp rút công phu tu tập,
Như cứu lửa đang cháy ở trên đầu.
Hãy cẩn trọng chớ buông lung phóng dật,
vì đời sống rất vô thường).

Đây lại chính là bài văn cảnh sách Vô Thường tràn đầy bi tâm lân mẫn, một bài pháp khuyến tu với lời lẽ rất thống thiết của chư vị Tổ sư nhằm lay thức người học đạo hãy mau mau thức tỉnh trước ngày tháng vô thường, khi mà mạng sống của mỗi chúng ta đang bị giảm dần trong từng giờ từng khắc, giống như hình ảnh con cá đang sống trong bể nước bị rò rỉ vậy!

Một khi hơi thở không vào,
Xác kia trở cứng khác nào khúc cây.
Rồi sình lên thúi khai hết kể,
Rã tan ra khác thể bùn lầy;
Hồng trần bất luận là ai,
Xác thân đều phải như vầy ớ con.
Thế mà chúng sanh còn mến tục,
Tạo tác ra nhiều việc tội tình;
Làm cho thêm nghiệp tử sinh,
Mười phương chư Phật càng nhìn càng đau.

Đối với người học đạo chúng ta, khi nhận ra thực trạng đáng buồn này, thử hỏi chúng ta còn gì để ham muốn, còn gì để thích thú trước những thú vui tạm bợ nhất thời trong cuộc đời vô thường huyễn mộng này hay không? Ở đây còn có một điều đáng lưu ý nữa, đó là thời điểm rơi vào không gian một buổi chiều, khi đó mặt trời đang xế lặn, ánh chiều tà hắt hiu sắp tắt hẵn, nhường chỗ cho bóng đêm đang tràn về bao trùm không gian mà chúng ta đang sống. Và cũng trong không gian lắng đọng lời kinh tiếng kệ, trong thời công phu chiều này mới cảm được tấm lòng đại từ đại bi lân mẫn của chư vị Tôn đức, và mới thấu tột ý nghĩa vô cùng trọng đại của hai chữ “vô thường” và “sanh tử”. “Sanh tử sự đại”. Đó chính là “việc lớn” mà người tu hành theo hạnh Phật phải dán chữ tử lên trên trán của mình, phải thường xuyên khắc ghi nó vào tâm trí… thì mới có thể chế ngự được cái tâm tham dục, mới có thể gieo vào tạng thức mình cái chánh nhân của người học Phật!

Thân người như sắt trên đe,
Búa trời nhật nguyệt đánh đè ngày đêm.
Qua một phút chết thêm một phút,
Cứ đi lần đến lúc tắt hơi.
Đâu ngày nào được nghỉ ngơi,
Nếu người hẹn mốt hẹn mơi là lầm.
Chết bất đắc đâu kham niệm Phật,
Già lảng tâm đạo đức sao xong.
Chi bằng trong lúc sự không,
Trì tâm niệm Phật gia công tu hiền.

Chúng ta cũng cần nên nhớ thời điểm và cách thức chết là vô định, không ai có thể biết trước điều này. Nó có thể là vài chục năm, vài năm, vài tháng sau, cũng có thể là chỉ còn vài ngày, thậm chí có thể là ngày mai hay ngay hôm nay ta sẽ chết. Đôi khi một đứa trẻ chết sớm hơn cha mẹ mình, một thanh niên khỏe mạnh có thể chết trước những người bị bệnh hiểm nghèo… Có người bị chết trong khi ngủ, trong bào thai, trong khi đi từ nhà đến nơi làm việc, trường học, khi đang ở sân chơi, đang sửa soạn bữa ăn. Cái chết có thể xảy ra bất cứ lúc nào trong bất kỳ hoàn cảnh nào. Vì vậy, chúng ta cần trân trọng những giây phút cuối ngắn ngủi của cuộc đời, không để trôi qua một cách trống không, mà phải tận dụng thời gian còn lại này vào việc công phu hành trì, sao cho trở nên vô cùng ý nghĩa và lợi ích.

Chết là điều mà chúng ta thường xuyên phải nhớ đến, bởi vì nếu chúng ta không nhớ, chúng ta sẽ bận rộn đi lăng xăng đây đó một cách vui vẻ suốt ngày lẫn đêm, để cho thời gian trôi qua, hết ngày đến tuần, hết tuần đến tháng, hết tháng đến năm, cho phép các suy nghĩ của chúng ta tha hồ đi lan man “ vào cuối năm nay”, hay “đến đầu năm tới” mà chẳng khi nào suy xét phương hướng mục đích mình sống trên cõi đời này là để làm gì? Rồi cứ mãi buông lung phóng dật đuổi tìm những thứ mộng mị tạm bợ vô nghĩa, phí uổng một kiếp làm người!

Việc nghiệp biết không chờ phải thốt,
Kẻ thế gian ngu dốt làm sao!
Không phân biệt được vàng thau,
Trần ai lại mến, đạo mầu thì ngơ.
Trẻ bảo tu hẹn chờ có tuổi,
Già cho rằng chưa rỗi để tu;
Hết Xuân rồi lại đến Thu,
Cứ lần lựa đến khi vào quách quan.
Kẻ làm con ngỗ ngang hung bạo,
Khiến mẹ cha phiền não phát sanh.
Kẻ làm cha mẹ bất lành,
Khiến con bắt chước tạo tành bất lương.
Tội lỗi cứ chằng vương như thế,
Hết đời nầy thừa kế đời sau;
Nghiệp sầu cứ mãi chuyền lao,
Chúng sanh biết đến chừng nào rảnh rang.

********

Song, muốn cho niệm Phật mau có chứng nghiệm thì mỗi người cần phải có sự nhận định rõ ràng. Theo Ngài Huệ Viễn pháp sư là Tổ thứ nhất về môn Tịnh Độ ở Trung Hoa, Ngài có khuyên người đời: “Chớ tham đắm tiền bạc, vì nó là một vật ô uế thường làm cho lòng người trở nên dơ bẩn xấu xa; chớ cầu cạnh tước lộc quyền oai, vì nó chẳng khác nào xiềng xích, gông cùm, thường trói trăn giam hãm thân xác con người; chớ say mê sắc đẹp, vì nó có sức bén hơn gươm đao, kẻ nào rờ mó đến khó tránh khỏi đứt tay, có khi phải hại đến tánh mạng nữa”.

C. Tai hại của ngũ dục

Ngủ dục là nguồn gốc của khổ đau.

Trong Luận Ma ha diễn: “Ngũ dục như nước biển, càng uống càng khát. Ngũ dục không vui, như chó gặm xương khô. Ngũ dục gây tranh đấu, như bầy quạ giành thịt thúi. Ngũ dục thiêu người, như cầm đuốc đi ngược gió. Ngũ dục hại người, như đạp nhầm rắn độc. Ngũ dục không thật, như mộng được của báu. Ngũ dục tạm bợ không lâu bền, như chọi đá nháng lửa. Người trí suy xét coi nó như giặc thù; người đời mê lầm, tham đắm ngũ dục đến chết không bỏ, đời sau phải chịu vô lượn g khổ não.”

Giới văn hóa ngày nay rất đông, ai cũng nêu cao khẩu hiệu mưu cầu hạnh phúc cho nhân loại. Nhưng khoa học phát đạt, nghệ thuật xương minh, văn học ưu mỹ, chính trị tiến bộ cũng không thể giải trừ hoàn toàn đau khổ cho nhân loại. Khoa học, nghệ thuật, văn học, chính trị tuy có công năng cải thiện cuộc sống, nhưng cũng có rất nhiều tác dụng phụ tai hại, và nó thực sự bất lực trong vấn đề giải thoát sinh tử cho con người.

Tuy thế giới ngày nay,
Nhiều phát minh rất tài;
Nhưng vấn đề sanh tử,
Vẫn còn dở chưa hay.
Loài người cứ phải chết,
Cái chết không đổi thay.
Thế là phát minh ấy,
Chưa khỏi kiếp trần ai.
Dùng nó giúp nhơn loại,
Song chớ có mê say;
Mê say sanh tự mãn,
Tự mãn gây nạn tai.
Tai nạn bằng khoa học,
Thần Thánh cũng châu mày,
Tình thương nhau nếu mất,
Tiêu diệt chỉ phút giây

Chúng sanh luân hồi trong ba cõi sáu đường, sinh rồi lại tử, tử rồi lại sinh, gánh chịu biết bao đau khổ, đều do tham dục dẫn khởi mà ra. Học thuật tiến bộ, văn minh vật chất đều không giúp con người thiểu dục tri túc. Dục vọng càng nhiều thì khổ não tự nhiên cũng nhiều.

Cổ nhân nói: “Lòng dục của con người không cùng, song vật có thể làm thỏa mãn lòng dục của ta lại có hạn.” Các ngành học thuật một mặt cải thiện cuộc sống của nhân sinh, song mặt khác cũng lại làm tăng thêm dục vọng của con người. Cho nên khoa học, nghệ thuật, văn học, chính trị đối với nhân loại công và tội gần bằng nhau. Nó đem lại hạnh phúc cho nhân loại, song đồng thời cũng đào sâu biển khổ cho con người!

Túi tham của con người không đáy, khó đầy. Mọi người đều tranh nhau tìm cầu dục lạc do tài lợi, thanh sắc đem đến. Song trong dục lạc đã sẵn mầm đau khổ, mà họ lại không biết e sợ! Đây là do chúng sinh mê mất bản tính, lấy khổ làm vui trong sinh tử luân hồi. Một khi đã dấn sâu vào đó, thì khó ai biết quay đầu trở lại, suốt ngày làm nô lệ cho dục vọng, không biết hướng đến Phật

Pháp tìm cầu giải thoát.
Bởi mê mới làm tôi thị dục,
Nếu ngộ đâu tùng phục lòng tà;
Dục tà đều hại người ta,
Dục là thống khổ tà là trầm luân.
Dục thường vì xác thân khởi xướng,
Tà thường vì vọng tưởng gây ra;
Cả hai đều thứ mắt lòa,
Lợi gần thì thấy, hại xa không tường.
Gần dứt thở trên giường chưa biết,
Bảo vợ con nối tiếp đường lầm;
Vì tình mà thọ cảm tâm,
Vợ con rồi cũng lũi lầm theo luôn.
Nghiệp cha mới vừa buông con bắt,
Hết cháu rồi lại chắt nối truyền;
Cứ như thế đó lưu liên,
Gây nên một khối thảm duyên nhiều đời.
Cha mẹ chết con rơi nước mắt,
Con chết thì cháu chắt khóc ròng;
Vợ thì chan chứa vì chồng,
Chồng thì vì vợ đôi giòng lệ rơi.
Nước mắt ấy từ đời vô thỉ,
Bốn biển to đem ví không bằng;
Sanh ly tử biệt vô ngằn,
Giây oan đáng sợ nợ trần đáng ghê.

Trong Kinh có ghi lại một câu chuyện như sau:

Bên bờ sông Hằng nước Ấn, có một nhóm phụ nữ mang những giỏ cá từ chợ về nhà. Giữa đường họ gặp một trận mưa to, trời cũng vừa tối mà cách nhà còn non ba cây số. Trong lúc bối rối chưa biết tính sao, các cô may mắn gặp được một vị chủ cửa hàng hoa, mời lưu lại nhà mình qua đêm. Trong phòng toàn là hoa, mùi hương sực nức cả nhà. Suốt ngày mệt nhọc, nhưng các cô nằm xuống vẫn trằn trọc không sao ngủ được. Mùi hương hoa làm mọi người không quen cảm thấy khó chịu, cho đến gà gáy báo sáng mà mọi người vẫn còn trằn trọc không yên. Trong đó có một cô thông minh, liền đem giỏ cá đặt nơi đầu giường. Mùi tanh lấn át mùi hương, các cô mới nhắm mắt ngủ được một lát.

Câu chuyện trên cho thấy rằng chúng sanh bị tham dục cầm tù, ô uế tanh hôi, nhưng mọi người ở lâu trong đó trở lại cho là khoái lạc, si mê điên đảo lấy khổ làm vui, như anh chàng ghiền xì ke ma túy! Đa dục là nhiều thống khổ, người có từng trải mới có thể hiểu được.

Xét rằng từ cổ chí kim,
Vì tình hoặc giả vì tiền giết nhau.
Rốt cuộc lại người nào cũng chết,
Uổng mưu gian uổng giết lẫn nhau;
Ô danh trọng tội mang vào,
Thúi tràn muôn dậm thơm nào mấy ly.
Vả lại cũng tại vì nghiệp ác,
Linh hồn kia khi thác đi rồi;
Sáu đường cứ mãi lăn trôi,
Chịu chiều sanh tử luân hồi thiết tha,
Khổ với thảm kể ra sao  hết,
Sống chưa chi kế chết tới nơi;
Ngắn thay số mạng người đời,
Cũng nên xét kỹ để hồi tâm tu.

Tuy nhiên dục không nhất định hoàn toàn là xấu. Kinh nói dục có hai loại là tạp nhiễm dục và thiện pháp dục. Nội tâm bất tịnh, tham đắm danh lợi thanh sắc bên ngoài là tạp nhiễm dục; Còn, mang lý tưởng giúp đời, làm công tác phúc lợi xã hội cũng là dục nhưng thuộc về thiện pháp. Vì vậy, chúng ta nên tăng trưởng thiện pháp dục và giảm thiểu tạp nhiễm dục.
Đại đa số người chỉ lo tham cầu tạp nhiễm dục, mà không biết hướng đến thiện pháp dục. Vì thế Đức Phật khi thuyết Pháp thường quở trách lòng dục. Dục vọng mà mọi người muốn thỏa mãn nếu không phải lòng dục về quyến thuộc đông đầy, thì cũng là lòng dục về tiền của dồi dào; nếu không phải lòng dục về thăng quan tiến chức, thì cũng là lòng dục về sống lâu không già… cho đến ăn ngon mặc đẹp, cao sang sung sướng…

Song những dục vọng này có thể thực sự đem lại an vui cho con người không?

Lòng dục về quyến thuộc: cha con, mẹ con, thầy trò, họ hàng, chồng vợ, anh em, bè bạn, tôi tớ cho dù được thỏa mãn đầy đủ, song cũng có khi lại biến thành oan gia oán thù! Tục ngữ bảo: “Chẳng phải oan gia chẳng gặp nhau.” Anh em giành của, cha con trở mặt, chồng vợ ly hôn, tôi tớ hại chủ…, quyến thuộc yêu thương một phen trở mặt còn tệ hại hơn người dưng! Cho nên người thông minh đâu cần nhất định phải thỏa mãn lòng dục về quyến thuộc!

Ngoài lòng dục về quyến thuộc ra, lòng dục về của cải cũng rất mãnh liệt. Người ta không những mong muốn việc ăn mặc được đầy đủ, chỗ ở được rộng rãi, thoải mái, mà còn muốn đất đai, vàng bạc càng lúc càng nhiều! Ai cũng hy vọng mình mỗi ngày một sở hữu càng nhiều của cải, vật chất. Thực ra, những của cải này có khi lại gây ra lắm điều phiền lụy! Cổ nhân từng bảo: “Người vì của mà chết, chim vì ăn mất mạng.” Cho nên, có biết bao mạng sống, nhân cách của con người bị chôn vùi dưới đống của cải! Thấy vàng bạc, của cải trước mắt, không còn nghĩ gì đến tình nghĩa thân thuộc bạn bè , chẳng kể chi đến đạo đức lương tâm, con người tự đánh mất chất người của mình!

Ngoài lòng dục về quyến thuộc, của cải ra, còn có lòng dục về thân thể. Ai cũng muốn nhan sắc mình được trẻ đẹp, sức khỏe mình được lâu dài. Nhưng thế gian vốn vô thường, tuổi xanh đi qua mau, trẻ đẹp có bao lâu? Ngay điều mà cổ nhân gọi là tam bất hủ: lập công, lập đức, lập ngôn, để xây dựng nên công nghiệp hiển hách, cũng phải chịu không biết bao nhiêu đắng cay, khổ não!
Xét cho cùng, người lòng dục nhiều chừng nào thì khổ não cũng càng lắm chừng đó. Tham tài, tiền tài không nhất định đem đến an vui, song người mất mạng vì tiền của lại không ít; tham danh, danh không nhất định mang lại an lạc, song người lụy vì danh lại rất đông; tham sắc, sắc không nhất định đem đến hạnh phúc, song có biết bao người đau khổ vì sắc đẹp! Do đó có thể thấy, câu Kinh: Đa dục nhất định phải vương mang ưu sầu phiền lụy tang thương, quả thật là tiếng đại hồng chung ban sớm, đánh thức người đời tỉnh khỏi giấc mộng lợi danh!

Năm tháng vấn vít trong khổ hải,
Kiếp đời lăn lộn mãi sông mê;
Đường Tây Phương bặt lối trở về,
Nẻo địa ngục vào ra mòn gót.
Chịu hành phạt đã không còn sót;
Cửa luân hồi chưa vượt khỏi qua;
Nghiệp trần còn đành phải sanh ra;
Mang lấy kiếp gọi là sanh vật.
Lo thân sống nào ăn, ở, mặc;
Nào lợi danh nào vật dục tình;
Rồi sanh lòng bảo thủ lấy mình;
Việc chi cũng muốn trên hơn cả.
Tánh ích kỷ sanh ra nhơn ngã,
Khiến cho người nổi dạ cạnh tranh;
Thấy ai hơn có ý ghét ganh,
Thấy ai kém sanh tình húng hiếp.
Hố tham chẳng bao giờ phủ líp;
Tánh tham danh, tham sắc, tham tài,
Ba điều tham thiên hạ đang say,
Đa số khách trần ai đều bị.
Nếu chẳng dứt được lòng ích kỷ,
Thì chứng tham khó trị cho lành;
Hễ tham danh thì khổ vì danh;
Chữ danh nó gần bên tài sắc;
Danh có được sắc tài liền bắt,
Tài được rồi danh sắc nối theo;
Sắc có thì danh lợi nó đeo,
Danh, tài, sắc, ba điều dính líu.
Vướng một cái cả ba cái níu,
Ngả bên nào cũng chịu khổ sầu;
Vượt ra ngoài có mấy ai đâu,
Rơi vào đó biết bao nhiêu kẻ.
Đạo cốt nhục nỡ đành chia rẽ,
Tình đồng bào xâu xé nát tan;
Cũng vì danh, vì sắc, vì vàng,
Làm cho kẻ tham gian tối mắt.
Mê danh lợi lắm người phản tặc,
Đắm sắc tài nhiều bực vong ân;
Biết bao điều thảm sát bất nhân,
Vì tài hoặc vì danh vì sắc.
Nếu việc lớn nước nhà sanh giặc,
Còn nhỏ thì thù ghét chòm giềng;
Khắp hoàn cầu thiên hạ đảo điên,
Vì tài vì sắc vì danh lợi cả.
Tánh ích kỷ với lòng nhơn ngã,
Mưu lợi danh mưu cả sắc tài;
Người giết người chẳng biết gớm tay,
Bạn phản bạn quên ngày hậu nhựt;
Trai bất nghĩa gái không hạnh đức,
Chồng bạc tình, vợ thất tiết trinh,
Trò phản thầy, tớ hại chủ mình,
Cũng vì sắc tài danh phần lớn.

Cổ nhân nói: Người đạt đến chỗ vô cầu, tự nhiên phẩm cách cao thượng. Cảnh giới vô cầu cũng chính là cảnh giới vô dục. Người mà vô dục thì phẩm cách tự nhiên sẽ cao thượng, và khổ não tự nhiên sẽ tan biến. Hãy nhìn xem, những kẻ trong trường danh lợi, những người đầu cơ tích trữ, cúi luồn nịnh hót, hoa ngôn xảo ngữ, làm nô lệ cho dục vọng lại cho là khoái lạc, thật đáng thương biết chừng nào!

Đương nhiên, Phật giáo không phải dạy chúng ta tuyệt đối cấm dục, song cũng không tán thành việc phóng túng lòng dục. Phật giáo dạy chúng ta có thái độ trung đạo. Đối với các dục về quyến thuộc, của cải, thân thể cố nhiên không thể phóng túng, nhưng cũng không cách nào hoàn toàn thoát ly. Cần phải dùng trí tuệ để chuyển hóa tình cảm, thực hiện thiện pháp dục mà xa lìa phiền não dục.

Muốn về gặp Đức Như Lai,
Bao nhiêu tội lỗi thẳng tay trị trừng.
Càng làm cho nhẹ được thân,
Thì càng chóng bước đến gần đài sen.

Giở lại lịch sử Ấn Độ, xã hội khi Phật còn tại thế có một nhóm người chủ trương hưởng thụ dục lạc, phóng túng lòng dục. Họ quan niệm: Hôm nay có rượu, hôm nay say, còn chuyện ngày mai lo làm gì, nên tìm đủ cách hưởng thụ dục lạc, ăn chơi xa hoa trong cuộc sống hiện tại. Lại có một nhóm người tu khổ hạnh theo ngoại đạo, chủ trương tuyệt đối cấm dục. Nhà khổ hạnh không những đoạn tuyệt lòng dục về nam nữ, mà còn sống hết sức khắc khổ trong cái ăn, cái mặc, cái ở để tu luyện. Họ chỉ ăn rong rêu, hoặc rễ cỏ, vỏ cây, hoa quả cho đỡ đói. Họ không mặc y phục, suốt ngày thân thể để trần. Có người ngồi trên gai góc, hay bên bờ vực thẳm; có người nằm sát bên đống lửa hay trầm mình trong nước vào mùa đông… Những khổ hạnh vô ích này, chỉ làm khổ cho mình, hoàn toàn không thể nhờ cái khổ đó mà được giải thoát. Họ tuy xa lìa được lòng dục về lạc hạnh, song lại bị lòng dục về khổ hạnh trói buộc, rốt cuộc vẫn không phải là pháp giải thoát. Cho nên Đức Phật sau khi thành đạo, đã tuyên bố chân lý trung đạo, dạy người học đạo phải xa lìa hai cực đoan là tham đắm dục lạc và cố chấp khổ hạnh, nên y theo Bát chánh đạo để tinh tiến tu tập.

Chúng ta phải hãy dùng lòng từ bi thay thế tham dục, dùng trí tuệ hóa giải tình cảm, không để lòng mình sinh khởi tạp nhiễm dục, tự nhiên sẽ tránh được vấn đề đa dục là khổ!

Kiếp rồi mới vừa tan xác đó,
Kế kiếp này cũng bỏ thân luôn,
Nhưng mê đời vẫn không buông!
Biết bao giờ khỏi cái guồng tử sanh?
Sanh đủ loại đủ hình bất nhứt,
Tử nhiều phương nhiều cách nan phân.
Dễ gì sanh được nhơn thân,
Dễ gì tử được khỏi phần thảm thê.
Làm người được dễ về Tiên Phật,
Làm súc sanh khó được siêu thăng.
Há không sớm biết ăn năn,
Để cho khỏi mất thiện căn con người.
Người thú tánh người rơi cõi thú,
Người ác tâm người thụ ác đời,
Nhân nào quả nấy người ơi!
Xin đừng để mất tánh người thiện lương.
Người muốn được hồn nương cảnh Phật,
Nên từ tâm như Đức Thích Ca,
Thương yêu tất cả người ta,
Cứu an thân sống, cứu ra biển trần.
Sớm khuya rán ân cần tu niệm,
Thân tâm thường kiểm điểm tốt lành,
Quyết lo lánh trược tầm thanh,
Lòng không để các lợi danh làm cuồng.

Người ta thường nói: Người không nhiều dục vọng thì không có thất vọng; người dục vọng càng nhiều thì đau khổ càng nhiều. Kinh Di Giáo cũng nói: “Người biết tri túc, tuy nằm trên đất vẫn thấy an lạc; người không tri túc, dù ở thiên đường, cũng không xứng tâm vừa ý.” Đệ tử Đức Phật là Tôn giả Ca Diếp, Ngài chuyên tu hạnh Đầu Đà, nương nơi gò mả đồng hoang mà bình an, giải thoát; học trò Khổng Tử là Nhan Hồi, sống trong ngõ hẻm tồi tàn vẫn thanh nhàn, an lạc. Đây là những hình ảnh sống động, nhằm chứng minh ý nghĩa xác thực lời Phật dạy trong kinh Bát Đại Nhân Giác: “Tham muốn nhiều là khổ, bao sinh tử nhọc nhằn đều từ tham dục ra; nếu ít muốn vô vi, thân tâm được tự tại.”. Qua đó ta thấy, khổ là do nhiều lòng dục mà có; nhiều lòng dục là nguồn gốc của khổ.

Chúng sinh luân hồi trong sáu nẻo, tử rồi lại sinh, sinh rồi lại tử, những nhọc mệt khổ đau này, không phải đều từ tham dục mà ra hay sao? Lấy cuộc sống hiện thực mà nói, chúng ta suốt ngày tìm cầu, tham lam chiếm hữu, làm trâu ngựa cho tiền bạc danh vọng, cho ngũ dục, lúc nào cũng lo được lo mất, bối rối bất an, đều từ tham hố mà ra cả.

Tham dục thật là đáng sợ! Kẻ táng thân mất mạng trong đời thường là do nơi tham dục. Chúng ta hãy thử nhìn xem con thiêu thân lao vào lửa, con cá mắc lưỡi câu, chẳng phải đều do lòng tham dục xui khiến nên hay sao? Những phạm nhân trong tù, người thì phạm tội trộm cướp, kẻ thì phạm tội gian dâm, chẳng phải đều bị lòng dục làm hại đó sao?

Đã rõ biết sự mê là khổ,
Nên phải lo giác ngộ chơn tâm;
Lấp bằng các hố sai lầm,
Để cho kẻ mến người tầm học theo.
Chớ để dạ ôm đeo việc ác,
Khiến mọi người bài bác khinh khi;
Giá danh hiện chẳng còn gì,
Chết rồi hồn chịu lắm khi đọa đày.
Đầu thai cõi trần ai đau khổ,
Chịu ngu khờ ở chỗ cơ nguy;
Từ sanh cho đến chết đi,
Không ngày nào được hưởng gì sướng vui.
Sống trong cảnh nặc mùi thảm khổ,
Khiến lắm người phun nhổ gớm ghê;
Chúng sanh vì quá còn mê,
Chỉ lo hiện tại quên bề vị lai.
Nay sung sướng ngày mai khổ não,
Mối oan khiên nghiệp báo không lầm;
Một vay phải trả thiên trăm,
Cũng là tự đắc cho rằng khôn ngoan.
Phật trông rõ mọi đàng chơn giả,
Rất xót thương lòng dạ người mê;
Làm hung tuy hiện vinh huê,
Nhưng sau nầy chịu trăm bề khổ lao.
Sự khổ nhục khác nào giòi tửa,
Ăn bám đồ kẻ mửa người chê;
Càng nhìn vào cõi trần mê,
Lòng càng quặn thắt không hề thấy vui.

Thuở xưa có hai người họ Trương và họ Vương cùng nhau đi du lịch nơi xa. Giữa đường họ nhặt được một khối vàng ròng. Cả hai mừng quá bèn bàn nhau chia đôi. Trên đường đi, anh họ Trương nói với anh họ Vương:

– Khối vàng này chúng ta nhặt được là do Thành Hoàng nơi đây có mắt, cho chúng ta cơ hội phát tài. Chúng ta nên mua một ít rượu thịt đến trước Thành Hoàng cúng bái để tạ ơn.

– Được lắm, anh đi mua đồ, tôi ở trước miễu Thành Hoàng đợi.

Anh họ Trương hoan hỷ đồng ý. Nhưng ngay sau đó trong lòng hai người liền nảy sinh ý niệm tham lam, muốn một mình chiếm trọn.

Anh họ Trương nghĩ rằng: Khối vàng ròng này nếu chia đôi, chỉ còn phân nửa, thì tiêu xài không được bao lâu.

Anh họ Vương cũng nghĩ: Khối vàng ròng này nếu chia đôi thật là uổng, chi bằng ta tìm cách hưởng hết một mình.

Tâm tham dục vừa khởi, điều ác đã đến nơi. Anh họ Trương bèn mua thuốc độc lén bỏ vào rượu và thức ăn để giết hại anh họ Vương. Anh họ Vương thấy trong miếu Thành Hoàng không có ai, cũng chuẩn bị một cây búa để đập chết anh họ Trương. Hai người thầm đắc ý với diệu kế của mình, cho rằng đối phương quyết không hay biết.

Anh họ Trương mua rượu và thức ăn về, khi đang lạy cúng Thành Hoàng, không ngờ bị anh họ Vương bất ngờ đập cho một búa vào đầu, ngã lăn ra chết, liền lôi xác quăng xuống vực thẳm.

Anh họ Vương giết anh họ Trương xong lấy được vàng, vừa định đào tẩu thì cảm thấy bụng đói cồn cào. Anh nghĩ: “Mình hãy ăn uống no say cái đã, rồi trốn đi, đâu có vội gì?” Anh liền bày rượu thịt ra ăn uống một mình. Đang ăn, bỗng cảm thấy trời đất xoay chuyển, thuốc độc phát tác, cuối cùng anh ta cũng ngã lăn ra chết!

Hai người họ Trương họ Vương lòng tham quá lớn, vì muốn một mình hưởng trọn khối vàng, có tâm hại người nên trở lại tự hại lấy mình! Đây là nhân quả hiện tiền, cũng là nói tất cả tội ác đều từ tham dục sinh ra.

Thế nên tục ngữ có câu: “Của hoạnh tài không làm giàu được kẻ số nghèo”. Giàu có vốn không phải do tham dục mà được. Làm giàu phải có phước, không phước mà cầu giàu sang để thỏa mãn lòng dục, thì kết quả vô cùng bi thảm!

Trò phản thầy, tớ hại chủ mình,
Cũng vì sắc tài danh phần lớn.
Mình sung sướng mặc người đau đớn,
Thấy của ai cũng muốn lăm le;
Lời nói lành chẳng để tai nghe,
Thấy việc phải không hề bắt chước.
Vì ích kỷ chẳng vui làm phước,
Vì ngã nhơn muốn được phần mình.
Tạo muôn ngàn tội ác tài đình,
Cũng vì lợi vì danh vì sắc.
Người đối xử với người khe khắc,
Người nhẫn tâm lừa gạt lẫn nhau.
Chẳng phải vì ích kỷ hay sao?
Quyền lợi đụng chạm nhau do đó.
Muốn danh vọng muốn nên giàu có,
Muốn cao sang muốn vợ con xinh,
Muốn cho ai cũng phải phục mình,
Muốn mình sống mặc tình ai chết.
Càng muốn mãi muốn hoài không hết,
Các việc do lòng ích kỷ sanh.
Giữa loài người đủ mặt cạnh tranh,
Vì muốn lợi cho mình làm trước.
Mình muốn được thì người muốn được,
Mới gây ra có cuộc đấu tranh.
Kẻ được thì đủ cách giữ canh,
Người bị mất cố tình lấy lại.
Kẻ nay thắng kế mai lại bại,
Người bại nay nhưng lại thắng mai.
Thua trần thân được cũng trầy mày,
Xét cho kỹ có ai sung sướng.
Chỉ tạo lấy thêm nhiều nghiệp chướng,
Làm cho đời khổ lớn ra thêm.
Danh lợi mua bằng cách thù hềm,
Thà không có còn êm hơn có.
Vì sự sống việc chi cũng mó,
Ấy lầm to nào có khôn ngoan.
Lợi cho mình mà hại nhơn gian,
Cái lợi ấy chỉ làm tuyệt lộ.
Nghĩ đến chuyện đấu tranh lưỡng hổ,
Tất không vui làm khổ cho ai.
Nếu để lòng nghĩ đến ngày mai,
Sẽ không thể nhúng tay việc ác.
Luật nhân quả thẳng tay trừng phạt,
Vô luận ai tạo tác bất lương.
Muốn thì làm chẳng chịu suy lường,
Dễ đưa tới con đường tội lỗi.
Biển sâu rớt luống công bơi lội,
Tội ác lâm khó nổi gỡ ra.
Vui nhứt thời để khổ lâu xa,
Sự vui ấy chỉ là thuốc độc.
Chúng sanh biết bao điều thảm khốc,
Vì ham vui trong chốc lát sanh.

Những người giàu sang vinh hoa phú quí là nhờ bố thí, nhờ tích chứa phước đức mà có, chứ không phải do tham dục mà được, không phải do khôn ngoan gian dối cơ xảo mà được. Nếu lận lường, trộm cướp, lừa đảo mà được, thì những thứ đạt được ấy cũng chỉ là những thứ trong mạng của mình đã sẳn có, lẽ ra nó tất nhiên sẽ đến, nhưng đến chậm một tí mà thôi. Bằng không, thủ đoạn phi pháp phi nghĩa chưa thực hiện xong là cùm gông đã tới trước. Cho nên, hành động cưỡng đoạt để có, đã vừa gây tạo tội ác lại vừa tổn giảm đi quá nhiều phước phần của chính mình mà không hề hay biết, tương tự như từ ngữ mà người dân miền Tây thường dùng là “hốt hụi non”. Vì thế, người xưa có câu: “Quân tử thong dong làm quân tử, tiểu nhân oan uổng làm tiểu nhân”

Tham muốn nhiều là nhiều khổ não, nhiều phiền lụy, bao sinh tử nhọc nhằn đều từ tham dục sanh ra. Vậy chúng ta làm thế nào để đối trị nó, đây? Kinh nói: “Nếu ít muốn vô vi, thân tâm được tự tại”.

Dục không phải nhất định là hoàn toàn tội lỗi. Người vì xã hội lo việc phước lợi, thiện pháp dục này không những không bị người ta phản đối mà còn được rất nhiều người tán dương. Chẳng qua, lòng dục về danh lợi tài sắc nếu kiêu xa quá đáng, quá phận, vô độ… thì dư luận xã hội cũng không đồng tình.

Trong Kinh chỉ dạy chúng ta giảm thiểu lòng dục, sống đời thanh thản, không vướng bận, không não phiền. Người lòng dục nhiều thì phiền não tất nhiên cũng nhiều; ngươi lòng dục ít thì phiền não tự nhiên cũng ít.

Người ít dục vọng thì tâm không dua nịnh, không mong cầu vô lý. Tâm không tham dục sẽ trở nên cương trực, thẳng thắn. Người ít muốn vô vi sẽ không bị các căn mắt tai mũi lưỡi thân ý của mình và sáu trần sắc thanh hương vị xúc pháp bên ngoài trói buộc. Thân tâm của vị đó tự nhiên được tự tại, giải thoát.

Nhan sắc diễm lệ, giọng ca ngọt ngào, điệu múa uyển chuyển, vị ngon ăn uống, tiếng tăm lừng lẫy… đều có sức mạnh mê hoặc lòng người rất lớn. Nó khiến người ta phóng đãng dục tình, cùn nhụt ý chí, đắm đuối tìm cầu. Danh lợi tài sắc rõ ràng là biển dục khiến người ta phải trầm luân nơi nguy hiểm. Con người như một chiếc thuyền con đang lặn hụp, trôi giạt giữa biển khổ sóng to, gió cả!
Người đời lặn hụp trong biển dục, thì thân tâm làm sao có thể tự tại an lạc!

Cách tốt nhất là phải xa lìa biển dục phiền não, không mạo hiểm trong biển dục, luôn đề cao cảnh giác không bị nó dẫn dụ, làm mê hoặc. Người con Phật nên dùng sức thiền định, trí tuệ để phụng hành giới luật mà Đức Phật đã dạy, tuy ăn uống song không vì tham lam vị ngon mà sát sinh, hay đưa vào cơ thể của mình quá nhiều chất độc; tuy giữ của, song không phải vì tham lam mà dùng thủ đoạn để bòn rút, cướp đoạt; tuy có vợ có chồng, mà không buông lung vô độ gây ra việc tình ái lăng nhăng; tuy nói năng mà không vọng ngữ, thêu dệt…. Nếu thế gian có thái độ ít muốn biết đủ như vậy, thì thân tâm chắc chắn sẽ được tự tại, thanh thản và nhân loại cũng không có tranh chấp, hơn thua!

Kinh Bát Đại Nhân Giác có ghi:
Điều thứ hai phải nên giác ngộ,
Ham muốn nhiều, lụy khổ càng sâu.
Nhọc nhằn sinh tử bấy lâu,
Đều do tham dục dẫn đầu gây nên.
Tâm ít muốn, giữ bền đạo nghiệp,
Hạnh vô vi, không tiếp nghiệp duyên.
Tự nhiên sẽ hết não phiền,
An vui tự tại giữa miền nhân gian.

Ngũ dục gồm có: tài, sắc, danh, thực, thùy.

1/- Tài lợi

Ngài Sivananda đã nói: “Tiền bạc có thể giúp ta có mua được thuốc men, nhưng ta không mua được sức khoẻ; Có được chiếc gối êm, nhưng không được giấc ngủ ngon. Có được những tiện nghi vật chất, nhưng không được thực sự an vui. Có được những châu ngọc, nhưng không được sắc đẹp. Có được chiếc máy nghe tai, nhưng không được tánh nghe biết nhận. Nhưng khi có được tài sản tối thượng là trí tuệ, chúng ta sẽ có được tất cả mọi thứ.”

Đạo Phật chỉ dạy cho chúng ta nhìn, hiểu biết cái thật của vấn đề và sự vật dù rằng những vấn đề, sự vật ấy cực kỳ đơn giản và tầm thường. Có lẽ đôi khi những vấn đề, sự vật đơn giản và tầm thường nhất nhưng lại là khó thấy và khó hiểu nhất. Có lẽ do những vấn đề, sự vật đơn giản và tầm thường quá nên con người ta chẳng thấy và chẳng cần hiểu. Ví dụ như đồng tiền này đây! Ai cũng thấy, cũng biết và cầm nắm trong tay hàng ngày nhưng có mấy ai cầm nó đưa lên trước mặt để nhìn ngắm nó cho thật kỹ và thật sâu. Đồng tiền này từ đâu ra nhỉ? Đến và sẽ đi đâu? Có giá trị gì thật sự trong đời sống con người hay chỉ là những nguyên nhân gây ra nhiều tội ác? Đồng tiền có thật sự mang lại sự hạnh phúc và an vui cho con người chăng? Đồng tiền có thật là chiếc đũa thần vạn năng hay là cây đèn thần A La Đin, mà ngày nào đó ta một thời tin tưởng hay không?

Trong sự quán chiếu sâu xa của trí tuệ, thân người mà ta và mọi loài đang mang đây còn không thật huống chi đồng tiền, chỉ là giấy và những đồ kim loại do sản phẩm của đầu óc con người tạo ra và ước định vào. Nhưng tại sao tiền bạc vốn là sản phẩm của con người, mà lại quay ngược lại chế ngự con người có lúc đến mức gần như toàn diện trong đời sống hàng ngày. Điều ấy có mâu thuẫn và quái lạ lắm không?

Có lẽ dần dần con người chúng ta không còn thấy nó là do sản phẩm của con người nữa, mà là chính con người, là máu huyết, là mạng mạch trong cơ thể chúng ta để đến nỗi có lúc tưởng tượng rằng, không có tiền là không có tất cả, kể cả chính mình!

Do sự nhận thức lầm lạc như trên, nên dường như là chúng ta chưa từng bao giờ muốn dừng lại trong việc theo đuổi và săn bắt đồng tiền; đồng tiền ngược lại cũng vậy chưa từng muốn dừng lại trong việc rủ rê và mê hoặc con người. Cả hai đang trong trạng thái bất định và quay cuồng với nhau trong một đời sống do ảo tưởng của si mê hư vọng tạo nên. Nước mắt của chúng ta đã đổ ra quá nhiều cho đồng tiền, nhưng chưa từng một lần nhỏ giọt trước cảnh khổ đau, và xót xa của đồng loại. Nụ cười của chúng ta cũng tặng cho đồng tiền quá nhiều, nhưng chưa từng một lần tặng đúng ý nghĩa cho mẹ, cho cha, cho thầy những người ban ơn cho ta trong suốt cả cuộc đời. Chúng ta đã khóc và cười với đồng tiền, buồn và vui với nó, đã dùng trọn vẹn thời gian trong đời và năng lượng của con người để kiếm tìm và sống với nó, để rồi ta mãi thờ ơ lạnh nhạt với bao người thân thương mà lẽ ra ta không có lý do gì để quay mặt làm ngơ cho bao nỗi khát vọng mong chờ! Thử hỏi, chúng ta tận tụy và chung thủy như vậy với đồng tiền để ta có được gì, khi mà sau lưng ta đã chối phăng đi bất cứ giá trị và những ý nghĩa lợi ích khác chân thật hơn cho kiếp sống của một con người? Rõ ràng là chỉ bằng những mảnh giấy bạc và những đồng kim loại, ta đã quên hết tất cả thực tại mầu nhiệm của đời sống và các tính năng phi thường mà mình đang sẳn có trong tay!

Phần lớn bị bạc tiền mờ trí,
Ít ai mà chủ trị được tâm.
Nghèo thì bị bạc làm câm,
Giàu thì bị của giam cầm chung thân.
Xưa nay chốn hồng trần như thế,
Hơn thua nhau chỉ kể đồng tiền.
Dòng đời xuôi ngược đảo điên,
Đều do cái thứ bạc tiền mà ra.
Thứ tiền bạc người ta tạo nó,
Rồi người ta lại khổ vì tiền.
Không tiền nói phải cũng điên,
Có tiền nói quấy cũng thiên người ừ!
Trâu bò thì bị người xỏ mũi,
Người bị tiền bạc cưỡi trên lưng.
Trâu bò chỉ khổ xác thân,
Người thì xác thịt tinh thần khổ luôn.
Khổ đến chết chưa buông được nó,
Mà nhiều người lấy đó làm vinh.
Tiền xem trọng, nghĩa xem khinh,
Ngày nay thế giới chỉ tin đồng tiền.
Tiền là bạc không yên một chỗ,
Nay tay này mai ở tay kia.
Người thường vì nó rẽ chia,
Gây ra đổ máu đầm đìa khắp nơi.

Tiền bạc với con người có hai mặt liên hệ. Bên ngoài tiền bạc ấy đồng nghĩa với sự đổi thay không ngừng như thời gian sáng tối, như cảnh vật qua mau, và như không gian đang xoay chiều theo sự biến thiên liên tục của vũ trụ. Tiền bạc nó đến, nó đi và nó lại đến lại đi tợ như một kẻ lữ khách và quán trọ. Phật giáo với cái nhìn thâm sâu cho tiền bạc là vô thường, không thật có, giả tạm và chỉ là một phương tiện được tạo ra bởi con người để cân bằng và giữ vững sự sinh hoạt trong xã hội con người. Do vì là vô thường và giả tạm, phương tiện chứ không phải là cứu cánh, thì sao chúng ta phải dành trọn thời gian của cuộc sống và năng lượng đời người cho việc kiếm tiền, sống với đồng tiền trong những nỗi khổ đau, buồn vui cười ra nước mắt. Ý nghĩa, sung sướng và hạnh phúc nào đây khi ta từ lúc ra đời cho đến hiện tại đã trải qua gần hết cả cuộc đời để sống với nó, tin tưởng nó như là một cái gì quý báu nhất trên đời; nhưng nó lại thường làm ta mất ăn, mất ngủ và ban bố cho ta nhiều nỗi sợ hãi bất an!

Tiền là bạc không yên một chỗ,
Nay tay này mai ở tay kia.
Người thường vì nó rẽ chia,
Gây ra đổ máu đầm đìa khắp nơi.
Chủ được nó là đời hạnh phúc,
Nó chủ mình là mất tự do.
Làm ra để giúp để cho,
Chớ gom góp để bo bo giữ đời.
Đem giúp đỡ cho người chẳng mất,
Cứ bo bo giữ cất không còn.
Vật mòn biết dụng không mòn,
Tiền đừng nên bạc nên tròn nghĩa ân.
Ham tiền bị hư thân lắm kẻ,
Mến bạc nhiều người nhẹ giá danh.
Gái thì bán mất tiết trinh,
Trai thì trộm cướp hoặc sanh gian hùng.
Thân cho mấy khi lòng mến bạc,
Tình thân kia cũng nát như tương.
Tự mình bóp chết tình thương,
Mà không sáng mắt bởi vương bạc tiền.
Tiền dùng đúng tiền hiền như Phật,
Bạc xài lầm bạc ác hơn ma.
Phật ma cũng tại người ta,
Chớ tiền bạc nó vốn là vô tri.

Bên trong, tiền bạc ấy luôn là chất keo dính liền với sự tham ái của con người. Chúng ta chưa từng thoát ra được lòng tham lam xấu xa này dù rằng chúng ta cũng có tu và có học, có hiểu biết rõ về sự vô thường, giả tạo của tiền bạc trong đời sống. Nhưng để thoát ra và sống cao thượng vượt lên trên đồng tiền, thì hình như điều đó chúng ta vẫn chưa làm được. Do đâu? Do vì cái tham nơi lòng ta vẫn chưa được gột rửa tẩy trừ sạch kia mà!

Than ôi cho cái tham từ muôn kiếp sống si mê trói buộc, đã dẫn dắt ta đi mãi trong bao lời hứa hẹn về một sự sung sướng và an vui cho thân này. Sung sướng và an vui đâu chẳng mấy khi chúng ta cảm nhận, mà chỉ thấy ta càng ngày bị trói chặt thêm hơn, bị buộc ràng đến nỗi mỗi lần nghe có sự cởi buộc, sự giải thoát, ta cảm thấy mình có vẻ như sờ sợ và tìm cách né tránh.

Đức Phật trong kinh Pháp Cú nói rằng:

“Sắt, cây, gai trói buộc,
Người trí xem chưa bền,
Tham châu báu bạc tiền,
Tham vọng vợ và con,
Người có trí nói rằng:
Trói buộc này thật bền”.

Giết Heo Bị Quả Báo Thê Thảm

Tại trấn Bà Đầu, huyện Hợp Phì, tỉnh An Huy, có người tên là Tuyên Tứ, hành nghề mổ heo đã hơn hai mươi năm. Ông tạo được ba căn nhà: một căn để ở, còn hai căn kia thì cho người thuê, cộng thêm hai trăm mẫu ruộng.

Cứ vào lúc ba giờ sáng mỗi ngày, Tuyên Tứ dậy nấu nước làm heo, vợ ông cũng thức dậy phụ chồng.

Hôm nọ, cũng như mọi khi đến giờ làm việc, bà vừa ra ngoài nhà sau, thì thấy trong chuồng heo có dáng hai người đàn bà đang nằm. Bà dụi mắt nhìn kỹ mấy lần, cũng vẫn thấy như thế.

Lúc ấy, sợ quá bà liền đi tìm chồng thuật lại sự việc, còn nói thêm một câu:

– Thôi mình hãy tìm nghề khác đi ông ơi!

Ông không tin còn cười nhạo bà.

Người vợ lấy con dao mổ heo ném vào trong cầu tiêu. Nên hôm ấy, Tuyên Tứ không thể giết heo, nhưng vẫn không hề có tâm đổi nghề.

Hôm sau, người vợ mời hết thảy gia tộc đến thưa là nếu Tuyên Tứ không đổi nghề thì bà sẽ chia tay. Tuyên Tứ chấp nhận chia tay, chứ không chấp nhận bỏ nghề.

Thế rồi, hai người chia đôi gia sản. Người vợ mang đứa con ra riêng nuôi dưỡng.

Chỉ thời gian sau, đứa con mà hai vợ chồng yêu thương lại qua đời. Đến đây, Tuyên Tứ mới có một chút niềm hối hận. Vì buồn việc đứa con mất sớm, nên Tuyên Tứ đem tiền của dành dụm nướng vào trong cờ bạc.

Cuối cùng, tất cả gia sản đều tiêu tan như mây khói. Ông lại mua mấy con heo nuôi để xây dựng lại sự nghiệp nhưng đều thất bại cả.

Một tháng sau, miệng mũi của ông lúc nào cũng tuôn máu mủ, đau đớn vô cùng, nằm kêu la suốt ngày đêm như bị người thọc dao vào yết hầu vậy. Mãi một năm sau ông mới chết!

Thế nên, có đi đâu, làm gì cũng nhớ mình là người con Phật đừng vì dục vọng tham đắm tiền của vật chất mà tạo nghiệp bất lành, một mai chết đi chẳng mang theo được gì!

Nếu không trốn khỏi tử thần,
Dù đeo đắm cuộc hồng trần luống công.
Cuối cùng cũng phủi tay không,
Đâu bằng tu niệm để hòng siêu sanh.
Đem lòng tham muốn lợi danh,
Đổi ra lòng muốn tu hành quí hơn.
Lợi danh sẽ mất theo thân,
Tu hành sẽ cứu hồn thăng Phật đài.
Càng nhiều tham vọng trần ai,
Càng làm cho kiếp đọa đày đấy thôi.
Hồng trần là cõi bạc vôi,
Nó không chung thỉ với người nào đâu.
Càng theo nó lại càng sầu,
Chúng sanh vì nó bị đầu thai luôn.
Những điều sầu khổ ngàn muôn,
Mỗi người đều mỗi quay cuồng khác nhau.
Người không ai giống ai nào,
Chung qui cũng một đường vào mồ ma.

*Trên thế giới xưa nay tốn không biết bao nhiêu là giấy mực để ghi chép lại những chuyện Nhân Quả báo ứng để cho người đời xem đó mà làm lành lánh dữ, nhưng trước mắt cái lợi thu về quá lớn đã làm cho họ mờ mắt để đến khi quả báo đã  tới thì họ đành chấp nhận chứ cái lợi kia nhất quyết không buông! Bởi vô minh nên cũng không  biết rằng “Tự ta gieo tai hoạ cho ta”

Trong kinh Đức Phật còn dạy: “Người trí sợ Nhân, kẻ ngu sợ Quả!” Bởi người có trí hiểu biết đâu có gây cái Nhân, mà không gây cái Nhân thì làm gì có cái Quả. Sau đây là câu chuyện Quả Báo xin ghi ra để mọi người suy gẫm.

Mấy mươi năm định cư nước ngoài, bác cư sĩ nọ một đời tín tâm quy y theo Phật, ngoài tụng Kinh niệm Phật, bác thường xuyên phát tâm hoan hỷ cúng dường Tam Bảo, gặp ai khó khăn bác cũng giúp nên con cháu của bác ai ai cũng thành đạt, cuộc sống luôn bình yên.

Giờ đây mái tóc cũng đã điểm sương, bác mới có dịp trở về thăm quê hương đất mẹ nơi sinh ra và nuôi bác khôn lớn. Sau những chuyến đi từ thiện giúp người, hỗ trợ bà con nghèo các nơi, cùng với ông bạn cũ chí thân từ thời còn trai trẻ, nhờ chú ấy đưa bác ghé thăm và đảnh lễ Tam Bảo trong ngôi chùa quê đã xuống cấp.

Trước khi rời đất mẹ trở lại định cư nước ngoài, bác nhờ chú ấy đứng tên mua một thửa ruộng rồi bỏ vốn giao cho chú đó ở tại quê hương canh tác, mỗi mùa chú được ăn chia theo tỷ lệ thu hoạch đã thỏa thuận với bác, phần lúa còn lại bác nhờ chú ấy đem cúng dường cho ngôi chùa đó để cùng nhau bồi công tạo phước, tâm nguyện và việc làm ấy bác với chú kia cũng chỉ một vài người nữa biết thôi.

Nhưng ở đời không phải ai cũng như mình nghĩ, bởi người đạo tâm thì ít, mà kẻ tham thì nhiều. Khi từ giã quê hương bác giao trọn quyền hành cho chú nọ, thế nhưng khi thu hoạch những mùa đầu chú chọn lúa tốt cho phần mình, lúa xấu đem cúng cho chùa. Dần dần những mùa lúa sau chú không còn mang qua cúng cho chùa nữa.

Nhờ mua đúng thửa ruộng tốt, nhờ kinh nghiệm canh tác giỏi nên mỗi năm thu hoạch sản lượng càng tăng khiến cho gia đình chú ấy cuộc sống ngày càng sung túc hơn. Qua mấy năm bán nhiều lúa, ngoài sắm sửa trong nhà trong cửa chú còn góp tích số tiền cũng khá, bác kia từ nước ngoài nghe tin bèn gọi điện về nhắc nhở, nhưng chú vẫn bỏ ngoài tai.

Nhưng quy luật xưa nay hễ có Nhân thì ắt phải có Quả như đã nói trên, vợ và các con chú đang khỏe mạnh tự dưng lần lượt từng người đổ bệnh, bệnh từ nhẹ lần lần chuyển qua nặng, bác sĩ nào hay cũng đến, lương  y nào giỏi cũng tìm, thuốc đắt mấy cũng phải mua, những đồ đạt trước chú mua sắm trong nhà rồi cũng lần lần bán hết mà bệnh mỗi ngày một tăng, từ một người ngày ngày siêng năng với đồng ruộng, giờ đây chú phải lo nuôi bệnh cho vợ và các con từ bệnh viện Tỉnh lên đến bệnh viện Thành, ban đầu từ mượn trong họ hàng sau cùng buộc lòng phải đi vay tiền góp, căn nhà đang ở giờ chú cũng phải bán để trả lãi và mua thuốc men cho cả nhà, nhưng rồi trải qua những năm dài đau bệnh vợ và các con cũng lần lượt từng người bỏ chú mà đoàn tụ với ông bà ở bên kia thế giới, giờ còn lại mình chú đơn độc trong căn chòi tranh rách nát trên vũng đất hoang cuối làng, với cơ thể khập khiễn, gầy gò, đen đủi, tiều tụy sau cơn khủng hoảng và đột quỵ.

Vì nhu cầu thiết yếu nên tới đâu thì tới, chứ đám ruộng của bác kia chú cũng phải bán để trả lãi nợ nần, cho cái ăn, cho thuốc men chữa trị …

Chú mong được chết, nhưng cái Quả không lành từ lòng tham mà chú tạo nó không cho chú chết, chú phải sống để cảm nhận những gì mình đã làm, khi ngộ ra thì chú không còn sức khỏe và tâm trí đâu để mà chú sám hối.

Ngoài nhà cữa gia đình vợ con không còn nữa, đám ruộng của bác kia thì chú cũng đã bán mất, nhưng cái nợ lớn với Tam Bảo, với thần linh…chú vẫn mãi mãi  còn, không những trong kiếp này và nhiều kiếp kế tiếp ……

Cho nên cổ nhân có dạy:

Thiện hữu thiện báo, Ác hữu ác báo,
Nhược hoàn bất báo, thời thời vị đáo.
(Có thiện thì thiện báo, có ác thì ác báo,
Bây giờ chưa thấy báo là vì chưa đến).

Vì vậy, nếu cởi bỏ ra được phần nào lòng tham, là ta đã có được phần nào sự giàu có và tự do thảnh thơi. Lúc ấy cho dù ta không có tiền bạc đầy túi, đầy trong ngân hàng nhưng ta lại cảm thấy có sự giàu có nào đó ở nơi mình. Giàu có ở đây chính là sự giàu có của một tâm hồn biết đủ, biết sống và biết thưởng thức trọn vẹn ý nghĩa của cuộc đời. Đức Phật trong kinh Di Giáo giảng bày khá rõ về điều này:

“Này các thầy Tỳ kheo, muốn giải thoát khổ não thì các thầy hãy suy xét về sự biết đủ. Chính sự biết đủ là giàu sang, vui thú và yên ổn: Biết đủ thì nằm trên đất cũng thấy hạnh phúc, không biết đủ thì ở thiên đường cũng không có an lạc. Không biết đủ thì giàu mà nghèo, biết đủ thì nghèo mà giàu. Không biết đủ thì luôn luôn bị cả năm thứ dục lạc lôi kéo làm cho người biết đủ phải xót thương.”

Một bậc hiền triết đã cảm thán như sau:

“Tiền bạc có thể là chiếc vỏ bọc ngoài của nhiều thứ nhưng không phải là hạt nhân bên trong. Nó có thể mang cho ta thức ăn nhưng khó cho ta vị ngon ngọt; mang cho ta thuốc uống nhưng không là sức khỏe; mang lại sự quen biết nhưng không là bạn hữu, mang lại kẻ phục vụ nhưng không phải lòng trung thành; mang lại những ngày hoan lạc nhưng không phải sự an bình và hạnh phúc”.

Vẫn biết rằng con người khó thể thoát ra được cái gọi là, “phải có sự sinh tồn,” mà tiền bạc vật chất là chiếc bàn cân cho sự sinh và tồn tại ấy; nhưng người ta cũng có thể sống với đồng tiền trong những ý nghĩa và sự ý thức cao độ nhất kia mà. Đó là cách sống như một nhà ảo thuật với những màn ảo thuật biến hóa của mình. Tiền bạc đúng là sản phẩm do chúng ta biến hóa ra, do đó chúng ta nên trọn quyền sử dụng nó một cách thích đáng và ý nghĩa nhất, thay vì bị chính nó mê hoặc để ta phải mải miết nhìn ngắm nó, chạy theo nó, vui buồn bi lụy về nó. Hiểu được nguyên lý này phần nào là cuộc đời và sự sống của ta bớt khổ phần ấy. Không những bớt khổ mà sự sống ấy của ta còn có ý nghĩa cho mình, cho người trong hiện tại và tương lai.

Tiền dùng đúng tiền hiền như Phật,
Bạc xài lầm bạc ác hơn ma.
Phật ma cũng tại người ta,
Chớ tiền bạc nó vốn là vô tri.
Nhiều tiền kiếp Mâu Ni giàu có,
Bạc tiền đâu làm khổ được Ông.
Mà là nhờ có tiền đồng,
Giúp Ông bố thí khắp trong dân làng.
Đó là một trong ngàn công đức,
Phật Thích Ca chứa chất từ xưa.
Dùng tiền như hạn cho mưa,
Biển non đo cũng chẳng vừa đại ân.
Phật xưa cũng xác trần cõi tạm,
Ngài cũng tình cũng cảm như ai.
Thế mà Ngài chứng Như Lai,
Nhờ lòng bố thí nhờ hay nhân từ.
Phật làm thế nay người cũng thế,
Tất nhiên là ngồi kế Phật Ngài.
Nhớ câu trọng nghĩa khinh tài,
Tiền tài chớ để nó sai khiến mình.
Ai có của bỉ khinh cũng mặc,
Đừng vì tiền gay gắt với ai.
Có ra thì đỡ xây xài,
Không thì nhịn chịu chớ cay đắng lòng.

Nếu như chúng ta không làm chủ được tiền bạc, chỉ biết và sống với sự tin tưởng mù quáng vào sức mạnh của nó, thì chúng ta đã tự đưa đẩy mình vào đời sống của một người thiếu hiểu biết, ít lương tri và sẽ dần dà biến ta trở thành một người đê hèn nhất khi có thể, như Halifax, một chính trị gia người Anh nói câu sau đây:

“Người có quan niệm cho rằng, tiền bạc có thể làm được mọi chuyện, thì chúng ta hãy tin rằng, kẻ ấy cũng có thể làm được mọi chuyện chỉ vì tiền.”

Thế giới kim tiền ngày nay, xã hội vật chất hiện tại chỉ chuyên dạy và nhằm đào tạo cho con người về phương cách kiếm tiền hữu hiệu nhất, để dần dà biến những người thân, người bạn tốt nhất của chúng ta thành ra những người sống không thật để có được cái lợi từ đồng tiền, đánh mất đi cái quý giá nhất đó là lương tâm. Ngay cả những người thân trong gia đình cũng vậy, nhiều khi vì tiền mà quên tình, vì bạc mà quên nghĩa!

Cầu mong sao tất cả những điều trên đây đừng bao giờ trở thành sự thật, và nếu nó là một sự thật vì chúng ta đã được xem quá nhiều cảnh này trên TV hoặc nghe không ít qua những lần tin tức, thì chúng ta nên phản tỉnh lại nơi chính mình một chút. Phản tỉnh để biết rằng tiền bạc này đây không thật có, vô thường, giả tạm có đó rồi mất đó qua cái nhìn chánh kiến của Phật pháp, cái thấy đúng đắn chơn chánh ấy sẽ chỉ bày và đem lại sự an vui, hạnh phúc cho con người, còn nếu ta không nghe tiếng gọi lương tri này để đi theo sự tin tưởng mù quáng vào sức mạnh của đồng tiền, cho nó là thường có, là vui, là sung sướng, là hạnh phúc, thì đó sẽ là con đường dẫn đến tội lỗi, nghiệp ác và sa đọa.

Kim tiền chẳng phải là sự thật,
Chỉ đóng vai trong một tấn tuồng;
Trên mặt đào kép lộ vui buồn,
Chỉ giả dối chớ không phải thật.
Kẻ xem đó lại rơi nước mắt,
Tưởng cho là sự thật rất lầm;
Phải làm sao tỉnh được chơn tâm,
Biết thật giả khỏi lâm sầu thảm.
Hiện tại có nhiều điều dễ cảm,
Cũng chỉ làm thỏa mãn xác thân;
Nhưng xác thân là cái tạm trần,
Bồi bổ mấy cũng không bất lão.
Càng trau chuốt càng thêm khổ não,
Rốt cuộc rồi mộng ảo huờn không;
Bao nhiêu điều chế tạo luống công,
Không cứu được xác thân khỏi chết.

Vị Sư vì ham danh lợi mà phải lưu lạc 2 đời chốn nhân gian.

Vào những năm Càn Long triều đại nhà Thanh, tại vùng Tiền Đường có một cử nhân tên Vương Đỉnh Thực. Ông từ nhỏ đã thông minh ưu tú, năm 16 tuổi đã thi đỗ Cử nhân. Tuy nhiên sau đó cả ba lần liên tiếp đi thi tiến sĩ đều không thể đỗ đạt. Ông có một người họ hàng làm quan gần kinh thành, đã đón ông về ở cùng.

Hôm nọ, Vương Đỉnh Thực đột nhiên phát bệnh, không ăn được chút gì, mỗi ngày chỉ uống vài chén nước. Ông bèn nói với người thân thích kia:

– “Tôi kiếp trước là hòa thượng tại chùa Kính Sơn, tu hành đã được mấy chục năm, công đức cũng sắp viên mãn. Chỉ vì lúc còn sống đã nhìn thấy một người trẻ đỗ đạt tiến sĩ, trong lòng rất hâm mộ.

Không chỉ ham công danh, tôi còn có tâm mong cầu giàu sang phú quý, không cách nào đoạn tuyệt được. Chính vì vậy, tôi phải lưu lạc nơi nhân gian này hai đời, hiện tại đang là đời thứ nhất.

Không lâu nữa, tôi sẽ chuyển sinh đến một gia đình giàu có họ Diêu ở ngoại thành Thuận Trị. Việc ông giữ tôi ở lại đây cũng là duyên phận kiếp trước đã định ra như vậy”.

Người bà con kia khuyên giải, an ủi ông, thì ông nói:

– “Sinh tử đời người đều có định số, không thể dài lâu. Chỉ là ân nghĩa sinh thành của cha mẹ, không thể nói dứt là dứt ngay được”.

Thế là Vương Đỉnh Thực lấy giấy bút viết thư cáo biệt cha mẹ, trong đó đại khái nói:

– “Con cái bất hạnh, chết tha hương ngàn dặm ở bên ngoài, hơn nữa thọ mệnh ngắn ngủi, còn để lại vợ trẻ con thơ, khiến cha mẹ phải tăng thêm gánh nặng. Nhưng mà, con không phải thực sự là con của cha mẹ, em trai mới đúng là con của cha mẹ.

Con người sống trên đời không chỉ là một kiếp, mà là kiếp này nối tiếp kiếp khác, và số mệnh của mỗi người đã được an bài rất chi tiết.

Cha còn nhớ hay không, mỗi năm tại quán trà ở Kính Sơn cha đều uống trà đàm đạo với một vị hòa thượng, vị hòa thượng đó chính là con. Lúc đó nói chuyện cùng với cha thấy rất hợp, trong lòng nghĩ, cha là người trung thành, cẩn thận, phúc hậu, nhưng vì sao ông Trời lại không cho cha có một đứa con nối dõi?

Bởi vì động niệm này, cho nên con đã đầu thai thành con trai của cha. Con dâu của cha cũng là khi còn nhỏ từng kết thiện duyên với con. Điều này cũng tựa như hoa trong kính, trăng trong nước, đều là nhân duyên hư ảo, không thể dài lâu. Hy vọng cha đừng quá đau lòng, mà nên đoạn dứt hết, như thế mới có thể miễn đi tội lỗi của con”.

Người họ hàng của Vương Đỉnh Thực hỏi rằng khi nào thì ông mới đầu thai tới nhà họ Diêu, ông đáp:

– “Cả đời này tôi không gây ra tội lỗi gì, cho nên sau khi chết ở đây, sẽ lập tức chuyển sinh đến đó, không phải chờ đợi nữa”.

Vào buổi sáng ba ngày sau đó, Vương Đỉnh Thực lấy một chậu nước, rửa mặt, súc miệng xong xuôi, ngồi xếp bằng, gọi người họ hàng tới, hai người nói chuyện như thường ngày, vô cùng vui vẻ. Bỗng nhiên, ông hỏi:

– Đã đến trưa chưa?

Người thân thích nói:

– Đang là giữa trưa.

Ông nói:

– Vậy đã đến giờ rồi.

Ông vừa chắp tay cáo biệt liền tắt thở.

Người thân thích vội đến nhà họ Diêu để nghe ngóng, quả nhiên hôm đó nhà họ Diêu vừa sinh ra một đứa trẻ. Nhà họ Diêu kinh doanh ngựa, mặc dù có tiền, nhưng ồn ào bất tịnh. Người thân thích của Vương Đỉnh Thực nhìn mà lắc đầu than thở không thôi.

*Câu chuyện tuy ngắn nhưng triết lý ẩn trong đó hết sức sâu sắc. Tại sao chúng ta cứ phải lặn hụp trong kiếp người này, để rồi phải nếm đủ mùi đau khổ của sống chết, của bệnh tật, già nua, của ái biệt ly, oán tắng hội, cầu bất đắc… mãi không thoát khỏi luân hồi sinh tử được?

Đó chính là do trong cuộc sống hàng ngày, chúng ta khởi quá nhiều tâm ham muốn. Mỗi lần khởi một ham muốn, lập tức nó liền tạo lập ra một kiếp sống trong tương lai.

Như kiếp trước của Vương Đỉnh Thực, là một vị tăng, dù xuất gia nhưng tâm không đoạn trừ các ham muốn. Khi ông nhìn thấy một người trẻ đỗ đạt tiến sĩ, trong lòng rất hâm mộ, tức là muốn công danh, lập tức tâm đó khiến ông phải sinh ra một kiếp để theo đuổi công danh, quyền chức chính là kiếp này.

Rồi ông lại khởi tâm muốn giàu có, thế là tương lai ông phải sinh ra một kiếp làm người giàu có, tức là kiếp làm con chủ nhà họ Diêu chuyên buôn ngựa. Công đức tu hành cũng theo đó mà hao tổn, không đắc Đạo được, vì công đức tu hành đã theo như tâm mong cầu mà chuyển sang phước báo giàu có.

Rồi nhân một lần uống trà với một người Phật tử, ông lại động niệm muốn người đó có con nối dõi, thế là kiếp sau sinh làm con người đó. Ở đây là một kiếp sinh làm con ngay, nhưng nếu chưa đủ duyên, thì sẽ chờ nhiều kiếp cho đến khi duyên đủ, sẽ sinh làm con cho đúng sở nguyện.

Cứ theo quy luật trên đây mà nhìn lại mình, vô số lần chúng ta khởi ra các ham muốn, nào là muốn có tiền, muốn có tình, muốn nổi tiếng, hay muốn công danh lợi lạc, muốn du lịch, muốn mua sắm… đủ vô số thứ khác nhau, có nghĩa là ta đã tự mình tạo ra vô số kiếp trong tương lai.

Và mỗi khi tạo ra một kiếp sống mới, có nghĩa là ta sẽ có thêm một lần nếm mùi cái chết. Có vô số kiếp sống mới, có nghĩa là sẽ có vô số lần phải gặp thần chết , kèm theo vô lượng vô biên các đau khổ khác mà một kiếp sống luôn luôn phải có, như khổ của bệnh tật, của già nua, của chia lìa, của tan vỡ, của mất mát, của thất vọng, của bức xúc v.v… Chưa kể đến sống qua một kiếp người, ta bị lôi kéo của tham lam, giận hờn, ích kỉ, ganh đua… mà tạo ra đủ thứ tội lỗi, khiến phải chịu vô số quả báo lớn nhỏ, khổ nối tiếp nhau vô cùng tận.

Qua câu chuyện trên, ta nhận thấy Vương Đỉnh Thực không có duyên với pháp môn Tịnh Độ thật đáng tiếc! Với năng lực tu hành của ông nếu hồi hướng Tây Phương thì việc vãng sanh quá ư dễ dàng, và phẩm vị lại còn rất cao. Bởi vậy, Cổ Đức đã từng than thở niệm Phật là pháp môn “dễ tu mà khó tin” là thế!

Thuở xưa có đại phú gia,
Giàu sang hơn cả gần xa trong vùng.
Đong ra chỉ có một thùng,
Lấy vào một giạ mà lòng chưa ưng,
Cho vay thì bắt thế chưn.
Vốn lời trả thiếu tịch khuân gia tài,
Ruộng đồng thẳng cánh cò bay.
Không hề chia sớt cho ai một tiền,
Tuy là bạc hộc lúa thiên.
Vẫn khe khắt với tá điền từ tô,
Lúa tiền lo góp thâu vô.
Còn nhơn với nghĩa rất khô khan lòng,
Gần xa những kẻ bần nông.
Lấy làm oán ghét phú ông vô cùng,
Nhưng ông cũng chẳng ngại ngùng.
Mặc cho ai nói còn ông cứ làm.
Kể sao hết việc ông tham,
Ông tham tột bực trong làng của ông.
Vợ con còn phải bực lòng,
Bảo rằng ông chết sẽ không siêu hồn.
Thế rồi chợt có một hôm,
Ông đang sửa kiểng mấy bồn trước sân.
Bỗng đâu gió thổi qua thân,
Phú Ông xây xẩm ngã lăn trước nhà.
Người nhà liền chạy tuôn ra,
Thấy ông bất tỉnh như là chết đi.
Khiêng ông vào gọi lương y,
Bảy ngày sau đó mạnh đi như thường.
Một hôm từ chốn tha phương,
Có nhà đạo sĩ lỡ đường ghé qua.
Tối trời đường hãy còn xa,
Xin ông cho nghỉ sáng ra khởi hành.
Thấy nhà đạo sĩ hiền lành
Phú Ông liền nhận lời xin ngủ nhờ.
Giống duyên phải hợp thời cơ,
Ngay trong đêm ấy chuyện trò lại qua.
Nhà sư mới hỏi phú gia:
Bịnh ông đã phát tuần qua nặng nề,
Thoảng như trong lúc nằm mê.
Chết luôn nay xác dưới mồ phải không?
Bao nhiêu của cải tiền nong,
Chẳng đem theo được một đồng trong tay.
Làm ra chẳng dám ăn xài,
Chết rồi bỏ lại mặc ai tiêu dùng.
Lòng tham lúc sống vô cùng,
Chết rồi tham ấy còn dùng vào đâu.
Chính mình mang tiếng hiểm sâu,
Của làm ra ấy nó đâu theo mình.
Xác thân nhứt định rã sình,
Của tiền nhứt định bỏ mình ra đi.
Kiếp trần đến phút chung qui,
Bạc tiền là thứ vô nghì phải chăng?
Vì tiền làm mất thiện căn,
Vì thân để kiếp trầm thăng muôn đời.
Giữ thân trái đạo thân rời,
Làm tiền phi pháp tiền rơi không còn.
Mỗi ngày tuổi thọ mỗi mòn,
Lòng tham trái lại ngày càng thêm tăng.
Càng tham càng nặng tội căn,
Chết rồi của bỏ nghiệp mang theo mình.
Nghiệp kia dẫn lộ tử sinh,
Lần nầy khổ gấp muôn nghìn lần qua.
Để lòng suy nghiệm kỹ ra,
Tánh tham hiện kiếp phải là ngu không?
Chi bằng mượn lớp bụi hồng,
Lấp đường sanh tử, vun trồng thiện căn.
Mượn sanh tử tạo Niết Bàn,
Lấy thân bùn tạo thân vàng dài lâu.
Phú ông nghe nói gật đầu,
Khen rằng lời ấy ngọc châu không bì.
Nhận mình đã quá mê si,
Già rồi mà chẳng hiểu gì sự tu.
Chỉ lo tiền bạc góp thu,
Không lo thần chết đến ru lúc nào.
Chớ chi được thức tỉnh mau,
Tội tham đâu đến đỗi cao ngất đầu.
Diêm Vương sắp bắt đi chầu,
Hôm nay mới được lời mầu đến tai.
Phú Ông ngước mặt thở dài,
Trong lòng hối hận những ngày đã qua.
Nhà sư liền kể thêm ra,
Xin Ông chớ tưởng tuổi già hết tu.
Thật tâm hướng thiện quày đầu,
Chỉ trong nhứt khắc được chầu Như Lai.
Ví dù sắp chết ngày mai,
Bữa nay hối ngộ Liên đài cũng lên.
Tội do tâm nó tạo nên,
Thì là phước cũng tâm đền được ngay.
Tâm mê lạc cảnh trần ai,
Nếu như tâm giác Phật đài được qua.
Giác mê bất luận trẻ già,
Chỉ người giác được hay là còn mê.
Giác tu nhứt khắc Phật về,
Mê tu muôn thuở cũng là phàm phu.
Thế nên đồng một trường tu,
Người thì phát huệ kẻ ngu suốt đời.
Nhà sư vừa nói dứt lời,
Phú Ông vừa cũng đồng thời phát tâm.
Bắt đầu mộ đạo huyền thâm,
Lợi danh gác bỏ chuyên tâm tu hành.
Bao nhiêu tiền của đã dành,
Đem ra bố thí nhơn sanh xa gần.
Vừa làm nuôi sống xác thân,
Vừa đi khuyên giải nhơn dân tu hiền.
Thôn quê cho đến thị thiền,
Nhờ ông mà tạo phước duyên rất nhiều.
Liền vào ở một buổi chiều,
Hào quang sáng rực trên lều Phú Ông.
Người gần thấy lạ đến trông,
Thì ra thấy xác Phú Ông đang ngồi.
Nhưng ông đã nhập tịch rồi,
Chấp tay vào ngực thân ngồi nghiêm trang.
Trên đầu phóng một hào quang,
Hào quang ấy rọi đến ngàn dậm cao.
Người gần xa xúm lại nhau,
Chấp tay quì xuống thì thào vái van.
Trẻ già cùng một lời rằng,
Phú Ông đã nhập Niết Bàn không sai.
Lời này thấu đến gái trai,
Lòng vừa cảm phục vừa quay đường lành.
Phú Ông nhờ có tâm thành,
Cho nên nhứt khắc tu hành được siêu.

********

Nhan nhản xung quanh chúng ta có những gia đình mà trước kia giàu sang, phú quý không ai bằng nay tán gia bại sản sống nhờ vào sự thương xót, che chở của người thân hoặc chúng bạn. Tất cả đều đã đổi thay, tất cả dường như đang đi vào cái khúc quanh, ngã rẽ của cuộc đời. Nhưng không đâu, đó chính là cảnh màn thật của cuộc đời mà chúng ta do vì ảo tưởng và nhận thức lầm lạc nên mới cho rằng, tiền bạc, tài sản, danh vọng và thân mạng mình đây phải thường hằng ở nơi mình. Phải chi nếu chúng ta có một sự hiểu biết như thật theo lẽ đạo rằng, tất cả sẽ đổi thay, thân mạng cùng tài vật này vô thường sớm còn tối mất, danh vọng chỉ là hương thơm trước gió, thì khi cơn bão táp phũ phàng của định luật sinh diệt thổi đến, chúng ta sẽ bớt đi cảnh tuôn rơi nước mắt, ruột cắt lòng đau có lúc đến phải tuyệt vọng tìm cách quyên sinh tự vẫn.

Làm người phải xứng đáng người,
Ở ăn cho sạch nói cười cho thanh.
Con người thấy lợi ra giành,
Khác nào thú vật chạy tranh lấy mồi.
Lợi chung việc đáng lắm rồi,
Lợi riêng để hại cho người là nhơ.
Từ xưa chí đến bây giờ,
Những người bất nghĩa ai thờ tới đâu.
Giàu sang bạc chất ngang đầu,
Làm điều bất chánh có lâu bao giờ.
Thấy ai lâm nạn ngó lơ,
Khi mình hữu sự khó nhờ người ta.
Ở đời có lại có qua,
Biết mình không biết người là lầm sai.

Bạc tiền, vật chất tất nhiên là có thể đem lại sự sung sướng cho thân, nhưng quyết định không thể đem lại an lạc và hạnh phúc trong tâm hồn; vậy mà điều này lại có thể phát sinh trong tâm hồn chúng ta, khi chúng ta biết đón nhận qua sự học hiểu của trí tuệ và tư duy về nó. Còn nếu một mực tin rằng tiền bạc có thể làm nên tất cả, kể cả an lạc và hạnh phúc trong đời sống con người thì chúng ta vô tình đã đi quá đà với niềm tin thiếu sự sáng suốt kia, điều ấy không khéo dừng lại, ta có thể gây tạo nên nhiều hành động lỗi lầm để sẽ đưa đến kết quả khổ đau trong hiện tại và mai sau. Vì sao? Vì tiền bạc có thể là mẹ đẻ của mọi tội ác kia mà? Nói như vậy và chúng ta cũng có thể thấy và chiêm nghiệm sự thật này ngay trong đời sống hàng ngày.

Do Phật giáo quan niệm tiền bạc là phương tiện của sự sống, nên luôn luôn nhìn nó với cặp mắt khách quan và cẩn trọng. Người tu sống với giáo lý và niềm tin này nên có lúc dùng tiền bạc ấy làm phương tiện để lợi tha cho người theo hạnh Bồ Tát – vì con người cần nó, nhưng để đi vào sự biệt lập sống an trú trong chánh niệm và cầu sớm giải thoát cho tự thân, người tu không cần tiền bạc và đã không giữ nó. Nhan nhản trước mắt chúng ta đã có rất nhiều vị xuất gia lẫn tại gia sống theo hạnh lành này, trong tay, trong túi, trong đãy, trong thất không giữ một đồng xu nào ngoài ba bộ y phục và với số vật dụng tối thiểu cần thiết trong sinh hoạt thường nhật, luôn sống đời sống cực kỳ đơn giản thanh đạm, biết đủ thường vui!

Một số các vị tăng khác lại sống theo hạnh Bồ Tát với tiền rừng bạc bể trong tay, nhưng cả một sản nghiệp cơ ngơi bạc tiền ấy, là nhằm phục vụ lợi ích cho chúng sanh mà thôi. Trong giới luật cũng có những giới chế cấm giữ bạc tiền, nhưng trong Bồ Tát giới lại cho phép người tu được giữ và dùng tiền để làm việc lợi sanh. Thế nên Phật giáo luôn luôn là con đường lớn, là cánh cửa mở rộng, là giáo lý chỉ cho người cách sống và sống đúng, hợp với những điều lành thánh thiện, chứ không phải là một giáo lý áp chế và buộc con người phải sống đúng theo những mẫu mực và quy thước chết cứng nào đó!

Ai có của bỉ khinh cũng mặc,
Đừng vì tiền gay gắt với ai.
Có ra thì đỡ xây xài,
Không thì nhịn chịu chớ cay đắng lòng.
Nghèo nhớ giữ lòng trong dạ sạch,
Giàu đừng quên bố đức thi ân.
Có dư chớ hưởng riêng thân,
Nên cho kẻ khác lây phần ấm no.
Được như vậy được kho công đức,
Sống đời đâu khổ cực vì đời.
Trong tâm thường được thảnh thơi,
Tuy trong cõi tục mà đời Thần Tiên.
Tiên với tục dính liền mặt trái,
Để vậy phàm lộn lại là Tiên.
Cũng thời xử dụng đồng tiền,
Người lo quần chúng kẻ riêng lo mình.
Lo quần chúng là tình Tiên Phật,
Lo riêng mình là chất phàm nhân.
Tình Tiên Phật hết trầm luân,
Chất phàm nhân tất còn thân luân hồi.

2/-  Sắc đẹp

Nói đến cái sắc đẹp, thông thường người ta nói đến cái sắc mặt và vẻ đẹp nơi người khác phái.

Con người ta khi được sinh ra nơi cõi đời này đều là do duyên nghiệp mà thành; nhưng bên trong cái duyên nghiệp ấy, mỗi người lại được trang bị những vũ khí lợi hại cho chính họ. Người phụ nữ thì trang bị sắc đẹp như là một yếu tố cần thiết để chinh phục lòng người. Người nam thì trang bị bằng những lời nói khéo, đưa đẩy, khôn ngoan để lôi cuốn đối phương. Suy cho cùng cả hai dù bằng cách nào đi nữa, dù mang một ý nghĩa nào đi nữa, khi tìm đến với nhau thì cũng là cung cách, ăn nói và mọi hành vi xử sự theo cái nghiệp câu thúc từ bao nhiêu đời.

Khi đến với nhau thì thường là người ta đến trước nhất với cái sắc đẹp, mà nam nữ gì cũng vậy chẳng ra ngoài biệt lệ. Vậy thì phải chăng sắc đẹp chính là thước đo mẫu mực giữa người và người với nhau để trong đó người ta tìm ra được chút ý vị và hạnh phúc của cuộc đời? Đôi lúc người ta chấp nhận cái đẹp, sở hữu được cái đẹp dù phải chịu nghèo hèn, mất danh giá hoặc đôi khi bị hủy hoại hy sinh cả cuộc đời!

*U Vương họ Cơ, tên Cung Niết, là một vị vua thời Tây Chu, chỉ thích ăn chơi hưởng thụ dục lạc. Từ khi được nước Bao hiến tặng một mỹ nhân tên Bao Tự, U Vương cả ngày mê mẩn với vẻ đẹp sắc nước hương trời của cô gái xinh đẹp này. Đẹp đến mức hoa cũng phải ganh tỵ nhưng Bao Tự có tính tình kỳ quái, suốt ngày đăm chiêu và suy nghĩ chẳng bao giờ nở một nụ cười.

Khi U Vương đem điều thắc mắc này mà hỏi, thì Bao Tự đáp rất thản nhiên: “Tiện thiếp tính vốn ít cười. Tự nhiên như vậy”.

Sủng ái và mê đắm Bao Tự bao nhiêu thì U Vương càng mong mỏi được trông thấy nụ cười của nàng bấy nhiêu. Người đẹp mà cười thì ắt nụ cười càng đẹp, và nàng càng duyên dáng, quyến rũ biết bao nhiêu.

Dò hỏi mãi, nghe Bao Tự nói: “Tiện thiếp chẳng thiết gì cười. Hôm trước có người xé lụa, nghe âm thanh ấy cũng lấy làm vui”

U Vương vô cùng mừng rỡ. Ông bèn truyền lệnh cho viên quan giữ kho, mỗi ngày phải dâng vào cung 100 tấm lụa, rồi sai cung nữ đứng xé. Đúng là vị hôn quân, có thể bỏ cả ngàn vàng để tìm mua một nụ cười của người đẹp. Nhưng dù đắt đỏ đến vậy thì khi hàng ngàn tấm vải lụa bị xé nát tan, nàng Bao Tự kia vẫn chỉ dừng lại ở sự biến chuyển nét mặt, có tươi vui hơn một chút chứ vẫn chưa chịu nhoẻn miệng cười với nhà vua một cái nào.

Dĩ nhiên là U Vương vẫn chưa hài lòng. Ông đã khẳng khái tuyên bố với người đẹp rằng: “Trẫm sẽ có cách làm cho ái khanh cười!”.

Sau đó, U Vương bèn truyền cho quần thần ai tìm được cách gì làm cho Bao Tự cười thì được trọng thưởng. Sau trăm phương nghìn kế nhưng vẫn bất thành, có một viên quan tên là Quách Thạch Phủ đã hiến kế rằng:

– Tiên vương xưa có xây hơn hai mươi chòi canh (phong hỏa đài) ở Ly Sơn, lại đặt mấy mươi cỗ trống to, phòng lúc có giặc sẽ nổi lửa trên chòi và đánh trống báo hiệu cho các chư hầu đem quân đến cứu. Ðã lâu rồi thiên hạ thái bình, không bao giờ dùng tới. Nay nhà vua muốn cho Hoàng hậu cười thì xin nhà vua hãy cùng Hoàng hậu ngự chơi Ly Sơn, rồi đến đêm nổi lửa đốt lên, bấy giờ chư hầu các nơi sẽ đem quân đổ đến. Hoàng hậu thấy chư hầu bị mắc lừa tất phải bật cười.

U Vương nghe theo. Quả nhiên, khi nhìn thấy các quân chư hầu chạy đến chòi canh rồi mặt người nào người nấy đớ ra vì không thấy gì thì Bao Tự đã bật cười nắc nẻ. Hạnh phúc và sung sướng tột bậc, U Vương đã thưởng cho kẻ bày mưu hẳn một ngàn lạng vàng.

Khi làm việc này, chắc chắn U Vương không hề lường trước hậu quả kinh khiếp đã xảy ra sau đó. Vốn là khi các chư hầu kéo quân đến tiếp cứu nhưng không thấy giặc đâu, chỉ thấy U Vương và Bao Tự đang say sưa chè chén và cười nói ha hả thì đâm ra giận dữ và không còn niềm tin với vị vua này nữa. Chính vì vậy nên sau này, khi Thân Hầu mượn quân của Khuyển Nhung tiến đánh U Vương, cho dù U Vương cố gắng nổi lửa đài báo để nhờ cứu giúp nhưng không có một bóng quân chư hầu nào đến nữa. Kết cục, không thể địch nổi, U Vương đại bại và chết ở núi Li, Bao Tự bị bắt, còn kinh thành bị chiếm. Đất nước Tây Chu vì thế mà bị diệt vong.

Vậy nên Lý Bạch, thi hào đời nhà Ðường mới có câu: “Mỹ nhân nhất tiếu hoán thiên kim” (Nụ cười của người đẹp đổi ngàn vàng).

Nói ngàn vàng tưởng như đã là quá đắt đỏ, vậy mà vì một nụ của người đẹp Bao Tự, U Vương đã phải đánh đổi bằng cả giang sơn và chính mạng sống của mình. Có lẽ, nụ cười của Bao Tự chính là nụ cười đắt giá nhất trong lịch sử nhân loại.

Mạng căn như đóa phù dung,
Muốn ham chưa thỏa kế chun vào hòm.
Nếu để mắt mà nom đích xác,
Công Dã Tràng xe cát biển đông;
Của tiền nhiều lấp cạn sông,
Người yêu đứng lợp cả đồng cũng thôi.
Uổng công đổ mồ hôi nước mắt,
Vào tình yêu vào các lợi danh;
Chỉ gây lấy tội vào mình,
Thân không trường hưởng, hồn linh đọa đày.
Chi bằng lấy những ngày trụy lạc,
Lo tìm đường giải thoát trần ai;
Đem đời ngắn đổi kiếp dài,
Đó là biết dụng trí tài phải nơi.

Khi bàn đến sắc đẹp thì mỗi người lại mỗi ý trong cách nhìn, cách đánh giá, nhận xét. Nhà văn, nhà thơ nhìn sắc đẹp với một cái nhìn khác, kẻ hạ tiện ngu dốt nhìn cái đẹp khác. Người trí thức, kẻ cao sang nhìn sắc đẹp khác và kẻ nghèo cũng nhìn sắc đẹp trong cái nhìn khiêm tốn của họ. Người tại gia nhìn sắc đẹp khác, người xuất gia cũng nhìn sắc đẹp với cái nhìn khác. Trong Hạnh Du Già của bậc Bồ Tát, ngài Thánh Thiên có viết rằng:

“Dầu ai đó thấy sắc diện của nàng; Tự nghĩ lòng thỏa mãn. Nhưng hãy xem chó, các loài khác cũng vậy. Sao, ta kẻ khờ dại lại còn bị mê đắm.”

Giải thích bài kệ trên, Ngài cho rằng cái sắc mà người ta cho là đẹp ấy, chẳng qua là do vì cái thấy của nghiệp nên lòng tự cảm thấy thỏa mãn, như người này say đắm người kia thì cho là đẹp dù người ấy chẳng đẹp tí nào. Ví như loài vật con chó, con quạ, con gà, con giòi… cũng cho đồng loại của nó là đẹp. Rồi những con quỷ  dạ xoa cũng thích thú say mê sắc đẹp của những con quỷ, dạ xoa khác phái của nó dù rằng chúng ta thấy cũng phải kinh sợ đến nổi da gà. Có một chuyện kể rằng, một bọn quỷ và dạ xoa nọ tranh cãi với nhau rằng vợ của ai đẹp hơn và ai cũng đòi cho là vợ mình đẹp hơn cả. Cuối cùng không phân được hơn thua, bọn chúng, bèn đến hỏi một vị tăng và vị này trả lời rằng: “Người mà ông say mê nhất chính là người đẹp nhất”.

Cái sắc hay cái đẹp của con người, của vạn hữu tự nó chẳng phải là cái tội hoặc lỗi lầm mà có chăng là do cái chất liệu tham ái, si mê và chấp thủ của con người rót vào nó mà ra. Trong những sách về thiền quán có tả những cái đẹp ấy của con người, vạn hữu và ví nó như cái đẹp trong sáng, tinh sơ như bầu trời, như mây trắng và ở đó có cái đẹp, trong trắng, bao la và lồng lộng nhưng ví cái tâm tham ái, và chấp thủ – mà người ta muốn đem những cái đẹp của bầu trời, của đám mây trắng kia cất giữ vào trong những chiếc bình chiếc lọ – là bản ngã và si mê. Ta vẫn có thể nhìn cái đẹp ấy ở bên ngoài với trời cao lồng lộng, với mây trắng bạt ngàn mà vẫn thấy đẹp và hạnh phúc vô cùng, vì có những ý tưởng khoáng đạt thì tâm hồn mới cởi mở và bao dung, còn không thì chỉ nghĩ biết có mình, có ta. Tất cả những gì hiểu biết xuất phát từ si mê và bản ngã, đều làm cho con người sống ích kỷ hơn, gò bó và bao trọn chung quanh một gia đình.

Vị Quân Vương si tình!

Vạn Trinh Nhi vốn là người Sơn Đông. Nàng vào cung từ năm lên 4.

Năm 19 tuổi, được Thái hậu chọn làm bảo mẫu cho tiểu Thái tử 2 tuổi là Chu Kiến Thâm.

Nhà vua từ ngày còn rất nhỏ đã được cung nữ Vạn Trinh Nhi luôn ở bên che chở, hầu hạ và an ủi. Từ đó, tình cảm mà vua dành cho nàng dần trở thành tình yêu nam nữ từ lúc nào không hay.

Theo sử sách ghi lại, nữ nhân tên Vạn Trinh Nhi giữ một vai trò vô cùng phức tạp đối với thái tử Chu Kiến Thâm. Nàng vừa là mẹ, là chị, là bạn, là nô tì, lại cũng là người tình.

Năm 18 tuổi thái tử lên ngôi, lấy hiệu là Minh Hiến Tông, nhà vua vẫn không quên tình cảm bao năm với Trinh Nhi. Ông sắc phong cho người tình 35 tuổi của mình là Hoàng quý phi. Đây là chuyện xưa nay chưa từng có trong lịch sử hoàng thất ở Trung Quốc.

Sở dĩ vua không thể phong Trinh Nhi làm Hoàng hậu là bởi tuổi tác của nàng khi đó đã quá cao. Dẫu vậy, Trinh Nhi vẫn được vua yêu chìu hết mực. Đương kim Hoàng hậu xinh đẹp, trẻ trung lúc bấy giờ vì bị Hoàng đế bỏ rơi nên đã nổi cơn ghen, bày mưu hãm hại Trinh Nhi nhưng cuối cùng chính Hoàng hậu lại là người bị trừng phạt và phế truất, giam vào lãnh cung sau 31 ngày sắc phong.

Theo lệnh Chu thái hậu, Hiến Tông lập Vương hoàng hậu lên thay thế nhưng vua lại không sủng ái bà. Minh Hiến Tông lại tiếp tục muốn phế hoàng hậu hòng lập Trinh Nhi lên thay, nhưng nhờ thái hậu che chở nên Vương Hoàng hậu vẫn giữ được ngôi vị.

Hiến Tông phong thêm chữ Hoàng vào ngôi vị của Vạn Trinh Nhi, trở thành Vạn Hoàng quý phi, địa vị của bà lúc này là cao quý nhất trong cung chỉ dưới hoàng hậu. Vương Hoàng hậu không mâu thuẫn với Vạn Hoàng quý phi nên từ đó Trinh Nhi trở nên kiêu ngạo, tác loạn cung đình, tàn ác hãm hại các phi tần khác, bất chấp lễ nghi xem thường hoàng hậu.

Một năm sau khi được sắc phong, Trinh Nhi sinh cho vua Minh Hiến Tông một tiểu hoàng tử. Đáng tiếc, hoàng tử vừa sinh ra được 1 tháng đã chết yểu. Từ đó về sau, bà không sinh thêm được đứa con nào nữa. Kể từ ngày mất đi đứa con, bà sanh lòng căm ghét, thù hằn, hễ cứ thấy phi tần nào có thai là tìm cách hãm hại thai nhi.

Một cung phi họ Kỳ đã mang thai và sinh hạ một bé trai, nhưng vì lo sợ hai mẹ con bị hãm hại, một viên thái giám đã mang giấu đứa bé ở một nơi an toàn. Một thời gian sau, khi vua biết chuyện, liền vui mừng cho đón hai mẹ con vào cung. Vạn Quý phi nổi giận, lập tức sát hại Kỳ Thị. Viên thái giám kia cũng quá hoảng sợ mà tự vẫn. Hiến Tông mặc dầu biết rất rõ mọi chuyện nhưng không hề trách mắng bà, ngược lại còn hết lần này tới lần khác nhường nhịn bà.

Năm Trinh Nhi 58 tuổi, trở thành một bà già có thân hình sồ sề và ú béo phục phịch, vua Hiến Tông vẫn yêu và nể sợ bà. Hôm nọ, trong một lần giận dữ đánh cung nữ, vì bà béo phục phịch nên đã đứt hơi mà chết. Nhà vua nghe tin thì đã đau khổ như đứt từng khúc ruột. Ông gào khóc thương tiếc người mình yêu thương nhất của đời mình:

– Vạn Hoàng quý phi bỏ đi rồi, ta còn ở lâu sao được?

Từ đó, ông âu sầu, u uất mà sinh bệnh. Chỉ vài tháng sau khi bà qua đời, vua Hiến Tôn vì quá đau buồn nên cũng về bên kia thế giới ở tuổi 40.

*****

Sinh ra trong cuộc đời này đâu phải chỉ có mình ta với cha mẹ ta, hay mình ta với vợ ta, con cái và gia đình ta. Cả thiên hạ nay gần 7 tỷ người hiện đang ở đây, chung quanh ta; cả thiên hà đại địa với trời cao đất rộng và cả muôn ngàn tinh tú, muôn triệu hành tinh xa xôi. Thấy và biết mình chỉ là một phần tử cỏn con giữa cuộc đời, như hạt bụi nhỏ nhít giữa sa mạc là ta thấy rõ hơn được cuộc sống mà ta đang sống. Biết được rõ hơn về cuộc sống, con người chung quanh và mình chính là ta thấy được niềm vui và hạnh phúc của cuộc đời. Hạnh phúc của cả cuộc đời mà trong đó có ta đang sống chứ không phải chỉ là hạnh phúc của ta và riêng ta mà thôi.

Trong kinh Khổ Ấm, đức Phật cũng nói cho các đệ tử của Ngài nghe về cái chất ngọt của sắc đẹp, cùng những tai họa theo sau của nó rằng:

“Như có các thiếu nữ dòng Sát đế lợi hay Phạm chí, cư sĩ lúc đến tuổi 14, 15 là lúc có sắc đẹp mặn mà nhất. Nếu chúng ta trông thấy sắc đẹp ấy, có được nhân duyên nhìn thấy sắc đẹp ấy thì lòng sinh vui mừng hoan hỷ, vị ngọt của sắc đẹp chỉ tạo cho ta cảm giác đến tột cùng đó chứ không hơn nữa, nhưng tai họa của sắc đẹp theo sau thì có rất nhiều.

Thế nào là tai họa của sắc? Nếu thấy nàng ấy về sau trở nên hết sức già yếu, đầu bạc, răng rụng, lưng còm gối rũ, chống gậy mà đi, tuổi trẻ đã tàn, mạng sống sắp hết, thân thể run rẩy, các căn hư mòn; ý các thầy nghĩ sao? Có phải sắc đẹp trước kia đã biến mất mà sinh ra tai họa chăng?

Lại nữa, nếu nàng ấy bị bệnh nằm liệt giường hay lăn lóc trên đất, vì khổ bức bách thân thể, chịu khổ cùng cực; ý các thầy nghĩ sao? Có phải sắc đẹp trước kia đã biến mất mà sinh ra tại họa chăng?

Lại nữa, nếu thấy xác nàng ấy đã chết từ một hai ngày đến sáu bảy ngày, đang bị quạ, diều hâu mổ, hoặc đã được hỏa thiêu hay chôn lấp, hay đang bị mục nát hư hoại, ý các thầy nghĩ sao? Có phải sắc đẹp trước kia  đã biến mất mà sinh ra tại họa chăng?

Lại nữa, nếu thấy xác nàng ấy ở trong nghĩa địa, hài cốt xám xanh, mục nát quá nữa, xương vãi trên đất ý các thầy nghĩ sao? Có phải sắc đẹp trước kia đã biến mất mà sinh ra tại họa chăng?

Lại nữa, nếu thấy xác nàng ấy ở trong nghĩa địa, tiêu hết da thịt, máu huyết, chỉ còn dính gân, ý các thầy nghĩ sao? Có phải sắc đẹp trước kia đã biến mất mà sinh ra tại họa chăng?

Lại nữa, nếu thấy xác nàng ấy ở trong nghĩa địa, xương rời từng đốt, tản mác khắp nơi: xương chân, xương đùi, xương đầu gối, xương sống, xương vai, xương cổ, xương sọ, mỗi thứ một nơi, ý các thầy nghĩ sao? Có phải sắc đẹp trước kia đã biến mất mà sinh ra tại họa chăng?

-Bạch Thế tôn, tất cả đều đúng như vậy! Tất cả đó đều là tai họa của sắc.”

Phật rằng đời là bể con ơi!
Khắp chúng sanh lặn lội hết hơi,
Rốt cuộc chết đuối nơi biển khổ.
Lòng càng lắm say mê ham hố,
Càng thêm nhiều nỗi khổ nọ kia;
Chúng sanh luôn sống cảnh xa lìa,
Ái ân mấy cũng chia đôi ngả.
Không ai được hoàn toàn thích thỏa,
Hầu hết mang lắm lẽ ưu sầu;
Cái điều mà ai cũng bám câu,
Là sắc dục có đâu bền chặt.
Lúc thơ trẻ thì còn hương sắc,
Khi già rồi mất hết dung nhan;
So sánh nào khác cánh hoa tàn.
Trôi trên nước nằm lăn trên lọ.
Từ cái đẹp khiến ai cũng ngó,
Rồi xấu đi không kẻ nào nhìn;
Thế mà chưa dứt được ái tình.
Đeo đắm mãi đến lên giàn hỏa.
Chịu muôn nỗi cực hình đày đọa,
Kiếp nầy qua kế cả kiếp sau;

Nhìn cảnh chết chóc mới thấy cuộc đời vô thường và giả tạm làm sao, vì con người ta mới sống phút trước đó mà phút sau đã chết. Và khi chết rồi xác thân này trông thật là gớm giếc; có cái sình lên, có cái nát bét, có cái đứt đầu gãy cổ thật là sợ, nhưng đôi khi nghĩ lại thì có chắc gì cái chết của mình một mai kia sẽ không giống như vậy. Cái chết của con người rồi thì ai cũng sẽ rất gớm, dù rằng người đó giàu sang và xinh đẹp thế nào đi nữa thì sau một vài ngày chưa chôn cất kịp, máu mủ cùng mùi hôi thúi sẽ bốc lên, mọi người kể cả những người thân, người yêu nhất của chúng ta cũng sẽ cao chạy xa bay.

Xác thân tứ đại có gì đâu?
Trang điểm phấn son ướp mỡ dầu.
Bọc lớp da ngoài coi đẹp nhỉ,
Trong ruột đố người dám ngửi lâu.

Phật độ một tỳ kheo trẻ vượt khỏi ái dục

Thuở xưa Đức Phật thuyết pháp tại tinh xá Kỳ-hoàn nước Xá-vệ. Lúc ấy có một vị Tỳ kheo trẻ vào thành khất thực. Ông trông thấy một thiếu nữ thật là xinh đẹp, lòng liền khởi niệm sắc dục, quyến luyến mãi không dứt. Do đó, dần dần ông mang bệnh. Bỏ ăn uống, mặt mày tiều tụy nằm liệt trên giường. Các bạn đồng đạo đến thăm hỏi nguyên nhân bệnh tình. Vị Tỳ kheo trẻ cứ như thật giải bày. Ông nói rằng mình muốn bỏ tu, kết tình ân ái với cô ấy, song vì không được như ý nguyện nên lâu ngày buồn khổ thành bệnh tương tư.

Các huynh đệ đồng đạo hết lời khuyên can song ông vẫn không làm sao quên được hình bóng giai nhân ấy. Thấy vậy, mọi người mới dìu thầy đến chỗ Phật, kể hết mọi chuyện cho Ngài nghe. Đức Phật bảo với vị Tỳ kheo trẻ tuổi:

– Nguyện ước của thầy dễ thành thôi, đâu có gì mà phải ôm mối sầu thương! Ta sẽ tìm cách giúp thầy mãn nguyện, hãy vui vẻ dậy ăn uống cho khỏe lại đi!

Vị Tỳ kheo nghe xong trong lòng vô cùng mừng rỡ, bao nỗi u buồn sầu khổ bỗng dưng bay biến không còn một tý vết tích nào, ma bệnh đột nhiên tiêu tan trong chớp mắt.

Bấy giờ Đức Thế Tôn liền dẫn vị Tỳ kheo trẻ và đại chúng vào thành Xá-vệ, tìm đến nhà người đẹp nọ. Đến nơi mới hay cô gái đã chết ba ngày rồi, thi thể còn quàng tại nhà vì gia đình thương khóc không nỡ đem chôn. Lúc ấy thân cô đã sình lên, đồ bất tịnh chảy thành mùi hôi thối khó chịu. Đức Phật liền bảo vị Tỳ kheo:

– Thầy thấy chăng? Người mà thầy hổm nay mơ tưởng đến đổi bỏ ăn bỏ ngủ hiện giờ đã như vậy. Vạn vật vô thường trong hơi thở. Người ngu chỉ nhìn bên ngoài mà không thấy được chỗ nhơ xấu bên trong, cứ mãi ràng buộc trong lưới tội mà cho là khoái lạc!

Bấy giờ đức Thế Tôn liền nói kệ:

Thấy sắc tâm mê tưởng
Chẳng xét lẽ vô thường
Người ngu cho là đẹp
Giả dối lại yêu thương.
Đắm mình trong dâm lạc
Tằm kéo kén khác chi
Người trí tuệ dứt hẳn
Hết khổ não sầu bi.
Người tâm ý buông lung
Dâm nhơ cho là sạch
Tình ân ái sâu nặng
Là lao ngục trói trăn.
Người tỉnh giác trừ dâm
Bất tịnh quán để tâm
Nhờ đó khỏi lao ngục
Già chết dứt tận mầm.

Tỳ kheo trẻ tuổi lúc ấy trông thấy người đẹp thân thể sình thúi khó thể đứng gần, lại nghe bài kệ giảng dạy rất rõ, nên hổ thẹn tỉnh ngộ, biết mình trước đây quá đổi si mê lầm lẫn. Thầy bèn đảnh lễ, dập đầu sám hối với Đức Thế Tôn. Đức Phật hứa khả, cùng đại chúng trở về tinh xá.

Từ đó ông liều chết công phu, dõng mãnh tinh tấn tu tập, chẳng bao lâu đắc quả A-la-hán. Đại chúng được đi theo hôm đó thấy sắc dục ô uế, thâm tín được lẽ vô thường, tham ái lần dứt rất nhiều người cũng chứng được đạo quả.

Trong luận phẩm 400 bài kệ hành hạnh Du Già của bậc Bồ Tát, ngài Thánh Thiên (Aryadeva) đã nói về cái sắc đẹp như sau:

“Có ý nghĩa gì với một người đàn bà trong cái sắc đẹp tuyệt trần dưới mắt một người có trí tuệ, khi họ nhận biết rằng những phần bất tịnh của thân thể cô ta đều luôn tuôn chảy ra những thứ bất tịnh. Thân thể ấy tựa như nhà xí, nơi chứa đầy các dơ bẩn tanh hôi”.

Đã là người phụ nữ và là người phụ nữ có sắc đẹp thì ai cũng biết điều này, và họ hay dùng nó để đạt đến mục tiêu cho cuộc đời của họ. Mục tiêu của một người phụ nữ có sắc đẹp như chim sa cá lặn hay xấu xí thật ra cũng chẳng khác biệt gì mấy, ngoài việc tìm kiếm người tình thích hợp cho mình qua tính tình ôn nhu, giàu có, bằng cấp và đẹp trai chẳng hạn.

Lấy một cái nhìn khách quan và toàn vẹn về một người có sắc đẹp từ trẻ cho đến già và từ già nhìn ngược lại, ta sẽ chẳng thấy có gì đáng phải quan tâm. Tất cả rồi cũng trôi qua như một giấc mộng phù du, dù là cũng chính người ấy khi về già và nhìn lại cuộc đời của họ khi còn sắc đẹp, còn niên thiếu. Nhưng cái sắc đẹp khi họ còn sở hữu trong tay, còn được thao túng để làm điên đảo cho hàng trăm, hàng ngàn trái tim người khác phái, thì chưa hẳn thật sự là thú vị, là hạnh phúc, suốt thời gian của dầu sôi lửa bỏng mà họ đang thủ một vai chính đầy quyền hành.

Theo đạo Phật thì một người sinh ra và sở hữu được sắc đẹp là một điều quý báu. Điều này không phải tự nhiên mà có, cũng không phải do may mắn hoặc do một vị Thượng Đế nào ban cho, mà do chính tự phước đức gây tạo của họ trong những kiếp quá khứ. Thế nên được sinh ra làm người là một điều quý báu, thân thể và sắc mặt được đẹp lại càng quý báu hơn. Tuy nhiên nếu ý thức được điều quý báu này thì ta sẽ cố làm cho nó đẹp và quý báu hơn nữa ở nhiều kiếp sống tới, còn nếu chỉ để dùng nó giới hạn trong một đời này, hay chỉ trong khoảng một thời thanh xuân của niên thiếu thì quả là một điều thiếu khôn ngoan.

Trần Viên Viên và hai vị vua mất nước

Trần Viên Viên, xuất thân từ một gia đình lao động nghèo ở thôn Thái Nguyên, Vũ Tiến, Hình Châu.

Trần Viên Viên, là một mỹ nhân cuối thời Minh, đầu thời nhà Thanh. Nàng từng được xưng tụng là một trong Tần Hoài Bát Diễm và cũng bị quy cho là một trong những nguyên nhân dẫn đến việc danh tướng Ngô Tam Quế dẫn quân Thanh chiếm Trung Nguyên. Nhiều nhà nghiên cứu cho rằng Viên Viên là mỹ nhân để lụy anh hùng.

Mẹ Viên Viên sinh nàng chẳng được bao lâu thì mất. Cha vốn là một người buôn bán nhỏ nhưng do hoàn cảnh bần hàn nên đã bỏ đi xa, để lại cô con gái duy nhất cho người em vợ nuôi. Do hoàn cảnh mồ côi sớm, lớn lên Viên Viên mang họ Trần, theo họ của chồng người dì ruột đã có công nuôi dưỡng nàng. Bà cho người đến dạy dỗ, Trần Viên Viên đã sớm thành thục cầm, kỳ, thi, họa… Viên Viên vốn có sắc đẹp hơn người, xinh đẹp hơn cả hai cô công chúa Trường Bình và công chúa Chiêu Ân con vua Sùng Trinh lúc bấy giờ, thông thạo đàn hát nên có rất nhiều nam nhân đến xem nàng biểu diễn.

Khi trưởng thành, Viên Viên đã lọt vào “mắt xanh” của một kỹ viện nổi tiếng nhất Giang Tô. Tiếng tăm của nàng đã nhanh chóng lan ra khắp thiên hạ, nàng còn được biết đến bằng cái tên “Giang Tô đệ nhất kỹ nữ”.

Ngoài nhan sắc, Viên Viên còn có kỳ tài về cầm, kỳ, thi, họa nổi bật so với những kỹ nữ cùng thời. Khi ấy, hoàng đế Sùng Trinh đang sủng ái Điền Quý phi, làm cho Chu hoàng hậu rất ghen tức. Biết chuyện, cha của Chu hoàng hậu đến kỹ viện bỏ tiền ra mua Viên Viên, để đưa vào cung phục vụ hoàng đế. Kề cận được Viên Viên, Sùng Trinh cứ ở mãi trong cung không muốn ra thiết triều. Sau vì chính sự đảo lộn, giặc giã nổi lên khắp nơi như ong vỡ tổ, vua Sùng Trinh nghe lời can gián các quan nên tự sửa mình bằng việc bỏ chốn phòng the, xa rời nữ sắc, nhưng sự việc đã quá muộn màng. Viên Viên vì thế bị đem trả lại cho cha của hoàng hậu.

Trong một bữa tiệc tại phủ, quốc trượng Chu Khuê cho Viên Viên ra múa hát, nhan sắc cùng tài năng của nàng đã lọt vào mắt xanh của Ngô Tam Quế. Khi viên võ quan này được cử ra trấn thủ Sơn Hải quan, để ngăn chặn quân Mãn Châu, Sùng Trinh đã ban Viên Viên cho Ngô Tam Quế.

Tiếc rằng trời xanh ghen gái má hồng, Viên Viên chưa được thỏa tình gần gũi người anh hùng thì có chiếu chỉ của triều đình ban xuống, lệnh cho Ngô Tam Quế cấp tốc phải về quan ải, chỉnh đốn quân binh sửa soạn chống đỡ với giặc ngoại xâm. Ngô Tam Quế đành dứt áo ra đi, để lại người vợ trẻ mới cưới mấy ngày cho phụ thân chăm sóc.

Năm 1644, lực lượng của Lý Tự Thành vào chiếm Bắc Kinh, lên ngôi Hoàng đế, lấy hiệu là Đại Thuận. Sùng Trinh bỏ chạy rồi treo cổ tự tử ở Môi Sơn. Viên Viên bị Lý Tự Thành chiếm đoạt và cướp vào trong cung hầu hạ. Khi nghe tin quân nổi dậy uy hiếp kinh đô, Ngô Tam Quế liền dẫn binh về cứu. Dọc đường, biết Bắc Kinh đã thất thủ, vua Minh đã chết, lại nghe Lý Tự Thành dụ dỗ nên Ngô Tam Quế đã định hàng. Nhưng khi hay ái thiếp của mình là Viên Viên bị Lý Tự Thành chiếm đoạt, Ngô Tam Quế nổi giận, đến xin hợp với quân Thanh, dẫn quân Thanh quay về đánh kinh thành. Đây là một quyết định rất quan trọng ảnh hưởng nhất đến lịch sử Trung Quốc bấy giờ.

Trong cuộc chiến, Lý Tự Thành rơi vào thế cùng, phải dùng kế sách dùng người thân trong gia đình họ Ngô ép buộc Ngô Tam Quế dừng tay. Chứng kiến tiếng la khóc ai oán của những người thân, Ngô Tam Quế hết sức đau đớn nhưng vẫn chú ý là số con tin do Lý Tự Thành cầm giữ không có hình bóng Viên Viên nên quát lớn hỏi lại… làm Lý Tự Thành hô quân mang toàn gia họ Ngô ra chém đầu ngay tường thành. Ngô Tam Quế chỉ còn biết đứng chết lặng như tượng đá hồi lâu rồi ngã ra bất tỉnh.

Cuộc chiến tranh lần hai này được sử sách ghi chép lại đã trở thành cuộc nội chiến vô cùng đẫm máu, khiến rất nhiều binh lính và dân thường thương vong, làng mạc xác xơ hoang tàn, cảnh tượng máu chảy đầu rơi khắp chốn.

Chính Ngô Tam Quế đã mở toang quan ải đưa quân Thanh đánh thẳng vào Bắc Kinh. Từ đây, nhà Thanh áp đặt nền cai trị gần suốt 300 năm, mãi cho đến khi Phổ Nghi thoái vị vào năm 1912.

Khi Ngô Tam Quế đã trở thành vương gia của nhà Thanh, ông sống với Viên Viên một thời gian, sau đó ông lo ngại bị tai tiếng lấy phải kỹ nữ, nên đưa nàng lên sống cô đơn trên một ngôi chùa vắng ở Côn Sơn – Vân Nam. Cuối đời, Viên Viên trở thành một vị đạo cô, nàng sống ẩn dật và chết một cách âm thầm trong cô quạnh.

Cũng vì chuyện Ngô Tam Quế dẫn quân Thanh nhập quan mà người Hán oán trách, căm thù, phỉ báng Viên Viên, vì cho rằng nàng chính là nguyên nhân gây ra việc người Mãn đô hộ người Hán. Nhưng điều này không thỏa đáng, vì nếu Sùng Trinh anh minh, Ngô Tam Quế tỉnh táo thì Viên Viên dẫu có tài sắc gấp trăm ngàn lần đi nữa cũng không thể đưa đến thảm cảnh đầy bi thương như thế được. Nếu có gán tội thì hãy gán tội cho sự chạy theo dục vọng của vô minh mà tất cả phàm nhân đều dễ dàng dính dấp!

Cũng qua câu sự việc này, chúng ta cần biết thêm, vị vua cuối triều Minh là Sấm Vương, Lý Tự Thành. Ông thuở bình thời, các nhà tướng số đều đoán ông có phúc tướng làm vua dài đến 43 năm. Nhưng khi vừa lên ngôi ông đã đắm nhiễm dục lạc, suốt ngày chỉ lo ăn chơi xa xỉ hoang phí vô độ, chẳng để tâm đến sự sống chết của dân chúng, rốt cuộc ông làm vua chỉ có 43 ngày!

Vì thế khi thụ hưởng phước báo dễ làm cho chúng sanh mê muội, đem phước báo của 43 năm dùng trong 43 ngày, điều này đáng để cho chúng ta suy gẫm. Cho nên, nếu không có trí huệ thì việc thọ hưởng phước báo chẳng hưởng được dài lâu, đồng thời hưởng si phước rất dễ dàng tạo nghiệp!

******

Do tác lực của nghiệp, nên con người đến với sắc đẹp tựa như ong thấy hoa, như bê con thấy vú mẹ, trong kinh Pháp Cú Đức Phật mô tả như vậy. Người ta đến với sắc đẹp, tìm cầu và quy lụy về nó mà bất chấp thân mạng, danh giá của họ. Họ không sợ bị khổ, chẳng kể mưu chước sai quấy, gian tà chỉ để mong sao chiếm được cái sắc đẹp kia, thế nhưng khi chiếm được rồi, họ cũng chẳng có mấy được niềm vui và hạnh phúc hơn bao nhiêu so với lúc ban đầu.

Khác với thế nhân, đạo Phật dạy cho chúng ta những phương cách để quan sát về sắc đẹp. Không vội vã chạy đến với nó mà phải nhìn, phải hiểu thật sâu và suy gẫm cùng chiêm nghiệm. Một khi thấy rõ được cái thật của sắc đẹp thì có thể thấy rõ được cái thật của cả cuộc đời, vì cuộc đời và sự sống này vốn dĩ là vô thường, dơ bẩn và khổ đau!

Dường như thế giới ngày nay là thế giới của cái đẹp. Với những tiến bộ về kỹ thuật, con người gần như đã chinh phục được thế giới này qua các sáng tạo và các khám phá mới trong ngành y dược, và giải phẫu thẩm mỹ. Các loại mỹ phẩm và đồ đạc trang sức trong cái nét thẩm mỹ thời đại cũng được đa dạng hóa, nên nhìn chung có thể là họ đang tự mở ra một vòm trời mới về cái sắc và vẻ đẹp của con người.

Bị hủy mất công danh chỉ vì ý định bất chính

Có một anh chàng thư sinh họ Lý vốn rất giỏi đọc sách làm văn, trên đường lên kinh ứng thí. Hôm nọ, anh dừng chân trong một quán trọ ở Cù Châu. Người chủ quán trọ ăn nói thân thiện với Lý Sinh, chiêu đãi rất nhiệt tình.

Chàng thư sinh họ Lý này rất lấy làm lạ, trong lòng thắc mắc nên sau đó tìm đến chủ quán để hỏi ông duyên cớ.

Ông chủ quán cho biết:

– Tối hôm qua tôi nằm mơ thấy Thần thổ địa nói với tôi rằng: “Ngày mai có một vị tú tài họ Lý sẽ đậu bảng vàng trong khoa cử lần này, vậy nên cần phải ân cần tiếp đãi”.

Lý Sinh nghe xong trong lòng tràn đầy vui mừng hớn hở, trong đêm liền mơ tưởng thấy mộng đẹp khoa cử và làm quan như thế này thế nọ… đến lúc hồi tưởng lại người vợ của mình, lòng bèn khởi lên ý nghĩ: “Người vợ này là mình cưới trong lúc còn nghèo khổ khốn khó, bây giờ đã vừa già vừa xấu. Đến chừng mình làm quan rồi thử hỏi cô ta có còn xứng đáng làm vợ mình nữa hay sao. Vậy nên mình sẽ thôi vợ để cưới người vợ mới”.

Ngày hôm sau, Lý Sinh rời khỏi quán trọ lên kinh ứng thí, buổi tối hôm đó chủ quán lại một lần nữa mơ thấy Thần thổ địa. Vị Thần nói với chủ quán rằng: “Chàng trai trẻ này tâm địa không lương thiện, bản thân còn chưa thi đậu công danh, vậy mà đã muốn bỏ người vợ tào khang của mình, nên đã bị Thần Minh tước bỏ công danh!”.

Về sau, Lý Sinh quả nhiên thi không đậu, chán nản trở về quê nhà, lần nữa ghé qua quán trọ. Chủ quán trọ lại kể những gì Thần thổ địa đã mách với mình trong giấc mơ. Lý Sinh nghe xong giật mình kinh hãi, xấu hổ nhanh chóng bỏ đi.

Đôi khi việc làm của chúng ta, của người nam hay của phụ nữ chỉ là một việc làm máy móc theo thói quen của mọi người. Nhưng con người lại thường thường làm theo cái nghiệp chỉ dẫn. Nghiệp của người phụ nữ là nghiệp của sự mê đắm cái đẹp, mà chính là nơi khuôn mặt của họ. Nếu có những phụ nữ nào sinh ra với gương mặt xấu, là họ cảm thấy thất vọng buồn khổ vô cùng. Còn những người với sắc đẹp trung bình thì họ tính chuyện sửa sang, và làm đủ mọi cách để cho được đẹp đẽ hơn. Những kết quả bi thương của những người muốn có một sắc đẹp, theo thống kê thì trong năm 1996, ở tại Trung Quốc đã có trên 500.000 người bị hư mặt vì đi lầm những thẩm mỹ viện ma. Thế nên, thay vì được đẹp thêm họ lại phải chịu mang thương tật cho gương mặt mình đến suốt cả đời!

Dung mạo ông trời đã cho ta
Sửa sang chỉ chuốc những phiền hà
Chẳng khéo trở thành người xa lạ
Về nhà, cha mẹ nhận không ra

Sửa lắm coi chừng mất hết duyên
Rồi không như ý lại mất tiền
Đẹp chả bao ngày thân vướng nạn
Biến chứng ung thư khổ vạn niên

Thôi thì an phận số phần đi
Mũi cao cằm chẻ để mà chi
Đừng ham dao kéo không hạnh đức
Tiền tốn tật mang lắm sầu bi…

Hãy để dung nhan thuận tự nhiên
Lạm dụng làm chi chuốc não phiền
Cái đẹp phết tô thua cái nết
Không nết, sửa nhiều chết cái duyên

*******

Hữu hình, hữu hoại là thân,
Có đâu sống mãi ngàn năm trên đời.
Trường danh lợi lăng xăng lui tới,
Áng công hầu sớm tối đua chen,
Sang hèn đẹp xấu lộn xen,
Chung qui rồi cũng một phen tan tành.
Mùi tục lụy hôi tanh tiếp nối,
Bả đỉnh chung lắm nỗi bồn chồn,
Phết sơn trau chốc dại khôn,
Công danh, phú quí mộng hồn hoàn lương.
Cảnh vô thường tang thương biến đổi,
Người lẽ đâu sớm tối thong dong.
Sanh ra trong cõi bụi hồng,
Mấy ai trăm tuổi uổng công lo đời.
Còn chút hơi ai ơi nghĩ lại,
Muôn việc đời cả thảy đừng mong,
Vắng đi ba tấc hơi lòng,
Đôi bàn tay trắng theo dòng trầm luân!

Những lúc tâm tư lắng đọng hãy tự nghiền ngẫm cái phi lý của đa số người đời là, họ có thể bỏ ra tiền ngàn bạc vạn để sửa sang cái bề ngoài cho được đẹp để mong ước cuộc sống họ có thêm được hạnh phúc; nhưng rồi, đôi khi thực tại lại còn bất hạnh nặng nề hơn khi chưa vào viện thẳm mỹ, đồng thời cái đẹp ấy cũng chưa chắc thật sự mang lại hạnh phúc, bởi nó sẽ bị già nua và xấu đi rất nhanh theo năm tháng. Nhưng để sửa cái tâm mình được đẹp mãi mãi, chẳng mất tiền và chắc chắn sẽ đem lại hạnh phúc cho đời mình, con người ta thường lại lơ là và tìm cách chối bỏ. Chính vì nhận lầm cái giả cho là thật, cái không đẹp cho là đẹp, gốc của cái khổ lại cho là vui; còn cái thật, cái đẹp, cái gốc của niềm vui và hạnh phúc chân thật thì họ quay lưng chối bỏ! Do đó mà con người ta vẫn mãi mãi quờ quạng trong bóng tối của vô minh, lầm lũi mãi mãi trong cảnh sống khổ sầu, mặc dù họ vẫn luôn là những người mong tìm cách để thoát khổ.

Kinh Lăng Nghiêm có câu “Nhất thiết pháp tùng tâm tưởng sanh”, nghĩa là các tướng do tâm tưởng sinh ra.

Nhiều người nghĩ rằng tướng mạo bản thân là do trời sinh, không thể thay đổi theo cách tự nhiên mà phải tác động bằng “dao kéo”. Thực tế không phải vậy, dung mạo sẽ đẹp hơn nếu tâm hồn ngày càng trong sáng và thuần thiện. Thế nên, thay vì tốn tiền và phải chịu nhiều đau đớn của “dao kéo”, sao chúng ta không thay đổi chính tâm hồn mình?

Tướng mạo chính là tấm gương phản chiếu chính xác tâm niệm của chúng ta. Chỉ những ý tưởng tốt đẹp mới giúp cho mình có được một khuôn mặt xinh đẹp tuyệt vời.

Con người khi bước tới độ tuổi trung niên sẽ thể hiện ra những tướng mặt do ảnh hưởng từ tính cách của mình. Những người khoan dung, nhân hậu thường có một khuôn mặt phúc hậu. Người có tính cách nhu mì thường có khuôn mặt xinh đẹp, dịu dàng. Những người vô cùng thô bạo thường có tướng mặt hung ác. Người có phẩm chất không tốt thường có một khuôn mặt hà khắc.

Nhìn cõi nhân gian ngàn vạn cảnh, nhân cách mỗi người cũng có hàng vạn kiểu. Chỉ những đức tính tốt đẹp mới giúp chúng ta có được một khuôn mặt xinh đẹp không tuổi. Nói cách khác, sắc đẹp cũng là một biểu hiện của phúc báo.

Thuở xưa có một họa sĩ điêu khắc sinh sống ở tỉnh Sơn Đông. Mặc dù dung mạo của anh rất khôi ngô tuấn tú, nhưng anh ta lại thích tạc những hình tượng yêu ma quỷ quái. Những tác phẩm điêu khắc của anh vô cùng sống động, và theo thời gian, việc buôn bán của anh càng ngày càng phát đạt. Một ngày, anh nhìn vào gương và vô cùng kinh ngạc khi thấy rằng diện mạo của mình đã trở nên hung tợn và xấu xí. Anh đã đến gặp rất nhiều danh y nổi tiếng, nhưng không ai có thể giúp đỡ cho anh được gì!

Hôm nọ, duyên mai, tình cờ chàng trai dừng lại ở một ngôi chùa và kể sự tình với vị hòa thượng trụ trì. Hòa thượng bảo anh ta rằng: “Tôi có thể giúp điều ước mơ của anh trở thành sự thật, với điều kiện là anh hãy tạc cho tôi một số bức tượng Đức Quan Thế Âm Đại Sĩ với các dáng điệu khác nhau”.

Người nghệ nhân đã đồng ý ngay lập tức và bắt đầu nghiên cứu tư tưởng và diện mạo của Bồ Tát Quan Thế Âm. Anh cũng cố gắng hết sức để thực hành theo đạo đức của Ngài như thể chính mình là Đức Quan Thế Âm vậy.

Sau sáu tháng nghiên cứu và làm việc chăm chỉ, anh đã khắc được một số bức tượng vô cùng trang nghiêm của Phật Bà Quan Âm, thể hiện Đại từ Đại bi, thương yêu mọi loài chúng sinh của Ngài. Mọi người rất ngạc nhiên trước những bức tượng rất sinh động giống như thật. Người nghệ nhân khi ấy cũng rất ngạc nhiên phát hiện thấy rằng tướng mạo của mình đã hoàn toàn thay đổi, giờ đây nhìn anh thật oai dũng, nhân hậu và đoan nghiêm.

Kỳ thực, từ Trung Y cổ đại cũng như sinh lý học và tâm lý học hiện đại là có thể thấy rằng đạo lý “tướng do tâm sinh” cũng giản đơn. Cái tướng mạo của người ta là do hai bộ phận ‘vật chất’ và ‘tinh thần’ tạo thành. Hình tướng là đặc thù của sinh lý còn thần tướng vừa bao hàm nhân tố sinh lý, vừa phụ thuộc vào sự tu chỉnh quyết định. Nhất cử nhất động từng ý từng niệm trong cuộc sống, qua một thời gian thì dần dần sẽ ngưng đọng trên khuôn mặt, nghĩa là “hữu chư nội tất hình chư ngoại” (có gì bên trong ắt xuất hình bên ngoài).

Tâm niệm nảy sinh, cũng sẽ ảnh hưởng lên thân thể. Nếu như nội tâm an hoà tĩnh tại thì thần thanh khí sảng, lạc quan, đôn hậu, quang minh ngay thẳng. Điều đó sẽ khiến cho khí huyết điều hoà, ngũ tạng an định, công năng chính thường, thân thể khoẻ mạnh, ắt sẽ thể hiện ra mặt mũi sáng sủa, thần thái phấn khởi, ai gặp mặt cũng cảm thấy thoải mái, có cảm giác thân thiện an hoà một cách tự nhiên.

Vì sao mọi người muốn phẫu thuật thẩm mỹ? Rốt cuộc đều là vì muốn bản thân mình trở nên xinh đẹp hơn.

Nhưng dẫu dung mạo xinh đẹp đến đâu thì cũng chẳng thể giữ mãi. Nó nhất định sẽ chìm nổi theo sự dao động của tâm hồn, cũng như một chiếc áo mỗi người khoác lên mình thì nửa năm sau sẽ có những nếp nhăn khác nhau.

Dung mạo của con người lại là một tấm vải tinh tế hơn. Dung mạo tự nhiên còn nhạt nhòa theo năm tháng. Dung mạo qua phẫu thuật lại càng chẳng thể chống chọi nổi với thời gian.

Sầu khổ sẽ sinh ra những nếp nhăn tương ứng. Vui vẻ sẽ chẳng để lại nếp nhăn. Nếu bạn muốn có một dung mạo xinh đẹp vậy thì tâm hồn bạn chắc chắn phải luôn trong sáng, vui tươi.

Thời gian sẽ xóa nhòa hiệu quả của phẫu thuật thẩm mỹ, chỉ có sự tươi sáng trong tâm hồn mới có thể nuôi dưỡng vẻ đẹp trường tồn cùng thời gian.

Con người từ 40 tuổi trở đi, thì tướng mạo sẽ lộ rõ ra tính cách và phẩm chất của người đó: Người có tấm lòng khoan dung, độ lượng thì phần lớn sẽ có khuôn mặt phúc hậu. Người có tính tình hiền dịu thì tướng mạo sẽ đẹp một cách nhu hòa thánh thiện. Người có tính cách thô bạo lỗ mãng thì tướng mạo sẽ luôn là hung dữ. Người có lòng dạ nhỏ mọn thì phần lớn sẽ có tướng mạo xấu xí, hai hàng lông mày nhíu chặt. Người tướng mạo lộ ra vẻ đặc biệt trẻ trung và xinh đẹp thì người này nhất định là thuần lương hiền thiện.

Các nhà tâm lý học còn cho rằng khuôn mặt của mỗi người có thể chứa những bí mật sâu thẳm nhất: Khuôn mặt của một người liên quan mật thiết với nội tâm bên trong của người đó; Khuôn mặt không chỉ là một sản phẩm của sinh học, chúng ta không thể thay đổi gen hay hormones, nhưng bằng việc chú trọng vào nhân cách, sống yêu thương, khoan dung, độ lượng, nhân từ, trung thực, hào phóng, tự trọng, thì tất cả những điều tốt đẹp đó sẽ tác động đến cơ mặt và nó sẽ bắt đầu thay đổi và phản chiếu lên khuôn mặt.

Để có tướng mạo đẹp chúng ta hãy thường xuyên tu dưỡng những điều sau:

Nghĩ những điều lành.
Làm những việc lành.
Nói những lời lành.
Tiếp xúc nhiều với người lành.
Luôn biết cảm ơn.
Thường xuyên mỉm cười.
Khen ngợi người khác nhiều hơn.
Luôn nhẫn nhịn, đừng giận hờn.

Niệm tưởng Phật hay Bồ Tát là thù thắng bậc nhất!

 

3/- Danh vọng

Trong cái hiểu thiển cận của chúng ta, ta chỉ biết danh vọng là những điều đáng xa tránh. Danh được xếp vào hạng thứ ba trong ngũ dục của cuộc đời: Tiền tài, sắc đẹp, danh vọng, ăn uống và ngủ nghỉ. Người đời họ hiểu về danh khác người tu, nên họ thi đua với nhau mà đi tìm cầu danh vọng. Càng được nhiều danh vọng họ càng thấy thích thú và hãnh diện với chính mình, xem đó như là một thành công trong cuộc đời của họ.

Nhưng cuộc đời của mỗi người khi sinh ra nào ai có danh gì đâu. Chỉ có gia đình ông bà cha mẹ họ là có danh có vọng, và do những nhân duyên lành nào đó, trong những quãng đời trước mà họ cũng dần hưởng được những danh vọng ấy từ gia đình khi họ lớn lên. Được sinh vào những gia đình quý tộc, giàu có, những gia đình khoa bảng, học thức là họ đã được sinh trong những cái danh tốt đẹp ấy rồi. Dĩ nhiên là cũng nhờ những danh vọng ấy mà chính họ được tôn trọng và kính nể hơn. Nhưng rồi những danh vọng ấy, đôi khi lại buộc chân hay đưa cuộc đời họ vào một ngã rẽ khác, đôi lúc thật là khó hiểu.

Dĩ nhiên là chính họ trưởng thành sau này, cũng phải tạo ra cho xứng với cái danh mà dòng tộc đã có. Không tạo được là một sự sỉ nhục sẽ làm khổ đau cho họ và gia đình đôi khi suốt cả một đời. Sự trưởng thành trong nhận thức của con người cũng là sự trưởng thành của biết bao cách danh vọng. Với người trí thức họ tìm cầu danh vọng theo đường trí thức, qua cách học hành để có được cấp bằng khoa bảng nọ kia, họ sống cuộc đời họ với toàn là danh xưng, với card, với thiệp mời trên đề toàn một dọc những chức vụ quan trọng. Thiếu những cái danh đó thì người ta sẽ rất buồn đau và sẽ cảm thấy cuộc đời chẳng còn một ý nghĩa nào cả.

Từ cổ chí kim, địa vị mẫu nghi thiên hạ vốn là niềm mơ ước, là khát vọng “hóa phượng hoàng” của hầu hết phụ nữ thời xa xưa.

Nhưng cũng chính sức hấp dẫn của ngôi vị dưới một người trên vạn người này, hậu cung Trung Quốc đã trở thành nơi “mưa máu gió tanh”, hiểm ác không kém gì chính trường.

Cũng như nhiều phi tần khác khi nhập cung đều còn rất trẻ, Chiêu Tín được xem là người có chút nhan sắc nên được cháu nội của vua Hán Cảnh Đế là Quảng Xuyên Vương Lưu Khứ vô cùng yêu thích. Tuy vậy, đứng giữa hậu cung có muôn vàn ái thiếp, Chiêu Tín cũng hoang mang lo sợ nhan sắc có thì, qua thời gian sẽ tàn phai và không được ưu ái nữa. Từ đó, Chiêu Tín luôn đang tâm giết hại các phi tần khác, mà không từ thủ đoạn nham hiểm nào hầu giữ vững vị trí ưu ái nhất trong lòng Lưu Khứ. Cũng chính vì lòng ghen ghét đố kỵ thâm độc và tàn nhẫn của bà mà Chiêu Tín để lại một vết nhơ không bao giờ rửa sạch trong lịch sử Trung Hoa về bàn tay vấy máu đánh kinh hãi của mình.

Trước khi sủng ái Chiêu Tín, Lưu Khứ còn yêu thích hai cung tần nữa là Chiêu Bình và Địa Dư. Lòng ganh tỵ của nữ nhân thường tình đã khiến cho Chiêu Bình và Địa Dư bàn mưu tính kế hãm hại Chiêu Tín, nhưng chuyện không thành. Được Chiêu Tín thủ thỉ bên tai những lời ngon tiếng ngọt và thêm dầu vào lửa việc mình bị hai nàng cung tần ám hại, Lưu Khứ liền bắt Chiêu Bình đến hỏi tội.

Chiêu Bình bị dùi sắt đâm vào người đau đớn đến chết đi sống lại, chịu đựng không nổi những tra hình dã man đó nên đành khai ra hết âm mưu. Kết quả thật tàn khốc, người cùng mưu là Địa Dư bị Lưu Khứ cho cung nữ đến dùng kiếm xuyên tâm, xả thịt như giết một con thú hoang. Chiêu Tín chứng kiến Địa Dư chết còn chưa hả dạ, chính mình cầm kiếm đâm xuyên qua người Chiêu Bình, một đao kết liễu tình địch mà không hề mảy may run tay.

Biết mình khó có thể trở thành “là một, là duy nhất” trong lòng một vị vua háo sắc, Chiêu Tín càng trở nên thâm độc hiểm ác khó lường. Bố trí tai mắt khắp nơi để có thể theo dõi ‘nhất cử nhất động” của Lưu Khứ, Chiêu Tín dễ dàng phát hiện ra được ông đang sủng ái ai, và nanh nọc của Chiêu Tín sẽ không buông tha cho kẻ xấu số đó.

Nhận thấy cung tần Ngưỡng Vọng là một ái thiếp đang được Lưu Khứ yêu mến có khả năng loại mình ra khỏi chức vị hoàng hậu nên Chiêu Tín đem lời dèm pha, dùng chiêu “mượn dao giết người”. Ngưỡng Vọng bị vu khống không phải là người hiền trang thục đức, được hoàng thượng yêu thương nhưng không biết hưởng. Vốn là vị vua ngu muội nên Lưu Khứ tin ngay lời dối trá của Chiêu Tín và kéo đến hậu cung trừng phạt Ngưỡng Vọng. Ngưỡng Vọng bị lột hết quần áo và dùng dùi nung đỏ gí vào người khiến nàng đau đớn nên vùng chạy đâm đầu xuống giếng tự vẫn cho xong. Cùng phận nữ nhi, chứng kiến cảnh Ngưỡng Vọng đớn đau nhục nhã, không thương đã đành, Chiêu Tín lại chẳng khác nào quái vật, cho lôi nàng lên, xẻo mũi miệng, cắt lưỡi đem nấu. Chiêu Tín rất hả hê khi bắt các phi tần chứng kiến cảnh mình hạ độc thủ với một con người như đang làm thịt một con vật. Đó cũng là lời răn đe, dằn mặt đáng sợ nhất đối với những ai có ý tranh giành sự sủng ái của quân vương với mình.

Hành động vô đạo của Chiêu Tín sau đó còn lặp lại với nững cung phi khác nhưng chẳng ai dám can thiệp bởi sợ họa lây vong mạng. Giết người không sợ quỷ thần trừng phạt, Chiêu Tín cứ “bổn cũ soạn lại”, giết người chưa hả còn phanh thây xẻ thịt để người chết không toàn thây.

Theo thống kê của các sử gia Trung Quốc, Chiêu Tín là bà hoàng giết người nhiều nhất trong lịch sử, có hơn 14 mạng người.

Tánh hung ác trong người chưa hết,
Thì tai ương mọi việc chưa thôi;
Mỗi người nên để ý coi,
Đời sanh lắm họa do người bất lương.
Nhiều kẻ ác khó lường cho thấu,
Sống như là beo gấu rừng hoang;
Biết mình chẳng biết thế gian,
Gây ra đau khổ muôn ngàn người ta.
Sống như vậy chỉ là một thuở,
Rồi tiêu ma chớ có lâu đâu;
Để cho kẻ oán người sầu,
Trả nay không hết còn hầu trả mai.
Sống thế ấy là đày đọa kiếp,
Chỉ gây thêm ác nghiệp đời mình.
Mưu sinh lại hủy kiếp sinh,
Đời nay lắm kẻ sống tình trạng ni.
Lối sống ấy là đi địa ngục,
Quày đầu mau khỏi lúc sa chân;
Sống không riêng cái hiện thân,
Mà còn phải sống cho phần đời sau.
Muốn sống ở đời nào cũng tốt,
Xét kỹ ra có một con đường;
Ấy là cách sống thiện lương,
Dù người sống ở trong trường hợp nao.
Nếu biết kiếp như bào như ảnh,
Đừng sống theo ác tánh ác nhân;
Nên gìn cách sống chánh chân,
Cho đời sống được có duyên Phật Đài.
Ở cõi tạm nên khai cõi thật,
Trong giấc phàm khá thức tánh phàm;
Sống điều tội lỗi đừng ham,
Xác trần chớ để hồn giam trong trần.
Sống làm chủ cái thân đòi hỏi,
Đừng sống làm tôi mọi cho thân,
Sống cho tánh Phật được gần,
Chớ theo lối sống xa lần Phật Tiên

Trong những cuộc chiến thâm cung tranh giành ngôi hậu, âm mưu đẫm máu và kết cục bi thảm nhất lại thuộc về một Hoàng hậu Hán triều, là Hiếu Tuyên Hoắc Hoàng hậu – Hoắc Thành Quân.

Hoắc Thành Quân, là con gái của Tư Mã đại tướng quân, Bác Lục Tiêu thành hầu Hoắc Quang. Bà cũng là vị Hoàng hậu thứ hai của Hán Tuyên Đế Lưu Tuân – vị Hoàng đế thứ 10 của nhà Hán.

Năm 74 TCN, nhờ sự giúp đỡ của gia tộc họ Hoắc, Lưu Tuân lên ngôi, tức là Hán Tuyên Đế. Lúc bấy giờ, tân đế muốn lập hậu. Các đại thần trong triều bấy giờ tiến cử tiểu thư của đại tướng quân Hoắc Quang là Hoắc Thành Quân.

Trước những lời này, Lưu Tuân không ra mặt từ chối, nhưng quần thần hiểu rằng Hoàng thượng muốn sắc phong cho thê tử kết tóc từ thủa nghèo khổ là Hứa Bình Quân làm Hoàng hậu.

Việc này đương nhiên khiến cho Hoắc gia, đặc biệt là Hiển phu nhân (tức mẹ của Hoắc Thành Quân) vô cùng tức giận. Để “dọn đường” cho con gái lên ngôi mẫu nghi thiên hạ, Hoắc phu nhân bắt đầu bày mưu tính kế phế bỏ Hứa Hoàng hậu.

Không lâu sau đó, triều đình được tin Hứa Hoàng hậu mang thai người con thứ hai. Khi ấy, Hiển phu nhân đã nhanh chóng tranh thủ cơ hội trừ khử hai mẹ con Hoàng hậu.

Vào khoảng thời gian Hứa Bình Quân sắp sinh, vị phu nhân họ Hoắc này đã mua chuộc nữ y Thuần Vu Diễn để hạ độc Hoàng hậu.

Thuần Vu Diễn muốn chồng mình được Hoắc Quang thăng chức nên nhận lời Hiển phu nhân, dùng phụ tử (rễ củ của cây Ô đầu) cho vào thuốc để Hứa Hoàng hậu ăn uống.

Không lường trước được âm mưu nanh nọc của họ Hoắc, Hứa Bình Quân nhanh chóng bị trúng độc và qua đời, mang theo cả người con chưa kịp chào đời đã buông tay trần thế.

Do có sự can thiệp của gia tộc họ Hoắc, Hán Tuyên Đế Lưu Tuân dù căm giận nhưng cũng không thể làm được gì. Thế lực của Hoắc Quang lúc bấy giờ quá lớn, lại là đại tướng quân nắm giữ trọn binh quyền, ngay tới Hoàng đế cũng phải kiêng nể mấy phần.

Sau khi Hứa Hoàng hậu qua đời, Lưu Tuân đành phải thuận theo Hoắc gia, sắc phong Hoắc Thành Quân làm Hoàng hậu. Vậy nhưng, Tuyên Đế vẫn lập con của Hứa hậu là Lưu Thích làm Thái tử.

Chính hành động này của Hán Tuyên Đế đã trở thành mồi lửa châm ngòi một cuộc thanh trừng đẫm máu trong lịch sử Hán triều.

Hai năm sau, đại tướng quân Hoắc Quang lâm bệnh qua đời. Mặc dù trụ cột lớn nhất của gia tộc đã mất, nhưng con cháu họ Hoắc liên tục vào triều làm quan, Hoắc Thành Quân lại đang ở ngôi Hoàng hậu, bởi vậy thế lực của dòng họ này càng được thế bành trướng.

Tuyên Đế từ lâu đã có ý định tiêu diệt họ Hoắc để trừ hậu họa và trả thù cho Hứa Hoàng hậu nên đã ra lệnh điều tra về cái chết năm xưa của Hứa Bình Quân.

Không chỉ vậy, Lưu Tuân còn từng bước triệt tiêu quyền lực của gia tộc này. Ông phong cho Hoắc Vũ (con trai Hoắc Quang) làm Đại Tư Mã nhưng không có thực quyền, đồng thời tước binh quyền của Triệu Bình (con rể Hoắc Quang).

Lúc bấy giờ, Hiển phu nhân lo sợ Lưu Tuân điều tra ra việc mình đã đầu độc Hứa Hoàng hậu, liền liên thủ cùng Hoắc Vũ, bí mật lên kế hoạch trừ khử các đại thần chống đối Hoắc gia và phế bỏ Tuyên Đế.

Âm mưu còn chưa thành, Hoắc gia đã bị Hoàng đế vạch trần tội phản nghịch. Mối thù giết vợ khi xưa chưa trả, nay lại thêm tội danh mưu phản, Tuyên Đế đã ra lệnh xóa sổ cả gia tộc họ Hoắc.

Theo đó, Hoắc Ngẫu bị chém chết tại trận, Hoắc Sơn và Hoắc Vân buộc phải tự sát. Toàn bộ Hoắc gia phải chịu họa diệt môn, có tới hơn 1.000 người liên lụy và bị sát hại, chỉ còn người con rể là Kim Thưởng do biết việc tố cáo nên được xá miễn.

Lúc bấy giờ, Lưu Tuân sai người hạch tội Hoắc Thành Quân:

“Thân làm Hoàng hậu, nhưng lòng dạ hiểm độc, không làm tròn ‘nữ tắc’, nhiều lần mưu sát Thái tử không thành, không có tình nhân ái của người mẹ, không thể hầu phụng Tông Miếu, càng không thể gánh vác ngôi vị Hoàng hậu.”

Hoắc Hoàng hậu lập tức bị truất phế, đày vào lãnh cung Chiêu Thái. Mười mấy năm sau, Tuyên Đế lại hạ chỉ đưa Hoắc Thành Quân xuống ở nơi xa xôi, hẻo lánh có tên Vân Lâm quán.

Một người xuất thân cao quý như Hoắc Thành Quân khó có thể chịu được khuất nhục này. Trong lúc uất ức, bà đã chọn cách tự sát để giã từ cõi đời. Sau khi qua đời, Hoắc Thành Quân được an táng ở Đông đình Tôn Ngô.

Ngôi vị Hoàng hậu đổi bằng tính mạng gia tộc của bà, kết thúc một đời mưu toan và tranh đấu đẫm máu nơi chốn cung đình!

*****

Cũng có lẽ cuộc đời này, và nhất là đối với những xã hội Âu Mỹ ngày nay, những cái danh và bằng cấp đã trở nên quá quan trọng, vì vậy người ta phải chạy theo như một phản ứng tự nhiên không thể nào khác. Con người sống trong xã hội ngày nay chẳng thể lấy sự cứu cánh nào khác ngoài danh vọng, vì chính đó là nền tảng để xây dựng sự thành bại, sung sướng hay khổ đau của cuộc đời. Với người kém học nhưng có nhiều khôn khéo thì họ tìm nó qua tiền rừng –  bạc biển, có tiền là có tất cả kể cả danh vọng và địa vị của xã hội.

Cái thế giới ngày nay dầu đã được tiến hóa đến một mức độ không thể ngờ với những tiến bộ khoa học đáng kể, và sự kiểm soát con người đến mức tinh vi thế mà đồng tiền vẫn có thể mua được tất cả từ bằng cấp này nọ đến cái gọi là quyền cao chức trọng trong chính phủ. Đã có quá nhiều cái nhiêu khê và chuyện đáng tức cười xảy ra cho những người có cái danh mà không có thực chất ở trong cuộc đời này, từ các nơi hành chính của chính phủ, cho đến chỗ buôn bán và trong cả gia đình.

Với những người tâm địa chẳng thiện lương, họ tìm cầu danh vọng qua các thủ đoạn mưu chước, đôi khi vì quá tham cầu chiếm hữu nó, mà họ đã tạo ra bao tội ác làm liên lụy biết bao người. Lúc tâm đam mê danh vọng khởi lên, họ sẽ không từ chối bất cứ những hành động nào dù xấu xa, bỉ ổi thậm chí tán tận lương tâm đến đâu, miễn sao họ có được danh, được nổi tiếng là tốt rồi. Đó là hiện trạng thực tại của cuộc đời, là cái thế giới mà ta đang sống.

Ước mơ danh dự hảo huyền

Ngay từ thời còn đi học, Wanda Webb đã luôn mơ ước được trở thành một thành viên trong đội cổ động với những cô nàng nóng bỏng và xinh đẹp. Bóng bầu dục là một trong những môn thể thao đầy tự hào của bang Texas, và Wanda biết rằng, khi cầm hai cục bông pompom cổ động trên tay, cô có thể chạm tới được danh tiếng và sự ngưỡng mộ mà mình khao khát.

Thật không may mắn, bố của Wanda là một người vô cùng nghiêm khắc, cộng với cái thai “tai nạn” ở độ tuổi còn đi học, cuối cùng đã khiến giấc mơ vinh quang của Wanda tan thành mây khói. Tương lai tươi sáng mà cô từng mơ mộng không còn nữa, thay vào đó là gia đình, là chồng con, là trách nhiệm… Đến sau cùng hôn nhân cũng đổ vỡ, Wanda lại kết hôn với một người đàn ông khác mang tên C.D. Holloway.

Nhìn chung cô vẫn giống như bao người mẹ tận tụy khác ở Texas, nhưng thẳm sâu bên trong cô là một ngọn lửa đam mê, khát khao đến ám ảnh vẫn chưa từng bị dập tắt: đó là phải trở thành một cổ động viên.

Tất nhiên, Wanda giờ đây chẳng còn chút cơ hội nào để thực hiện ước mơ của mình nữa rồi. Cô đành phải đặt đam mê và dồn hết tâm huyết đó để đào tạo cô con gái Shanna, hy vọng cô bé sẽ có thể tham gia vào đội cổ động tại Channelview.

Cô bé Shanna được nuôi dạy để biến giấc mơ của mẹ thành hiện thực. Năm Shanna được 5 tuổi, cô bé đã được mẹ mua tặng một bộ đồng phục cổ động viên đầu tiên. Những năm sau đó, cô bé phải tham gia những lớp thể dục nhịp điệu và những khóa huấn luyện nhảy nhót, nhào lộn đặc biệt của mẹ.

Không chỉ ép con đi học, Wanda còn không ngần ngại diện cho cô bé những bộ đồ đẹp nhất, liên tục tổ chức các buổi tiệc, mời hết các bạn học của con. Lý do rất đơn giản, Wanda muốn Shanna phải là cô gái nổi tiếng nhất trường trung học bởi muốn vào đội cổ động thì cần phải có sự bầu cử của các học sinh khác.

Đến năm 1991, Shanna tham gia ứng cử vào đội cổ động của khối học sinh lớp 8 tại trường trung học Channelview. Bao nhiêu mong mỏi, đợi chờ, cuối cùng Wanda lại nhận được tin Shanna không được chấp thuận. Trong khi Shanna chẳng mấy phiền lòng thì Wanda lại cảm thấy giận dữ và vô cùng thất vọng. Bà mẹ điên loạn chạy đến trường khóc lóc, cầu xin hội đồng trường xem xét lại nhưng cũng không được kết quả gì.

Wanda sau đó mới biết, Shanna bị loại là do biểu diễn không tốt bằng một cô bạn học cùng lớp, Amber Heath. Amber là con của Verna Heath, cũng sống trong cùng khu phố với mẹ con Wanda. Nhiều năm qua, quan hệ giữa Wanda và Verna khá thân thiết. Họ thường xuyên sang nhà nhau ăn tối, thay phiên đưa đón các con đi học. Và vì đây không phải là lần đầu tiên Shanna bị Amber vượt mặt nên càng khiến cho Wanda cay cú. Cô quyết định mình phải làm gì đó để loại bỏ “cái gai trong mắt, cái cây cản đường” này.

Lòng đố kỵ che mờ lý trí, Wanda lập ra một âm mưu giết chết Verna với hy vọng rằng, cái chết của người mẹ sẽ làm cho Amber đau đớn và bị phân tán tư tưởng, từ đó giúp cho Shanna có cơ hội tiến lên.

Wanda đã liên lạc với em trai chồng cũ, Terry Lynn Harper, nhờ tìm giúp một sát thủ. Xui xẻo cho Wanda, Terry lại đang trong thời kỳ bị cảnh sát giám sát do một lần lái xe say xỉn. Sau khi nghe lời đề nghị của bà chị, Terry không muốn có thêm bất cứ rắc rối với luật pháp nào nữa, đã lập tức đến sở cảnh sát trình bày hết mọi chuyện. Bên cạnh đó, bản thân Terry ngày xưa đã từng bị Wanda đổ tội quấy rối tình dục lên đầu, tất nhiên “mối thù” đó làm sao anh ta có thể quên.

Theo sự sắp xếp của cảnh sát, Terry đeo một camera bí mật đến gặp Wanda bàn chuyện. Wanda gợi ý cho Terry bắt cóc và bán Verna làm nô lệ. Ban đầu cô còn đòi cả hai mẹ con Amber và Verna đều phải chết tuy nhiên Terry bắt phải trả giá tiền gấp đôi nên Wanda quyết định chỉ giết bà mẹ là đủ.

Trung sĩ Flint Blackwell của phòng cảnh sát hạt Harris cho biết: “Cô ấy muốn cả đứa con gái cũng chết thì tương lai của Shanna sẽ không còn lăn tăn gì nữa. Nhưng rồi cô ta nghĩ, chỉ cần bà mẹ chết thì đứa con đã đủ suy sụp và không còn cản đường con gái mình nữa”.

Sau khi đã thương lượng giá cả mua mạng sống của Verna, Wanda đến nhà Terry, đưa cho anh ta một đôi bông tai kim cương đắt tiền xem như tiền cọc. “Tuy tôi không thể tự tay siết cò, nhưng tôi có thể đảm bảo mọi chuyện phải xảy ra như vậy”. Nhân chứng vật chứng có đủ, chỉ vài giờ sau đó, Wanda đã bị cảnh sát vây bắt.

Âm mưu giết người của Wanda đã khiến cho cả khu phố vô cùng kinh hãi. Họ đặt cho cô một cái tên đúng như đam mê của mình, “mẹ pompom”.

Trong phiên tòa xét xử, Wanda cho rằng mình nên được cho một cơ hội thứ hai. Cô khóc thút thít trước tòa nói: “Vụ ra tòa này đã là một sự trừng phạt lớn đối với tôi rồi. Tôi thật sự quá xấu hổ”.

Wanda vì tội âm mưu giết người phải chịu hình phạt 15 năm tù giam. Tuy nhiên sau đó hình phạt giảm xuống chỉ còn 10 năm tù giam và 10.000 USD tiền phạt. Cuối cùng, thẩm phán quận tuyên bố, Wanda chỉ bị phạt tù 6 tháng và chịu quản chế của cảnh sát trong 9 năm và 6 tháng tiếp theo.

Tòa án cũng yêu cầu Wanda từ sau này không bao giờ được tiếp xúc với nhà Verna hay Terry nữa.

Sau khi Wanda được thả ra, Verna nói: “Dù gì công lý đã được thực hiện. Tôi không mong Wanda sẽ bị nhốt cả đời ở trong tù”.

Tình yêu thương con của Wanda Holloway, câu chuyện từ lòng đố kỵ và một ảo tưởng xa vời biến thành động lực lập mưu giết người của cô sau này được tái hiện nhiều lần qua các tác phẩm phim ảnh và tiểu thuyết như: The Positively True Adventures of the Alleged Texas Cheerleader-Murdering Mom, Willing to Kill: The Texas Cheerleader Story, Momsters: When Moms Go Bad, Mother Love, Deadly Love.

Vạn vật dưới bóng trời mọc lặn,
Có vật nào mà đặng thật đâu.
Bị tiêu mòn hoặc sớm hoặc lâu,
Không có một vật nào tồn tại.
Phải tìm chỗ trường sanh bất hoại,
Chớ ngồi đây chịu mãi tử sanh.
Kiếp người đầy giả dối hôi tanh,
Xem như thật mà không phải thật.
Xác thân của người còn phải mất,
Thì trong đời có vật nào còn.
Biết vật chi rồi cũng tiêu mòn,
Cứ đeo đắm là không sáng suốt.
Nên mở hết sự đời trói buộc,
Để làm cho rảnh kiếp vô thường.
Sống lâu dài như Phật Tây Phương,
Thân ấy mới là thân chơn thật.
Thân hiện tại có ngày phải mất,
Bởi nó là giả chất cấu thành.
Đâu bằng thân sen báu thai sanh,
Vô số kiếp thơm lành bền bỉ.

Đức Phật với giáo lý trí tuệ và từ bi Ngài đã soi sáng cho chúng sinh trong mọi vấn đề để tâm hồn được an lạc, cuộc sống thực sự đạt được hạnh phúc và có ý nghĩa hơn. Nếu có sự tôn sùng cao cả nào nhất để chúng ta đặt trọn vẹn niềm tin hướng về, nếu có giáo lý nào duy nhất trong cuộc đời để chúng ta nương theo, thì đó chính là Đức Phật và giáo lý của Ngài cũng như gương hạnh của chư vị Tổ Sư.

Chính Ngài và Phật pháp đã khai mở tâm chúng ta, cho chúng ta thấy được điều đáng thấy, biết được điều đáng biết để cho mình biết cách sống tốt hơn, một đời sống làm người. Còn chẳng thế, thì không biết cuộc đời chúng ta sẽ trôi dạt về nơi nào trong cái nhìn, cái thấy và hiểu biết của vô minh nghiệp chướng. Nhìn cuộc đời với muôn triệu con người đang sống trên danh, trên lợi và trên bao nhiêu nghiệp chướng mà họ đang tạo ra, bao nhiêu khổ đau đang chờ đón, bất giác chúng ta bỗng cảm thấy rùng mình sợ hãi!

Nếu trong quá khứ chúng ta không có gieo những duyên lành thiện căn, thì giờ đây làm sao chúng ta gặp được Phật pháp, mà nếu không gặp được Phật pháp, thì chắc gì giờ đây chúng ta không lặn ngụp trong biển ái bờ mê như muôn vàn những con người khác. Lặn ngụp như vậy thì chắc gì sẽ không bị đọa lạc trong các cõi xấu ác một khi thân người này hoại diệt. Cũng do trí tuệ, tình thương và sức đại hùng Ngài đã ban cho chúng ta, mà chúng ta có đủ sức nhẫn, trí tuệ và ý chí nghị lực để dũng mãnh bước trên con đường đạo hầu có thể làm lợi lạc cho mình và cho người, mà không bị mồi danh bả lợi câu nhử, tàn hại!

Đừng để cho thị dục lừa mình,
Cũng tránh thứ cảm tình dụ dỗ.
Thấy vui phải nhớ ngay việc khổ,
Biết thương thân phải độ lấy thân.
Đem lợi danh cung phụng xác trần,
Chỉ là việc nuôi ong tay áo.
Danh mà chẳng danh là chánh đạo,
Lợi mà không lợi háo mới chơn.
Xác phàm phu mà dạ Thánh Nhơn,
Ở trong tục nhưng lòng tại ngoại.
Tánh ác lấy lòng từ đổi lại,
Tình yêu riêng đem cải yêu chung.
Thà đói nghèo việc quấy bất tùng,
Cam rách lạnh chớ không lừa đảo.
Không những đối người nhà ngay thảo,
Đối với ai cũng hảo tấm lòng.
Người lạ quen đều xử chí công,
Biết tha thứ hơn lòng cố chấp.
Các việc ấy chú tâm rèn tập,
Lợi danh đâu dẫn dắt đường tà.
Đừng quên rằng giúp đỡ người ta,
Tức là việc giúp cho mình đấy.
Của người khác mà mình cướp lấy,
Chính là mình phá hoại của mình.
Sách có câu: “Trời rộng thinh thinh”
Mà chẳng lọt mảy lông” khá nhớ.
Tưởng ích kỷ ruộng vườn rộng mở,
Có ngờ đâu thêm nợ lâu đời.
Bữa nay cười để chịu khóc mơi,
Đa số kẻ sống đời như thế.
Tham danh lợi lỗi lầm bất kể,
Mê sắc tài tội lệ chẳng màng.
Ấy phần đông của kẻ thế gian,
Chịu thống khổ nguyên nhân vì đó.
Thân tứ đại cuối cùng phải bỏ,
Tạo tác chi việc khổ vào mình.
Sướng nhứt thời để khổ hằng nghìn,
Là việc của chúng sanh thường tạo.
Nuôi thân sống bằng vô nhân đạo,
Thân sống kia trên giáo trên gươm.
Đâu an toàn, đâu được quí thơm,
Mà lắm kẻ to mồm khoe sất.
Đời đã thấy sớm còn tối mất,
Càng bất lương càng chuốc họa sầu.

Chặng cuối của con đường danh vọng sẽ đưa người ta đi đến đâu? Sự tìm kiếm, mong mỏi, hy vọng, lo âu để được những gì và nó có giá trị lâu bền là bao? Cái sung sướng đạt được chiếm hữu ấy kéo dài được bấy nhiêu năm tháng nếu không vượt quá một đời người! Cái danh vọng mà con người chúng ta tưởng là tốt đẹp, bền chắc và mang đầy ý nghĩa của một thời tranh nhau để có, sẽ tạo nên được những gì và có trường tồn trong cuộc đời này hay không? Xét cái vô tận của trời đất, xét cái không cùng của không gian bỗng nhiên không khỏi hốt hoảng kinh hoàng, thấy nó thật là vô vị và vô cùng mong manh và giả tạo làm sao!

Nếu ngày xưa con người vì danh vì vọng mà quên hết tình nghĩa để sát phạt chét giết lẫn nhau, thì ngày nay, xã hội con người đạt đến những điểm cao của sự văn minh và tiến bộ, họ giải quyết vấn đề này cũng chẳng tốt đẹp và cao thượng hơn là mấy, đôi khi vì tranh giành mà họ còn nhẫn tâm nhiều hơn! Phải chăng tự bản chất của danh vọng đã là cái xấu xa tội lỗi, nên những hành động truy tìm nó cũng tạo nên những phản ứng tương tự. Cứ mỗi lần xem tin tức, đọc báo thì người con Phật hay kẻ có lòng dạ thiện lương không ai mà chẳng cảm nghe đau buốt con tim. Những người cầm quyền thì muốn mãi giữ danh vọng và quyền uy của mình, kẻ chưa được thì mong và tìm cách chiếm hữu sao cho có được bằng đủ mọi cách có thể, từ hủy nhục cho đến tìm phương cách bạo động lật đổ. Phật giáo dạy cho ta biết rõ về bản chất của danh vọng, cũng như những sự khổ kéo theo khi người ta đắm nhiễm mưu tìm!

Ở đây sẽ có ba trạng thái khổ, một là khi chưa có danh vọng nên người ta cần phải tìm và dùng đủ mọi cách để cho có được danh vọng; đây là cái khổ chưa được cầu cho được. Ví như để có được quan chức, địa vị, bằng cấp nọ kia người ta phải ra công nỗ lực học hành, phải vất vả lo nghĩ, hy vọng đuổi tìm, lắm khi phải mưu mô, thủ đoạn mới mong chiếm được những địa vị và danh vọng mà họ muốn.

Hai là, khi được rồi người ta phải lo lắng giữ chặt và bảo vệ nó; đây là cái khổ của lo lắng, sợ hãi. Ví như khi có được danh vọng như: bằng cấp nọ kia, quan chức cao, vàng bạc tài sản dồi dào… họ phải lo gìn giữ nó không để mất mát. Trong giai đoạn này có rất nhiều người ghen ghét, ganh tị nên tìm cách nói xấu và ám hại họ, do đó những người có danh vọng hay sợ hãi bị giết chóc, bắt cóc, thủ tiêu và bị chưởi bới.

Ba là, khi bị mất đi những thứ yêu thích, họ sẽ bị khổ sở, sầu muộn, tuyệt vọng, chán chường và hối tiếc; đây là cái khổ khi bị mất danh vọng. Ví như những người khi bị cách chức, bị mất ghế, bị sa thải, họ đều phải chịu sự khổ đau với tâm tư bị hành hạ, dày vò, ray rứt và mang nhiều hối tiếc, cuộc đời họ như đã tan vỡ và họ sẽ chẳng thấy vui thú gì để sống trên trần gian này nữa, nên thường tìm cách kết thúc sinh mạng của mình bằng biện pháp nhảy lầu hoặc bằng chay thuốc an thần với số lượng cao.

Nói vậy cũng không phải là để bài bác và chê bai những cái mà con người ta từng theo đuổi kiếm tìm danh vọng, mà nói để hiểu rõ về thực chất của nó, để ta khỏi vướng mắc và khổ lụy về nó. Con người cũng cần có danh lắm chứ, nhưng có danh và hiểu rõ về bản chất thực sự của danh trong cái nhìn trí tuệ, thì ta sẽ bớt khổ đau nhiều lắm. Vì sao? Vì danh kia khi tìm kiếm, hy vọng, mong đợi thì rất khó được, nhưng được rồi thì dễ chóng tàn, khi đã tàn, đã mất thì sự khổ đau không cùng – nếu thiếu trí tuệ sẽ mãi mãi hiện hữu trong ta như một vết thương đau nhức. Trong  kinh Tứ thập nhị chương Đức Phật có nói rằng:

“Người thế gian suốt một đời theo đuổi tìm cầu danh vọng, nhưng khi được thì thân đã già suy. Tham danh lợi thế gian mà không lo học đạo thì thật là uổng công nhọc xác, ví như lửa đốt nhang thơm, khi ta ngửi được mùi hương thơm thì cây nhang cũng đã hóa thành tro tàn. Danh tiếng lừng lẫy vang xa cũng như ngọn lửa đốt cháy thân này ở ngay sau lưng mình đấy”.

Xưa vì chưa rõ tục Tiên,
Đến nay còn vấn trong miền trần ai.
Giờ đã hiểu đâu dài đâu ngắn,
Cũng nên lo cho đặng siêu phàm;
Của trần chớ bận lòng tham,
Từ lâu tham nó đâu làm chi nên.
Tham vốn là căn nguyên sự khổ,
Tham là mồ vô số sanh linh;
Tham danh, tham lợi, tham tình.
Càng tham càng thấy lòng mình không an.
Tham khi được rồi toan lo giữ,
Rủi mất đi sanh sự rầu buồn,
Trong lòng cứ rạo rực luôn;
Phải là tham vốn cội nguồn khổ chăng?
Tham thì gian kế sang đến tội,
Tội vốn là nguồn cội tử sanh;
Bao nhiêu khổ ách hoành hành,
Do lòng tham đắm nảy sanh phần nhiều.
Vậy rán bỏ đừng chiều nó nữa,
Để cho lòng thường bữa được yên;
Những nào túc trái tiền khiên,
Chỉ là lo trả lòng nguyền không gây.
Chịu cay đắng giồi mài chánh đạo,
Hẹn một đời trực đáo Tây Phương
Vua lòng tay tự cầm cương,
Thắng con ngựa ý trên đường xa xôi;
Không mỏi dạ trước ngôi Phật điện,
Chẳng lảng tâm khi niệm Di Đà;
Huệ lòng ắt được trổ hoa,
Đạo mầu sẽ đắc Phật tòa được lên

Ngô Khởi giết vợ cầu quan

Ngô Khởi vốn người nước Vệ, lúc bé còn ở trong làng, Ngô Khởi thường bị mẹ trách mắng về tội du đãng, hay chơi nghề đánh gươm. Hôm nọ bị mẹ mắng,  Ngô Khởi liền cắn cánh tay chảy máu ra mà thề với mẹ rằng:

– Từ nay trở đi, con xin từ giã mẹ, đi học phương khác. Nếu không làm nên khanh tướng, lên xe xuống ngựa, cờ mở trống giống, thì con quyết không về nước Vệ trông thấy mẹ nữa!

Người mẹ khóc mà bảo ở nhà. Ngô Khởi chẳng ngoảnh cổ lại, cứ việc ra thẳng cửa Bắc, đi sang nước Lỗ, xin học với Tăng Sâm, là một học trò giỏi của Khổng Tử.

Ngô Khởi ngày đêm chăm chỉ, không quản khó nhọc. Quan Đại Phu nước Tề là Điền Cư đến nước Lỗ nghe nói Ngô Khởi là người ham học mới thử hỏi chuyện thì thấy ứng đối trơn tru như nước chảy liền gả con gái cho. Ngô Khởi học Tăng Sâm được mấy năm, Tăng Sâm biết là nhà Ngô Khởi còn có mẹ già, mới hỏi rằng:

– Ngươi đi học đã lâu ngày, mà không về thăm mẹ thì sao cho đành lòng?

Ngô Khởi nói:

– Con đã thề rằng nếu không làm nên khanh tướng thì không trở về nước Vệ nữa!

Tăng Sâm nói:

– Đối với người khác thì mới nên thề, còn đối với mẹ thì thề sao được!

Từ bấy giờ Tăng Sâm thấy rõ tâm địa của Ngô Khởi quả thật không thiện lương. Chưa được bao lâu, có tin đồn rằng mẹ Ngô Khởi đã chết, Ngô Khởi ngửa mặt lên trời kêu to ba tiếng, rồi lại chùi nước mắt mà đọc sách như thường. Tăng Sâm giận mà nói rằng:

– Ngươi không về để tang mẹ, thế là người quên gốc! Nước không nguồn thì tất phải kiệt, cây không gốc thì tất phải gãy, người mà không gốc thì sống sao đuợc! Ngươi không phải là học trò ta!

Tăng Sâm sai học trò đuổi Ngô Khởi ra, không cho học nữa. Ngô Khởi bỏ đạo nho, đi học binh pháp. Trong ba năm, học đã thành nghề, mới xin làm quan ở nước Lỗ. Nước Tề đánh nước Lỗ, vua nước Lỗ muốn dùng Khởi làm tướng, vợ của Khởi là con gái nước Tề, người nước Lỗ nghi ngờ Khởi, Khởi bèn giết vợ để xin làm tướng, rồi đại phá quân Tề. Có người gièm pha Khởi với Lỗ hầu rằng:

– Khởi ban đầu thờ Tăng Sâm, mẹ chết không về chịu tang, bị Tăng Sâm tuyệt giao; nay lại giết vợ để xin làm tướng cho nhà vua. Khởi, là người tàn nhẫn, hành vi bạc bẽo vậy! Vả lại nước Lỗ cỏn con mà có cái tiếng thắng địch, thì chư hầu sẽ mưu diệt nước Lỗ thôi.

Khởi sợ đắc tội, nghe tiếng Ngụy Văn hầu cầu bậc hiền tài, bèn đến quy phục. Văn hầu đem việc hỏi Lý Khắc, Khắc nói:

– Khởi tham lam lại háo sắc; nhưng có tài dùng binh, Tư Mã Nhương Thư cũng chẳng hơn được vậy.

Vì thế Văn hầu dùng Khởi làm tướng, đánh nước Tần, hạ được năm thành.

Khởi lúc làm tướng, ăn mặc cùng hạng với người lính bậc thấp nhất, ngồi không bày chiếu, đi không cưỡi xe, tự mình đeo vác lương thực, cùng binh sĩ chia sớt lao khổ nhọc nhằn. Có tên lính bị mụt nhọt độc, Khởi dùng miệng mình hút mủ giúp cho. Mẹ người lính nghe biết được chuyện ấy thì khóc lóc thảm thiết. Có người hỏi:

– Con bà, là binh lính, mà Tướng quân tự mình hút nhọt cho nó, khóc vì nỗi gì?

Người mẹ ấy nói:

– Vì trái lẽ thường vậy. Năm ngoái Ngô Tướng quân hút nhọt cho cha nó, cha nó dốc lòng chiến đấu chẳng trở gót, rút cục chết ở đất địch. Nay Ngô Tướng quân lại hút nhọt cho con ông ấy, thiếp chẳng biết nó sẽ chết ở đâu nữa, vì thế khóc nó!

Bà mẹ của tay sĩ tốt kia quả là bậc hiền minh, chẳng khác gì mẹ của Mạnh Tử khi nhìn thấu cốt lõi của vấn đề. Một người mà đối với mẹ không hiếu thuận, đối với vợ không tình nghĩa, mà lại thương yêu kẻ khác là trái với thường đạo, tức là sự quan tâm chăm sóc đó là giả dối. Bởi bà biết rằng, sau khi được sếp tự mồm hút mủ, ngoài nguy cơ nhiễm trùng, cậu con trai của mình sẽ bị tiêm vào não ý thức: sẽ hy sinh tính mạng không cần đặt vấn đề, giống hệt người bố của mình. Ngô Khởi vốn là kẻ sành sỏi tâm lý người đời, nghĩ rằng cái miệng của mình hút mủ vốn quen, kiểu gì cũng phát huy tác dụng, nào ngờ chỉ khác chuyện gặp phải người mẹ tỉnh đòn mà thôi.

Về sau Ngô Khởi sang nước Sở, được vua Sở là Điệu Vương trọng dụng, phong làm tể tướng. Ngô Khởi nêu rõ pháp luật, ra lệnh thi hành bỏ những chức quan không cần thiết, bỏ không chu cấp cho những người họ nhà vua đã xa đời, để hậu đãi nuôi dưỡng những người chiến đấu, cốt làm cho quân mạnh… Ngô Khởi đã giúp nước Sở giàu mạnh. Kết quả: phía nam bình định Bách Việt, phía bắc lấy đất Trần, đất Thái, cự tuyệt Tam Tấn, phía tây đánh Tần.

Các nước chư hầu lo sợ Sở mạnh, những người quí tộc nước Sở ngày trước do hiến pháp của Ngô Khởi mà quyền lợi của họ đã bị tước đoạt, nên rất căm hận đều âm thầm tìm cơ hội để ám hại ông.

Đến khi Điệu Vương mất, các đại thần, tôn thất làm loạn đánh Ngô Khởi, ông bèn chạy đến nấp bên thây vua. Nhưng cuối cùng ông vẫn bị những người nổi loạn bắn và đâm chết. Đây là cái kết của hành vi tham lam danh vọng, tự tư tự lợi, chỉ nghĩ đến mình!

Muốn danh phải giữ chánh danh,
Nếu danh không chánh họa sanh đến mình.
Chánh danh không kẻ nào kình,
Tà danh dẫu có giữ gìn cũng tiêu.
Chánh danh người đến khỏi kêu,
Tà danh gọi chẳng ai theo bao giờ.
Chánh danh thiên hạ được nhờ,
Tà danh thiên hạ như cờ tống ôn.
Chánh danh mới thật là khôn,
Tà danh chỉ gọi là phồn đại ngu.
Ngu như kẻ khát uống dầu,
Ngu như lũ bướm bay vào đèn chong.
Điều chi trái với lẽ công,
Mạnh như Hạng Võ cũng không lâu dài.
Được quyền chớ hiếp hại ai,
Hại người nhứt định quyền oai không còn.
Lấy tình của mẹ thương con,
Để thương người khác oán hờn sẽ không.
Sống trong tâm đức đại đồng,
Trên không ai oán dưới không ai thù.
Sáng đừng lừa gạt kẻ mù,
Khôn đừng lợi dụng người ngu hơn mình.
Gạt mù sẽ hóa ra manh,
Lừa ngu sẽ bị trở thành người ngông.
Được thông dạy kẻ chưa thông,
Vui cùng đồng hưởng khổ cùng đồng chia.
Mẹ con tình ấy không lìa,
Người đâu cũng mến Trời kia cũng chìu.

Con người nếu không có sự tu học và thấm nhuần chất liệu trí tuệ nơi Phật pháp, thì thật khó lòng dửng dưng đối với cái danh vọng trên trần đời. Ai dám làm người chịu tách mình ra khỏi cái biển người đang chen nhau trong mê hồn cung đấy, có chăng là người ấy phải có một nhận thức sâu sắc về tính vô thường, giả tạo của cuộc đời, mới có thể sống an nhiên tĩnh lặng mà ngoái nhìn thiên hạ đua tranh. Để có được sự hiểu biết và thâm nhập thật sâu về lý vô thường, thì ai đây nếu không là những người đi vào các con đường đạo hạnh. Nhưng việc này  không dễ vì ngay cả những người chuyên tu cũng thấy lao xao trong lòng, do không được tu học đúng nghĩa, do không giữ vững sự phát tâm chân chánh ban đầu, nên người ta lấy Phật pháp làm con đường tiến thân cho danh vọng và sự nghiệp, có lúc cũng đi tìm kiếm, cũng tự hào với cái danh cái chức vị nọ kia trong đạo.

Thật ra những ước vọng thầm kín trong mỗi con người là thích được người khác chú ý, tôn trọng và kính nể; dù người đó là một người thường hay một người tu. Có những danh vọng và chức vị nhỏ người ta muốn được tôn trọng và kính nể theo mức độ nhỏ; có danh cao, chức lớn thì người ta cũng muốn người khác biết đến và kính nể nhiều hơn. Thế nên theo thời gian tu hành nhiều năm, có phẩm bậc cao hơn thì người tu muốn được xem trọng cũng là chuyện thường tình; nhưng nếu lấy Phật pháp làm thước đo cho việc này, thì việc mong muốn được người tôn kính và trọng nể nhiều hơn qua lâu năm tu hành; thì đây quả là một mong muốn của bản ngã do thiếu chất liệu tu hành mà ra.

Khi không tu hành thật sự thì người ta sẽ thấy cái danh vọng này là thật có, thấy có mình đáng hưởng cái danh này và thấy cuộc đời là thật và thường tại. Chỉ có cái nhìn và thấy như vậy thì người ta mới ham cái danh hão huyền để phải mừng, phải vui và tìm cầu chạy theo nó, để rồi phải lo phải buồn phải sầu phải khổ vì nó. Còn nếu luôn luôn nghĩ đến sự tu hành, nghĩ đến sự khổ não của chúng sinh mà hằng khởi những niệm từ, tâm bi mong cứu độ mọi loài, thường nghĩ đến giải thoát thì sẽ đâu ham những cái danh giả tạo mà người khác ban tặng cho.

Nếu có những hành động nào cao cả và đẹp đẽ nhất trong sự gạt bỏ và chối từ danh vọng cuộc đời, để ta lấy đó làm gương mà noi, thì đó là hành động ra đi của Đức Phật. Có ai có danh vọng và quyền lực hơn Đức Phật thuở bấy giờ, có ai có đầy đủ cuộc sống và sung sướng như Ngài vậy mà Ngài vẫn chối từ và thản nhiên ra đi. Trong kinh Tứ thập nhị chương Đức Phật nói:

“Ta coi ngôi vị vương hầu như bụi qua kẻ hở; coi vàng ngọc châu báu như ngói gạch; coi lụa là như vải thô; coi đại thiên thế giới như hạt tiêu… ; coi thịnh suy như cây bốn mùa”.

Ngày xưa có hai anh em đều xuất gia học đạo. Người anh thường nghĩ đến việc hành thiền, chuyên tinh tu hành, chẳng bao lâu chứng được đạo quả A-la-hán thanh tịnh, thấu triệt sáu pháp thần thông. Người em chỉ nghĩ đến việc học rộng nghe nhiều, ưa thanh danh, muốn mình được vẻ vang. Người anh khuyên bảo em:

–Thân người khó được, gặp Phật ở đời cũng không phải dễ. Đã được thân người, nên quý thời gian, siêng năng tu tập để giải thoát sinh tử luân hồi!

Người em nói với anh:

–Chúng ta cần phải học hết ba tạng Kinh, Luật, Luận đủ khả năng làm thầy người mới tập hành thiền.

Người anh lại vì em nhắc nhở ý nghĩa vô thường: “Thở ra mà không hít vào là đã thuộc về đời sau.” Người em cứ giữ lấy ý nghĩ của mình, không chịu nghe theo lời dạy. Sau đó không bao lâu người em mang bệnh nặng, rất nhiều lương y nổi tiếng cũng bó tay không thể cứu chữa. Các thầy thuốc thấy bệnh không qua khỏi nên lần lần bỏ đi. Người em rất sợ hãi, tự biết mình sẽ chết, bèn nói với anh:

– Tại em ngu si không nghe lời anh dạy, nay sắp chết, không biết sẽ đi về đâu?

Người em nước mắt chảy dài hướng về người anh mà hối lỗi. Sau đó không lâu người em mạng chung. Người anh liền nhập thiền định, quán xét chỗ thác sinh của em, thấy người em được đầu thai trong nhà vị trưởng giả. Nhà vị trưởng giả cũng gần chùa, nên người anh thường đến nhà làm Thiện tri thức, muốn độ người em.

Khi chú bé, con vị trưởng giả đã được ba tuổi, họ đem vào chùa xin quy y làm đệ tử. Đến bốn tuổi, người vú nuôi bồng đến thăm thầy ở trong chùa. Vì chùa ở trên núi cao, phải lót đá làm đường đi lên, bà vú nuôi bồng chú bé không vững, lỡ tay rơi xuống, lộn nhào, đập đầu vào đá vỡ sọ chết. Khi chú bé lâm chung, tâm sinh ác niệm vì giận bà vú kia bồng lêu lỏng đến nỗi phải mang họa. Do nhân duyên sinh khởi sân hận, nên khi mạng chung liền bị đọa trong địa ngục lớn.

Người anh lại nhập định, quán xét thấy em bị đọa vào địa ngục, người anh chỉ biết than thở và đành chịu, không còn giúp được gì: “Chư Phật nếu gặp người không có nhân duyên còn không thể cứu độ, huống gì ta, cũng đành chịu thôi vậy!”

Thân còn tạm huống gì chung đỉnh,
Vật trên đời đâu đặng dài lâu;
Vì mến yêu mà phải ưu sầu,
Xưa đã thế nay đâu khác được.
Hãy nhìn thẳng tấm gương kẻ trước,
Danh lợi bao tình dục dường bao;
Đến nay đâu tồn tại người nào,
Người và vật đều tiêu mất cả.
Ham muốn ấy chỉ gây khổ quả,
Hết đời nầy dẫn cả đời kia:
Kiếp rồi mê kiếp tới cũng mê,
Cứ như thế không hề dứt khổ.
Mắt từ bi xem qua các chỗ,
Cõi thế gian đâu đó như nhau;
Được tỉnh ra có mấy ai nào,
Còn say gục biết bao nhiêu kẻ.
Nay được có Phật khuyên đủ lẽ,
Rán tưởng tin mạnh mẽ lo tu;
Đừng đem lòng mê muội dại ngu,
Vui ngồi mãi trong tù đến chết.

Nếu những người tu hành vì lòng từ bi thương xót thật sự với những nỗi khổ đau và mê lầm của cuộc đời, nên xông xáo lao vào cõi trần tục này để cứu độ mọi người, thì cái động cơ tâm lý ấy quả thật đáng tán thán và đảnh lễ. Nhưng nếu để lao vào cuộc đời này với mục tiêu có được những danh vọng, sự tôn kính và cúng dường thì dù những việc làm Phật sự, hoằng pháp lợi sinh kia mang ý nghĩa cao cả bao nhiêu đi nữa cũng là vô ích, vì nó đưa đẩy người tu ấy vào đường danh lợi chẳng khác gì thế gian!

Ngày nay, những người tu có thể nhân danh những cấp bằng cao học, hay tiến sĩ để vươn mình ra đời, làm việc Phật sự lợi ích cho chúng sinh. Nhưng liệu những cấp bằng cao học, tiến sĩ ấy có đủ làm đại diện duy nhất cho tâm Bồ đề, tâm từ bi thương xót muốn thật sự cứu độ các chúng sinh hay không? Xã hội con người ngày nay là xã hội của danh và vọng, ai không có danh vọng người đó không được tôn trọng và nể vì, thế nên con người ta đua nhau truy tìm nó và gán lên người đủ thứ các chức vị, thanh danh. Nếu để đi vào cuộc thế và song song hành đạo giữa những người có nhiều danh vọng, mà người tu phải phương tiện dùng cái danh học, danh tu của mình để cảm hóa và nhiếp phục mọi người thì điều ấy chẳng trái; nhưng nếu lấy đó làm phương tiện tiến thân để có lợi, được danh, thì thật là sai hẳn cái mục tiêu mà người tu ấy đã phát nguyện lúc ban đầu.

Chớ ham việc lợi danh mang họa.
Bụng khi đói ngậm mồi khó nhả,
Nghèo gặp tiền chẳng mó dễ chi.
Cá mắc câu cũng bởi thế ni,
Người phạm tội cũng vì lẽ ấy.
Khi thèm khát nhịn đi ít thấy,
Lúc say mê dừng lại mấy ai.
Phần đông theo sở dục hằng ngày,
Muốn chi cứ làm ngay chẳng xét.
Biết chúng ghét vẫn làm cho ghét,
Không cần ngày mai mốt ra sao.
Để cho lòng tham dục túng thao,
Hiện thời có biết bao nhiêu kẻ.
Có vợ chính muốn thêm hầu lẻ,
Được tình nhân muốn bẻ thêm duyên.
Thấy lòng người không lúc nào yên,
Sự ham muốn lưu chuyền như vượn.
Chữ tài sắc lòng hằng mơ tưởng,
Việc lợi danh mở miệng nói luôn.
Nợ hồng trần chẳng lúc nào suông,
Tâm trí mãi điên cuồng danh lợi.
Xong tội nọ tội kia liền tới,
Hết tù này kế đổi lao kia.
Tự khóa thân rồi tự liệng chìa,
Cứ như thế kéo lê kiếp sống.
Đời này chẳng làm nên trò trống,
Kế đời sau cũng hỏng hư luôn.
Đã trải qua số kiếp dư muôn,
Nào khác giống dã tràng xe cát.
Tưởng là giấu được điều tội ác,
Đâu ngờ gây nên kiếp trầm luân.
Lo thân mà trái lại hại thân,
Chỉ một khổ làm thêm mười khổ.
Bị mọi cảnh trần gian cám dỗ,
Làm mê tâm của kẻ tham lam.
Gần xuống mồ lòng vẫn còn ham,
Đeo danh lợi như sam khó gỡ.
Cũng vì thế mà không hết nợ,
Vừa chết xong liền trở lên ngay.
Vay đâu thì trả đó không sai,
Kể sao hết hình hài quả báo.

4/-  Ăn uống

Trong cuộc sống chúng ta thường chỉ lo ăn với uống cho đó là vấn đề chính yếu. Tối ngày chúng ta làm lụng vất vả chỉ để ăn với uống sao cho ngon miệng nên ta phải giết hại các sinh vật rồi tham đắm, dính mắc vào đó mà chịu quả báo xấu khi đủ nhân duyên. Ăn thì phải món ngon vật lạ hoặc cao lương mỹ vị.

Tại sao ta phải giết chết các loài vật để ăn trong khi ta không cần giết chúng, mà vẫn có sự sống nhờ các loài hoa màu bằng thảo mộc, chúng vẫn có thể giúp ta giữ được sức khỏe và hạn chế tối đa việc làm tổn thương các loài có tình thức? Nếu sự sống của con người vẫn được tồn tại mà không làm chết các sinh vật khác thì cuộc đời an vui, hạnh phúc biết bao!

Tại sao con người giết sinh vật để ăn? Từ khi loài người có mặt trên thế gian này họ chỉ ăn các loại cây trái và hoa màu thiên nhiên. Lúc đầu, loài người chỉ ăn các loại nấm, hạt, hoa, lá, củ, quả, cây, nghĩa là chỉ ăn thức ăn bằng thực vật mà thôi, nhưng dần dần con người ăn thịt cá là do bắt chước các loài dã thú ăn nuốt lẫn nhau.

Nhìn từ góc độ triết lý học Phật giáo, chúng ta thấy vô vàn, vô số địa ngục khác như các bệnh viện phòng cấp cứu, các nhà bếp của mỗi gia đình, các quán nhậu, các lò sát sanh, các chợ bán thịt cá, heo, bò, gà, vịt, các loài hải sản và cuối cùng là các nhà lưới bẫy đánh bắt.

Mỗi một ngày, vô số các loài bị phanh da xẻ thịt để cung cấp phục vụ cho loài người. Nhìn ở góc độ địa ngục trần gian, chúng ta còn có thể hình dung địa ngục trong tâm thức mỗi người, đó là tâm toan tính hại người, hại vật hoặc bị phiền não chi phối gọi là địa ngục tâm thức. Người tu nếu đạt đến giác ngộ giải thoát thì tâm sẽ an nhiên, tự tại dù thân có bị hành hạ, đau nhức chi phối.

Nên tự giác ngộ, nếu tham đắm mùi vị thơm ngon thì tương lai mình phải nhận chịu bao nhiêu đau khổ, nước đồng sôi rót vào miệng – ăn viên sắt cháy đỏ; nếu tâm tham thích ăn uống thái quá chẳng tự chủ nổi sự sai khiến của dục vọng, thì sẽ rơi vào trong loài giòi bọ bất tịnh.

Như một Sa di, tâm thường thích sữa đặc, lúc những thí chủ cúng dường chúng Tăng món sữa đặc, Sa di mỗi khi được phần còn thừa lại, thì trong tâm thích thú mê mẩn, vui sướng không rời xa.

Hôm nọ chú đột nhiên lâm cơn bạo bệnh rồi qua đời. Sau khi mạng chung, do lòng tham thích của thuở sinh tiền quá mãnh liệt mà tạo thành nghiệp, nên nghiệp lực ấy đã  dẫn dắt thần thức của chú

Sau khi mạng chung sanh vào trong bình sữa đặc còn thừa lại này, thầy của Sa di đắc quả La Hán, lúc chúng Tăng phân chia sữa đặc, nói rằng: “Hãy từ từ đừng làm tổn thương Sa di thích sữa đặc này!”

Mọi người nói: “Đây là sâu bọ, vì sao nói là Sa di thích sữa đặc?”

Trả lời rằng: “Con sâu này vốn là Sa di của tôi, chỉ vì ham thích sữa đặc còn thừa lại cho nên sanh trong bình sữa này.”

Vị thầy được phần sữa đặc, đến nói với con sâu rằng: “Người thích sữa đặc! Ông có biết tại sao ông đến đây chăng?”

Liền lấy sữa đặc cho con sâu.
*Thuở xưa có quốc vương tên là Nguyệt Phân, nhà vua có một Thái Tử. Vị Thái Tử này rất ham thích mùi vị ngon ngọt. Người coi vườn của nhà vua, hàng ngày chuyển trái cây ngon ngọt đến.

Trong vườn có một cây to, trên cây có con chim nuôi đàn chim nhỏ, thường bay đến non Hương Sơn, lấy trái quả thơm ngon mang về để nuôi đàn con. Đàn chim nhỏ giành nhau, một quả rơi xuống đất. Người coi vườn sáng sớm trông thấy loại quả cây rất khác lạ, liền mang đến đưa cho nhà vua. Nhà vua coi trọng quả này bởi vì có hương sắc rất đặt biệt. Thái Tử trông thấy liền đòi ăn, nhà vua yêu thương con mình liền lấy đưa cho. Thái tử ăn xong thấy ngon quá, nên vô cùng say đắm mùi vị đó, muốn ngày nào cũng được ăn.

Nhà vua liền gọi người coi vườn đến hỏi quả cây đó từ đâu mà có, người coi vườn bèn thưa: “Muôn tâu hoàng thượng! Quả cây này không có giống trồng. Hạ thần từ mặt đất mà nhặt được, nên cũng không biết nó từ đâu mà có!”.

Thái Tử khóc lóc bỏ ăn, nhà vua thôi thúc yêu cầu người coi vườn, nhờ tìm sao cho được loại quả đặc biệt ấy. Người coi vườn đến nơi nhặt được quả, thấy có tổ chim, biết là chim ngậm đến, bèn leo lên nấp kín trên cây, chờ đợi lúc chim mẹ tha quả về, liền giành lấy. Ngày nào cũng làm như vậy.

Chim mẹ vô cùng tức giận vì mất phần ăn của con mình, bèn bay vào trong non Hương Sơn lấy trái độc mang về, hương vị màu sắc y hệt loại quả trước đây. Người coi vườn giành lấy đem vào cung dâng lên cho Thái Tử, Khi Thái Tử ăn xong liền ngã lăn ra chết!
Nhà hiền triết Albert Schweitzer đã nói: “Một người chỉ thật sự có đạo đức khi họ biết nghe sự thôi thúc trong lòng tiếng réo gọi thương xót của con tim đối với mọi loài. Điều này họ có thể làm được trong từng ý nghĩ và việc làm; khi nghĩ họ chỉ nghĩ điều lành, khi đi họ tránh gây thương tích cho các loài vật. Họ không hỏi điều lợi điều hại, họ không phân biệt mạng sống lớn, nhỏ tầm thường hay quý trọng, và cũng không cần biết các loài ấy có những cảm tính thế nào. Đối với họ mạng sống là một sự thiêng liêng mầu nhiệm. Họ cũng không phá vỡ mảnh băng lấp lánh dưới ánh mặt trời, không ngắt những chiếc lá từ cành cây, không bẻ hoa và cẩn thận không giẫm đạp những côn trùng mỗi khi cất bước. Nếu họ làm việc dưới ánh đèn trong một buổi tối mùa hè, họ sẽ đóng cửa lại thà chịu nóng bức, còn hơn trông thấy xác những con thiêu thân nằm chết ngổn ngang và ngoi ngóp trên bàn.”

Con người ta thường vốn không tin nhân quả, nên do đó cũng chẳng sợ tội lỗi. Nếu sợ thì họ đã không dám tìm cái ăn cho ngon miệng trong sự nhai nuốt những con vật, mà kinh sách Phật mô tả: “cha mẹ bà con đời trước của mình.” Làm sao mình có thể sung sướng, vui cười hỷ hả khi nhai nuốt thịt của cha, của mẹ mình.

Trong Sám Văn Phát Bồ Đề Tâm của ngài Thật Hiền có đoạn: “Đánh con lừa đến đổ máu đâu biết đó là cái thảm kinh hoàng của mẹ ta; lôi con heo đến lò thịt nào hay đó thật là nỗi đau thống thiết của cha mình. Ăn thịt con ruột mà không biết, Văn Vương còn như thế; nhai nuốt máu xương cha mẹ mà không hay phàm phu thảy đều như vậy. Đời trước ơn nghĩa mà đời nay thành oán thù, ngày xưa oán thù mà ngày nay thành ruột thịt một nhà. Quá khứ là mẹ mà hiện tại là vợ, kiếp trước là cha mà nay lại là chồng. Nếu có túc mạng thông để thấy thì thật đáng hổ đáng thẹn, nếu có con mắt thiên nhãn để nhìn thì quả thật đáng xót đáng thương!”.

Ngài Xá Lợi Phất một hôm đi khất thực tình cờ ghé qua nhà một trưởng giả nọ. Ông là người giàu có nhất vùng nhưng lại keo kiết và bủn xỉn, nên chẳng bao giờ muốn bố thí hay cúng dường cho bất cứ một ai. Hôm ấy ông đang ngồi ăn thịt trong nhà cùng với vợ và con, thì Ngài đến đứng lặng lẽ chờ bố thí. Một lúc lâu mà không thấy vị tăng đi, ông trưởng giả bực mình ra mắng rằng: “Sao ông lì lợm quá vậy, nhà tôi không có gì cho ông đâu!”
Nói xong ông trở vào nhà và thấy con chó đang loay hoay gặm miếng thịt mà ông vừa ăn dang dở, sẵn bực tức trong lòng ông dùng chân đá mạnh vào con vật, nó la lên một tiếng “cẳng” đau đớn rồi cúp đuôi chạy mất. Bên kia người vợ cũng đang gặm nhắm một đốt xương, bèn cất tiếng càm nhàm chửi rủa con chó hỗn xược. Trông thấy tình cảnh đó, Ngài Xá Lợi Phất buột miệng nói lên bài kệ như sau:

Kẻ ấy ăn thịt cha của mình, và lấy chân đá mẹ mình.
Nó ôm vào lòng kẻ thù mà nó đã giết;
Người vợ đang gặm nhai xương của người chồng xưa.
Ta cười khi thấy tấm màn bi kịch của cõi luân hồi!
Nói kệ xong, Tôn giả rời sang nhà khác.
Cũng trong thời Đức Phật, Ngài cũng gặp trường hợp khá tương tự khi đến khất thực tại một nhà trưởng giả nọ. Ông  ấy cũng là người keo kiết nên không muốn cúng dường Đức Phật, mà còn xua chó ra cắn Ngài.

Con chó dữ tợn xông ra cửa như muốn chực tấn công Ngài, nhưng với tâm từ bao la mà Ngài trải rộng hướng về nó, con vật kia bỗng chùn bước và khi ấy, Ngài đã nhắc cho nó biết về tiền kiếp nguyên là cha của người trưởng giả, và do vì lòng tham lúc mất nên phải tái sinh vào loài chó để giữ của cho con mình.

Nghe Đức Phật nói rõ nghiệp báo và cái si mê nên phải bị đoạ làm súc sinh, con chó bỗng ủ rũ và không ăn uống trong nhiều ngày. Biết được nguyên nhân, ông trưởng giả bèn mắng Đức Phật vì cho là Ngài dùng tà thuật làm con chó bệnh.

Đức Phật ôn tồn kể rõ tiền kiếp của con chó là cha trưởng giả, và do vì lòng tham nên cha ông phải đầu thai lại làm chó để giữ của cho ông. Hiện nay chỗ nó thường nằm chính là chỗ khi trước người cha chôn vàng ở đó. Không tin, ông bèn cho người đào lên và quả thật đã thấy hũ vàng.

Quá đỗi xúc động, ông khóc than và sám hối với Đức Phật rồi sau đó đem số vàng ấy cúng dường Tam Bảo, và nhờ oai đức của chư tăng cầu siêu độ cho cha. Thời gian sau do sự hóa độ của Đức Phật, do sự cầu siêu hồi hướng công đức của chư tăng và ông trưởng giả, nên con chó đã chết một cách êm đẹp và được thác sinh vào cảnh giới an lành.

Luân hồi có khi dài khi ngắn,
Có khi vừa chết đặng ít ngày;
Thì liền bị dắt đầu thai,
Làm người trở lại nhớ ngay kiếp người.
Nếu bị nghiệp sanh nơi cầm thú,
Sống theo loài rừng rú ngu đần;
Sau dù trở lại nhân thân,
Dễ quen tánh thú nhiều hơn tánh người.
Những tập quán hồi thời quá khứ,
Nếu như không cơ hội chạm va;
Thì là khó nổi nhớ ra,
Thói quen nằm mãi trong nhà nghiệp duyên.
Nếu ma quỉ sanh lên nhân loại,
Dễ cảm theo cái thói quỉ ma;
Chánh đường nếu chẳng xông ra,
Thì là dễ bị đường tà cuốn lôi.
Đã sanh được làm người rất quý,
Thường được nghe dạy chỉ tu hiền;
Gần đường về Phật về Tiên,
Không tu sau khó trở lên làm người.
Để sanh lạc vào nơi cầm thú,
Không được nghe khuyên nhủ lời lành;
Thì không được biết tu hành,
Tất còn chịu kiếp tử sanh lâu dài.
Nạn ấy lớn hơn tai nạn khác,
Cũng là điều hình phạt tối cao;
Để cho cửa thú lọt vào,
Giấc mê dài biết ngày nào tỉnh ra.
Giới ma quỉ cũng là đại nạn,
Kiếp sống như là ráng là mây;
Tiêu tan chẳng có hẹn ngày,
Thường cam đói khát giận gây trong lòng.

Có lẽ người ta sẽ không tưởng tượng được những sự kinh nghiệm mà hàng ngày khi ăn, khi ngủ, khi ôm ấp yêu đương của họ là những cảnh tượng kinh khiếp như chư Phật và các vị Tổ đã nói. Họ chỉ làm vì chỉ thấy và biết ở những gì trước mắt, mà chẳng biết chẳng hiểu bề sâu. Nhưng cái thấy, cái biết của họ trước mắt có là bao. Mắt thì không thể nhìn xa hơn vài mươi mét, cái biết và hiểu thì không quá phạm vi một đất nước, một thế gian này so với cái nhìn thấu suốt mười phương của các bậc trí tuệ, và cái biết không cùng tận của những người đã giải thoát. Đáng buồn thay, là con người với cái hiểu biết và thấy hạn hẹp như vậy, nhưng lại không tin gì khác, không tìm cầu học hiểu thêm để thăng hoa cuộc đời và làm tốt đẹp cho những kiếp sống về sau.

Do không tin gì hết, nên họ thường chỉ biết sống trong hiện tại với những cái vui và cái ngon trước mắt. Để rồi không biết vì cái ngon ấy mà họ đã tạo ra bao nhiêu điều ác, và rồi phải chịu quả báo ngay khi trút bỏ hơi thở cuối cùng. Thế nên Ngài Tuyên Hóa đã nói rằng: “Nếu người ta không ăn thịt thì có lẽ phải chịu thiệt thòi, vì không hưởng được của ngon vật lạ trong cuộc đời. Nhưng nếu ăn thịt các loài vật thì sau khi chết, họ phải tới địa phủ để thanh toán nợ nần. Tôi lấy lương tâm mà nói thật cho các vị biết rằng: nếu mọi người không ham khoái khẩu, không ham hưởng thụ, thì sau khi chết sẽ không phải ra tòa”.

Tham Thực Cực Thân

Tánh rộng rãi của quan thái thú họ Trần thì mọi người ai ai cũng biết. Ông nghĩ thà chết còn sướng hơn là sống mà không biết tiêu xài. Vấn đề tiền bạc thì ông không cần để ý, và đem sử dụng có đúng chỗ hay không ông cũng chẳng quan tâm.

Và giống nhiều người xa hoa phung phí khác, thú vui của ông là thích ăn uống và tiệc tùng. Như người xưa đã nói ông có thể giết ăn “bất cứ thịt con vật nào hai chân trừ cha mẹ của ông, cũng như các thú vật bốn chân trừ ghế và bàn.”

Còn về giường ngủ thì khỏi nói! Bên trên nó được chạm trổ hình rồng phụng rất đẹp, chẳng khác nào long sàng của hoàng đế. Ông thường mặc thứ y phục sang trọng và đắc tiền nhất. Ðồ dùng trong nhà ông đặt mua đều là các loại thượng hạng.

Nhưng sở thích chính của ông là ăn nhậu. Mỗi ngày ba bữa ông dùng điểm tâm, ăn trưa và buổi tối gồm có các thứ óc vịt, chân gấu, vi cá, bướu lạc đà, môi khỉ, gà, ếch, hươu, và những thức ăn cầu kỳ, tốn kém khác. Nhiều năm qua, ông đã sát hại hàng nghìn sinh vật vô tội để thỏa mãn cho khẩu vị của mình.

Sau khi về hưu, ông mua một biệt thự nguy nga tráng lệ. Trong vườn có ao, suối nước chảy róc rách bên cạnh là những túp lều để ngồi chơi. Ai đi vào đó cũng tưởng như mình lạc vào chốn bồng lai tiên cảnh! Hơn nữa về phương diện ẩm thực thì ông chuyên mướn những người đầu bếp giỏi để sửa soạn các món ăn tuyệt hảo.

Ông thường nói với các bạn bè: “Ðời con người ta chắc chi sống được lâu dài? Hiện tại sống mà quý vị không biết hưởng thụ thì sẽ chờ đến khi nào? Con người sống mà chưa bao giờ được tận hưởng các thức ăn cao lương mỹ vị thì cuộc đời như thế kể như vô nghĩa!”

Nghe vậy, có người nói: “Ðể rồi xem, chung cục một ngày nào đó chắc chắn ông ta sẽ chuốc lấy quả báo.” Nhưng ông không cần đếm xỉa tới lời bàn tán của thiên hạ.

Quả nhiên về sau, do cuộc sống ăn xài tiền bạc vô độ đã khiến cho gia cảnh của ông ngày càng suy sụp, còn ông thì mắc phải chứng bệnh điên. Khi lên cơn, hễ thấy bất cứ vật gì ông cũng cầm lấy cho vào miệng. Không những chỉ chén dĩa người đầu bếp của ông dọn ra mà ngay cả lá, nhánh cây, sỏi đá, giày cũ, rác rến và tách uống trà ông cũng lấy bỏ vào miệng. Rồi ông nhai ngấu nghiến và nuốt chúng. Một thời gian sau, ông đã tự sát do lòng ham muốn giết hại các sinh vật để làm món ăn.

Phải chăng đó là một cái chết thật quá đau thương?

Con người ngày nay càng văn minh và tiến bộ bao nhiêu, thì sự độc ác giết chóc càng tinh vi bấy nhiêu, để rồi những người phạm tội giết gián tiếp là những người ăn các loại thịt cũng phải bị quả báo. Cũng đã có quá nhiều cách ăn được bày ra và bao nhiêu việc giết, cách giết được thực hiện. Có phải chăng con người với các nghiệp sát lâu đời của họ, đã chẳng thể nào sống và làm gì khác hơn nếu không có sự giết chóc. Giết chóc, sát hại lẫn nhau nó cứ như một oan khiên tương báo nào đó, để rồi cứ diễn tiến như vậy mãi mãi mà không thể dừng lại.

Ở các khu phố ta thường thấy xác thịt của các chúng sinh, như: gà, vịt, dê, heo… treo đầy các cửa tiệm, tự nhiên cảm thấy lòng khởi lên sự bất nhẫn, pha lẫn chút sợ hãi. Tại sao con người chỉ có vì cái ăn cho ngon miệng mà làm quá nhiều điều ác độc, còn những kẻ sát sinh giết hại kia thì vì đồng tiền mà sẵn sàng thực hiện hành động giết chóc. Mỗi ngày giết hàng trăm con vật thì hàng tháng, hàng năm hay suốt cả cuộc đời họ, số thú vật bị giết kia sẽ là bao nhiêu mà kể. Cũng việc giết hại sinh mạng thú vật này mà Ngài Milarepa có lần nói với một người thợ săn, khi ông ta tìm cách săn đuổi một con thú đang lẩn trốn nơi Ngài. Ngài nói: “Đức Phật dạy, mang được thân người thật là một điều quý báu vô ngần, nhưng mang được thân người như ông đây thì chẳng có gì là quý!”

Thật vậy, vì nếu mang được thân người với đầy đủ những quý báu của sự hiểu biết và suy tư, mà các loài vật khác không thể có được, nhưng nếu ta chỉ dùng thân người này cho toàn sự giết chóc, sát sinh, hại mạng hay chỉ duy nhất là cho việc kiếm được đồng tiền thì thật là có điều vô nghĩa nào hơn. Được sinh làm người chỉ để có cơ hội gây ra thêm bao nhiêu nghiệp ác chồng chất, thì nếu bị sinh làm loài vật có lẽ lại tốt hơn, vì tránh gây ác nghiệp và tránh bị đọa lạc. Thế nhưng, để hiểu và tin được điều này thì đã có mấy ai, và con người ta vẫn cứ tiếp tục làm ác!

Rồi không những chỉ những loài thú vật thông thường, người ta còn bày ra giết và ăn đủ loại như: cào cào, châu chấu, thậm chí đến dế, trùng. Có người còn nói rằng: “Người Việt Nam và người Hoa thì con gì cũng có thể ăn được, miễn ngo ngoe là có thể nấu và ăn được rồi.” Nghe vậy mà cảm thấy ớn lạnh xương sống. Chỉ ngoại trừ hai thứ là máy bay trên trời và tàu lặn dưới nước là không ăn mà thôi!

Nhẫn tâm nhất là cảnh con người giết những loài thú vật để ăn, thưởng thức thịt của nó khi nó còn sống. Phim chiếu cảnh người ta nhốt con khỉ trong một cái lồng, chân tay nó bị cột chặt và chỉ có cái đầu trồi lên khỏi lồng. Người đầu bếp lấy con dao hớt ngang phần trên của cái đầu, rồi nặn chanh rắt tiêu… vô, và thực khách đưa muỗng vào múc óc đó mà ăn một cách khoái khẩu vui thích hả hê, trong khi con vật bên dưới dẫy dụa la hét khủng khiếp vì cơn đau đớn. Cảnh người ta đem những con chó con ra cắt cổ cho máu chảy ra bát rồi xẻ thịt chiên ráng ngon lành, xúm nhau lại nói cười vui vẻ trong khi nhâm nhi; hay cảnh người ta chặt đầu một con gà bằng búa và con gà khi bị chặt đầu xong bỗng vùng ra được, trong cái cảnh không đầu ấy chạy một quãng xa mới ngã gục.

“Máu thịt tràn trề khen hợp miệng,
Đâu hay oán hận sánh bằng non!
Thân ta chốn đó đang tâm nghĩ,
Ai dám cầm dao cắt thịt mình.

Xưa nay trong một bát canh,
Oán sâu như bể hận thành núi cao,
Muốn hay nguồn gốc binh đao,
Lắng nghe lò mổ tiếng gào đêm thanh”.

Trong kinh Đức Phật dạy rằng thân người rất quý báu và khó mà có được, như một con rùa mù ở giữa biển khơi cả trăm năm mới nổi lên mặt biển một lần, trên mặt biển có khúc gỗ trôi qua lại từ đông sang tây từ bắc xuống nam, thế mà con rùa mù ấy trồi lên để đúng vào cái lỗ nhỏ giữa bọng cây, thì quả là một chuyện chẳng dễ chút nào. Sự việc được sinh làm thân người này của chúng ta cũng như vậy, thì phải biết sự quý báu và hy hữu đến dường nào. Thế mà được sinh làm người quý báu như vậy rồi, mà không biết tu tập, không biết gieo nhân lành, không làm việc thiện mà chỉ tạo nghiệp ác, sát sinh hại mạng, nói dối, tà hạnh và làm bao nhiêu là việc tàn ác khác, thì thử hỏi mạng sống làm người này của chúng ta sẽ có ý nghĩa gì, và một khi chết đi ta sẽ tái sinh vào cảnh giới nào? Cái tâm hung ác chỉ thấy máu và giết chóc hàng ngày ấy làm sao không quen thuộc khi thấy máu, cùng sự giết chóc trong các cảnh giới sắp tới? Chắc chắn là sẽ phải đọa lạc mà chẳng một chút hồ nghi gì. Sự thác sinh sẽ sinh vào các cõi mà chỉ toàn là máu và sự giết chóc ắt hẳn là điều tất nhiên, tương ưng với tâm và những tư tưởng ác độc liên tục hiện tại của chúng ta. Vậy thì điều đó có chi là mơ hồ, là mê tín chẳng đáng tin cậy!

Thức ngon đặc chế

Trong một vùng nông thôn thuộc miền Đông bộ Thái Lan, có một nông phu tên A Bang, bà vợ sinh được 3 đứa con gồm hai nam, một nữ. Đứa lớn tên Ô 9 tuổi, đứa kế tên Hồng 7 tuổi và bé gái út tên Bạch 5 tuổi.

Hôm nọ, vợ chồng A Bang đến dự lễ nơi nhà một người bà con, bỏ ba đứa nhỏ ở nhà. Nơi chúng ngụ là căn phòng bằng gỗ xây theo kiểu Thái. Cạnh phòng có chất một đống rơm khô. Ngoài ra còn có một ống máng xối hình chữ thập để hứng nước mưa và một hàng lu dùng chứa nước uống.

Nhà ở các hộ nông dân nơi đây xây cách nhau rất xa, phân bố rải rác trong các khu ruộng vườn.

Hôm đó, căn phòng gỗ đột nhiên bốc cháy, láng giềng ở xa chỉ nhìn thấy khói đen bốc cao, lửa vây kín nhà, cả tòa nhà gỗ chẳng mấy chốc bị thiêu rụi, ba đứa trẻ trong nhà do cổng khóa kín không thể chạy đi đâu.

Nghĩ là nước trị lửa, thằng Ô lần lượt bồng hai em đem bỏ vào hai cái lu to đầy nước và đậy nắp lại. Sau đó nó cũng nhảy vào một cái lu khác để tránh lửa.

Lúc láng giềng và nhân viên cứu lửa chạy đến thì cả toàn nhà gỗ và bốn đống rơm cũng cháy rụi, còn thiêu chết một con bò bị cột, nhưng không thấy dấu vết các đứa trẻ ở đâu. Mọi người đều cho rằng chúng đã chạy thoát cả rồi. Khi vợ chồng A Bang về, họ cũng hoảng loạn tìm con, mãi đến tối mò cũng không tìm ra được.

Sáng hôm sau, một người bà con là Luân Bao cũng tới phụ tìm các trẻ, giống như có biết trước, ông vội chạy đến lu nước, dở nắp ra thì kinh ngạc hét to, vợ chồng A Bang nghe tiếng hét thất thanh, vội chạy đến xem, thì thấy thi thể của đứa con trai đầu. Luân Bao lại mở tiếp các lu kia, thì lần lượt phát hiện ra xác của Hồng và Bạch. Lúc này hai vợ chồng quá đau lòng, ngã quỵ xuống ngất xỉu.

Báo chí và đài truyền hình đều đăng tin thương tâm này. Lúc đó ký giả đài truyền hình phỏng vấn, hỏi Luân Bao vì sao biết ba đứa trẻ chết trong lu?

Luân Bao đáp:

– Đêm hôm qua lửa phát, ông đang ngủ nơi nhà mình bỗng mơ thấy cảnh mọi người đều chạy đi tìm các cháu, bỗng dưng thấy một lão già chưa từng quen biết, râu trắng bạc phơ dài tới ngực bảo ông: “Bầy cá ở trong lu nước!”

Tỉnh dậy ông thấy rất kỳ lạ, bèn vội vàng chạy sang nhà A Bang, nhào tới dở lu xem thử, không ngờ thi thể các bé ở trong đó.

Nghe đến đây A Bang hét to một tiếng, rồi ngất xỉu trên đất. Khi được cấp cứu tỉnh lại, đôi mắt ông như vô hồn, nhìn ngây dại về xác ba đứa con và lẩm bẩm nói:

– Báo ứng! Báo ứng mà!

Mọi người đều nghĩ ông thương tâm quá độ, tâm thần mê muội nên chẳng dám hỏi gì.

Theo tập tục ở nông thôn, hễ nhà nào có xảy ra sự cố là mọi người đồng tâm hiệp lực chia buồn, nên họ đã cùng nhau phụ giúp lo việc chôn cất các con của A Bang.

Vợ chồng A Bang nội trong một ngày mất hết ba đứa con cưng, đành nương náu tạm một nơi khác. Tài sản tích chứa đều bị làm mồi cho ngọn lửa, hai vợ chồng gặp phải gia biến thảm sầu nầy, họ thấm thía lý vô thường buồn vui ly hợp ở nhân gian nên không chút do dự đồng xin xuất gia.

Ai cũng hiểu và cảm thông cho họ. Nhưng mọi người đều thắc mắc khi nghe A Bang luôn mồm nói “Báo ứng! Báo ứng!”…Ông vốn là một nông dân trung hậu cần lao, nhưng đã làm gì để bị trách tội nặng nề như thế? Thật khiến người ta khó hiểu?

Chỉ có A Vu, em vợ A Bang là biết rõ. A Vu nói:

– Anh Bang sống luôn biết giữ hòa khí, nhiệt tâm giúp người. Anh chỉ có tính là rất ưa ăn ngon và tự mình sáng chế món “Rau dồn cá”, chính A Vu nhiều lần phải đối kịch liệt món này.

Thái Lan là xứ gạo, cá. Vào mùa xuân mỗi lần gặp mưa dông là thời kỳ cá đẻ trứng. Mười mấy ngày sau, cá con lớn bằng đầu đũa, A Bang ưa dùng vải mùng may thành vợt, lùng bắt đám cá này. Ít thì có mười mấy con, nhiều thì hơn trăm mạng, sau đó anh bỏ cá con vào trong thùng nước.

Lúc cần nấu, thì chọn các cọng rau to rỗng ruột, cắt bỏ các đốt mấu đi, thành là một ống trống suông. Sau đó đổ nước lạnh vào trong nồi, thả rau và cá con vào chụm lửa nhỏ riu riu. Do nước lạnh từ từ chuyển nhè nhẹ qua nóng, nên mới đầu đám cá hồn nhiền bơi tung tăng, nước ấm dần dần lên, cá nhỏ gặp lòng rau rỗng liền chui vào đó trốn nóng…

Tận mắt chứng kiến cảnh lũ cá bị giết chết tàn nhẫn, chết thảm thương, nhưng vợ chồng A bang chẳng mảy may động lòng trắc ẩn, ngược lại còn tự hào đắc ý vì mình biết sáng tạo ra món ăn cực kỳ đặc biệt và khoái khẩu này. Mỗi một khúc rau trống đều có một đám cá chui vào, đem ra trộn với gia vị thì ăn ngon cực kỳ, không gì sánh bằng.

Có lần A Bang làm ruộng, anh dùng vợt vớt hết bầy cá con, đột nhiên có hai con cá lớn (là cha mẹ của chúng) nhảy lên bờ. Có thể là do nhìn thấy bầy con bị bắt đem đi, chúng bi ai, thống khổ đến cực điểm mà nhảy lên tự sát để kháng nghị. A Bang lúc này nhân tính mê muội, cho rằng khi không có được của bất ngờ, liền bắt luôn hai con cá đó đem về nhà nấu ăn.

Con người quen tạo sát nghiệp ác độc, là do lương tâm bị vùi lấp mê muội, chỉ khi thấy cha mẹ, vợ chồng, anh em, con cái mình chết…mới kêu gào khóc lóc, hô thiên gọi địa đau đớn thảm sầu. Chẳng hề nghĩ đến loài vật cũng có nghĩa tình cha mẹ, anh em, phu thê, con cái…

Cổ thi nói:

Trăm ngàn năm nay trong chén canh,
Oán sâu như biển hận khó bình!

Như nay báo ứng nhân quả xoay chuyển đến khiến A Bang gánh phải niềm đau chôn con, nếm mùi khổ tự thân chứng kiến một bầy con bị chết cả, sao không khiến anh thối tâm nản chí chứ?

Một thi nhân thời cổ đại đã làm thơ ngăn sát thế này:

Ai bảo chúng sinh mệnh nhỏ nhoi
Chỉ là xương thịt với da thôi?
Xin anh chớ bắt, săn, giết chúng…
Tình cảm chúng đâu có khác người!

Nhân loại hằng ngày đều tự làm tăng thêm nghiệp sát oan trái. Khi chúng ta bệnh nằm tại y viện hay trên bàn mổ, ngay khi đó chúng ta có thầm tự hỏi: “Cả đời mình đã từng ăn bao nhiêu con gà, bao nhiêu con vịt, bao nhiêu con heo, bao nhiêu con bò…Bao nhiêu loài đã tán mạng vào bụng chúng ta chưa?” – Và “hôm nay chính là ngày báo ứng đến”, người vào thăm bệnh cũng cần nên phản tỉnh như vậy.

Nếu như nhân loại có thể tự phỏng vấn mình đến cùng thì sẽ phát sinh tâm từ, tâm sám hối và nghiệp sát tự nhiên sẽ giảm cũng như những chứng bịnh oan nghiệt kỳ lạ sẽ dần tiêu tan.

Kinh Phật đã mô tả khá rõ về việc oan oan tương báo, do việc giết chóc xảy ra hàng ngày của một người đối với các loài thú vật; khi thân này hoại diệt, tâm thức Mạt-na tức là tiềm thức sẽ quay lại hết tất cả những việc làm của họ trong cuộc sống trước mắt họ lúc chết, trong cơn sợ hãi tột cùng nếu suốt đời người ấy chỉ chuyên làm ác họ sẽ tắt thở và tâm thức ấy đọa ngay vào cõi ác.

Với người làm thiện thì những điều thiện, điều nhân đức trong suốt cuộc đời sẽ quay lại cho họ thấy, rất nhanh như những cuộn phim và trong sự an lành của việc thiện mình làm, họ nhắm mắt trút hơi thở cuối cùng và tùy theo đó mà sinh vào các cõi lành.

Với người tu thì do vì suốt cả cuộc đời chỉ có tu hành, tụng kinh niệm Phật, làm những việc đạo đức nên dòng tâm thức tương tục của những câu niệm Phật, tụng kinh và làm những điều lành ấy, sẽ là những hạt giống quen thuộc đưa họ thác sinh vào những cảnh giới an lành tương tự. Sự thác sinh ở những kiếp sau, chỉ là một kết quả tương ứng với những gì mà con người ta đã quen làm trong kiếp sống này mà thôi. Đó là nghiệp, mà đó cũng là một tiến trình tiến hóa tất nhiên.

Trong Quy Sơn Cảnh Sách, Tổ Bách Trượng có ví sự thác sinh kiếp tới của một người cũng ví như con chim bị nhốt trong một chiếc lồng, khi được thả ra tất nhiên nó sẽ bay đến nơi mà nó muốn đến nhất. Tâm thức chúng ta cũng vậy, sau khi rời khỏi thân xác này nó sẽ bay đến những nơi mà nó thích thú nhất.

Người ác cả đời chuyên làm ác giết hại sinh vật thì tâm thức thích thú giết hại ấy, sẽ tìm đến những nơi có sự giết chóc, máu me mà đến, nên rơi vào đọa lạc. Người thích thú trong việc sân hận chưởi mắng sẽ tìm những cảnh tương ưng mà đến. Người thích về ái dục, vui thú với xác thân, sẽ tìm những nơi có ái dục mà đến. Kẻ say sưa, hút sách nghiện ngập cũng sẽ tìm đến những nơi có nhưng sự việc ấy, thế rồi do nghiệp chiêu cảm dẫn dắt ấy, mà họ phải thác sinh vào các cảnh giới tương ưng.

Vậy thì những cảnh giới ác, đau khổ đọa lạc kia nào có phải bị đấng bề trên nào thưởng phạt, mà do chính chúng ta tìm đến, do vì chịu theo sự dẫn dắt của tâm tưởng mà mình trong kiếp sống này đã huân tập, đã quen làm hàng ngày. Riêng người niệm Phật cầu vãng sanh thì nguyện sao cho mình chỉ biết quen câu niệm Phật, quen nhớ tưởng hình ảnh trang nghiêm hiền hòa của Phật A Di Đà, các vị Thánh Chúng để một mai khi gần chết, chỉ biết trong tâm có một niệm là niệm Phật, một hình bóng đó là hình bóng Đức Từ Phụ A Di Đà. Được vậy thì chắc chắn sẽ được thác sinh vào cõi Lạc Bang.

*******

Nói về nghiệp sát, do vì cái ăn mà phải hại mạng sống các loài sinh vật, và ví điều đó chẳng khác bao nhiêu với các loài quỷ, loài dạ xoa chuyên môn bươi bới xác người tại nghĩa địa để ăn thịt. Nếu ta trong một đêm tình cờ nào đó ra bãi tha ma, mà trông thấy cảnh tượng hai con quỷ đang nhồm nhoàm nhai nghiến những cánh tay, cẳng chân của một xác người thì chắc hẳn chúng ta phải sợ hãi đến té xỉu. Nhưng gẫm lại thử xem chúng ta không phải là quỷ, là dạ xoa thì là gì? khi hàng ngày chúng ta cũng nhồm nhoàm, thích thú nhai nghiến những miếng thịt, chân, cánh của loài vật. Đối với các loài ấy thì chúng ta không là quỷ dạ xoa thì còn là gì? Có điều do vì loài súc sinh ngu si và thiếu hiểu biết nên nó chẳng tỏ ra vẻ thấu đáo và sợ hãi, dù rằng cái chết chỉ cận kề bên chúng. Còn ta do vì nghiệp giết đã quen, nên thấy chuyện giết chóc, ăn uống máu thịt nọ kia mà cho là thường tình, nhưng nếu quán sát, suy nghĩ, chiêm nghiệm những lời kinh dạy, chuyện nhân quả nghiệp báo, thấu suốt được thịt da, xương máu đây là của cha của mẹ mình thì ta chẳng còn nhai nuốt được nữa.

Vì cái ăn ngon ấy không quá ba tấc lưỡi và nếu chỉ để ngon có vậy mà ngày này qua tháng nọ, năm kia rồi tới năm kia nữa ta phải tích tụ một số nghiệp ác khổng lồ chỉ qua cái ăn thôi thì quả thật đáng sợ. Rồi bao nhiêu là những nghiệp ác khác của thân, của ý, của si mê, vô minh có lẽ sẽ còn rất nhiều để chờ đón ta bên kia thế giới, ngay khi ta phải lìa bỏ thân này. Thế cho nên trong bài kệ mà chư Tổ truyền lại có nói đó:

“Quán xem trong bát canh này,
Hận sâu như bể, thù bằng non cao”.

Chỉ nội trong một bát canh mà chúng ta ăn trong một bữa ăn thôi, cũng đủ có bao nhiêu sự thù oán chất chồng của vô số sinh mạng. Các loài ấy đâu phải dễ dàng, vui vẻ và tự nguyện dâng sinh mạng cho chúng ta làm thịt để ăn. Các loài ấy cũng sợ hãi kinh khiếp khi bị ta bắt, và đưa dao vào cứa cổ chúng. Chúng cũng dẫy dụa lên đành đạch, vùng vằng cố thoát cánh tay đè và con dao cận kề khi đưa vào cổ, chứ nào dễ gì đem mạng đến rồi cười khà nhắm mắt đưa thân cho ta giết. Cứ thử tưởng tượng lấy, nếu ta bị ai chặn bắt và bẻ tay, chặt chân để ăn thì ta sẽ thấy đao đớn kinh khủng đến dường nào? Oán thù người ấy sẽ bốc cao bao nhiêu? Chỉ trong cuộc sống này đây mà nếu có người nào đó chỉ chửi mắng hoặc đánh đập ta chút đỉnh, mà ta còn tỏ lòng thù oán với họ gần suốt cả một đời, huống là họ chặt tay, bẻ chân và cắt đầu mình để lột da ăn thịt!

Bịnh của Văn Lai

Tại một bệnh viện huyện nọ ở Thái Lan, bác sĩ viện trưởng kiêm thường vụ chuyên khoa, kiêm cầm dao mổ. Lần nọ viện trưởng kể lại câu chuyện lạ lùng về một ca mổ, khiến người tỉnh giác phát tâm hướng thiện.

Viện trưởng nói:

– Tôi từ hồi làm bác sĩ tới nay, chưa từng gặp qua, cũng chưa từng trị qua loại bệnh kỳ lạ này. Người bị bệnh quái lạ ấy, trong vòng ba năm bị mổ hết 5 lần.

Và mỗi lần một nghiêm trọng hơn. Cuối cùng thì ngay cả tay, chân đều phải cưa bỏ. Biến thành người tàn tật còn một tay một chân.

Vị bị bệnh lạ này tên Văn Lai, một lần nọ anh bị ba ba cắn vào tay làm bị thương ngón út. Mới đầu đến bệnh viện chỉ rịt thuốc cầm máu, cho là không có việc gì, nhưng nữa tháng sau, nơi đốt ngón tay bị thương bắt đầu viêm, sưng phù đau đớn, bác sĩ kiểm tra xong, chẩn đoán là vi khuẩn độc ăn tới xương. Cần cắt bỏ ngón út để tránh độc lây lan làm hại tính mạng. Thế là cắt đi, còn lại 9 ngón tay.

Chưa được nửa năm, Văn Lai ra biển du ngoạn, thật không may, lại bị một con ba ba cắn bị thương ngón chân út.

Mấy ngày sau chân phát viêm, sưng đau, lại đến y viện chụp X quang thì phát hiện độc lan tới xương, phải cắt bỏ ngón chân út, để được an toàn.

Thời gian chưa được một năm, ngón tay út và chân út đồng phát viêm, sưng đau, Văn Lai lại đến y viện xin khám chụp X quang. Ôi thôi, không được rồi, lần này độc có khả năng hình thành ung bướu, cần cắt bỏ bàn tay và bàn chân đi. Người bịnh đồng ý tiến hành phẫu thuật.

Văn Lai gặp bất hạnh, nhiều người đều xôn xao bàn tán, nói quá lạ kỳ. Thế nhưng việc kỳ hơn nữa lại nối đuôi nhau xảy đến.

Nguyên là một ngày nọ, con trai của người quen thế phát làm tu sĩ, Văn Lai theo mọi người tham dự lễ xuất gia. Bởi vì lễ thế phát ở Thái Lan thường cử hành lúc 4 – 5 giờ sáng, cho nên người tham dự phải ngủ lại tại chùa cho tiện bề dự lễ.

Họ cùng ngủ chung trong điện Phật có đến khoảng 40-50 người nhưng xui xẻo lại giáng ngay trên mình Văn Lai.

Có một con chuột, trong mấy mươi người đang say giấc nồng đó, nó lại nhè ngay vết thương nơi cái chân của Văn Lai mà cắn cho một phát.

Văn Lai đau quá hét to và rên rỉ, làm kinh động cả đám người đang ngủ. Mặc dù chuột chỉ cắn một chút ngoài da, làm chảy ra tí xíu máu, nhưng mọi người bắt đầu bàn tán, họ nói: “Chuột chỉ cắn những vật không có mạng sống, ai mà ngẫu nhiên bị chuột cắn, chứng minh người đó chỉ là một cái thây không có linh hồn, cho nên con chuột mới dám cắn họ”.

Mọi người bàn tán um trời, khiến Văn Lai thêm hoảng kinh bất an, anh thầm nghĩ có lẽ mình không còn sống được bao lâu nữa! Mặc dù có người an ủi anh chẳng nên mê tín như vậy, nhưng anh vẫn cảm thấy mạng sống bị uy hiếp, hơn nữa ở chỗ hai vết thương bị cưa nơi tay và chân cứ âm ỷ ngứa đau hoài.

Thế là Văn Lai bèn tới y viện để tái khám.

Bác sĩ kiểm tra tỉ mỉ, nói:

– Không xong rồi, phim chụp X quang hiển thị, hai chỗ nơi vết thương đều bị độc cũ lan đến xương. Giống như lần trước ung bướu lây lan rất xa, nếu không cắt cánh tay và ống chân thì không được. Thế là lại phải cắt bỏ, cánh tay tính từ khủy trở xuống và chân cắt từ đầu gối trở xuống.

Trong vòng ba năm, chỉ mình Văn Lai thôi mà bác sĩ khai dao động thủ đến 5 lần. Bác sĩ viện trưởng, người đứng mổ cho bịnh nhân, nghĩ rằng ngày trước ắt anh có làm việc gì kỳ quái, bèn đặc biệt sưu tập, điều tra lý lịch, thân thế Văn Lai. Và cuối cùng bác sĩ biết được rốt ráo như sao:

“Văn Lai, 43 tuổi, làm nghề nông kiêm công nhân xây dựng. Bình thường tính ưa uống rượu, ưa ăn cá sông, đặc biệt thích ăn các loài rùa, ba ba v.v…

Văn Lai nghe người ta nói: “Nếu như ai ăn từ 10-20 con ba ba, thì suốt đời không bị bịnh phong thấp hay bịnh thời tiết, còn được nhuận âm bổ dương. Vì vậy mà anh thường ăn ba ba xào ớt, phối hợp với bình rượu trắng. Văn Lai tha hồ hưởng thụ cho sướng miệng. Suốt 20 năm nay anh đều ăn như thế, ăn không biết ngán.

Một hôm Văn Lai ra chợ mua được một cụ ba ba to “khủng”, nặng tới mười mấy ký. Anh mừng như bắt được vàng. Của quý hiếm này tất nhiên là không thể ăn một lần mà hết ngay được, phải cất làm sao để có thể hưởng thụ dần, không cần phải bỏ vào ngăn đá bảo quản.

Thế là Văn Lai nghĩ ra phương pháp tuyệt diệu: “Cắt ba ba ra ăn dần”. Bởi vì rùa và ba ba là loài có tuổi thọ cao, giỏi chịu đựng nên sống rất lâu, khó mà chết ngay được. Nếu như nhốt nó không cho ăn, thông thường nó vẫn có thể sống đến nửa năm.

Phương pháp ẩm thực tuyệt chiêu của Văn Lai là nếu hôm nay ăn bao nhiêu thịt, thì chỉ cắt bấy nhiêu. Sau đó quẹt vôi lên chỗ thịt vừa cắt để cầm máu. Như thế con ba ba này có thể để ăn dần đến 10 ngày hay nửa tháng mà nó vẫn còn sống, cuối cùng thì cắt đầu nó ăn hết.

Từ hôm Văn Lai nghĩ ra cách ăn “mới mẻ” và thực hiện thành công rồi thì kể từ đó, cứ y theo cách này mà hành sự và anh đã ăn không biết bao nhiêu con ba ba rồi.

Có người tốt bụng nhắc nhở anh, thủ đoạn này quá máu lạnh và tàn nhẫn, quá vô lương tâm, sẽ bị ác báo! Nhưng anh bất kể! Chỉ cần có thịt ba ba tươi ngon là đủ.

Cho đến lúc thân thể của anh bị cắt, cưa ra từng kì, nếm trải mùi vị đó, anh mới biết đây là báo ứng hiện đời đang giáng xuống thân mình. Nhưng có hối hận cũng đã muộn màng”.

Bác sĩ viện trưởng đem tư liệu sưu tập được, xem tỉ mỉ rồi viết ra câu kết luận:

“Y học vô phương giải thích những câu chuyện báo ứng nhân quả có thực như thế này!”

Đối với vấn đề ăn uống, con người chúng ta làm vậy và cho là phải làm vậy, vì chúng ta có cái lý của kẻ mạnh, cái lý của kẻ thông minh biết cách này cách nọ để săn bắn, đặt bẫy và tóm bắt các loài vật để giết. Ngoài cái lý này ra, chúng ta chẳng còn cái lý nào khác để giết hại muôn loài cho cái ăn của mình. Nếu đã biết ai ai cũng sợ chết, sợ khổ đau kể cả những loài côn trùng, loài vật nhỏ nhất thì tại sao ta phải giết nó để thỏa mãn ba tấc lưỡi của mình chứ?

Bỏ giáo lý và lòng tin vào Đức Phật qua một bên, thì một người nào đó dù có một chút lòng nhân ái, thương loài vật cũng không nỡ nhẫn tâm nhai nuốt máu thịt các loài này trong các bữa ăn hàng ngày. Có một vị Bộ trưởng ở Mỹ khi chứng kiến một đàn cừu bị dẫn đến lò thịt để mổ, sau đó khi có dịp nói chuyện với một người bạn ông kể lại như sau:

“Cái mùi giết chóc, tiếng la thét trong cơn hấp hối và những âm thanh chém giết nổi lên bên trong thật là ghê tởm, những con bê bị chặt giết trước mắt những con mẹ. Tôi thấy những người chăn súc vật đẩy loài thú tới sàn giết, nơi những con vật ấy có cảm giác nó sẽ bị giết nên lồng lên điên dại với những nỗi sợ hãi”.

Đã có nhiều nước Tây phương tuy không hiểu đạo Phật, cũng chẳng tin nhân quả nghiệp báo nhưng khi xem phim, đọc sách hoặc trực tiếp chứng kiến đã thấy rất tội nghiệp cho những con vật bị giết này, nên họ đã tự động ăn chay suốt đời. Nếu con người có tình thương, có sự rung động thật sự trong con tim mỗi khi thấy nỗi đau khổ của người, của vật thì họ sẽ chẳng an nhiên mà vui cười, mà sung sướng khi gặm nhấm những cái đùi, miếng thịt của những con vật xấu số.

Có bao nhiêu người ý thức được rằng 95% của hàng triệu gà nuôi trứng ở Mỹ, ở Âu châu bị nhốt dưới cái gọi là: thâm canh hay gọi là hệ thống xưởng nuôi nông trại? Trong một kiểu nhốt chung, nghĩa là bốn con gà bị ép chặt trong cái lồng rộng chừng 3 tấc, dài 4 tấc rưỡi, và trong lồng này các con vật ấy bị giam hãm suốt cả cuộc đời. Những cái lồng không có khe hở, bên dưới được làm bằng mạng lưới thép để những chất phân bả rơi xuống đất. Đèn trong lồng được bật lên 6 tiếng đồng hồ mỗi ngày để gà có thể đẻ nhanh, trung bình mỗi con đẻ trứng sau mỗi 12 tiếng; Qua thời gian đẻ liên tục như vậy trong 14 tháng, nó bị con người bắt đem ra làm thịt. Hình thức nông trại kiểu mới này quả là một hình thức khai thác triệt để, và đối xử tàn bạo nhất đối với loài thú vật. Suốt cuộc đời của những con gà ấy, nó không có chỗ để cục cựa, để duỗi cánh; bị chèn nhét chật chội như vậy để đẻ trứng, sống như cảnh tra tấn ấy cho đến khi bị xẻ thịt.

Có bao nhiêu người quen thuộc với các hệ thống nuôi súc vật hiện đại để giết thịt, cũng có rất ít cơ hội mới có dịp thăm viếng những lò sát sinh ấy, để thấy và nghe những âm thanh thống thiết này! Một người có tấm lòng nhân hậu đều công nhận rằng: “Nếu ai đã từng nghe tiếng hét của thú vật khi bị giết thì họ sẽ không dám ăn thịt nữa”.

Cây lành mọc nhánh chồi tươi,
Sanh linh “bất sát” mới người thiệt “nhơn.”
Cuộc đời công lý tuần hườn,
“Sát sanh thường mạng” chẳng hơn kém gì.
Nên thường niệm chữ từ bi
Thương loài sanh vật khác gì thương ta.
Noi truyền theo dấu Thích Ca,
Ăn chay đạm bạc cũng qua tháng ngày.
Chớ nên tạo nghiệp đắng cay,
Ngon chi lưỡi miệng muôn ngày khổ đau.
Sống cần tu học dồi trau,
Thì là dưa muối tương rau tạm dùng.
Thân này đừng có quén vun,
Nó là tứ đại hiệp cùng với nhau.
Rồi đây có lẽ lâu mau,
Cũng tan cũng rã chớ nào bền lâu.
Đừng gây nghiệp báo thâm sâu,
Muôn đời ngàn kiếp cất đầu chẳng lên!
Nhơn lành đạo đức làm trên,
Theo con đường ấy vững bền về sau.
Rán mà sửa đổi dồi trau,
Ăn chay trọn thiện thác vào cảnh Tiên.
Luân hồi cùng mối oan khiên,
Chẳng còn đeo níu trói xiềng được ta.
Khuyên cùng tất cả gần xa,
Mở lòng lương thiện rán mà ăn chay.
Giữ lòng chơn chánh thảo ngay,
Tinh chuyên niệm Phật liên đài phóng quang.

Ở Ấn Độ, đây là một quốc gia rất nhân ái, rất có lòng thương đối với mọi loài súc vật. Những ảnh hưởng to lớn tốt đẹp trong việc tránh và kiêng cử việc giết thú vật đã có từ ngàn xưa, mạnh mẽ nhất là triều đại vua A Dục. Vua A Dục một nhà vua theo đạo Phật vào thời gian trị vì (268-233 Trước Công nguyên). Trước khi theo Phật nhà vua rất tàn ác, ông đi đến đâu là máu rơi và thây chất cao như núi đến đó, hàng triệu sinh linh đã vì ông mà bỏ mình, nhưng kể từ khi theo Phật ông trở thành một ông vua nhân đức chưa từng có. Ông không những cấm cản những chuyện giết chóc đối với người, mà với loài vật ông cũng ra các lệnh ngăn cấm, kể cả việc giết hại để cúng tế. Ông ăn chay và chống đối việc giết hại thú vật để ăn thịt. Ông cũng đã viết thành sắc lệnh trên một số trụ đá rằng: “Để phát huy những điều lành thiện giữa con người, tôi hô hào mọi người tránh làm tổn hại sinh mạng mọi loài bằng cách không sát sinh bất cứ thú vật nào.”

Truyền thống không giết hại sinh mạng thú vật để ăn thịt từ đó đã kéo dài qua nhiều thế kỷ, cho đến thời gian mà ngài Pháp Hiển, một cao tăng Trung Hoa sang Ấn Độ vào thế kỷ thứ Tư cũng còn thịnh hành, và Ngài đã ghi lại một số điều trong tập ký sự của ngài như sau:

“Dân chúng trong vùng rất đông và an vui… khắp nơi ở trong nước, người dân không giết hại bất cứ sinh mạng loài vật nào, cũng không dùng các chất men rượu… Họ không có nuôi heo, gà và không bán những loại gia súc. Trong chợ không có quầy bán thịt, không có những người mua bán chất men say…. Chỉ có những hạng người Chiên đà la là làm nghề cá, săn bắn và đi bán thịt… ”

Cho đến ngày nay số người ăn chay ở xứ này cũng vẫn nhiều hơn người ăn mặn, người ta ước tính số người ăn chay độ khoảng 70% dân số Ấn; do đó ai cũng thấy rằng dân tình ở đây hiền hòa, quốc gia bình yên. Nếu có dịp đi vào các khu chợ không bao giờ người ta thấy bày bán đủ loại thịt cá, mà chỉ thấy từ đầu chợ đến cuối chợ chỉ có rau quả. Họa hoằn lắm, lâu lâu mới có một sạp thịt, hoặc cá nho nhỏ do một anh chàng Hồi giáo nào đó đứng bán. Người Ấn và những người theo đạo Ấn khinh khi và nguyền rủa những việc làm ác, giết chóc hại vật. Họ cho rằng một khi người ấy ác độc giết hại thú vật thì người ấy cũng có thể ác độc giết hại con người được. Có lẽ tư tưởng này cũng không chỉ giới hạn bên Ấn mà tại Âu châu, một triết gia người Đức, ông Schopenhauer Arthur (1788-1860) cũng có những ý nghĩ tương tự khi nói rằng:

“Khi lòng thương thú vật được xem là biểu hiện của những đức tính tốt đẹp, thì người ta có thể tin tưởng và khẳng định rằng, ai làm bất cứ điều gì tàn ác với thú vật, thì người đó không thể là một người tốt được”.

Còn ở Mỹ trong những thập niên vừa qua, người ta đã có ước đoán rằng khoảng 12 đến 15 triệu người không ăn thịt, do vì nguyên nhân này hay một nguyên nhân nào khác. Số người không ăn thịt trong thế hệ này đã tăng gần 3 lần so với các thế hệ trước của họ.

Người dân Ấn Độ do vì có những truyền thống và tư tưởng khá đặc thù đối với vấn đề sát sinh và ăn thịt thú vật, nên trong nước cũng có rất nhiều chuyện lạ. Chẳng hạn như trên các đường xá có những bồn nước cho chim hoặc các loài vật khác uống. Nhiều loài vật khác rất dạn dĩ như chim, sóc, khỉ thường hay chạy nhảy qua lại ở các xóm làng phố phường. Có lúc chúng còn quấy phá người ta nữa mà chẳng kiêng dè. Có thể nó biết và cảm nhận được lòng tốt của con người xứ này nên chẳng bao giờ sợ hãi; nó biết người ta sẽ không bắt nó ăn thịt.

Truyền thống này là căn bản của đạo đức con người. Tỏ lòng thương đối với các loài thú vật được thì tỏ lòng thương giữa người và người với nhau sẽ không là một điều khó. Có được lòng thương rồi thì sự thù hận, oán ghét trong con người cũng bớt, đó cũng sẽ là nhân để tạo nên một thế giới an bình.
Kẻ tàn ác chết đau đớn

Trước đây có một vị tri huyện họ Trương, đặc biệt thích ăn món chân ngỗng và trái tim của con dê còn sống.

Mỗi lần muốn ăn món chân ngỗng, trước tiên ông sai người bắt ngỗng bỏ vào chảo sắt, sau đó đốt lửa. Nhưng phải là lửa lớn thì chân ngỗng mới ngon. Do vậy, ngọn lửa từ dưới lò được quạt cháy dữ dội, đỏ rực một vùng. Thương cho con ngỗng bị sức nóng của lửa đốt, hoảng hốt nhảy loạn cả lên. Nó quạt đôi cánh cố vùng lên khỏi nắp chảo, xoay bên này, bên kia, miệng kêu la nghe rất thảm. Ban đầu con ngỗng còn phản ứng mạnh, nhưng dần rồi nó quằn quại trong lòng chảo nóng, đến nỗi không còn cất tiếng kêu được nữa. Đôi chân của nó bị đốt phồng to lên, máu toàn thân tụ về, đau đớn khôn xiết, nhưng đó là chỗ mà người đời cho là món ăn đặc biệt. Thế rồi, nó liền bị người cắt đứt đôi chân. Lại tiếp tục đun nấu cho đến khi toàn thân ngỗng đều chín tới.

Thử tưởng tượng như việc này mà xảy ra với chúng ta hoặc người thân của chúng ta thì quả là một cực hình không sao tưởng tượng nổi! Vậy mà có người lại nỡ làm như vậy với con vật chỉ vì một miếng ăn ngon. Thật tàn ác biết bao!

Còn khi muốn ăn món dê, thì ông bắt trói con dê treo trên đầu cây cột sau bếp. Rồi dùng dao đâm xuyên ngực, xương sườn của con dê, sau đó mới moi lấy trái tim dê đem đi nấu nướng. Con dê đau đớn kêu la thảm thiết! Tiếng kêu của nó nghe rất sầu não rồi lịm dần, đôi mắt ngoái nhìn quanh quất như tìm vị cứu tinh, hai chân lay động như muốn vượt khỏi xích xiềng.

Thời gian lặng lẽ trôi qua, viên Tri huyện chỉ làm nô lệ cho ba tấc lưỡi để thỏa mãn khẩu vị mà đã giết hại không biết bao nhiêu con dê và ngỗng. Mỗi khi thưởng thức, ông đều dùng phương thức cực hình như thế. Thế rồi một ngày nọ, có một Văn sĩ đến khuyên ông không nên sát sinh hại vật, song ông chẳng những không nghe lại còn trách mắng người đó. Văn sĩ liền bảo:

– Nội trong nay mai ông sẽ mắc bệnh hiểm nghèo rồi sẽ chết đấy!

Nói xong, Văn sĩ lại ra đi. Quả nhiên, chẳng bao lâu, sau thời gian thụ hưởng như thế, viên Tri huyện bị mắc một căn bệnh hiểm nghèo, thân của ông bỗng sưng phù lên, mọc đầy mụn nhọt độc, vô cùng đau đớn rên la suốt cả đêm ngày. Biết bao danh y nổi tiếng khắp nơi được mời đến chữa trị, nhưng tất cả thuốc thang đều không có kết quả. Bệnh tình của ông ngày càng trở nên trầm trọng. Chứng bệnh thống khổ hành hạ ông rất lâu mới chết. Mùi hôi thối bốc ra từ thân thể ông bay tới trời xanh không ai chịu nổi.

Tác hại khôn lường của những món ngon song nấu toàn đồ độc.

Các loại gia vị công nghiệp như: bột ngọt, bột niêm, viên niêm, hàn the, các chất tạo màu, tạo mùi… làm cho thức ăn trở nên dai hơn, giòn hơn, thơm tho, ngọt ngào, ngon hơn, hấp dẫn hơn đã đánh lừa khẩu vị người dùng, thật ra hoàn toàn chỉ là ảo giác, còn bản thân thực sự của chúng không hề có tí xíu giá trị dinh dưỡng nào cả, thậm chí còn gây nên hậu quả nguy hiểm đến tính mạng của ta. Chúng được xem như là tên sát thủ giết người êm ái nhất, chúng ta cần phải thận trọng!

Mặt khác hầu hết các thực phẩm công nghiệp chế biến đều có chứa chất bảo quản, mà thành phần chất bảo quản lại là căn nguyên của vô số những bệnh tật nan y trong thời đại hiện tại, vì vậy chúng ta cần phải kiêng cử. Ngay cả những hoa quả rau củ khi trồng tỉa mà sử dụng quá nhiều phân bón hóa học và thuốc sát trùng cũng phải thận trọng, tốt nhất là đừng nên dùng!

Cổ nhân hằng răn nhắc chúng ta rằng: “Bệnh tùng khẩu nhập; Họa tùng khẩu xuất”. Tất cả mọi tai họa đều sinh ra từ cửa miệng, do lời nói bất cẩn sơ xuất hay thiếu suy nghĩ chín chắn tạo nên; Bao nhiêu thứ tật bệnh phần lớn đều bởi ăn uống những món ngon song nấu toàn đồ độc!

Còn một sự việc khá tế nhụy nữa là, một khi chúng ta quen dùng những thức ăn ngon song nấu toàn đồ độc rồi, thì dần dà lâu ngày ta trở nên ghiền nặng, tự tạo phiền phức cho mình, tự tạo khổ đau cho mình, đưa đến trí tuệ lần hồi giảm sút, nghiệp chướng lần hồi gia tăng. Tại sao? Bởi vì chúng ta đã đam mê ảo giác vị ngon giả dối, cũng tức là chính chúng ta tự đánh mất lẽ thật, quay lưng lại với chân lý, với giác ngộ, quay lưng lại với cái vô cùng quý báu mà một người con Phật nào cũng cần phải trân trọng giữ gìn! Hiểm họa này mới thực sự đáng chú ý nhiều hơn!

Vì vậy ăn uống càng thanh đạm, sức khỏe càng tốt và càng dễ dàng duy trì ổn định nhất, vừa tiết kiệm phước báu, vừa ít tốn kém thời gian, rộng thì giờ tu tập cũng như công quả tích chứa phước đức, hồi hướng cầu sanh Tây Phương.

Thực đơn của bà cụ Hứa Triết ở Singapore, là: Mỗi ngày bà ăn một bữa, bà ăn rau sống, thỉnh thoảng đôi khi bà luộc sơ qua, với một chút ít cơm, không có dầu, không có muối, không có đường, gia vị gì bà cũng không ăn, thế là giải quyết xong một ngày.

Bà đã sống mấy chục năm, thân thể vô cùng khỏe mạnh, biểu diễn cho chúng ta thấy. Bà cả đời chăm sóc hơn 20 người già. Trên thực tế những người già đó đều mới bảy, tám mươi tuổi, năm 2005 bà đã 106 tuổi. Cho nên chính bà nói với mọi người, bà là người thanh niên 106 tuổi.

Người thế gian chúng ta vừa sợ cái này không đủ dinh dưỡng, lại sợ cái kia không đủ dinh dưỡng. Kết quả thật sự thiếu toàn bộ. Tại sao vậy? Tất cả các pháp từ tâm tưởng sanh. Ta thường hay nghĩ nó không đủ, thì nó làm sao đủ được! Như bà Hứa Triết, như Thế Tôn và những đệ tử của Ngài chẳng nghĩ gì cả. Chẳng nghĩ gì cả mà cái gì cũng đủ cả, chẳng có vấn đề gì hết. Điều này chúng ta không thể không tỉ mỉ suy gẫm. Cho nên cần phải lấy giới làm thầy, cần phải phát sinh ra đại nguyện, hy vọng vĩnh viễn nương vào khổ hạnh để tự hành trì và cảm hóa kẻ khác, tiến đến chỗ cứu cánh. Chỗ cứu cách của chúng ta chính là vãng sanh Tịnh Độ, đây là chỗ cứu cánh của chúng ta. Sau khi đến Tịnh Độ rồi, chắc chắn một đời chứng vô thượng Bồ Đề, chỉ một đời là thành Phật.

Đời lại chẳng có gì thật cả,
Xác thân còn tan rã bùn lầy;
Huống chi các việc bên ngoài,
Cũng là giả nốt có ai giữ còn.
Tuổi sống cứ ngày mòn lụn mãi,
Còn ốm đau tai hại nọ kia;
Ghét, thương, được, mất, hợp, lìa,
Khổ cho đến chết chưa hề xong chi.
Thế mà chẳng mấy khi nghĩ tới,
Còn tạo ra nhiều nỗi khổ thêm;
Trên đời rối mãi không êm,
Giữa người thường có thù hềm nhau luôn.
Khiến cho kiếp vô thường càng khổ,
Cũng làm cho mạng số ngắn thêm;
Hết ngày rồi lại kế đêm,
Sống chờ quỉ sứ đến thềm bắt đi.
Bị hành hạ còn gì hơn nữa,
Chịu đọa đày không số đo lường;
Thế mà nghiệp ác còn vương,
Bao giờ ra khỏi con đường trầm luân.
Cõi Phật chẳng tử thần léo hánh,
Thật hoàn toàn một cảnh an vui;
Sao người chẳng chịu đến lui,
Cứ đeo cõi tạm đầy mùi khổ lao.
5/- Ngủ nghỉ

Cái sướng nhất của người thế gian là được ngủ theo số thời gian mà họ muốn. Họ cũng có thể đi ngủ thật trễ một hai giờ khuya hay sớm khoảng tám chín giờ, để rồi khi thức dậy có thể là bảy tám giờ hoặc mười một, mười hai giờ trưa mà chẳng phiền hà ai, và cũng chẳng sợ ai la rầy.

Cuộc đời con người của chúng ta thì giấc ngủ đã chiếm một phần ba kiếp sống này rồi, thế thì nếu người ta không tránh khỏi cái khổ trong đời sống vật lộn bon chen hàng ngày, thì người ta phải có quyền hưởng cái sướng và đẹp trong giấc ngủ chứ? Không hưởng được khi ngủ lẫn khi thức thì thế gian này còn lại gì?

Đức Phật dạy rằng:

“Người xuất gia thì lấy ba việc ăn, mặc và ngủ nghỉ làm giới hạn, không cho nó đầy đủ như người thường. Vì ba điều ấy mà buông lung phóng túng thì biết mấy cho vừa, lại thêm thời gian thoáng đó mà trôi chảy không ngừng nên không khéo tu, không khéo hành trì thì chỉ uổng kiếp sống một đời người, mà chẳng mang ích lợi gì cho mình và cho người”.

Còn không sợ thầy hay gặp một vị thầy quá dễ dãi thì có thể mình sẽ cảm được một sự thoải mái nào đó trong đời sống tu hành; nhưng nếu không khéo sống trong sự ý thức và tự chủ với chính mình thì khi về già, ta có thể trở thành một người tu dốt, kiêu ngạo, lười biếng và hay tìm cách che mắt người. Có lẽ những điều này đã xảy ra rồi, nên ngay cả thời xưa, chư Tổ cũng đã có răn dạy về điều này. Tổ Quy Sơn có dạy:

“Tu hành giải đãi biếng lười nên đến lúc tuổi già, lạp hạ thì lớn nhưng bụng không lòng rỗng. Do vì chưa từng thân cận bậc thiện hữu tri thức để học hỏi nên giáo pháp không biết, luật nghi chẳng thông, chỉ biết xấc láo và ngạo mạn. Nói năng vô phép, lời to tiếng lớn, không kính người trên, chẳng nhường kẻ dưới. Khi ăn khua bát, khua chén ồn ào, ăn xong dậy trước tụ họp ngồi nói chuyện tào lao không khác tà đạo bàng môn, nên dầu đã bạc đầu mà chẳng ai lợi ích. Kẻ hậu học có đến thưa hỏi Phật pháp thì không biết mô tê, nếu có trả lời thì đáp bậy nói càng không liên can gì kinh điển. Hậu sinh khinh chê thì nổi quạu, lớn tiếng quát tháo, bảo rằng vô lễ”.

Trong năm món đam mê của cuộc đời thì trong đó cũng có cái tham ngủ nghỉ, nên xem chừng cái ham muốn này đừng nên xem thường nó. Người tu thì do vì có lý tưởng và mục tiêu sống của họ, nên buộc phải kìm hãm bất kỳ thứ gì có thể kìm hãm được, để cho đời sống tu hành được thăng hoa hơn. Nhưng với người thế gian thì không có mục tiêu rõ rệt trong cuộc đời, nên con người ta thường chỉ tìm cách sống sao cho thoải mái thân này là được. Thân này càng thoải mái, càng sướng thì người ta càng cho rằng cuộc đời họ sẽ có hạnh phúc. Do đó mà bao nhiêu tiện nghi vật chất được tạo ra cũng là để phục vụ cho thân này, mà vật chất để cung ứng cho cái ngủ nghỉ cũng đa dạng không kém. Trong những xã hội phương Tây, người ta bày biện ra biết bao nhiêu loại giường, kiểu nọ kiểu kia với đủ thứ thời trang đẹp mắt. Nào giường nước, giường sưởi, giường điện, giường bông, giường lò xo kéo lên kéo xuống và thôi thì đủ thứ. Thế nhưng, không phải được sử dụng những thứ tiện nghi cao sang với vật chất tứ bề là người ta có thể có được một giấc ngủ ngon lành.

Thật ra con người chúng ta vì phải mang thân xác phàm phu này, nên việc ngủ phải là một yếu tố cần thiết cho cuộc sống. Tuy nhiên nó chưa hẳn là điều quyết định cái sướng, cái khổ của con người. Theo Phật giáo thì những người ngủ nhiều tâm trí sẽ bị ám muội, dật dờ và thiếu sự sáng suốt; còn nếu ngủ ít quá mà chưa có khả năng tự chế thì cũng có thể sinh ra phiền não. Trong hai điều đó cần phải có một sự dung hòa để thích hợp với tự thân. Với Đức Phật một người đã hoàn toàn giác ngộ thì giấc ngủ thường tình đã không còn ảnh hưởng thân Ngài. Giấc ngủ của Ngài là sự nhập định. Trong kinh tả rằng vào buổi tối từ khoảng thời gian 10 giờ khuya đến 2 giờ khuya, là giờ đức Phật giảng pháp và hóa độ cho chư thiên. Từ 2 giờ đến 3 giờ Ngài đi kinh hành, từ 3 giờ Ngài nằm định thần nghiêng về phía tay mặt. Từ 4 giờ đến 5 giờ, Ngài nhập Đại bi định rải tâm từ bi đến mọi loài chung sinh, sau đó dùng Phật nhãn của Ngài để quán sát người có nhân duyên được độ. Đó là một giấc ngủ của bậc trí tuệ. Ngoài ra, ngay cả bậc đệ tử lớn của Ngài là Tôn giả Đại Mục Kiền Liên cũng không kiểm soát và chế ngự được cơn ngủ trong sự tu tập của Tôn giả. Trong kinh Trưởng Lão Thượng Tôn Thùy Miên, thuộc Trung A Hàm, Đức Phật dạy Tôn giả về phương cách chống lại cơn buồn ngủ như sau:

“Này Đại Mục Kiền Liên, nếu chứng buồn ngủ của thầy không bị diệt trừ thì hãy theo giáo pháp đã được nghe, tùy theo đó mà thọ trì, tâm suy niệm, tâm suy tư. Lại nữa, thầy có thể dùng hai tay xoa lên hai mép tai, hay lấy nước lạnh rửa mặt và dội ướt thân thể, hay đi ra ngoài trời xem khắp bốn phương, nhìn các vì sao. Như vậy thì chứng buồn ngủ mới có thể được diệt trừ”.

Người tu nên hiểu cái lẽ vô thường hơn ai hết, do đó việc ngủ nghỉ cần phải khắc chế. Đức Phật trong kinh Di giáo, Ngài cũng nói nhưng lời ân cần sau cùng khuyên bảo các thầy Tỳ kheo là chớ nên ngủ nghỉ nhiều, mà hãy lo gắng sức tu hành sớm hôm để cầu giải thoát. Ngài nói:

“Các thầy Tỳ kheo, ban ngày thì nỗ lực thực tập thiện pháp, không để thì giờ lướt qua, đầu đêm và cuối đêm cũng đừng phế bỏ, giữa đêm lại phải tụng niệm để tiêu trừ nghiệp chướng. Đừng vì lý do ngủ nghỉ mà để một đời trôi đi, mà chẳng đạt được chút ích lợi gì. Hãy nhớ ngọn lửa vô thường đang đốt cháy thế gian, hãy sớm cầu tự độ mà đừng ham ngủ nghỉ. Giặc phiền não thường rình rập để giết hại ta, dữ hơn kẻ thù thì tại sao ta có thể ngủ nghỉ mà không tự cảnh giác? Phiền não ngủ trong ta ví như rắn hổ mang nằm ngủ trong nhà, các thầy phải dùng móc sắt giới luật mà cấp tốc móc kéo nó ra. Rắn độc ra rồi mới yên tâm mà ngủ nghỉ. Không ra mà ngủ thì thật là kẻ không biết sợ và hổ thẹn.”
Phật độ thầy Tỳ kheo tham ngủ chứng đạo

Đức Phật thường dạy các đệ tử phải chăm chú toàn tâm tu học. Ngài dạy các thầy không được buông lơi hay lười nhác, nhưng có một thầy không tinh tấn, khi những người khác công phu thì thầy vẫn ngủ ly bì.

Hầu hết các thầy tỳ kheo đều chuyên cần công phu nên đã đắc đạo dứt sạch mọi lậu hoặc triền phược khổ đau. Còn vị thầy kia do ham ngủ, các bạn đồng môn đã nhiều lần góp, nhưng thầy vẫn không thay đổi tập khí sâu nặng này.

Đặc điểm chủ yếu là thầy ngủ quá nhiều. Hàng ngày, sau bữa ăn thì thầy đi ngủ. Khi ngủ thì đóng chặt cửa và ngủ một mình trong thất. Không ai có thể đánh thức, bất kể họ cố gắng đến đâu.

Hôm nọ, đến giờ giảng pháp, tất cả đại chúng đều có mặt, ngoại trừ vị thầy ham ngủ kia. Đức Phật bèn hỏi đại chúng rằng: “Tại sao thầy sa môn ham ngủ kia không đến?”

– Thưa Đức Thế Tôn, thầy ấy tới giờ vẫn còn ngủ. Chúng con không thể đánh thức thầy bất kể chúng con cố gắng cách nào.

Phật biết rằng thầy ấy chỉ còn sống bảy ngày nữa thôi. Nếu thầy chết trong khi ngủ, thì cái chết đó quả thật là bất hạnh. Nên Ngài bèn cùng Tôn giả A-nan tới thất của thầy ấy.

Khi đi tới trước thất của vị thầy, có thể nghe tiếng ngáy vang to như sấm. Lúc Tôn giả A-nan mở cửa thì tiếng ngáy nghe càng to hơn. Vị thầy vẫn nằm ngủ say trên giường.

Tôn giả A-nan đã gọi tên vị thầy ấy trong vài phút, nhưng thầy vẫn không hay biết gì cả. Sau đó Đức Phật đi tới bên giường và nhẹ nhàng lay động, thì thầy lập tức tỉnh dậy.

Nhìn thấy Phật đứng trước mặt và đang bằng ánh mắt từ bi nhìn vào mình, thầy liền đứng dậy cúi lạy và nói: “Đức Phật tôn kính, xin tha thứ cho con vì thất lễ!”.

Đức Phật từ hòa bảo thầy rằng:

– Con chỉ còn bảy ngày để sống. Ta không thể chịu được khi thấy con chết trong khi ngủ quá nhiều và không đạt được đạo quả. Ta tới đây để đánh thức con đó!

Vừa nghe xong thì thầy giật mình kinh hãi. Thầy chưa bao giờ biết rằng mình có thể chỉ còn sống được bảy ngày nữa, nên rất lo sợ và không biết phải làm gì.

Đức Phật bèn an ủi: “Đó là duyên phận của con. Vào thời Phật Duy Vệ, con đã từng xuất gia nhưng vì tham lợi dưỡng, yêu mến giả thân mà không chịu nghĩ đến kinh kệ, giới luật, cứ mãi ăn ngủ, chẳng quán vô thường. Đến khi chết, thần thức con đã sanh vào loài mọt gạo trong 50.000 năm. Sau đó con đã chuyển sinh thành một con ốc sên, một con trai, và một con bọ nhậy trong 50.000 năm cho mỗi loại.

Khi đó, con thích sống trong những nơi tối tăm không có ánh sáng, con rất trân quý cơ thể và cuộc sống của mình. Điều đặc biệt là trải qua tất cả bốn sinh mệnh khác nhau của con đều thích ngủ. Sau 200.000 năm, cuối cùng con đã trả nợ được tội lỗi mà con đã phạm. Nay tội đã hết, được làm sa môn, tại sao vẫn còn ham ngủ không biết chán? Sao không cố gắng tinh tấn công phu, để ra khỏi dòng sanh tử luân hồi đau khổ này?”.

Nghe Phật nói xong, thầy vô cùng hổ thẹn, nhanh chóng thành tâm ăn năn sám hối, thật là kỳ diệu, tất cả những ý niệm tư tưởng nhiễu loạn đã biến mất. Thầy tinh cần dụng công tu tập, bất kể ngày đêm. Bảy ngày sau, trước lúc lìa đời, thầy đã đắc được quả vị La Hán.

Nếu người ta thật tâm với đạo, với sự giải thoát cho chính mình và vì hạnh lợi tha cho người, thì họ cũng không thấy có thời gian để ngủ nghỉ nữa. Thời gian trông dường như dài đằng đẵng của một ngày ấy thoáng qua là hết với bao nhiêu là công việc của sự tu hành, xem kinh sách, dịch thuật, giảng dạy và đi hoằng hóa nơi này nơi kia. Các bậc thầy xuất gia hay các đại đức cư sĩ của chúng ta đã là những tấm gương trước mắt. Các vị ấy suốt cả một đời người đã không có sự phóng túng tìm cái an nhàn và ngủ nghỉ cho mình, mà chỉ lo cho Phật pháp, lo cho chúng sinh với bao nhiêu là công hạnh lợi tha. Khi mà các bậc thầy ấy cảm nhận được ân đức của chư Phật, trách nhiệm mà quý Ngài đang gánh trên vai, thì làm sao có dư thời gian rỗi rảnh để yên lòng lo chuyện ngủ nghỉ. Chính những tấm gương và đức hạnh của các Ngài, chính những lời dạy tha thiết của Đức Phật về việc ngủ nghỉ như thế, mà ta có thêm năng lực để tự khắc chế mình, hầu có thể mạnh dạn bước vững trên con đường giác ngộ giải thoát.
Nhờ sợ nên đắc đạo

Thuở xưa, ở nước Ma-thâu-la có một thanh niên theo Tôn giả Ưu-ba-cúc-đa xuất gia. Xuất gia xong, thầy rất thích ngủ. Thấy vậy, Tôn giả hóa ra một con quỷ có bảy đầu, tay nắm lấy cành cây, treo mình lơ lửng trên không. Thầy tỳ kheo trông thấy hết hồn, sợ quá nên chạy về chỗ của mình. Tôn giả bảo:

– Ông hãy trở lại chỗ cũ ngồi thiền đi!

Tỳ kheo thưa:

– Bạch hòa thượng, ở trong rừng đó có con quỷ bảy đầu đang ở trước mặt con, tay nắm cành cây treo lơ lững trên không trung. Thật rất đáng sợ!

Tôn giả nói:

– Con quỷ đó không đáng sợ, ham ngủ mới đáng sợ. Nếu ông bị con quỷ đó giết, ắt hẳn không rơi vào sanh tử. Nhưng nếu bị ngủ nghỉ sát hại thì sẽ trôi lăn trong vòng sanh tử vô cùng tận!

Thầy tỳ kheo bèn trở về chỗ ngồi thiền lại thấy con quỷ ấy. Vì lo sợ quỷ nên ông không dám ngủ, tinh tấn tư duy chẳng bao lâu đã đắc quả A-la-hán.

Chớ để đến thúi sình mất xác,
Lỗi công sanh phí mất một đời;
Một khi để kiếp qua rồi,
Muốn tìm trở lại làm người khó thay.
Làm người được là may muôn thuở,
Cũng là do xưa có nghiệp lành;
Bây giờ nếu biết tu hành,
Tất là sẽ được trở thành Phật Tiên.
…Quá vật chất bị đời ám ảnh,
Yếu tinh thần bị cảnh cuốn lôi;
Chung quy chẳng việc nào rồi,
Chỉ làm đau khổ cho đời nhiều hơn.
…Bởi mê mới làm tôi thị dục,
Nếu ngộ đâu tùng phục lòng tà;
Dục tà đều hại người ta,
Dục là thống khổ tà là trầm luân.
Dục thường vì xác thân khởi xướng,
Tà thường vì vọng tưởng gây ra;
Cả hai đều thứ mắt lòa,
Lợi gần thì thấy, hại xa không tường.
Gần dứt thở trên giường chưa biết,
Bảo vợ con nối tiếp đường lầm;
Vì tình mà thọ cảm tâm,
Vợ con rồi cũng lũi lầm theo luôn.
Nghiệp cha mới vừa buông con bắt,
Hết cháu rồi lại chắt nối truyền;
Cứ như thế đó lưu liên,
Gây nên một khối thảm duyên nhiều đời.
Cha mẹ chết con rơi nước mắt,
Con chết thì cháu chắt khóc ròng;
Vợ thì chan chứa vì chồng,
Chồng thì vì vợ đôi giòng lệ rơi.
Nước mắt ấy từ đời vô thỉ,
Bốn biển to đem ví không bằng;
Sanh ly tử biệt vô ngằn,
Giây oan đáng sợ nợ trần đáng ghê.

a. Tóm kết về ngũ dục

Ngũ dục như một thứ ma túy. Tham đắm ngũ dục giống như khát nước mà lại đi uống nước muối. Nước muối uống hoài thì làm sao mà hết khát cho được. Khi mình có những cảm thụ mà người đời cho là dễ chịu, là sung sướng, là khoái lạc trong khi thọ nhận năm thứ tiền tài, sắc đẹp, danh vọng, ăn uống và ngủ nghỉ, thì lúc thỏa mãn lại tiếp tục muốn có nữa và ngày càng mất phương hướng trong đó. Nếu như một ngày nào mà không có sự xúc chạm dễ chịu thì bứt rứt khó chịu như là đang lên cơn ghiền ma túy vậy. Sở dĩ mình đau khổ là vì mình quá tham lam, mình không biết hài lòng với những gì mình đang có, mà còn mong đạt được những thứ không phải là của mình. Người đi vào thế giới ngũ dục là đi vào thế giới ảo, bởi vì nó là biển cả mênh mông không bến không bờ. Người mà kinh doanh thành công, tiền vào như con sông nước cuồn cuộn đổ, thì sẽ khó có thời giờ để tu tập bởi vì họ đang bị kẹt vào việc kiếm tiền; Nếu công ăn việc làm vừa đủ chi tiêu thì sẽ có nhiều thời gian công phu tu học hơn. Cơm áo gạo tiền chỉ là những phương tiện giúp cho chúng ta duy trì sự sống, để có thể hành đạo chứ không phải biến mình thành cái máy tiêu thụ hay hưởng thụ những cái mình làm ra. 

Người tu cần phải biết rằng mình ăn cơm là để sống, mình mặc áo là để che thân, ngủ là để có sức khỏe, mình uống nước là để nuôi dưỡng cơ thể, nhưng mục đích cuối cùng của việc sống, việc che thân, việc có sức khỏe, việc nuôi dưỡng cơ thể là để cố gắng niệm Phật chuẩn bị hành trang cho ngày cuối, chứ không phải chạy theo bất cứ ảo tưởng nào khác. Người sống trong thiếu thốn vật chất mà vẫn cảm thấy vui, thấy hạnh phúc, thấy bình thản an nhiên tự tại thì còn gì quý báu bằng. Người biết tu cho dù tặng thưởng họ hàng triệu đô la để yêu cầu chạy theo ngũ dục thì họ cũng không thèm. Mình chỉ cần những giây phút bình yên, trong thân và tâm, như vậy là còn hơn cả tỷ phú rồi. Mình không sống một cuộc sống thấp hèn, mà sống cuộc sống sao cho cao đẹp, có ý nghĩa, càng ít mong cầu thì càng tốt, bởi lẽ, khi đó mình không phải so đo tính toán lo được lo mất, để cho ngày tháng trôi qua trống không. Thị hiếu của con người là một loại bệnh trầm kha, càng có nhiều thị hiếu, nhu cầu càng nhiều và tham muốn càng cao, lúc nào cũng làm tôi mọi cho dục vọng, mà dục vọng đích thực là hố thẳm không đáy, nó sẽ nhanh chóng đẩy ta bước vào cửa tử tan xương nát thịt một cách quá ư dễ dàng!

Ở trong đời bất luận ai,

Vay đời tất phải đầu thai trong đời.

Của vay thì phải trả lời,

Nay ăn một miếng mai thời trả hai.

Hiện thời chịu lắm nàn tai,

Tội nơi tiền kiếp đã vay quá nhiều.

Sướng bao nhiêu khổ bấy nhiêu,

Vui trong nghiệp ác là điều không vui.

Quả nào là quả chẳng muồi,

Nghiệp nào là nghiệp chẳng hồi trả đưa.

Đời tàn như giống gặp mưa,

Trả vay trước mắt không chờ đợi lâu.

Lưới Trời thưa chẳng lọt đâu,

Tiên mà phạm giới cũng thâu lại phàm.

Việc chi dù lắm muốn ham,

Nếu không chính đáng cũng cam nhịn chừa.

Dục tâm biết lượng sao vừa,

Ham rồi ham nữa bao giờ hết ham.

Ham trong nhứt khắc chừa kham,

Được vui muôn thuở được làm siêu nhân.

Người sống ít ham muốn khi mạng chung sẽ không sợ hãi do vì chẳng có gì để luyến tiếc, tài sản không có, địa vị không có thì chết rất bình thản, có gì đáng để luyến tiếc đâu. Còn người  tiền đầy nhà có thể đè chết người, địa vị quyền lực trên thiên hạ khi chết sẽ hối tiếc vô cùng, chết rồi tiền đó ai xài đây, nếu để lại cho con cháu e rằng chúng nó đâm chém tranh giành lẫn nhau, tình ruột thịt cũng mất. Như vậy cái sung sướng trong ngũ dục chỉ là cái hạnh phúc ảo, nó không có thực và nó làm cho mình trở thành một tên nô lệ không hơn không kém. Cho nên chỉ cần sống đơn giản đạm bạc, thiểu dục tri túc, tận dụng tháng ngày còn lại chăm lo niệm Phật cầu về Tây Phương, một đời ra khỏi sanh tử luân hồi, có cái nhìn thấu đáo như thế tạm gọi là người có trí tuệ chân thật!

Kinh hoàng những cái chết của gia đình 3 đời làm nghề đồ tể 

Làng Phú Thành có nhiều người hành nghề đồ tể. Nhưng nổi đình nổi đám nhất vẫn là gia đình anh Trung  có truyền thống ba đời làm nghề sát sinh.

Ông nội Trung vốn là người chuyên giết mổ gia súc, chế biến thức ăn cho binh lính Pháp tại các doanh trại thời Pháp thuộc.

Thừa hưởng nét tài hoa của ông nội, bố Trung nấu nướng rất ngon. Quán lòng lợn tiết canh của ông trên con đê đầu làng lúc nào khách cũng đông nườm nượp.

Nổi tiếng thế nhưng phải đến đời Trung cơ nghiệp của gia đình đồ tể giàu truyền thống ấy mới thực sự phất. Sáu tuổi đầu Trung đã được bố tẩm bổ mỗi sáng một bát tiết tươi và quả mật lợn nóng hổi.

Khi con dao bầu sáng lóa vừa chọc vào yết hầu con lợn, máu xối ra như thác, bố Trung vội hứng đầy bát con, ngửa cổ uống ực một hơi cạn. Bát thứ hai, ông dành cho Trung.

Quả mật vừa bứng khỏi bụng con lợn còn bốc hơi, ông ngửa cổ, phùng mang trợn mặt nuốt. Ông cười khà bảo: “Thiên hạ ngu lắm. Chỉ biết đến mật gấu, mật hùm, mật rắn mà không biết chi đến mật lợn”.

Trong các bài thuốc cổ phương trị viêm xoang, viêm mũi, hiếm có loại mật nào sánh bằng mật lợn. Nó có vị đắng, mùi tanh, tính lạnh, có tác dụng giảm đau, tiêu sưng, sát khuẩn, thông đại tiện, kích thích tiêu hóa và bài tiết mật, chống viêm, kháng khuẩn, bổ tỳ vị rất tốt.

Theo Y học cổ truyền, tỳ vị thuộc hành “Thổ”, có chức năng hấp thu, vận chuyển chất dinh dưỡng để nuôi các bộ phận khác trong cơ thể. Tập trung “ôn bổ tỳ vị” chính là giúp giải quyết nguyên nhân sâu xa của mọi loại bệnh tật”.

Do vì sùng bái công năng của mật lợn nên ngày nào, ông cũng ép thằng con trai mới 6 tuổi đầu nuốt một quả. Và lần nào, Trung cũng khóc ngất vì nghẹn và đắng. Sau, dùng riết thành quen. Dần dà Trung nghiện nuốt mật sống từ lúc nào không hay.

Không biết có phải nhờ công dụng của cả núi mật lợn khổng lồ ấy hay không mà Trung lớn nhanh như thổi, khỏe như trâu. 17 tuổi, Trung đã cao 1,8 mét, thân hình khỏe mạnh. Từ bé đến lớn chẳng bao giờ hắt hơi, sổ mũi, ốm đau gì cả. Và nghiễm nhiên, Trung trở thành người kế thừa nghiệp đồ tể gia truyền.

Kỹ năng giết mổ lợn của Trung đạt đến trình độ thượng thừa. Các tay đồ tể khác, khi giết mổ lợn, thường cần 2-3 người hỗ trợ giữ chân trước, chân sau. Riêng Trung, dù lợn to, nặng đến mấy, cũng chỉ làm một mình và rất nhanh.

Tay lăm lăm chiếc chày gỗ lim đen bóng dài một thước trao truyền từ đời ông nội, áo xắn quá khuỷu, cơ bắp cuồn cuộn rắn đanh như lực sĩ, chân đi ủng cao đến gần đầu gối, Trung rón rén bước gần đến con lợn đang lùi dần vào góc chuồng.

Đốp”. Nhanh như chớp. Một nhát chày ngang gáy. Con lợn quay lơ, không kịp kêu một tiếng. “Đốp”. Con thứ hai đổ gục… Cứ thế, chỉ trong vài tích tắc, cả đàn lợn nằm lăn quay. Trung khom mình, túm hai chân sau lôi xềnh xệch con lợn lên bệ xi măng lạnh ngắt.Phập”.

Con dao bầu sáng loáng đâm một nhát trúng yết hầu. Máu tuôn xối xả xuống cái chậu nhôm to. Không giãy đành đạch. Không một tiếng kêu eng éc. Chọc tiết xong, Trung liếc con dao bầu vào hòn đá mài to tổ chảng bên cạnh cho sắc lẹm, rồi cạo lông sồn sột, chẳng cần đến chảo nước nóng để nhúng lợn.

Da lợn trắng bệch nhưng chân lông vẫn còn nguyên. Trung giải thích: “Chẳng sao. Bây giờ mấy ai còn ăn da lợn”.

Nhẹ nhàng, nhàn nhã, thong dong, im ắng. Thế mà đến 5 giờ sáng, mấy con lợn đã làm xong. Thịt đã ra thịt, xương đã ra xương để các lái buôn chở đi.

19 tuổi Trung đã đòi cưới vợ. Vợ Trung tên Hương 18 tuổi, đảm đang, tháo vát, con ông chủ tiệm thịt chó nổi tiếng làng bên.

Lấy Hương, Trung như hổ mọc thêm cánh. Kinh doanh càng phát đạt. Dịp gần Tết, mỗi ngày thịt cả chục con, Trung kiếm tiền như nước. Năm 2000, vợ chồng Trung xây cất ngôi biệt thự 3 tầng rộng rãi, với lối kiến trúc nửa Tây nửa Tàu vênh váo vươn khỏi lũy tre làng.

Ở một làng thuần nông như Phú Thành, ngôi biệt thự đó hoành tráng, rực rỡ, xa xỉ như cung vua phủ chúa. Có điều, trầm trồ với vẻ lạ mắt của ngôi biệt thự hoành tráng thế thôi, chứ nói về gia đình Trung, người dân Phú Thành nổi tiếng về truyền thống hiếu học, trọng chữ nghĩa, nhiều người thành danh trong xã hội, vẫn có gì đó khinh miệt:

Ối dào! Dân đồ tể ấy mà. Nhiều tiền thật đấy nhưng thất học thì cũng chẳng vẻ vang gì.

Các bậc cao niên trong làng ngồi uống trà thì thường rủ rỉ với nhau:

Cái nghề sát sinh là bạc phúc lắm. Tôi cứ ngấm ngầm theo dõi suốt mấy chục năm nay, ở cái làng này, phần lớn gia đình làm nghề đồ tể đều có hậu vận không tốt, gặp họa cho đời sau. Như vợ chồng ông Long mổ lợn ở đầu thôn. Hai vợ chồng ở với nhau suốt mấy chục năm mà không có nổi mụn con. Về già, cả hai vợ chồng đều bị tai biến nằm liệt giường liệt chiếu, thối da thối thịt. Đến lúc chết, chính quyền xã phải đứng ra lo tổ chức ma chay.

Rồi anh Trí, chủ cửa hàng thịt chó gần chùa làng, 39 tuổi đã mắc bệnh ung thư gan. Bộ xương to như cái trống. Nằm kêu rên ư ử suốt ngày đêm. Đau đớn vật vã đến tận lúc chết.

Mà nói đâu xa, ông nội của Trung kia, sáng sớm tinh mơ ngồi đun chảo nước sôi làm lợn. Chả biết trúng phong hay ngủ gật, ngã vật xuống đất, đầu vùi vào chảo lửa. Đến lúc vợ con phát hiện, nhấc dậy thì cả cái mặt bị lột da, trắng bệch như phủ lợn vừa cạo lông. Cả nhà chết khiếp.

Ông bố Trung, khi đó mới ngoài 50 tuổi. Buổi trưa, ra đình làng uống nước với cụ thủ từ. Vừa rít điếu thuốc lào, ông kêu tức ngực, khó chịu trong người. Ông lững thững đi về nhà nằm nghỉ. Lát sau, nghe tiếng kêu cứu thất thanh của bà vợ: “Ôi làng nước ơi! ông nhà tôi bị làm sao thế này!”

Hàng xóm chạy đến, thấy ông nằm bất động trên giường, lay không cựa, gọi chẳng thưa. Khi bác sĩ đến kiểm tra mạch, đo huyết áp, bỗng dưng toàn thân ông co giật đùng đùng, rồi học ra một đống máu. Ông chết một lúc rồi mà dòng máu tươi vẫn rỉ ra từ miệng. Nhìn cảnh ấy, ai cũng kinh hãi. Cho nên, mọi thứ trên đời đều rất vô thường và đều có nhân có quả. Sung túc như vợ chồng tay Trung đấy nhưng chẳng biết hiểm họa ập đến lúc nào đây.

Những lời bình phẩm ấy nhiều lần đến tai vợ chồng Trung, Trung cười khẩy: “Mẹ sư chúng nó. Nghèo, lười, không chịu lao động nên rỗi hơi ngồi săm soi, bàn tán chuyện nhà ông. Cứ ngồi đấy mà hóng chờ xem ngày bố mày chết. Có mà trăm tuổi bố mày mới chịu chết cho nhé!”.

Trung thất học từ bé, lại sớm tiếp xúc với máu me, giết chóc nên ăn nói lỗ mãng. Trung chẳng có thú vui gì ngoài thú bia rượu và đàn bà.

49 tuổi, người rừng rực cơ bắp, Trung lao vào hết cuộc giăng gió này đến vụ mây mưa nọ. Quay cuồng trong nhịp sống phóng đãng, Trung không biết đến mệt, ngưng nghỉ. Nghe thấy ở đâu có gái đẹp là Trung mò đến. Tán tỉnh, vần vò chán chê, Trung lại đá phốc.

Một lần, biết chồng xí xớn với cô chủ quán karaoke ngoài thị trấn, cô vợ tìm đến tận nơi. Móng vuốt chưa kịp cào cấu kẻ tình địch, thị đã bị ăn một cái tát nảy đom đóm mắt. Trung rít lên qua kẽ răng: “Cút về ngay, mày muốn chết phải không? Đồ con lợn!”.

Khổ thân cho cô vợ quê mùa, lủi thủi quay về, vừa đi vừa tấm tức khóc kể.

Đam mê nhục dục, Trung không tiếc tiền cho việc bồi bổ sức khỏe. Sau này, kết thân với mấy tay lái buôn ngựa ở Bắc Giang, Sơn La, nghe họ quảng cáo về công dụng của cao ngựa bạch, Trung đâm mê, chuyển sang sưu tầm loại cao này. Cứ chủ nhật cuối cùng của tháng, Trung mua cả con về, giết mổ tại nhà. Thịt đem ra chợ bán. Xương nấu cao. Một phần để dùng. Một phần bán.

Một hôm, tay lái buôn từ Sơn La đem xuống cho Trung một con ngựa trắng: mắt thau đồng , móng trắng, môi trắng hồng, không có đốm đen, buổi tối soi trước bóng đèn thì thấy hai mắt ngựa đỏ rực như than lửa. Bộ phận sinh dục, mũi, mõm có màu hồng đỏ, bốn chân có móng sừng, màu cước ánh bạc. Đây là giống ngựa rất quý hiếm. Trung sướng rơn như bắt được vàng. Tay lái buôn dặn :

Con này đang có chửa. Nếu anh sợ thì hãy chờ khi nó đẻ xong hãy thịt.

Ngót 30 năm làm nghề giết mổ, lại vốn vô thần vô thánh, Trung không biết sợ là gì.

Tối hôm đó, vợ Trung đi xuống nhà dưới, cạnh chuồng nhốt ngựa. Nghe qua cửa sổ, bỗng chị hét toáng lên. Trung hớt hải chạy xuống, quát lớn:

Cái gì thế? Có sao không?

Chị vợ mặt cắt không còn giọt máu, nói hổn hển qua hơi thở đứt quãng:

Mình ơi! Tôi vừa nhìn xuống chuồng, thấy có người đàn bà đang nằm ôm con khóc. Rướn mắt nhìn kỹ lần nữa, tôi vẫn thấy họ. Người mẹ ấy nhìn tôi ánh mắt như van lơn, trông tội nghiệp lắm. Sợ quá, tôi mới hét lên. Tôi nghĩ đó là điềm xấu. Mình đừng giết con ngựa bạch ấy nhé!

Bà xem phim ma cho lắm vào rồi nhìn người tưởng ngựa, nhìn ngựa tưởng người. Chưa biết chừng, có ngày, bà nhìn tôi lại tưởng là chó, cho một nhát dao là toi đời. Thôi, lên giường đi ngủ. Bà bị điên đến nơi rồi!

Tờ mờ sáng, mọi người đã tụ tập đông đủ ở sân nhà Trung. Dụng cụ giết mổ đã chuẩn bị xong. Chảo nước sôi reo ùng ục. Thằng Kiên, con trai út của Trung, 16 tuổi, lực lưỡng như bố, hăm hở vào chuồng dắt ngựa.

Nó kéo mũi, rồi đánh, rồi chửi, nhưng con ngựa vẫn nằm im, không chịu đứng lên. Thấy vậy, Trung và mấy người bạn huỳnh huỵch vội chạy vào. Vừa nhìn thấy Trung, con ngựa bỗng nhổm dậy, hai chân trước quỵ xuống như van xin. Từ trong đôi mắt màu thau đồng của nó, hai dòng nước mắt ứa ra.

Chứng kiến cảnh con ngựa ứa nước mắt, quỳ xuống van xin, cả vợ và bạn của Trung đều can ngăn anh đừng xuống tay nhưng Trung bỏ ngoài tai, cho đó là mê tín dị đoan.

Anh Chiến, bạn của Trung thấy vậy liền khuyên Trung không nên thịt nhưng Trung phủi tay, không tin vào chuyện nhảm nhí.

Đốp”. Cánh tay lực sĩ cuồn cuộn cơ bắp của Trung vung chiếc vồ thép nhanh như một tia chớp giáng thẳng xuống đầu ngựa. Con ngựa ngã khụy xuống nền gạch. Nhanh như cắt, Trung rút con dao nhỏ xíu, cỡ hai đầu ngón tay, xiên một nhát thật ngọt ở cổ.

Tính ra mất 15 phút, con ngựa to tướng chỉ còn lại đống bầy nhầy lòng phèo nằm giữa sân, thịt xương đã thành đống riêng biệt. Tội nghiệp chú ngựa con chưa thành hình, Trung sai vợ đem rửa sạch với nước gừng rồi cho vào chiếc bình ngâm rượu.

Buổi chiều hôm ấy, như thường lệ, vợ Trung sai thằng con thứ chở xe máy đi đến các đại lý thu gom tiền. Trung ở nhà mở tiệc linh đình. Rượu cao ngựa bạch, uống với thịt bắp ngựa bạch, vừa ngọt, vừa thơm, vừa bùi, rượu vào không biết bao nhiêu mà kể. Cạn bình rượu này lại lôi hũ rượu khác.

Đúng lúc Trung mặt đỏ phừng phừng như gà trọi, phùng mang trợn mắt, huơ chân múa tay quảng cáo huyên thuyên về công năng huyền diệu của cao ngựa bạch, bỗng nghe tiếng ngoài ngõ lao xao. Tiếng ai đó gào to:

Ông Trung ra ngoài đường quốc lộ mà nhận xác vợ con về!

Trung vội vã buông bát, leo lên xe phóng như điên. Ra đến đầu làng, giáp đường quốc lộ, đã thấy đám đông xúm đen xúm đỏ. Cố hết sức chen, lách, vừa vào đến bờ mương, Trung đứng chết lặng.

Dưới lòng mương, xác hai mẹ con nằm bẹp. Hai bánh trước xe ô tô tải đè ngang ngực. Máu mũi, máu mồm, máu tai chảy lênh láng. Giữa lòng xe tải chiếc xe Honda Lead vỡ vụn.

Sau này, người tài xế xe tải trình báo với công an huyện:

– Đang lái xe với tốc độ 50km/h, đột nhiên, anh nhìn thấy con ngựa trắng cao lớn đứng ngay đầu xe. Anh hốt hoảng đánh vô lăng sang trái, đúng lúc chiếc xe Lead chở vợ con Trung vừa tới. Xe lao đầu xuống mương.

Lái xe may mắn thoát chết. Run run mở cửa xe bước xuống, tài xế rợn người khi nhìn thấy xác hai người bị bánh trước của xe ô tô đè lên. Hắn vội vã bỏ chạy.

Vụ tai nạn rùng rợn với cái chết thương tâm của hai vợ con Trung xảy ra vào cuối tháng 9 thì đến đầu tháng 11, người con trai cả của Trung sinh năm 1974 tự dưng lăn đùng ra chết. Cậu này không làm nghề mổ. Được ăn học tử tế, làm giám đốc một doanh nghiệp ở Quảng Ninh. Đang tuổi sung sức làm ăn, người vâm váp, khỏe mạnh, không bệnh tật gì.

Thế mà một đêm, đang ngồi xem ti vi anh đột nhiên kêu mệt, đau đầu nên vào buồng ngủ. Nửa đêm, anh lên cơn co giật. Máu mũi, máu mồm ộc ra. Gia đình vội vàng đưa đến bệnh viện nhưng anh đã chết trên đường đi cấp cứu. Cái chết của cậu con trai cả khiến Trung vô cùng hoang mang.

Trung đi xem bói. Thầy phán rằng gia đình bị một oan hồn báo oán. Trung kể lại việc giết con ngựa bạch mang thai cho thầy nghe. Thầy bảo, đó là do linh hồn con ngựa báo oán. Từ hôm đó, Trung bắt đầu sì sụp cúng bái. Sắm đủ lễ lạt, rước các sư thầy về lập đàn giải nghiệp oán, cầu siêu cho linh hồn con ngựa, tốn kém hàng trăm triệu đồng.

Mọi thứ tạm yên được một thời gian. Ăn tết xong, người con trai thứ 3 của Trung lăn đùng ra ốm. Cậu này đô con như lực sĩ, mổ lợn nhanh thoăn thoắt, tương lai kế thừa ngôi vị đồ tể của Trung.

Đêm cậu kêu mất ngủ. Ngày chán ăn. Người cứ mệt rũ ra. Thỉnh thoảng, chợp mắt được một tí thì nằm mơ toàn ác mộng, ngựa đá, chó cắn, xe đâm, la hét ầm ĩ. Gia đình đưa đi khắp các bệnh viện Đông y , Tây y điều trị nhưng các bác sĩ chẳng phát hiện ra bệnh gì. Người càng gầy yếu. Mùa hè năm đó, cậu trút hơi thở cuối cùng.

Cái chết của cậu khiến Trung càng thêm sợ hãi. Trung bắt đầu nghĩ đến những lời đồn thổi của dân làng về hậu vận của mình, bắt đầu tin vào luật nhân quả. Chỉ trong vòng chưa đầy 1 năm mà gia đình Trung mất 4 mạng người : Vợ và ba thằng con trai. Bây giờ, chỉ còn mỗi thằng con trai út, 17 tuổi, đang học lớp 11 trường huyện.

Tạm gác lại chuyện mổ xẻ, giết thịt, Trung chăm sóc con từng bước. Đích thân ngày 2 buổi đưa đón con đi học. Về nhà, Trung giữ rịt nó ở nhà. Không bóng đá, không đi bơi. Thế rồi, buổi trưa nọ, trong lúc Trung ngủ say, cậu út lẻn ra ngoài , đi bơi cùng đám bạn.

Trước cửa đình làng có hồ ba mẫu rất rộng, nước trong. Mùa hè, đám thanh niên và trẻ con trong làng ra hồ bơi ì ùm suốt ngày. Cậu út của Trung bơi rất giỏi. Vậy mà hôm ấy chẳng hiểu sao, nó lại bị chết đuối. Mãi chiều muộn mới vớt được xác nó lên bờ.

Vừa nhìn thấy xác con bụng trương phềnh, da trắng bợt như con lợn vừa bị cạo lông, Trung hộc lên một tiếng : “Ối con ơi!” Đột nhiên, máu đen từ mũi, từ miệng xác con ộc ra như tháo cống. Ai chứng kiến cảnh đó cũng phải khiếp đảm.

Cái chết tang thương của đứa con cuối cùng khiến Trung hoàn toàn suy sụp. Trung suốt ngày ngập chìm trong rượu. Rượu vào là khóc, là chửi, là than. Cho đến một ngày không thấy tiếng khóc, tiếng chửi, tiếng than của Trung, hàng xóm kế bên chạy qua nhòm qua khe cửa.

Họ hốt hoảng khi nhìn thấy Trung nằm sõng soài trên nền gạch, máu chảy lênh láng. Phá cửa vào, mọi người rùng mình khi nhìn thấy trên yết hầu Trung một vết cắt ngọt, sâu, máu vẫn còn đang đùn ra. Tay phải Trung vẫn nắm chặt con dao nhỏ, sắc nhọn bằng hai ngón tay, con dao mà chủ nhật cuối tháng hôm nao, Trung đã dùng để xỉa một nhát thật ngọt vào yết hầu con ngựa bạch.

Người không xả bỏ được tài sắc, chẳng khác nào trên lưỡi dao bén có dính tí xíu mật, cái vị ngon thì quá nhỏ quá ít không đủ một bữa ăn, thế mà trẻ em không biết, tham ngọt liếm vào tất sẽ bị tai họa đứt lưỡi, cái khổ đau thì quá lớn quá nhiều”. Như vậy, cũng có nghĩa là ngay chất ngọt của năm món dục, chất đau khổ đã hiện hành kề bên, như hình với bóng không tách rời nhau trong sự hình thành và tồn tại.

Giọt mật trên lưỡi dao bén không có lỗi, lỗi là do kẻ dại khờ, ngọn đuốc cháy tạt theo hướng gió không có tội, tội là do người ngu muội, bản chất của ngũ dục vốn không lỗi gì, tự nó không có lỗi cũng không có hại. Lợi hay hại là do chúng ta si mê tham đắm vào nó đánh mất trí tuệ.

Mê si là nhận thức sai lầm, khởi tâm đắm nhiễm nên chuốt tai họa, mất hết cả tự chủ và chỉ còn là nô lệ cho những thèm muốn của mình mà thôi. Một khi đã bị lòng tham dục điều khiển, thì con người gây ra không biết bao nhiêu tội lỗi sa đọa trầm luân.

Trí tuệ là nhận thức đúng đắn về ngũ dục, thấy rõ họa hại của ngũ dục nên dè dặt không để nó sinh khởi, đồng thời sử dụng thiện pháp dục như một phương tiện để hành đạo.

Người niệm Phật cầu về Tây Phương cần phải thường tự cảnh tỉnh trước sự quyến rũ của dục vọng, không để nó mê hoặc làm mất phẩm hạnh đạo đức, làm mất mục đích giải thoát,đồng thời cần phải nỗ lực tinh tấn thực hành lời Phật dạy để đoạn trừ tận gốc rễ của sự chướng ngại cho vãng sanh, hầu kiến lập một đời sống trong lành, tự tại an vui ngay giữa cuộc đời này, bởi vì, hiện tại an lạc tương lai mới chắc chắn sinh sang Cực Lạc!

Kiếp người ngắn ngủi, hãy sớm tu hành

Vương Dương Minh (1472—1529) còn có tên là Vương Thủ Nhân, tên thật là Vương Vân, là người Dư Diêu, tỉnh Chiết Giang. Ông là nhà tư tưởng xuất sắc, cũng là nhà triết học, nhà thư pháp, nhà quân sự, nhà chính trị, nhà giáo dục, nhà văn nổi danh nhất của triều đại nhà Minh. Đồng thời ông còn là người văn võ song toàn, từng là tướng mang quân đi dẹp loạn nhiều lần.

Ông được sinh ra trong gia đình trí thức làm quan. Năm 28 tuổi, ông thi đỗ tiến sĩ. Sau khi tôi luyện bản thân ở vùng biên cương, dẫn binh dẹp loạn đã lập được công lao to lớn. Ông làm quan đến chức Nam Kinh Bộ binh Thượng thư, Đô sát viện, Tả đô ngự sử Nam Kinh. Bởi vì dẹp được loạn Thần Hào, ông được phong chức Tân Bá Kiến. Đến năm Long Khánh, ông lại được phong Hầu Tước.

Ông là người tinh thông Nho giáo, Phật giáo và Đạo giáo, hơn nữa còn có thể dẫn quân chinh chiến. Ông được xưng là một nhà thông thái toàn năng của lịch sử Trung Hoa.

Thời điểm Vương Dương Minh ra đời, ông nội của ông đã nằm mộng thấy ông cưỡi mây mà đến. Bởi vì điều đó được xem là vô cùng may mắn nên người nhà đã đặt tên cho ông là Vương Vân.

Vương Dương Minh từ nhỏ đã thông minh hơn người, chỉ có điều là chưa biết nói. Lúc cậu bé Vương Vân 5 tuổi, có một vị hòa thượng đi qua nhà, nhìn thấy cậu đang chơi đùa với chúng bạn Ngài liền tiến lại xoa đầu cậu và nói: “Đứa nhỏ này tướng tốt lắm đấy, chỉ tiếc vì đạo bị phá đi!”. Ý tứ rằng, cái tên Vương Vân đã nói toạc ra lai lịch của cậu, vì thế mà cậu không biết nói. Bởi vậy, người nhà đã đổi tên Vương Vân thành Vương Thủ Nhân. Cũng bắt đầu từ đó, Vương Dương Minh mới biết nói.

Năm Vương Dương Minh 50 tuổi, danh tiếng của ông đã nổi khắp thiên hạ. Lúc ông ở Trấn Giang đi Kim Sơn du ngoạn. Trên đường đi, ông luôn cảm thấy con đường này rất quen thuộc.

Sau đó, vào tham quan một ngôi chùa, ông thấy có một gian phòng đóng chặt cửa (nơi hòa thượng ngồi thiền) đã quá cũ nát, trên cửa còn dán giấy niêm phong. Ông liền yêu cầu hòa thượng ở đó mở cửa ra để vào trong xem. Hòa thượng ngăn lại, nói: “Đây là nơi một lão tăng viên tịch cách đây đã 50 năm. Trong này có thân thể bất hoại của vị lão tăng, 50 năm qua chưa từng mở cửa ra, là nơi tôn nghiêm không thể xem được”.

Vương Dương Minh dùng quyền uy của mình kiên quyết yêu cầu mở cửa, vị hòa thượng đành phải mở. Vừa mở cửa, ông nhìn thấy vị lão tăng đã viên tịch vẫn ngồi ngay ngắn trên bồ đoàn, vẫn trang nghiêm và như thật.

Trên bức tường trong phòng còn viết một bài kệ:

“Ngũ thập niên hậu Vương Dương Minh,
Khai môn do thị bế môn nhân.
Tinh linh bế hậu hoàn quy phục,
Thủy tín thiện môn bất phôi thân”.

Ý nói: 50 năm sau, Vương Dương Minh là người mở cửa, cũng là người đóng cửa. Sau khi vứt bỏ những danh vọng đời thường, hãy quay về với tu hành bởi vì ông vốn là người tín thiền môn.
Nguyên lai là lão tăng sau khi viên tịch đã sớm biết việc tương lai cho nên cố ý lưu lại câu kệ ấy là để nhắc nhở Vương Dương Minh chớ quên mất bản thân nguyên sơ của mình. Thực ra, cũng chính là vị lão tăng tự nhắc nhở bản thân mình ở kiếp sau, sợ sang kiếp sau sẽ quên mất.

Vì triều đình rối loạn đồng thời vua Minh Thế Tông không biết xoay xở cách nào nên một mực dụ dỗ sai ông đi dẹp giặc Tư Ân và Bát Trại. Dẹp xong thì bệnh tình của ông trầm trọng, lúc nóng lúc lạnh, ho mửa ra máu.

Tháng 10 năm 1528, ông dâng sớ cáo quan về dưỡng bệnh. Ông giao binh quyền cho Vương Đại Dụng rồi không đợi chiếu nhà vua mà sắm sẵn một chiếc quan tài mang theo để về quê.

Khi đi qua địa phận Nha Sơn, Nam An, ông đã lên ngôi chùa cổ Linh Nham ở trên núi để thăm hỏi. Không may gặp đúng dịp trong chùa có một vị cao tăng viên tịch từ mấy hôm trước, nên nhà chùa không tiếp khách. Sau đó, phải trao đổi qua lại nhiều lần, Vương Dương Minh mới được đồng ý cho vào chùa.

Vừa bước vào trong gian mật thất của nhà chùa, Vương Dương Minh giật mình nhìn thấy trên án có viết bài kệ:

“Ngũ thập thất niên vương thủ nhân,
Khải ngô thược, phất ngô trần,
Vấn quân dục thức tiền trình sự,
Khai môn tức thị bế môn nhân”.

Ý nói rằng, vào năm 57 tuổi, Vương Thủ Nhân đến chùa. Không lâu sau sẽ rũ bỏ bụi trần.

Đọc xong câu kệ, Vương Dương Minh tự cảm thấy ngày tháng tương lai của mình không còn nhiều lắm, vội vàng rời đi. Không đầy hai tháng sau, ông buông tay, rời khỏi cõi trần, bỏ lỡ một duyên lành đáng tiếc, thọ đúng 57 tuổi.

Qua câu chuyện trên ta nhận thấy cánh cửa danh lợi quả thật khó có ai thoát lọt! Sự nghiệp vĩ đại của ông ảnh hưởng hậu thế không phải là nhỏ, nhất là người Nhật Bản xem ông là một Thánh Nhân, nhưng mà, một khi còn trong vòng sanh tử luân hồi thì phước báo càng lớn lại là họa hại càng sâu dày cho tương lai. Thế nên si phước thật rất đáng sợ lắm thay!!!

Người chỉ có khác nhau thời đại,
Cũng một tuồng ân ái như xưa.
Cảnh hồng trần dù lắm mến ưa,
Rốt cuộc cũng chỉ đưa đến mộ.
Ăn của thổ thì huờn lại thổ,
Xác phàm nhơn có số định rồi.
Tạo cho nhiều cũng chỉ thế thôi,
Thân khi mất sự đời cũng mất.
Thật nào khác chiêm bao một giấc,
Tiêu tan không sự vật nào còn.
Kể ra nào vợ đẹp hầu non,
Nào cát tía lầu son lộng lẫy,
Nào xe cộ tàu bè bóng bẩy,
Nào bạc vàng của cải dư muôn,
Dứt thở rồi vạn sự đều buông,
Sự vật bỏ còn thân cũng rã;
Cõi tạm giả xác thân cũng giả,
Đến cuối cùng đều hóa ra không;
Mưu mẹo gì cũng chỉ luống công,
Càng thêm tội chớ không tồn tại.

*******

Chính sắc đẹp thường giết chết nhiều người rồi, kẻ có danh vọng nhứt là Vua Trụ, Kiệt, U, Lệ, Tề…cũng vì say mê sắc đẹp, nên bị sắc đẹp giết chết cả sanh mạng đến danh thể của các ông một cách nhục nhã.

Còn mớ khăn áo đẹp, thức ăn uống ngon, đám ruộng béo, vườn xinh, nhà to cửa rộng mỗi mỗi đều là cạm bẫy, lưới rập, thường phỉnh gạt người đời sa vào đó, bị treo hầu thắt cổ, bị chà sát bầm dập thể thống thân danh, nhứt là thường bị nó làm cho người phải đọa đày trong vòng sanh tử luân hồi chịu lắm đau thương thống khổ.

Làm vua bảy ngày

Thuở xưa, có một vị vua nổi tiếng nhất, tài ba nhất, đức độ nhất, và được dân chúng kính trọng ngưỡng mộ nhất, đó là vua A Dục. Sau khi Phật nhập Niết Bàn khoảng hai trăm năm, vua A Dục đã thống nhất nước Ấn Độ và để lại cho đất nước này một trang sử huy hoàng.

Vua A Dục là một vị Phật tử thuần thành. Lúc còn tại vị, không những ông dốc lòng tin tưởng Đức Phật mà còn hết sức tích cực lo việc truyền bá chánh pháp.
Để phát khởi lòng tin của dân chúng đối với Phật pháp, ông đã mất không biết bao nhiêu là tâm trí lẫn công sức, tiền tài vào việc lập tháp cúng dường Đức Phật ở khắp mọi nơi.
Ngày hôm nay, nước Ấn Độ còn lại rất nhiều di tích của những chùa và tự viện lớn. Rất nhiều trong số đó là những kiến trúc được xây lên từ thời vua A Dục.
Vua hết sức nhiệt tình trong việc truyền bá và tự mình tu tập Phật pháp, nên bản thân có được một cuộc sống tinh thần rất phong phú và an lạc. Điều làm cho ông buồn lo và thương tiếc nhất là người em tên là Thường Tu, người em này chẳng những không tin Phật mà còn tin theo tà giáo, đi đến đâu cũng hủy báng Tam Bảo. Vua A Dục thường khuyên răn, nhưng ông rất cố chấp, vua không biết phải xử trí bằng cách nào.

Một hôm trời tối, Thường Tu bước vào hoàng cung, nói với vua A Dục rằng:

– Vương huynh! Hôm nay đệ khám phá ra một điều và nghĩ tới một số vấn đề, không biết có thể nói với vương huynh hay không?

Tường Tu nói xong, mở to hai mắt nhìn thẳng vua A Dục, đợi lệnh của vua.

– Thường Tu! Hiền đệ là người em mà ta thương mến nhất, từ trước tới giờ ta không hề có sự phân biệt với hiền đệ, đệ nên thường giúp ta trong việc trị nước mới phải, vậy có chuyện chi mà đệ

không nói được với ta chứ? Đệ muốn nói gì thì cứ nói đi!

Thường Tu bèn tỏ ra rất nghiêm chỉnh:

– Vương huynh! Đệ muốn nói với vương huynh một vài lời trung thật. Huynh đối với mấy ông thầy tỳ kheo Phật giáo quá đỗi cung kính, quá đỗi ủng hộ mấy ông ấy, coi chuyện Phật sự còn quan trọng hơn việc quốc gia. Đệ thấy mấy ông tỳ kheo chẳng có gì xứng đáng cho vương huynh cung kính tôn trọng như thế cả, nên đệ khuyên vương huynh nên coi trọng việc nước hơn!

Những lời hủy báng của Thường Tu, vua A Dục nghe như những mũi tên đâm thẳng vào tim, trong lòng rất buồn nên vội vàng ngăn lại rằng:

– Thường Tu, đệ hãy ngừng ngay những lời nói ấy. Hủy báng Tam Bảo là có tội. Đệ không hiểu sự cao quý của các vị tỳ kheo, họ là những người đã đoạn trừ được ái dục, xa lìa thân quyến để xuất gia cửa Phật, khoác áo cà sa, hoằng pháp lợi sinh, tìm cầu sự an lạc cho nhân dân, cho xã hội. Phật giáo có hưng thịnh thì đất nước mới ổn định được.

Nghe những lời của vua A Dục, Thường Tu đã không đồng ý mà còn nói rằng:

– Vương huynh! Huynh không nên tin họ như thế, cúng dường mấy ông tỳ kheo ấy thì có lợi ích gì? Đệ thấy không những vô ích cho quốc gia, mà còn có hại đối với nhân tâm. Cả ngày họ không làm việc, ngồi đó mà hưởng phúc, không lẽ dân chúng không muốn bắt chước sống như thế hay sao? Hơn nữa, huynh nói họ là những người đã đoạn trừ ái dục, kỳ thật chuyện ấy không thể nào có được. Huynh xem, loài vật còn biết thế nào là tình ái, huống chi là loài người ư?

Thấy nét mặt của vương huynh sầm xuống, Thường Tu liền ngưng giọng, rồi cáo lui, lặng lẽ bước ra ngoài.
Những tà ngôn tà kiến ấy làm cho vua A Dục rất buồn khổ, cuối cùng ông nghĩ ra một giải pháp để sửa đổi quan niệm lầm lạc của Thường Tu.

Một hôm vua A Dục bí mật gọi một vị đại thần vào cung, căn dặn phải làm như thế, như thế… Vị đại thần lập tức vâng theo lời dặn dò của vua mà thi hành.

Vào lúc trời chạng vạng tối, vua A Dục đang tắm ngoài ao, thì vị đại thần nọ cùng Thường Tu bước vào cung, thấy vua A Dục vắng mặt mà vương mão cùng long bào thì bày ngay đấy, vị đại thần bèn nói với Thường Tu rằng:

– Thân vương! Tướng mạo, khuôn mặt của ngài và đại vương hết sức giống nhau, nếu ngài khoác long bào vào thế nào cũng có người lầm tưởng ngài là vua A Dục. Thân vương, ngài làm thử mà xem!

Thường Tu biết đây là một việc phạm pháp, nhưng tâm hiếu kỳ và tâm hư danh thúc đẩy, ông bèn mặc long bào và đội vương mão lên. Đúng ngay lúc ấy vua A Dục bước vào, thấy thế nổi giận, trách mắng Thường Tu rằng:

– Ngươi thật là to gan, dám lén lấy áo mão của ta mà mặc, có phải là ngươi muốn làm phản không? Ngươi tính chuyện soán ngôi, có phải chăng?

Chứng cớ đã rành rành, Thường Tu không còn chạy chối vào đâu được. Vua A Dục hạ lệnh:

– Đem hắn ra ngoài cửa thành chém đầu lập tức!

Vị đại thần nọ bèn vội vàng quỳ xuống can gián:

– Đại vương! Thường Tu là em vua, không phải người ngoài, hơn nữa đây là lần đầu tiên xúc phạm long nhan, xin đại vương tha tội cho thân vương!

Vua A Dục nhìn xuống nét mặt ủ dột của Thường Tu, rồi đột nhiên hỏi:

– Thường Tu, ta hỏi ngươi, ngươi có thích làm vua không?

Thường Tu trả lời rất nhỏ:

– Tuy rất thích nhưng thần không dám vọng tưởng.

– Làm vua thì vui sướng ở chỗ nào?

Bây giờ thì Thường Tu đã lấy lại can đảm, trả lời rằng:

– Vua là người được tôn trọng nhất nước, những khoái lạc vua hưởng kể ra không hết, mà những diễm phúc vua có thì nói ra cũng không cùng tận. Đồng thời cũng không có ai ở trên cai quản vua, như thế không phải vui sướng là gì?

– Được! Ngươi đã muốn làm vua thì ta nhường ngôi cho ngươi trong bảy ngày, ngươi có quyền tận hưởng ngũ dục tùy thích. Nhưng mãn kỳ hạn ấy, ngươi sẽ bị xử tử!

Vua A Dục quy định như thế xong bèn lui về hậu cung, và bí mật ra lệnh cho bốn vị thị thần đứng bốn góc Hoàng cung, chờ mỗi khi chiều tối thì lớn tiếng hô rằng:

– Thêm một ngày vừa mới trôi qua, còn mấy ngày nữa thì xử tử hình!

Thường Tu rất sợ chết, nghe thế mỗi ngày mỗi thêm phiền não, bất an. Không những ông không khởi lên được một niệm dục lạc nào, mà còn lo âu đến nỗi hình dung tiều tụy hẳn. Bảy ngày làm vua trôi qua trong khổ sầu, đến sáng ngày thứ tám, vua A Dục lên ngôi báu trở lại, hai bên có văn võ bá quan đứng hầu, hỏi Thường Tu rằng:

– Sao, ngươi làm vua bảy ngày, hẳn là đã hưởng thụ rất nhiều dục lạc phải không?

Thường Tu nghe vương huynh hỏi như thế thì ủ rũ cúi đầu trả lời trong ê chề, chán nản:

– Tâu Hoàng huynh, em khổ lắm Hoàng huynh! Ngồi trên nệm gấm vương giả, chung quanh dìu dặt tiếng nhạc, tiếng ca của những cung tần mỹ nữ, nhưng lòng em không thể nào vui được khi trí em mãi nghĩ đến lưỡi gươm sáng quắc của tên đao phủ, đến dòng máu đào phun vọt từ cổ em sau khi chiếc đầu em lăn lóc. Trời ơi! Lại thêm nỗi, mỗi khi hoàng hôn vừa tắt, bốn tên lực sĩ Chiên Ðà La đứng bốn góc Hoàng cung, tay cầm gươm trần, tay nắm xích sắt, khua lổn cổn hô to: “Một ngày đã qua! Một ngày đã qua, còn sáu ngày nữa, tân vương sẽ bị chặt đầu. Cái chết của Ngài đang đi tới… một ngày rồi đó”. Âm thanh cảnh báo về số ngày còn lại, đủ làm cho đệ ưu khổ rồi, còn tâm trí đâu mà nghĩ tới mấy thứ lạc thú kia nữa? Vì thế cho nên trong bảy ngày qua, đệ không nhìn thấy, cũng không nghe thấy gì cả.

Hoàng đệ Thường Tu buông tiếng thở dài não nuột, rồi tiếp:

– Tâu Hoàng huynh, mỗi tiếng nói của họ là mỗi lưỡi gươm nhọn đâm vào tim em. Suốt cả bảy ngày, em sống trong phập phồng lo sợ. Ngai vàng điện ngọc, sơn hào hải vị, cung phi mỹ nữ, quyền lực danh vọng tối cao nào có nghĩa lý gì đâu, khi tâm em đầy đau khổ đang khi lo sợ cận kề cái chết, Hoàng huynh ạ!

Rồi Thường Tu bưng mặt khóc nức nở. Ðôi vai run run trong chiếc cẩm bào rộng. Bá quan đều cảm động.

Câu nói của Thường Tu làm cho vua A Dục hết sức vui lòng và yên tâm, ông bèn nói:

– Thường Tu, em! Trong cái danh vị cao cả nhất của người đời, em chỉ sợ sệt, lo âu chết mất một thân này, một kiếp này mà cảm thấy thống khổ đến như thế.

Vậy em hãy nghĩ lại, các vị sa môn tu theo đạo Phật, họ luôn luôn nghĩ đến cảnh sanh, già, bệnh, chết của hết thảy con người, trong vô lượng kiếp, qua nhiều cảnh giới đau thương khốn nàn, như: địa ngục, ngạ quỷ, súc sanh. Vì thế họ không thể có tâm trí đâu mà sinh khởi niệm ái dục hay tham luyến vật chất bên ngoài, thì thử hỏi ăn một bữa trong ngày, khoác hài gai áo vải, có gì là sung sướng đâu em!

Vua A Dục còn thuyết rất nhiều lời pháp liên quan tới sự đau khổ của nhân sinh đối với vấn đề sanh tử, khiến Thường Tu cảm động rơi lệ, bèn phát tâm quy y Phật pháp đồng thời xin vương huynh cho phép mình xuống tóc xuất gia!

Bây giờ chẳng chịu tu cho gấp,
Chừng đáo đầu lặp bặp sao xong;
Sấu còn biết muốn thành rồng,
Người sao không dạ ước mong siêu phàm.
Mang xác thúi không làm thẹn tủi,
Còn đem tâm đắm đuối say sưa;
Chẳng lo hành đạo sớm trưa,
Đổi thân sen báu thơm tho lâu dài.
Sao lại chịu sống ngày thống khổ,
Không lo tìm kiếm chỗ thanh nhàn;
Xuống lên trên cõi thế gian,
Ăn cay uống đắng muôn ngàn kiếp qua.
Sao chẳng chịu xét ra cho kỹ,
Chán thói đời dối mị gạt mình;
Nào danh nào lợi nào tình,
Làm mồi để nhử cho mình mắc câu.
Cũng tại nó mà sầu mà khổ,
Nó làm tuồng bưng bợ thân yêu;
Tử thần khi đến gọi kêu,
Thì là nó cũng trốn tiêu hồi nào.
Nào những cái sang giàu oai vệ,
Nó không hề chết thế cho mình;
Lại là nó rất bạc tình,
Khi mình chết, nó bỏ mình ra đi.
Thân trơ trọi nằm lỳ trong quách,
Cho đến tiêu ra đất ra bùn;
Thật loài hữu thỉ vô chung,
Càng xa sớm được càng không ưu sầu.
Lợi dụng nó làm câu phước thiện,
Đừng để cho nó khiến sai mình;
Rán mà vẹt ngút vô minh,
Chớ cho vật tạm làm mình phải ngu.
Giàu nghèo cũng cần tu mau chóng,
Đừng vội quên bỏ trống nhà xưa;
Cõi trần vì quá thích ưa,
Từ lâu nước cũ nhà xưa không về.
Mẹ mỏi gối đợi kề bên cửa,
Cha đau lòng nhớ trẻ xa đường;
Con lành hãy sớm bải bươn,
Mau về lo việc lửa hương sớm chiều.
Nhà xưa ấy thường kêu An Lạc,
Cha mẹ là vốn Đức Như Lai;

******

Thế thì năm món dục như đã kể trên không đáng nhiễm một điều nào cả, chỉ có một điều cao quí hơn, siêu vời hơn là mỗi người cần phải cương quyết rứt bỏ lòng tham luyến cõi Ta bà ngũ trược, quyết cầu vãng sanh về cõi Cực Lạc. Khi về Cực Lạc được thân bằng hoa sen, cảnh toàn bằng bảy báu, bạn lữ quyến thuộc là các vị thượng thiện nhân, ấy mới được còn mãi và an vui hơn hết.
Và một khi chúng ta thành tâm cầu về cõi Tịnh Độ, dĩ nhiên là chúng ta nhận ngay rằng cõi ấy trang nghiêm thanh tịnh hơn cõi Ta bà uế trược này.

Mà việc cầu sanh về cõi Tịnh Độ không ngoài pháp niệm Phật, vì một tiếng niệm Phật chẳng khác nào một nhịp cầu, càng nhiều tiếng niệm Phật, càng nhiều nhịp cầu nối liền nhau, từ bờ mê cõi Ta Bà qua bến giác cõi Cực Lạc, đưa chúng ta đến chỗ thỏa lòng mong ước.

Được hiểu thế, nên sự niệm Phật đối với chúng ta không còn do dự chần chờ nữa, phải cố gắng niệm, cái niệm này nối liền cái niệm tới không để gián đoạn. Vì nếu để tiếng niệm Phật bị hở cách sẽ là có một dịp cho tiếng niệm phàm phu xen vào, nghĩa là tâm niệm Phật lãng quên, tức là tâm niệm phàm phu sanh ra khuấy rối; như thế có bao giờ thành tựu trong cuộc vãng sanh về Tịnh Độ được.

Nếu còn chìu thị dục nơi thân,
Thì còn bị nhiều cơn chìm nổi.
Còn mê tất nhiên còn tăm tối,
Rán làm cho hết thói say mê.
Cõi siêu sanh thấy lối trở về,
Được khoái lạc còn chi sánh kịp.
Còn mê tất là còn tạo nghiệp,
Nghiệp còn thì còn kiếp luân hồi.
Mê là nguồn gốc tạo ra đời,
Khi đời hết vì người mê hết.
Bởi mê thấy vật chi cũng mết,
Thân chết nhưng không chết nghiệp mê.
Mê đâu thì sanh đó không xê,
Luân hồi bởi tại mê mà có.
Điều ấy chúng sanh nên nhớ rõ,
Bứng gốc mê cho nó hết sanh;
Tất không còn bị nghiệp hoành hành,
Chừng đó mới trở thành tự tại.
Lầm lạc biết quầy đầu trở lại,
Cố đi dầu xa mấy cũng gần.
Đem phàm thân đổi lấy Phật thân;
Vạn sự ở tinh thần cương quyết.

Huống chi, nếu mình còn ngờ vực, còn lần lựa không chịu gấp rút niệm Phật, không chịu quyết tâm cầu sanh Tịnh Độ, cứ mãi quay cuồng theo tánh phàm, theo việc thế, thì ngày mạng chung thường có mười điều khiến mình không còn đủ thì giờ chuẩn bị để niệm Phật được.

Mười điều ấy là:

– Một là, trong lúc hấp hối rủi chẳng gặp người lành khuyên cho niệm Phật, thì không làm sao nhớ để niệm được.

– Hai là, trong lúc gần mạng chung bao nhiêu cảnh giới ác, do nghiệp tạo bất chánh của mình trong lúc khỏe mạnh gây ra đã hiện rõ trước mắt mình thấy, tai mình nghe và trong người bứt rứt không hề rãnh giây phút nào, thì đâu có thế gì niệm Phật được.

– Ba là, rủi phải mang lấy chứng bịnh bất ngờ trầm trọng, khô hầu tắt tiếng; lúc đó thấy mình kinh hồn sơ sệt đâu còn nhớ đến sự niệm Phật mà dầu muốn niệm Phật cũng không làm sao niệm cho ra tiếng được.

– Bốn là, rủi phải bị thứ bịnh cuồng tâm loạn óc, thì đâu còn tự chủ mình được nữa, thành một người điên dại thì đâu thế nào niệm Phật được.

– Năm là, rủi bị té sông, biển, ao, hồ mà chết, hoặc bị hỏa hoạn hay núi lửa khạc lửa, hay động đất, sóng thần mà chết, chết một cách cấp tốc, chết một cách bất ngờ hốt hoảng, đâu còn được thì giờ để niệm Phật.

– Sáu là, rủi phải bị loài ác thú: cọp, hùm, beo, gấu vồ bắt, lại lúc ấy không người tiếp cứu nhắc nhở cho niệm Phật, thế thì làm sao nhớ niệm Phật được.

– Bảy là, nếu chần chờ chẳng may gặp những người bạn hung ác, chỉ biết làm điều tội lỗi, không tin Trời Phật, không tin luật nhân quả, họ khuyên làm những điều ma mị, rồi mình đem lòng tin theo, thì đâu có bao giờ biết và nhớ đến sự niệm Phật được.

– Tám là, chẳng may vì trúng thực quá nặng, hay vì trong giấc ngủ mê mang rồi chết luôn, thì đâu được hay biết trước để niệm Phật.

– Chín là, khi ra trận hay chạy giặc rủi phải bị tên đạn của kẻ địch xuyên qua chỗ nghiệt của cơ thể chết một cách mau lẹ, thì đâu kịp nhớ để niệm Phật, nói rõ hơn là không còn sống phút nào để niệm Phật.

– Mười là, rủi phải tai nạn giao thông, hay từ núi cao té xuống, hay rớt vào vực thẳm, hoặc lọt xuống giếng sâu chết một cách hốt hoảng, chết một cách bất đắc, thì đâu còn bình tĩnh để niệm Phật được.

Khi lâm chung không gặp bạn lành, nên chẳng ai khuyên niệm Phật, lại bị bạn ác phá hoại lòng tin.

Bạn ác ở đây không phải ai xa lạ gì, mà chính là những người thân thuộc, những người thương yêu mình nhất. Vì chẳng thông hiểu đạo lý sâu sắc, nhất là pháp môn Tịnh Độ, nên họ yêu thương bằng tình yêu thương mê muội theo thế gian, hoặc vì giữ sĩ diện với lối xóm bạn bè mà tạo thành thảm họa rất tai hại gây trở ngại cho sự siêu thoát của người sắp sửa ra đi!

Không gieo nhân Phật, đâu được quả Phật

Phàm tất cả sự việc có nhân ắt có quả, định luật nhân quả không sai tơ hào nào cả. Cũng giống như trồng dưa được dưa, trồng đậu được đậu, tuyệt không có cái đạo lý trồng dưa được đậu, trồng đậu được dưa. Người mong muốn vãng sanh Cực Lạc thế giới cũng như thế, trồng cái nhân niệm Phật thì được cái quả vãng sanh Tây Phương, tự mình không gieo trồng nhân Phật, dù có thiện tri thức trợ niệm cũng không nương nhờ được, lúc vãng sanh đến, phát sanh chướng ngại.

Vào năm 1950, liên hữu Vạn Trương Bội Hoàn, mọi người đều gọi bà là Vạn sư huynh. Một hôm, bà đến nói với Lâm Khán Trị:

– Có một vị đồng hương ở Đông Bắc, đã hơn tám mươi tuổi, thọ mạng sắp hết, thỉnh người giúp đỡ trợ niệm!

Lâm Khán Trị liền hỏi bà rằng:

– Người này lúc bình thường có tin Phật, niệm Phật hay không?

– Không có! Nhưng ông ta khi trước từng làm lãnh tụ Hội Đạo Đức Vạn Quốc, tôi khuyên ông ta niệm Phật là tìm được nơi trở về an ổn, là vãng sanh Tây Phương, ông ta mới biết được điều tốt đẹp của Tây Phương, nên mới muốn thỉnh người trợ niệm, xin sư tỷ giúp cho tìm mấy vị liên hữu ngày mai đến trợ niệm!
Sáng sớm hôm sau, Lâm Khán Trị hẹn với ba vị liên hữu cùng với Vạn sư huynh đồng đi.

Ông cụ ở một căn nhà nhỏ phía sau công viên. Vừa nhìn ông lão đó, thấy ông râu tóc bạc phơ và mặc bộ đồ trắng nằm trên giường, hơi thở thoi thóp, bên mình chỉ còn một bà vợ già, mọi người liền bắt đầu lục tự hồng danh cứ thế niệm mãi, niệm đến trưa Vạn sư huynh liền dẫn mọi người về nhà, thành ý chiêu đãi ngọ trai, khi đã dùng cơm xong lại đi hộ niệm tiếp tục, niệm đến tối mới nghỉ.

Ngày hôm sau Vạn sư huynh tìm đến gặp Lâm Khán Trị thông báo tin mừng:

– Lâm sư huynh, ông lão hôm qua chúng ta niệm cho nghe danh hiệu Phật một ngày, bây giờ đã tỉnh táo, tự trong tâm ông ta cũng đã biết niệm rồi, lại còn nói trưa ngày mai Phật A Di Đà sẽ đến tiếp dẫn, quyết định là 12 giờ sẽ đi, xin sư huynh sáng mai hẹn thêm nhiều vị liên hữu đến nhà ông ta niệm Phật, đưa ông ta vãng sanh Tây Phương, được không ạ?

Lâm Khán Trị lập tức nhận lời, do vì lòng hiếu kỳ thúc đẩy, liền đi tuyên truyền với các vị liên hữu, nói ông ta biết trước giờ đi, mời hẹn ngày mai đi trợ niệm, để xem tướng lành vãng sanh Tây Phương của ông ta.

Qua ngày kế, trước 10 giờ sáng, hơn mười vị liên hữu, nhứt tâm nhứt ý trợ niệm cho ông, và cầu nguyện Phật A Di Đà từ bi tiếp dẫn ông lão này vãng sanh Tây Phương Cực Lạc thế giới. Vạn sư huynh cũng thắp hương không ngớt cầu nguyện khấn vái, mọi người đều dụng tâm thành khẩn như thế trợ niệm. Lúc đó ông lão này mặc một bộ đồ trắng, đắp một miếng vải trắng, trạng thái ngủ mê, thở hổn hển mãi, đến 11 giờ bao nhiêu con mắt chăm chú nhìn, tiếng niệm Phật càng lớn; đến 11 giờ 50 phút, ông bỗng nhiên tỉnh dậy mở miệng hỏi người hầu nam ở bên mình rằng:

– Bây giờ là mấy giờ?

Người hầu nam đáp:

– 11 giờ 50 phút!

Ông lão mặt mày hớn hở, nói một cách sung sướng nhẹ nhàng:

– Còn 10 phút nữa Phật A Di Đà đến đón tôi đi rồi!

Vừa nói ông vừa đảo mắt nhìn giáp một vòng dường như bày tỏ lòng cám ơn mọi người đã vì mình niệm Phật.

Ai có ngờ được trong giây phút ngàn cân treo sợi tóc và phân biệt Thánh phàm này lại xảy ra chướng ngại. Đang lúc mọi người nhứt tâm niệm Phật, thì người hầu nam kia đi lấy một vật trong đống giấy tờ đã được chuẩn bị xong, rất nhanh nhẹn đốt trước mặt ông già, trong nháy mắt đã đốt xong. Bà vợ già của ông như giựt mình, không kềm được lòng, bước xông lên vội vàng đưa tay ra sờ sờ mặt của chồng, bà vừa khóc vừa nói:

– Ông đi Tây Phương bỏ tôi ở lại một mình, phải sống thế nào đây?

Vạn sư huynh lập tức ngăn bà ta lại nói:

– Tôi đã dặn với bà rồi, lúc ông sắp vãng sanh, bà không được khóc lóc lưu luyến, hoặc là động đến mình ông ta, bà quên rồi sao?

Đúng ngay lúc 12 giờ, ông lão mở to mắt ra nói:

– Thưa Phật A Di Đà, tôi không đi Tây Phương nữa đâu, do vì nếu tôi đi Tây Phương, để bà bạn tôi ở lại có một mình thì làm sao? Cho nên tôi không đi nữa!

Lúc đó các vị liên hữu vẫn cứ gắng sức niệm nhưng cũng không sao chuyển được ông ta! Mặc dù rất là thất vọng, cũng tiếp tục niệm hơn nửa giờ nữa, lúc đó nhìn xem ông lão nói năng lộn xộn, trạng thái tinh thần đã trở nên rối loạn không còn rõ ràng nữa! Ai cũng tội nghiệp tiếc than cho ông, rồi ai về nhà nấy.

Đêm đó khoảng hơn 10 giờ, Vạn sư huynh lại đến nhà Lâm Khán Trị kêu đi niệm Phật cho ông cụ, Lâm Khán Trị hỏi:

– Ông ta ra sao rồi?

Bà nói:

– Tâm thần tán loạn, sức khỏe biến đổi xấu, đại khái có dáng rất đau khổ, nhưng ông vẫn còn rất hy vọng nghe người niệm Phật.

Lâm Khán Trị liền lại cùng Vạn sư huynh đi đến nhà ông lão, vào cửa liền nhìn thấy ông lão đang khạc ra máu và dùng tay móc trong miệng ra máu từng cục từng cục, làm dơ đầy giường vết máu tanh. Hai người thấy vậy bèn lập tức lại gần bên giường ngồi niệm Phật to tiếng lên, niệm đến hơn 11 giờ, thấy ông cụ cứ hôn hôn mê mê, không còn cách nào cách nào cứu vãng được nữa, cả hai liền trở về nhà. Khi trời chưa sáng thì ông cụ vẫn cứ mờ mờ mịt mịt như thế mà về âm phủ!

Trong kinh nói: Thân người khó được, thiện hữu tri thức khó gặp. Ông lão này thân người khó được, đã được lại trường thọ, càng khó được hơn là sự nhiệt tâm chỉ dạy của thiện tri thức Vạn sư huynh. Nhưng cái điều không may nhất là cái khoảnh khắc giáp giới giữa Thánh nhơn và phàm phu, lại bị vợ không nghe lời dặn, khởi ra chướng ngại, tội nghiệp cho ông ta rốt cục vẫn phải bị trở lại chìm nổi trong luân hồi, đây cũng giống như: “Lúc bình thường không thắp hương, đến khi gặp chuyện ôm chân Phật cầu cứu”. Mặc dù lúc bình thường là người chánh nhân quân tử, đạo đức, tâm tốt thì tốt, nhưng chưa gieo nhân Phật thì đâu được quả Phật! Lấy câu chuyện này có thể chứng minh.

Mau tu chớ để muộn màng,
Vô thường chẳng đợi thời gian không chờ.
Người khó giữ tuổi thơ trẻ mãi,
Người khó ngăn niên đại già lần;
Khi già khó tránh chết thân.
Trẻ, già, chết ấy số phần người ta;
Người hễ có sanh ra có tử,
Dù vua quan dân thứ như nhau.
Ấy là định nghiệp trần lao,
Từ xưa đã thế chớ nào mới đây.
Trần là chỗ chôn thây thiên hạ,
Trần là nơi đầy đọa sanh linh.
Chung qui nó vẫn phụ mình,
Mặc dù mình có tận tình thương yêu.
Đau khổ với đời nhiều vô số,
Rốt cuộc như nước đổ lá môn;
Thân không một vật nào tồn,
Chỉ còn tội lỗi để hồn gánh mang.
Kiếp rồi mới vừa tan xác đó,
Kế kiếp này cũng bỏ thân luôn,
Nhưng mê đời vẫn không buông!
Biết bao giờ khỏi cái guồng tử sanh?

***************

Có người hễ nói tới chuyện “Chết” là mặt mày tái mét, chúng ta thường không kiêng kỵ những chuyện đáng nên kiêng kỵ, nhưng lại thường kiêng kỵ những thứ chẳng đáng kiêng kỵ. Người xưa nói: “Hiện thời cần lo sợ chuyện chết, tới lúc lâm chung, chẳng phải lo sợ gì hết”. Chúng ta thì ngược lại, hiện tại chẳng lo sợ gì cả, đến lúc lâm chung, tay chân bấn loạn. Mọi người đều ngưỡng mộ công phu niệm Phật của lão hòa thượng Hải Hiền, Ngài thành tựu công phu niệm Phật như thế nào? Chính là vì luôn luôn nghĩ ngay bây giờ là giờ phút cuối cùng của đời mình, nên dốc hết sức niệm Phật.

Thảo Am thiền sư đời Tống có viết một bài khai thị với tựa đề Bí Quyết Niệm Phật, đơn giản, thiết yếu, chẳng tới ba trăm chữ. Bài khai thị này rất ngắn, nhưng được coi là bài khai thị tiêu biểu cho bí quyết niệm Phật của các vị tổ sư đời trước, rất quý báu trong ấy có ghi:

“Ai chẳng biết niệm A Di Đà Phật, nhưng niệm được đắc lực rất khó. Ai chẳng nguyện sanh Tây Phương Cực Lạc thế giới, nhưng người vãng sanh được rất hiếm, vì người niệm Phật chẳng biết bí quyết. Chỉ có một chữ Chết là có thể giúp cho người niệm Phật niệm chân thật thiết tha. Giữ chặt một chữ Chết trong ý niệm thì đối với các cảnh duyên gặp phải hằng ngày tự nhiên sẽ lạnh nhạt, tình ái cũng tự nhiên nhẹ bớt. Danh lợi, thế lực đến lúc đó không dùng được nữa. Những điều thấy nghe, hiểu biết đến lúc đó, cũng không dùng được nữa. Lúc tứ đại phân ly còn dựa vào gì được nữa? Cô hồn vô chủ làm sao tự do được? Lúc đó, nếu không thấy Phật Di Đà, e rằng sẽ phải gặp quỷ La sát. Không sanh Tịnh Độ, e rằng phải nhập thai lừa. Đừng cho rằng chuyện này có thể chần chờ! Chuyện gì ngày mai sẽ xảy ra, hôm nay làm sao biết được? Đừng coi nhẹ chuyện này, đời này lầm lỡ sẽ trầm luân vĩnh viễn. Hết thảy mọi chuyện không gì quan trọng bằng chuyện lớn sanh tử, cho nên mọi chuyện khác đều chẳng cần thiết. Trong mọi lúc, luôn nghĩ là lúc lâm chung. Nghĩ như vậy thì lúc nào cũng là lúc niệm Phật. Niệm Phật như vậy mới được thiết tha. Niệm Phật thiết tha như vậy mới vãng sanh Tịnh Độ. Phải hạ thủ công phu như mình đang sắp chết thì mới thành tựu Tịnh Nghiệp. Thường nghĩ tới lúc chết thì tâm vì sanh tử mới thiết tha.

Đó là những bậc thang thành Phật, là bí quyết cho chuyện thành tâm niệm Phật vậy”.

Cha chết rồi kế con cũng mất,
Cháu bỏ thây tới chắt chôn thân.
Chồng qua đời kế vợ tạ trần,
Vua chúa chết quan dân cũng chết.
Kẻ chết rồi lợi danh cũng hết,
Ai lại không rõ biết điều này.
Chẳng ngán ngao còn mãi mê say,
Mê qua đến, mê nầy mê tới.
Cha mê kế lại con mê nối,
Từ xưa nay một lối đi hoài.
Thân tham danh, tham sắc, tham tài,
Tiêu mất cả có ai còn sống.
Trái lại do nơi lòng tham vọng,
Chịu biết bao khổ chốn Ta Bà.
Lòng tham nầy nếu nhịn được là,
Các việc khổ xảy ra sao được.

Tâm nghĩ mình chưa chết là cho rằng mình tạm thời sẽ không chết, còn lâu lắm mới tới phiên mình chết. Đấy là tâm trạng và thái độ phổ biến của mọi người. Mọi người ai cũng ý thức rằng mình rốt cục sẽ chết, mỗi người đều biết mình có một ngày chắc chắn sẽ chết. Ai cũng có ý niệm và suy nghĩ rằng cuộc đời rất ngắn ngủi, tạm bợ, nhưng mỗi ngày đều ngây ngô cho rằng hôm nay thần chết sẽ không đến thăm mình! Cứ nghĩ như vậy, mãi cho tới giây phút mạng chung đến suối vàng; trước đó cứ chấp chặt ý tưởng mình sẽ sống mãi mãi. Chúng ta không cho rằng mình sẽ không chết, mà là nghĩ bây giờ hãy còn sớm, còn chưa tới phiên mình chết. Hôm nay tôi sẽ chưa chết, năm nay cũng sẽ chưa chết. Đây là ý niệm tiềm tàng trong tâm chúng ta. Do vậy, đối với chuyện lớn là niệm Phật tu hành, cứ khất được là khất, hôm nay cứ hẹn “đợi tới ngày mai mới niệm”. Năm nay hẹn đến năm sau sẽ niệm. Cứ cho rằng thời gian còn dài, còn nhiều thời gian.

Khéo phù hợp làm sao! Trong quá trình “hẹn lại” ấy, Vô Thường lại thình lình xuất hiện!

Cái chết chưa bao giờ báo trước, không bao giờ báo cho chúng ta biết trước. Hãy hồi tưởng những người thân, bạn bè của chúng ta, chẳng ít người đã chết trong lúc cho rằng mình còn lâu mới chết. Những chuyện xung quanh chúng ta đều là như vậy.

Có một bà cụ bị bịnh, nằm trên giường, hôm đó, bà bảo đứa con chưng cho bà một chén yến. Sau khi ăn xong, bà ta bảo con: “Má còn chưa chết, còn lâu mới chết”. Sau đó, người con yên tâm đi làm. Trên đường tới sở làm, người nhà gọi điện nói mẹ ông đã qua đời!

Đã nhiều đời nhiều kiếp, phần đông chúng ta đều đọa trong ác đạo. Giả sử một ít dịp nào đó, may mắn sanh vào cõi lành, nhưng thường là sanh vào những chỗ không thể tu hành. Dù cho may mắn sanh làm người và có thể tu hành, nhưng lại không thể tu hành đúng như chánh pháp, nguyên nhân là vì cái tâm cho rằng mình còn chưa chết. Cứ nghĩ rằng mình sẽ còn lâu mới chết; do vậy, tu hành không tinh tấn. Tâm trạng này đã hại chúng ta từ đời này sang đời khác.

Có một vị Đại Thành Tựu, tức là một hành giả Mật Tông được mọi người công nhận là bậc đạt thành tựu trong Phật giáo Tây Tạng. Một hôm có một người tu hành từ xứ Khang đến yết kiến vị Đại Thành Tựu và cầu xin truyền pháp. Vị Đại Thành Tựu chẳng truyền trao gì hết, nhưng sau khi người kia ba lần nài nỉ, khẩn cầu, Ngài cầm tay người kia, thành khẩn nói:

“Tôi sẽ chết, ông cũng sẽ chết.
Tôi sẽ chết, ông cũng sẽ chết.
Tôi sẽ chết, ông cũng sẽ chết”,

Lặp lại như vậy ba lần, và nói thêm: “Bí quyết tu hành của Thượng Sư chẳng có gì khác! Tôi cũng thề rằng chẳng có bí quyết gì thù thắng hơn ba câu trên”. Người tu hành từ xứ Khang ấy nghe xong, tu hành rất tinh tấn, cuối cùng đạt thành tựu.

Chúng ta thường nghe nói có người nào đó bị ung thư sẽ chết rất nhanh. Thật ra, mỗi người chúng ta ai cũng phải chết, chẳng có ai không chết, chỉ là sớm hay muộn mà thôi! Người xưa nói:

“Sáng không nghĩ tới cái chết thì cả ngày sẽ trôi qua vô ích. Chiều không nghĩ đến cái chết thì ban đêm sẽ trôi qua vô ích”. Nghĩ về cái chết sẽ sách tấn chúng ta mau mau niệm Phật, lúc nào cũng nghĩ mình sắp chết.

Kẻ trong thế giới càn khôn,
Biết lo xác cũng như hồn ít ai.
Cứ lo những chuyện dông dài,
Tử sanh việc lớn ít ai lo lường.
Bịnh đang hấp hối bên giường,
Thuốc không lo đến lo đường lợi danh.
Biết không sống được trường sanh,
Mà không chịu bỏ tánh tình tham lam.

Kỳ hạn chết không nhất định

Kinh Pháp Cú nói:

“Trong số những người mình gặp sáng nay, có người chiều nay sẽ chết và không thể gặp lại nữa. Trong số những người mình gặp chiều nay, có người sáng hôm sau sẽ không gặp lại nữa”.
Cuộc đời vô cùng mong manh, giống như bọt nước, có thể vỡ tan bất cứ lúc nào. Chúng ta thấy con nít chơi trò thổi bong bóng nước. Dù cái bong bóng nước có thể an ổn bay lên không trung, nhưng không biết bao giờ, nó sẽ đụng phải vật gì chướng ngại và bị vỡ tan. Tình hình của chúng ta hiện nay cũng vậy, người xưa có nêu một thí dụ: Thí dụ từ đỉnh núi cao chúng ta rớt xuống đất, trong khi còn đang lơ lửng trong không trung chưa chạm xuống đất, chúng ta vẫn vui sướng, cảm thấy dường như chẳng có chuyện gì, chẳng biết phải mau niệm Phật, chẳng biết bao giờ sẽ chạm mặt đất và bị tan xương nát thịt. Kể từ sau khi chúng ta thọ sanh, cũng giống như con dê đang bị dẫn đến lò sát sanh, chuẩn bị làm thịt, trong từng bước chân bị dẫn đến chỗ chết chóc. So với tháng trước, tháng này gần kề cái chết hơn một chút. So với hôm qua, hôm nay càng gần cái chết một chút. So với ban ngày, ban đêm gần cái chết hơn một chút. So với phút giây trước, phút giây này càng gần cái chết hơn một chút. Cái chết sẽ chẳng đến chậm rãi và có đủ quy luật như ta tưởng tượng. Phương thức, nhân duyên và thời gian nó xuất hiện chẳng có cách nào xác định được! Do vì kỳ hạn chết bất định, ta làm sao bảo đảm năm nay, ngày mai, hoặc một thời khắc sau, chính mình không chết? Làm sao bảo đảm không đọa vào trong ác đạo rên xiết chịu lắm khổ đau?

Cho nên cái chết sẽ chẳng chờ đợi ai lãng phí một thời gian dài, hoặc thong thả chuẩn bị nghinh tiếp rồi nó mới từ từ đến trễ. Trên thực tế, quý vị thấy cái chết xảy đến rất nhanh chóng, mãnh liệt. Sau khi hiểu rõ và sợ chết, chúng ta sẽ buông xuống hết thảy những sự truy cầu và chấp trước trong thế gian, nỗ lực tu hành hòng sửa đổi vận mạng.

Ngày nay, tai nạn xe cộ xảy ra với mức độ rất cao, chúng ta có thể bảo đảm khi ra khỏi cửa chính mình chẳng gặp phải tai nạn xe cộ hay không? Chẳng có cách gì bảo đảm! Mấy năm trước, có một người đi đón con tan học về nhà. Đứa con vừa ra khỏi cổng trường, nhìn thấy cha nó liền vui mừng chạy tới. Ngay lúc đó, có một chiếc xe hàng chạy qua tông vào rồi cán đứa con chết tươi. Người cha chứng kiến cảnh tượng thảm khốc đó, kinh hoảng, ngây dại, vừa khóc vừa chạy về phía đứa con. Ngay lúc đó, một chiếc xe từ phía sau chạy tới đụng ông ta chết luôn tại chỗ. Vợ ông nghe tin cả chồng lẫn con đều bị chết thảm ngoài đường như vậy, chẳng thể nào chịu đựng nổi, hết sức tuyệt vọng, uống thuốc độc tự sát. Bà mẹ ở nhà, trong một ngày mất đi đứa con trai, con dâu và đứa cháu, bịnh tim bộc phát, khi đưa đến bệnh viện, chẳng cấp cứu được nên cũng chết theo.

Lại nghĩ thêm, ta có thể bảo đảm khi ta ở trong tư thế nào, oai nghi nào sẽ chẳng chết không? Khi đang đi bộ cũng có thể chết, khi đứng cũng có thể chết, ngồi cũng có thể chết, ngủ cũng có thể chết, miệng đang ăn cũng có thể chết, đang cười cũng có thể chết. Có người đang đi bộ, đột nhiên ngã quỵ xuống đất rồi chẳng đứng dậy được nữa. Có người đang đứng ở trạm đợi xe lửa, vì quá đông người ở đó nên bị người ta chen lấn bị đẩy lên đường rầy xe lửa rồi bị xe lửa cán chết. Có người đang ăn rồi bị thức ăn nghẹn ở cổ họng mà chết.

Có một người làm quan vào đời Thanh, gạt lấy hết tiền cứu tế dân chúng đang bị thiên tai. Một hôm ông ta đang nằm ngủ đột nhiên ngồi dậy, miệng ộc máu rồi chết. Trong những kiếp trước, chúng ta đã tạo ra quá nhiều nghiệp ác, làm sao có thể bảo đảm một khắc sau chắc chắn sẽ không chết? Hoàng Bá thiền sư nói: “Ta hỏi ông, nếu giờ phút lâm chung đến một cách thình lình, lúc đó làm sao ông chống chọi với sanh tử? Phải chuẩn bị trong lúc nhàn hạ thì lúc cần gấp mới dùng được, đỡ tốn sức. Đừng đợi khát nước mới đi đào giếng, lúc lâm chung sẽ tay chân cuống quýt, đoạn đường trước mắt mờ mịt, quờ quạng, khổ lắm, khổ lắm!”.

Nhìn thấy chúng sanh trên quả đất,
Đang quay cuồng theo vật dục tâm.
Mạnh yên thân còn yếu dập bầm,
Vì sự sống cạnh tranh không ngớt.
Mọi nỗi khổ vẫn chưa thấy bớt,
Sanh rồi già rồi chết nối liền.
Còn bịnh kia tật nọ liên miên,
Đủ cách chết kể không hết được.
Chết vì bịnh chết vì bạo ngược,
Chết thiên tai hoặc chết nhơn tai.
Dù rằng người đủ sức đủ tài,
Cũng không trốn khỏi ngày chết đến.
Thế mà cõi tục trần cứ mến,
Tạo tác thêm nhiều chuyện bất lành.
Để lưu chuyền mãi nghiệp tử sanh
Và cuộc sống hiện tình thêm khổ.

Lúc gần kề cái chết, chúng ta có nắm chắc được gì hay không? Dựa trên tình huống của phần đông người ta hiện nay để nói, sau khi chết đi, chẳng nắm chắc rằng mình không đọa vào ba đường ác! Nhưng chỉ cần chúng ta nhất tâm nương dựa Phật A Di Đà, phát nguyện tha thiết, chân thành niệm Phật, lâm chung sẽ có thể vãng sanh Tịnh Độ, triệt để thoát ly biển khổ luân hồi.

Cho nên niệm Phật sớm một ngày, lúc chết sẽ có thêm một phần nắm chắc không đọa ba đường ác.

Cái chết chẳng có kỳ hạn nhất định, tức là từ ngày hôm nay trở về sau, trăm năm trước cái chết đã định, trong thời gian ấy, cái chết đến lúc nào sẽ chẳng định trước ngày giờ. Hôm nay chết hay không, chẳng có cách nào quyết định được. Thí dụ có một người thù địch không gì đáng ngại bằng báo cho tôi biết kể từ hôm nay trở đi, đến một lúc nào đó, sẽ đến đây hại tôi. Kẻ ấy chẳng cho biết ngày nào sẽ tới, nên ngày nào tôi cũng phải cẩn thận đề phòng. Thái độ chúng ta đối với cái chết cũng nên như vậy, ngày nào cũng phải cẩn thận đề phòng. Do vậy, người xưa dạy chúng ta chuyển đổi tâm niệm “hôm nay mình còn chưa chết” trở thành “hôm nay mình nhất định sẽ chết”, mỗi ngày đều nghĩ hôm nay là ngày cuối cùng trong đời. Trong ngày cuối của cuộc đời, chúng ta phải làm gì? Đương nhiên là niệm A Di Đà Phật miên mật cầu sanh Tịnh Độ, đâu còn tâm trí gì để bận bịu chuyện thế gian? Nếu thật sự khởi được cái tâm “hôm nay mình nhất định sẽ chết”, ngày nào cũng vậy, công phu niệm Phật chắc chắn sẽ đắc lực giống như lão hòa thượng Hải Hiền vậy.

Vạn vật dưới bóng trời mọc lặn,
Có vật nào mà đặng thật đâu.
Bị tiêu mòn hoặc sớm hoặc lâu,
Không có một vật nào tồn tại.
Phải tìm chỗ trường sanh bất hoại,
Chớ ngồi đây chịu mãi tử sanh.
Kiếp người đầy giả dối hôi tanh,
Xem như thật mà không phải thật.
Xác thân của người còn phải mất,
Thì trong đời có vật nào còn.
Biết vật chi rồi cũng tiêu mòn,
Cứ đeo đắm là không sáng suốt.
Nên mở hết sự đời trói buộc,
Để làm cho rảnh kiếp vô thường.
Sống lâu dài như Phật Tây Phương,
Thân ấy mới là thân chơn thật.
Thân hiện tại có ngày phải mất,
Bởi nó là giả chất cấu thành.
Đâu bằng thân sen báu thai sanh,
Vô số kiếp thơm lành bền bỉ.

Sách Trúc Song Tùy Bút, Liên Trì đại sư đã kể một câu chuyện:

Có một vị Tăng bị bịnh lao phổi quanh năm, nhưng không nghĩ rằng mình nhất định sắp chết. Nếu ai nói đến chuyện chết chóc, ông ta liền không vui. Khi ấy, Liên Trì đại sư sai người nhắn ông ta mau chuẩn bị hậu sự, nhất tâm chánh niệm. Vị tăng ấy nói: “Đàn ông nam tử sanh bịnh, kỵ nhất là chết trước ngày sanh của mình, tôi phải đợi đến sau ngày sanh rồi mới tính nữa”. Ngày 17 tháng đó là ngày sinh nhật của ông ta, chẳng ngờ ngày 16 bỗng nhiên ông đột ngột qua đời. Mấy ngày trước khi ông ta mất, ông vẫn chấp chặt “hôm nay mình sẽ chưa chết” cho nên chẳng chuẩn bị gì hết. Kết quả thật đáng bi ai!

Người xưa dạy chúng ta không những phải nghĩ tới Vô Thường, mà còn phải đau xót nghĩ tới Vô Thường. Quý vị nghĩ tới Vô Thường, nghĩ tới mức khởi lên cảm giác đau xót. Chính cảm giác đau xót này sẽ khích lệ, sách tấn chúng ta niệm Phật. Vô Thường có thể xảy đến bất cứ giờ phút nào! Khi Vô Thường xảy đến mà mình không niệm Phật, không thể vãng sanh, mình sẽ sanh tới cõi nào? Một khi chúng ta có thể thật sự đau xót nghĩ tới Vô Thường, chúng ta sẽ niệm Phật tốt đẹp, công phu sẽ đắc lực. Những vị công phu già dặn thường có cảm nhận sâu sắc rằng: Khi nhiễu Phật mà không có tâm đau xót Vô Thường, chẳng qua chỉ là làm cho chân mình đau đớn vô ích mà thôi! Khi niệm Phật chẳng được, hãy khởi lên ý niệm đau xót Vô Thường, Vô Thường là một nguồn động lực dồi dào thúc đẩy chúng ta niệm Phật tinh tấn, chẳng để luống qua dù chỉ một phút. Nguyên nhân khiến chúng ta niệm Phật giải đãi, lười biếng, tán loạn, lúc có, lúc không, chính là vì chúng ta chẳng có cảm giác bức bách như cứu cái đầu đang bị cháy bừng, cứ tưởng mình còn rất nhiều thời gian.
Vào thời Thế Chiến thứ hai, có một cặp vợ chồng nọ đang chạy nạn. Sau cả ngày đi bộ rất mệt mỏi, đến bờ sông, cả hai người dự định rửa mặt, uống hớp nước rồi tiếp tục đi nữa. Hai người đến bờ sông, cúi xuống khoát nước sông rửa mặt, lúc người vợ ngước đầu lên, thấy đầu của chồng mình trong chớp mắt đã bị cắt đứt. Vì lúc đó tiếng súng đạn nổ rầm trời, tốc độ phi đạn lẹ vô cùng, ngay lúc người chồng vừa ngước đầu lên, đúng lúc ấy, có một mảnh bom bay tới cắt đứt đầu ông ta. Người vợ chứng kiến cảnh tượng chồng mình bị đứt đầu như vậy nổi điên. Đó chính là Vô Thường, chẳng ai ngờ trước được!

Tu gấp kẻo tháng ngày qua huốt,
Dịp qua rồi muốn gặp khó thay.
Bóng thiều quang chẳng đợi chờ ai,
Sự tu phải hành ngay mới kịp.
Chết trẻ cũng là qua một kiếp,
Chết già thời cũng hết một đời.
Cái chết không hẹn tuổi hẹn người,
Chớ nên đợi ngày mơi sẽ hối.
Chuyện giờ trước còn không lượng nổi,
Huống chi là chuyện tới ngày mai.
Biết bao người vừa mới sống đây,
Sau đó ít phút giây đã chết.
Đợi hơi thở sắp gần khi hết,
Mới lo tu thì việc trễ tràng.
Nay khá tu chớ đợi thời gian,
Sớm đi tất nhiên đàng mau tới.

Trong bộ Minh Cung Sử có ghi:

Vào thời nhà Minh, ngày mùng 6 tháng 5 năm Thiên Khải thứ sáu, tức 1626, xưởng chế tạo vật phẩm của hoàng gia ở phía Tây Nam Bắc Kinh có một tai nạn khủng khiếp xảy ra. Sáng hôm đó, bầu trời sáng sủa, thình lình một tiếng nổ lớn dữ dội xảy ra, từ phía Đông Bắc truyền tới góc Tây Nam của kinh thành. Tiếp theo đó, một luồng tro bụi tung lên, nhà cửa rung động. Đột nhiên, trên không trung có một tiếng nổ lớn dường như trời sập, một bầu đen tối bao phủ bốn bề, lại có một đám mây đen kịt giống như hình nấm linh chi, lại giống như mớ tơ rối có đủ năm màu từ dưới đất bay lên, rất lâu sau mới tan. Phía Đông từ con đường lớn ở cửa Thuận Thành, phía Bắc tới đường Hình Bộ, dài khoảng 2 cây số, chu vi 5 cây số rưởi, hơn mười ngàn căn nhà và hai chục ngàn người bị tiếng nổ tung chấn động biến thành bột. Những thứ như gạch ngói, đầu người, cánh tay, đùi, mũi, tai, v.v… từ trên không trung rớt xuống tung tóe. Trong phút chốc, cả đường phố mảnh vụn của thi thể con người chất đống lại như núi. Mùi tanh hôi nồng nặc của máu me và thịt bị thiêu khét xông lên. Không những con người bị chết thảm, ngoài ra lừa, ngựa, gà, chó đều chịu chung số phận. Hơn hai ngàn người thợ đang làm việc trong Tử Cấm Thành từ trên những cây đòn gác bị tiếng nổ khủng khiếp đó chấn động, rớt xuống như thịt bị bằm nát. Nhiều cây bị trốc gốc và thổi bay tứ tung. Đường Thạch Phò Mã có một con sư tử bằng đá to nặng tới năm ngàn cân, chẳng ngờ bị thổi bay tuốt ra ngoài cửa Thuận Thành. Những chuồng nuôi voi của hoàng gia ở đường Tượng Lai đều sụp đổ, nhiều đàn voi kinh hoảng chạy loạn tứ phía. Một phụ nữ ngồi kiệu tám người khiêng cũng chịu chung số phận với tám người khiêng kiệu, bị chết không toàn thây. Một người đang trò chuyện với sáu người khác, đột nhiên cái đầu bay mất, toàn thân ngã gục xuống đất.

Chúng ta cứ nghĩ rằng Vô Thường là chuyện của người khác, sẽ chẳng bao giờ xảy ra cho mình. Nghĩ vậy là hết sức sai lầm, Vô Thường xảy ra với người khác và cũng sẽ xảy ra với mình.

Chúng ta thường trợ niệm cho người khác, có bao giờ nghĩ tới ngày nào đó người ta sẽ trợ niệm cho mình hay không? Chúng ta cũng từng viết bài vị cho người khác, có nghĩ tới ngày nào đó, sẽ tới phiên người ta viết bài vị cho mình hay không? Chính mình trở thành người quá cố!

Kinh Phật có nói: “Lửa thiêu đốt đầu, còn có thể tạm thời không quan tâm đến. Lửa dữ Vô Thường, hãy mau diệt trừ.”

Nên phản tỉnh đạo mầu trau trỉa,
Cứu độ mình và cả tông môn,
Truyền nghiệp lành cho đám nhi tôn,
Noi theo đó lánh thân khỏi tục.
Mình lục đục cháu con lục đục,
Khiến cả dòng họ mất cơ duyên.
Bặt lối đường đi đến Phật Tiên,
Muôn kiếp vẫn còn nguyên tại thế.
Khổ này qua khổ kia liền kế,
Lặn hụp trong sầu bể không ngừng.
Càng ngày càng u ám tinh thần,
Không còn sức quày chân trở lại.
Khi có cuộc tang điền thương hải,
Các nạn tai đổ giải trên mình,
Thân sống cam trôi nổi linh đinh,
Linh hồn cũng gập ghình mây gió.
Sống hay chết vẫn nằm trong rọ,
Bị nghiệp mê lôi cổ đi luôn.
Mang lấy thân sống dại chết cuồng,
Chịu đựng kiếp vào trần ra khổ.
Lặn lộn cảnh sớm khai chiều đổ,
Mang mển đời nay đẻ mai chôn.
Lo miếng cơm chạy chọt bồn chồn,
Vì manh vải cúi lòn bận rộn,
Lúc nào cũng lo như bị nhộn.
Sống trong đời hỗn độn đua chen,
Chỉ làm cho tâm trí tối đen
Chung cuộc vẫn đem chôn xuống đất.

Thành ngữ “Thương hải tang điền”, ruộng dâu còn biến thành biển cả huống chi con người chỉ là hạt bụi trong vũ trụ bao la, thì sự chuyển dịch từ vận này qua vận kia, từ cõi này qua cõi khác là chuyện chẳng có gì mà chẳng thể xảy ra trong cõi trần này!

* Cái chết đen là tên của một đại dịch gây ra bởi vi khuẩn Yersinia pestis đã tàn phá thành phố Eurasia vào giữa thế kỷ 14. Dịch bệnh đã gây tử vong cho 60 phần trăm dân số của châu Âu và châu Á, có khoảng 200 triệu người đã thiệt mạng.

*Bão Coringa ở Ấn Độ năm 1839. Cơn bão này đã xóa sổ hoàn toàn một thành phố và gây ra cái chết của 300.000 người. Đồng thời, nó cũng nhấn chìm 25.000 tàu bè trong vịnh.

*Trận lũ lụt sông Hoàng Hà, Trung Quốc năm 1887 đã hoàn toàn xóa sổ một vùng đất có diện tích 129.000 km vuông, và cướp đi sinh mạng của 2 triệu người.

*Trận lụt do sông Hoàng Hà ở miền trung Trung Quốc năm 1931 xảy ra khi 7 cơn bão đồng thời đổ về nước này, khiến các dòng sông lớn vỡ đê. Ước tính, 4 triệu người đã thiệt mạng trong trận đại hồng thủy thảm khốc này.

*Lahar là một dòng bùn hay lở đất núi lửa. Thảm họa Tangiwai năm 1953 do lahar gây ra, trong thảm kịch Armero năm 1985 thị trấn Armero đã bị chôn vùi và ước tính 23.000 người chết.

*Cơn bão nhiệt đới nguy hiểm nhất thế giới ở Bangladesh

Cơn bão kéo dài trong đêm 12 và ngày 13 tháng 11 năm 1970 đã khiến 500.000 người chết vì sự tàn bạo của nó. Cơn bão được người dân đặt tên là “Đại cuồng phong Bhola”, đã tàn phá các hòn đảo nằm dọc theo vịnh Bengal của nước này.

*Trận động đất 7,8 độ richter mùa hè năm 1976 đã cướp đi sinh mạng của 700.000 người dân thành phố Đường Sơn. Chỉ kéo dài vỏn vẹn 10 giây nhưng đây là trận động đất gây nhiều thương vong nhất trong thế kỷ 20, là nỗi ám ảnh kinh hoàng trong ký ức của người dân Trung Quốc qua nhiều thế hệ.

*Ngày 26 tháng 12 năm 2004, một trận động đất 9,2 độ Richter ở Ấn Độ Dương tạo ra trận sóng thần cao 30 m đánh vào bờ biển của hơn 10 quốc gia, cướp đi sinh mạng của hơn 225.000 người.

*Những trận hạn hán nổi tiếng trong lịch sử:

1900 hạn hán ở Ấn Độ làm thiệt mạng 3.250.000 người.

1921 hạn hán ở Liên Xô với 5 triệu người chết đói.

1928 hạn hán ở tây bắc Trung Quốc khiến 3 triệu người chết đói.

1936 hạn hán ở Tứ Xuyên, Trung Quốc khiến 5 triệu người chết

Thân này chưa biết ra chi,
Của kia nào có chắc gì mà ham.
Biết bao nhiêu đủ túi tham,
Càng thâu, càng đắm, càng làm, càng say.
Tiếc cho tháng rộng năm dài,
Chung quy hoang phí về tay đồng tiền.
Được thua, thua được, nối chuyền,
Hả hê mới đó ưu phiền đến ngay.
Đem thân làm kẻ tù đày,
Cho bao vật chất nó sai khiến mình.
Cam tâm làm vật hy sinh,
Suốt đời theo lệnh dục tình kéo lôi.
Lênh đênh trong nẻo luân hồi,
Tử thần chợt đến thế rồi hết mong!
Dã tràng xe cát biển Đông,
Vô tình lượn sóng cướp công nhọc nhằn.
Tuồng đời ai biết cho chăng?
Như mây tan hiệp, như trăng khuyết tròn.
Đêm tàn, tiêm lụn, dầu mòn,
Cái đi mờ mịt, cái còn mỏng manh.
Bền chi bọt nước đầu gành,
Chắc chi sương đọng trên cành ban mai.
Bọt kia làn gió nhẹ lay,
Sương kia ánh nắng chiếu ngay tan rồi.
Mênh mông trong khoảng đất trời,
Thân ta biết gởi về nơi chốn nào?
Tử sanh tiếp nối theo nhau,
Đã vô vượng kiếp đớn đau đủ rồi.
Luân hồi khổ lắm ai ôi!
Rủ nhau niệm Phật sớm ngồi Tây Phương!
Không còn chịu nỗi tang thương,
Không còn lên xuống sáu đường trầm thăng.

Trong quyển Trúc Song Tùy Bút, Liên Trì đại sư có kể một chuyện như sau:

Có một cụ già chết rồi đến gặp Diêm Vương, cụ trách Diêm Vương không báo cho cụ biết trước là cụ sẽ chết. Diêm vương trả lời: “Ta đã thông báo sớm cho ông rồi mà ông đã quên! Lúc mắt ông dần dần mờ không thấy rõ, chính là lúc ta báo cho ông biết lần thứ nhất. Khi tai ông dần dần nghe không rõ, chính là lần thông báo thứ nhì. Khi răng ông từ từ rụng hết là lần thứ ba. Thân thể ông càng ngày càng yếu… Tức là nhiều lần Ta đã báo cho ông biết rồi”. Đây là lời Diêm Vương nói với một cụ già.

Lại có một chàng thanh niên cũng trách Diêm Vương: “Mắt tôi còn sáng, tai còn rất thính, răng chưa rụng, thân thể còn cường tráng. Tại sao Diêm Vương không báo cho tôi biết trước?”
Diêm vương đáp: “Ta cũng đã báo cho anh rồi, chính anh không biết đó thôi! Nhà hàng xóm phía Đông của anh có người mới bốn năm chục tuổi đã chết rồi đó. Nhà phía Tây có người hai ba chục tuổi cũng chết rồi đó. Còn có mấy đứa bé mười tuổi, và trẻ nít cũng chết rồi đó. Mấy chuyện này không phải là ta đã thông báo cho anh rồi sao?”

Một con ngựa tốt vừa thấy bóng roi liền chạy; còn nhất định phải đợi tới cái dùi đâm vào da rồi mới chịu chạy, đó là ngựa hạng bét. Hối hận, cảm thán, cũng chẳng kịp nữa!

Buổi chiều một ngày trước lúc hòa thượng Hải Hiền vãng sanh, Ngài còn làm việc trong vườn rau cùng với đệ tử, chẳng khác lúc bình thường, không ai nghĩ rằng ngày mai Ngài sẽ ra đi. Đây là một bài học sống động sâu sắc Ngài dạy cho chúng ta. Ngài thị hiện Vô Thường, chúng ta nhìn thấy có hiểu không?

Ma phiền não thầm thì đòi bữa,
Quỉ vô thường dòm ngó mỗi ngày;
Quanh mình thù địch bao vây,
Thế mà chưa tỉnh giấc say hồng trần.
Diêm Vương đã nhiều lần cảnh cáo,
Giảng kinh luôn chỉ bảo không ngừng;
Nhưng mà sanh chúng chẳng cần,
Cho nên thường bị Tử Thần hành hung.
…Mến thân chẳng làm thân trường cửu,
Vì thân mà hồn ngủ vạn niên.
Thường cam chịu kiếp đảo điên,
Thế mà cũng vẫn còn ghiền trần gian.

Ấn Tổ đã khai thị:

* Một cửa ải lâm chung thật là khẩn yếu. Đời có kẻ ngu, lúc cha mẹ, quyến thuộc lâm chung bèn khóc lóc vật vã, tắm rửa, thay áo, chỉ mong đẹp mắt người đời, chẳng sợ lo di hại cho người chết. Người không niệm Phật hãy khoan bàn đến, người chí thiết vãng sanh lúc lâm chung gặp phải quyến thuộc như vậy, đa phần bị phá hoại chánh niệm, vẫn bị ở lại trong thế giới này.
Lâm chung trợ niệm ví như kẻ yếu đuối trèo núi, sức mình chẳng đủ, may nhờ có sức người đằng trước kéo, đằng sau đẩy, hai bên tả hữu xốc nách, nên có thể lên được đỉnh núi cao nhất.

Lâm chung chánh niệm rỡ ràng, mà bị ma quyến, ái tình lay động, phá hoại… giống như dũng sĩ trèo núi, tự lực sung túc, nhưng bạn bè, người quen ai nấy đem vật dụng của mình bảo phải gồng gánh. Gồng gánh quá nhiều, sức kiệt, thân nhọc, dõi nhìn vách núi liền lùi bước.

Lẽ được mất này dù do người khác gây ra, thật sự là do những nghiệp lực thiện hay ác của chính mình trong những kiếp trước đã thành tựu hay phá hoại người mà ra. Phàm là người tu Tịnh Nghiệp, phải nên có chánh niệm thành toàn cho người, và phải chỉ dạy sẵn cho quyến thuộc về lẽ lợi hại, ngõ hầu ai nấy hiểu điều quan trọng là chỗ đạt đến của thần thức người chết, chứ chẳng phải tại phương diện tình cảm thế tục, mới hòng khỏi lầm lạc vậy!

* Hãy nên đem hết thảy việc nhà và ngay cả cái sắc thân của chính mình đây thảy đều buông toàn bộ xuống hết. Từ trong cái tâm chẳng nhiễm mảy trần trì thánh hiệu vạn đức hồng danh, nghĩ mình sắp chết, ngoại trừ việc niệm Phật cầu tiếp dẫn chẳng khởi một tạp niệm nào. Làm được như vậy, nếu tuổi thọ đã tận sẽ quyết định vãng sanh Tây Phương, siêu phàm nhập thánh. Nếu tuổi thọ chưa tận, sẽ quyết định tiêu nghiệp, lành bệnh, trí huệ và phước báu tăng cao. Nếu chẳng nghĩ như thế, cứ si ngốc chỉ cầu mau chóng được lành bệnh thì không những bệnh chẳng thể chóng lành, trái lại còn nặng thêm. Giả sử như tuổi thọ đã hết, ắt sẽ theo nghiệp chìm nổi vĩnh viễn không có dịp thoát khỏi nỗi khổ ở Ta Bà này!

* Người lâm chung được trợ niệm ắt sẽ được vãng sanh. Đã không được trợ niệm, lại còn khóc lóc, xáo động, khiến ái tình, sân hận khởi lên làm cho người chết khó khỏi bị đọa lạc. Cực kỳ nguy hiểm! Nếu như thành tựu được việc vãng sanh cho ông bà cha mẹ cũng là chánh nhân tịnh nghiệp của tam thế chư Phật. Ấy là: Ngay trong trần lao mà hành Phật sự, công đức ấy thù thắng hơn những công đức tầm thường cả vạn phần.

* Đối với người sắp mạng chung, chỉ có đồng thanh niệm Phật là có lợi ích thù thắng bậc nhất. Nếu tâm thức chưa rời khỏi thân mà tắm rửa, thay y phục v.v… cho người chết thảy đều gây trở ngại rất lớn. Vì thế, người tu Tịnh Nghiệp hằng ngày phải nên dặn dò trước cho quyến thuộc hiểu rõ duyên do ấy, ngõ hầu chẳng đến nỗi dùng lầm tình thân ái, gây trở ngại việc vãng sanh! Nếu là bậc đại nhân tột bậc, bậc cao sĩ xuất cách, bất tất e sợ sẽ mắc phải những chướng ngại ấy!

* Ngay lúc thân mắc bệnh nặng, lúc chưa thể chắc chắn sẽ sống hay chết, hãy dạy cho mọi người ai nấy vì cha mẹ mà chí thành khẩn thiết niệm “Nam Mô A Di Đà Phật”, ngõ hầu tuổi thọ chưa tận sẽ mau chóng lành bệnh, tuổi thọ đã hết sẽ mau chóng được vãng sanh Tây Phương. Các con cháu hiếu tâm tinh thuần, chuyên dốc, ắt sẽ đều thường trì niệm như cứu đầu mình bị cháy. Như thế, nào phải chỉ hữu ích cho người ra đi, mà thật sự còn có ích lợi sâu xa cho những người ở lại nữa kia.
Người phàm mắc bệnh thì dùng thuốc để trị, nhưng cũng không nhất quyết phải dùng đến thuốc. Bệnh chẳng thể dùng thuốc trị, dù có tiên đan cũng vô dụng, huống hồ là thuốc của thế gian? Chẳng cần biết là bệnh trị được hay không, đều nên dùng thuốc A Già Đà tức là lục tự hồng danh vạn đức. Thứ thuốc này tuyệt đối chẳng hại người. Uống vào, dù thân hay tâm đều kiến hiệu liền.

Người sống trong thế gian, chẳng luận lâu hay mau, rốt cuộc cũng một lần chết. Cái chết ấy chẳng đáng tiếc, nhưng chỗ sẽ trở về sau khi chết chẳng đáng để sắp đặt sẵn hay sao? Người có lực lượng tự mình sắp đặt thỏa đáng, yên ổn, lẽ cố nhiên khi lâm chung chẳng cần đến người khác giúp đỡ. Nhưng nếu được hỗ trợ lại càng thêm đắc lực. Người không lực lượng phải nên bảo gia quyến thay mình niệm Phật, ắt sẽ đề khởi được chánh niệm, chẳng đến nỗi bị ân ái buộc ràng, vẫn y như cũ bị ái tình trói buộc vào cõi này chẳng thể ra khỏi !

* Người trước khi mất nếu tự có thể tắm gội, thay áo thì rất hay. Nếu người ấy chẳng thể tự làm, quyết chẳng nên tắm gội, thay áo sẵn, khiến người ấy bị đau đớn khó chịu đựng nổi, mất chánh niệm. Cuối cùng không nên buộc người đã khuất mặc pháp y, khoanh chân ngồi kết già để rồi tiếc hận! Chẳng biết rằng trong lúc ấy tốt nhất là đồng thanh niệm Phật, vạn vạn phần chẳng được phô trương, bày vẽ (như tắm gội, thay áo, bắt người sắp chết ngồi xếp bằng v.v…). Nếu phô trương, bày vẽ sẽ thành như đã bị té xuống giếng còn bị ném đá thêm. Hãy nhớ kỹ, nhớ chắc điều này!

* Lâm chung cơ thể suy gầy, cơ bắp teo quắt lại và bị bệnh khổ chính là do nghiệp chướng từ nhiều kiếp. Vì người ấy dốc lòng tu Tịnh Nghiệp nên chuyển quả báo nặng nề ở tương lai thành ra quả báo nhẹ ít trong đời hiện tại. Nếu bảo do tu trì tinh tấn nên thân xác ngày càng yếu thì thật là chẳng đúng, còn vướng lỗi là khiến cho kẻ tín tâm nông cạn nhân đó đâm ra lo sợ bèn lui sụt. Phải biết rằng: người niệm Phật quyết định tiêu trừ được nghiệp chướng; những nghiệp chướng hiện tiền chỉ là những ác báo phải đọa trong tam đồ của đời sau chuyển thành bệnh khổ trong hiện tại để giải quyết cho xong đó thôi!

Kinh Kim Cang dạy: “Trì kinh Kim Cang có điều nhục nhỏ như bị người khác khinh miệt chính là diệt được cái khổ tam đồ ác đạo trong nhiều kiếp”. Đấy chính là phước dày, sẽ được vãng sanh Tây Phương. Chịu cái khổ nhỏ lúc này để giải quyết cho xong ác báo từ vô lượng kiếp đến nay, thật là may mắn lớn. Chớ học theo kẻ chẳng biết sự việc chi bảo: “Vì tu trì đến nỗi mắc bệnh hay bị chết!”

*Phật nói con người có tám thức, tức là tri thức. Năm thức đầu là Nhãn, Nhĩ, Tỷ, Thiệt, Thân. Thức thứ sáu là Ý. Thức thứ bảy là Mạt Na, còn gọi là Truyền Tống Thức. Thức thứ tám là A Lại Da, còn gọi là Hàm Tàng Thức. Khi con người sanh ra, chỉ có thức thứ tám này đến trước nhất, các thức kia đến sau. Đến lúc chết, thức thứ tám này cũng ra đi sau cùng; các thức khác lần lượt đi trước.

Thức thứ tám chính là linh thức của con người, thế tục thường gọi là “linh hồn”. Thức thứ tám này thông linh nên khi con người mới nhập thai mẹ, nó liền đến trước. Vì thế, con trong bụng mẹ liền biết hoạt động. Đến khi chết, sau khi dứt hơi, nó chẳng đi ngay, phải đợi đến khi toàn thân lạnh giá, không còn một điểm nào còn ấm nữa, thức ấy mới chịu đi. Khi thức đã đi, thân này sẽ không còn mảy may tri giác nào.

Nếu chỗ nào còn ấm là thức ấy còn chưa rời đi. Động chạm đến vẫn biết đau khổ. Lúc ấy, kỵ nhất là các sự mặc áo, xếp chân, dời động v.v… Nếu có chút xíu động chạm đến thi thể thì sẽ đau khổ khó chịu đựng nổi; bất quá miệng không nói được, thân chẳng động được đó thôi! Xét theo kinh dạy, ba thứ: hơi nóng, thọ mạng và thức thường chẳng rời nhau. Như người sống có hơi ấm thì thức còn hiện hữu. Thức còn hiện hữu thì tuổi thọ chưa hết. Xưa nay có kẻ chết đi năm ba bữa rồi sống lại, chép rõ ràng trong sách vở có thể tra cứu được.

Vả nữa, thói đời khi đau đớn tột bậc sẽ dễ nổi sân tâm. Do sân tâm rất dễ bị đọa lạc. Như kinh nói vua A Kỳ Đạt lập chùa tháp Phật, công đức vòi vọi. Lúc lâm chung, người hầu cầm quạt lỡ để rớt trúng mặt vua. Vua bị đau, nổi sân, chết đọa làm thân rắn. Nhờ có công đức, sau gặp được sa môn vì rắn thuyết pháp. Do nghe pháp nên bèn thoát thân rắn, được sanh lên trời. Xem đó, biết rằng: Khi thần thức của người chết chưa đi hẳn thì mặc áo, dời động và lập tức thiêu hóa ngay sẽ khiến người ấy đau đớn nổi sân, càng thêm đọa lạc, há chẳng phải là nhẫn tâm cố bày trò thảm độc ư?

Hãy thử nghĩ người chết có oán cừu chi với mình; chỉ vì hảo tâm thành ra ác duyên! Nếu bảo sự còn mờ mịt, biết cậy vào đâu để suy xét, thì những điều ghi chép trong kinh điển chẳng đáng tin chăng? Đến giờ đây, các thói tệ lưu hành nói chung là do người sống chẳng biết thương cho nỗi khổ của người chết, chỉ tính xong việc cho nhanh nên chẳng nhọc công xem kỹ ấm lạnh. Do đấy, trở thành thói quen, dù có ai nhắc đến lại cười khà bèn cho là vu vơ, đến nỗi người chết phải chịu khổ nạn! Hỡi ôi! Điều khổ nhất trên đời không gì bằng sanh tử. Sanh như rùa còn sống bị bóc mai, tử như cua bị nhúng nước sôi. Tám khổ cùng nhau nung nấu, đau đớn chẳng nói nổi!

Xin những ai chăm sóc bệnh nhân hãy lưu tâm cẩn thận, chớ cùng bệnh nhân tán nhảm chuyện gẫu khiến tâm họ tán loạn, cũng đừng buồn bã, khóc kể om sòm. Hãy nên khuyên bệnh nhân buông hết thân tâm, một dạ niệm Phật để cầu vãng sanh. Lại nên trợ niệm khiến cho bệnh nhân nương theo tiếng niệm Phật của mình để nhớ kỹ trong tâm. Nếu có điều kiện hãy thỉnh Tăng chúng (hoặc các bạn đạo hay ban hộ niệm) chia ban niệm Phật, khiến cho tiếng niệm Phật ngày đêm không ngớt, hòng tai người bệnh luôn nghe Phật hiệu, có thể quyết định nhờ vào Phật từ lực vãng sanh Tây Phương. Còn như không có tiền của thì cả nhà phát tâm trợ niệm để kết duyên cuối cùng.

Về việc sắp đặt hậu sự, chớ bàn bạc ngay trước mặt bệnh nhân. Chỉ nên gõ dẫn khánh, cao tiếng niệm Phật, khiến cho từng câu lọt vào tai bệnh nhân ngõ hầu trong tâm người bệnh thường chẳng lìa Phật. Tiếng mõ vốn đục, trợ niệm lâm chung trọn chẳng nên dùng. Bệnh nhân nằm hay ngồi nên để tùy ý, chớ nên di động, cả nhà cứ chuyên tâm niệm Phật. Đợi đến lúc toàn thân đã lạnh hết, tức là thần thức đã thực sự ra đi rồi, đợi thêm hai tiếng nữa mới được tắm rửa, thay áo. Nếu như thân đã lạnh hóa cứng thì nên dùng nước nóng xoa nắn, dùng vải thấm nước nóng áp vào khủy tay, đầu gối, cổ chân, đợi giây lát, những chỗ đó sẽ mềm mại trở lại. Lúc ấy mới xếp chân cho người chết nhập quan. Cho đến lúc mọi việc xong xuôi hết cả, vẫn phải thường niệm Phật.

Tất cả những việc như lễ sám, tụng kinh đều chẳng có lợi ích rộng lớn bằng niệm Phật. Phàm hết thảy các quyến thuộc dù là tại gia hay xuất gia đều phải tuân hành cách này thì kẻ còn, người mất đều được lợi ích lớn lao. Hơn nữa, Đức Phật thuở xưa khi Niết Bàn, vốn nằm nghiêng bên phải, cứ để như vậy nhập quan trà tỳ. Người đời nay cứ thuận theo tự nhiên. Nếu ngồi mất thì đặt vào khám. Nếu nằm mất thì đặt vào quan tài, cốt sao thỏa đáng. Nhưng người đời nay phong tục đã thành thói, sợ họ chẳng cho như vậy là đúng, cũng nên lắng nghe, suy nghĩ để quyết định sao cho tiện.

Còn như người chết rồi có các cảnh tượng thiện ác, vốn là có chứng cứ thật sự. Người sanh vào thiện đạo hơi nóng từ dưới bốc lên trên; người sanh vào ác đạo, hơi nóng từ trên tỏa xuống dưới. Nếu như cả thân lạnh hết, khí nóng tụ lại trên đầu bèn là sanh trong Thánh đạo. Hơi nóng ở mắt sanh trong thiên đạo, ở ngực sanh trong nhân đạo, ở bụng sanh ngạ quỷ đạo, ở gối sanh trong súc sanh đạo, ở bàn chân sanh trong địa ngục đạo. Vì thế (trong Đại Thừa Trang Nghiêm Kinh Luận) có bài kệ rằng:

Đảnh thánh, nhãn sanh thiên,
Nhân tâm, ngạ quỷ phúc,
Súc sanh tất cái ly,
Địa ngục cước bản xuất.
(Đảnh: thánh; mắt: sanh thiên,
Ngực: người, bụng: ngạ quỷ;
Từ gối ra: súc sanh,
Địa ngục: bàn chân nóng)

Ôi! Đại sự sanh tử chẳng ai tránh được, chỉ có một điều phải thật thận trọng: người săn sóc bệnh nhân phải dùng đồng thể bi tâm để giúp hoàn thành đại sự vãng sanh. Cổ nhân nói:

Ngã kiến tha nhân tử,
Ngã tâm nhiệt như hỏa,
Bất thị thục tha nhân,
Khán khán luân ngã đáo.
(Ta thấy người khác chết,
Ruột ta nóng như lửa,
Nào phải mình ai kia,
Rồi ta cũng đến lượt!)

Nhân duyên, quả báo cảm ứng chẳng sai! Muốn cầu tự lợi trước phải lợi người! Soạn thiên này để bảo khắp đồng bào, khẩn khoản mong mọi người chú ý!

Đành rằng nếu có xác thân,
Dù ai cũng phải một lần chết đi,
Nhưng kẻ chết hồi qui cõi Phật;
Còn người sao lại thác ra ma,
Hoặc là chết được ngợi ca,
Hoặc là chết để gần xa chê cười.
Kẻ chết già người thời chết yểu,
Hoặc chết êm hoặc chịu chết đau;
Có nhiều cách chết khác nhau,
Cũng nên lựa cách chết nào cho thanh.
Chết hồn được siêu sanh Cực Lạc,
Chết để đời thường nhắc hiền nhơn;
Chết cho người nhớ công ơn,
Chết cho dân chúng thôn lân miếu thờ.
Sống như giấc chiêm bao một thứ,
Rủi lâm vào vạn sự buông tay;
Không ai biết được ngày mai,
Hôm qua thấy đó bữa nay mất rồi.
Biết bao cuộc sóng dồi gió dập,
Cảnh thảm sầu tới tấp liền tay;
Cám thương già trẻ gái trai,
Sống đời mạt pháp không ngày nào an.

Trong lúc lành mạnh yên ổn không chịu chuyên tâm niệm Phật, đợi khi gặp phải mười trường hợp bất trắc xảy ra trong lúc mạng chung như đã kể trên, thì không tài nào bình tĩnh hay được nhớ Đức Phật để mà tưởng niệm được.

Vả lại nếu lúc sanh bình đã làm đầy dẫy tội ác, ngày mạng chung lại chẳng niệm được một tiếng Phật, thì cái tội lỗi kia đâu được giảm bớt chút nào, tất nhiên không tránh khỏi bị sa đọa vào các đường luân chuyển. Mà cái điều dễ làm cho luân chuyển hơn hết là nếu không niệm Phật thì phải niệm phàm, mà hễ niệm phàm thì toàn là những niệm tội lỗi.

Gần dứt hơi, những nghiệp tạo, những vọng tưởng lúc khỏe mạnh đã tạo gây ra đó, điều hiện rõ ra hết, hoặc thấy viên đá lớn trên không rớt đè, hoặc thấy người cầm cưa, người cầm kéo, người chế dầu, kẻ xách đèn thiêu đốt, cưa xẻ, đánh đập đủ thứ, làm cho hốt hoảng la lớn lên, bò càng bò niểng, làm cho dễ đứt hơi và dễ làm cho thần thức theo nghiệp lực dẫn đi luân hồi rất mau lẹ.
Nhược bằng trong lúc ấy người biết niệm Phật, niệm Phật ấy được thành tâm, dầu niệm một tiếng đi nữa, cảnh giới hung ác cũng tiêu mất không còn hiện ra dữ dằn táo bạo được. Đó là nhờ Đức Phật gia hộ.

Lòng không móng việc đó đây,
A Di Đà Phật niệm rày một câu.
Thì cũng được nạn sầu thoát khỏi,
Nhờ hào quang Phật rọi vào thân.
Tiêu ma tiêu các chướng trần,
Khác nào cỏ úa lửa phừng cháy qua.
Chỉ một niệm cũng là khỏi nạn,
Huống chi là niệm đặng dài lâu.
Dù cho muôn thảm ngàn sầu,
Cũng tan mất cả như bầu không trung.

Người xưa đã thiết tha khuyên dạy:

Nên khắc cốt ghi tâm những hiểm nạn lúc lâm chung như đã kể trước, ở trong đời thường có, đó là do túc nghiệp hoặc hiện nghiệp chiêu cảm, bỗng nhiên xảy ra, không kịp trốn tránh. Khi gặp một việc không may, bất cập, trong mười việc trên đây, thì làm sao niệm Phật được?

Giả sử không bị những ác duyên như trên, thọ bịnh sơ sài mà qua đời, e cho lâm chung, khi thân tứ đại sắp ly tán, bị sự đau đớn dường như dao cắt, như con rắn bị lột da, như con cua bị rớt vào nước sôi trong lúc thống khổ bức bách, bối rối kinh hoàng ấy, đâu có rỗi rảnh để niệm Phật?

Giả sử không bị bịnh mạng chung, lại e duyên đời chưa dứt, niệm tục khó quên, tham sống sợ chết, tấm lòng rối loạn không yên. Thêm vào đó, việc nhà chưa phân minh, chuyện sau chưa sắp đặt, vợ con khóc lóc kêu gọi, trăm mối lo sợ, thương sầu, như thế làm sao niệm Phật được?

Giả sử lúc chưa chết, thì lại bịnh khổ, đau đớn rên la, tìm thuốc tìm thầy, lo việc khẩn cầu cúng tế, tạp niệm rối ren, vị tất đã niệm Phật được?

Giả sử trước khi chưa bịnh, thì lại bị sự già khổ, suy lờ, lụm khụm, buồn rầu, ảo não, e cho lo những việc cái thân già yếu chưa xong, đâu rỗi để niệm Phật!

Giả sử trước khi chưa già, còn đang trẻ trung khỏe mạnh, hoặc như tâm cao vọng chưa dứt, việc thế tục còn buộc ràng, rong ruổi đông tây, suy thế này tính thế khác, nghiệp thức mơ màng, cũng không niệm Phật được!

Giả sử kẻ được an nhàn thong thả, có chí tu hành, nhưng nếu không nhìn thấu cảnh đời là giả mộng, thân tuy được yên, tâm còn bấn loạn, không thể buông bỏ muôn duyên, khi gặp việc đến, không thể tự chủ, theo cảnh mà điên đảo, cũng không niệm Phật được!

Hãy thử xét lại, đừng nói già bịnh, trong lúc còn trẻ trung nhàn nhã, nếu có một việc đeo đẳng nơi lòng, còn không niệm Phật được thay, huống chi là đợi đến lâm chung?

Vả lại, sự nghiệp thế gian, như giấc mơ, trò huyễn, như bóng bọt, tiếng vang, chỉ thoáng chốc rồi không, nó có lợi ích chi thiết thật cho ta trên đường giải thoát?

Bao nhiêu sự nghiệp phúc lợi nhân sinh, tất nhiên phải tận tâm tận lực tài bồi, để rồi hồi hướng cầu sanh Tịnh Độ, nhưng nên nhớ tùy duyên mà làm chứ chẳng được cưỡng cầu!

Bởi vì, dẫu cho ta có tạo được cơ sở từ thiện hay chùa chiền bề thế qui mô rộng lớn, gây nên tiếng tăm vang dội, địa vị cao tôn, kết thân với nhiều kẻ quyền chức sang giàu, trong tâm tự hào cho đó là đã thành công nơi đường tu tiến, đâu ngờ thật ra chính lại phạm nhằm điều răn của tiên thánh!

Cổ đức đã từng răn nhắc: “Người tu phải chí thú nơi sự giải thoát, đừng quá đua chen theo công nghiệp hữu vi, vì trong ấy có nhiều lầm lỗi dễ dính vướng lợi danh tài sắc, e cho thiên đường chưa thấy, địa ngục đã hiện tiền!

Nếu việc sống chết chưa xong, thì tất cả công nghiệp hữu vi đều là nguyên nhân của sự khổ. Một mai nhắm mắt đi rồi, tùy theo nghiệp mà thọ báo, chừng ấy mới hay việc đã làm là trên gông cùm thêm xiềng xích, dưới vạc nóng thêm củi than, hưởng si phước dễ dàng tạo ác, thời gian thọ nhận thích ý vui lòng chẳng đặng bao lâu, mà phải chịu thống khổ luân hồi, nơi ba cõi sáu đường mang lông đội sừng muôn đời vạn kiếp!”

Vậy muốn cho khi sắp chết được chánh niệm vãng sanh, thì ngay bây giờ phải xét rõ việc đời là huyễn mộng, tùy duyên an phận qua ngày, không còn tham luyến, được rỗi rảnh lúc nào thì niệm Phật ngay lúc ấy, đừng hẹn chờ lần lựa, hoặc để hư phí thời giờ.

Như thế thì tư lương ta đã dự bị xong, lúc ra đi mới không điều chi chướng ngại!

Mới thấy đó mày xanh tóc sậm,
Bỗng nhiên rồi đầu tẩm sương mai.
Mắt lờ tai điếc lạ thay,
Da dùn má cóp chơn tay mỏi lần.
Ma bịnh đến tử thần lẽo đẽo,
Cướp thây người vội kéo ra đi.
Mủi lòng tử biệt sanh ly,
Vợ con thân thuộc li bì nhỏ sa.
Thân người sống thịt da tươi tốt,
Khi chết rồi gân cốt lạnh tanh.
Bao nhiêu bả lợi mồi danh,
Cũng không rờ nắm giựt giành với ai.
Dầu tiền của lầu đài muôn dặm,
Khi chết rồi cũng nắm tay không.
Chẳng đem một cắc một đồng,
Chỉ ôm tội phước trong lòng mà thôi.

d. Tóm kết

Để kết luận chương Gấp Niệm Phật khi chúng ta muốn cầu sanh về cõi Tịnh Độ của Đức Phật A Di Đà để khỏi chịu vào sanh ra tử, đổi xác thay hình trong cõi hồng trần này nữa, thì có một điều thích ứng và cần biết hơn hết là phải nhứt tâm tưởng niệm Đức Phật A Di Đà. Sự niệm Phật ấy sớm cũng như chiều, ngày cũng như đêm, giờ này đến giờ khác luôn luôn không xao lảng; và trong lúc niệm Phật chúng ta có một đức tin mạnh mẽ rằng những tội ác gì của mình đã làm từ lâu, bây giờ nhờ sự niệm Phật mà các điều ấy được diệt mất hết và bao nhiêu công đức phước huệ nơi mình sẽ lần lượt sanh ra, thần trí của mình sớm muộn gì cũng được mở mang; nhứt là nhờ sự niệm Phật mà các Phật mười phương hộ trì gia bị cho mình thêm phần tinh tấn để được mau chóng vãng sanh về Cực Lạc. Kỳ dư, nhờ công đức niệm Phật của mình mà Tổ tiên cha mẹ của mình cũng đều được siêu hóa về Tịnh Độ.

“Tu một thuở cứu thân vĩnh kiếp,
Độ được mình còn vớt mẹ cha;
Thuyền to một chiếc sắm ra.
Tất nhiên chở hết cả nhà xuống đi.”

Có sự tin tưởng mạnh mẽ như vậy, mới khiến cho sự niệm Phật của mình không bị lảng xao thối đọa và chắc được vãng sanh.

Người không ai giống ai nào,
Chung qui cũng một đường vào mồ ma.
Ấy là định mạng người ta,
Cuối cùng ai cũng phải là thế ư !
Há không cầu đạo Chơn Như,
Để mưu giải thoát kiếp người trần gian.
Dứt xong ba nẻo sáu đàng,
Quí hơn cái chiếc ngai vàng trần ai.
Ngai vàng khó giữ lâu dài,
Tòa sen Cực Lạc ngồi hoài tự do.
Tu hành cần phải sớm lo,
Tử sanh là việc lớn to của người.
Nan tri sống chết nay mơi,
Mau tu kẻo chẳng kịp Trời kêu tên.
Ta Bà thế giới rộng thênh,
Xưa nay thần chết không quên người nào!

 

CHƯƠNG HAI
PHƯƠNG PHÁP NIỆM PHẬT

“Gìn giới cấm sửa tâm ô tạp,
Niệm Phật thì phải dẹp lòng tà”

Theo lời của Tổ Thầy dạy, người niệm Phật trước hết phải dứt bỏ được tà tâm, giữ gìn đúng theo giới luật và sửa trị lòng dạ của mình không còn xấu xa nhiễm loạn những điều trần tục nữa. Vì người niệm Phật mà không chừa tâm tà, không gìn giữ luật giới, chỉ niệm cho lấy có chớ không thành tâm thì chẳng khác nào kẻ nấu cát muốn thành cơm; để ruộng không mà muốn có lúa thì chẳng khi nào có được.

Biển tâm còn sóng ba đào,
Thì là chưa thấy được màu minh châu.
Di Đà từ khởi niệm đầu,
Đến khi niệm chót nhiếp thâu một lòng.
Bao nhiêu tạp niệm đều không,
A Di Đà Phật ngưỡng mong một niềm.
Trong tâm khỏi phải giữ kiềm,
Mà bao vọng tưởng không xen lẫn vào.
Ngày đêm bất luận lúc nào,
Lòng luôn niệm Phật thao thao như nguồn.
Tuy là ở tại trần dương,
Như ngồi nơi cõi Tây Phương khác gì.
Tinh thần khi được thống qui,
Tức là tự biết những gì siêu nhiên.
Dù cho pháp Tịnh hay Thiền,
Đều cần tâm niệm thống nguyên làm đầu.
Nếu tâm không được nhiếp thâu,
Thì không thể niệm trọn câu Di Đà.
Niệm đầu thì Phật, đuôi ma,
Đuôi ma đầu Phật loạn ra đủ hình.
Niệm như thế uổng công trình,
Sẽ không thể được kết tinh như lòng.
Như cây nay nhổ mai trồng,
Thì không ra được trái bông mà dùng.

Cát không phải là gạo, nên cho dù chúng ta có nấu trải qua trăm ngàn năm đi nữa, thì cũng chỉ là cát nóng mà thôi, chứ chẳng thể nào thành cơm hay cháo gì để ăn được hết, bởi nó không phải là nhân của cơm!

Còn ruộng đồng không cày bừa, không gieo giống gì cả mà ta cứ ngồi đó chờ mong tới mùa có lúa nếp để mà thu hoạch, thì thật là chuyện mơ mộng viễn vông!

Hai thí dụ trên rất thực tế và rất bình thường chẳng phải là cao xa gì, nên ai ai cũng hiểu được một cách cụ thể rõ ràng.

Thì sự niệm Phật cũng thế! “Chỉ niệm cho lấy có chớ không thành tâm” mà muốn khi lâm chung Phật đến đón, thì quả thực mình đã tự lầm lẫn chính mình rồi vậy!
Sao gọi là “thành tâm”?

Thành tâm là: thật tâm, chí tâm, nhất tâm, thành lòng, thật lòng, v.v… và.. v.v… có rất nhiều danh từ để gọi, nhưng cũng đồng một ý nghĩa, là trong khi niệm Phật không có những nhớ nghĩ nào khác, chẳng hạn như các nhớ nghĩ về của cải tiền bạc, danh lợi cảm tình, nghèo giàu được mất, thị phi tốt xấu, buồn vui mừng giận, không có những nhớ nghĩ về kỹ niệm xa xưa, hay ao ước về tương lai sẽ như thế này thế nọ, không có những nhớ nghĩ miên man bông lông, lung tung xẻng nào chen vào!

Muốn làm Phật hay Ma,
Tự hỏi lấy lòng ta;
Đừng hỏi nơi Phật Tổ,
Cũng chớ hỏi Di Đà,
Việc ấy do mình định,
Phật không tính sao ra;
Siêu đọa thì Phật bảo,
Làm không vốn tại ta,
Mình có thể làm Phật,
Mình có thể làm ma;
Tự mình nhắm mắt lại,
Tự mình mở mắt ra.
Mình phải tự tu lấy,
Không thể mượn người ta;
Tội phước do mình tạo,
Lành dữ do mình ra.
Dù ngồi bên cạnh Phật,
Lòng ma vẫn ra ma;
Gần ma mà lòng Phật,
Chung cuộc thấy Di Đà.
Phật do mình hiện tới,
Phật do mình đi xa;
Chớ nghi ngờ lẩn quẩn,
Đừng gạn hỏi bao la.
Muốn thoát ly cảnh khổ,
Phải tự quyết nhảy ra;
Không tham của dương thế,
Chẳng nhiễm cảnh Ta bà.
Nguyện vãng sanh Cực Lạc,
Quyết được tọa Liên hoa;
Tâm không rời Phật tổ,
Lòng chẳng cách Di Đà.
Luôn luôn lo tự giác,
Thường thường nhớ giác tha;
Thương người như cật ruột,
Giúp người tợ giúp ta.
Lo khai trí Bát nhã
Lo mở tánh Ma-ha;
Việc khó làm làm được,
Điều khó nhẫn nhẫn qua.
Vì người vui bố thí,
Vì người vui xuất gia;
Công đức không riêng hưởng,
Công đức cho muôn nhà.
Từ bi khắp thiên hạ,
Chẳng từ bi riêng ta;
Khi được tâm như thế,
Không gọi Phật cũng ra.
Phật sẵn nơi sanh chúng,
Phật ở khắp Ta bà;
Người được lòng như Phật,
Tất cùng Phật hợp hòa.
Người mê không thấy Phật,
Phật giác thấy người ta;
Tu ở nơi am tự,
Hoặc tu ở tại gia.
Đều là có Phật cả,
Chớ phân biệt gần xa;
Thành tựu mau hay chậm,
Do tâm lực mình ra.
Lấy đó làm căn bổn,
Để cầu đạo Thích Ca;
Cũng lấy đó làm chánh,
Để niệm Phật Di Đà.
Tu hành được thế ấy,
Không lầm lạc đường tà;
Điều này nên nhớ kỹ,
Khuyến tấn khắp chư gia.

Nói tóm lại, niệm Phật “thành tâm” là niệm Phật trong lòng chỉ có hình bóng của Đức Phật, chỉ có thế giới Cực Lạc, có hoa sen, ao thất bảo, hàng cây báu, gió đưa tiếng pháp ngân nga… hay chỉ có lời Phật dạy, lời của Tổ Thầy nhắc nhở khuyên răn!

Do vì chúng ta hồi nào đến giờ suy nghĩ lung tung quá quen, quá thuần rồi, cho nên bây giờ niệm Phật rất khó nhất tâm. Nhưng khó gì khó cũng phải ráng tập, như lời Cổ Đức đã khai thị:

Việc chi cũng ở chí bền,
Chí bền ấy vốn là nền thành công.

Hay là:

Núi tuy lớn đục hoài sẽ mỏn,
Rừng dù to cứ đốn sẽ thưa.
Tội bao lòng cố gắng chừa,
Có ngày hết được chớ ngờ rằng không.
Việc chi nếu chí công làm mãi,
Dù khó khăn thế mấy cũng thành.
Khó khăn là việc tu hành,
Xưa nay đã lắm người thành đâu không.

*Thích Tư Ngạn tự Nguyên Đăng, con nhà họ Tạ ở Tiền Đường tại Hàng Châu. Lúc tuổi trẻ ông theo học Nho, đức hạnh nổi tiếng xa gần. Không bao lâu cảm thấy việc đời vô thường, nên quy y Tam Bảo, đi tham học khắp các bậc tri thức về Tông và Giáo. Sau ông nghe Ngọc Phong pháp sư khai thị: “Muốn cầu thoát khổ, chỉ có pháp môn Niệm Phật là dễ thành tựu”, ông liền phát tâm mỗi ngày trì Phật hiệu 60 ngàn câu lấy làm định khóa, tức mỗi ngày niệm 600 xâu chuỗi trường.

Bình sanh có làm công đức chi, ông đều hồi hướng về Tịnh Độ.

Năm Nhâm Thân niên hiệu Đồng Trị, ông lại phát tâm thọ ngũ giới nơi chùa Hải Triều.

Năm Quang Chữ thứ chín, ông chán cuộc trần lao, muốn sớm cầu giải thoát, nên đem việc nhà giao phó cho hai con, đi thẳng đến chùa Hộ Quốc, lễ Hòa thượng Kính Phong cầu xuống tóc xuất gia. Mùa đông năm ấy, sư được duyên lành thọ giới Cụ túc nơi chùa Kỳ Viên ở Túc Sơn. Kế đó lại trở về chùa Hộ Quốc chuyên tu Tịnh Nghiệp.

Ít lâu sau, sư ngã bịnh, tuy thuốc thang điều trị nhiều phen, song bịnh lành rồi lại tái phát. Hai con trai nhớ mến, rước sư về dưỡng bịnh nơi nhà, mở một gian tịnh thất để làm chỗ tĩnh tu. Mùa thu năm Quang Chữ thứ mười lăm, sư bỗng vương chứng hạ ly, thuốc thang không công hiệu. Từ đó sự ăn uống tuy lần kém giảm, song sức niệm Phật lại thêm thành kính thiết tha. Tới ngày mùng mười tháng chín, sư gọi hai con lại bảo rằng: “Thời kỳ vãng sanh của thầy đã đến, hai con hãy đi thỉnh chư Tăng về nhà niệm Phật bảy ngày, để hổ trợ cho ta về Tây Phương!”.

Sáng sớm ngày mười hai khởi đầu kỳ Phật thất, sư bảo với thầy Lăng Phong rằng mình chỉ còn lưu trụ bảy hôm nữa thôi. Sang ngày rằm, lại cầm tay thầy Đình Sơn nói: “Chỉ còn ba hôm nữa, tôi sẽ về Cực Lạc!”.

Đến tối ngày mười bảy, sang canh tư, sư hỏi:

– Bây giờ là mấy giờ rồi?

– Thưa cha! Bây giờ là 2 giờ!

– Nếu 2 giờ tức là đã qua ngày mười tám, là kỳ hạn thầy vãng sanh. Vậy nên thỉnh chư Tăng xưng hồng danh trợ niệm!

Khi mọi người tề tựu đầy đủ đồng lớn tiếng niệm Phật, sư cũng niệm theo. Ước chừng tàn nửa cây hương, bỗng sư lặng thinh nhắm mắt. Giây lâu chợt mở mắt chắp tay, hướng về chư Tăng mà nói lời cảm tạ rằng: “Tôi đã được đến Tây Phương đảnh lễ Đức A Di Đà cùng hai vị Đại Sĩ. Phật rủ lòng thương xót trao tịnh y cho tôi. Còn Quán Âm Bồ Tát thì cầm cành dương liễu rưới nước cam lộ nơi đầu. Nhìn ra xa, tôi thấy Liên Trì đại sư đang thuyết pháp cho các bậc thượng thiện nhơn nghe. Bay dạo trên ao thất bảo rộng lớn mênh mang, nhìn khắp các hoa sen báu, tôi thấy một hoa tòa ghi tên chỗ mình sanh về. Đức Phật dạy tôi hãy tạm trở lại Ta Bà, tường thuật cho mọi người biết rằng mình được sanh về Tịnh Độ. Xin kính khuyên các vị nên gắng tinh chuyên niệm Phật, để ngày kia cùng gặp nhau nơi cõi Liên Bang!”.

Nói xong bảo đem nước mát uống ba hớp, rồi lại giường nằm nghiêng bên hữu, niệm Phật vài mươi câu mà thoát hóa.

Hôm sau, khi nhập quan, đảnh đầu hãy còn nóng ấm.

********

Dùng pháp niệm Phật, một là để cầu sanh về cõi Cực Lạc, một là mượn câu niệm Phật để tiêu diệt vọng tâm, nếu vọng tâm không trừ được thì không khi nào được chánh niệm. Chánh niệm không có thì bao giờ được vãng sanh Cực Lạc; thế nên đồng thời với sự niệm Phật cần kềm chế vọng tâm đừng cho phạm giới cấm mới có hiệu lực.

Những người tu pháp môn Tịnh Độ thì chủ yếu ở chỗ niệm Phật để cầu sanh về cõi Cực Lạc, mà được vãng sanh hay không giai do ở sự niệm Phật ấy thành tâm hay không thành tâm vậy thôi!

Muốn được Phật hóa thân đến rước,
Phải nhứt tâm niệm Phật chí thành.
Giữ lòng niệm Phật cho thanh,
Tất nhiên được Phật rước lên sen vàng.
Thấy nhiều kẻ muốn sang Cực Lạc,
Mà lòng như bụi rác cống mương.
Thế là dầu Phật có thương,
Cũng không thể hiện bên giường rước đi.
Làm tội ác trong khi chưa biết,
Khi biết rồi cương quyết tránh xa.
Một lời niệm Phật phát ra,
Đủ làm sức cảm Di Đà tiếp linh.
Phật độ kẻ hữu tình với Phật,
Chớ Phật không thể rước con ma.
Cho nên khi niệm Di Đà,
Phải lòng như Phật để mà niệm lên.

*Mặc Am đại sư, pháp danh Thượng Nhân, sư họ Chu, người ở Hoành Châu tỉnh Hồ Nam. Cha học Nho, mãn phần sớm, ngài còn bé mà đĩnh ngộ sáng lẹ, liếc mắt qua đã đọc xong mấy hàng sách. Năm mười lăm tuổi, văn tài vượt xa các đồng bạn, thầy dạy học nghĩ rằng đường công danh về sau tất sẽ rực rỡ. Hai năm kế đó, Ngài đến ở trọ chùa Nhạn Phong học tập, nhân chép kinh Kim Cang tới câu: “Tâm quá khứ, hiện tại, vị lai đều không thể được”, bỗng chợt nảy sanh tư tưởng xuất trần.

Năm Hàm Phong thứ bảy, mẹ muốn tìm nơi hỏi vợ cho, Ngài lén trốn đến chùa Nam Phong, nương theo Phổ Chiếu thiền sư xuất gia.

Năm sau, lại đắc giới nơi Thúy Đình thượng nhơn ở chùa Phước Nghiêm. Đại sư nghe Chúc Thánh Lượng thiền sư pháp hóa rất thạnh, liền đến thọ tâm ấn.

Qua năm kế, lại yết kiến Pháp Vân thiền sư, đi sâu vào giáo nghĩa, do đó đối với sách Nho cũng được suốt thông. Các bậc danh tài thạc học nghe tiếng Đại sư, đều thích tìm đến để giao du.

Ngài dõng mãnh về việc hướng thượng nên tới ẩn tích ở Kỷ Cung Nham tại Nam Nhạc, cùng với Thiềm Vân pháp sư nương nhau sách tấn để tham cứu tu hành.

Sang niên hiệu Đồng Trị, Đại sư đi tham phỏng khắp các bậc tôn túc nam bắc ngộ nhập nguồn tâm, rồi trở về chùa Phước Nghiêm duyệt xem Đại tạng.

Mùa thu năm Quang Chữ thứ hai, Ngài lại cất tịnh xá bên chùa Chúc Thánh ở Nam Nhạc, khổ thiết mật tu, lâu ngày sự tỏ ngộ càng thêm sâu sắc.

Từ đó các sách vở ngoại điển thảy đều quán triệt, hàng danh sĩ lại tìm đến giao du như cũ. Chùa Đại Thiện ở Nam Nhạc, nguyên là một danh lam cổ, bị người xâm chiếm, Đại sư quyên tiền chuộc lại rồi trùng tu. Ngài phỏng theo quy tắc của Triệt Ngộ thiền sư tổ chức sự tu học, nên chư Tăng mười phương vân tập về, đến đỗi không đủ chỗ dung chứa. Tất cả học chúng nơi đó đều suốt thông tánh tướng, giữ luật hạnh trang nghiêm.

Đại sư lấy Thiên Thai giáo quán làm tiền đạo cho hàng học giả, lấy Di Đà Tịnh Độ làm chỗ cứu cánh nương về. Ban sơ Đại sư giữ nhựt khóa niệm Phật sáu muôn câu, lâu ngày đi đến cảnh không niệm tự niệm, nên câu hồng danh chẳng lúc nào gián đoạn.

Mùa xuân năm Nhâm Dần, Đại sư đem việc chùa giao phó cho đệ tử thượng thủ và nói: “Ta sắp về Tây Phương!”.

Sang Đông, ngài cử hành lễ Phật thất. Được hơn một tuần, trong định Đại sư thấy nước bát công đức lóng lánh nơi ao thất bảo trang nghiêm.

Không bao lâu Ngài cảm bịnh nhẹ, từ khước thuốc thang một lòng niệm Phật và bảo đồ chúng luân phiên trợ niệm.

Kế đó Đại sư ngưng ăn uống, nằm theo lối kiết tường nghiêng hông về bên hữu, giữ pháp Kim cang trì niệm tức là nhép môi niệm liên tục.

Hôm sau Ngài thấy Đức A Di Đà hiện thân, tướng bạch hào sáng chói, liền chỗi dậy ngồi kiết già hướng về phương Tây, bảo xếp dọn chăn gối.

Thị giả ngần ngại trình thưa tiết trời quá lạnh, Đại sư bảo: “Ta sắp từ bỏ bộ đồ cũ dơ bẩn rách nát này đổi lấy y phục mới gấm vóc lụa là đẹp đẽ sang quý, bỏ huyễn thân nhơ nhớp thay thân bảo chất đẹp nghiêm!”.

Tăng chúng hay tin tụ hội đến, Ngài an tường nhìn khắp xung quanh và chẫm rãi hỏi:

 “Thế nào là giải thoát?”.

Đại chúng đều ngơ ngác nhìn nhau không hiểu gì.

Đại sư mỉm cười bảo:

 “Đã vậy, chi bằng học theo mấy ông già bà cả quê mùa, ăn chay trường chân thành mà niệm Phật là chắc chắn hơn hết!”.

Kế đó dạy chúng đánh mõ trợ niệm, giây lát tiếng mõ hơi gấp, Ngài bảo dừng lại, chỉ đồng thanh niệm lớn “Nam Mô A Di Đà Phật”. Khi niệm độ hơn một trăm câu, Đại sư chấp tay mà thị tịch.

Bấy giờ nhằm ngày mười ba tháng chạp, năm Quang Chữ thứ hai mươi tám. Vài giờ sau chúng dò thăm thấy đảnh của ngài còn nóng, thân thể đều mềm mại.

Đại sư hưởng tuổi đời được sáu mươi bốn, Tăng lạp bốn mươi bốn.

Khi tịnh niệm lòng còn mõi mệt,
Thì là chưa mở được huệ tâm.
Sự thấy nghe chậm chạp sai lầm,
Các phiền não mọc mầm không nghỉ.
Khá phân tích nơi lòng cho kỹ,
Đừng để lầm nhận quỉ là con.
Thật tâm chơn thanh tịnh vẹn toàn,
Còn tâm vọng thỉ chung bất nhứt.
Tâm chơn mới là tâm chư Phật,
Tâm vọng là tâm các Ma Vương.
Tâm chơn thì đến cõi Tây Phương,
Còn tâm vọng lạc đường Địa Ngục.
Tâm chơn dẫu phong ba chẳng đục,
Tâm vọng vừa mới lắc nổi bùn.
Thật tâm chơn sáng sủa vô cùng,
Còn tâm vọng mông lung bất tận.
Nhờ sáng sủa nên không lầm lẫn,
Vì mông lung nên lộn sai đường.
Vọng với chơn phải xét tận tường,
Tìm lấy cái chơn tâm làm chủ.
Tâm chơn tất là tâm thường trụ,
Tâm vọng là tâm đủ thứ sanh.
Tâm chơn là tâm được trọn lành,
Còn tâm vọng hay sanh niệm dữ.
Lành mới thật là hành Phật sự,
Dữ thì là đồng thứ nghiệp ma.
Khởi tâm lành thì phước sanh ra,
Khởi tâm dữ thì là họa tới.
Tâm chơn tất việc lành thường khởi,
Tâm vọng thì việc dữ thường sanh.
Tự xét tâm khởi dữ hay lành,
Tất biết rõ tâm chơn hay vọng.
Việc trần tục khiến cho tâm động,
Dữ thì nhiều lành chẳng bao nhiêu.
Vừa móng tâm thì phải trừ tiêu,
Chớ để phạm rồi sau mới hối.
Biết chừa bỏ từ trong vọng khởi,
Thì hành vi tội lỗi không sanh.
Tức nhiên là người được trọn lành,
Tâm vọng ấy trở thành chơn được.

*******

Đời Nguyên, Ngài Trung Phong đã nói:

– Cổ nhân có bài thơ khuyên học như sau:

“Kích thạch nãi hữu hỏa,
Bất kích nguyên vô yên.
Nhân học thỉ tri đạo,
Bất học phi tự nhiên”
(Đập đá bèn xẹt lửa.
Chẳng đập, khói chẳng sanh.
Người học mới biết đạo,
Chẳng học chẳng thể thành).

Đấy là nói trong đá vốn có lửa, chẳng dùng trí huệ để cọ sát, dẫn khởi, sẽ trọn chẳng thể có được lửa. Người hiện thời chỉ biết trong đá có lửa, chẳng bỏ ra tí xíu công sức trí huệ để va chạm, suốt ngày chỉ trỏ hòn đá lạnh ngắt ấy mà nói đến tác dụng của lửa thế này thế nọ. Nói cho đến hết cả cuộc đời, vẫn là một khối đá trơ trơ như trước, muốn tìm một tí tác dụng của lửa, trọn chẳng thể được! Đấy là kẻ chẳng chịu dốc hết một lòng thực hiện công phu vậy!

Lại có một hạng người nghe nói trong đá có lửa, bèn đập nát đá. Do muốn lấy được lửa, bèn đập đá nát bét thành bụi, trọn chẳng được lửa. Chẳng tự trách chính mình không dùng trí huệ để có được lửa, lại đến nỗi chẳng tin trong đá thật sự có lửa! Đấy là hạng phàm phu không tin “Tâm này là Phật; Tâm này làm Phật”, “Niệm Phật là nhân; Thành Phật là quả” vậy!

Những nào túc trái tiền khiên,
Chỉ là lo trả lòng nguyền không gây.
Chịu cay đắng dồi mài chánh đạo,
Hẹn một ngày trực đáo Tây Phương.
Vua lòng tay tự cầm cương,
Thắng con ngựa ý trên đường xa xôi.
Không mỏi dạ trước ngôi Phật điện,
Chẳng lảng tâm khi niệm Di Đà.
Huệ lòng ắt được trổ hoa,
Đạo mầu sẽ đắc chương tòa được lên.

Liên Trì đại sư nói:

 – Bất cứ kỹ năng hay nghề nghiệp nào trong thế gian, lúc mới học sẽ cảm thấy khó khăn khôn ngằn, dường như là muôn phần chẳng thể thành tựu được. Do đó, bèn bỏ dở dang giữa chừng, chẳng học, sẽ trọn chẳng thể thành công!

Vì vậy, quý ở thuở ban đầu có cái tâm quyết định chẳng nghi. Tuy là quyết định chẳng nghi rồi, mà cứ lần lựa, trì hoãn, dần dà mãi cũng sẽ chẳng gặt hái kết quả gì cả.

Thế nên, kế đó là quý ở chỗ có cái tâm dũng mãnh tinh tấn. Dẫu đã dũng mãnh tinh tấn rồi, nhưng được chút ít bèn cho là đủ, hoặc lâu ngày bèn mệt mỏi, hoặc gặp thuận cảnh bèn mê, hoặc gặp nghịch cảnh bèn chán, thì cũng hóa ra “Dã tràng xe cát biển Đông; Nhọc nhằn mà chẳng nên công cán gì!”.

Do đó, tiếp theo, quý ở chỗ phải có cái tâm kiên định, luôn bám chặt phương hướng và mục đích, chẳng hề thoái chuyển.

Làm được như vậy thì mới đáng mặt là bậc trượng phu thật sự có quyết tâm. Giữ gìn tấm lòng một mực như thế, thì mọi chuyện trên trần gian này có chuyện nào mà trở ngại, làm khó dễ được ta chứ?

Đời hễ giàu ở nhà cao quí,
Nghèo sống nơi dơ dáy thấp thoi.
Tu hành cũng giống thế thôi,
Huệ sâu đức lớn được ngồi phẩm cao.
Việc tu niệm càng lâu càng quí,
Trải nhiều năm cây cội càng to.
Đừng sờn những lúc gay go,
Không người uốn nắn sao cho nên người.
Huống lại kẻ làm lành thì ít,
Đứa hung hăng gian ác thì nhiều.
Cố nhiên phải bị ghẹo trêu,
Nếu không chịu nổi phải xiêu theo người.
Thiếu đại lực ắt trôi việc lớn,
Không đại hùng khó thắng nguy nan.
Tu như lọc cát tìm vàng,
Việc đâu phải dễ chớ toan ngã lòng.
Trên đồi cao sen không thể mọc,
Sống an nhàn khó học chữ tu.

******

Điều kiện để được vãng sanh Tây Phương bao gồm có ba thứ, đó là: Tín Nguyện Hạnh, gọi là tam tư lương. Chữ tư có nghĩa là tư tài, tức chỉ cho tiền bạc; còn lương có nghĩa là lương thực, tức lương khô. Bởi, thuở xưa muốn đi xa, thì có tiền không vẫn chưa đủ do vì quán xá không phổ biến thuận tiện như hiện nay.

Nếu người nào niệm Phật cầu vãng sanh mà đầy đủ ba thứ này thì người đó chắc chắn được vãng sanh. Tổ thứ chín là Ngẫu Ích Đại Sư đã khẳng định: “Được vãng sanh hay không toàn do có Tín, Nguyện hay không. Phẩm vị cao hay thấp đều bởi công phu hành trì sâu hoặc cạn.”

Cổ Đức cũng đã ví Tín, Nguyện giống như bức tường cao, hay cây cổ thụ to cao. Bình thời nếu bức tường hay cội cổ thụ ấy nghiêng về hướng nào, thì khi ngã nó sẽ đổ ngã về phía đó.
Vì vậy, muốn biết mình khi thân hoại mạng chung sẽ vãng sanh hay không, chẳng nên hỏi ai hết, mà hãy tự kiểm tra xem mình có đầy đủ Tín, Nguyện hay chưa, chuyện này người ngoài khó biết, chỉ trừ các vị chuyên nghiệp thực sự mới nhìn ra mà thôi!

Làm sao để biết mình đã đủ Tín – Nguyện?

Thông thường chúng ta hay lầm lẫn điều này! Vấn đề này lại là một vấn đề vô cùng quan trọng!

Chúng ta thường khôn ngoan những thứ vặt vảnh, nhỏ mọn. Những thứ tạm bợ phù du, chả ra gì cả, vậy mà ta có thể bỏ ra rất nhiều thời gian, cũng như bỏ ra rất nhiều công lao sức lực và tâm lực để suy tư tính toán kiểm nghiệm; Còn chuyện vô cùng hệ trọng này thì lại hời hợt, thờ ơ, qua quýt, sơ sịa.. rồi thông qua! Do đó người niệm Phật thì nhiều như lông trâu, mà số vãng sanh lại ít như sừng lân, chẳng có chi là khó hiểu!

Hầu hết chúng ta đều dựa vào hình thức ăn chay, niệm Phật, lạy Phật, rồi tự cho rằng mình đã đầy đủ Tín – Nguyện, thì đây là một sai lầm rất lớn và rất phổ biến hiện thời. Xin thưa rằng hình thức chỉ là cái vỏ bên ngoài, chứ không phải cái ruột bên trong, ngàn vạn lần không nên nhằm lẫn điều này!

Có những đồng tu phát tâm trường chay, sớm chiều hai thời lễ nguyện, sau lễ bái sám nguyện thì ngồi niệm Phật một hai giờ đồng hồ, thậm chí có những vị mỗi ngày đêm ba hay bốn thời tu tập như thế. Ngoài công phu ra, vị ấy chẳng những chuyên làm lành lánh dữ, không đánh đập chém đâm ai, không chưởi mắng ai, hoặc trộm cắp gì của ai, mà còn thương người mến vật, bố thí giúp đỡ kẻ cơ bần, ốm đau tàn tật, hoặc chăm lo các công tác từ thiện xã hội suốt tháng quanh năm. Với thời gian năm bảy năm công phu, hay với thời gian năm ba mươi năm hành trì như thế, là vị ấy tự cảm thấy rằng Tín Nguyện Hạnh của mình đã đầy đủ rồi!

Đến khi ma bệnh kéo tới, nằm trên giường, có đồng đạo đến khuyên nhắc: “Ông Hai ơi! Hoặc bà Ba ơi! Thời điểm này là thời điểm quan trọng, hãy cố gắng buông xả muôn duyên để chuyên niệm Phật vãng sanh Tây Phương.. nghen!” thì nổi cáo, bảo: “Tao ăn chay mấy chục năm nay… Mày mới đây mà bày đặt dạy tao!”

Giây phút lâm chung, tay chân luống cuống, phùn mang, trợn mắt, chắc lưỡi, nghiến răng, lăn lộn giật mình, kêu than thảm thiết, thần trí hoảng hốt loạn cuồng hoặc hôn hôn mê mê… mà ra đi, giã từ cõi thế, cũng chẳng ai hay ai biết là đã về chốn phương trời mô tê nào cả. Thật sự không có một dấu hiệu gì của vãng sanh hết!

Nên biết, chuyện ăn chay, trì niệm, bố thí làm phước… là hình thức cần có của người tu Tịnh Độ, đây là điều kiện cần chứ chưa phải là điều kiện đủ để vãng sanh. Hay nói cụ thể là hình thức tu như vậy chưa phải là đã đầy đủ Tín Nguyện!

Vậy thì phải như thế nào mới là đủ?

Tín, Nguyện phải y cứ trên tâm tưởng, trên ý niệm mà lượng định chứ không thể dựa trên hình thức mà duyệt xét được!

Tín: là tin có thế giới Cực Lạc, thế giới ấy hiện hữu và vô cùng an vui, vô cùng trang nghiêm thanh tịnh. Đồng thời cũng tin một cách chắc chắn rằng cõi Ta Bà mà chúng ta đang sống là cõi Kham Nhẫn, là cõi Cực Khổ, nhọc nhằn, dẫy đầy tang thương dâu bể, dẫy đầy dơ bẩn nhiễm ô!

Nguyện: là mong mỏi, là mơ ước, là khao khát được sanh về thế giới Cực Lạc. Mà tha thiết muốn được sanh sang thế giới Cực Lạc bao nhiêu, thì phải nhàm chán thế giới Ta Bà này, nhàm chán cái cõi khổ đau tanh nhơ này bấy nhiêu!

Nguyện thiết là trong tâm lúc nào cũng có! Giả như thân nhân của chúng ta có người bị tai nạn giao thông, đã đưa vào bệnh viện, cả nhà đều tới bệnh viện xem sự tình thế nào, riêng một mình ta đang trông coi nhà cửa. Mặc dù bận rộn trông coi nhà cửa, vừa lo xử lý những công việc cần thiết, vừa lo tiếp đãi khách khứa, chào hỏi ân cần, ngoài mặt của chúng ta thì không có biểu lộ gì cả, nhưng trong lòng thì luôn nôn nóng mong ngóng tin tức từ bệnh viện nhanh chóng truyền về, mong sao người thân không phải tử vong, mong sao không đến đổi nặng lắm, chỉ bị thương sơ sài mà thôi! Lúc đó thân ta thì ở nhà mà tâm ta thì ở tại bệnh viện.

Người Nguyện thiết cũng như thế, thân thì còn ở Ta Bà mà tâm thức thì dạo chơi nơi miền Cực Lạc, tức là lúc nào cũng nhớ nghĩ bóng hình Đức Phật A Di Đà trong tâm tưởng, lúc nào, lúc nào, lúc nào cũng có cảnh Tịnh Độ trong tâm, phải như thế thì mới gọi là đầy đủ Tín Nguyện!

Do đây tự biết, từ sáng sớm đến chiều tối trong lòng mình nhớ nghĩ về Cực Lạc, nhớ Phật A Di Đà nhiều, hay nhớ nghĩ về Ta Bà, nhớ về của cải con cháu nhiều?

Khi đem hai thứ đó cho lên hai đĩa cân thì chúng ta không khỏi giật mình, một phen thất kinh hồn vía!

Không cần phải tính trong 12 tiếng đồng hồ, hãy tự kiểm tra lại trong 1 tiếng đồng hồ mà chúng ta đang ngồi niệm Phật. Có khi ta ngồi niệm một mình, hoặc đang ngồi cộng tu với đại chúng. Lúc ấy thân tướng của ta rất trang nghiêm, có khi miệng niệm cao thanh liên tục không gián đoạn. Nhưng thực chất trong lòng có Phật, có thế giới Cực Lạc chẳng được mấy niệm. Cái tâm của mình nó cứ âm thầm dong ruỗi lang thang tận chân trời góc biển, nhớ chuyện năm xửa năm xưa, nhớ thuở còn cấp sách đến trường, nhớ chuyện làng trên xóm dưới, chuyện tốt xấu thị phi của người này kẻ nọ… mãi đến khi chuông báo xả tịnh ngân vang, mới chợt giật mình nhớ lại là nảy giờ suốt buổi mình mải mê vọng tưởng lung tung. Sáu mươi phút trôi qua ngồi niệm Phật thật ra chỉ niệm ở đầu môi chót lưỡi muốn hết; còn thực chất niệm Phật mà trong lòng có Phật dồn đi dồn lại thì chẳng được mấy phút. Quả là “Phật thì một niệm còn mười niệm ma”. Với trình độ hiện tại của ta “Phật một niệm thì niệm ma có tới cả trăm cả ngàn, chứ không chỉ có mười thôi đâu!”

Thực tế là vậy đó! Bi thương thê thảm dường ấy, nhưng chúng ta vẫn phớt lờ nhẹ nhàng cho qua, rồi dựa vào hình thức ăn chay, bộ áo tu của mình đang mặc trên người, hình thức tu hành mấy mươi năm của mình, rồi tự ngấm ngầm công nhận cho rằng mình đã đầy đủ Tín Nguyện rồi, hoặc đã dư Tín Nguyện rồi! Đây là tự lừa dối! Mà mình tự lừa dối chính mình là một lỗi lầm to lớn nhất trên trần gian!

Do đó, cần phải đề khởi dũng khí chấp nhận một sự thật, tự phản tỉnh nhìn nhận sai xót này, để tự thương xót lấy chính mình mà cố gắng khắc phục sửa chữa cái sai lầm này, mà cũng là cái sai lầm quan trọng bậc nhất trong đời tu. Cổ Đức đã từng dạy: “Ở đời ai mà không lỗi, có lỗi mà dám nhận và nỗ lực sửa chữa, còn gì quý hơn!”.

Tu thì phải nhớ thành lòng,
Dối tu thêm tội chớ hòng vãng sanh.

Một bà nhà giàu ở Hàng Châu đến am Hiếu Từ hỏi Hòa thượng Đạo Nguyên rằng :

– Xin Hòa thượng từ bi dạy cho đệ tử tu pháp môn nào nội trong một đời chắc chắn thoát khỏi biển khổ?.

Hòa thượng dạy:

– Không gì hơn niệm Phật! Nhưng niệm Phật không khó, mà khó nơi bền lâu. Nhưng niệm được bền lâu chưa khó, mà khó nơi tâm chuyên nhứt. Con nếu có thể không quản đến tất cả thế sự, mà chuyên tâm trì niệm danh hiệu của Phật và chí thành phát nguyện vãng sanh, khi lâm chung Phật đến tiếp dẫn thời được giải thoát.

Rồi Hòa thượng đem pháp môn Tịnh Độ vắn tắt giới thiệu cho bà.

Bà mừng lắm, lạy tạ Hòa thượng mà về. Khi về đến nhà, bà liền đem tất cả việc nhà ủy thác cho con trai và con dâu, còn bà thời cất tịnh thất ở riêng lo tu trì. Trải qua hơn một năm, bà đến am thưa với Hòa thượng Đạo Nguyên rằng:

– Từ khi nhờ ơn Hòa thượng chỉ dạy, đệ tử bỏ cả việc nhà, chỉ chuyên lo niệm Phật. Đệ tử tự xét thấy mình cũng có thể gọi là không biếng trễ, chỉ khổ nỗi khó được nhứt tâm. Trông mong Hòa thượng từ mẫn dạy bảo thêm cho!

Hòa thượng nói:

– Con dầu vất bỏ việc nhà nhưng đó chỉ là hình thức bên ngoài, chứ thực chất trong lòng còn tưởng nhớ đến của cải tài sản, chuyện làm ăn của con cháu, tưởng nhớ con cháu, quyến thuộc tình ái chưa dứt mà muốn nhứt tâm sao được! Từ nay con cần phải gia công thêm. Trước hết, nên nhổ sạch gốc tình ái, trong tâm tất cả đều buông bỏ, được như vậy thì mới có thể được nhứt tâm!

Bà than rằng:

– Hòa thượng dạy rất đúng! Đệ tử dầu thân không quản đến gia đình mà tâm chưa rời được. Từ nay đệ tử quyết định trăm sự không quản đến.

Sau khi về tịnh thất, bà tinh tấn niệm Phật hơn trước. Mỗi khi trong lòng nhớ tưởng tới gia đình, bà liền tự bảo: “Ta không nên dính tới mấy cái thứ này nữa! Trăm sự không quản đến! Trăm sự không quản đến!”, để trừ sự tưởng nhớ ấy.

Có ai hỏi đến việc nhà, việc đời, bà cũng chỉ trả lời bằng câu: “Tui không có dính tới mấy cái thứ đó nữa! Trăm sự không quản đến! Trăm sự không quản đến!”, rồi chuyên lo niệm Phật. Do đó, cái danh hiệu “Bà Bá Bất Quản” truyền khắp xóm làng, và người ta không còn kêu đến tên họ cũ của bà nữa.

Cách ngót hai năm sau, bà đến am đãnh lễ Hòa thượng mà cảm tạ rằng:

– Con y theo lời Hòa thượng dạy, niệm Phật đã được nhứt tâm, đã được thấy Phật. Không mấy hôm nữa con sẽ về Cực Lạc!

Ba ngày sau, bà không bệnh, ngồi xếp bằng trang nghiêm niệm Phật mà vãng sanh. Bấy giờ là năm đầu niên hiệu Gia Khánh đời nhà Thanh.

Bà Bá Bất quản ở câu chuyện trên cho chúng ta thấy bà có tâm giác ngộ rất mạnh mẽ, nên khi đến gặp Hòa thượng là bà hỏi: “Xin Hòa thượng từ bi dạy cho đệ tử tu pháp môn nào nội trong một đời chắc chắn thoát khỏi biển khổ?”. Bởi kiếp sống con người suy gẫm kỹ lại thì toàn là khổ, khổ mọi mặt, khổ nhiều thứ mênh mông như là biển. Cho nên bà cảm thấy phải tinh tấn chuyên cần nhanh chóng lẹ làng cất chân bước ra chỉ trong một đời mà thôi, chứ hai hay ba đời trở lên thì bà cũng không cam tâm chấp nhận!

Chúng ta thì trái lại cứ mãi mê đắm bao nhiêu thứ giã tạm trần đời, chẳng mấy khi phát khởi lòng cầu mong vãng sanh Tây Phương một cách khẩn thiết, vì thế sự tu niệm của chúng ta chỉ có hình thức, còn thực chất thì rỗng tếch, trống không! Cũng vì chưa nhìn thấu lẽ thật kiếp sống con người, nên chúng ta chẳng thể mạnh mẽ buông xả những thứ dây mơ rễ má chằn chịt vốn dĩ của đời thường.

Điều đáng để cho chúng ta quan tâm ở đây là, thời gian đầu bà đã rơi vào hình thức tức là chấp tướng. Thời gian sau đó nhờ có thiện tri thức chỉ ra chỗ sai, và bà đã hạ quyết tâm sửa chữa lỗi lầm, nên đã đạt được thành công mỹ mãn!

Chúng ta bấy lâu nay niệm Phật tu hành cũng y chang như bà ở thời gian đầu, chỉ tu hình tướng bề ngoài, rồi chấp chặt nơi ấy mà tu hoài, càng ngày càng thêm cống cao ngã mạn, nên chuyện vãng sanh của chính mình đã trở thành bánh vẽ mà thôi!

*******

Chư Tổ Sư đã khuyên chúng ta nên đặc biệt lưu ý tới hai điểm này:

Thứ nhất ‘cầu sanh Tây phương trống rỗng’ tức là cầu suông. Chúng ta cầu vãng sanh chỉ là nói khơi khơi trên miệng, giống như hô khẩu hiệu vậy, người ta hô hào thì mình cũng hô hào theo, sự mong cầu của chúng ta chẳng có thực chất, đó là ‘cầu suông’, hét bể cổ họng cũng uổng công!

Nếu ngay bây giờ Đức Phật A Di Đà đến tiếp dẫn chúng ta về Cực Lạc thế giới, thì phần đông chúng ta đều sợ hãi và chạy mất. Tôi muốn vãng sanh, nhưng không phải ngay bây giờ. Tôi còn chuyện này chưa làm xong, còn chuyện kia phải làm… Tâm tham luyến thế gian này chính là chướng ngại vãng sanh lớn nhất của chúng ta. Cho nên chuyện cầu vãng sanh của chúng ta trống rỗng, có vỏ không có ruột, là tự lừa dối mình, là gạt người, mình nói cầu vãng sanh, khi Phật đến đón, mình lại chẳng nỡ xa lìa cõi đời này mà ra đi.

Thứ hai ‘Ái là chủ tể, niệm Phật chỉ niệm ngoài da’. Căn bịnh của chúng ta, là niệm Phật rất là giả dối! Niệm Phật chỉ là công phu ngoài mặt, ngoài miệng mà thôi, do vậy vừa niệm Phật, cội rễ sanh tử vừa tăng theo, giống như hai con đường song song, vĩnh viễn chẳng bao giờ cắt ngang nhau. Hiện nay hay biết ra sự thật này còn tốt hơn là lúc lâm chung tay chân cuống quýt mới hay biết thì vô phương cứu chữa. Hiện nay còn kịp thời cãi đổi. Chính mình vốn chẳng có tâm muốn thoát ly Ta Bà, chẳng có chân thật tín nguyện cầu về Tây Phương, mỗi ngày đều tu hành biểu hiện ra hình thức bên ngoài chứ trong tâm chẳng có, thì làm sao có thể vãng sanh cho được!

Người niệm Phật được lòng thành thật,
Đương nhiên là có Phật vãng lai.
Phật không hề bỏ sót một ai,
Nếu người ấy tâm hoài đến Phật.
Trừ những kẻ đầy lòng gian ác,
Niệm Phật trong giây lát rồi thôi.
Hoặc những người niệm Phật ngoài môi,
Trong lòng chẳng thật lòng tin Phật.
Tu giả dối chỉ thêm tội ác,
Không bao giờ được Phật hộ trì.
Chớ tưởng rằng Đức Phật từ bi,
Độ tất cả bất tri lành, dữ.

Chư vị Tổ sư đều nói với chúng ta pháp môn Niệm Phật là ‘vạn người tu vạn người vãng sanh’, nhưng thời buổi hiện tại vạn người tu chỉ có hai, ba người vãng sanh. Vấn đề là ở lòng tin chẳng chân thật, nguyện chẳng thiết tha cầu về Cực Lạc!

Nói một cách khác là do Tín, Nguyện, Hạnh của chúng ta chẳng đủ. Không thể nói là không tin, nhưng nửa tin nửa ngờ. Không phải là không có Nguyện, có nguyện nhưng còn do dự. Chẳng phải là không có Hạnh, nhưng ‘một ngày nóng, mười ngày lạnh’. Thí dụ nói vãng sanh cần có trăm phần trăm Tín Nguyện; còn chúng ta chỉ có mười phần trăm Tín và mười phần trăm Nguyện nên chẳng đủ để vãng sanh. Vì sao Tín, Nguyện, Hạnh chẳng đủ? Nguyên nhân căn bản là chẳng có tâm muốn thoát ly. Tâm muốn thoát ly là tâm ‘chán ghét Ta Bà, vui cầu Cực Lạc’.

Người xưa nói:

“Nguyện thoát ly Ta Bà như tù nhân trông mong có ngày thoát ra tù ngục,

Nguyện sanh Cực Lạc như kẻ nghèo hèn tha phương ăn xin nơi đầu đường xó chợ, lòng cứ mong ngóng được trở về cố hương cha hiền ngày đêm tựa cửa đợi chờ.”

Chúng ta dù chỉ một tí ti nào cũng chẳng giống, chẳng chân thật! Tâm muốn thoát ly là cốt lõi của Tín Nguyện vậy!

Cổ Đức bao lượt khuyên bảo chúng ta buông xuống, ngôn từ hết sức thống thiết, chẳng gì không mong khích động chúng ta. Vì tim chúng ta bị chai đá đã lâu, nên chẳng thiết tha gì tới chuyện thoát ly sanh tử. Mọi người ai cũng nói “Ôi chao, buông xuống sao mà khó quá, buông không nổi, buông không nổi!”

Thật ra đâu phải là buông không nổi! Mà là chúng ta chẳng nỡ buông, chẳng cam lòng buông xuống! Hãy nghĩ xem đúng không? Chẳng nỡ buông xuống tài sản của cải, vẫn chẳng nỡ buông xuống con cái cháu chắt, chuyện gì cũng muốn bận tâm; Chẳng nỡ xa lìa ruộng vườn; Chẳng nỡ xa lìa những căn nhà mang tên mình; Chẳng nỡ buông xuống những lời cung kính tán thán của người khác đối với mình… Những thứ này đều là các sợi dây xích, trói chặt chúng ta trong lục đạo luân hồi.

Chẳng nỡ buông xuống cho nên cội rễ sanh tử sẽ tăng trưởng theo, vô lượng kiếp rồi lại vô lượng kiếp trải qua, chẳng biết tới lúc nào mới có thể thoát ly. Đối với tham ái chúng ta đầy vướng mắc trong lòng; đối với sân hận chúng ta cũng nắm chặt trong lòng, vậy thì làm sao vãng sanh cho được? Vì vậy trong kinh Tứ Thập Nhị Chương Đức Phật cảm thán: “Người ta bị vợ con, nhà cửa trói buộc còn sâu chắc hơn là bị ở tù. Bị giam trong ngục tù còn có ngày thoát ra, còn của cải và vợ con chẳng có ý niệm nào xa lìa nổi”.

Đời khác chi là cảnh bọt bèo,
Không thể tránh khỏi ngày tan rã.
Thật là kiếp con người tạm giả,
Thế gian là mồ mả của người;
Kể từ khi mới có đất trời,
Kéo dài đến cõi đời hiện tại.
Trái đất của người đang ở đấy,
Không chỗ nào chẳng có thây chôn;
Thây người nầy ra đất ra bùn,
Mọc rau cỏ nuôi thân người khác.
Thây kiếp trước mọc lên rau rác,
Kiếp sau ăn không biết là thường;
Người nối nhau chịu chết một đường,
Dù tài trí không phương cạy gỡ.
Kiếp sống ngắn lo lường vô số,
Ít sự vui sự khổ thì nhiều;
Ngày tháng quanh quẩn có bấy nhiêu,
Xưa nay vẫn một chiều không khác.
Người nầy thác kế người kia thác,
Sự thác là kết cuộc đời người;
Bất luận ai sống dưới gầm trời,
Không tránh khỏi ngày hơi thở dứt.
Thế thì khá nên tin lời Phật,
Lo tu cho giải thoát kiếp phàm;
Các nghiệp mê cõi thế không làm,
Tất là khỏi bị sanh tử kiếp.
Tạo nghiệp tất nhiên là thọ nghiệp,
Nghiệp nào thì chịu kiếp nấy ra;
Nghiệp người ta sanh kiếp người ta,
Nghiệp thú vật sanh ra thú vật.
Nghiệp ác tất rơi vào chỗ ác,
Nghiệp lành thì được gặp chỗ lành;
Chúng sanh tùy nghiệp tạo mà sanh,
Có sanh tất phải đành có tử.
Việc sanh tử muốn cho rảnh sự,
Nghiệp hồng trần chớ thứ nào gây;

Mỗi ngày hai mươi bốn tiếng đồng hồ, chúng ta hãy quay lại hồi tưởng một lát, trong hai mươi bốn giờ ấy, thời gian tâm chúng ta nghĩ tới Cực Lạc có được bao lâu? Còn tâm nghĩ tới Ta Bà lại là bao lâu? Tâm nghĩ Ta Bà của chúng ta nhiều, tâm nghĩ Cực lạc quá ít ỏi! Ít tới mức đáng thương, thiệt là quá ít. Trong hai mươi bốn giờ đồng hồ có mười phút nghĩ tới chuyện vãng sanh hay không? Tỷ lệ này quá chênh lệch! Đó là nói trong một ngày, nếu ngày nào cũng vậy, cứ như vậy mỗi một năm trôi qua, chúng ta lấy gì để vãng sanh? Nghĩ vậy mới biết đời tu của chúng ta nguy hiểm tới chừng nào!

Hãy nên luôn tự nhắc nhở mình rằng hết thảy đều mọi thứ trên trần gian này đều là giả hết. Chỉ có niệm Phật thành Phật mới là thiệt. Đó là thật sự nghĩ tới Cực Lạc thế giới, khẩn thiết không thể đợi được nữa, chúng ta cầu như vậy mới chẳng là nguyện suông. Hãy mau mau gia công, nỗ lực.

Triệt Lưu đại sư khai thị cho cư sĩ Đinh Canh Dã như sau:

“Ví như con thuyền to chở được rất nhiều hàng hóa, muốn đi đến nơi nào đó, dẫu cho cột buồm chẳng phải là không cao, bánh lái chẳng phải là không ngay, lương thực, vật dụng chẳng phải là không hoàn bị, ý chí ra đi chẳng phải là không nhất quyết, có cái thế nương gió căng buồm chớp mắt là đi được cả ngàn dặm, nhưng nếu chưa chịu nhổ cây sào cắm thuyền lên, và sợi dây neo vẫn còn buộc chặt, thì cho dù đun đẩy đủ cách há thuyền có thể đi được hay chăng? Hiện tại, người tu Tịnh Nghiệp suốt ngày niệm Phật, sám hối, phát nguyện, vẫn còn cách xa Tây Phương, khó chắc được vãng sanh thì không gì khác hơn là chưa nhổ được cọc Ái, chưa chặt đứt được sợi dây Tình.”

Tổ sư cử một thí dụ:

Một chiếc thuyền đã chuẩn bị đầy đủ mọi thứ, sắp sửa ra khơi, nhưng đầu thuyền bị một sợi dây neo buộc chặt nên chẳng đi đâu được. Đây là ví như người niệm Phật, suốt ngày niệm Phật nhưng Tây Phương còn rất xa xôi, chẳng nắm chắc vãng sanh. Nguyên nhân là vì chưa nhổ được cọc Ái, chưa dứt được sợi dây Tình. Đó tức là “chưa chặt đứt tham ái, tức chưa chặt đứt gốc rễ sanh tử”. Tiếp theo đây, Ngài dạy chúng ta phương pháp đối trị:

“Nếu có thể xem chuyện ân ái cõi Ta Bà giống như nhai sáp, chẳng quản rảnh – bận, động – tịnh, khổ – sướng, buồn – vui, hãy dựa vào một câu Phật hiệu giống hệt như dựa vào ngọn núi Tu Di, hết thảy cảnh duyên chẳng thể dao động; mỗi khi biết mình mệt mỏi, biếng nhác, hoặc khi tập khí hiện tiền liền dũng mãnh đề khởi nhất niệm như vung thanh Ỷ Thiên kiếm khiến cho phiền não ma quân không nơi trốn núp, lại cũng giống như lò lửa to lớn đang hừng hực cháy, khiến cho vô thỉ tình thức cháy sạch chẳng sót thì người ấy tuy đang sống trong cõi ngũ trược, nhưng toàn thân đã ngự trong cõi nước liên hoa, nào còn phải chờ Di Đà đưa tay, Quán Âm khuyên lơn, khen tặng, mới tin mình sẽ được vãng sanh nữa ư?”

Chúng ta niệm Phật đã bao nhiêu năm rồi, có nắm chắc vãng sanh hay không?

Ngẫu Ích đại sư có một tiêu chuẩn để đo lường: “Tình đời lạt bớt một phần thì Phật pháp sẽ có thêm một phần đắc lực. Sanh kế Ta Bà nhẹ bớt một phần, chuyện sanh Tây Phương sẽ vững chắc thêm một phần. Chuyện này chỉ có thể tự hỏi tâm mình, chẳng cần phải hỏi thiện tri thức nào khác. Thiện tri thức cũng chỉ khuyên coi nhạt tình đời, nhẹ bớt bôn ba sanh kế, chuyên tu tìm lối thoát mới là quan trọng”.

Trong tâm chính mình phải rõ ràng, phải nên tiêu cực đối với thế giới này thì mới tích cực đối với Tây Phương Tịnh Độ. Đối với Ta Bà càng có thể buông xuống được thì đối với Cực Lạc mới có thể nhấc lên được. Đối với thế giới này cảm tình càng lợt lạt thì đối với Cực Lạc thế giới cảm tình càng ngày sẽ càng thêm sâu đậm. Sanh kế Ta Bà nhẹ một phần, vãng sanh Tây Phương sẽ nắm chắc thêm một phần; Sanh kế Ta Bà nhẹ mười phần, vãng sanh Tây Phương sẽ nắm chắc mười phần.

Phật hiệu của chúng ta cứ thường bị ngoại duyên cắt đứt, chẳng thể thường niệm liên tục.

Lúc trước, có một vị cư sĩ, ông ta là một người rất tốt, tổ chức rất nhiều Đoàn Niệm Phật, khuyên rất nhiều người niệm Phật. Nhưng chính ông ta chẳng có thời gian niệm Phật, mỗi ngày đều có người đến mời ông sắp xếp công chuyện ở đạo tràng, hoặc mời ông đi thăm bệnh nhân, hoặc mời ông đi hoằng pháp lợi sanh. Cả ngày chạy tới chạy lui, ngoại duyên quá nhiều, thường bận rộn đến nỗi chẳng có thời gian ngủ nghỉ, tâm danh lợi của ông chưa buông xuống nổi. Lúc đó, có người cảnh cáo ông rằng: “Nếu ông không lắng lòng niệm Phật, sẽ chết rất khó coi lắm đó!”. Đợi đến khi ông muốn từ chối các ngoại duyên, muốn đóng cửa tĩnh tu, căn bản là không thể nào yên tĩnh được. Có một lần, ông ngã bịnh, trong tâm nghĩ thừa lúc dưỡng bịnh ở nhà an tĩnh mấy ngày để niệm Phật, không ngờ điện thoại từ sáng tới tối cứ reo hoài chẳng ngừng. Cắt dây điện thoại liền có người gõ cửa kiếm ông, nườm nượp chẳng dứt, ngoại duyên nhiều đến nỗi chẳng thể nào cự tuyệt. Cuối cùng, trong một lúc gặp tai nạn ngoài đường, ông chết đột ngột. Lúc chết, chẳng có một người thân hoặc đạo hữu nào ở kế bên. Sau khi chết liền bị đưa đến phòng đông lạnh trong bệnh viện. Đợi đến lúc người thân đến mở tấm vải che mặt ông, thật đúng như lời người đã cảnh cáo ông lúc trước “chết rất khó coi”.

Chuyện này là một “tấm gương của chiếc xe đằng trước bị đổ” rất sâu sắc, đáng cho chúng ta suy gẫm, hy vọng chúng ta sẽ không đi theo dấu vết xe trước. Rất nhiều người bận rộn tối ngày, họ không biết chuyện gì mới là chuyện lớn nhất, quan trọng nhất trong đời này? Trong tâm chúng ta, tự mình phải phân biệt rõ ràng, tự mình phải tự lượng sức của mình. Người thượng căn đương nhiên có thể thường niệm chẳng dứt trong hết thảy mọi cảnh duyên bên ngoài. Nhưng chúng ta là kẻ hạ căn, nếu muốn thành tựu, nhất định tâm phải kiên quyết, tạm thời phải cự tuyệt ngoại duyên. Tốt nhất là chẳng có ngoại duyên, đừng chủ động phan duyên! Một khi vướng vào các ngoại duyên, nó sẽ làm cho ta chẳng có cách nào chạy thoát.

Do vậy, Tây Phương Xác Chỉ có đoạn chép: “Tám chữ ‘cưỡng thuận nhân tình, miễn tựu thế cố’ nghĩa là: miễn cưỡng thuận theo nhân tình, gượng ép thuận theo thế nhân, đã làm lầm lẫn đại sự của đời chính mình. Đạo nghiệp chưa thành, vô thường đã đến nhanh chóng. Hãy nên ẩn giấu tông tích, cất giấu tài năng, nhất tâm hướng về đạo, không thể lầm lẫn nữa”.

Tỉnh Am đại sư là vị tổ thứ mười một của Tịnh Độ tông, lúc Ngài còn tại thế, cư sĩ Mao Tĩnh Viễn là một vị thường được quần chúng đương thời tán thán là một nhà đại từ thiện. Đại sư đã viết một lá thơ khuyên ông niệm Phật như sau:

“Cư sĩ dựng cây cầu xong có thể nói là không công nào lớn hơn, nhưng tâm cư sĩ ham làm lành không chán; vừa xong một việc lành này, đã làm ngay việc lành khác, hay thì hay đấy, nhưng việc lớn sanh tử thì như thế nào?

Nếu chẳng coi việc lớn sanh tử là gấp, cứ cắm cúi làm lành, thì sự lành dù to như núi Tu Di, cũng đều là nghiệp duyên sanh tử, biết đến ngày nào xong? Thiện sự càng lắm, sanh tử càng rộng!

Một niệm ái tâm, muôn kiếp trói buộc, có đáng sợ hay chăng?

Cư sĩ tham cứu thấu đạt công án thế gian từ lâu, đã tu tập Tịnh Nghiệp Tây Phương từ lâu, nhưng cái tâm sanh tử chẳng tha thiết, gia duyên chưa buông xuống được, tạ tuyệt nhân tình chưa nổi, tâm niệm Phật chẳng chuyên là vì sao? Vì gốc lợi danh chưa đoạn đó chăng? Vì ái niệm lôi kéo, ràng buộc đó chăng?

Ðối với hai điều ấy, ông hãy nên để tâm suy xét kỹ. Nếu như chẳng thể chặt đứt hết thảy gia duyên, thế sự, tận lực vâng giữ sáu chữ hồng danh mà mong thoát khỏi Ta Bà, mong sanh về An Dưỡng thì khó lắm đấy!

Chẳng sanh về An Dưỡng mà muốn thoát khỏi sanh tử, đã chẳng thoát khỏi sanh tử mà muốn khỏi bị đọa lạc, xét ra, càng khó hơn nữa! Ví dù một đời, hai đời chẳng đánh mất thân người, liệu có kham nổi mãi không?

Than ôi! Cư sĩ huệ tâm lanh lợi, sáng suốt như thế, gia duyên sung túc như thế, con cháu hiền năng như thế, việc gì cũng vừa ý, mà còn chẳng thể buông nổi vạn duyên, nhất tâm niệm Phật thì là trời phụ người, hay người đã phụ trời vậy?

Chẳng lấy việc niệm Phật làm gấp, chỉ lấy chút điều lành nhỏ trong đời làm gấp, chẳng lấy việc lớn sanh tử làm đầu, chỉ coi phước báo nhân thiên là trọng, thì là hạng chẳng hiểu trước, sau vậy!

Tuy cư sĩ chẳng cầu phước, nhưng thường làm phước, tuy muốn thoát sanh tử, nhưng lại bị trở vào trong sanh tử, đều là do chẳng biết rằng mình đã lơ là cõi kia, coi trọng cõi này, đến nỗi bánh xe đã xoay ngược mà vẫn cứ mong tiến lên!

Bây giờ, việc chính của cư sĩ là hãy nên tạ tuyệt việc đời, nhất tâm niệm Phật, kèm thêm hai chữ “trì trai” thì mới thật là tận mỹ!

Nói chung, chẳng thể dùng lời lành khen ngợi khơi khơi để đạt đến cõi Phật Tây Phương, chẳng thể cậy vào lười biếng để thoát khỏi vạn kiếp sanh tử được! Vô thường nhanh chóng, ngày đêm nối tiếp lẹ làng, há chẳng sớm lo liệu hay sao?”

Trong cuộc sống, mọi việc lành đều tùy duyên tận lực mà làm, nhưng phải hồi hướng cầu sanh Tây Phương. Cách hướng hồi hướng là thế nào? Là phải, “Chuyên niệm Phật cầu sanh Phật Quốc”. Nghĩa là thân thì làm phước làm thiện mà tâm thì luôn nhớ Cực Lạc, nhớ Phật, niệm Phật. Không bị danh lợi trói cột cái tâm của mình, ai khen không mừng, ai chê cũng không buồn. Nếu vừa niệm Phật vừa làm từ thiện mà chẳng dính danh lợi thì rất tốt, nên duy trì phương thức này để vãng sanh phẩm vị cao; Còn nếu như, tự cảm thấy khó quá thì phải bớt làm lại, xem chuyện niệm Phật vãng sanh là chuyện quan trọng nhất của cuộc đời, đừng để cho tâm tham đắm danh lợi lừa gạt mình, phải đọc kinh sách và nghe pháp nhiều hơn, nhất là những lời khai thị của chư Tổ để mở trí thì sự tu mới không bị thất bại.

Liên Trì đại sư dạy: “Vọng niệm là bệnh, niệm Phật là thuốc. Bệnh lâu ngày, chẳng thể chỉ dùng một thang thuốc liền trị lành được! Vọng niệm tích lũy lâu ngày, chẳng thể dùng một ý niệm tạm thời mà có thể diệt trừ, cùng một đạo lý! Đừng để ý lo nghĩ về những vọng niệm lung tung này, chỉ quý ở chỗ niệm Phật tinh tấn, thiết tha. Từng chữ rõ ràng, từng câu nối tiếp nhau, ra sức chấp trì thì mới có phần thăng tiến. Tích lũy chân thật lâu ngày, đến một ngày nào đó, đột nhiên thành tựu, ví như mài chày thành kim, luyện sắt thành gang, nhất định sẽ chẳng sai. Nhập đạo có nhiều cửa, chỉ có một cửa này là đường thẳng tắt. Không thể chểnh mảng, coi thường!”

Câu Phật hiệu của chúng ta cứ thường bị hỷ nộ cắt đứt  nên không được duy trì liên tục. Chúng ta hãy suy tư về đoạn khai thị của Tử Bách đại sư:

“Pháp môn Niệm Phật, giản dị, thuận tiện bậc nhất. Nhưng người niệm Phật hiện nay đều chẳng có ý chí quyết định. Do vậy, trăm ngàn người niệm Phật, chẳng có một hai người thành tựu! Một câu Phật hiệu này, hết thảy Bồ Tát, hết thảy chư thiên, hết thảy mọi người, phàm những người được sanh Tây Phương, không ai chẳng nhờ một câu A Di Đà Phật này mà được thoát khổ hải. Nhưng tâm niệm Phật có chân thật hay không, có thể khám nghiệm trong hai lúc hoan hỷ và phiền não; tâm ấy chân thật hay không, liền có thể nhận biết. Người thật sự dùng chân tâm niệm Phật thì lúc hoan hỷ, phiền não, vẫn niệm niệm không gián đoạn. Phiền não không thể khuấy động người đó, hoan hỷ cũng không thể phá khuấy người đó. Phiền não và hoan hỷ đã không thể động tâm, thì khi gặp cảnh duyên sanh tử, sẽ tự nhiên chẳng kinh sợ. Người niệm Phật hiện nay khi gặp một chuyện hỷ nộ nhỏ, câu A Di Đà Phật bèn ném ra ngoài sau ót, vậy thì làm sao niệm Phật linh nghiệm được? Nếu niệm như tôi nói, nếu quả thật lúc yêu thích hay oán ghét cũng chẳng mất câu A Di Đà Phật, mà hiện tại không đạt được thọ dụng, lúc lâm chung chẳng thể vãng sanh, thì lưỡi tôi nhất định sẽ bị tan rã. Nếu quý vị chẳng thực hành theo lời tôi nói, niệm Phật chắc chắn sẽ chẳng linh nghiệm, lỗi ở nơi quý vị, chẳng liên can gì đến tôi”.

Phật hiệu của chúng ta cứ thường bị vọng tưởng cắt đứt, chẳng thể thường niệm chẳng dứt. Ấn Quang Đại Sư chỉ dạy như sau:

“Con người ở trong thế gian chẳng thể siêu phàm nhập thánh, liễu sanh thoát tử, đều do vọng niệm gây ra. Hiện nay lúc niệm Phật hãy nghĩ là mình đã chết và chưa vãng sanh. Trong mỗi ý niệm, hết thảy những ý niệm tình chấp trong thế gian đều gạt hết ra ngoài. Ngoại trừ một câu Phật hiệu này, chẳng để cho có một niệm nào khác! Làm sao có thể thực hiện điều này? Hãy nghĩ mình đã chết rồi, hết thảy vọng niệm đều chẳng cần thiết. Nếu có thể nghĩ như vậy, ắt sẽ có lợi ích lớn.

Còn lúc thường ngày có quá nhiều vọng tưởng, muốn có thần thông, có danh tiếng, có pháp duyên, đắc đạo… Như vậy là dùng vọng tưởng làm bổn tâm của mình, càng dõng mãnh tinh tấn, các vọng tưởng ấy sẽ càng lớn, càng nhiều. Nếu không tỉnh táo hay ra mà dập tắt vọng niệm ấy, thì sau này sẽ dễ dàng bị ma dựa phát cuồng, đâu phải chỉ là vọng tưởng mà thôi! Do vậy, phải gấp buông bỏ những vọng tưởng quá mức ấy.

Ngoài ra, Đại Sư còn khai thị rằng: Đại Thế Chí Bồ Tát dùng ví dụ ‘như con nhớ mẹ’. Tâm đứa con chỉ nghĩ về mẹ, những cảnh duyên khác đều chẳng để trong lòng, cho nên có thể cảm ứng đạo giao. Ví như con thơ nhớ mẹ, cả ngày không lúc nào chẳng nghĩ nhớ tới mẹ mình. Dù lúc ngủ nghê, tắm rửa, làm vệ sinh, sao có thể để tâm mình hoàn toàn quên bẵng chuyện niệm Phật cho được? Đã ghi nhớ chẳng chướng ngại, trong tâm niệm thầm cũng chẳng ngại. Người tu Tịnh Độ tùy phần tùy sức, há cứ phải buông hết vạn duyên mới có thể tu trì hay sao? Ví như hiếu tử nghĩ nhớ mẹ, kẻ dâm mê gái đẹp, tuy trong hằng ngày trăm việc bận rộn, một niệm này chẳng khi nào quên mất. Người tu Tịnh Độ cũng vậy. Mặc cho suốt ngày bận rộn, phiền toái, quyết chẳng quên mất niệm Phật, như vậy là đã đạt được điểm trọng yếu.

Nếu quả thật tâm vì sanh tử khẩn thiết, chỉ sợ đọa vào ba đường ác, chịu khổ vô lượng, mong thoát ra chẳng được, ắt sẽ thường niệm chẳng dứt câu Phật hiệu này. Nếu quả thật chua xót nghĩ tới vô thường giống như cứu lửa đang cháy đầu, lúc nào cũng nghĩ đến lúc lâm chung, câu Phật hiệu này ắt sẽ thường niệm chẳng dứt. Nếu quả thật có chân tín, thiết nguyện, niệm niệm đều cầu sanh Tịnh Độ, một phút một giây cũng chẳng chịu dừng lại ở cõi Ta Bà này, câu Phật hiệu này ắt sẽ thường niệm chẳng dứt. Ngược lại, câu Phật hiệu này cứ thường bị gián đoạn, thường quên mất, tín nguyện của chúng ta đã có vấn đề, phải hạ thủ công phu nơi chân tín, thiết nguyện. Nếu quả thật có thể thường niệm chẳng dứt, ắt sẽ đắc đạo nhanh chóng, giống như gương hạnh của chư vị đã được ghi chép trong các chuyện vãng sanh vậy!

Càng bịnh tật khốn khổ càng thêm thiết tha

Ðại Sư Ðạo Triệt đời Thanh, người huyện Tiền Ðường. Sau khi xuất gia sư bèn đi tham học nhiều nơi, đến chừng ngộ được bản tánh rồi liền chuyên tu Tịnh Nghiệp. Ngài trụ tại am Văn Thù ở Hàng Châu.

Ngài định kỳ bế quan: trong thất không để bất cứ vật gì, ngoại trừ một cái ghế và một cái giường nhỏ vừa đủ nằm mà thôi!

Mới nhập thất được vài ngày thì sư ngã bịnh rất nặng, sư tự cổ vũ chính mình: “Niệm Phật chính là vì sanh tử, lẽ nào lại vì bệnh mà biếng nhác ư?” rồi trì danh hiệu Phật càng thêm khẩn thiết.

Ðột nhiên, ánh sáng màu vàng chiếu rực cả thất, Phật xoa đầu Ngài, bệnh lành ngay lập tức; sư liền đắc Niệm Phật Tam Muội. Ði, đứng, nằm, ngồi trọn không còn có niệm nào khác. Suốt ba năm như thế, đến ngày rằm tháng ba, sư ra thất, lên tòa giảng kinh Pháp Hoa, bảo đại chúng rằng:

– Chừng bốn tháng sau, ta sẽ về Tây Phương; các ông có thể đến tiễn biệt!

Ðến kỳ hạn, sư bèn thiết lễ Vu Lan Bồn Hội. Chúng nhóm lại, nhắc lại lời sư dự báo trước đây. Ngài nói: “Quả có thế, hãy chờ một chút!”.

Ngày hôm sau, sư bèn dặn dò thầy trụ trì thiết trai giã biệt đại chúng rồi vào khám, ngồi yên lặng, dứt hơi thở. Giây lâu sau, tỉnh lại, bảo:

– Chia tay cùng các ông, chẳng thể không nói một lời: Ta Bà khổ không nói nổi, Cực Lạc vui không nói nổi. Nếu còn nghĩ nhớ đến tôi thì chỉ niệm A Di Ðà Phật, chẳng lâu sau sẽ lại thấy nhau. Bỏ lỡ đời này, mãi mãi lưu chuyển trong đêm dài sinh tử luân hồi, thống khổ vô cùng vô tận, đau đớn lắm thay, đau đớn lắm thay!

Nói xong bèn tịch, sư thọ bốn mươi tám tuổi.

Nhận định:

Bệnh càng bức bách càng thêm khẩn thiết cho nên đắc Niệm Phật Tam Muội. Thật đúng là lấy bệnh khổ làm thuốc hay, biến trở ngại thành thông suốt vậy! Tự chủ được trong khi bệnh thì lúc chết cũng tự chủ được nên có thể đi về tự tại là lẽ đương nhiên!

Tuyên nghĩa Hồ Nhân

Hồ Nhân sống vào đời Tống, làm quan đến chức Tuyên nghĩa. Hằng ngày, tuy tin tưởng Phật pháp, nhưng chưa hiểu rõ về pháp môn Tịnh Độ. Năm tám mươi bốn tuổi, ông bị bệnh nặng, người con đến mời Luật sư Thanh Chiếu đến chỉ dạy. Ngài Thanh Chiếu đến, bèn hỏi rằng:

– Ông biết an thân lập mạng ở đâu không?
Ông đáp:

– Tâm tịnh tức Phật Độ tịnh.

Ngài Thanh Chiếu hỏi:

– Từ xưa đến nay ông có vọng tưởng nhiễm ô không?

Ông đáp:

– Đã ở tại thế gian ai mà không có tạp niệm.

Ngài Thanh Chiếu nói:

– Như vậy thì làm sao đạt được tâm tịnh tức Phật Độ tịnh?

Ông nói:

– Niệm một câu danh hiệu Phật làm sao có thể diệt được tội nặng sinh tử trong tám mươi ức kiếp?

Ngài Thanh Chiếu nói:

– Đức Phật A-di-đà phát thệ nguyện tu hành trong vô lượng kiếp, uy đức rộng lớn, ánh sáng và thần lực không thể nghĩ bàn, do đó, niệm một câu danh hiệu Phật thì diệt được vô lượng tội, giống như ánh nắng mặt trời làm tan sương tuyết. Như thế, còn nghi ngờ nữa sao?

Hồ Nhân liền tỉnh ngộ. Trong ngày đó, ông thỉnh chư tăng đến nhà niệm Phật. Ngày hôm sau, ngài Thanh Chiếu lại đến. Ông liền hỏi: “Sao Ngài đến muộn thế? Hai vị Đại sĩ đến từ lâu rồi”.
Bấy giờ, ngài Thanh Chiếu bảo đại chúng niệm Phật lớn tiếng, Hồ Nhân chắp tay mà qua đời.

Bà họ Thôi

Vào đời Tống, bà Thôi làm nhũ mẫu cho nhà họ Lương, quê ở Đông Bình, Truy Châu. Bà ăn chay trường, nhưng rất thật thà quê mùa dốt nát, không thể cùng bạn bè tranh luận hơn thua. Người chủ là Triều phu nhân chuyên tâm học thiền, nhưng bà thì ngày đêm bên cạnh hầu hạ phu nhân âm thầm chí thành niệm danh hiệu Phật A-di-đà không chút xao lãng. Bà không cầm tràng hạt nên không biết niệm mấy nghìn tiếng.

Vào năm Thiệu Hưng thứ 18 (1148), bà đã 72 tuổi và bị bệnh khá nặng, nhưng giấu kín không cho ai biết, vẫn làm việc như bình thường chẳng hề nằm nghỉ, vẫn niệm Phật chuyên cần không cầu cho mau lành bệnh. Sau đó ít lâu, bỗng nhiên bệnh lành, bà buột miệng đọc bài kệ :

“Thích tu về cõi phương Tây,
Đã không gò núi, chẳng đầy hố hang,
Khi đi giày dép chẳng mang,
Bước chân sen đỡ dẫn đàng về Tây”.

Miệng bà cứ nghêu ngao mãi mấy câu như thế. Có người hỏi:

-Đó là lời của ai vậy?

Bà đáp:

– Của tôi đấy!

Người kia lại hỏi tiếp:

– Lúc nào bà đi?

Bà đáp:

– Đến giờ Thân ngày hôm nay tôi đi!

Quả nhiên, đến giờ Thân, tức 4 giờ chiều thì bà qua đời. Lễ hỏa thiêu của bà được cử hành như cách thức của các vị tăng. Lúc hỏa thiêu xong, cái lưỡi bà vẫn còn nguyên vẹn và có hình giống như hoa sen.

Bà họ Tiết

Vào thời nhà Minh có bà họ Tiết, là con gái của nhà thế tộc ở Vũ Đường. Khi sinh bà, mẹ bà nằm mộng thấy sao Trường Canh chui vào bụng. Về sau, bà về làm dâu ở nhà họ Chu, sinh được năm người con thì chồng qua đời. Bà ở vậy thủ tiết nuôi con và hằng ngày thờ cúng Quan Âm Đại Sĩ. Một hôm, bà đốt hương cúng dường, khói hương quyện tỏa thành hình hoa sen. Mọi người đều lấy làm lạ. Từ đó, bà chuyên tâm niệm Phật và bố thí không biết mệt mỏi. Bà niệm Phật suốt mười lăm năm không bỏ ngày nào.

Tháng năm, niên hiệu Vạn Lịch, nhằm năm Đinh Hợi (1575), bà mắc bệnh. Thầy thuốc bảo đem cháo sữa đến nhưng bà nhất định không dùng. Bà dứt hẳn cơm nước lẫn thuốc thang từ đó. Đến ngày mùng 6 tháng 9, bà cho mời chư tăng đến nhà cử hành lễ sám. Bà lại nói: “Bốn ngày nữa, việc của tôi sẽ hoàn tất”. Nói rồi, bà hướng về tượng Đức Phật A-di-đà ngày đêm chuyên tâm niệm danh hiệu Ngài. Đồng thời, bà căn dặn các con trai phụ giúp bà và cấm tuyệt đối không cho phụ nữ vào phòng.

Bấy giờ, đúng vào ngày mùng 9 tháng 9, bà lấy nước hương vẩy lên y phục sạch và cái ghế ngồi để tịnh hóa. Sáng sớm hôm sau, bà lấy nước rửa tay, tụng Cam lộ chân ngôn, mặc áo sạch sẽ, đội mũ Chí công, quỳ mãi trước tượng Phật A-di-đà và niệm danh hiệu của Ngài. Rồi bà đốt hương đọc bài kệ xưng tán Phật, xướng Tam quy y, lạy ba lạy, lần chuỗi niệm Phật 108 lần. Đến giờ Ngọ, bà ngồi ngay thẳng kết ấn qua đời. Bà chết mà thần khí vẫn tươi tỉnh, so với khi còn sống thì rạng rỡ hơn nhiều.

Lúc ấy, mọi người đều nghe mùi hương thơm của hoa sen ngào ngạt khắp gian phòng. Các con trai bà theo như lời dặn đưa thi thể mẹ vào khám. Ngày đưa đám tang có mấy nghìn người đến xem, ai nấy đều vui vẻ đảnh lễ.

Trước khi mất bà đã dặn dò các con chuẩn bị cái khám, không cần quan tài, không rước sát thần, không đốt giấy tiền vàng bạc, không giết sinh vật để cúng tế. Các con bà đều nghe theo không dám làm trái.

********

Trên đời, bất cứ làm việc gì cũng cần phải đúng nguyên lý nguyên tắc thì chắc chắn sẽ thành công, nếu không sẽ dễ dàng thất bại! Thế nên tuân thủ phương pháp là điều hết sức trọng yếu, cần phải lưu ý để tâm!!!

Chúng ta muốn cho sự niệm Phật của mình mau đến kết quả hiển diệu, nghĩa là được có hiệu nghiệm thật sự, thì trong lúc niệm Phật cần phải gồm đủ những điều dưới đây:

– Một là, trước khi khởi đầu niệm Phật, hãy ngồi lại ngay ngắn đừng dựa vào vách, phải ngồi thẳng lưng đừng để cong cúi, ngồi bán già hay ngồi kiết già tùy ý; song với người tại gia cư sĩ nên ngồi bán già tốt hơn. Bán già là chơn mặt gác lên vế chơn trái hoặc ngược lại, tức là một chân trên một chân dưới; còn kiết già thì chơn mặt gác lên vế chơn trái, chơn trái gác lên vế chơn mặt, cặp mắt ngó ngay chót mũi, lấy chót mũi làm ni, không ngó qua ngó lại, thong thả thở độ mười hơi để cho cơ thể điều hòa, vì vừa mới làm công chuyện, khi ngồi lại cơ thể chưa điều hòa, nên phải ngồi thở chừng mười hơi rồi sẽ bắt đầu niệm cho được bình tĩnh hơn.

– Hai là, khi bắt đầu niệm Phật, cần phải gom hết lòng tin tưởng Đức Phật hiểu mình đương ngồi niệm Phật. Mình tin Đức Phật hiểu mình đương ngồi niệm danh hiệu của Ngài, thì mình mới không phóng tâm nghĩ những điều quấy. Cũng như biết cha mẹ mình thấy rõ việc làm của mình, nên mình không dám làm càn.

– Ba là, tuy mình ngồi trong phòng kín hay ngồi nơi vắng, mình vẫn tưởng rằng Đức Phật Di Đà đang ở trước mặt mình và xung quanh mình đều có chư Phật mười phương đưa mắt ngó vào mình, lòng mình rất vui mừng cho sự trì niệm của mình có Đức Phật Di Đà chứng minh và có các Phật mười phương chứng kiến, không dám có cử chỉ nào vô lễ đối với các Ngài. Như ở thế gian đối với ông quan hay ông vua mình còn không dám vô lễ, huống gì đối với Đức Phật là đấng tối cao tối thượng, sánh cao ngàn muôn lần hơn vua quan ở thế gian, mình há dám khinh lờn sao?

Nghĩ thế mới khiến thêm sức kềm chế tâm mình trong lúc ngồi niệm Phật cho được đoan nghiêm.

– Bốn là, vừa để lòng tưởng có Đức Phật Di Đà trước mặt và có các Phật mười phương xoay chung quanh mình, đồng thời cần phải chận đứng tất cả mọi niệm tưởng xằng bậy, giữ tâm trí mình chỉ còn một niệm Phật, không một niệm nào khác. Tâm niệm ấy, phải được tha thiết van lơn cầu khẩn Đức Phật mở lòng từ bi gia hộ cho mình được trừ xong các nghiệp chướng, chẳng khác người ăn xin van cầu vị trưởng giả giúp họ cơm nước vậy. Nói rõ hơn, như người đói sắp chết cầu khẩn người khác giúp đỡ cơm vậy.

– Năm là, trong lúc niệm Phật rán gìn cho hơi thở và tiếng niệm được song phẳng nhau, nghĩa là cho điều hòa ăn nhịp giữa tiếng niệm với hơi thở, đừng thở mau niệm chậm, hay thở chậm niệm mau làm hai cái sai trệ nhau, mất thăng bằng trở nên điên đảo tâm trí xen nhớ tưởng những việc khác.

– Sáu là, “Đô nhiếp lục căn”: trong lúc niệm Phật chẳng những niệm bằng tâm mà luôn cả mắt, tai, mũi, lưỡi, thân của mình cũng đều tập trung vào chỗ niệm, nghĩa là trong lúc đó mắt không vọng xem sắc đẹp, tai không vọng nghe tiếng hay, mũi, lưỡi, thân và ý cũng không vọng động việc khác, chỉ thuần một niệm Phật trong lòng.

– Bảy là, “Tịnh niệm tương tục”: trong lúc niệm Phật cần phải câu niệm rồi kế tiếp câu niệm tới, cái niệm tới kế tiếp cái niệm tới nữa, nó cứ dính liền nhau như sợi dây xích, khoen nầy liền khoen nọ, khoen nọ liền với khoen kia không để hở cách một khoản nào, khiến cho các vọng tưởng phàm phu không có nhân chỗ nào trống mà chen vào được, nghĩa là những vọng niệm ham tiền bạc, tưởng sắc đẹp, tham danh lợi, không thừa chỗ nào hư để chen vào phá rối cõi lòng.

Tâm niệm Phật của mình cứ theo mực đó mà niệm tới, lần lượt chỉ còn ròng rã một lòng niệm Phật, không xem vào các loạn tưởng nào khác, dầu cho lúc đi, đứng, nằm, ngồi, ngủ, thức, nói, nín vẫn nghe trong lòng mình có tiếng niệm Phật luôn, chẳng khác hơi thở lúc mình ngủ thức gì cũng thở tự nhiên, nghĩa là lòng mình vẫn nhớ niệm Phật khỏi phải kềm chế, không cần phải bắt buộc kềm chế nữa.

Được như thế, nếu túc căn của mình có nhiều, nghĩa là hột giống niệm Phật của mình ở kiếp trước đã có gieo thì nó hợp lại với sự niệm Phật của kiếp này, trở nên sức mạnh, tung cái vỏ mê si, nảy sanh trí huệ rất mau lẹ. Nhược bằng, kiếp trước của mình ít niệm Phật ít tu hành, hột giống trí huệ còn kém, chỉ mới niệm Phật kiếp này thì tuy nó chưa mở trí huệ ngay được, nhưng đến ngày mạng chung Đức Phật cũng hiện thân đến rước thần thức về cõi Cực Lạc.

Trong Kinh Lăng Nghiêm, chương “Niệm Phật Viên Thông”, Bồ tát Đại Thế Chí dạy: “Đô nhiếp lục căn, tịnh niệm tương tục”. Đây gọi là biết niệm. Niệm Phật như vậy thì chỉ cần niệm một tiếng Phật hiệu, trong kinh nói sẽ tiêu 80 ức kiếp trọng tội sanh tử.

Sao gọi là đô nhiếp lục căn? Lục căn là nhãn nhĩ tỷ thiệt thân ý. Nhiếp là thu nó trở về. Thế nên Ngài Mạnh Tử nói: “Học vấn chi đạo vô tha, cầu kỳ phóng tâm nhi dĩ”.

Lục căn của chúng ta nó thường chạy rong ra bên ngoài. Mắt chạy theo sắc trần, nhìn thấy sắc tướng, hợp với tâm ý của chính mình liền khởi tham ái, không hợp ý mình thì bài xích. Đây là mắt từ sáng đến tối chạy rong bên ngoài. Nhiếp là gì? Tức là thu trở về. Mắt không nên chạy rong bên ngoài, không nên chạy theo sắc tướng, mà phải thu trở về. Trở lại để nhìn điều gì? Trở là để nhìn vào tự tánh. Nhĩ không nên chạy theo âm thanh, phải thu trở về. Bồ Tát Quán Thế Âm dùng pháp môn này. “Phản văn văn tự tánh, tánh thành vô thượng đạo”. Quay đầu lại sẽ kiến tánh. Chạy rong bên ngoài, những điều ta thấy đều là sắc trần, thanh trần, lục trần. Lục căn tiếp xúc với lục trần, đây là tạo nghiệp luân hồi, khó mà ra khỏi luân hồi lục đạo. Còn tạo nghiệp này đều là tội. Quả báo ở tam đồ rất đáng sợ.

Ý căn. Ý là ý niệm, là tư tưởng. Nó duyên với pháp trần. Pháp trần là gì? Hình ảnh của tiền ngũ căn lưu lại gọi là pháp trần. Thông thường chúng ta gọi là ấn tượng, tức những nhớ tưởng đang nghĩ. Khi nhãn nhĩ tỷ thiệt thân rời cảnh giới bên ngoài, thì nó nghĩ đến hiện tượng này. Hôm nay gặp được người nào đó, gặp được việc gì đó. Nó đang nghĩ những điều đó. Thậm chí chúng ta xem ti vi, nghe quảng cáo. Cũng là lục căn chạy rong bên ngoài, nhưng không ai hiểu để thu nó trở lại. Thu trở lại sẽ như thế nào? Trở thành nhất tâm. Chỉ tâm nhất xứ, chế tâm nhất xứ đó chính là thiền định. Thiền định không phải là ngồi xếp bằng xoay mặt vào vách, thật sự thiền định là chế tâm vào một chỗ. Nên đi đứng ngồi nằm đều ở trong định. Trong kinh thường nói: “na già thường tại định, vô hữu bất định thời”. Trong hai mươi bốn giờ đều ở trong định. Dùng tâm như vậy niệm Phật sẽ được tịnh niệm. Tịnh là gì? Là không hoài nghi, không xen tạp. Chúng ta niệm Phật xen lẫn vọng niệm, khiến toàn bộ công phu đều bị phá hoại, thật không dể.

Tại sao chúng ta có quá nhiều tạp niệm trong tâm? Tại sao chúng ta có quá nhiều chuyện vướng bận? Tại sao chúng ta chưa thể buông bỏ? Điều này chẳng thể không biết. Có những tạp niệm này, niệm Phật chẳng những không thể diệt được tội, mà còn tăng thêm tội nghiệp, tăng trưởng tội nghiệp. Tăng trưởng tội nghiệp gì? Niệm Phật A Di Đà mà tâm không chân không thành. Vì sao? Bởi chưa thu nhiếp lục căn. Tâm không chân, không thành, đó là dùng vọng tâm, chứ không phải dùng chân tâm. Đã vậy, thì chẳng thể nào được vãng sanh. Đã chẳng thể nào được vãng sanh, thì hình thức niệm Phật hiện tại chỉ tạo si phước hữu lậu cho đời sau. Rồi đời sau nữa không thể không vào ba ác đạo để mà thọ khổ. Tội là như vậy, cổ đức gọi đây là oan gia đời thứ ba!

*******

Bảy bước này là nguyên lý nguyên tắc là chuẩn mực để chúng ta tuân thủ theo hầu dễ dàng đạt được tâm thanh tịnh an lạc, bởi vì vọng tưởng tan dứt nghiệp thức sẽ lặng dừng, phước huệ tất nhiên tăng trưởng, mục đích vãng sanh chắc chắn thành công mỹ mãn.

Tuy nhiên, thực hành được như thế chẳng phải là chuyện dễ dàng, cần phải có nền tảng của phước báu mới được, cũng như xây nhà, trước tiên phải xây nền móng kiên cố vững vàng, sau đó dần dần xây lên cao mới không sụp đỗ! Cho nên có nhiều vị hành giả tinh cần nhập thất chuyên tu, nhưng qua thời gian rất dài xem lại thì không hiệu quả gì cả. Vì vậy Đức Thế Tôn thuở xưa, trước khi dạy Hoàng Thái Hậu Vi Đề Hy tu pháp môn Tịnh Độ, thì Ngài đã dạy cho bà tu ba thứ phước báo thanh tịnh. Bởi vì vãng sanh Tây Phương là thành Phật, thì ít ra mình phải là con người tốt trong gia đình trong xã hội trước đã!

Hạ Ngươn kẻ phát tâm tu,
Cầu về Cực Lạc là đầu nhập môn.
Cõi ấy vốn người nhân thiện cả,
Ai muốn sang phải dạ lương hiền.
Cõi sen người phải như sen,
Gần bùn mà chẳng ố hoen mùi bùn.
Cõi lành kẻ dữ hung khó bước,
Phật từ bi chẳng rước bất lương.
Muốn về Cực Lạc Tây Phương,
Các điều hung dữ chớ vương điều nào.

Phương Pháp Niệm Phật như đoạn trên vừa nêu, hướng dẫn chúng ta tu ở tư thế ngồi trong thời khóa công phu thường ngày. Ngoài ra chúng ta cũng nên suy rộng ra là phải giữ làm sao cho thân tướng của mình trang nghiêm trong mọi tư thế đi đứng nằm ngồi, mọi nơi mọi lúc, ngay cả những khi ngủ nghỉ trong phòng kín hay trong đêm tối, oai nghi phải luôn đoan nghiêm, lòng luôn nhớ Phật, niệm Phật. Lúc nào cũng nghĩ như ta đang ở giữa ngã ba đường cái chợ đông, hiện giờ có cả ngàn cặp mắt đang ngắm trông nhìn mình. Từ dáng mạo cho đến ý niệm của ta, tất cả quỷ thần xung quanh đều thấy đều biết, mười phương chư long thiên thiện thần, chư Phật – Bồ Tát đều thấy đều biết. Phải đề khởi tâm kính sợ như vậy thì sự niệm Phật của mình mới có phần tương ưng với chí tâm, thành tâm, bởi vì niệm Phật mà không chí tâm, thành tâm thì khó mà vãng sanh Tịnh Độ!

Nếu muốn đề khởi tâm được chí thành cung kính thì trong đời sống hằng ngày, khi đối nhân xử thế tiếp người đãi vật chúng ta phải cố gắng tập thói quen thật lòng và tôn trọng mọi người xung quanh! Đừng nên tùy thuận tập khí giả dối, nói một đường nghĩ một ngã, hay làm một đường mà nghĩ một nẻo! Đây là căn bệnh thời đại làm chướng ngại lớn nhất cho sự vãng sanh! Bởi vì chấp nhận chân thật là chấp nhận thiệt thòi. Thử hỏi có mấy ai chịu lỗ lã thua thiệt chứ? Nhưng mà, cho dù có thua thiệt thì bất quá thua thiệt một trăm năm là cùng! Sau đó ta sẽ vãng sanh thành Phật. Suy xét suốt thông rồi chúng ta rất thong dong an lòng niệm Phật, kết quả tu hành chắc chắn được thành công chẳng khó khăn gì!

*******

Hoàng Thái hậu Vi Đề Hi, người nước Ma Kiệt, vợ vua Tần Bà Ta La ở kinh thành Vương Xá. A Xà Thế vì nghe theo lời xúi giục của Đề Bà Đạt Đa, bắt vua cha là Tần Bà Ta La giam trong nhà ngục bảy lớp cửa, cấm ngặt không cho các quan lui tới, cố ý bỏ vua chết đói. Thái hậu mới tắm gội thật sạch, lấy bột trộn với sữa và mật trét lên mình, trong chuỗi ngọc thời đựng nước nho, rồi vào thăm vua và lén dâng cho vua dùng. Ngài Đại Mục Kiền Liên và Phú Lâu Na vận thần thông bay đến truyền giới Bát quan trai và thuyết pháp cho vua. Mỗi ngày được ăn bột sữa uống nước nho, và được thọ giới nghe pháp, nên dầu bị giam cầm mà dung sắc của vua càng tăng phần khỏe mạnh vui vẻ.

Hai mươi mốt ngày sau, A Xà Thế được tin ấy, nổi giận, bèn cầm gươm vào cung định giết mẹ. Nhờ hai vị quan đại thần là Nguyệt Quang và Kỳ Bà hết lời can gián, A Xà Thế mới bỏ gươm, truyền lệnh nhốt Thái hậu trong cung, cấm không cho đến thăm vua cha nữa.

Thái hậu bị nhốt rất lo âu buồn thảm. Bà mới hướng về núi Kỳ Xà Quật, nơi mà Đức Bổn Sư đang ngự, cúi đầu đảnh lễ rồi vái rằng: “Ngày trước Đức Thế Tôn thường sai ngài A Nan đến viếng con, nay con đang gặp phải việc buồn thảm. Đức Thế Tôn oai đức cao trọng, phận con phước bạc không phiền nhọc đến Thế Tôn, ngưỡng mong Đức Phật cho Ngài Mục Liên và A Nan đến an ủi con!”.

Vái rồi bà tủi phận nước mắt trào ra, mọp sát đất mà lạy. Lúc đó, Đức Phật ở núi Kỳ Xà Quật thấu rõ nỗi lòng của Thái hậu, liền sai Mục Liên và A Nan bay trên hư không mà đến hoàng cung, Đức Phật cũng rời núi Kỳ Xà Quật mà hiện ra trước Thái hậu.

Thái hậu Vi Đề Hi, sau khi mọp lạy ngước đầu dậy, chợt thấy Đức Phật thân màu vàng chói ngự trên tòa sen trăm thứ báu. Bên tả thời Mục Liên, bên hữu thời A Nan. Trên hư không, Thiên Đế cùng Phạm Vương và chư Thiên rải hoa trời cúng dường Phật. Thái hậu liền tự bứt bỏ những vòng vàng chuỗi ngọc, mọp sát trên đất khóc nức nở mà bạch với Đức Phật rằng:

– Đời trước con có gây lấy tội gì mà nay sanh đứa con bất hiếu đến thế. Ngưỡng mong Đức Thế Tôn chỉ nơi nào không có sự đau khổ lo sầu để con vãng sanh. Con không còn muốn ở cõi trược ác này. Cõi gì mà đầy những địa ngục, ngạ quỷ và súc sanh! Nguyện con đời sau không còn nghe tiếng ác, không còn thấy kẻ ác. Nay con kính lạy Đức Thế Tôn mà cầu xin sám hối. Xin Phật dạy cho con pháp quán tưởng nghiệp hạnh thanh tịnh.

Bấy giờ, Thích Ca Mâu Ni Phật từ nơi lông trắng giữa chặng mày, phóng ánh sáng sắc vàng chiếu khắp vô lượng thế giới ở khắp mười phương, rồi ánh sáng ấy xoay về tụ trên đảnh của Phật, hóa làm hình một cái đài vàng lớn như núi Tu Di. Các cõi nước thanh tịnh trang nghiêm của thập phương chư Phật đều hiện rõ trong đài vàng ấy. Nương nhờ thần lực của Phật, Thái hậu thấy được tỏ rõ tất cả: có cõi nước như Tự Tại Thiên cung, có cõi nước thuần là liên hoa, có thế giới bằng bảy chất báu hiệp thành… Thái hậu ngắm kỹ tất cả rồi bạch Phật rằng:

– Những thế giới ấy dầu rằng đều thanh tịnh trang nghiêm, đồng sáng đẹp cả, nhưng con chỉ muốn sanh về cõi Cực Lạc của Đức Phật A Di Đà mà thôi. Mong Đức Thế Tôn dạy con cách tư duy tu tập, dạy con phương pháp thâm nhập chánh định.

Nghe Thái hậu thưa xong, Đức Phật mỉm cười. Ánh sáng năm màu từ miệng Phật phóng ra chiếu thẳng đến đầu vua Tần Bà Ta La. Lúc đó nhà vua dầu bị giam trong ngục kín, nhưng tâm nhãn bỗng khai thông, nên vua thấy được Phật. Nhà vua liền cúi đầu rập lạy tự nhiên đạo lực tăng tấn chứng quả A-na-hàm.

Đức Phật bảo Vi Đề Hi:

– A Di Đà Phật cách đây không xa, Thái hậu nên nhiếp tâm quán kỹ cõi nước Cực Lạc của Ngài. Ta sẽ giảng rõ pháp môn Tịnh Độ cho Thái hậu, và cũng để cho chúng sanh đời sau y theo tu hành đặng sanh về Tây Phương Cực Lạc thế giới. Nếu là người nào muốn sanh về cõi đó phải tu ba loại phước nghiệp:

1.- Hiếu dưỡng cha mẹ, phụng thờ thầy Tổ, giữ lòng từ bi không giết hại, tu mười nghiệp lành.

2.- Thọ trì tam quy y, nghiêm trì giới hạnh, chẳng phạm oai nghi.

3.- Phát Bồ đề tâm, tin sâu lý nhơn quả, đọc tụng Kinh Đại thừa, khuyến tấn người tu hành.

Ba điều trên đây là chánh nhơn tịnh nghiệp của mười phương ba đời chư Phật.

Và sau khi giảng rộng mười sáu pháp quán tưởng xong, Thái hậu Vi Đề Hi cùng 500 cung nữ đồng thấy rõ cõi nước Cực Lạc, thấy rõ Đức Phật A Di Đà và hai vị Bồ Tát Quan Thế Âm, Đại Thế Chí. Mọi người rất vui mừng, Thái hậu thoạt nhiên tâm trí sáng suốt chứng Vô sanh nhẫn. Năm trăm cung nữ phát Bồ đề tâm nguyện sanh Cực Lạc thế giới.

Đức Phật liền thọ ký cho tất cả đều sẽ được vãng sanh, và sau khi được sanh về Cực Lạc, tất cả những người ấy sẽ chứng được “Chư Phật hiện tiền Tam muội”.

*****

Phước thứ nhất bao gồm bốn điều:

– Hiếu dưỡng cha mẹ, phụng thờ thầy Tổ, giữ lòng từ bi không giết hại, tu mười nghiệp lành: Đây là phước báo tầng thứ nhất, thuộc về phước báo nhân thiên.

A/- Hiếu dưỡng cha mẹ

Hiếu thảo kính trọng ông bà cha mẹ vốn là một truyến thống quý báu của nền đạo đức luân lý Đông Phương, đây là nhân phẩm tốt đẹp cần có ở con người. Hiếu thảo chính là giá trị cốt lõi của đạo đức làm người.

Bởi vì:

“Công cha như núi Thái sơn;
Nghĩa mẹ như nước trong nguồn chảy ra”.

Công ơn cha mẹ thật quá lớn lao như núi cao, bể cả.

Mẹ thì chín tháng cưu mang, ba năm cho bú mớm, suốt đời chỉ biết hy sinh cho con. Khi đang ăn cũng như khi ngủ nghỉ, hễ con cần đến là có mẹ ở bên cạnh. Con lỡ đại, tiểu tiện ở trên mình, mẹ vẫn vui cười không chút hờn giận. Gặp cảnh nghèo hèn, mẹ nhịn bớt cơm cho con ăn, dành chỗ khô ráo cho con nằm (bên ướt mẹ nằm, bên ráo con lăn). Rủi khi con đau ốm, mẹ ngồi bên cạnh, năm canh thao thức lo âu; chỉ khi con khỏe mạnh tươi cười, mẹ mới vui tươi hớn hở. Ca dao có câu:

“Lên non mới biết non cao,
Nuôi con mới biết công lao mẫu tử”.

Mặt khác cha mẹ còn phải lo làm lụng vất vả để nuôi con. Nếu gặp cảnh nghèo khó, cha phải làm thuê, làm mướn, mua tảo bán tần, đổ mồ hôi đổi lấy bát cơm, manh áo cho con.

Ngoài ra, cha mẹ còn lo dạy dỗ cho con học hành, ngày đêm lo lắng đào tạo cho con thành người hữu dụng, khôn ngoan, khỏi thua kém chúng bạn.

Làm con phải nhớ ơn tông tổ,
Đừng quên câu báo bổ sanh thành;
Nếu con hiền sẽ gặp cha lành,
Chớ để hổ trước tình phụ tử.
Với muôn loài tràn trề tha thứ,
Cũng lo tròn hai chữ hiếu trung;
Nghĩa cao dầy nguyện đáp đến cùng,
Lòng son sắt thỉ chung như nhứt.
Dầu sao cũng ôm gìn đạo đức,
Sống thác luôn theo Phật đến cùng;
Mặc cho đời ghen tỵ hành hung,
Người Phật tử vẫn lòng kiên cố.
Ngày nào chưa qua nơi Tịnh độ,
Nguyện không rời khỏi ngõ Phật môn;
Tiếng chuông lành cứ mãi giục nôn,
Tỉnh thức khắp làng thôn muôn nẻo.

Công ơn cha mẹ nói ra bao nhiêu cũng không cùng.

Cho nên bổn phận làm con thì phải có lòng hiếu thảo tức là biết ơn khổ nhọc, biết cung kính ông bà cha mẹ, biết vâng lời, làm theo những lời chỉ dạy đúng đắn, chân chính. Nếu cha mẹ không hiểu biết gì về Phật pháp chúng ta phải cố gắng tạo mọi điều kiện thuận lợi cho cha mẹ được tiếp xúc với Tam Bảo.

Đức Khổng Tử đã từng dạy về ứng xử với cha mẹ: “Hiếu tử chi sự thân, cư tắc trí kỳ kính, dưỡng tắc trí kỳ lạc, bệnh tắc trí ưu, tang tắc trí ai, tế tắc trí kỳ nghiêm” (Người con hiếu phụng dưỡng cha mẹ, ăn ở cư xử phải cực kỳ cung kính, nuôi dưỡng cha mẹ phải hết sức vui vẻ, khi cha mẹ đau ốm phải lo lắng hết lòng, khi qua đời lo việc ma chay phải cực kỳ thương xót, khi cúng tế cha mẹ phải rất mực trang nghiêm). Điều quan trọng bậc nhất lúc cha mẹ nhắm mắt xuôi tay thì không nên khóc lóc, chỉ một bề thành tâm niệm Phật lễ Phật cầu nguyện cho hồn linh được siêu sinh Tịnh Độ.

Sống hiếu thảo là lối sống cao đẹp, biết quý trọng công ơn dưỡng dục của ông bà cha mẹ thể hiện miềm tri ân đối với các bậc sinh thành. Lòng hiếu thảo đối với các bậc sinh thành luôn được mọi người yêu mến và ngưỡng mộ. Giá trị của một người con không thể hiện ở sự giàu có sang trọng mà nó chính là ở tấm lòng hiếu thảo.

Hết lòng tìm mẹ

Chu Thọ Xương sống vào thời Tống, là con của quan Hình bộ thị lang Chu Tốn. Mẹ ông là Lưu thị, xuất thân thấp hèn. Năm Thọ Xương lên 7 tuổi, cha mẹ chia tay nhau không còn sống chung.

Về sau mẹ ông tái giá rồi theo chồng, biệt vô âm tín.

Sau khi Thọ Xương lớn lên, thường luôn nhớ nghĩ đến mẹ, song không còn chút manh mối nào để có thể biết được hiện giờ mẹ đang lưu lạc nơi đâu. Ông vì thương nhớ mẹ mà trong lòng không lúc nào nguôi được nỗi buồn. Cuối cùng, ông quyết định từ quan, nhất định lên đường tìm gặp cho được mẹ.

Ông trải qua vạn dặm đường, nếm đủ trăm cay ngàn đắng, lưu lạc khắp nơi nhưng vẫn chưa đạt được ý nguyện. Mỗi khi dò la được chút tin tức gì ở nơi đâu, dù rất mơ hồ, ông cũng lập tức băng đèo lội suối tìm đến tận nơi, hy vọng tìm gặp lại được người đã mang nặng đẻ đau ra mình.

Sự tìm kiếm của Chu Thọ Xương quả thật chẳng khác nào mò kim đáy biển! Thời gian trôi qua đã xóa hết đi mọi dấu vết mong manh mà mẹ ông để lại. Những lần dọ hỏi tìm tòi của ông phần lớn chỉ nhận được những cái lắc đầu ngơ ngác và những câu trả lời không manh mối. Dù vậy, ông vẫn nuôi hy vọng sẽ gặp lại được mẹ hiền, vẫn không mỏi mệt đêm ngày tìm kiếm khắp nơi.

Chu Thọ Xương vốn từ nhỏ đã tin theo Phật giáo, thường đến chùa lễ Phật, cúng dường Tam Bảo, cứu giúp người nghèo khó. Trên đường gian nan tìm mẹ, ông càng vững lòng tin hơn nữa, lúc nào cũng cầu nguyện chư Phật gia hộ cho việc tìm mẹ của mình sớm được kết quả. Hơn thế nữa, ông còn phát nguyện tự mình sao chép trọn bộ Từ Bi Thủy Sám thành rất nhiều bản, truyền rộng ra khắp nơi để làm lợi ích cho nhiều người. Bản thân ông cũng thường trì tụng không mệt mỏi và luôn để tâm tự xét những lỗi lầm của mình để sám hối và tu dưỡng.

Quả nhiên, sự quyết tâm và những nỗ lực của ông cuối cùng rồi cũng được đền đáp. Một hôm, ông phiêu bạt đến vùng Đồng Châu thuộc tỉnh Thiểm Tây, hết sức tình cờ gặp lại được mẹ. Tuy tóc bà đã bạc trắng, khuôn mặt khô gầy thay đổi rất nhiều qua thời gian, nhưng ông vẫn còn nhớ rõ như in và lập tức nhận ra ngay khi nhìn thấy bà đang chậm rãi bước đi trên đường. Kể cũng lạ, lúc bà ra đi thì Thọ Xương chỉ là đứa bé 7 tuổi, hôm nay đã lớn khôn trưởng thành, trải qua hơn hai mươi năm dài, thế mà hình dáng của mẹ vẫn được ông ghi khắc kỹ trong lòng, vừa thoáng nhìn là đã nhận ra được ngay.

Nhưng mẹ ông thì không tài nào nhận biết được ông. Ông vội vàng chạy đến gọi mẹ, vẫn thiết tha như ngày còn bé:

– Mẹ ơi, mẹ ơi! Con là Thọ Xương con của mẹ đây! Bà mẹ đứng sững lại, ngẩn người kinh ngạc:

– Trời ơi! Thật là con của mẹ đó sao! Làm sao con biết mẹ ở nơi này mà tìm đến?

Hai mẹ con đã hai mươi mấy năm không gặp, ôm nhau òa khóc giữa đường, quả thật là mừng vui chảy nước mắt! Rồi bà mẹ khóc nức nở, hỏi han việc những năm qua con sống thế nào. Thọ

Xương đem việc lang thang khắp nơi tìm mẹ kể lại, khiến bà không khỏi ngậm ngùi rơi nước mắt.

Thế là ông liền rước mẹ về nhà, hết lòng hiếu dưỡng. Từ đó ông mới nhận làm chức quan Tư nông thiếu khanh, ngoài việc triều chính ra thì dành hết thời gian để chăm sóc, phụng dưỡng mẹ già, dốc lòng hiếu thuận.

Không bao lâu, câu chuyện tìm mẹ của Chu Thọ Xương đã trở thành một giai thoại được truyền đi khắp nơi, ai nghe thấy cũng hết lòng ngưỡng mộ, kính phục.

Quả báo những người con bất hiếu
Con bất hiếu, cháu vô tình,
Ác tâm bỏ mẹ cha đói chết…
Thử hỏi thế nhân – tình nghĩa đâu?
Trời xanh chẳng tha thứ tội này!

Tại thôn X huyện Y thuộc tỉnh Cát Lâm, có một gia đình tám người trong một thời gian ngắn xảy ra bi kịch mà khắp “mười phố tám quê” ai cũng biết. Tuy đa số dân chúng không hiểu Phật pháp là chi, nhưng ai cũng cho đây là báo ứng.

Hai vợ chồng trong gia đình này suốt bao năm dày công dốc sức cấy cày nuôi dưỡng sáu người con gồm ba trai, ba gái, lo chu toàn trách nhiệm kẻ làm cha mẹ. Họ cưới dâu, xây nhà cho con trai ra riêng, sắm đủ của hồi môn để gả con gái. Thực hiện chu toàn những việc này không phải dễ, rất vất vả khó khăn, là điều hiển nhiên ai cũng thấy.

Người cha do lao lực quá độ mà bị bệnh nặng rồi qua đời. Trong thôn ai cũng than vắn thở dài cảm thán, nói ông mệnh khổ, nhưng bà vợ của ông mệnh càng khổ hơn. Vì ông mất chưa đầy một tháng thì bà bị xuất huyết não, dẫn đến bán thân bất toại phải nằm trên giường. Tuy bản thân có thể dùng tay trái để ăn cơm, song không thể tự đi vệ sinh hay tắm rửa, rất cần có người dìu đỡ chăm sóc.

Sáu đứa con gồm trai lẫn gái và sáu dâu rể, tổng cộng là 12 người, chưa tính đến cháu nội cháu ngoại, đã đối đãi như thế nào đối với người mẹ cả đời gian khổ vì con này?

Mới đầu họ sắp xếp hai người một nhóm, luân phiên chăm sóc mẹ. Nhưng chẳng bao lâu, vợ chồng ba đứa con trai cảm thấy rất chán ngán, phiền mệt, nên trong nhà bắt đầu xảy ra chuyện. Do giữa các nàng dâu và mấy cô con gái bất hòa, thường nổ ra gây cãi ầm ĩ. Vì vậy, họ cấm không cho bên con gái đem cơm chăm sóc cho mẹ nữa.

Mới đầu, ba con trai còn cho mẹ ăn, uống chút đỉnh. Sau đó họ nghĩ: “Nếu ăn uống thì phải đi nhà xí”…nên ba cô con dâu bắt đầu giảm khẩu phần ăn cho mẹ chồng. Có khi cả ngày không cho bà dùng món chi cả. Do con gái và ba cô con dâu không thuận hòa, nên mười ngày nửa tháng, họ cũng hiếm khi đến thăm.

Có lần ba cô con gái đến thăm mẹ, phát hiện ra bà yếu đến mức không còn sức, ghé sát tai vào mới nghe giọng bà thều thào:

– “Mẹ đói….mẹ đói”….

Thế là họ vội tìm chút gì đó cho mẹ ăn. Nào ngờ, ba nàng dâu thấy vậy nổi cơn thịnh nộ, chạy đến chỗ mẹ chồng đang nằm lớn tiếng quát lên:

– Bà mới dùng xong hai chén cháo, sao còn đòi ăn nữa? Có phải là muốn chết hay không? Bà nói vậy khiến con gái bà tưởng là chúng tôi bất hiếu đấy!

Nhờ ba cô con gái kiên trì, cuối cùng bà cũng được dùng một chút ít. Lúc cho mẹ ăn, ba cô gái thừa dịp chị dâu đi vắng, bèn luồn tay vào sờ thấy bụng mẹ hóp gầy, chứng tỏ lời ba chị là dối trá.

Thế là hôm sau, ba cô gái đem đến cho mẹ sáu cái trứng gà, bà mẹ ăn ngấu nghiến, chốc lát đã hết sạch. Sau đó như được tăng lực, bà mách nhỏ với ba con gái:

– Các con không đến thì tụi nó một chút ít cơm nước cũng chẳng chịu cho mẹ dùng, chúng muốn để mẹ chết đói đó!
Mấy ngày sau ba cô gái lại mang đến cho mẹ thức ăn ngon để tẩm bổ. Con gái đang cho bà ăn thì bị ba anh trai nhìn thấy. Họ liền vào giật lại, ném xuống đất, dùng chân chà đạp lên thức ăn, phẫn nộ mắng em không được cho mẹ dùng, viện cớ là bệnh bà xuất huyết não không thể ăn được đồ bổ, dễ bị xuất huyết. Họ bảo:

– Các cô mà làm mẹ chết thì ai chịu trách nhiệm đây? Muốn lo cho mẹ thì hãy rước mẹ về mà lo, đừng có tới đây chăm ăn mà không chịu cưu mang.

Chuyện trong nhà họ chẳng mấy chốc lan ra cả thôn đều biết. Không bao lâu, nơi sân họ vọng ra tiếng khóc lóc kêu gọi mẹ thảm thiết. Sự nhẫn tâm bỏ mẹ đói khát khiến cho bà cụ xấu số, bất hạnh đã phải sớm lìa đời. Tiếng các con bà khóc than, kêu gào nghe vang trời động đất. Họ mặc áo tang đưa mẹ đi chôn, giấy tiền vàng mã được ném đầy lên không trung, bị cơn gió lạnh phẫn nộ thổi bay tứ tán.

Một tháng sau đó, cậu con trai cả bị nghẽn mạch máu não phải vào cấp cứu ở bệnh viện tỉnh. Tuy được cứu sống, nhưng trở thành liệt nửa người, tay chân bị co rút.

Cậu cả xuất viện được một tháng thì cậu hai và nàng dâu cả tiếp nối vào bệnh viện. Họ cũng bị y chang chứng nghẽn tắc mạch máu não. Được 12 ngày, hai người này vẫn còn chưa xuất viện thì cô con gái thứ hai cũng đồng chứng bệnh như trên, phải nhập viện gấp.

Cô gái thứ hai xuất viện được hai ngày thì nàng dâu thứ ba cũng vào viện. Không phải bị nghẽn mạch máu não, mà bị thủng bao tử. Cô này vẫn còn đang điều trị thì chàng rể thứ ba bị xe tông văng ra xa hơn hai mét. Lúc đưa đến bệnh viện tuy còn thở, nhưng toàn thân xương cốt đa phần đều bị gãy, xương gối trái thì bị nứt, gối phải dập nát, suốt mấy tháng liền không cử động được.

Tính ra, người mẹ chết chưa đầy một năm thì con trai, con gái, dâu, rể….đã liên tục nối đuôi nhau vào bệnh viện. Người nào khi ra viện cũng tốn hơn vạn tiền. Có người đã bình luận trường hợp của họ thế này: “Bệnh viện tỉnh đã được gia đình các nghịch tử này ‘nuôi tốt’, vì thu được bộn tiền”.

Trong thời gian đó, câu chuyện bất hiếu của họ được đồn vang khắp nơi, ai cũng biết. Chuyện của họ trở thành đầu đề cho mọi người bàn tán lúc làm việc hay những khi nhàn rỗi.

Mặc dù địa phương đó rất ít người tin Phật, nhưng trong lúc luận đàm, ai cũng nhất trí nói rằng: “Đây chính là báo ứng cho những kẻ làm con mà bất hiếu!”.

Chuyện vẫn chưa hết, cậu cả dù bị bán thân bất toại, nhưng hôm nọ khi di chuyển qua đường, lại bị xe tông thêm một nạn nữa làm tổn thương não, thành ra người thực vật. Nghe nói đến nay vẫn còn nằm trong nhà.

Không bao lâu thì cậu hai bị viêm gan, bị cơn bệnh giày vò hơn một năm thì chết. Tiếp theo nàng dâu cả bị nghẽn máu não cũng lìa đời.

Láng giềng đều xầm xì kể cho nhau nghe: “Cháu trai, cháu gái nội ngoại đa số đều do một tay bà chăm sóc. Nhưng lúc bà bệnh nằm viện suốt thời gian dài, không đứa nào ngó tới, nghe mà chạnh lòng”. Chỉ mong các vị thiện tri thức dạy cho họ Phật pháp, để chuyển biến vận mệnh xấu về sau này. Nếu không, thiên lý trừng phạt công minh, kết cuộc bi thảm của hậu bối bà thật khó mà tưởng tượng nổi.

“Nghịch tử cố ý bỏ mẹ đói khát, ngầm hại chết mẹ”. Tuy dân chưa mách, quan chưa tra. Họ tuy không bị quốc pháp trừng trị, thế nhưng “lưới trời lồng lộng, tuy thưa mà khó thoát”. Những người con bất hiếu này, từng người, từng người đều thọ ác báo.

Đây thật là vạn sự vạn vật trên đời đều đang thuyết pháp cho chúng ta thấy. “Thiện nhân thuyết pháp của thiện nhân, ác nhân thuyết pháp của ác nhân”. Người thuyết pháp người, súc sinh thuyết pháp súc sinh”. Cần phải hiểu cho minh bạch, để mọi hành vi từ ăn, ở, đi đứng…đều áp dụng pháp Phật đã dạy. Sống phải hành xử như thế nào, là do chính mình quyết định chứ không ai khác.

Ban sưu tập xin đem những câu chuyện “hiện thế báo ứng trong đời sống” ghi vào đây chính là muốn cảnh báo nhắc nhở những người con bất hiếu nên cải tà quy chánh. Nếu không, một khi ác báo tới, có hối hận thì cũng đã quá muộn màng.

Lòng hiếu thảo làm cảm động cả mãnh hổ

Dư Nhất Bằng người huyện Ngân, tỉnh Triết Giang. Bình sinh tiên sinh hết sức hiếu thuận với cha mẹ, do cảnh nhà nghèo khổ túng thiếu nên phải tạm xa cha mẹ đi nơi khác mưu sinh, đến một thôn trang ở Hải Tân dạy học.

Một buổi tối, tiên sinh nằm mộng thấy chuyện lạ, giựt mình tỉnh giấc nói với người chủ nhà:

– E rằng cha tôi ở quê bị bệnh nặng, tôi xin phép được về nhà thăm cha gấp.

Trên đường về nhà đi ngang qua một ngọn núi vắng, bỗng gặp một con hổ rất lớn. Do tâm chí thành muốn được về thăm cha nên tuy đối diện với nguy hiểm như thế mà ông vẫn bình tĩnh không chút sợ hãi, thầm cầu nguyện trong lòng một cách hết sức thành khẩn: “Phụ thân ta bị bệnh nặng, phải gấp rút trở về hầu hạ chăm sóc; xin lão hổ thương tình, không nên cản trở bước đường của ta.”

Thật kỳ lạ, dường như con hổ đó hiểu được nỗi lòng của tiên sinh, nó tỏ ra hết sức cảm động, quay đầu bỏ đi.

Khi về đến nhà, phụ thân của ông trước đó đã bị hôn mê bất tỉnh, không còn biết gì cả. Lạ thay, vừa lúc ông về đến liền tươi tỉnh trở lại, nói:

– Con yêu của cha! Trên đường trở về con có gặp hổ không?

Dư Nhất Bằng lấy làm lạ, hỏi lại:

– Quả là con có gặp hổ, nhưng làm sao cha biết được?

Người cha nói:

– Lúc nãy cha bị người ta bắt đưa xuống minh phủ, nghe hai người mặc áo lụa đào nói chuyện, mới biết được thọ mạng của cha đã hết. Song do lòng hiếu thuận của con nên khiến cho mãnh hổ cũng cảm động bỏ đi, mà cha đây cũng được sống thêm một giáp nữa.
Sau đó, bệnh tình của phụ thân ông quả nhiên thuyên giảm, rồi sống đúng 12 năm nữa mới lìa trần.

Đổi tuổi thọ cho cha

Hoàng Đạo Hiền được tôn xưng là một người con chí hiếu vào triều Nguyên. Từ nhỏ ông đã bất hạnh mất mẹ, bao nhiêu nỗi nhọc nhằn gian lao đều do một tay cha ông lo liệu, nuôi dưỡng dạy dỗ ông nên người. Cảm nhận được công ơn sâu nặng của cha, Hoàng Đạo Hiền luôn hết lòng chăm lo săn sóc phụ thân, mỗi ngày hai buổi sáng tối đều thành khẩn hỏi thăm xem cha có được khỏe mạnh không, ăn ngủ có ngon không, xưa nay chưa một ngày xao lãng.

Một năm nọ, người cha mắc phải một chứng bệnh trầm kha, đã mời khắp các danh y đến chữa trị song bệnh tình vẫn không thuyên giảm, ngày càng trầm trọng hơn, đến nỗi thần thức hôn mê, nằm liệt trên giường. Tất cả danh y đều đã bó tay đầu hàng.

Ông thấy bệnh tình của phụ thân rất nguy cấp, ngày đêm buồn rầu lo lắng, quên ăn mất ngủ. Bấy giờ, ông không còn biết làm sao được nữa, bèn thắp hương khấn nguyện giữa đất trời, xin đổi một giáp tuổi thọ của chính mình để tăng thêm tuổi thọ cho cha.

Quả thật là “tâm thành tất ứng”, ông thành tâm cầu nguyện như vậy suốt mấy ngày đêm, thần thức của cha ông liền dần dần tỉnh lại, bệnh tật cũng lui dần. Rất nhiều danh y thấy người cha của ông không dùng thuốc nữa, mà lại dần dần bình phục đều ngạc nhiên cho là kỳ tích.

Sau cơn bệnh ngặt nghèo ấy, quả nhiên cha ông sống thêm được đúng 12 năm nữa rồi mới qua đời. Còn ông, tuy tự nguyện xin đổi tuổi thọ cho cha, nhưng ngược lại vẫn sống rất thọ, hơn nữa lại có một cuộc sống giàu sang sung túc, đến lúc lâm chung thân không bệnh khổ, an nhiên lìa trần.

Kinh Tâm Địa quán, Đức Phật sánh ví công đức của cha mẹ như núi cao biển rộng sông dài:

“Ân cha lành cao như núi Thái,
Đức mẹ hiền sâu tợ biển khơi.
Dù cho dâng trọn một đời,
Cũng không trả hết ân người sinh ra”.

Sự đền ơn đáp nghĩa cho cha mẹ không gì hơn là phải thực thi năm điều mà kinh Thi-ca-la-việt ghi, 5 điều bao gồm: 1. Cung kính và vâng lời cha mẹ, 2. Phụng dưỡng cha mẹ khi cha mẹ già yếu, 3. Giữ gìn thanh danh và truyền thống gia đình, 4. Bảo quản tài sản do cha mẹ để lại, 5. Lo tang lễ chu đáo khi cha mẹ qua đời.

Ngoài ra, Đức Phật còn đề cập bốn trách nhiệm để hướng dẫn cha mẹ sống đúng theo Chánh pháp:

1. Nếu cha mẹ không có niềm tin, khuyến khích cha mẹ phát tâm tin tưởng Tam Bảo,

2. Nếu cha mẹ xan tham, khuyên cha mẹ phát tâm bố thí,

3. Nếu cha mẹ làm ác thì khuyên cha mẹ hướng tâm làm việc thiện,

4. Nếu cha mẹ theo tà kiến thì khuyên cha mẹ theo chánh kiến.

Đặc biệt là khuyên hai đấng sanh thành nên tu Tịnh Độ, một lòng niệm Phật cầu về Tây Phương, đây chính là điều lành tối thượng, trong sự thực thi đời sống hạnh phúc, an lạc mà bất cứ là người con Phật nào cũng nên chăm chỉ cố gắng thực hành.

Trương Ngươn Thọ

Trương Ngươn Thọ, người ở Tinh Châu, tuy có tâm lành, nhưng gia đình của ông sống bằng nghề sát sinh. Sau khi cha mẹ qua đời, ông dứt nghiệp sát, phát tâm niệm Phật. Vì muốn cứu độ song thân, ông tạo tượng Phật A Di Đà cao một mét, để thờ nơi gian nhà cũ của cha mẹ ở. Hàng ngày, ông đều trì niệm lễ bái, hương hoa đèn nến thường tiếp tục luôn.
Một đêm, sau thời khóa lễ, ông nằm mộng thấy trong nhà hào quang rực rỡ. Trong ánh sáng có hơn hai mươi người thân tướng cao đẹp ngồi trên đài sen. Hai người trong đó bay tới trước kêu:

– Trương Ngươn Thọ!

Ông hỏi là ai, thì đáp:

– Chúng ta là cha mẹ của con, bình sanh tuy cũng niệm Phật, nhưng vì sát nghiệp quá nặng, nên khi chết đọa vào địa ngục Khiếu Hoán. Tuy đọa địa ngục song nhờ sức niệm Phật, nên sắt nóng cùng nước đồng sôi đều biến thành mát mẻ như nước. Hôm trước, có vị Sa môn thân vàng cao một mét, đến thuyết pháp. Chúng ta cùng hơn hai mươi người đồng nghiệp nơi địa ngục đều được thoát khổ sinh về Tây Phương. Do nhân duyên đó, chúng ta đến đây mách bảo cho con biết. Những vị ngồi đài sen đây là các vị đồng nghiệp được vãng sinh!

Nói xong, tất cả đồng bay về phương Tây. Tỉnh mộng, sáng ra ông liền đến chùa đem việc ấy thưa hỏi. Một vị tăng bảo:

– Đó là do tâm hiếu kính tạo tượng và chí thành tu niệm của ông hiện thành sức cảm ứng, nên tượng Phật đến cứu thoát được các đồng nghiệp nơi địa ngục, trong đó có thân phụ, và thân mẫu của ông.

B/- Phụng thờ Thầy Tổ

Ân đức của thầy cùng cha mẹ là giống nhau, là bình đẳng. Phong tục tập quán của người xưa cùng hiện tại khác biệt quá xa.

Thầy giáo thuở xưa là đem luân lý đạo đức của Thánh hiền truyền dạy, chúng ta mới hiểu được tường tận nguyên lý nguyên tắc làm người, hiểu được phương pháp cách thức hiếu dưỡng cha mẹ như thế nào, đối với anh em, thân thích và bạn bè bà con thôn xóm làm sao cư xử hợp với lẽ đạo hợp với tình nghĩa con người. Tất cả đều là do thầy dạy, cho nên đối với thầy phải phụng sự. Trong phụng sự, y giáo phụng hành là then chốt. Thầy giáo dạy bảo, chúng ta phải có tín tâm, phải có thể lý giải, phải thực hiện cho được lời dạy, như vậy mới không phụ công ơn của thầy. Đây là học trò hiếu học của thầy. Nếu như không tin đối với lời dạy của thầy thì nhất định không nên theo ông ấy học. Vị thầy có cao minh hơn, có giỏi hơn, có đạo đức, có học vấn, nếu ta không có lòng tin đối với ông ấy, ta ở trong lớp của ông ấy nhất định sẽ không có thành tựu. Cho nên lựa chọn thầy giáo không gì khác hơn lựa chọn một người mà ta tôn kính nhất thì sẽ thành công.
Để có thể duy trì sự tôn nghiêm của thầy giáo, không chỉ yêu cầu sự tôn kính và lễ nghĩa trong ngôn hành cử chỉ của học trò với thầy, mà còn là sự tôn trọng từ nội tâm, cần cù học tập, hiểu được đạo lý và uốn nắn bản thân. Dưới đây là vài câu chuyện về tôn sư trọng đạo của người xưa.

Vua Nghiêu bái sư học đạo

Vua Nghiêu trị vì thiên hạ, giúp cho đất nước thanh bình, hiền tài được trọng dụng, nhân tài ở khắp mọi nơi. Nhưng ông vẫn lo mai một nhân tài, nên thường xuyên đi vào núi sâu để cầu hiền học đạo.

Một lần, vua Nghiêu đi đến núi Vương Ốc và nghe thấy có tiếng đọc sách văng vẳng ở trong rừng. Đi theo âm thanh ấy vua tìm đến một ngôi nhà tranh thấy một đứa trẻ đang ngồi đọc sách. Vua

Nghiêu thấy cậu bé đang đọc một cuốn sách kinh điển về đạo đức liền hỏi:

– Cậu bé còn nhỏ tuổi thế mà đã có thể đọc hiểu được cuốn sách sâu sắc này hay sao?

Cậu bé đáp:

– Từ đầu cháu cũng không hiểu lắm, nhưng được Sư phụ giảng giải nên cháu dần dần hiểu ra.

Vua Nghiêu nói:

– Sư phụ của cậu là ai, tên họ là gì? Có đang ở đây không?

Cậu bé đáp:

– Sư phụ của cháu họ Doãn tên Thọ, đi ra ngoài hái thuốc chưa về.

Vua Nghiêu lại hỏi:

– Vậy sư phụ của cháu khi nào về?

Cậu bé trả lời:

– Cái này rất khó nói, có khi một tháng cũng có khi mười mấy ngày.

Vua Nghiêu thấy trong phòng toàn là sách, đa số đều là sách về đạo đức, còn có sách về thiên văn, vua nghĩ Doãn Thọ hẳn là một bậc cao nhân.

Trưa ngày hôm sau, vua Nghiêu lại sai tùy tùng chuẩn bị lễ vật, đến nhà Doãn Thọ, nhưng Doãn Thọ vẫn chưa về, còn cậu bé vẫn đang đọc sách, liền nói với cậu bé:

– Ta muốn gặp thầy của cháu mà chưa có cơ hội. Nay vì việc ở kinh thành nên ta phải về ngay, phiền cháu chuyển lễ vật đến cho thầy. Mùa xuân năm sau ta sẽ trở lại.

Cậu bé nói:

– Hôm qua cháu đã nghe hàng xóm nói Ngài là Thiên tử, sư phụ cháu vốn ít giao thiệp với quý nhân, những lễ vật này cháu không dám nhận, xin Ngài mang về cho.

Vua đành phải mang lễ vật về, những người tùy tùng đều cho rằng đứa trẻ này thật là vô lễ, vua nói:

– Trẫm lại rất thích sự ngây thơ của cậu bé, quả là đứa trẻ hiếm hoi trên thế gian, không hổ là đệ tử của bậc cao nhân.

Sau khi trở về vua Nghiêu kể lại câu chuyện của Doãn Thọ, trong đó có hai vị quan là em vua đều nói Doãn Thọ quả là bậc đạo sỹ, vốn muốn tiến cử ông với vua, nhưng biết rằng ông ở ẩn không muốn ra làm quan nên không tiến cử nữa. Vua Nghiêu nói:

– Trẫm nghĩ từ xưa đến nay các tiên đế đều cầu học bậc thánh hiền, như Hoàng Đế học với ngài Đại Điên, Chuyên Húc Đế học với ngài Lạc Đồ, Hoàng Khảo học với ngài Xích Tùng Tử. Doãn tiên sinh đức hạnh siêu quần lại đạo cao không muốn ra làm quan, trẫm sẽ bái làm sư phụ, đến tận nơi học tập. Hai ngươi hãy nhân danh trẫm đến giới thiệu trước rồi trẫm sẽ đến gặp sau.

Hai người tuân lệnh.

Đông qua xuân về, vua Nghiêu cùng hai người anh em đi đến núi Vương Ốc, khi nhìn thấy ngôi lều tranh của Doãn Thọ từ xa, vua đã cho xe dừng lại, ba người cùng đi bộ vào. Đi đến lều tranh thì chỉ thấy đồng tử đang ngồi đọc sách, vua liền hỏi:

– Sư phụ đâu rồi?

Đồng tử vội vàng chạy vào bẩm báo. Sau đó, Doãn Thọ đi ra cung kính nói với vua:

– Hôm trước thảo dân có việc đi ra ngoài nên Ngài đến mà thảo dân không biết để đón tiếp xin Ngài thứ lỗi. Thảo dân có nghe đệ tử kể lại ý vua, vô cùng lo lắng. Việc các bậc hoàng đế đi cầu học thời cổ đại là có, nhưng các vị ấy đều là những người thầy có đạo đức học vấn cao siêu hơn người thường, còn thảo dân đây chỉ là một kẻ ở trong núi sâu, học vấn đơn giản, đâu dám nhận là thầy của vua.

Vua Nghiêu liền trả lời:

– Đệ tử thực lòng muốn học, xin thầy giáo đừng từ chối.

Nói rồi vua đi đến bái thầy, Doãn Thọ vội vàng đáp lễ nhưng vẫn khước từ. Một vị quan nói:

– Chủ nhân của chúng tôi rất thành tâm, đã trai tịnh sạch sẽ trước khi đến, xin tiên sinh đừng từ chối.

Lúc này Doãn Thọ mới đồng ý.

Doãn Thọ mời vua và hai người anh em ngồi xuống nói chuyện, Doãn Thọ giảng về đạo đức và thiên hạ, vua nghe cảm thấy khâm phục vô cùng. Vua Nghiêu nói:

– Đệ tử muốn tìm một bậc đại thánh nhân để nhường ngôi vị, và muốn tìm những bậc hiền tài để trợ giúp.

Doãn Thọ nói:

– Vua khiêm nhường như vậy, nếu gặp được bậc thánh nhân xuất thế thì quả là hợp với chí nguyện của Ngài, đạo đức của Ngài là tấm gương cho thiên hạ. Các bậc thánh nhân trong thiên hạ còn có Sào Phủ, Tử Châu Chi Phụ, Y Bạc Tử, Bị Y, Phương Hồi đều là những hiền sỹ chân chính, ẩn cư trong núi, không xuất thế nhân.

Về sau vua Nghiêu đều đến học hỏi những vị hiền sỹ này.

Vua Nghiêu ở trong núi Vương Ốc mười ngày, hàng ngày Doãn Thọ đều giảng cho vua những kinh điển đạo đức, tối đến cùng vua quan sát thiên tượng, giảng về thiên văn, lý của các ngôi sao và dự đoán. Từ đó, vua Nghiêu bất kể đông hay hạ, thường đến học hỏi Doãn Thọ, vua rất cung kính đối với thầy, thường để cho Doãn Thọ ngồi trên còn mình ngồi dưới, hướng mặt về phía Bắc hành lễ cầu giáo.

Doãn Thọ nhiều lần giảng cho vua Nghiêu về đạo đức nhân nghĩa và đạo thanh tịnh vô vi. Vua Nghiêu thực hành rất nghiêm túc, thương yêu dân chúng, cai trị thuận theo thiên ý, khởi xướng đại đạo; định ra pháp luật, nghiêm cấm dối trá; khích lệ người dân phê bình những lỗi lầm của mình; xét xử công minh, trọng dụng hiền tài; nhân từ thương dân, luôn quan tâm đến bách tính muôn dân, trở thành một tấm gương trong việc trị vì đất nước.

“Sử ký” viết: Phẩm chất và tài trí của vua Nghiêu đều rất phi phàm, “kỳ nhân như thiên, kỳ tri như thần” (đức nhân của Ngài như trời, trí của Ngài như thần). Ông nêu cao tinh thần đạo đức, luôn lắng nghe ý kiến người dân, để lại cho hậu nhân một tấm gương về tinh thần tôn sư trọng đạo.

Sư Văn tôn sư kính học

Vào thời Xuân Thu, Sư Văn từ nhỏ đã lập chí học âm nhạc, khi ông nghe nói Sư Tương đánh đàn khiến cho chim chóc nhảy theo tiếng nhạc, cá nhảy ra khỏi mặt nước để nghe, liền chuẩn bị hành lý đến bái Sư Tương làm thầy.

Sư Tương là một người thầy nổi tiếng nghiêm khắc, không dễ dàng nhận đồ đệ, Sư Văn phải khẩn cầu ba lần, Sư Tương cuối cùng bị cảm động bởi thành ý và quyết tâm của ông nên đã thu ông làm đồ đệ. Sư Tương giảng nhạc lý cho ông, cầm tay dạy cho ông cách chỉnh đàn định âm, nhưng ngón tay của ông cứng ngắc, ba năm sau, cũng không đánh nổi một khúc nhạc hoàn chỉnh. Sư Tương nói với ông: “Con vẫn thiếu ngộ tính, học đàn không đủ chuyên tâm, tốt nhất là đi về đi.”

Sư Văn hối hận tự trách mình:

– Con biết, là do tâm của con thường hay vọng động. Con không phải là không thể chỉnh được thanh, định chuẩn âm, cũng không phải là không biết tấu một nhạc chương hoàn chỉnh, điều con quan tâm không chỉ là âm điệu tiết tấu, điều con thực sự muốn là dùng tiếng đàn để biểu đạt nội tâm mình. Khi con chưa làm cho âm nhạc phát từ nội tâm, rồi cảm ứng đến nhạc cụ, nên tay cũng không thể phối hợp tốt với dây đàn. Xin thầy cho con thêm thời gian xem có thể tiến bộ được không.

Từ đó, Sư Văn tĩnh tâm lại, chuyên tâm nhất trí, thanh trừ tạp niệm, hàng ngày chăm chỉ học tập, dụng tâm thể ngộ ý tứ mà âm nhạc biểu đạt, không ngừng hoàn thiện tu dưỡng. Một thời gian sau ông lại đến bái kiến Sư Tương, Sư Tương hỏi:

– Bây giờ con đánh đàn thế nào rồi?

Sư Văn trả lời:

– Đã chạm đến tâm can, xin thầy hãy nghe con đánh một khúc!

Sư Văn bắt đầu căng dây đánh đàn, đầu tiên ông tấu âm thương thuộc kim âm, một khung cảnh của tháng tám mùa thu hiện ra, tiếng đàn mang theo những làn gió thu mát mẻ, cây cỏ đều sắp đến mùa thu hoạch.

Sau mùa thu vàng óng, ông lại tấu một bài âm giác thuộc mộc âm, theo đó dường như có làn gió xuân ấm áp thổi về, hoa cỏ đâm chồi nảy lộc, đó là hình ảnh của một mùa xuân với vạn vật canh tân.

Tiếp đó Sư Văn tấu bài cung vũ thuộc thủy âm, hiện ra trước mắt là một mùa đông lạnh lẽo giữa tháng 11 với tuyết trắng bao phủ, sông hồ đóng băng.

Tiếp theo nữa, ông lại tấu cung chinh thuộc hỏa âm, đại biểu cho nhạc luật của tháng 5, khiến cho người ta cảm nhận thấy sự nắng nóng của một mùa hè rực lửa.

Khi nhạc khúc sắp kết thúc, Sư Văn tấu âm cung đầu tiên trong ngũ âm, kết hợp với thương, giác, vũ, chinh, từ bốn phía đều có gió nam thổi nhè nhẹ, những áng mây lững lờ trôi, dường như có một dòng cam lộ từ trên trời giáng xuống, dòng suối mát từ trong nguồn chảy ra.

Sư Tương nghe xong liền khen rằng:

– Tiếng đàn của con quá mỹ miều! Thực sự đưa người ta như đi vào khung cảnh vậy!

Thái độ học tập của Sư Văn vô cùng nghiêm túc, sau khi thầy giáo dạy rằng trước tiên phải làm được dụng tâm chuyên nhất. Ông đã cảm ngộ được sự cao siêu của nghệ thuật âm nhạc, cái chí của âm nhạc không ở thanh, mà ở “đắc tâm ứng thủ”, nhấn mạnh vào tác dụng chủ đạo của “tâm hồn” trong diễn tấu âm nhạc, “nội đức vu tâm, phương năng ngoại ứng vu khí”. Điển cố thành ngữ “đắc tâm ứng thủ” cũng sinh ra từ đó, miêu tả việc nỗ lực đến nhà thầy học tập, vận dụng nhuần nhuyễn cả bàn tay và trái tim; nó đã trở thành một nguyên tắc học quan trọng trong diễn tấu âm nhạc cổ đại Đông Phương.

Câu chuyện Sư Văn học đàn đã cho người ta một bài học rằng: Bất cứ việc gì cũng phải dụng tâm, học kỹ nghệ không chỉ là học kỹ thuật bên ngoài, mà còn cần lĩnh ngộ được nội hàm bên trong, hiểu rõ được cái lý, không ngừng đề cao tu dưỡng và ngộ tính, “đắc tâm” đi với “ứng thủ”. Dùng chính tâm, chính niệm để đạt được sự thanh tịnh, thân tâm hòa làm một, đạt đến cảnh giới tương hòa với trời đất.

Nhan Hồi hiếu học trong khắc khổ

Nhan Hồi theo học Khổng Tử khá muộn, nhưng ông khiêm tốn và ham học, rất nhanh đã lĩnh hội được sự uyên thâm trong học thuyết của Khổng Tử. Ông đã từng chia sẽ với đồng học rằng:

– Thầy giảng đạo lý, càng học càng thấy cao thâm, càng nghiên cứu càng thấy ảo diệu. Đạo lý tuy cao thâm, thầy lại từng ly từng tí chỉ dẫn chúng ta, dùng các loại tri thức và gương hạnh cổ nhân giúp kiến thức của chúng ta thêm phong phú, khiến chúng ta được nâng cao; lại dùng lễ tiết để ràng buộc chúng ta, khiến cho chúng ta muốn ngừng học cũng không thể được. Tôi thông qua nỗ lực dường như cũng có thể lý giải và thực hành được đạo lý ấy, song nếu muốn tiến về phía trước một bước nữa, vẫn cần phải tiếp tục học tập và thực hành.

Lúc đó quan đại phu nước Lỗ tên là Thiếu Chính Mão cũng mở lớp dạy học giống như Khổng Tử. Thiếu Chính Mão lấy lòng mọi người, tuyên truyền học thuyết xằng bậy, làm rất nhiều học trò bị dao động, cuối cùng khiến cho “Cửa nhà Khổng Tử ba ngày trước đầy môn sinh, ba ngày sau không còn một ai”, chỉ có Nhan Hồi chưa từng rời đi nửa bước. Có người hỏi Nhan Hồi: “Ông sao không tới chỗ Thiếu Chính Mão mà học vậy?”.

Nhan Hồi trả lời: “Một ngày làm thầy, suốt đời làm cha; vả lại học thức của thầy là tuân theo mệnh Trời, khởi xướng lòng nhân đức, chỉ ra đạo chân chính để làm người, cũng đủ để chúng ta học rồi, việc gì phải đi đâu nữa!”.

Nhan Hồi học tập hết sức khắc khổ. Nhưng dù điều kiện gian khổ thế nào, ông vẫn có thể sống thanh bần vui với Đạo. Sớm làm tối nghỉ, ra sức học hành nghiên cứu Thi Lễ, toàn tâm theo đuổi sự nghiệp học tập, đem những lời thầy dạy ôn lại nhiều lần, có thể “học một biết mười”. Khổng Tử khen ngợi rằng: “Nhan Hồi thật tuyệt vời, mỗi bữa chỉ ăn một bát cơm, chỉ uống một bát canh; ở trong gian phòng đơn sơ, có thể nhẫn chịu được những gian khổ mà người khác không cách nào nhẫn chịu nổi, chí hướng cao xa của bản thân không mảy may thay đổi, kiên trì bền bỉ học tập, thật giỏi lắm!”.

Cả đời Khổng Tử khởi xướng nền chính trị nhân từ và đạo đức, Nhan Hồi đã xem chí hướng của thầy như chí hướng của mình mà suốt đời làm theo. Ông đi theo Khổng Tử chu du các nước, chủ trương phát huy nền chính trị nhân từ. Nhan Hồi hướng về một xã hội hài hòa, nơi mà “việc giáo dục đạo đức được thịnh hành; vua và quần thần chung một lòng; trên và dưới hài hòa cân đối với nhau; đất nước thái bình, dân chúng bình an; người người đều nói lời nhân nghĩa và có quy củ; không có công sự phòng thủ hay thành quách; càng không có nỗi lo buồn về chiến tranh”. Nhan Hồi cũng cho rằng đường lối chính trị nhân từ là lấy Đức làm căn bản, do đó cần giáo dục dân chúng về đạo đức và lễ nhạc. Nhan Hồi kiên định lòng tin, quyết chí truyền bá đạo nghĩa, bất kể hoàn cảnh gian nan như thế nào cũng phải “làm được những việc khó làm”.

Khi bị vây hãm tại nước Trần và nước Thái, Khổng Tử và các học trò không còn lương thực, tình cảnh vô cùng khó khăn. Một đệ tử bắt đầu bàn tán, tư tưởng dao động, duy chỉ có Nhan Hồi là bình tĩnh thản nhiên, vẫn cung kính “đặt rau ngoài cửa” (mang tới một ít rau đặt ở trước cửa Khổng Tử), tỏ lòng kính trọng và không rời xa thầy. Ông nói:

“Đạo lý của Thầy đã đạt đến cảnh giới cực cao, cho nên không được một số người tiếp nhận. Cho dù như vậy Thầy vẫn dốc hết sức để phổ biến rộng rãi, lấy tâm nhân đức hòng cứu trăm họ trong cơn nước sôi lửa bỏng. Tuy rằng gặp ngăn trở và đố kị, không một ai tiếp nhận, nhưng có làm tổn hại đạo lý của Thầy được đâu? Có thể đây chính là sự quý báu của đạo đó! Trong bất kì hoàn cảnh nào cũng có thể giữ vững chính đạo không dao động, phải là bậc quân tử mới có thể làm được vậy. Không tu dưỡng chính đạo là nỗi nhục của chúng ta. Chúng ta đã truyền bá chính đạo, lại không được một số người chấp thuận, thì đó là điều đáng xấu hổ vậy!”.

Khổng Tử nghe được rất vui mừng nói: “Nhan Hồi có những kiến thức như vậy quả là quá tốt! Cỏ Chi và cỏ Lan sinh ở rừng sâu, không vì không có người mà không thơm; quân tử tu Đạo xây dựng Đức, không vì khốn cùng mà thay đổi khí tiết”.

Nhan Hồi gặp khó khăn mà không mất đức hạnh, đi theo Khổng Tử thực hành nhân nghĩa trong thiên hạ, nghị lực ấy khiến người ta phải kính nể. Từ đó về sau, “đặt rau” đã trở thành lễ nghi để tỏ lòng tôn kính thầy, cũng là một nghi lễ thịnh hành và lưu truyền tới hậu thế.

Nhan Hồi tuân thủ nghiêm ngặt lời dạy của thầy, tu thân lập đức, chế ngự dục vọng bản thân, khiến cho lời nói và việc làm phù hợp với yêu cầu của Lễ mà đạt đến cảnh giới của Nhân, xem việc thiên hạ là nhiệm vụ của mình. Lòng tôn kính thầy cùng với tinh thần dũng cảm theo đuổi chân lý của Nhan Hồi đã khích lệ người đời sau, lưu lại giá trị văn hóa quý báu và phong phú cho hậu thế.

Thọ Tâm Đại Sư

Thích Thọ Tâm, họ Mao, người ở Phương Thành tại Triết Đông. Từ khi mới sanh ra, sư chỉ ăn uống thức thanh đạm, không dùng sữa và thịt cá. Lớn lên, nhàm chán cảnh trần lao, lập chí tu hành xa lìa thế tục. Năm mười tám tuổi, sư vào chùa Tiểu Linh Sơn ở Thành Tây, nương theo Giới Am Pháp sư xuống tóc xuất gia.

Lúc sắp thọ Cụ túc, ngài Giới Am đau nặng, Thọ Tâm nghĩ: “Sự hoằng dương Phật pháp phải nhờ những bậc tôn túc như thầy mình. Tự xét bản thân mong manh tợ sương mai, mạng này đâu có chi đáng tiếc!”.

Do đó sư nấu nước thơm tắm gội, đến trước Tam Bảo đốt hương khấn nguyện, rồi trở về phòng mình tự mổ bụng, muốn cắt lá gan hòa với thuốc để trị bịnh cho thầy. Đâu hay vừa mới đưa dao rọc nhẹ vào bụng, bỗng đau đớn xây xẩm té xuống đất. Giây lát sư hồi tỉnh, bò lại giường thì phương đông trời đã rực sáng. Đại chúng phát giác, cùng nhau lo tìm thuốc băng bó vết thương cho sư.

Ngài Giới Am hay biết chuyện đó, gọi sư đến an ủi rằng: “Lòng hiếu từ của con tuy mạnh mẽ, nhưng trọn không phải là chánh hạnh của người tu. Huống nữa ta tự biết thời tiết nhân duyên, đã rõ sanh vốn vô sanh, thì có chi là diệt? Việc của con làm hoàn toàn do vọng tưởng, nhưng ta nghĩ thương một niệm hiếu thành, nên tạm lưu lại ít lâu!”.

Quả nhiên sau khi sư thọ Cụ túc trở về vừa độ một tháng, thì ngài Giới Am liền quy tịch. Thọ Tâm thiên tánh hiếu thuận, thương khóc quá phần, lo việc tẩn liệm chôn cất, mỗi mỗi đều chu đáo.
Không bao lâu, sư đem việc chùa giao phó cho pháp đệ là Liên Đường, còn mình thì đi các nơi tham học. Sư nghiêm giữ giới luật, tu hạnh đầu đà, đầu trần chân đất, từ mùa đông sang tiết hạ chỉ duy nhất một manh áo, thường chuyên lo niệm Phật. Mọi người thấy thế đều xưng gọi là Xích Cước Đại Sư. Mùa thu năm Tân Tỵ trong niên hiệu Quang Chữ, sư trở về chùa Tiểu Linh Sơn.
Lúc ấy nắng hạn đã lâu, những làng quanh vùng đều lập đàn đảo võ. Quan huyện là Tôn Công lòng lo như đốt, ngày đêm khẩn cầu mà chưa thấy ứng nghiệm. Thọ Tâm động lòng thương xót, đi thẳng đến ra mắt Tôn Công, an ủi khuyên chớ quá lo, việc cầu mưa để tự mình lãnh trách nhiệm.

Đến ngày Ất Mão, sư lập đàn trì chú, lễ bái sáu thời. Sang giờ Ngọ ngày Đinh Tỵ, mưa đổ xuống như trút dẫn đến chiều tối, ruộng nương đều đầy dẫy nước. Dân chúng trong vùng vui mừng hớn hở. Tôn Công xuất lãnh hàng thân hào lên núi tạ ơn, sư vẫn an tĩnh điềm nhiên, không lộ vẻ chi khác. Tôn Công than rằng: “Nay mới biết Tăng đức uyên thâm, không thể nghĩ bàn được!”.
Mùa thu năm Nhâm Ngọ, sư đóng cửa thất tạ tuyệt các duyên, mỗi ngày trì chú Đại Bi một trăm lẻ tám biến, niệm Phật 100 ngàn câu. Ngoài ra còn tụng danh hiệu Quán Âm, Thế Chí một ngàn lần, lễ hồng danh đức Thích Tôn và Tây Phương Tam Thánh, mỗi vị đều ba mươi lạy. Trong thất sư có nuôi hai con chó và mèo, mỗi ngày đều vì chúng quy y chú nguyện. Do đó nên mèo không bắt chuốt, chó chẳng ăn đồ dơ.

Sau ba năm, vào ngày mười chín tháng chín, sư ra thất. Đến đầu tháng mười một, sư nhiễm bệnh kiết lỵ nhẹ vài ngày rồi lành. Nhưng từ đó thân thể lần suy yếu, chư Tăng thay phiên hầu hạ, sư không cho, bảo: “Phận xuất gia, mỗi người đều có công khóa tu hành, đừng nên để lầm lỡ nhau. Nếu quả đến thời, ta sẽ cho người kêu gọi!”.

Đến chiều tối ngày hai mươi sáu, sư gọi các đồ chúng lại gần giường dạy rằng: “Đêm nay ta sẽ về Tây Phương, nên mau nấu nước thơm đem đến!”

Sau khi cạo tóc, tắm gội và thay y phục xong, sư ngồi kiết già xướng bài kệ khen ngợi công đức của Phật, bảo đại chúng hòa theo. Lúc niệm Phật độ hơn trăm câu, tiếng sư thấp nhỏ lần, đầu hơi cúi xuống. Bỗng lại ngước đầu lên ngay thẳng, nói: “Ta đi đây! Đại chúng nên trân trọng!”.

Rồi cao tiếng niệm: “Nam Mô A Di Đà Phật!”

Niệm xong bèn viên tịch.

Đêm ấy hai con chó và mèo nuôi trong thất, cũng đồng ngồi thoát hóa. Mọi người đều bảo nó đã vãng sanh theo sư.

Bấy giờ nhằm năm Ất Dậu, niên hiệu Quang Chữ nhà Thanh.

C/- Từ tâm bất sát

Chúng sanh thọ thân nơi sáu nẻo luân hồi, không nẻo nào mà không luyến lưu tham sống; tiếp nhận hình hài trong trời đất, ngay cả loài nhỏ bé chẳng loài chi mà chẳng hốt hoảng sợ chết. Tuy rằng xuống lên ngàn bậc, ngu trí vạn tầng, mà biết tránh khổ cầu vui, tình này đâu khác?

Vì lẽ đó chim muông kinh hãi bay vào án thư, giống như xin vua Ngụy cứu mạng; thú vật cùng đường tìm đến am tranh, chính là cầu sống với họ Âu. Hán Vương bỏ mồi câu, liền cảm ứng minh châu đền đáp; Dương Bảo cúng dường hoa, thì dẫn đến vòng bạc đáp trả. Ngay cả Sa di cứu bầy kiến được thọ mạng kéo dài, Lưu Thủy giúp đàn cá trời tung xuống châu báu. Tương tự như vậy, làm sao mà kể ra cho hết.

Há cho phép phóng túng sát hại quá mức, vì ba tấc lưỡi mà nở đành nhẫn tâm cắt đứt mạng sống thú cầm, hoặc mua vui mà đoạn tuyệt ấm thân của chúng, tức thì khiến cho chúng đớn đau cùng cực rồi ôm nỗi oán hận lâu xa trải qua Hằng sa ức kiếp. Đất bằng tuy rộng núi cao biển sâu mà không nơi đâu cư trú an toàn, trời xanh thăm thẳm bao la lại không biết bày tỏ thế nào! Vì vậy trong Kinh thường nói:

“Tất cả đều sợ hãi dao gậy,
Không loài nào không quý mạng mình.
Suy gẫm kỹ tất nhiên hiểu rõ,
Đừng vung dao chém giết chúng sinh!”.

Nhưng chúng sanh phàm phu tục tử vì vô minh tà kiến điên đảo, hoặc vì lành dữ chung riêng cúng tế quỷ thần, chiêu đãi khách khứa bạn bè mà rình rang nhà bếp, giết mổ nấu hầm thân xác của nhiều vật loại, cung cấp món ngon làm bữa tiệc chiêu đãi mọi người.

Thảng như, năm tháng vút qua công việc rãnh rỗi, bầu trời ảm đạm mờ mờ sương giăng, hay lúc đồng hoang chói chang mà nổi lửa tứ bề, rồi cưỡi ngựa lao theo làn gió, ôm chim ưng bay nhanh như điện chớp, hoặc lùa đàn chó dữ hùng hổ săn lùng, cùng nhau dốc sức tụ hội vây chặt rừng rậm nọ kia, lật nhào hang ổ phá tan tành mọi chỗ cư trú của muôn loài, lưới giăng kéo dài đầy đồng trống, cạm bẫy đặt khắp núi non. Hoặc mặt trước lưới bủa kín, mặt sau người chặn lại, bên trái đánh đuổi, bên phải chém chặt, bụi đất mịt mù ngút trời khói lửa. Liền khiến cho chim muông mất bạn tan tác kinh hãi bay xa, thú hoang lìa đàn kinh hoàng tìm đàng tẩu thoát, chim nhạn nghe tiếng cung đạn mà đua nhau lả tả rơi xuống như mưa, hươu nai hoảng loạn be bét máu me, vượn khỉ ôm cây mà oằn oại đau thương rên rỉ. Không có loài nào đứng trước vực sâu nguy hiểm mà không thống thiết inh ỏi hét vang, đối diện rừng cây cao to mà gào thét tuyệt vọng, ngay sau đó mũi tên không tùy tiện bắn ra, súng săn không lãi cò vô ích, thảy đều xuyên hông thấu ngực nát óc vỡ đầu.

Hoặc lại thả lưới buông câu nơi bãi đục, rải mồi đổ thuốc rà điện ở đầm trong, hoặc câu tôm cá ở bến sông, cùng bắt lươn ếch rắn rùa nơi giếng mương vũng ao kênh rạch, vảy đó đã mắc vào lưới, không làm sao thoát ra cho khỏi đại nạn dao chặt thớt bầm, thi thể chẳng tránh màng kho hầm xào chiên ram nướng, thống khổ thảm thiết vô bến vô bờ, hận thù xông tận chín tầng mây thẳm, muôn kiếp ngàn đời tìm nhau để nối tiếp trả đền!

Tất cả chúng sanh trải nhiều kiếp đều có xâm hại mạng sống lẫn nhau, gây tạo nợ hình hài xương máu, kết thành thù oán khó xả khó buông. Lúc trả quả báo nơi địa ngục đã mãn, khi đầu thai trở lại làm người thì mạng sống ngắn ngủi, và nhiều thứ tật bệnh đăng đẳng đeo mang.

Nguyện từ hôm nay chí thành sám hối, vĩnh viễn chấm dứt sát nghiệp lưu truyền về sau, tận cùng thời gian vị lai luôn làm quyến thuộc Bồ đề, luôn tương trợ cho nhau thành tựu công cuộc niệm Phật cầu sanh Phật Quốc.

**********

Động vật không phải là loài vô tri, chúng cũng có đời sống tình cảm và biết quan tâm lẫn nhau. Với tựa đề “The Emotional lives of Animals” (Đời sống tình cảm của những loài động vật), tác giả Marc Bekoff đã khái quát phần nào những cung bậc cảm xúc: vui mừng, thấu cảm, đau buồn, giận dữ, yêu thương trong thế giới động vật mà ông có dịp chứng kiến trong quá trình làm nghiên cứu sinh tiến sĩ ngành hành vi của động vật. Sách do nhà xuất bản New World Library ở Mỹ phát hành.

Biết ơn

Tháng 12-2005, cá voi lưng gù dài 15 m và nặng 50 tấn bị mắc lưới may mắn được một nhóm thợ lặn giải cứu. Sau khi được tự do, “cô nàng” cọ mũi vào từng thợ lặn rồi bơi xung quanh – một cử chỉ mà theo các chuyên gia về cá voi là “sự giao tiếp khác lạ và hiếm thấy”. Jammes Moskito, thành viên trong nhóm thợ lặn kể: “Dường như nó cảm ơn chúng tôi đã giải thoát cho nó. Con vật dừng lại cách tôi khoảng 30 cm, dùng mũi đẩy tôi như thể đang đùa giỡn. Chưa hết, khi tôi cắt chỉ lưới quấn ngang miệng thì mắt nó nhấp nháy và nhìn chằm chằm vào tôi”.

Thấu cảm Ceann Lambert – Giám đốc Trung tâm cứu hộ Indiana Coyote (Mỹ) kể một sáng nọ, cô nhìn thấy hai con chuột con đang cố thoát khỏi chậu nước trong nhà xe. Khi thấy chúng bắt đầu đuối sức, cô đổ một ít nước vào chiếc nắp và thả trong chậu. Một con bò đến uống và nhìn thấy mẫu thức ăn mà chúng kiếm được trước đó nên mang lại cho con yếu hơn. Mỗi khi con chuột yếu hơn cố với lấy thức ăn, con còn lại từ từ dịch chuyển thức ăn tới gần cho đến khi đồng loại của mình bắt được. Sau khi phục hồi sinh lực, cả hai leo ra ngoài bằng tấm ván Lambert bắc sẵn trong chậu.

Giận dữ

Khi phiền lòng, con vật cũng “nổi quạu” như người bởi chúng cũng có các chất truyền dẫn thần kinh như serotonin, testosterone, cũng như vùng não chi phối thái độ tức giận, gây hấn và thù hằn. Và không khó nhận ra những khi động vật giận dữ. Loài bạch tuộc cũng biết giận. Khi bị kích động, màu da trắng của chúng chuyển sang đỏ.

Suốt nhiều năm nghiên cứu Alex, tên của một con vẹt xám thông minh, chuyên gia Irene Pepperberg để ý mỗi khi có điều gì không hài lòng, Alex tỏ ra rất giận. Chẳng hạn như khi cho nó ăn thức ăn của chim thay vì hạt điều – món khoái khẩu của nó, Alex sẽ khép hai mắt lại và phùng lông biểu lộ không vừa ý.

Đau buồn

Khỉ đột từ lâu được biết đến là loài vật có thể thức canh khi đồng loại “thân thuộc” qua đời. Do biết “tập quán” này nên một số sở thú đã tổ chức “lễ tang” mỗi khi có khỉ đột chết. Donna Fernandes, Giám đốc Thảo cầm viên Buffalo ở New York có lần tận mắt chứng kiến trong lúc thức canh một con khỉ cái chết do bệnh ung thư, con khỉ đực đã có những hành vi giống như nói lời từ biệt với “bạn đời” của mình: “Nó hú liên tục và vỗ mạnh vào ngực mình với vẻ đau đớn. Không những vậy, nó còn nhặt khúc cần tây – món ăn ưa thích lúc còn sống của con cái – rồi đặt vào tay “vợ” mình và cố đánh thức cô nàng dậy”.

Yêu thương

“Vợ chồng” chó malamute (giống chó ở phía Bắc bang Alaska, Mỹ) tên Tika và Kobuk sau khi đẻ được 8 lứa, “an dưỡng” tuổi già trong nhà cô Anne Bekoff. Anne kể Kobuk mạnh bạo, hay to tiếng và “ăn hiếp” vợ. Bình thường khi ra cửa, Tika phải nhường chồng đi trước, nếu không sẽ bị “thượng cẳng tay”. Tuy nhiên, khi chân của Tika nổi bướu độc và phải cắt bỏ, Kobuk không còn hung hăng và luôn kề cận chăm sóc “vợ”.

Hạnh phúc

Chó sói khi “đoàn tụ” thường hớn hở, vẩy đuôi hoặc liếm mõm với nhau. Khi gặp nhau, loài voi vỗ tai, quay tròn và cất “tiếng hú” chào mừng. Một chuyên gia nghiên cứu hành vi động vật có lần quan sát một con tinh tinh vừa mới sinh con, đồng loại của chúng bày tỏ vui mừng bằng cách hú và ôm lấy nhau. Chúng thay phiên chăm sóc “sản phụ” và “đứa bé” suốt nhiều tuần.

Quan tâm

Theo dõi đàn voi ở Khu bảo tồn quốc gia Samburu ở Kenya, chuyên gia Iain Douglas-Hamilton kể con voi BabyL bị què nhiều năm qua nhưng những con khác chưa bao giờ bỏ nó đi sau. Cả đàn đi vài bước thì dừng lại đợi con voi “cà thọt” đi tới.

Tình mẫu tử thiêng liêng

Một buổi tối cuối thế kỷ 20, lúc ở trường đại học Hồ Nam khi xem một màn ảnh làm cảm động trời đất, nhiều người không cầm lòng được khóc ré lên!

Tỉnh Thanh Hải có một vùng sa mạc thiếu nước trầm trọng, mỗi người một ngày chỉ dùng 2 lít nước do đội quân đóng quân ở rất xa vận chuyển lại. Hai lít nước không chỉ dùng để uống, mà còn vo gạo, rữa rau… còn phải cho gia súc kéo uống, gia súc cũng cùng chung số phận!

Có một ngày, bỗng ở đâu xuất hiện một con bò già, mà được mọi người cho là nó rất trung thành và thật thà. Nó quá khát giẫy giụa tuột ra khỏi dây cương mạnh mẽ xông vào con đường trong sa mạc mà đoàn xe chuyển nước đi qua, đợi một hồi đoàn xe chuyển nước vừa đến, nó chạy nhanh đến đứng sững giữa đường. Các chiến sĩ chuyển nước trước đây cũng đã gặp qua tình hình chặn đường của những con gia súc như vậy nhưng những con động vật trước không buất khuất kiên cường như con bò này.

Đoàn vận chuyển nước có quy định. Xe chuyển nước giữa đường không để mất đi một giọt, càng không thể tuỳ tiện cho nước. Những quy định này xem ra cũng thật khắt khe nhưng vì bất đắc dĩ. Từng giọt nước này đều là khẩu phần của mỗi người rồi.

Trong sa mạc người và vật đều như vậy, nó đứng đó một hồi lâu như vậy, thậm chí làm tắt đường, các tài xế phía sau bắt đầu chửi rủa. Có vài tài xế tính tình nóng nảy dùng dầu châm đốt con bò tội nghiệp đó nhưng nó vẫn không động đậy, kiên cố như núi Thái, không chịu lùi bước.

Đến khi chủ nó tìm đến, ông ta rất hổ thẹn nắm một cây roi dài quất lên trên thân yếu ớt của nó. Toàn thân như nát nhừ, không thể đi được, cây roi cũng nhuốm đỏ màu máu, nhuốm đỏ thân nó, nhuốm đỏ cả một vùng cát vàng sa mạc và nhuốm đỏ cả một buổi chiều tà. Nó kêu lên một tiếng thảm thiết hòa với tiếng gió tàn khốc u ám lạnh lẽo của sa mạc hiện ra cảnh tượng sao mà vô cùng bi thương. Người tráng sĩ đứng kế bên bật khóc, người tài xế bị cản xe cũng oà lên khóc.

Cuối cùng, người tráng sĩ nói: “Thôi, để tôi vi phạm luật lệ vậy. Tôi chấp nhận xử phạt”. Anh ta cầm bát của mình lấy khoảng 2 lít nước trong xe để trước mặt con bò, nhưng nó không uống bát nước trước mặt mà nó đã cực khổ có được, nó ngước mặt lên trời rống lên một tiếng dài, dường như nó đang kêu gọi. Trong ráng chiều, không xa từ phía sau đống cát chạy ra một con bò con.

Con bò mẹ bị thương nặng nhìn con bò con tham lam uống sạch bát nước, le lưỡi ra liếm liếm đôi mắt đáng thương của bò con. Con nghé cũng liếm mắt mẹ. Mọi người lẳng lặng nhìn. Những giọt nước mắt chảy dài của tình mẫu tử lăn xuống.

Tia nắng cuối ngày đã tắt, hai mẹ con không đợi chủ gọi, lặng lẽ cùng mọi người đi về. Một buổi tối của cuối thế kỷ 20, khi xem cảnh này trên ti vi, chợt hiểu ra cái khổ của mẫu thân. Vô số những người đang ngồi trước ti vi đã bật khóc, những giọt nước mắt cảm thông nóng hổi từ quả tim cuồn cuộn trào dâng.

Tình cảm mà bò mẹ dành cho bò con, cũng như sự hy sinh vô điều kiện, chấp nhận gánh lấy khổ đau để cho con được an lạc, không khác con người!

Vì thế, xin thành kính khẩn cầu quý vị xem xong mẩu chuyện này nên đối xử tốt với tất cả những sanh mệnh dù lớn hay nhỏ xung quanh ta bởi vì chúng đều có tánh linh, đều có cha mẹ, con cháu, gia đình của chúng. Chúng cũng như con người chúng ta, đều có khát vọng được vui vẻ, hạnh phúc. Chúng ta thế nào đành lòng làm tổn hại chúng ư?

Lại cầu mong bạn hãy đối xử tốt với mẹ, bởi vì đối với chúng ta, mỗi người mẹ đều có tình thương đậm đà và thắm thiết hơn hẳn con bò mẹ kia rất nhiều!…Xin thành tâm, thành tâm khẩn cầu tất cả đều biết yêu thương và tôn trọng mạng sống lẫn nhau để có một cuộc sống thật sự bình yên. Xin kính chúc tất cả quý vị đều hưởng trọn vẹn niềm hạnh phúc của cuộc sống.

*Đàn voi rừng về viếng tang người đã cứu chúng

Chuyện xưa ân đức nay còn,
Đàn voi nhớ nghĩa nhiều con trở về.

Lawrence Anthony, sống ở Nam Phi và là tác giả của 3 cuốn sách trong đó có cuốn sách bán chạy nhất “Whisperer Elephant”, đã dũng cảm cứu và phục hồi nhiều động vật hoang dã và voi trên toàn thế giới khỏi sự tàn bạo của con người, kể cả việc cứu hộ dũng cảm các con thú ở Vườn thú Baghdad trong cuộc chiến xâm lược của Mỹ vào năm 2003.

Ngày 7 tháng 3 năm 2012, Lawrence Anthony qua đời. Ông mất đi để lại nhớ thương cho vợ, 2 con trai, 2 cháu nội trai và rất nhiều voi rừng.

Hai ngày sau khi ông qua đời, một điều kinh ngạc đã xảy ra! Các con voi hoang dã (mà ông đã cứu trước đây) đã có mặt tại nhà ông và chúng đã được dẫn đường bởi hai con voi đầu đàn to lớn.

Mấy đàn voi rừng riêng rẽ đã lũ lượt đến để nói ‘tạm biệt’ người bạn yêu quý, người hùng của chúng.

Tổng cộng đã có 20 con voi kiên nhẫn đi gần 20 cây số để đến được ngôi nhà của ông ở Nam Phi.

Chứng kiến cảnh tượng này, nhiều người đã hết sức kinh ngạc, không chỉ vì trí thông minh và thời điểm chính xác mà những con voi đã cảm nhận về cái chết của Lawrence, mà còn vì trí nhớ và những cảm xúc tình cảm sâu đậm mà các con vật thương yêu kia đã được diễn tả một cách có tổ chức: Chúng đi bộ từ từ – trong nhiều ngày – theo hàng dọc, vòi nối đuôi – một cách long trọng từ nơi chúng sinh sống cho đến nhà của ông Lawrence Anthony.

Bà Francoise vợ của Lawrence, đặc biệt xúc động, vì bà biết rằng những con voi đã không đến nhà từ hơn một năm nay, nhưng chúng vẫn biết đâu là nơi chúng muốn đến! Rõ ràng là những con voi đã muốn bày tỏ lòng kính trọng sâu sắc của mình để tôn vinh người bạn, người ân nhân đã cứu giúp chúng – với rất nhiều kính trọng, chúng đã ở lại 2 ngày 2 đêm.
Sau đó, vào một buổi sáng, chúng lại rời nhà, bắt đầu một cuộc hành trình dài để trở về lại nơi sinh sống của chúng.

Bầy chó hoang đã đến đám tang để tỏ lòng biết ơn đối với người đã cho chúng thức ăn.

Lúc còn sống, bà Margarita Suarez – một người yêu động vật sống ở Merida, Mexico đã dành phần lớn đời mình để chăm sóc và cưu mang những con vật hoang mà bà gặp. Và điều kì diệu đã xảy ra, vào chính đám tang của bà, một bầy chó hoang và một chú chim đã xuất hiện để bày tỏ sự tôn kính và tiếc thương tới người phụ nữ nhân hậu này.

Khi bà còn sống, thường có một đám đông các con vật hoang tập trung trước cửa nhà bà Suarez và bà mang rất nhiều thức ăn cho chúng ăn. Bà cũng luôn mang theo bên mình một túi đồ ăn để phòng khi gặp con vật nào thì cho chúng ăn.

Khi bà Mgarita qua đời, những thành viên trong gia đình bà không khỏi ngạc nhiên khi thấy những con chó hoang xuất hiện trong phòng tang lễ, nơi đặt thi thể bà.

Những con chú chó hoang này thậm chí còn đi theo xe tang của Suarez tới tận nhà tang lễ, chúng chỉ tản đi sau khi thi thể của bà được chuẩn bị để đưa đi hỏa táng.

Margarita bắt đầu cho những chú chó hoang ăn từ khi bà còn là một đứa trẻ. Thậm chí bà còn luôn mang theo bên mình một túi thức ăn để cho mỗi chú chó bà vô tình gặp. Cứ như vậy, bà làm bạn với rất nhiều chú chó và giờ đây, trong đám tang của bà, chúng đến để tiếc thương cho người phụ nữ nhân hậu đã cưu mang chúng.

Ban đầu, những nhân viên nhà tang lễ đã không biết phải làm gì với những chú chó này, nhưng cuối cùng họ để chúng vào khi họ nhận ra rằng chúng đến đây là để tiễn đưa bà Margarita.

Cháu gái của bà Margarita chia sẻ: “Để bày tỏ sự mất mát, chúng chỉ biết nhảy lên và đứng bằng 2 chân sau. Đây quả thật là một điều kì diệu.”

*Chú chim cánh cụt Nam Mỹ đã bơi hơn 8.000 km mỗi năm để được gặp người đàn ông đã cứu mạng mình.

Ông Joao Pereira de Souza, 71 tuổi là một thợ xây đã về hưu và hiện đang làm nghề đánh cá.

Ông sống ở một ngôi làng trên một hòn đảo bên ngoài Rio de Janeiro, Brazil. Ông phát hiện ra chú chim cánh cụt bé nhỏ vào năm 2011 trên bờ biển.

Khi đó cơ thể chú phủ đầy dầu, đang hấp hối và nằm trên đá.

Ông Joao đã rửa sạch dầu trên bộ lông của chú, cho chú ăn cá hằng ngày và đặt tên là Dindim.

Sau một tuần nuôi nấng, ông thả Dindim về biển, nhưng chú không rời đi.

“Nó ở với tôi thêm 11 tháng nữa. Chỉ sau khi nó đã thay một bộ lông mới, nó mới ra đi” – ông Joao nhớ lại.

Và chỉ vài tháng sau, Dindim quay trở lại. Chú phát hiện ra người ngư dân rồi theo chân ông về nhà.
5 năm trôi qua, Dindim dành 8 tháng mỗi năm sống cùng ông Joao và 4 tháng còn lại sống ngoài khơi bờ biển Argentina và Chi-lê.

Người ta cho rằng Dindim đã bơi hơn 8.000 km mỗi năm để được gặp lại người đã cứu mạng mình.

“Tôi yêu chú chim cánh cụt này như con mình, và tôi tin nó cũng yêu tôi” – ông Joao chia sẻ với Globo TV. “Không ai được phép chạm vào Dindim. Nó sẽ mổ nếu họ làm vậy. Nhưng nó sà vào lòng tôi, để tôi tắm cho nó, cho nó ăn cá mòi”.

Người ta cho rằng Dindim nghĩ rằng ông lão đánh cá cũng là chim cánh cụt giống như mình.

“Ai cũng nói nó sẽ không trở lại đâu, nhưng nó vẫn trở lại trong suốt 4 năm qua. Dindim đến vào tháng 6 và đi vào tháng 2. Mỗi năm, nó lại trông trìu mến và hạnh phúc hơn khi gặp lại tôi”.

Giáo sư sinh vật học Krajewski chia sẻ với tờ The Independent: “Tôi chưa từng nhìn thấy bất cứ điều gì giống như thế này trước đó. Tôi nghĩ rằng chú chim cánh cụt tin rằng ông Joao là người thân của mình và cũng là một con chim cánh cụt”.

“Mỗi khi nhìn thấy ông ấy, nó đều ve vẩy cái đuôi của mình giống như một chú cún và kêu lên đầy phấn khích”.

Và nhờ thế, thế giới dường như trở thành một nơi tử tế hơn.

Vạn vạn đều có tánh linh!

Bác họ Trương rất ưa thích luyện khí công, còn dùng khí công để chữa bịnh cho người. Nhưng ông trị người không hết mà bản thân cũng bị bịnh quấy nhiễu. Ông bị chóng mặt đã 3-4 năm nay.

Uống thuốc trị liệu gì cũng không kết quả. Ông nói: “Đầu tôi xây xẩm giống như mới vừa uống hai bình rượu vậy!”

Nhân duyên hội đủ, ông đến gặp Hòa thượng Diệu Pháp, năn nỉ Ngài vận khí công trị bịnh cho ông.

Hòa thượng cười nói:

– Tôi không thể vận khí công để trị bịnh đâu, mỗi người mắc bịnh đều có nguyên nhân. Tôi có thể nói rõ nguyên nhân vì sao ông chóng mặt. Còn chuyện bịnh hết hay không thì tùy thuộc vào ông.

Đây cũng là đạo lý mà Phật nói: “Mệnh tự ta lập” – Thì như do ông không hiểu chuyện mà làm sai việc gì đó đem lại thống khổ phiền não cho mình và người.

Nếu ông gặp được thiện trị thức, giải thích và chỉ ra nguyên nhân. Một khi ông hiểu rõ và nhận ra chỗ sai của mình, cố gắng sửa đổi, thì phiền não và thống khổ sẽ biến mất không còn. Bởi vì

Phật pháp không phải để cho người mê tín Phật, Bồ Tát, hay một cao tăng nào đó, mà là để mỗi người đều có thể đạt được trí huệ. Tự mình cải tạo số mệnh của mình!

Bác Trương suy nghĩ một hồi rồi gục gặc đầu.

Hòa thượng nói tiếp:

-Ông bị chóng mặt, là do 3-4 năm trước ông từng làm tổn hại một ổ chuột con. Có việc này không?

Bác Trương trầm ngâm hồi tưởng lại, giây lâu rồi đáp:

– Dạ có, có việc này ạ. Sư phụ! Ngài quả có đại thần thông! Cách đây ba năm, một hôm con vào kho chứa đồ và phát hiện có ổ chuột con mới sinh độ chừng 6-7 con. Đệ tử nhát lắm, chẳng biết làm sao cho chúng chết, bèn bỏ chúng trong cái lồng, gắng sức lắc mạnh. Lắc một hồi lâu, con nghĩ là chúng đã chết liền đem quăng ra bãi rác. Ồ! Việc như thế mà liên quan tới chứng chóng mặt của con sao ?

– Đúng vậy, ổ chuột không bị ông lắc chết mà chỉ bị ông làm cho chóng mặt thôi. Nhân nào quả đó. Đây là nguyên nhân vì sao ông chóng mặt.

Bác Trương lẩm bẩm một mình: “Ngài phán rất đúng. Con từ lúc đó về sau bắt đầu chóng mặt. May là bầy chuột chưa chết, nếu mà chúng nó chết rồi thì không biết con đền mạng tới đâu nữa?”…

– Đúng vậy, sát sinh sẽ làm giảm thọ mệnh, bằng không thì ngay đời này cũng gặp tai nạn hoạnh ương. Động vật sở dĩ có thể bị giết, cũng là do kiếp trước nó từng gieo nhân sát sinh nên đời nay mới bị quả báo như thế.

Phần chúng ta, đời này giết hại chúng nó tức là đang vay nợ mạng, cứ thế nhân quả tuần hoàn, oan oan tương báo, không bao giờ hết. Vì vậy mà phàm phu chúng ta cứ luân hồi trong lục đạo không có ngày ra. Chỉ có liễu giải Phật pháp, tin sâu nhân quả, ngưng ác hành thiện, thì mới có thể thoát ly biển khổ sinh tử. Thế nào, từ nay ông còn muốn sát sinh chăng?

Bác Trương đang ngồi sợ đến ngẩn ngơ. Nghe Hòa thượng hỏi, vội đáp:

– Từ rày về sau con chẳng dám sát sinh nữa.

Nói xong ông hoan hỉ mách:

– Bạch Sư phụ, đầu con đột nhiên tỉnh táo rồi, không choáng chút nào cả.

Người chung quanh đều cười.

Bác Trương thắc mắc nói tiếp:

– Nhưng mà, loài chuột hại sâu, cắn phá tài vật của người, thậm chí truyền bệnh dịch hạch…nếu như không giết nó, tương lai nó sinh sản lan tràn làm sao?

– Trọn cả tổng thể, từ lớn như vũ trụ đến nhỏ tợ vi trần, bao gồm tất cả chủng loại sinh mệnh…đều có quy luật vận hành và thời gian tồn tại. Nếu con người và các loài động vật có “sinh, lão, bệnh, tử”, thì thực vật có “sanh, trụ, dị, diệt”, các thứ khoáng chất thì có “thành, trụ, hoại, không”… cho dù là núi, sông, biển cả, hoa cỏ, hạt sương… Chỉ cần “có hình thành, là có hoại diệt!” Thế nhưng, cách hoại diệt hay “chu trình sinh tử” này tự có quy luật của nó! Nếu chúng ta coi thường quy luật tự nhiên, mặc tình phá hoại theo lý luận và ý thích ngu muội của mình, tất nhiên sẽ chiêu lấy ác quả bất kham, khó thể tưởng tượng!

Thí như chúng ta vì những lợi ích trước mắt, cho phá rừng nổ đá, khiến rừng bị hủy hoại, núi bị sạt lỡ và cây cối loài vật trong rừng bị tàn hại…tất cả việc làm thiếu ý thức này của chúng ta sẽ dẫn đến hậu quả là địa cầu bị ngập nước , khí hậu đổi thay, lũ lụt phát sinh…Ông không thấy số lượng cây rừng bị chặt phá quá nhiều, động vật bị săn chết giảm đến nhiều loài phải mất tích hoặc tuyệt diệt.

Loài chuột cũng có rất nhiều kẻ thù trong thiên nhiên như: rắn, mèo, diều hâu, chim ưng, chim ó v.v… Có thể những kẻ thù thiên nhiên này cũng bị nhân loại chúng ta giết hại ăn thịt hoặc lột da làm y phục, trang sức. Do vậy mới có câu: “Thiên tai là chính do nhân họa tạo thành”

Hòa thượng ngừng một lát rồi nói:

– Tôi bày ông một cách có thể diệt trừ nạn chuột, ông có muốn thí nghiệm thử không?

Mọi người đều nhìn Hòa thượng chăm chăm, Ngài mỉm cười giải thích:

– Trước tiên phải biết chuột cùng là loài động vật hữu tình, cũng có mẹ sinh đẻ, dưỡng nuôi. Chúng cũng giống trâu, ngựa, mèo chó, một số có thể nghe hiểu tiếng người. Khi ông hiểu rõ đạo lý không sát sinh rồi, ông có thể hằng ngày chuẩn bị những thức ăn dư thừa cho nó, đặt ở nơi mà chuột thường ẩn hiện và nói nhỏ:

“Bản thân tôi ngày trước chưa hiểu Phật pháp nên đã giết hại rất nhiều chuột, bây giờ tôi đã rõ đạo lý, từ nay về sau nhất định chẳng sát sinh nữa. Tôi vẫn muốn tụng kinh cầu siêu cho loài chuột từng bị giết. Hi vọng chuột sẽ không cần cắn phá đồ vật trong nhà người”…Chỉ cần thành tâm thành ý làm như thế, nhất định sẽ thấy kết quả. Thậm chí một ngày kia, chuột sẽ dời ổ bỏ đi.

Buổi nói chuyện của Hòa thượng đã khiến mọi người mắt tai như đổi mới. Sau đó, phương pháp này lần lượt được thí nghiệm, kết quả rất tuyệt. Còn có người trong nhà bị nhiều kiến, họ cũng áp dụng phương thức này và nói rất linh nghiệm.

Chuyện này ai cũng có thể thí nghiệm được một cách dễ dàng!

Đừng coi thường luật nhân quả

Có một câu chuyện tận đến nay đối với người dân Vĩnh Long vẫn “nằm lòng” và thường truyền miệng cho nhau trong những khi nhàn rỗi.

Một cậu bé tên Hiếu, hàng ngày lê lết ở chợ Trà Vinh, sống bằng cách xin ăn với thân hình của một… con bò.

Em sinh ra trong một gia đình có nghề: mổ bò lâu đời để bán thịt ở Trà Vinh. Ông nội của em làm giàu bằng nghề này nên rủng rỉnh tiền bạc. Một lần nọ, trước khi làm thịt một con bò cái đang có chửa, bỗng dưng ông nằm mơ thấy một người đàn bà đến bên ông khóc lóc và van nài: “Xin ông đừng giết tôi, để tôi sinh con rồi ông hãy giết!”.

Và không những mơ thấy một lần mà ông còn mơ tới 3 lần chỉ trong một đêm. Tỉnh giác, ông mang chuyện này kể cho vợ thì được khuyên can không nên làm thịt con bò mà hãy nuôi để chờ nó đẻ. Nhưng suy đi tính lại, cuối cùng ông vẫn quyết định thịt nó để bán. Mới sáng tinh mơ không hiểu sao so với những lần mổ bò khác, nó kêu la khủng khiếp hơn nhiều, rồi giãy giụa, lồng lộn đến nỗi đứt cả sợi dây trói khi mổ. Khi chết rồi cái ấn tượng mà ông nội Hiếu mãi đến sau này không thể quên được là cái đầu nó lắc lư mãi như thể còn sống.

Tuy nhiên, điều trùng hợp là đúng lúc giết con bò chửa đó, con dâu ông trở dạ sinh đứa cháu nội, đồng thời là “đích tôn” của ông với những dị tật rất giống… con bò ấy là mắt lồi, sứt môi, đầu cứ lắc lư, chân tay cong queo đến nỗi không đi lại được, phải bò. Đứa trẻ ấy chính là Hiếu. Nhìn hình ảnh của em, ông nội em không thể nào không liên tưởng đến cái chết của con bò, nhất là động tác lắc lư cái đầu. Như hiểu nguồn cơn sâu xa vì sao cháu mình lại bị như vậy và muốn “chuộc” lại lỗi lầm, ông bỏ nghề sát sinh và có bao nhiêu tiền của ông dốc hết ra để chữa chạy cho cháu.

Nhưng cậu bé vẫn vậy. Khổ hơn, khi được 10 tuổi, Hiếu đã phải lê la ra chợ xin ăn do người thân của em lần lượt ra đi hết vì trọng bệnh. Mỗi lần xin ăn, chẳng hiểu ai xui khiến, vừa lết Hiếu vừa la khóc thảm thiết: “Xin các bác, các dì đừng “sát sanh” con! Con là con bò nè…”.

*Thời nhà Tống ở vùng Đông Hải có Từ Mỗ Giáp, vợ trước là Hứa Thị, sanh được một cậu con trai tên là Thiết Cữu. Nhưng rồi Hứa Thị qua đời, Mỗ Giáp lấy vợ khác là Trần Thị. Trần Thị hung ác bạo ngược tìm cách diệt trừ Thiết Cữu.

Trần Thị sanh được một đứa con trai tên là Thiết Chử, bà thường nguyền với cậu ta rằng: “Nếu con không loại trừ Thiết Cữu, thì không phải con ta.”

Vì vậy mà gọi tên con là Thiết Chử tức là cái chày bằng sắt, muốn lấy chày sắt giã vào cối sắt đấy mà.

Cũng từ đó bà thường đánh đập Thiết Cữu, đủ mọi cách khổ đau ác hiểm, đói không cho ăn, lạnh không cho thêm áo. Tánh tình của Mỗ Giáp vụng về kém cỏi, lại phần nhiều vắng nhà, nên bà vợ sau tự mình tùy ý hành hạ thật tàn bạo. Thiết Cữu cuối cùng bị Trần Thị giam, bỏ đói và đánh đập đau đớn mà chết, lúc ấy tuổi mới 16.

Sau khi qua đời hơn một tuần, hồn quỷ bỗng nhiên trở về nhà, bước lên giường của Trần Thị mà nói rằng: “Ta là Thiết Cữu, thật sự không có tội lỗi gì mà bỗng nhiên bị bà tàn hại, mẹ ta kêu oan lên đến trời, nay được Thiên Tào cho phép đến bắt Thiết Chử, sẽ làm cho Thiết Chử gặp phải tật bệnh giống như lúc ta gặp đau khổ, rồi mang đi như ngày tháng đã hẹn. Nay ta dừng lại đây chờ đợi.”

Tiếng nói giống như lúc còn sống, người nhà và khách bạn không thấy hình dáng nhưng tiếng nói thì nghe rất rõ ràng. Thế là thường ở lại trên xà nhà chờ đợi. Trần Thị quỳ nhận lỗi đập vào má, van nài để tổ chức cúng tế cầu xin tha thứ.

Quỷ nói: “Không cần phải như vậy, giam ta bỏ đói khiến cho ta chết, lẽ nào một bữa cơm mà có thể đổi được tội lỗi hay sao?”

Trần Thị trong đêm nói lén điều gì, quỷ cũng đều nghe hết, liền nghiêm giọng nói rằng: “Sao dám nói ta như vậy, nay ta sẽ làm gãy đòn dông nhà của ngươi.”

Liền có tiếng cưa, mạt cưa cũng rơi xuống theo, bỗng nhiên có âm thanh vang lớn lên, giống như đòn dông thật sự đổ sập. Cả nhà hoảng sợ chạy hết ra ngoài. Hồi lâu cầm đèn đuốc soi sáng, thì không có gì hết.

Quỷ lại mắng Thiết Chử rằng: “Ngươi đã giết ta, ngồi yên trong nhà lấy làm vui sướng lắm hả? Ta sẽ đốt cháy nhà của ngươi, cho ngươi xem!”
Lập tức thấy lửa bừng lên, khói bay mịt mù trong ngoài khốn đốn vô cùng, trong chốc lát tự nhiên tắt đi, mái tranh vẫn như cũ không thấy hư hoại chút nào.

Ngày ngày cứ mắng nhiếc, có lúc lại ca rằng: “Đào mận hoa nở sum sê, sương rơi làm gì được; đào mận kết trái trũi cành, sương lạnh sớm rơi rụng rồi!”

Tiếng ca nghe thật là đau thương, mang nỗi niềm ai oán, tựa như là tự thương xót cho mình không được lớn lên vậy. Lúc ấy Thiết Chử mới 6 tuổi, quỷ đến thì mang bệnh, thân thể đau đớn mà bụng to, bệnh khí tăng lên trở ngại đến sự ăn uống, quỷ nhiều lần đánh đập, khắp nơi bầm tím, hơn một tháng thì chết. Khi Thiết Chử chết rồi thì quỷ cũng bặt tăm!

Cái chết thê thảm

Vào năm 1732 tại huyện Quỳ Hưng có một người họ Ngụy, vốn là dân vô nghề nghiệp, rất giỏi bắn chim. Những con chim bắt được, ông đem đi bán hoặc giết chúng làm thịt nhậu với rượu.

Ông cũng thích bắt lươn, ếch và rùa. Ðôi lúc ông còn dùng thuốc độc để thuốc cá, nên số cá trong ao hồ bị bắt được nhiều vô số kể. Hoặc y phá tổ chim lấy trứng.

Các bạn bè khuyên ông: “Này ông Ngụy không nên sát sanh. Ông nên cày ruộng hay làm một nghề gì chân chính khác thì tốt hơn”.

Ông Ngụy chẳng bao giờ nghe lời khuyên của họ. Ông còn bảo họ là ganh ghét dòm ngó đến việc làm ăn của ông.

Nhiều năm sau, ông đã giết hại vô số sinh linh, gây ra một món nợ máu to lớn. Cuối cùng ông mắc một chứng bịnh mụt nhọt mọc lên khắp thân người.

Nhiều mụt độc lớn như trứng bồ câu, và trong mỗi mụt có một hòn sắt to bằng viên đạn súng bắn gần. Toàn thân ông chứa đầy mũ máu hôi thối. Ông vô cùng đau đớn, gào thét kêu la thảm thiết chẳng khác gì tội nhân đang bị đọa đày ở cảnh giới địa ngục.

Sau ít ngày xác thân bị hành hạ rồi ông Ngụy nhắm mắt lìa đời. Gia đình ông đi sắm một cổ quan tài. Vào lúc thân quyến đang lo việc đám ma chôn cất, mọi người nghe có tiếng ồn ào kỳ lạ.

Nhìn ra họ thấy vô số hàng trăm sinh vật đang tới xâm nhập vô nhà ông! Bà con thiên hạ đều hết sức kinh ngạc. Họ sửng sốt nhìn thấy từng đàn chim, nhiều dê, rùa và ếch kéo nhau đến tiến vào nhà ông. Tang quyến trong gia đình chưa kịp phản ứng, thì tất cả những con vật đó đều đồng loạt tấn công vào xác chết ông. Chúng gặm và cắn. Chúng cào xé và cắt rạch. Chúng nhai và kéo giật. Vài con lại đá vào thi thể của ông.

Vợ con trong gia đình nhận biết đó là quả báo do các hành động ác giết hại nhiều sinh vật vô tội của ông trước đây gây ra. Trong chốc lát, cái thây ma của ông Ngụy chỉ còn lại bộ xương trắng.

*Trong niên hiệu Hiển Khánh nhà Đường, có người ở trong cửa hàng bên lộ phía Tây thành Trường An, mới cưới vợ sanh một bé trai, ngày đầy tháng họ hàng thân thích tụ hội chúc mừng, mua được một con dê sắp giết thịt.

Con dê nhiều lần hướng về người làm thịt quỳ lạy, người làm thịt báo cho mọi người trong nhà biết, nhưng cả thảy lớn nhỏ trong nhà không ai cho là điềm kỳ lạ, liền giết dê làm thịt.

Lúc đem thịt bỏ vào nồi nấu, ai cũng lăng xăng lo làm, mỗi người một việc, người thì sắp xếp hành tỏi, kẻ thì bày biện bàn ghế và bánh trái thức ăn, khiến sản phụ ôm con trông coi nấu thịt. Cô ôm con đứng trước lò lửa, nồi lớn rất chắc chắn, bỗng nhiên tự vỡ toang, nước nóng trong nồi giội vào tro lửa bắn thẳng vào hai mẹ con. Cả mẹ lẫn con đều chết tức khắc, họ hàng thân thích và người láng giềng, trông thấy cảnh tượng ấy không có ai không đau lòng chua xót.

Người trong cửa hàng thấy và nghe sự việc ấy, vĩnh viễn từ bỏ rượu thịt không ăn thức ăn tanh nồng.

Cá “câu” người

Có một y viện huyện thuộc vùng cao nguyên Thái Lan, do giao thông bất tiện, nên bịnh nhận phải đi từ sáng sớm tới bệnh viện để khám và kịp quay về nhà trước khi trời tối.

Một ngày chủ nhật nọ, bịnh nhân cần khám đều đã khám xong, nên chiều nay xem như bác sĩ được rảnh rang. Bỗng một y tá cuống quýt hướng về viện trưởng báo cáo, có người bị mắc xương cá nơi yết hầu, đang chờ cấp cứu, xin viện trưởng đến cho.

Đó là một thanh niên hơn 20 tuổi, hô hấp đã ngừng, thân thể vẫn còn ấm, sắc mặt tái nhợt hiện vẻ đau đớn và sợ hãi tột độ. Theo lời người nhà và thân hữu bịnh nhân kể, thì lúc đưa vào viện anh mới tắt hơi. Mặc dù người bịnh đã chết, nhưng chiếu theo quy luật của bệnh viện, cần phải giải phẫu để làm rõ nguyên nhân tử vong và tiện cấp giấy chứng tử. Sau đó, bác sĩ lắng nghe người nhà kể lại quá trình xảy ra cái chết chí mạng.

Thanh niên bị mắc xương cá chết tên là Thịnh, sáng sớm hôm nay cùng mấy người bạn trai ra đồng bắt cá. Do đêm qua mưa lớn, từ đồng ruộng cho đến các ao mương đều ngập nước, cá tôm có đầy, nên ai cũng bắt được rất nhiều cá tôm. Thịnh bắt được một con cá rô núi, lại nhìn thấy trước mặt có một con cá chép to, trong lòng quá mừng bèn chạy vội tới bắt cá chép, lúc này tay anh đang cầm cá rô, không biết thả đâu cho ổn, nhưng không thể buông nó ra, trong giây phút vội vàng, anh quyết định đưa cá lên miệng ngậm. Không ngờ con cá nhỏ lại chui tọt vào cổ, và “cắm dùi” nơi cổ họng anh. Thịnh thấy cổ họng quá đau, liền dùng tay móc ra, nhưng đã quá muộn, cả mình con cá đều nằm nơi yết hầu, kéo ra không được.

Loài cá rô núi này có rất nhiều ở đồng ruộng Thái Lan, thân mập, dài khoảng 1 tấc, vảy của nó màu vàng, sáng lấp lánh nhưng rất cứng và bén. Nếu vuốt theo chiều thuận thì mình nó trơn, nhưng kéo ngược lại thì kỳ của nó dương lên rất nhọn, sẽ thành những móc câu ghim chặt.

Vì vậy khi Thịnh càng lôi con cá ra, tức là càng bị các “móc câu” này phát huy đại tác dụng khiến anh đau chí tử. Loại cá này đặc biệt sống rất khỏe, rất dai. Nó có thể rời nước lóc lên tuốt trên đỉnh núi, vì vậy mới gọi nó là cá rô núi.

Chưa đầy mười phút, Thịnh bắt đầu hô hấp khó khăn, con cá cứng đầu trụ ngay tại yết hầu, nuốt không được, nhổ không ra, muốn hét to cũng không thể, Thịnh đành dùng tay chỉ vào miệng, hai mắt trợn trắng.

Mấy người bạn thấy vậy hoảng hốt thất kinh hồn vía, vội vạch miệng Thịnh để lấy cá ra, nhưng vô phương. Đành giương mắt nhìn Thịnh thống khổ co giật.

Một người bạn vội kêu xe taxi tới, chở Thịnh thẳng vào viện cấp cứu, nhưng đi được nửa đường thì chàng tắt thở.

Lúc này y viện đang phẫu thuật. Bác sĩ rạch cổ Thịnh lấy cá ra, nó vẫn chưa chết. Y tá đem nó thả xuống ao trước bệnh viện, hóm hỉnh nói với nó rằng:

-Nếu như cảnh sát tra án thì sẽ truy bắt hung thủ, ngươi hãy xuống ao nước lánh đi nhé!

Còn thi thể của Thịnh thì người nhà lãnh đem về lo hậu sự.

Thịnh bị mắc cá sống chết đi, gia đình làm tang lễ cho anh. Theo phong tục Thái Lan, người chết 7 ngày sau thì đem thiêu.

Thịnh chết trẻ bất ngờ, khiến nhiều người thương tiếc. Nhưng sáng hôm đó ngay lúc cử hành hỏa táng cho Thịnh, lại nghe tin có người bị cá rô núi làm chết nữa, thực sự quá bất ngờ. Và còn bất ngờ hơn nữa, khi người chết là ông Thông – ba của Thịnh – cũng bị cá rô núi mắc kẹt nơi cổ y như thế, và do nuốt vào cổ họng mà khạc nhổ không xong, vô phương hô hấp nên dẫn đến tử vong. Giống y chang kiểu chết của Thịnh.

Đây quả là chuyện cực kỳ lạ lùng, gây chấn động toàn huyện, toàn tỉnh.

Bởi vì hôm đó gần tối mới cử hành lễ hỏa tang, thân hữu tề tựu đến dự. Ông Thông ba của Thịnh muốn chuẩn bị đãi khách, nên tờ mờ sáng đã ra mương bắt cá. Để tiện bắt cá tôm, trước tiên phải tát bớt nước trong mương đi. Lúc đó tất cả cá lớn cá nhỏ đều bị dồn lại một chỗ, chen nhau quẫy đạp không ngừng, cứ dùng rọ mà chụp bắt. Ông vừa bắt cá, vừa lớn tiếng kêu bà vợ cầm thùng ra đựng cá.

Kể ra thì chậm, nhưng lúc đó diễn tiến rất nhanh, ngay lúc ông Thông hả to miệng gọi vợ, thì bỗng có một con cá rô núi nhảy lên cao, không nghiêng không lệch, rơi đúng ngay vào miệng ông.

Ông Thông bị nạn bất ngờ, hoảng kinh, vội vàng dùng toàn lực khạc nhổ cá ra, mà không ra được, rồi đưa tay móc… nhưng con cá đã chui thẳng vào yết hầu, trụ lại đó không thèm đi tiếp nữa.

Ông Thông được người thân bồng lên bờ mương. Lúc này hai mắt đã trợn trắng, trên đường đưa đến bệnh viện thì ông đã tắt thở tự bao giờ, giã từ dương thế trong đớn đau đầy nuối tiếc.

Đây thực là chuyện lạ có một không hai nên được đồn vang khắp toàn thôn, toàn huyện, rồi toàn tỉnh.

Y viện trong một tuần ngắn ngủi đã phải xử lý hai tình huống tử vong của hai cha con ông Thông.

Việc này phải nói là chấn động và khó hiểu. Vì vậy Viện trưởng đến nhà tang quyến chia buồn, và cất công tìm hiểu vì sao cả hai cha con trong bảy ngày lại bị cá sống hại chết?

Té ra gia đình ông Thông, tổ tiên mấy đời đều cư ngụ ở đây. Hễ rảnh vụ mùa thì bắt cá, nuôi cá làm nghề phụ. Nếp nhà nhờ đây mà giàu có.

Ông Thông bắt cá phơi khô đem bán, nghĩa là khi bắt cá còn sống, ông dùng que tre đâm từ miệng cá đến cổ họng nó, mỗi que đâm từ 5-10 con, rồi đem đi phơi nắng, có khi ông dùng lửa sấy cho khô. Mỗi xâu cá được treo nơi khung tre, chờ để tiêu thụ.

Từ tổ phụ đến Thịnh là bốn đời, chuyên làm như vậy.

Dân làng thấy ông Thông dùng tre nhọn đâm yết hầu con cá sống khiến nó giẫy giụa đau đớn, thủ đoạn tàn nhẫn thảm khốc đến độ chẳng nỡ ngắm nhìn.

Ngàn vạn lần cũng không thể tưởng được là cha con họ lại bị cá sống hại chết giống y nhau theo kiểu này.

Nếu ngay đây mà đối chiếu cảnh: “Người móc cá, cá móc người”, thì đây chính là diễn tiến lạ lùng của báo ứng. Đúng như nhà Phật từng nói: “Nhân quả báo ứng không hề xử oan người”, có thể nói “Nhân quả xoay chuyển rất công bằng”. Xin mọi người cảnh giác, ngàn vạn lần chớ nên gieo nhân ác.

Chúng ta ai cũng coi sinh mạng mình là quý, là một của báu tuyệt đối. Nếu bị ai mưu hại là mình chống trả triệt để hầu bảo vệ mạng sống. Mình đã biết quý trọng sinh mạng mình, tại sao lại muốn chà đạp sinh mạng người? Suy rộng ra, các loài vật cũng biết quý trọng mạng chúng. Như khi một con bò hay một con lợn sắp bị đập đầu, chọc tiết, ta thấy sự phản kháng mãnh liệt, sự đau thương cùng cực của chúng bằng những tiếng kêu la, những động tác giẫy giụa. Theo lẽ công bằng, điều ta không muốn ai làm cho ta đau khổ thì ta cũng đừng làm cho người khác hay loài khác phải khổ đau. Đức Phật dạy:

“Ai ai cũng sợ gươm đao,
Ai ai cũng sợ cái chết.
Lấy lòng mình suy lòng người,
Chớ giết, chớ sai bảo giết!”.

Đang tâm giết hại sinh mạng là lòng độc ác đã cực thịnh, tâm từ bi bị bóp nghẹt. Nhẫn tâm vô cớ giết một con vật thì tính bạo ác không kém giết một mạng người. Nhẫn tâm làm cho kẻ khác hay vật khác phải giãy giụa, rên siết, quằn quại trong máu đào, trong lệ nóng trước khi trút hơi thở cuối cùng là tự giết lòng từ bi của mình, là bóp chết cái mầm thương yêu quý báu trong tâm hồn chúng ta.

Đức Khổng Tử có nói: “Văn kỳ thanh, bất nhẫn thực kỳ nhục, kiến kỳ sinh, bất nhẫn kiến kỳ tử”. (Nghe tiếng kêu la của con vật không nỡ ăn thịt nó; thấy nó sống, không đành thấy nó chết). Như vậy, người có tâm từ bi hay lòng nhân ái đều không nỡ sát hại người hay vật.

Khi ta giết một người hay một con vật thì sự oán hận của họ tràn trề, khó dập tắt được. Họ vì thân cô thế yếu, vì sức kém nên bị ta giết hại. Trong khi ấy, họ ôm khối căm hận, chờ dịp báo thù, hay con cái, thân thích của họ sẽ báo thù lại. Cứ thế, mỗi ngày ta đều gieo căm hờn cho người và vật, tích lũy lâu ngày khối oan gia ấy to hơn sức ta, chừng ấy ta sẽ bị nó sát hại lại. Càng tạo nghiệp sát, càng lao mình vào vòng đau khổ. Kinh Lăng già Đức Phật dạy: “Thường sinh tâm sát hại, càng tăng trưởng nghiệp khổ, mãi xoay vần trong sinh tử, không có ngày ra khỏi”.

D/- Tu Thập Thiện Nghiệp

Mười phương chư Phật thường xót thương chúng sanh mê muội mãi tạo gây nghiệp chướng sâu dày, quay lưng với con đường đi đến Phật quả an vui, mà ưa thích những điều khiến cho chìm nổi giữa biển cả khổ đau, mặc ý để cho phiền não ngày đêm hành hạ mà không hề sợ sệt, như ruồi nhặng thích bu xác chết thối tha, tựa ong bướm lao vào đống lửa hừng hực. Bởi vì vô minh mù mờ nhiều kiếp lưu chuyển trong dòng sanh tử trải qua đủ mọi đau khổ, nhận chịu đủ mọi đắng cay đến nay hãy còn bị thiêu đốt. Vì vậy, Như Lai vô cùng bi mẫn không đành lòng từ bỏ, nên đã chỉ rõ sự khổ cần phải nhàm chán, và nẻo thanh nhàn nơi miền Cực Lạc, khiến cho chúng sinh vui nguyện sanh về, sơ lược trình bày về mười điều ác để cố gắng toan lo xa lánh, còn điều lành khá rán thực hành!

*Nghiệp nhân

Phàm phu tạo nghiệp nhiều loại, từ chỗ có tâm ý tương ứng với thân miệng, cũng có lúc thân miệng cùng với tâm trái nhau. Dựa vào đây mà luận, hễ thân miệng dấy động đều là do tâm sai khiến. Nếu tâm bất thiện thì mới có thể làm hại đến vật, nếu trong tâm có thiện thì sẽ thuận với nhân phước. Tuy lợi và hại không giống nhau, nhưng mà gốc rễ của ba nghiệp, thì lấy tâm ý làm nguồn cội.

Bởi vì tâm ý dấy khởi không giống nhau, như trong luận Thành Thật nói: “Có ba người cùng đi vòng quanh tháp, một người là vì công đức niệm Phật, một người là vì trộm cắp, một người là vì sự mát mẻ, tuy là thân nghiệp cùng chung một việc làm, mà có ba tánh chất thiện – ác và vô ký mà sinh ra khác biệt, nên biết tội – phước do tâm, tướng của nghiệp thân – miệng thiện ác không nhất định”. Nghĩa là người vừa đi vừa chí thành niệm Phật thì đang tạo nghiệp thiện; còn người để ý đồ vật quý giá đặng trộm cắp thì đang tạo nghiệp ác; còn người vì sự mát mẻ mà dạo quanh tháp thì thuộc về nghiệp vô ký, tức không thiện không ác.

Tạo nghiệp chẳng khác nào gieo giống,
Gieo thứ nào lên mộng thứ ni;
Đừng tưởng rằng Trời chẳng biết gì,
Luật nhân quả không ly một mãy.
Hại người tất bị người hại lại,
Làm phải thời có phải trả cho;
Ấy tự nhiên của máy thiên cơ,
Nay hay thuở ngàn xưa cũng thế.
Kẻ dân dã hay ông hoàng đế,
Cũng nằm trong định lệ trả vay;
Cân công bằng chẳng vị tư ai,
Có vay tất có ngày phải trả.
Thứ chậm trái, thứ mau có quả,
Tùy nghiệp nhân nặng nhẹ mà ra;
Chớ cho rằng Trời chẳng thấy qua,
Gian dối mãi ấy là lầm lạc.

*Quả báo

Kinh Di Lặc Sở Vấn nói: “Mười nghiệp đạo bất thiện, có ba loại của nó: 1- Quả của quả báo; 2- Quả của tập khí; 3- Quả tăng thượng.

Nếu sanh trong địa ngục thì gọi là quả của quả báo.

Quả của tập khí là nếu từ địa ngục thoát ra sanh trở lại trong loài người, dựa theo nghiệp sát sanh cho nên có quả báo là mạng sống ngắn ngủi, dựa theo nghiệp trộm cắp cho nên quả báo không có tiền bạc sinh sống, cho đến dựa theo nghiệp tà kiến sẽ bị ngu si… Tất cả quả báo như vậy gọi là quả của tập khí.

Quả tăng thượng là dựa vào mười loại nghiệp ác, mà hoàn cảnh cư trú bên ngoài như là đất đai cao thấp, sương mù, mưa đá, gai góc, bụi bặm, dơ bẩn, hôi thối có nhiều rắn rít, hoa màu thu hoạch xấu tệ, sự sinh hoạt vất vả khốn đốn… Như vậy tất cả gọi là quả tăng thượng.

Người dù có tài lương lẹo giỏi,
Cũng không sao chạy khỏi lưới trời.
Có thể mình giấu được người đời,
Nhưng mình chẳng giấu nơi mình được.
Một mình biết đủ làm tội phước,
Khỏi cần người biết được hay không.
Ớt nhai thì mình bị cay nồng,
Người khác biết hay không cũng vậy.
Nhân quả cũng giống như chuyện ấy,
Thưởng phạt không sai chạy tí nào.
Trả nhãn tiền hay trả mai sau,
Đến chậm hoặc đến mau không mất.

1/- Sát sanh

Ở đời, con người thường cướp đi mạng sống của kẻ khác cũng vì tranh giành danh văn lợi dưỡng, chức vị, ái tình, hay thù oán riêng tư, hoặc háo thắng… đây là tội lỗi nặng nề nhất, quả báo khổ đau ở mai sau rất là thảm khốc!

Đối với các loài vật thì sự sát giết còn tàn nhẫn nhiều hơn, giết chúng để thỏa mãn khẩu vị, hay cúng tế, hoặc vui chơi giải trí…

Người đời thường có câu “Vật dưỡng nhơn” với tư tưởng con vật sinh ra là để phục vụ nhu cầu ăn uống cho con người, dẫn đến việc xem sát sanh là chuyện bình thường. Nhưng đằng sau đó là những hậu quả rất thê lương thật khó nỗi đo lường.

Đối với đạo Phật luôn xem trọng sinh mạng của mọi loài chúng sanh, đều bình đẳng như nhau, đều có quyền tự do được sinh tồn. Mỗi chúng ta ai cũng đều ham sống sợ chết, sợ đau sợ khổ thì những loài vật cũng vậy, chúng cũng sợ hãi, đau đớn và sân hận khi bị giết hại. Thế nhưng ham ăn ngon, ăn lạ, hay thích thú ngắm nhìn cái chết của chúng để mua vui đã che lấp trí tuệ, khiến chúng ta trở nên tàn nhẫn ác độc.

Thân thể, sinh mệnh là cái quý báu nhất, vì thế mà mọi loài vô cùng sợ hãi, vô cùng đau đớn đầy phẫn nộ khi mạng sống bị tước đoạt. Tiếng kêu cứu, tiếng rên la gào thét là minh chứng trước ngưỡng cửa tử thần. Chính sự thù ghét này đi theo vòng nhân quả để rồi trả vay, vay trả không ngừng. Những ai đã từng lấy đi sinh mạng của kẻ khác thì nhân quả báo ứng sẽ đến khi có đủ nhân duyên mà không cách nào tránh né được.

Không chỉ thời Đức Phật mà ngày nay chúng ta cũng thấy rõ hậu quả của sự sát sanh, là con người khi mạng chung thường có những hành động kỳ lạ như: sủa vang như chó, đập đầu vào tường, trợn mắt hét gào, sợ nước,….
Một người có thói quen sát sanh và tư tưởng sát giết khiến họ mất đi lòng nhân từ – một tấm lòng biết yêu thương, thông cảm. Họ thường hay nóng giận, khó chịu và dùng vũ lực để giải quyết vấn đề, bởi những kẻ đồ tể thường tiếp xúc với những thú vật giết hại ghê tởm, nghe tiếng kêu cứu của loài vật hằng ngày đã làm trái tim của họ trở nên chai sạn, thấy máu me không còn sợ hãi, áp lực do tiếng ồn ào, nóng bức ở lò mổ khiến tính tình họ ngày càng trở nên hung hăng tàn bạo. Nó là một trong ba con rắn độc, là nhân của địa ngục, ngạ quỷ, súc sanh.
Sát sanh sẽ khiến tuổi thọ bị tổn giảm, thường xuyên đối diện với nhiều họa ương cho bản thân, như: tai nạn giao thông, hỏa hoạn, thiên tai, lũ lụt, bão tố,…bệnh nan y, gieo rắc khổ đau cho gia đình, đồng thời phải gánh chịu nghiệp xấu là sự bám víu của những linh hồn bị sát hại đi theo để phá phách trả thù.

Như luật Tỳ Nại Da nói: “Thuở xưa, vào thời Đức Phật tại thế, trong nước Xá Vệ có một Bà la môn, thường xuyên cúng dường Tôn giả Ca Lưu Đà Di. Bà la môn ấy chỉ có một người con, lớn lên rồi lấy vợ.

Lúc Bà la môn lâm chung căn dặn con: “Sau khi cha mất, con đối đãi với Tôn giả Ca Lưu Đà Di, như cha bây giờ, đừng khiến cho có điều gì thiếu hụt.”
Sau khi cha mẹ qua đời, người con vâng theo lời cha mẹ dạy bảo vẫn tiếp tục cúng dường Ngài, giống như thuở cha còn sống, không có gì sai khác. Sau đó vào lúc con trai Bà la môn đi ra ngoài không ở nhà, dặn dò vợ cúng dường như vậy. Hôm nọ, có năm trăm tên cướp, trong đám cướp có một tên mặt mày rất khôi ngô bảnh trai, người vợ từ xa trông thấy, cho người gọi đến, tiện dịp cùng nhau tư thông.

Tôn giả Ca Lưu Đà Di nhiều lần đi đến nhà ấy, người vợ sợ Ngài tiết lộ chuyện này cho chồng mình, nên sau đó cô cùng tên cướp tìm cách thanh toán Tôn giả.

Vua Ba Tư Nặc khi nghe tin Tôn giả bị giết hại, nhà vua nhớ Tôn giả mà lòng tức giận buồn phiền, lập tức sai chém đầu gia đình Bà la môn, và giết hại mười tám gia đình khác ở xung quanh đó, đồng thời bắt năm trăm tên cướp chém đứt tay chân ném vào trong hào thành.
Các Tỳ khưu trông thấy rồi bèn thưa với Đức Phật rằng: “Bạch Đức Thế Tôn! Tôn giả Ca Lưu Đà Di vốn tạo ra ác nghiệp gì, mà bị vợ của Bà la môn giết hại như vậy?”

Đức Phật bảo với các Tỳ khưu: “Ca Lưu Đà Di, từ quá khứ xưa kia làm chủ cúng tế đền thờ Đại Thiên, có năm trăm người dẫn đến một con dê, chặt lìa bốn chân mang đến cúng tế trời đất, mà cùng nhau cầu xin mong ước. Chủ cúng tế có được con dê rồi lập tức giết chết. Bởi vì giết chết con dê cho nên đọa vào địa ngục nhận chịu vô lượng khổ đau. Chủ tế lễ xưa kia nay chính là Ca

Lưu Đà Di, tuy đạt được quả vị La Hán nhưng ương họa còn lại chưa sạch, nay phải nhận quả báo này. Con dê lúc ấy nay chính là vợ của Bà la môn, năm trăm người chặt lìa chân dê xưa kia chính là năm trăm tên cướp bị nhà vua chặt đứt tay chân hôm nay”.

Rồi Đức Phật kết luận: “Nếu người giết hại, thì quả báo phải nhận chịu trở lại không bao giờ sai lệch”.

Quả báo chính:
Vui cười giết hại các vật mạng,
Đọa vào địa ngục gào thét vang.
Nước dơ hôi thúi sôi sùng sục,
Xối ập lên thân xương thịt tan.
Hoặc tránh núi đao rơi hầm lửa,
Hố rắn rừng gươm khổ vô vàn.
Muôn ngàn vạn kiếp nhận báo ứng,
Thống thiết đau thương chẳng nghĩ bàn!

Quả báo phụ:
Sát sanh phải đi vào nẻo dữ,
Nhận chịu hình phạt ba đường xong.
Được sanh làm người thọ mạng ngắn,
Ngục tù xiềng xích chẳng thong dong.
Đau ốm triền miên thật khốn đốn,
Mãi trả vay nơi cõi bụi hồng.
Nếu có từ bi và trí tuệ,
Giết hại chúng sanh há đành lòng?

*Thời nhà Lương, có người thường lấy lòng trắng trứng gà hòa với nước để gội đầu, nói là làm cho tóc sáng bóng. Mỗi khi gội đầu thì đạp vỡ hai, ba mươi quả trứng. Người ấy đến lúc lâm chung chỉ nghe trong đầu tóc phát ra tiếng chiếp chiếp của hàng ngàn con gà con.

*Thời nhà Lương ở vùng Giang Lăng có người họ Lưu, lấy việc bán lươn làm nghề sinh sống. Sau đó sanh ra một người con, đầu là đầu con lươn, từ cổ trở xuống mới là thân người mà thôi.

*Thời nhà Đường ở vùng Kinh Triệu có Ân An Nhân là người giàu có, xưa nay tôn thờ vị Tăng ở chùa Từ Môn.

Một hôm, có khách đến nhà và xin ở lại nghỉ qua đêm. Khách trộm con lừa của người ta đến nhà ấy giết thịt da lừa thì vứt sau vườn nhà ông.

Đến năm Trinh Quán thứ ba, An Nhân liền gặp một người ở đường đi, nói với ông rằng: “Truy tìm ông mãi khiến ngày mai đến, ông phải chết thôi”.

Ông biết đây là quỷ vô cùng sợ hãi đi thẳng đến chùa Từ Môn, ngồi trong điện Phật suốt đêm không ra ngoài. Sáng hôm sau, quả nhiên trông ra ngoài thì thấy có ba người cưỡi ngựa và mấy chục người lính đi bộ, đều mang theo vũ khí đi vào, nhưng họ đều dừng lại ở bên ngoài chùa, từ xa liền gọi ông ra. An Nhân không trả lời mà cứ tụng niệm càng nhất tâm khẩn thiết.

Quỷ nói với nhau rằng: “Hôm qua không chịu bắt ngay, hôm nay ông ta đã tu phước như vậy, làm sao có thể bắt được”. Vì vậy cùng nhau bỏ đi, để lại một người canh giữ.

Người canh giữ nói với ông rằng: “Ngày trước ông giết con lừa, nay con lừa tố cáo ông, khiến chúng tôi đến bắt giữ ông, cuối cùng cần phải đối diện với nhau, không đi nào có ích gì?”

Ông từ xa đáp rằng: “Ngày trước người ta ăn trộm và tự giết con lừa, chỉ để lại tấm da cho tôi mà thôi, vốn không phải tôi giết, tại sao lại bị truy tìm? Nhờ ông trở về nói với con lừa giúp tôi, tôi vốn không giết nó, mà nay còn làm phước giúp nó, có lợi cho nó, nên bỏ xa tôi đi!”.

Người này hứa hẹn rằng: “Nếu con lừa không đồng ý, thì ngày mai tôi lại đến, nếu như con lừa đồng ý thì không đến nữa”.

Nói xong rồi, quỷ bèn đi ra. Ngày kế, không thấy đến nữa. Từ đó ông và cả nhà ăn chay giữ giới cẩn thận hơn nữa.

Cái chết của Thượng tướng Diệp Kỳ

Quế Lâm là một nơi có phong cảnh rất đẹp thuộc tỉnh Quảng Tây; chủ nhiệm tỉnh bộ là Lý Tông Nhân, phó chủ nhiệm là Bạch Sùng Hy, thượng tướng Diệp Kỳ là tham mưu trưởng.

Trong một căn nhà nhỏ thuộc khu bình dân ở gần thị tứ, bà Tô sống với hai con nhỏ là Ngọc Vân và Bích Vân. Bà Tô là một người đàn bà hiền thục, thích giúp đỡ mọi người; chồng bà là Tô Tiểu

Võ là một binh sĩ thuộc ngành truyền tin, là một đệ tử của Lưu Linh.

Một trưa chủ nhật, bà Tô đang may vá, Ngọc Vân đang học bài, Bích Vân đang chơi bóng, Tiểu Võ như cuồng cẳng đi đi lại lại trong phòng, bỗng bảo vợ:

-Anh ra ngoài phố chơi, thuận tiện sẽ mua óc heo về, mình cứ nấu cơm sẵn, đợi anh về sẽ làm món nhậu chơi.

– Hàng ngày anh ít về nhà, ngày chủ nhật hãy ở nhà nghỉ ngơi cho khỏe. Bữa chiều đã có sẵn mấy món rau dưa và đậu phụ. Óc heo thì em và các con đều không dám ăn đâu, đừng mua.

– Mình đừng cố chấp. Ngọc Vân đã đi học, Bích Vân cũng sắp đi học; ăn óc heo bổ óc, thông minh biết không?

Ngọc Vân chen vào :

– Bố, đừng mua óc heo, mua bút chì cho con!

Bích Vân cũng nói leo :

– Bố, con không muốn óc heo, con muốn ăn kẹo cơ!

– Ngọc Vân! Con cố học đi bố sẽ mua bút chì cho con; còn Bích Vân, ăn óc heo ngon hơn ăn kẹo con ạ!

Tiểu Võ không nghe lời vợ con, cứ đi ra phố.

Tiểu Võ đi quanh quẩn một vòng, qua tiệm rượu bị mùi thơm quyến rũ bèn vào kêu một đĩa thịt nướng và hai bình rượu. Nhậu nhẹt xong, dường như vẫn chưa thỏa còn mua thêm hai bình rượu đem về, lại ghé qua hàng thịt để mua óc heo. Rượu bốc lên cảm thấy nóng, Tiểu Võ mũ đội lệch ra đằng sau, áo cởi khuy phanh ngực, tay trái cầm hai bình rượu, tay phải chỉ đầu heo bảo đồ tể :

– Lão bản, bán cho ta một bộ óc heo!

Đồ tể ngửi thấy mùi rượu nồng nặc đã phát ghét trong bụng, nhưng thấy là binh sĩ nên ông hạ giọng nói nhỏ nhẹ:

– Đồng chí, đầu heo, óc heo đều có người đặt mua rồi, muốn mua óc heo, ngày mai trở lại.

Thật làm mất hứng, Tô Tiểu Võ trợn mắt, giằng lấy dao chém phăng vào đầu heo:

– Lão tử hôm nay nhất định phải mua, ngươi thấy sao hả?

Đồ tể cũng nổi giận, hai người tranh cãi náo loạn. Bỗng một con tuấn mã phi tới, từ ngựa nhẩy xuống một vị tướng quân. Ai Vậy? Đó chính là thượng tướng tham mưu trưởng Diệp Kỳ. Nguyên lai ông đi qua chợ thấy một binh sĩ đầu đội mũ không chỉnh tề, áo lại phanh ra, tay trái cầm bình rượu, tay phải giơ đồ đao tranh cãi với người dân. Do đó bèn xuống ngựa để hỏi chuyện. Tô Tiểu

Võ dĩ nhiên là nhận ra ông tướng của mình, vội sửa lại mũ, bỏ rượu và đao xuống bàn, đứng ngây ra đó. Diệp Kỳ đưa mắt nhìn Tiểu Võ từ đầu đến chân, rồi lại nhìn đồ tể, trầm giọng hỏi :

– Chuyện gì vậy?

Đồ tể bèn thuật lại đầu đuôi. Diệp Kỳ nghĩ bụng : cầm binh thì không thể hiền, giàu có thì khó mà giữ nghĩa. Đây chính là cơ hội ra oai quân kỷ; mặt lạnh như tiền bảo đồ tể :

– Ta là tham mưu trưởng đây, ngươi giám giết hắn không, ngươi cứ giết đi, ta hoàn toàn chịu trách nhiệm.

Đồ tể giơ đồ đao lên. Tiểu Võ mắt hoa lên, quỳ xuống:

– Xin tham mưu trưởng thứ tội, vợ con tôi đang chờ tôi về ăn cơm, nào ngờ tôi…

Tiểu Võ nghẹn ngào không nói ra lời.

Đồ tể lên giọng trêu đùa:

– Ngươi sợ chết sao? Quân nhân như ngươi đánh trận gặp địch quân lại quỳ đầu hàng ư?

Diệp Kỳ nổi giận, hướng về phía đồ tể hét lớn:

– Giết!

Đồ tể cất tiếng:

– Uy phong của mày nãy giờ đâu rồi? Sao bây giờ mày lại tỏ ra hèn mạt thế? Để ta thành toàn cho mày!

Nói xong bèn lia một nhát dao; đầu Tiểu Võ rớt xuống, máu chảy lênh láng. Con ngựa hý vang, Diệp Kỳ nhẩy lên lưng nó phóng đi, về tới dinh sai người tới thâu thi thể.

Lại nói về bà Tô nấu xong cơm chiều, đợi mãi không thấy chồng về. Các con kêu đói bụng, đành phải cho con ăn trước, trong bụng không yên ra ngoài cửa nghe ngóng. Thấy nhiều người tụ họp, lại thấy lão Lý bán rau đang nói chuyện với vợ chồng Vương tiên sinh hàng xóm. Mọi người đều trợn tròn mắt, chăm chú nghe lão Lý nói. Bà Vương thấy bà Tô đến bèn đưa mắt cho lão Lý, lão Lý liền ngậm miệng lại. Mọi người đều nhìn bà Tô, khiến bà nghĩ chắc chồng mình có chuyện gì rồi.

Bà Vương lên tiếng:

– Bà Tô, bà đợi ông nhà về ăn cơm có phải không?

Bà Tô gật đầu.

– Muộn quá rồi, chắc ông ấy phải vào trại, bà hãy về ăn cơm đi!

Bà Tô trở về nhà, bỗng có hai binh sĩ khiêng một tấm ván trên đặt thi thể Tiểu Võ. Một vị sĩ quan tay cầm hai bình rượu mà Tiểu Võ đã mua đi theo phía sau, do hàng xóm chỉ, dẫn đến nhà Tiểu

Võ. Ngọc Vân và Bích Vân đều khóc lớn. Vị sĩ quan hướng về bà Tô nói rõ sự tình và đưa ra một phong bao.

– Đây là tiền để lo việc ma chay, chỗ còn lại để nuôi dưỡng 2 cháu.

Nói rồi dẫn 2 binh sĩ đi. Bà Tô nhận tiền không bi thương khóc lóc, đứng yên bất động. Hàng xóm xúm lại an ủi nhưng bà dường như không nhìn, không nghe gì cả. Rất lâu, bà mang bao tiền giao cho Vương tiên sinh:

– Nhờ ông lo giùm!

Nói rồi ngất đi, mọi người dìu bà về phòng.

Vương tiên sinh thấy tình cảnh bi thảm như vậy không thể khoanh tay; hàng xóm cũng giúp vào, người lo mua quan tài, người sửa soạn tang phục v. v… Tất cả đều sẵng sàng đợi sáng hôm sau sẽ an táng.

Bà Vương kéo Ngọc Vân ra dặn riêng:

– Hôm nay con phải coi chừng mẹ, nếu thấy có gì lạ phải kêu ta và Vương bá bá, nghe không!

Ngọc Vân gật đầu.

Lúc gần sáng, bà Vương nghe tiếng Ngọc Vân và Bích Vân khóc gọi mẹ, hai vợ chồng vội chạy sang thì thấy Ngọc Vân và Bích Vân ôm nhau mà khóc nhưng không thấy bà Tô đâu cả. Hàng xóm đều thức dậy, chia nhau đi tìm khắp nơi, các giếng nước, bờ sông đều không thấy tông tích bà Tô. Vương tiên sinh chỉ còn cách an táng Tiểu Võ và nuôi dưỡng hai đứa nhỏ.

Vài tháng sau, một sáng đồ tể sửa soạn đồ nghề chuẩn bị ra chợ sớm, bỗng nghe có tiếng mõ, rồi một ni cô đến khuyến hóa :

– Thí chủ, xin bố thí kết duyên!

Đồ tể đưa tiền, ni cô lắc đầu. Đồ tể đưa gạo ni cô cũng lắc đầu.

– Vậy cô muốn sao?

– Xin thí chủ bố thí đồ đao .

– Người xuất gia không ăn thịt, cô dùng đồ đao làm chi?

– Xin thí chủ buông đao, cải nghiệp đừng sát sanh nữa.

– Thịt tại trước mắt còn Phật ở Tây Phương, cô muốn cả nhà tôi chết đói sao?

– A Di Đà Phật! Thịt ở trước mắt, Phật ở trong tâm.

Ni cô gõ mõ rồi đi. Ni cô đi rồi, người chung quanh bảo đồ tể:

– Vị ni cô vừa rồi là vợ của Tiểu Võ bị ông giết đó.

– Ái chà! Chả trách cổ muốn đồ đao, thì ra muốn báo thù cho chồng. Nếu ta đưa dao cho cổ chắc mạng ta không còn.

Đồ tể nói rồi xoa đầu, ra chợ tiếp tục mua bán.

Vị ni cô thì thành tâm muốn ông sám hối, nhưng ông thì lại nghĩ là trả thù! Đúng là sự nhầm lẫn quá đỗi!

Đến trưa có một người đến mua giò heo. Đồ tể giơ đao lên chặt chân heo. Bỗng nghe tiếng ngựa hý, kinh tâm động phách. Ngẩng đầu lên coi thì thấy con tuấn mã dựng đứng 2 chân trước hất người cưỡi chân chổng lên trời, đầu chúc xuống đất. Người đó là ai? Chính là Diệp Kỳ. Nguyên lai Diệp Kỳ cưỡi ngựa qua đó, con ngựa lần trước thấy đồ tể giết người làm cho sợ hãi, lần này lại thấy đồ tể vung đao lên nên hoảng kinh tưởng đồ tể lại giết người nên cất vó hý lên hất Diệp Kỳ xuống. Đồ tể thấy ngựa chồm tới vội vất dao xuống bàn chạy tránh, chẳng dè hấp tấp xô vào bàn, con dao văng vào cổ đứt lìa chết tốt. Còn Diệp Kỳ thì ngã ngựa đầu bị chấn thương cũng mất mạng. Không lâu, báo chí đăng bộ tư lệnh bổ nhiệm Lý Tiên Châu thay thế Diệp Kỳ. Chuyện này ở

Quế Lâm không ai không biết.

Vụ án cô gái bị chôn ngồi trong thùng phi

Anh Hưng là đội trưởng đội bảo vệ nhà máy bột mì Miền Đông, trụ sở đặt tại quận 6, Sài Gòn. Từ ngày trở về nhận việc ở đây, không đêm nào anh kê cao gối ngủ. Mỗi đêm anh đều mơ thấy một người thiếu phụ nhỏ nhắn, áo trắng quần đen tìm đến tâm sự. Có khi cô còn nói rằng mình thèm ăn đậu phọng luộc, xin anh cúng cho.

Cho đến một đêm cuối năm 1978, giữa tiết trời oi nồng, anh lại mơ thấy người thiếu phụ nọ. Lần này cô không xin đậu phọng nữa mà chỉ muốn nhờ anh giúp cô dọn nhà. Cô cho biết chỗ ở lúc này nóng quá, cô không chịu nổi. Trong mơ anh bèn hỏi người thiếu phụ rằng: “Nhưng tôi nào biết nhà cô ở đâu mà chuyển giúp?”

Người thiếu phụ trả lời: “Nhà tôi ở ngay gần đây, trong cái thùng phi trồng cây sống đời ở trên sân thượng. Anh cứ lên sẽ thấy”.

Rồi như có một thế lực vô hình nào đó dẫn anh bước ra khỏi giường, lần mò qua những bậc cầu thang, lên tận sân thượng. Cứ đi mãi, đi mãi, cho đến lúc va mình vào cửa sân thượng anh mới giật mình tỉnh dậy, bàng hoàng nhận ra mình vừa bị mộng du, và vừa được người thiếu phụ dẫn tới thăm nhà của cô.

Là người bạo gan, ngay sáng hôm sau, anh đã mở cửa ra sân thượng để tìm thùng phi trồng cây sống đời đúng như trong giấc mơ chỉ dẫn. Và đúng thế thật, anh đã thấy một thùng phi to đổ đầy đất trồng cây sống đời, để ở chỗ nắng nhất trên sân thượng. Chỉ vài nhát xẻng đào đất trong thùng phi anh đã nhìn thấy bộ xương người chôn trong đó.
Sau khi nhận thông tin từ anh Hưng – rằng có một xác chết chôn trong thùng phi trồng cây sống đời, Công an quận 6 đã phong tỏa và bảo vệ hiện trường, đồng thời mời bác sĩ pháp y Nguyễn Thanh Tuyền, khi đó là Giám định viên trưởng Tổ chức giám định Pháp y Thành phố Hồ Chí Minh đến để khám nghiệm tử thi.

Ông Nguyễn Thanh Tuyền kể lại: “Khi tôi đến thì thấy xác chết đã phân hủy nhiều, bị chôn ở tư thế ngồi. Những năm đó, quần áo pha nhiều nilon nên chưa phân hủy. Vì vậy, qua chiếc quần đen và áo trắng của nạn nhân tôi nhận định đây là một nạn nhân nữ.

Sau khi đo khoảng cách tỷ lệ xương tôi xác định người phụ nữ này khoảng 23 tuổi, cao khoảng 1,5 mét, dáng người nhỏ nhắn. Người phụ nữ này đang mang thai vì tôi thấy cả hài cốt của thai nhi”

Người phụ nữ này là ai, vì sao lại bị giết một cách dã man khi đang mang thai như vậy – tất cả là những câu hỏi làm điên đầu cơ quan điều tra. Để giúp cơ quan điều tra tìm ra tung tích nạn nhân, bác sĩ pháp y đã làm bản mô tả và căn cứ trên đó cơ quan công an đã phát đi thông báo tìm gia đình nào có nạn nhân nữ khoảng 23 tuổi, cao khoảng 1,5 mét, dáng người nhỏ nhắn, đang mang thai giống như vậy mà đang bị mất tích.

Bản thông báo phát ra, xuống từng ngóc ngách của địa bàn nhưng đã nhiều ngày trôi qua mà không thấy một ai đến báo tin. Các điều tra viên thất vọng tưởng như vụ án đi vào ngõ cụt, thì bỗng một buổi chiều có người phụ nữ tên Trần Thị Hồng tìm đến công an quận 6 để trình báo.

Người phụ nữ này cho biết, đầu năm 1978, gia đình chị có một người con gái tên Nguyễn Thị Mai 22 tuổi đi khỏi nhà và từ đó không thấy trở về. Vì dạo ấy, người đi vượt biên rất nhiều nên gia đình nghĩ cô Mai bị bạn bè rủ rê bỏ nhà đi vượt biên nên không báo với cơ quan công an.

Khi gia đình nhận được thông báo của Công an quận 6, so sánh thấy nhiều đặc điểm giống con gái mình như dáng người, độ tuổi và đặc biệt là bộ quần áo giống với ngày con gái mặc đi khi bị mất tích, nên đã quyết định đến cơ quan công an để trình báo.

Cũng theo lời của chị Trần Thị Hồng thì trước khi mất tích, con gái chị có yêu một người làm Phó Chủ tịch phường. Trụ sở của phường đóng tại địa điểm mà hiện nay đang là nhà máy bột mì.

Sau khi Ủy Ban Nhân Dân phường chuyển đi, sau nhiều lần chuyển giao cho các cơ quan khác nhau, cuối cùng thì nhà máy bột mì tiếp quản và trở thành trụ sở của nhà máy.

Tiếp nhận thông tin từ chị Trần Thị Hồng các điều tra viên mừng như bắt được vàng vì từ chỗ vụ án tưởng như đi vào ngõ cụt, manh mối đã dần hé mở để trả lời câu hỏi nạn nhân là ai, vì sao lại bị giết một cách dã man khi đang mang thai như vậy, vốn đang làm điên đầu cơ quan điều tra và dư luận hết sức quan tâm.

Khi lượng lực công an tung các điều tra viên đi xác minh nhiều hướng, cơ quan điều tra đã thu thập được thông tin khi Ủy Ban Nhân Dân phường đóng ở đây có một người tên là Nguyễn Tấn

Phong là Phó Chủ tịch. Người này một thời gian dài có quan hệ yêu đương với một cô gái trẻ. Nhưng gần đây thì mọi người thấy anh ta không qua lại gì với cô gái đó, mà lại sắp cưới vợ là một cô gái quê ở Bến Tre.

Xác định Nguyễn Tấn Phong có thể là nghi can số một trong vụ án, tuy nhiên vì thời điểm đó đối tượng đang giữ một vị trí quan trọng trong cơ quan nhà nước nên cơ quan công an tập trung điều tra thu thập chứng cứ thật đầy đủ rồi mới mời đối tượng lên làm việc về vụ mất tích của cô Nguyễn Thị Mai

Dường như, có tật giật mình, đối tượng Nguyễn Tấn Phong tỏ ra bối rối và có nhiều điều bất minh trong lời khai và trước những chứng cứ không thể chối cãi đã phải cúi đầu nhận tội.

Tại cơ quan điều tra, kẻ thủ ác khai nhận, trước khi quen cô Mai anh ta đã có người yêu ở Bến Tre. Tuy nhiên do hai người ở xa nhau nên khi quen Mai, thấy Mai xinh xắn mà lại tỏ ra thích mình nên anh ta xác định quen để lấp chỗ trống đỡ buồn. Nhưng sau một thời gian hai người qua lại, Mai thông báo đã có thai và đề nghị cưới gấp.

Tất nhiên là Phong không thể nào cưới Mai vì đã định ngày cưới với cô người yêu ở Bến Tre, nhưng Phong cũng không dám nói ra sự thật này với Nguyễn Thị Mai vì sợ cô sẽ làm ầm ĩ ảnh hưởng đến vị trí công tác. Suy nghĩ tìm cách giải quyết, Nguyễn Tấn Phong nảy sinh ý định giết Mai để bịt đầu mối.

Mùa xuân năm 1978, nhân việc phát động lễ trồng cây, trong vai trò là Phó Chủ tịch phường Nguyễn Tấn Phong đã yêu cầu cấp dưới mang một thùng phi lớn đổ đầy đất đặt lên sân thượng của cơ quan để trồng cây sống đời.

Lấy lý do cây sống đời ưa nắng, Phong yêu cầu phải đặt thùng phi ở chỗ nắng nhất của sân thượng, với hy vọng dưới sức nóng của mặt trời cái xác chôn trong thùng sẽ nhanh phân hủy. Thu xếp mọi việc xong xuôi, tối hôm đó Phong rủ Mai đến trụ sở làm việc để nói chuyện. Không nghi ngờ gì người yêu và khấp khởi nghĩ đến ngày thành vợ thành chồng, hạnh phúc với đứa con trong bụng, Mai trong bộ trang phục quần đen, áo trắng đã tìm đến gặp Phong.

Lợi dụng lúc Mai không để ý, Nguyễn Tấn Phong đã siết cổ Mai đến chết và đem xác lên sân thượng bỏ vào thùng phi trong tư thế ngồi rồi lấp đất trồng cây sống đời lên trên…

Kể lại cho phóng viên câu chuyện giấc mơ báo mộng này, dù vụ án trôi qua đã gần 40 năm nhưng ông Nguyễn Thanh Tuyền nguyên Giám định viên trưởng Tổ chức Giám định Pháp y Thành phố Hồ Chí Minh vẫn rất nhiều xúc cảm, ông nói: “Tuy những điều kỳ lạ trên nằm ngoài hồ sơ vụ án, và cũng không ai có thể lý giải được vì sao lại như thế, nhưng đúng là cuộc đời này “ân đền, oán trả”, “lưới trời lồng lộng tuy thưa mà khó thoát!”

Con rùa đến đòi mạng

Ngô Linh là người giàu nhất trong vùng. Gia tài có hàng trăm vạn và ông sống rất xa hoa.

Con của ông cũng ham ăn chơi. Ðúng là cha nào con nấy. Hằng ngày ông thích ăn những món ngon vật lạ. Một hôm nhà họ Ngô chuẩn bị tổ chức một bữa tiệc thịnh soạn, người đầu bếp ra chợ mua được một con rùa rất lớn. Tên đầu bếp nói: “Loại rùa này khó kiếm nhưng thịt rất thơm ngon!”.

Người nấu bếp mài dao bén để sửa soạn làm thịt con rùa. Nhưng khi sắp đem đi giết thì con rùa bỗng nhiên rơi lệ, tỏ ý muốn xin tha mạng.

Người đầu bếp liền hạ con dao xuống và thưa với ông Ngô về con rùa kỳ lạ này: “Tôi không thể giết con rùa được khi nó khóc lóc xin tha mạng sống”.

Ông ta nổi giận mắng nhiếc: “Ðồ ngu! Mày không dám giết nó hả? Mày đưa con dao cho tao. Nếu mày sợ thì để tao làm thịt nó cho”.

Ông liền cầm con dao bén xông vào nhà bếp. Khi nhìn thấy con rùa lớn đang nằm rơi lệ, ông không có một chút động lòng thương hại. Tay cầm dao, và nhanh như chớp, ông chặt đầu con rùa lìa khỏi cổ. Vì chặt quá mạnh, cho nên đầu con rùa đã bay lên dính mắc trên đòn dông mái nhà.

Ông nói với người đầu bếp: “Thôi được, không sao! Mày nấu phần còn lại để chiều nay dọn món thịt rùa cho tao thưởng thức”.

Tối hôm đó, cha con ông thích thú dùng món thịt rùa, nhưng họ chỉ mới ăn được có vài miếng thì người con cảm thấy mặt mày choáng váng. Anh ta nhìn lên và kêu thất thanh. Anh chỉ cái đòn dông và la hét “Trông kìa, có một con rùa bự ở trên đòn dông!”

Ông nói: “Tao không thấy cái gì hết”.

Người con vẫn kêu la: “Ôi chao! Hãy đi đi! Chúng bây đi chỗ khác. Những con rùa bu lại cắn con. Ba ơi, cứu con với! Chúng xúm lại cắn con!”

Ông hỏi: “Cái gì cắn mày? Tao chẳng thấy gì ở đây cả!”

Người con đáp: “Những con rùa. Có hàng trăm con đến bu khắp mình và chúng đang cắn con. Hãy giúp con với ba!”

Cậu con nhào lộn trên nền nhà, chân vừa đá vừa kêu la thảm thiết, nhưng không một ai thấy chi cả.

Người con vẫn kêu than: “Vô số rùa xúm lại cắn vào chân tôi, đau… Ôi đau quá! Bà con đến cứu tôi với!”

Nhưng không ai có thể giúp được gì cho anh ta cả, vì họ không thấy những con rùa đang đến trả thù đòi lấy mạng sống của anh. Ba ngày sau, người con của ông đã chết một cách đau đớn.

Mọi người nên nhớ rằng chúng ta hoàn toàn chịu trách nhiệm việc làm thiện và ác của mình. Nếu các bạn không muốn ai gây đau khổ cho mình thì quý vị cũng đừng bao giờ tạo sự khổ đau cho kẻ khác.

Hiếu khách sát sanh, hắc khí biểu thị tai hoạ

Một người họ Hứa nọ ở Ngọc Phong, Côn Sơn, Giang Tô, giàu có và hiếu khách, ăn uống cốt phải thịnh soạn, vì vậy giết hại không biết bao nhiêu sanh mạng mà tính. Năm Thuận Trị thứ 2 (1645), nhà bếp bỗng nhiên có khói đen, lớn như bánh xe bay quanh sân nhà một vòng rồi tản mất. Không bao lâu, lính nhà Thanh đánh chiếm toàn thành, 44 người trong nhà đều bị giết sạch.

Lời bàn: Nhà bếp của những người giàu có, là chỗ tụ tập của oán thù sâu nặng. Không gian tuy chỉ vài chục mét vuông, nhưng những tiếng kêu bi thương, hy vọng được cứu, thường là ở đây; động vật mẹ con chia lìa, thường là ở đây; bị cắt cổ nhổ lông, moi tim lột da, thường là ở đây. Tích luỹ thời gian lâu, sẽ xuất hiện khắp nơi tiếng khóc bi thương đầy oán hận, tiếng kêu sầu thảm thâu đêm của ác quỷ. Có khi chúng hiện hình những thi thể không đầu, có khi chúng hiện hình toàn thân máu me, có khi chúng hiện hai mắt kín mít, hai mắt lồi ra, có khi chúng hiện hình đi lắc lư, hai tay vẫy vẫy. Có đứa cười khanh khách miệng phun đầy máu, có đứa khóc hu hu nhận chịu khổ đau. Đứa nào cũng nghiến răng, đấm ngực, nhe nanh múa vuốt, muốn đối đầu với oan gia mới cam tâm. Do đó thần linh trong trời đất, quỷ thần qua lại giám sát, đều đã ghi tên lên cuốn sổ tạo ác nghiệp, lúc sống sẽ phải gặp đủ các tai họa, sau khi chết đọa lạc ba đường ác, không ai cứu được. Xem đó, nhà bếp chẳng lẽ chẳng phải là chỗ tụ tập oan nghiệp lớn hay sao? Các nhân sĩ hiếu khách, xin chớ giẫm lên vết xe đổ này!

Báo ứng của việc sát sanh hại vật

Đới Đại Phan ở vùng Tô Châu là chủ nhân của quán “Thiên Ngư miến” y vốn là con người tự tung tự tác, tàn nhẫn, ưa giết hại. Sự kinh doanh hàng quán của y sở dĩ đắc khách hơn so với quán khác là vì y có một nghệ thuật nấu nướng rất độc đáo. Y đem lươn bỏ vào một cái nồi bằng sắt, đặt cái nồi ấy lên trên bếp rồi chưng, thế rồi y dùng máu của lươn đem trộn với bột mì hương vị thật thơm ngon.

Đới Đại Phan vừa tính toán vừa cười khanh khách, nói: “Thu nhập ngày càng khấm khá nhỉ?

Con trai y là Đới Đại Hỷ nói: “Ba ơi, chúng ta đổi nghề khác đi ba, cái nghề này sao mà tàn nhẫn quá!”

– Cái thằng nhỏ u mê kia chẳng phải tiền vô nườm nượp là gì? Còn mong thứ gì nữa? Đi đi! Đổi nghề gì nào? Đổi nghề khác thì có được nhiều lợi như thế này không? Toàn là ăn nói hồ đồ!

Thế rồi, năm tháng trôi qua. Một ngày kia, người cha đi đâu không thấy về, Đới Hỷ men theo bờ sông đi tìm kiếm cha.

Đột nhiên, Đới Hỷ đau đớn kêu thảm thiết: “Ôi! Cha ơi!”

Thế là người ta chỉ thấy cái thây của Đới Đại Phan trôi tấp vào bờ, trên thân hàng vạn con lươn đeo bám xung quanh.
Trên bờ sông, vô số người kéo nhau đến xem, không ai là không kinh hãi, cùng nhau bàn tán xôn xao. Đúng là nhân nào quả nấy!

Làm việc ác thì phải gặt lấy quả xấu, đó là điều tất nhiên như câu truyện trên. Nhân quả báo ứng ví như vỗ hai bàn tay vào nhau sẽ phát ra tiếng, tiếng đó là tự nhiên mà có, định luật nhân quả cũng vậy.

Nếu gieo nhân lành thì chúng ta sẽ gặt quả báo lành. Nếu làm ác thì bị ác báo. Không làm không có. Nhân nào quả nấy, nhân quả rất công bằng, người xưa thường nói: “Thiện có thiện báo, ác có ác báo”. Nếu chưa có quả báo là do chưa đủ duyên. Người làm thiện chưa hưởng thiện báo, bởi vì thời gian chưa đến, song nhất định sẽ có quả báo. Vì vậy, mà ta không nên nản chí, thối tâm cho rằng trời bất công. Trời Phật không có thưởng phạt ai hết. Nhân quả là định luật tự nhiên do sự sinh tồn của vạn vật mà tự tạo ra nó. Nếu ban thưởng được thì Phật từ bi sẽ cho mình sự hạnh phúc và bình an hết rồi, mình đâu còn khổ nữa, đâu phải cứu độ mọi người làm chi cho mệt mỏi.

Nếu chúng ta làm việc ác thì dù có bay lên trời, trốn trong núi cao, lặn xuống biển sâu đều không thể trốn thoát được. Khi nghiệp báo đến rồi thì phải chịu báo ứng do mình tạo. Chúng ta không thể oán trách hay cầu xin ai được, ai làm nấy chịu và không ai có thể thay thế tội cho nhau được, mình làm thì mình phải chịu. Nhân quả công bằng là vậy! Vì thế, chúng ta nên cẩn thận khi hành động và suy nghĩ để không bị những ác báo khổ đau cho mình.

Việc thiện nhỏ chớ bỏ
Việc ác nhỏ chớ làm
Nhân quả luôn công bằng,
Xưa nay vẫn đúng hết,
Không bao giờ sai lệch.

 2/-  Đạo Tặc

Thọ nghiệp đeo mang xác thân trong sáu nẻo, không loài nào không lấy tham dục làm nguồn gốc; tiếp nhận hình hài do tinh cha huyết mẹ, bất cứ ai ai cũng lấy tiền tài làm căn bản. Tuy rằng người người mặt mày mập ốm cao thấp sang hèn ngu trí giàu nghèo… khác nhau, nhưng mà tham tài tiếc lợi hoàn toàn y hệt. Thế nên đứng trước tiền của tùy tiện có được, chẳng gọi là người trí thức; trông thấy bạc vàng quên hết nghĩa tình, không phải là người hiền đức.

Vả lại, hết thảy ngọc ngà cửa nhà sang trọng, xe tàu bóng lộng , ruộng vườn cò bay thẳng cánh là cái nương cậy bên ngoài; Tin sâu nhân quả hiểu rõ thế sự vô thường, một lòng mong mỏi cầu về Tây Phương, để ra khỏi luân hồi là của báu thù thắng bên trong; Lý nên tỉnh ngộ! Nếu nghèo thì mình nên tùy hỷ với người giàu có, há vì sự nghèo khổ túng thiếu mà sanh tâm tham lam giành lấy tài sản của người ư? Giả như, biết tội lỗi của trộm cướp, thì hãy rán răn chừa sống đời sống công bình chánh đáng ắt hẳn sẽ thơm tho thanh bạch!

Vì vậy, cơm bữa sáng không chỗ nương nhờ, ngủ buổi tối không nơi gởi gắm, như chim dừng cánh hươu nương náo bìa rừng, thân thể trần trụi nằm co quắp bên lề đường, tháng ngày cứ mãi lang thang tìm phương kế sinh nhai. Liền khiến cho con theo ngựa Hồ phi về phương Bắc, mẹ theo đàn én di tản về Nam, vợ tợ nước dòng sông hối hả chảy về biển Đông, chồng như mặt trời bươn bả lặn bóng về non Tây; không có ai trông về cố hương mà chẳng đứt ruột đau lòng, nhớ nơi chôn nhau cắt rốn mà nước mắt đầm đìa lệ tuôn xối xả, bụng dạ buồn đau mặt mày ủ dột!

Khổ sở như thế, đều do nhân ở đời trước keo kiệt đã không bố thí, lại trộm cướp dối trá lường gạt mà ra. Do đó trong kinh nói: “Muốn biết nhân quá khứ, hãy nhìn quả hiện tại; muốn biết quả vị lai, khá nhìn nhân hiện giờ”. Bởi vậy, nên khuyên nhủ mọi người cố gắng đừng dấy tâm trộm cướp, thậm chí gặp của rơi lòng dạ cũng vẫn an định bình thản như nhiên, chẳng chút động tâm!

Kinh Tăng Nhất A Hàm nói: “Nếu kẻ trộm cướp đồ vật bị chủ nhân bắt trói giao cho nhà vua trị tội. Nhà vua lập tức sai người nhốt vào lao ngục, hoặc cắt đứt tay chân, hoặc xẻo mũi móc mắt, hoặc dùng gươm đao chém chặt, hoặc bắn tên… Giết chết bằng các loại đau khổ cùng cực như vậy, chỉ vì phạm tội trộm cướp.

Vì nhân duyên của ác nghiệp này, sau khi mạng chung sanh vào trong địa ngục, lửa dữ đốt cháy trên thân, nước đồng sôi rót vào miệng, vạc dầu lò than, núi đao rừng kiếm, địa ngục tro bụi, địa ngục hầm phân, đàm giải,… giày vò nung nấu, nhận chịu đủ loại đau khổ như vậy, chua xót khổ sở đớn đau không thể kể xiết, trăm ngàn vạn năm không mong gì thoát ra được.

Tội của địa ngục kết thúc thì sinh vào trong loài súc sanh làm thân voi, ngựa, lừa, la, trâu, bò, lạc đà… trải qua trăm ngàn năm dùng sức lực để đền trả nợ cũ cho người.

Tội của súc sanh kết thúc thì sinh vào trong loài ngạ quỷ, đói khát khổ não không thể nói hết. Ngay cả tên gọi của nước mà còn được không nghe nhắc đến, trải qua trăm ngàn năm nhận chịu khổ đau như vậy.

Tội trong ba đường ác kết thúc thì sanh vào giữa loài người.

Khi sanh trong loài người thì phải chịu hai loại báo ứng:

1- Bần cùng, áo không che kín thân, cơm không đủ nuôi miệng;

2- Thường bị vua-giặc-nước-lửa và con hư cướp đoạt những của cải mà mình đang có được”.

Quả báo chính:
Tham lam trộm cướp vào địa ngục,
Núi kiếm non đao bị ném vào.
Chim rắn hùm beo răng bén nhọn,
Mổ não xé tim vang thét gào.
Dùng nước đồng sôi rót vô miệng,
Chạy khắp đông tây thoát đặng nào!
Chày sắt gậy sắt đập thân nát,
Trãi nghìn muôn kiếp chịu khổ đau.

Quả báo phụ:
Trộm cướp đã gây nhận quả báo,
Rơi vào địa ngục moi tim não.
Tội hết sanh lại trong loài người,
Của cải tiêu tan bị lừa đảo.
Phải chịu bần cùng khốn khổ luôn,
Ăn chẳng đủ cơm, mặc thiếu áo.
Thân phận thấp hèn ai cũng khinh,
Chẳng có nơi nào để nương náo.

*Thời nhà Hán có Vương Đồn làm huyện lệnh huyện Mi, trong huyện có Li đình, đình này thường có quỷ, nhiều lần giết người.

Một hôm, có dịp ngang qua đây, Vương Đồn ngủ lại trên lầu, trong đêm có cô gái, nói là muốn bày tỏ nỗi oan, không có áo quần tự che thân. Vương Đồn lấy áo quần đưa cho, mới tiến lên thưa rằng: “Thiếp vốn là thiếp của Bồi Lệnh. Lúc trước vì muốn đi đến quan phủ, khi đi qua đình này ở lại nghỉ đêm, đã bị đình trưởng giết hại thiếp, lớn nhỏ hơn mười người, chôn ở dưới lầu, đoạt lấy áo quần tiền bạc và đồ vật. Đình trưởng nay là Du Khiếu dưới huyện môn”.

Vương Đồn nói: “Thôi được, ta sẽ giải oan cho cô! Từ đây về sau đừng tiếp tục tùy tiện hại người lương thiện bừa bãi nữa!”

Quỷ trả lại áo quần mà biến mất.

Sáng ra, Vương Đồn cho thuộc hạ đi bắt Du Khiếu đến. Sau một hồi tra xét vặn hỏi hắn liền nhận tội. Lại bắt hết đồng bọn liên can hơn mười người, cả thảy đều đem xử tử.

Khai quật lấy các thi hài nạn nhân đem tẩn liệm và chôn cất chu đáo, ngôi đình từ đó về sau mãi mãi yên lành, mọi người chứng kiến vô cùng kinh lạ cảm thán.

*Niên hiệu Đại Nghiệp thời nhà Tùy, hơn hai mươi cây số về phía Đông Nam thành Nghi Châu, có một gia đình họ Hoàng Phủ, ở nhà anh em có bốn người, anh lớn em nhỏ ai cũng chịu khó lo việc làm ăn, vô cùng nhân từ trung hiếu. Người con trai thứ hai tên là Thiên, giao du với bạn xấu chỉ biết ăn chơi chứ không lo làm việc sinh sống.

Hôm nọ, người mẹ lấy 60 đồng tiền muốn đến chợ mua đồ dùng, mà đặt trên giường nằm. Mẹ đi ra nhà sau, Thiên từ ngoài đi vào nhà, quay nhìn xung quanh thấy không có người, liền trộm lấy tiền mang ra ngoài riêng mình sử dụng. Đến lúc bà mẹ quay vào tìm tiền không có, không biết con mình lấy đi mất, thế là tra xét cả nhà, người nào cũng đều nói rằng mình không lấy.

Bà mẹ tức giận vì cả nhà không trong sáng, liền đánh đập từ lớn đến bé, vì thế mọi người đều bị oan ức nên sanh tâm oán trách.

Đến năm sau thì Thiên qua đời, đầu thai vào trong bụng heo mẹ đang nuôi trong nhà, trải qua 3 tháng đẻ ra một con heo con. Hai năm sau, gia đình cần tiền nên bán cho thôn xã tế thần, với giá 600 đồng tiền, quan tế thần bắt đem đi. Vào lúc đầu đêm, Thiên liền cảnh báo làm cho cả nhà lớn bé đều tỉnh giấc, trước tiên dùng mũi chạm vào người vợ, mà nói rằng:

– Tôi là chồng của cô, vì lấy của mẹ 60 đồng tiền, làm oan ức đến cả nhà phải chịu tra khảo khổ sở, khiến tôi làm heo, nay đến trả nợ. Nay đem bán cho người tế thần, người tế thần trói chặt tôi sắp giết, cô là vợ tôi, sao nhẫn tâm không nói với mọi người chuộc tôi về?

Người vợ ban đầu giống như trong mộng, bỗng giật mình thức giấc trong lòng kinh hãi, nhưng vẫn chưa tin; tiếp tục ngủ lại mộng thấy y như vậy, heo lại dùng mũi chạm vào người vợ, người vợ kinh sợ mặc áo đi đến nhà báo cho mẹ chồng biết.

Mẹ chồng đã ngồi dậy, mọi người trong nhà cũng cùng mộng thấy giống y như nhau, nên đêm ấy liền sắp xếp cho anh trai và con trai của Thiên đến chuộc heo về, đồng thời mang theo 1200 đồng tiền. Mẹ nói cho con trai biết rằng: nếu như quan tế thần không chịu, thì cầu xin trả cho gấp đôi số tiền. Sợ rằng trời sáng heo sẽ bị giết nên cỡi ngựa chạy rất nhanh, vì cách xa nhà hơn 15 cây số. Người con trai Thiên khi đã đến nơi, không nói ra lý do của mình, sợ rằng bôi xấu gia tộc, chỉ nói không cần phải giết, nay muốn chuộc lại heo. Quan tế thần không đồng ý, vì giờ cúng tế thần linh cũng đã sắp sửa đến rồi, nên ông không cho chuộc.

Nhiều lần ân cần năn nỉ nhưng không được chấp thuận, người anh của Thiên nôn nóng e sợ rằng heo sẽ bị giết, bèn tìm đến một người có hiểu biết và có uy tín trong vùng, đã từng nhậm chức huyện lệnh, kể lại đầu đuôi sự tình như vậy, sau mới chuộc được, khi đã chuộc được heo rồi xua chạy vào thửa ruộng hoang, người anh nói với heo rằng:

– Ông quả thật là em trai ta, thì ông hãy gấp rút trở về nhà trước!

Người con cũng nói với heo:

– Quả thật là cha tôi, cũng nên tự mình trở về nhà trước!

Heo nghe lời nói này liền chạy nhanh ở phía trước trở về nhà. Sau trải qua một thời gian, mọi người bà con xóm làng đều hay biết nên trai gái trong nhà xấu hổ vô cùng, những kẻ có kiềm khích với gia đình đều lấy heo ra để mắng nhiếc mỉa mai, nói xa nói gần, các đứa con của Thiên không chịu đựng nổi mới lại gần thủ thỉ với heo rằng:

– Nay cha tạo nghiệp bất thiện nên nhận chịu thân heo như vậy, trai gái trong nhà xuất đầu lộ diện không được, ngày cha còn sống, đã cùng với bác Từ Hiền Giả kết giao sâu đậm, bây giờ cha hãy sang bên đó ở, các con sẽ mang thức ăn cung cấp đầy đủ cho cha!

Heo nghe nói lời như vậy, hai hàng nước mắt chảy ra ràn rụa, liền vẫy đuôi rồi tự đi đến nhà họ Từ, nhà họ Từ cách xa hơn 20 cây số.

Đến niên hiệu Đại Nghiệp thứ 11, heo qua đời ở nhà họ Từ. Tin và biết rõ nghiệp báo không lựa chọn thân sơ, rõ ràng như ở trước mắt, há không thận trọng hay sao?

*Cũng trong khoảng niên hiệu Đại Nghiệp thời nhà Tùy, tại Lạc Dương có người họ Vương chuyên tâm hành trì ngũ giới, nên được mọi người xung quanh gọi ông là Vương Ngũ Giới. Ông thường nói đúng những việc sắp sửa xảy ra, tất cả nhân dân trong thôn ấp thảy đều kính tin. Một hôm bỗng nhiên ông nói với mọi người:

– Hôm nay sẽ có người dẫn đến cho ta một con lừa!

Quả thật đến trưa hôm ấy, có người dẫn đến cho ông một con lừa vừa khóc lóc vừa kể lể:

– Tôi sớm mất cha, mẹ sống một mình nuôi một trai, một gái. Khi người con gái lấy chồng chưa bao lâu thì mẹ cũng qua đời, đến nay đã hai mươi năm. Tiết thanh minh vừa rồi, tôi cưỡi lừa, mang thức ăn và rượu đến mộ cúng tế mẹ. Mộ nằm phía đông sông Y, nhưng lừa không chịu qua sông. Tôi dùng roi đánh đập, khiến đầu mặt của lừa đều tuôn máu. Vừa đến mộ, tôi bỏ lừa để bái tế. Lát sau không thấy lừa ở đâu, liền trở về nhà.

Ngày hôm ấy, một mình người em gái ở nhà, bỗng nhiên thấy mẹ hiện về, đầu mặt tuôn máu, thân hình tiều tụy, khóc than với con gái: “Lúc còn sống, mẹ không thích anh con, nên lén lấy năm đấu gạo đưa cho con. Do tội này, hôm nay mẹ phải chịu quả báo làm thân lừa, đền trả cho anh con trong năm năm. Hôm nay mẹ không chịu lội qua sông Y, vì nước sâu, mẹ sợ. Anh con dùng roi đánh mẹ đến nông nỗi này. Lát sau, khi anh con về đến nhà, chắc sẽ lại tiếp tục đánh mẹ nữa. Cho nên mẹ chạy đến đây báo cho con biết. Nợ ta trả sắp hết, sao lại phi lý đánh đập ta khốn khổ thế này!”.

Nói xong người mẹ liền đi, người em gái tôi mới chạy đi tìm kiếm, nhưng không thấy mẹ đâu hết.

Lát sau tôi trở về, em gái thấy đầu mặt của lừa bê bết máu giống như tình trạng của mẹ vừa rồi, vội chạy đến ôm lấy và gào khóc. Tôi lấy làm lạ, mới hỏi nguyên do. Em gái thuật lại tường tận, thật phù hợp với những gì mà tôi đã làm và chứng kiến. Thế là anh em ôm nhau gào khóc, lừa cũng tuôn lệ, không chịu ăn uống gì. Tôi và em gái đồng quì xuống thưa:

– Nếu thật là mẹ, thì xin hãy ăn uống!

Lừa nghe lời liền ăn, nhưng chỉ ăn một ít rồi thôi. Anh em tôi không biết làm thế nào, chỉ chuẩn bị lúa thóc và đưa đến chỗ Vương Ngũ Giới đây.

Sau đó lừa lại chịu ăn uống, không bao lâu lừa chết. Hai anh em mang xác lừa về chôn cất.

*Vào đời nhà Đường, ở huyện Văn Thủy thuộc Tịnh Châu, có người tên là Lý Tín, làm vệ sĩ ở phủ Long Chính. Vào một mùa đông trong khoảng niên hiệu Hiển Khánh đời Đường Cao Tông, Lý Tín theo thông lệ đến Sóc Châu nhận việc, khi đi cưỡi con ngựa ký màu đỏ, có dắt theo một chú ngựa non. Bấy giờ đang lúc trời rất lạnh, gió rét, tuyết rơi dày, đi được hơn mười dặm thì ngựa không cất bước nổi. Lý Tín dùng roi quất ngựa, đến roi thứ mười thì ngựa bỗng cất tiếng nói như người, bảo Lý Tín rằng: “Tôi vốn là mẹ của ông trước đây. Bởi lúc còn sống phản bội cha ông, lấy trộm hơn một thạch gạo cho riêng đứa con gái nhỏ, nên bây giờ phải chịu quả báo thế này. Con ngựa non kia chính là em gái của ông, nhận số gạo ăn trộm ngày trước nên nay cũng chịu quả báo trả nợ đó.”

Lý Tín nghe qua không cầm được nước mắt, liền tháo dây cương với yên ngựa ra, tự mình mang lấy và nói với ngựa: “Nếu đúng là mẹ ta thì xin tự đi về nhà trước.” Ngựa lập tức theo đường quay về nhà.

Từ đó, mấy anh em nhà Lý Tín liền dựng một căn nhà riêng để nuôi dưỡng con ngựa ấy, cùng nhau chăm sóc. Có người bạn đồng nghiệp của bà trước đây thường vì bà mà cúng dường trai tăng, lễ sám. Cả nhà Lý Tín từ đó đều tinh tấn tu tập hành trì.

Tiền bạc của cải có thể chung nhau sử dụng, ắt không đâu bằng trong gia đình vợ chồng con cái với nhau, ấy vậy mà trộm lấy của trong gia đình vẫn phải chịu quả báo nghiêm khắc, tơ hào không sai lệch. Những ai làm cha mẹ mà yêu ghét không công bằng, thiên vị với con cái, lấy của đứa này mang cho đứa khác, nên lấy đó mà răn mình, chẳng đáng sợ lắm sao!

*Ngày xưa, ở vùng Duyên Hải có ông vua đi săn bắn, gặp một Sa môn đang tụng kinh bằng tiếng Phạn trong một hang đá. Do vì đất nước của ông chưa có Phật giáo, nên vua nghĩ rằng vị Đạo sĩ này có tài ca ngâm quá hay, liền ra lệnh quân lính bắt đem về cung. Mỗi khi vua có khách quý thì mời vị Đạo sĩ này ra ca ngâm, để cho mọi người thưởng thức.

Lúc bấy giờ có một đại thương gia là một Phật tử ở nước khác, lần đầu tiên đến xứ này buôn bán, xin yết kiến nhà vua, dâng lên lễ vật để việc kinh doanh của mình được nhiều thuận lợi. Nhân đó, vua bèn truyền lệnh cho Đạo sĩ ra ca ngâm giúp vui.

Vị Phật tử này nghe Sa môn tụng kinh ý nghĩa thâm sâu, trong lòng rất vui mừng phấn khởi, khi hỏi duyên cớ biết rõ sự tình, ông liền thương lượng với nhà vua, bỏ ra một triệu đồng tiền vàng để xin chuộc lại vị Sa môn này. Nhưng nhà vua không chấp thuận.

Sau đó ông phải tăng lên ba triệu, và giải thích tường tận lý do sự việc, lúc đó nhà vua mới bằng lòng cho chuộc. Khi chuộc xong, người lái buôn đảnh lễ Sa môn, mà thưa rằng:

– Thưa Ngài! Con đã đem ba triệu tiền để chuộc cho Ngài, bây giờ Ngài đã được tự do rồi!

Vị Sa môn liền bay lên hư không ngồi xếp bằng, nói rằng:

– Ngươi hãy tự chuộc cho mình, chứ không phải chuộc cho ta. Vì sao vậy? Thuở quá khứ vua là người bán hành. Ngươi đến nơi ông mua hành thiếu trị giá ba tiền. Ta thời ấy đã làm chứng cho ngươi, nên ngươi khỏi trả ba tiền. Từ đó đến nay số tiền vốn lẫn tiền lời đã tăng lên đến ba triệu tiền rồi vậy!

Vua nghe rõ đầu đuôi tự sự vô cùng kinh hãi, liền bái vị Sa môn làm thầy, và xin thọ năm giới, làm cư sĩ tại gia. Vị Sa Môn vì mọi người mà thuyết pháp, cuối cùng kết luận rằng:

– Mang nợ không luận nhiều hay ít, không thể không trả, cũng không thể gánh vác cho người khác được!

*Trong niên hiệu Trinh Quán triều nhà Đường, Vi Khánh Thực là người vùng Kinh Triệu làm Trường Sử phủ Ngụy Vương, có cô gái mất sớm, vợ chồng ông thương tiếc vô cùng.

Hai năm sau, Khánh Thực mời tất cả bà con khách bạn và chuẩn bị thức ăn đầy đủ. Người trong nhà mua được một con dê nhưng chưa giết thịt, trong đêm bà vợ nằm mộng, thấy cô con gái đã qua đời mặc quần áo đen, khăn trắng, trên đầu tóc có một đôi thoa bằng ngọc, là những thứ cô thường dùng lúc còn sống, đi đến gặp mẹ rơi nước mắt nói rằng: “Xưa con đã từng sử dụng đồ vật mà không nói với cha mẹ, vì nghiệp báo này, nay nhận chịu thân dê, để đền trả cho cha mẹ, mạng con sáng mai sẽ bị giết, chính là con dê đen đầu trắng, chỉ mong ân đức thương yêu rủ lòng xin cứu tính mạng!”

Bà giật mình tỉnh giấc, sáng sớm bà tự mình đi xuống nhà bếp để xem dê, quả nhiên có con dê đen, cổ và ức đều trắng, trên đầu có hai chấm trắng, tương tự như hình dạng cái thoa cài tóc bằng ngọc. Bà đứng trước dê đau lòng rơi lệ, ngăn người nhà đừng giết con dê, chờ Khánh Thực đến thả cho đi.

Lát sau Khánh Thực đến thúc giục làm thức ăn, người trong bếp thưa rằng: “Phu nhân không cho phép giết thịt con dê ấy!”.

Khánh Thực giận dữ liền ra lệnh giết dê, người mổ thịt dê treo dê sắp giết, khách bạn có nhiều người đã đến, quả là thấy treo một cô gái dung mạo đoan chánh, nói với những người khách rằng:

“Tôi là con gái của Trưởng Sử họ Vi này, xin chư vị hãy cứu mạng tôi!”

Các vị khách ban đầu kinh ngạc, liền ngăn người mổ thịt dừng tay. Người mổ thịt sợ Khánh Thực nổi giận, lại chỉ thấy con dê kêu gào chứ không nghe tiếng người nói, tức thì giết con dê mổ thịt.

Sau đó khách bạn ngồi vào bàn nhưng không ăn, Khánh Thực cảm thấy lạ lùng bèn hỏi nguyên do, khách bạn nói rõ đầu đuôi sự việc, Khánh Thực đau lòng vô cùng.

Sau đó không bao lâu ông phát bệnh không ngồi dậy được.

*Thời nhà Đường ở vùng làng quê khu chợ nhỏ gần Trường An có phong tục, mỗi khi đến ngày đầu năm, thì theo thứ tự làm đồ ăn thức uống mời nhau, gọi là Truyền Tọa.

Nhà họ Triệu ở chợ Đông theo thứ tự đầu tiên sẽ tổ chức bữa tiệc. Có người khách đến sớm, đi ra phía sau trông thấy trên cối giã gạo, có bé gái khoảng 13 tuổi, mặc quần xanh áo trắng, bị dây thừng buộc cổ, trói vào cây cột của chiếc cối giã gạo, rơi nước mắt nói với người khách rằng: “Tôi là con gái của chủ nhân, trước kia vào lúc chưa chết, lấy trộm của cha mẹ 100 đồng tiền muốn mua son phấn, chưa kịp sử dụng mà chết, số tiền đó nay còn trong góc tường phía Tây Bắc trong nhà bếp, nhưng tôi chưa sử dụng, mà đã lấy trộm tiền, vì vậy phải mang tội, nay cần phải đền bù mạng sống cho cha mẹ!”

Nói xong hóa thành con dê đầu trắng. Người khách kinh hãi nói cho chủ nhân biết, chủ nhân hỏi về hình dáng dung mạo của cô bé, đúng là con gái bé nhỏ của mình, chết đã hai năm rồi.

Bèn vào phía góc tường nhà bếp lấy được 100 đồng tiền, hình như đặt vào chỗ ấy đã lâu.

Ngay sau đó đưa con dê đến chùa Tăng nuôi dưỡng, rồi cả nhà không dám ăn thịt nữa.

*Thời nhà Đường có quan chủ bộ họ Chu ở huyện Quán Đào, thuộc Ký Châu.

Niên hiệu Hiển Khánh thứ11, nhận lệnh đi sứ vào phạm vi của thành Quan Hỗ Lâm Du.

Lúc sắp lên đường, dẫn hai người giúp việc cùng đi theo. Họ Chu mang theo tiền bạc và lụa là hơi nhiều một chút.

Hai người giúp việc nổi lòng tham, nên cấu kết với nhau bèn dùng dao giết ông chết, cướp lấy tất cả tiền bạc lụa là đều mang đi hết, chỉ có áo quần mặc trên người là không lấy.

Trải qua hơn một tháng, ông báo mộng cho bà vợ, kể lại đầy đủ tình trạng bị giết hại, và nói rõ nơi chốn cất giấu tiền bạc đồ vật.

Người vợ bèn trình báo với quan địa phương.

Quan trên y theo giấc mộng của bà mà điều tra vụ án, khi đã tìm được đầy đủ tất cả tang vật của cải tiền bạc lụa là, bèn bắt hai người giúp việc kia xử tội chết.

Lừa tiền hại mạng, sống vẫn thấy địa ngục

Những năm Thuận Trị triều Thanh, tỉnh Giang Tây có người tên Ngô Trạm Thất làm nghề bán vải. Tính y tham lam xảo quyệt, lòng dạ khó đoán. Khi bán vải y thường hay bày vải đẹp làm mẫu, tranh thủ sự tín nhiệm của khách hàng trước, chỉ cần khách hàng chọn được vải, y liền dùng hàng kém chất lượng thay thế hàng tốt, khiến khách hàng mua phải vải xấu. Vải đã bán xong mà mẫu vẫn còn, y hoán đổi rất tài tình.

Có vị thương gia Tây Dương cử một người bạn cùng nghề đi mua vải, bị Ngô Trạm Thất giở trò, mua hàng xấu về. Vị thương gia trách mắng bạn mình, người bạn rất tức giận nói rằng: “Vậy thì đích thân ông đi xem, cũng chẳng tránh được bị lừa!”

Vị thương gia nói: “Đâu có đạo lý như vậy? Nếu lần này đi mua không được hàng thật, tôi quyết không đến tìm gặp ông.”

Ngày hôm sau, vị thương gia đích thân ra đi. Ông vừa tìm đã thấy mẫu vải ưng ý trong kho hàng của Ngô Trạm Thất, vị khách bèn ngồi xổm trên cuộn vải, khiến Ngô Trạm Thất không thể tráo đổi. Ngô Trạm Thất thấy vậy vô cùng lo lắng, bèn bày mưu, vội vàng ra khỏi quầy chào đón, quần áo chỉnh tề, cung kính hành lễ chào vị thương gia như chào một người bạn cũ. Vị khách bất đắc dĩ đành phải vội vàng đứng lên đáp lễ, rồi lại nhanh chóng ngồi xổm trên cuộn vải. Nhưng nhằm vào lúc sơ hở này, Ngô Trạm Thất đã ngầm sai người đổi cuộn vải đó. Vị thương gia không phát hiện ra, trả xong tiền, liền vội vàng trở về nhà. Gặp bạn ông ngay lập tức mang vải ra cho bạn xem. Người bạn lấy vải ra xem, kiểm tra kỹ càng, hóa ra vẫn là loại vải thô vô cùng kém chất lượng, mục nát, mỏng tới mức không thể dùng được.

Người bạn mang ra so với cuộn vải lần trước thì không có chút khác biệt. Người bạn trách vị thương gia: “Ông đích thân đi mua, sao lại thế này?”

Vị thương gia biết mình đã bị lừa, mua lầm vải xấu đã rất phiền lòng, lại nghe bạn khiển trách; ông nhớ tới lời nói cao ngạo trước đây của mình tự lòng thấy vừa xấu hổ, vừa giận dữ liền treo cổ tự vẫn.

Ngô Trạm Thất âm mưu quỷ quyệt, chỉ mưu tính lợi riêng, chỉ thấy cái lợi trước mắt. Đến những năm Thiên Khải, trong một chuyến đi xa y mắc trọng bệnh, nằm ở nhà trọ thường mơ thấy những con quỷ đuổi bắt y mang đi hành hình, khiến y phải chịu đựng đủ mọi hình phạt lao tù. Cho nên y thường hay phát ra tiếng rên rỉ ai oán khủng khiếp, ngày đêm không dứt. Y từng nằm trên chiếu hét lớn: “Cứu ta với! Cứu ta với! Chúng bắt ta trói trên giường lửa rồi!”

Mọi người xung quanh nghe mà rụng rời chân tay, thấy sau lưng y quả nhiên xuất hiện một vệt bỏng màu đỏ như bị thép nóng nung. Y còn lớn tiếng kêu gào: “Ôi trời ơi! Sao lại dùng móc sắt móc lưng của ta mà cân thế này!”

Mọi người càng cảm thấy kỳ dị, chỉ biết lần theo tiếng kêu của y mà xem xương sống lưng, thấy có chút sưng đỏ, dường như quả thực có người đang dùng móc cân y.

Y không ngừng kêu lên những cực hình đau đớn trong ngục, quả thực như sống trong địa ngục vậy, chịu đau đớn trong vài ngày liên tiếp y mới tắt thở.

Kỳ thực bất kể hành vi độc ác của con người có gian ngoan, xảo quyệt và được che giấu kỹ như thế nào, cũng đều đã gieo nhân ác, báo ứng chắc chắn sẽ đến chỉ là chuyện sớm hay muộn mà thôi.

Pháp Quan Kỳ Án

Một buổi sáng tháng 7 năm 1978, tại một cao nguyên huyện Đài Bắc, hai vợ chồng Thái A Vượng và người bạn thân Lâm Thuận Xa cùng nhau quảy gánh lên núi hái trái vải. Khi đi ngang qua một hang động bỏ hoang lâu năm, thì bỗng thấy từ trong chạy ra ba con chó, mồm chúng ngậm nội tạng người đang nhỏ máu long tong. Anh Xa hiếu kỳ rón rén bước vào động xem sự thể thế nào, nhưng cảnh tượng đáng sợ trước mắt khiến anh kinh hoàng đứng chết sững: một tiên sinh hơn sáu mươi tuổi đang nằm trên vũng máu, ngực bụng bị xé rách, nội tạng bị ba con chó hồi nãy ngoạm chạy ra ngoài. Càng khủng khiếp hơn nữa là ngồi bên cạnh xác chết là một cô gái điên đầu tóc bù xù, đang cầm khúc ruột của nạn nhân quấn quanh cổ chơi đùa rất là vui thích.

Anh Xa sợ đến lông tóc dựng đứng, vội quay đầu chạy ra khỏi động, lập tức cùng vợ chồng anh Vượng đi báo án.

Cảnh sát được tin, vội đến hiện trường, nhìn thấy nạn nhân ngoài việc bụng ngực bị moi khoét trống rỗng, thì các chỗ khác không bị thương chi. Điều khó hiểu là cô gái điên bên cạnh vì sao không bị tổn hại gì? Tại sao mấy con chó chỉ cắn lão già mà không cắn cô?

Bao nhiêu nghi vấn nổi lên, tính chất vụ án kì bí này như thách thức khả năng chuyên môn của những người trong ban phá án.

Nhờ sự hợp tác giúp đỡ của dân chúng, cảnh sát đã nhanh chóng điều tra ra tên người chết là Liêu Ký Đức, còn cô gái điên tên Liêu Tú Tú, là con gái ông, hiện bị tâm thần nặng, họ ngụ tại trấn Thọ Lâm gần đấy.

Căn cứ theo hồ sơ thì năm 1949 ông Đức theo chính phủ Quốc Dân tới Đài Loan, làm thẩm phán 28 năm. Ông có kiến thức luật phong phú, nhưng tâm bất chánh, tính tham tài háo sắc cực độ, là vị quan tham nhũng tiêu biểu, một năm trước ông nghỉ hưu, về ẩn cư tại trấn Thọ Lâm.

Năm 1953, một vị công chức thuộc ngành Hải quan Đài Bắc tên Ngưu Đồng Đoan do tham ô mà bị tòa sơ thẩm tuyên án mười năm tù. Trong lần tái xử án thì do thẩm phán cũ đã chuyển đi, ông Đức được cử đến nhậm chức xử lý.

Tại pháp đình, thấy tình nhân của ông Đoan là Phấn Châu cũng đến dự thính, do nàng rất xinh đẹp mỹ lệ, nên thẩm phán Đức cứ nhìn chòng chọc không rời. Sau đó còn cố ý ra oai quát nạt ông Đoan, hăm rằng án tù 10 năm là quá nhẹ, nếu tìm ra tội chứng mới ông sẽ phán ít nhất 15 năm!

Ông Đoan nghe vậy quá sợ, chắp tay van cầu phán quan bao dung giảm án cho. Nhưng ông Đức không chấp nhận.

Mấy ngày sau ông Đức chủ động gọi điện hẹn gặp riêng luật sư biện hộ cho ông Đoan và nói úp úp mở mở rằng án của ông Đoan có thể nặng mà có thể nhẹ, nếu như người đẹp Phấn Châu chịu ra mặt cầu xin thì may ra có thể chuyển đổi được.

Nghe nói thế luật sư đã biết rõ bụng dạ ông Đức, bèn nói sẽ thuyết phục ông Đoan đồng ý cho Phấn Châu đến hầu hạ ông Đức một tuần. Xong việc, ông Đức vẫn không hài lòng, còn bắt người nhà ông Đoan phải nộp một khoản tiền kếch xù. Cuối cùng, khi tài sắc đã vơ vét ưng ý rồi, ông Đức mới tuyên bố giữa tòa là tội chứng không đủ và phán cho ông Đoan sáu tháng tù. Nhưng cho phép nộp tiền phạt thay cho ngồi tù. Thực tế là xem như vô tội, ông Đức tự tiện phóng thích phạm nhân, một tay che cả bầu trời!

Ông Đức một mình đến Đài Loan, làm thẩm phán mới mấy năm, nhờ tham ô mà giàu to. Qua bạn bè giới thiệu, ông cưới Thúy Đào, một cô gái con nhà nông, nhỏ hơn ông 13 tuổi. Cô này vừa hiền, vừa kiều diễm. Năm sau thì sinh hạ bé Tú Tú.

Đáng tiếc là Tú Tú lúc hai tuổi, Thúy Đào bị ung thư ngực qua đời. Ông Đức do “bận rộn công vụ” nên đối với con thiếu sự chăm nom. Vì Tú Tú trong một lần cảm mạo phát sốt quá cao, do không kịp đi bệnh viện mà biến thành ngớ ngẩn trầm trọng.

Đối với cái chết của vợ và con bị ngây ngô, là hai đả kích rất nặng. Nhưng ông Đức chẳng mảy may hiểu biết để thức tỉnh rằng đây là quả báo do mình thiếu đức. Ngược lại ông càng ra sức lợi dụng chức quyền để tranh danh đoạt lợi, vơ vét cho đầy túi riêng. Còn lớn tiếng khoe khoang rằng với chức quyền và danh vị cũng như mưu lược của ông, sẽ có vô số mỹ nữ tìm đến nộp mạng và vàng bạc sẽ tự động đổ vào túi ông.

Vì thế trong suốt 28 năm nắm chức quyền, hằng ngày, hằng tháng, hằng năm, ông toàn làm những điều thương luân hại lý. Giở đủ thủ đoạn hạch sách, bắt chẹt và tạo ra vô số án oan, án mạng.

Có nhiều người vì ông ăn đút lót tuyên án oan, uất ức sinh bịnh chết trong tù, vợ bất bình tự sát. Biết bao gia đình nhà tan cửa nát vì ông có quyền cao chức trọng mà không có lương tâm.

Trong thời gian làm thẩm phán, ông đã hại chết biết bao sinh mạng, hủy hoại nhiều gia đình. Tội ác dẫy đầy. Năm 1977, ông Đức cuối cùng cũng thoái hưu và cùng một quả phụ ẩn cư tại cao nguyên thuộc trấn Thọ Lâm.

Một sáng nọ ông dẫn con gái đi dự lễ ngang qua cửa động thì Tú Tú đòi vào nghỉ một chút. Ông chìu ý con và khi ông bước vào động thì đột nhiên có ba con chó xông đến, khí thế dữ dằn nhắm thẳng vào ông nhe răng bén, giương móng vuốt hung ác cào ngực, xé bụng ông. Chưa đầy mấy phút chúng đã lôi hết ngũ tạng lục phủ ông ra và ông Đức lìa đời trong thống khổ tột độ.

Ba con chó đao phủ thực hành án tử cho ông Đức rất mau. Khi hoàn thành sứ mệnh rồi, thì chúng chạy đi như làn chớp, biến mất tăm không để lại dấu vết. Chỉ còn Tú Tú ngồi bên cạnh mặt mày cực kỳ vui vẻ, thản nhiên cầm ruột của cha quấn quanh cổ chơi, bộ dạng rất đắc ý như thể vừa làm việc gì tốt lắm vậy.

Chức vị thẩm phán là chấp pháp công minh, thi hành quốc luật, không thiên vị riêng tư! Nhưng ông Đức bị sắc tài làm cho mê muội, toàn lạm dụng chức quyền để thu lợi cho mình, phụ lòng quốc gia và nhân dân ký thác.

Báo ứng hiện tiền của ông là bài học cảnh cáo thế nhân, cho dù có tránh được pháp luật trừng trị, thì cũng chẳng thể nào tránh được báo ứng nhân quả, nên nói: “Thiên lý chí công, trốn một lúc nhưng không trốn được cả đời”.

Nếu tin sâu nhân quả thì chúng ta sống rất bình an, chẳng có gì phải lo phải sợ, bởi vì những thứ thực sự là của mình thì không một ai có thể chiếm đoạt. Nhược bằng chẳng phải của mình thì cho dù có cố giữ gìn cũng luống công vô ích. Giả như tài sản do lường gạt hay trộm cướp mà hưởng dụng được, thì cũng toàn là những thứ trong mạng mình đã có, nếu trong mạng không có thì chưa trộm gì là đã bị cảnh sát bắt giam vào tù rồi. Cho nên, tạo nghiệp ác là tự tổn giảm phước báu của mình, thay vì để tự nhiên thì tài sản ấy cũng sẽ đến nhưng hơi muộn một chút.
Thế nên người xưa có câu: “Quân tử thong dong làm quân tử; Tiểu nhân oan uổng làm tiểu nhân”.

Mời bạn về nhậu, vợ bị giết, chồng bị đâm trọng thương

Ngày 27 tháng 10 năm 2016, tòa án nhân dân tỉnh Nghệ An mở phiên xét xử hình sự sơ thẩm đối với Vi Văn Thắng (23 tuổi, ở xã Mường Nọc, huyện Quế Phong, tỉnh Nghệ An) về hành vi Giết người và Cướp tài sản.

Theo cáo trạng, vào chiều ngày 28 tháng 5, Thắng đến nhà ông Sầm Văn Dần ở cùng xóm uống rượu. Sau khi uống hết một chai rượu, Thắng nằm ngủ lại tại nhà ông Dần. Đến khoảng 18 giờ cùng ngày, Thắng tỉnh dậy thấy bà Vi Thị Loan (vợ ông Dần) ngồi trước cửa nhà cho gà ăn, trên tai mang đôi bông tai bằng vàng. Thắng nảy sinh ý định giết người cướp tài sản để mua ma túy.

Thắng dùng dao thủ sẵn trong người bất ngờ đâm nhiều nhát vào người bà Loan khiến nạn nhân gục tại chỗ. Nghe tiếng kêu cứu của vợ, ông Dần tỉnh giấc lao vào cứu vợ thì bị Thắng dùng dao đâm liên tiếp vào người. Thắng lấy đôi bông tai bằng vàng trên người bà Loan rồi tẩu thoát.

Một lúc sau, ông Dần bò được ra ngoài kêu cứu, người dân chạy đến thì bà Loan đã tử vong, còn ông Dần bị trọng thương được người dân đưa đi cấp cứu. Sau khi gây ra án mạng, Thắng bỏ trốn nhưng bị công an bắt giữ tại xã Tiền Phong, huyện Quế Phong, tỉnh Nghệ An.

Tại phiên tòa, bị cáo Thắng thừa nhận toàn bộ hành vi phạm tội của mình. Thắng khai nhận do nghiện ma túy, khi thấy bà Loan có đôi bông tai bằng vàng nên đã tìm cách sát hại để cướp tài sản. Khi ông Dần phát hiện, bị cáo đâm tiếp vào người chồng để bịt đầu mối.

Kết thúc phiên tòa, , Hội Đồng Xét Xử đã tuyên phạt Vi Văn Thắng 5 năm tù về tội Cướp tài sản và tử hình về tội Giết người. Tổng hợp 2 hình phạt, Vi Văn Thắng bị tuyên án tử hình, buộc đền bù thiệt hại cho bị hại tổng số tiền hơn 250 triệu đồng.

3/- Tà Dâm

Tiếng dâm làm bại hoại phẩm đức, người trí thấu đáo tường tận nên không đắm không lụy; tướng dục làm mê muội thức thần, bậc Thánh nhân biết mà lánh mà xa. Bởi vậy, Chu U Vương mất nước ắc hẳn là vì say sưa Bao Tự; Tấn Hiếu Vũ Đế tan nhà, mất mạng thì ra do mê luyến Trương Quý Nhân; Độc Giác tiên nhơn chẳng tỉnh ngộ hổ thẹn bị cưỡi cổ; một mai rơi vào địa ngục, thấu hiểu chăng nỗi khổ cháy thân nơi giường sắt, trụ đồng? Tất cả đều vì chúng sanh cõi Dục không tu hạnh quán bất tịnh để mà xả mà bỏ, cho nên phiền não luôn trói buộc không thể nào điều phục đoạn trừ.

Vả lại, tứ đại là đất nước gió lửa, cái gì làm chủ? Da mỏng da dày bao quanh một đống phân nhơ, ngũ tạng lục phủ ruột gan phèo phổi máu mủ đờm dãi dơ bẩn tanh hôi! Thế mà, bởi ham muốn nó thường lôi dẫn con người tháng năm đọa lạc rơi vào đường ác. Phàm phu điên đảo mặc ý đắm nhiễm mê muội, cho nên vọng thấy dung mạo khả ái mỹ miều, tóc mai mày ngài môi đỏ má thắm, dáng vẻ diễm kiều bên ngoài rồi sanh lòng tham thích.

Lẽ nào chẳng biết hình hài như bọt nước tụ đọng, sắc chất tựa mây trời trôi nổi, cả trong lẫn ngoài đều trống rỗng, trong khoảnh khắc tan rã không còn, mọi chỗ trên thân thảy đều bất tịnh, ngày đêm chín lỗ tuôn chảy bài tiết những thứ nhơ bẩn thúi hôi; tất cả thể xác đều vô thường, mới vất bỏ thân nơi đồng hoang thần hồn đã gá nương vào loài sâu kiến.

Tất cả chúng sanh đều do ham hố tà hạnh nên mãi lưu chuyển sáu đường, chướng ngại ngăn che ngôi vị Bồ đề; Vì cội nguồn sanh tử mà bốn loài phải cảm lấy quả khổ trong ba cõi, thật do nơi dâm nghiệp chiêu cảm mà ra, báo ứng theo nhau như bóng với hình chỉ bởi căn bản ái dục tạo thành. Do tưới thấm nghiệp lực thiên về một phía, cho nên đấng đại trượng phu luôn quyết lòng chế ngự mà tự kiêng dè, để chẳng còn trôi lăn nơi sông mê, nổi chìm trong biển khổ!

Luận Tạng có kệ rằng:
“Đức Từ Phụ bảo rằng, người thế gian dại dột,
Bị dục vọng thiêu đốt, đến chết bỏ được nào,
Làm thành nghiệp đời sau, chịu khổ đau vô lượng.
Như anh chàng ngu bướng, thích quả thơm trên cành,
Trèo lên ăn ngon lành, cứ mãi ngồi trông ngốc,
Người ta xúm chặt gốc, cây ngã nát thân hình,
Máu me tuôn láng linh, chết trong cơn thảm thiết.
Thật đáng than đáng tiếc. Năm dục quả thật là,
Vui tí xíu đấy mà, một khi bị mất mát,
Thảm sầu thì bát ngát. Cũng như con thiêu thân,
Ngỡ hạnh phúc vạn phần, nên lao vào lửa đỏ,
Nó đâu ngờ nơi đó, là hang ổ tử thần,
Bèn kết thúc số căn. Như lưỡi dao thật sắc,
Thoa lên chút ít mật, người tham ngọt liếm vào,
Cái ngon chả là bao, máu đào tuôn xối xả,
Đớn đau dường bể cả! Sanh chúng thật đáng thương!”.

Còn trong luận Thành Thật có kệ rằng:
“Tham dục khổ thật mà, phàm phu vì điên đảo,
Vọng sanh ý tưởng vui, người trí thấy thảm não,
Thấy khổ thì đoạn trừ, thọ dục không thỏa mãn,
Như uống nước biển vào, cơn khát tăng vô hạn,
Bởi vì khát nhiều hơn, vui sướng chi đâu bạn?
Ví như con chó kia, gậm xương khô dính máu,
Thêm nước dãi trộn vào, nó nghĩ đấy tuyệt hảo!
Tham dục cũng thế mà, ở trong chỗ vô vị,
Vì sức mạnh đảo điên, cảm nghe là ưng ý,
Nên biết vì hồ đồ, thấy hiểu sai chân lý
Sắc dục cõi trần dương, đau thương dường bỉ bỉ!”.

Kinh Tạp Thí Dụ ghi: Thời Đức Phật tại thế, có một Bà la môn sanh được hai cô con gái. Khi lớn lên đến tuổi hoa xuân, cả hai cô diện mạo đều vô cùng đoan chánh, ông mới cố tình treo vàng trên cao, trong 30 ngày chiêu mộ tìm người nào có năng lực chê trách con gái mình xấu xí, thì sẽ ban cho vàng.

Cuối cùng không có ai nhận lời chiêu mộ, vị bà la môn ấy bèn dẫn hai cô con gái đến chỗ Đức Phật, Phật liền chê trách rằng: “Hai cô gái này đều xấu xí không có một chút gì đẹp đẽ”.
Tôn giả A-nan bèn thưa với Đức Phật rằng: “ Bạch Đức Thế Tôn! Hai cô gái thật là xinh đẹp. Vì sao Đức Thế Tôn lại nói là xấu xí, không xinh đẹp?”

Đức Phật dạy: “Mắt không mê nhìn sắc đó mới là mắt đẹp, tai mũi miệng cũng như vậy. Thân không ưa theo mịn màng trơn bóng, đó là thân tốt đẹp. Đôi bàn tay không trộm cắp tiền bạc của người khác, đó là tay tốt đẹp. Nay quán sát hai cô gái này, thì mắt ưa nhìn sắc đẹp, tai thích nghe âm thanh hay, mũi ưa ngửi mùi hương, thân ưa trơn bóng mịn màng, tay thích lấy trộm tiền bạc, người như vậy thì có gì là đẹp đẽ!”.

Kinh Phật Bát Nê Hoàn nói: “Đức Phật bảo với Nại Nữ: Người đam mê tà hạnh có năm điều tự mình gây trở ngại:

1-Nhiều tai tiếng không tốt;
2- Pháp luật làm cho đau khổ;
3-Lòng luôn đa nghi;
4-Chết vào địa ngục;
5-Tội địa ngục chấm dứt nhận chịu hình hài súc sanh, như các loài bồ câu, se sẻ, uyên ương…

Tất cả đều do tội ác ấy đã gây nên.

Người nào có thể tự diệt trừ tâm tà dâm thì chẳng có năm điều trên, lại còn tăng thêm phước thiện:

1- Nhiều người ca ngợi;
2- Không sợ quan quyền;
3- Thân được yên ổn;
4- Chết sanh lên cõi trời;
5- Thuận theo ý thanh tịnh đạt đến đạo Niết bàn”.

Quả báo chính:
Tà dâm địa ngục đã sanh vào,
Ném vào núi kiếm rớt rừng đao.
Cột đồng cháy đỏ trèo lên xuống,
Giường sắt thiêu thân tránh đặng nào.
Đinh sắt nướng đỏ nuốt vô miệng,
Thi thể rã tan ác thú cào.
Rồng độc phun lửa tiêu xương tủy,
Thấu tận tâm can khổ dường bao!

Quả báo phụ:
Mê muội đắm đeo theo tà hạnh,
Đọa nơi địa ngục chịu khổ hình,
Mãn rồi làm người sẽ lâm cảnh,
Chồng vợ luôn luôn phản bội mình.
Đôi bên thường ôm lòng ngờ vực,
Chẳng ai thuận ý với trọn tình.
Lẽ nào chẳng sanh tâm hổ thẹn?
Mà gìn trinh tiết giữ tánh linh!

* Ở Thường Thục có một tay viên ngoại họ Tiền, cậy vào tiền tài, thế lực, ức hiếp kẻ khác.

Trong làng, có một phụ nữ xinh đẹp, nhà nghèo, ông bèn cho chồng cô ta mượn tiền để buôn vải ở Lâm Thanh hòng nhờ dịp đó, tư thông với vợ anh ta.

Một hôm, chồng cô ta ra khỏi cửa, do thủy triều cạn, không thể đi được, lại quay về, thấy tên viên ngoại họ Tiền đang ôm vợ mình nhậu nhẹt hoan lạc. Chồng vừa thẹn vừa giận, quay về thuyền.

Ông ngầm mưu tính với vợ anh ta, đến đêm sai người giả làm cướp giết chết. Họ hàng biết chuyện, thưa lên quan.

Đã nhận tội rồi, ông lại rải tiền bạc để chạy chọt, thoát khỏi xử phạt. Vừa ra tới cửa thành, bỗng dưng giông tố ùa tới, ông và người phụ nữ ngoại tình kia đều bị sét đánh chết tươi!

Nhận định: Đã thông gian vợ lại còn giết chồng, thiên lý khó dung, oan hồn chẳng nguôi cừu hận được! Vì thế, tuy con người mưu mô xảo quyệt, trời lẫn thần đều báo ứng. Thử xem hạng người như vậy mà được bình yên không bị báo ứng, trăm kẻ chẳng được một, cũng chẳng khác gì vung đao tự giết mình vậy!

*Vào đời Minh, tại Kinh Khê có hai người chơi với nhau khá thân. Một người giàu có, còn kẻ kia nghèo túng. Do vợ người nghèo xinh đẹp, gã giàu liền lập mưu, bảo với bạn rằng:

-Tôi có quen một gia đình bá hộ, anh có thể đến đó làm thuê, chắc chắn tương lai sẽ ổn định!

Anh nghèo nghe lời, cùng bạn chuẩn bị thuyền để chở vợ cùng đi theo. Đến non Chỉ Sơn là một quả núi thuộc huyện Trường Sa, tỉnh Hồ Nam, gã giàu bảo:

-Để vợ anh ở lại trông thuyền, tôi với anh đi trước hỏi thăm!

Gã dẫn bạn vào rừng, bất ngờ rút rìu giắt sẵn sau lưng chém chết. Xong rồi hắn giả vờ khóc lóc bi thảm, quay xuống núi. Tới bờ sông, hắn bảo với cô vợ của anh bạn rằng:

-Chồng chị đã bị cọp vồ chết rồi!

Người phụ nữ ấy bèn la hét ầm ĩ, một hai đòi hắn dẫn đường cho cô lên núi tìm xác chồng mình. Hắn dẫn cô vào trong núi sâu, ôm chặt lấy cô ta, giở trò cưỡng bức. Người phụ nữ phản ứng kịch liệt. Chợt có một con cọp không biết từ đâu nhảy ra, vồ lấy gã tha đi biệt tích. Người phụ nữ kinh hãi bỏ chạy, nghĩ là chồng đã gởi thây trong miệng cọp rồi, buồn, hận khôn khuây!

Bỗng thấy, có một người từ xa vừa đi vừa khóc lóc trông thật thảm thiết, lại gần xem kỹ người ấy hóa ra chính là chồng mình! Đôi bên kể lể sự tình, chuyển buồn thành vui, liền trở về bến neo thuyền.

*Đời Thanh, trong khoa thi năm Quý Dậu (1693) triều Khang Hy, một thư sinh ở Tùng Giang vào trường thi thứ nhất, vừa nhận quyển thi thì bỗng thấy một con quỷ theo vào trường thi, khóc lóc ầm ĩ suốt đêm, cả trường thi đều bất an. Đến chiều hôm sau, thư sanh ấy vừa viết xong bản nháp bài văn sách cho vòng thi thứ ba, quỷ xông vào nắm cổ anh ta. Vì thế, anh kêu gào những thí sinh ở các lều gần cứu mạng.

Anh ta ứa nước mắt, nói: “Năm nọ tôi đến đất Sở, thuộc Hồ Nam, do ưa thích một người con gái, tôi giả vờ hứa hẹn sẽ lấy cô ta làm vợ. Cô ta vui thích bèn tư thông, lại còn tặng tiền bạc cho tôi.

Đến khi đem cô ta về nhà, vợ tôi chẳng dung, cô ta tự tử chết. Nay cô ta đã tới, tôi không thể sống nổi nữa!”.

Các thí sinh ở bên cạnh mềm mỏng an ủi. Một lúc sau, nghe anh ta ở trong lều van lơn cầu xin tha mạng. Lâu sau, tiếng kêu im ắng. Họ bèn gọi người trông nom lều thi đốt đuốc, thì thấy thư sinh ấy dùng sợi tơ đỏ buộc ở đuôi bút để treo bút, tự buộc vào cổ mình, do nghẹt thở mà chết.

Nhận định: Sách Nam Lăng Đơn Quế Tịch ghi: “Do tư thông với một người nữ, ắt sẽ đến nỗi vào trường thi mà chết. Lại còn khiến gã ấy tự nói cho sĩ tử cả trường đều biết nguyên do gây ra cái chết. Trời cao hiển thị sự báo ứng do dâm, răn nhắc tột bậc sâu xa, sát sao vậy”.

*Thời nhà Tấn có Hoàn Đạo Mẫn, là người nước Tiêu. Đến niên hiệu Long An thì vợ mất, Đạo Mẫn băn khoăn về việc nhà rất sâu nặng, đau lòng thương nhớ không nguôi về người bạn đường ấy.

Năm nọ, vào một đêm mới ngủ, ông thấy trước bức bình phong có tay người, lòng kinh hãi ngồi dậy cầm đuốc soi sáng phía ngoài bức bình phong, thì chính là vợ mình. Hình dáng dung mạo trang điểm đầy đủ như lúc còn sống, ông không hề sợ hãi, liền dẫn vào cùng nằm ngủ, chuyện trò qua lại mọi chuyện thăng trầm vui buồn bao ngày xa cách.

Ông hỏi: “Nàng từ ngày mất đến nay, lúc đầu không có hiện tượng gì cả, đêm nay sao có thể bỗng nhiên trở về?”

Đáp rằng: “Thiếp muốn trở về vô cùng, nhưng đạo lý của con người và thần minh khác nhau, mỗi nơi đều có sự quản lý riêng, không thể nào tự tiện tùy ý mình được. Thiếp xét nghĩ, lúc còn sinh tiền mình làm dâu không có tội lỗi gì khác, đích thực chỉ có một việc là luôn ngờ vực chàng thương yêu kẻ tôi tớ trong nhà hầu hạ. Bởi vì tâm đố kỵ này mà phải nhận chịu báo ứng địa ngục, giờ mới được thoát ra khỏi nơi ấy, nay sẽ được sống lại làm người, cho nên thiếp đến đây để chia tay cùng với chàng!”.

Ông hỏi: “Nàng sẽ sanh ở nơi nào, có thể tìm biết nhau được hay không?”

Đáp rằng: “Chỉ biết là sẽ đầu thai, nhưng không biết là ở nơi nào, làm sao tìm kiếm nhau được?”

Đến trời gần sáng người vợ giã từ ra đi, rơi nước mắt mà chia tay. Ông tiễn đưa đến sau hành lang vài bước bỗng nhiên mất dạng, đột nhiên lúc ấy ông bất giác giật mình phát sinh kinh hãi hoảng hốt suốt mấy hôm liền.

*Trong niên hiệu Chánh Đức đời Minh, ở Tứ Minh có vị tú tài họ Phù, sau khi đã chết, báo mộng cho con:

– Khi còn sống, ta đã phạm luật cấm về gian dâm. Ngày mai sẽ đầu thai làm con chó trong nhà Tạ Ngũ Lang ở phía Nam thành, hãy mau gấp làm chuyện lành, sám hối hồi hướng cho ta.

Nói xong, một con quỷ buộc cổ lôi đi. Một quỷ tốt khác lấy tấm da trắng phủ lên đầu ông ta. Ông ta khóc lóc bi thương, tập tễnh ra đi. Đứa con kinh hãi tỉnh mộng.

Sáng hôm sau, con ông y theo giấc mộng đến nhà họ Tạ, quả nhiên tìm gặp được một con chó toàn thân trắng muốt, trong bầy chó con vừa mới sinh ra. Đứa con xin đổi lấy đem về nhà, vì cha rộng làm các việc lành.

Năm sáu năm sau, chó bỏ ăn mà chết. Trải qua hơn một tháng, đứa tớ nhỏ trong nhà, bỗng ngồi giữa nhà, nói lớn tiếng, giống như dáng vẻ của Phù tú tài, gọi hết người nhà đến bảo:

– Ta thật sự chưa từng phạm tà dâm. Do lúc mười tám tuổi, đi qua phòng chị dâu. Chị dâu vừa mới rửa mặt trang điểm, làm rớt cái nhẫn xuống đất, sai ta nhặt lên. Do vậy, ta khởi dục niệm. Về sau, chị dâu lại thường cùng ta cười nói, xém tý nữa là phá sạch lễ nghĩa! Rốt cuộc chị dâu bị bệnh chết, ta cảm thấy tinh thần rối loạn. Năm sau thì ta cũng chết. Sau khi chết, thì có quỷ trói dẫn ta đến dưới sân một tòa quan phủ, ta thấy hai tay ta chống xuống đất, là đã thành hình dạng chó. Nay nhờ các ngươi làm việc thiện có công đức, đã sám trừ sạch nỗi oan nghiệt trước kia, nên sắp sửa sẽ sanh làm con thứ Năm trong nhà thầy lươngy họ Triệu ở Sơn Đông. Ta trở về đây nói đôi lời từ biệt!

Nói xong, đứa tiểu a hoàn ngã lăn ra đất, hồi lâu bèn tỉnh lại.

*Ở Dư Hàng có người họ Trương sang Kim Lăng buôn bán, ở trong quán trọ. Có người đàn bà nói mình sống gần đây, tằng tịu với họ Trương.

Lâu sau, họ Trương tìm hiểu, nhận thấy láng giềng sống quanh đó không có người đàn bà ấy.

Do vậy đâm ra nghi ngờ, tối lại ông bèn cật vấn lai lịch, thì người đàn bà đáp:

– Thật ra tôi có chuyện cần nhờ vả ông, tôi vốn chẳng phải là người. Có một người tên là Dương Xu, chẳng phải hắn ở cùng làng với ông hay sao?

Trương đáp: “Đúng vậy!”

Người đàn bà giậm chân, nghiến răng nói:

– Thằng đó bội bạc lắm! Thiếp chính là kỹ nữ, thuở trẻ dan díu với nó. Nó hết sức chìu chuộng thiếp, không gì chẳng chăm sóc hết mực, ước hẹn, thề nguyền sẽ đón thiếp về nhà, sống chết cùng nhau. Do đó thiếp tin lời, trút hết của cải dành dụm đưa cho nó, bền lòng giữ mình theo lời hẹn. Đã lâu mà chẳng có tăm hơi gì, nghe nói nó đã lấy vợ khác rồi! Vì thế, nuốt hận mà chết.

Quán trọ này chính là chỗ ở cũ của thiếp. Giờ muốn đi theo thuyền của ông để xem vợ mới của hắn như thế nào?

Ông Trương đồng ý. Khi đã đến nơi, bà ta từ biệt ông Trương, tìm tới nhà họ Dương. Do mừng sinh nhật, họ Dương mở tiệc đãi đằng khách khứa, bỗng dưng ngã lăn ra chết đột ngột. Rồi bà vợ do hắn cưới cũng mắc bệnh nguy kịch gần chết. Ông Trương nghe chuyện, hết sức kinh hãi!

Vừa Là Cha Vừa Là Mẹ

Thuở Phật còn tại thế, khi Ngài cư ngụ tại Xá-vệ. Bấy giờ ở thành Soreyya, cậu con trai của vị chưởng khố tên Soreyya, anh đã có vợ và sinh được hai đứa con kháu khỉnh.

Vào một sáng mùa hạ, anh ngồi trên xe kiệu cùng với một người bạn thân và đám tùy tùng đông đảo, ra ngoài thành để tắm sông. Gần đến cổng thành, họ gặp trưởng lão Ðại Ca-chiên-diên đang đứng trước cổng thành chuẩn bị vào thành khất thực. Thân thể vàng óng của trưởng lão đập vào mắt Soreyya khiến anh không khỏi buột miệng: “Ồ! phải chi Trưởng lão này là vợ ta! Hoặc giả vợ ta có được nước da y như thế!” Ý muốn vừa dấy khởi, tức thì anh biến thành đàn bà. Lúc ấy, đường xá đông nghịch, anh bối rối và hổ thẹn, bẻn lẻn lặng lẽ bước xuống xe và chen vào đám đông. Những người đi theo không hề hay biết gì về sự việc xảy ra.

Soreyya mang thân phụ nữ bỏ đi về phía thành Takkasilà. Người bạn chung xe kiếm anh khắp nơi không thấy anh đâu cả. Tắm xong mọi người về nhà. Họ lắp bắp trả lời với cha mẹ anh là anh đã về trước. Ðến phiên cha mẹ anh huy động rất nhiều gia nhân đi tìm khắp các nơi nhưng vẫn không thấy tông tích gì cả, hai ông bà khóc lóc thảm thiết; cuối cùng mọi người ngỡ là anh đã chết đuối nơi sông rồi, nên họ làm đám tang linh đình cho anh.

Soreyya, bấy giờ là phụ nữ gặp đoàn thương buôn cùng hướng về thành Takkasilà, cô lẽo đẽo theo sát xe ông trưởng đoàn. Ông trưởng đoàn chú ý đến cô, và thắc mắc không biết cô là con cái nhà ai. Ði hết một đoạn đường khá dài, ông trưởng đoàn thấy cô dung mạo đoan trang, qua cử chỉ nghi hạnh thì ông đoán chắc cô gái này thuộc hàng thượng lưu danh gia vọng tộc, ông đến hỏi thăm, nhưng hỏi mãi cô vẫn cứ một mực lấy tay che mặt e lệ thẹn thùng không đáp. Ông mời cô lên xe, vì quá đuối sức nên cô liền lên ngồi. Sau đó ông làm mai mối cô cho con trai của bạn mình là chưởng khố thành Takkasilà, anh này tên là Takkasilà, bởi ông là người thường đi đây đó nhiều nơi nên đã nhận lời yêu cầu trước kia của chưởng khố, là tìm cho một cô con dâu xứng đôi vừa lứa với cậu công tử trong nhà. Thấy cô hợp tuổi mình và quá đẹp, anh chàng công tử bằng lòng cưới cô. Thế là lễ cưới được tổ chức rình rang diễn ra đầy náo nhiệt.

Thời gian sau, cô Soreyya sinh một bé trai. Khi đứa bé chập chững biết đi thì cô hạ sinh thêm đứa thứ hai. Như thế Soreyya trước là cha hai đứa con sinh ở thành Soreyya, nay là mẹ hai đứa nữa sinh ở thành Takkasilà, tất cả là bốn đứa.

Một hôm, bạn đồng hành khi xưa của Soreyya, cùng với năm trăm chiếc xe đi đến thành Takkasilà du ngoạn. Lúc đó cô Soreyya đứng trên lầu cao nhất trong lâu đài nhìn xuống đường nhận ra người bạn cũ, cô liền sai tỳ nữ mời anh vào căn phòng lớn, tiếp đãi rất kính trọng thân thiện như bạn tri kỷ tri âm lâu năm mới vừa gặp lại.

Khách lấy làm lạ, bèn hỏi chủ nhà:

– Thưa bà, tôi chưa hề biết bà nhưng bà đón tiếp tôi quá nồng hậu. Chuyện này là thế nào? Bà đã biết tôi rồi hay sao?

Chủ nhà từ tốn đáp:

– Phải đấy, ông ạ! Tôi biết ông rất rõ, ông vừa mới rời thành Soreyya à?

– Vâng, thưa bà!

Và bà chủ nhà hỏi thăm sức khỏe cha mẹ và vợ con mình lúc trước. Khách trả lời tất cả đều khỏe, rồi chất vấn tiếp:

– Bà cũng biết họ nữa à?

– Vâng ông ạ, tôi biết họ rất rành! Và này ông, họ có một anh con trai, tên Soreyya, hiện nay ông có biết anh ta ở đâu không?

Khách buồn bã kể lại chuyện đau lòng năm xưa. Cô chủ bèn thú thật:
– Này ông, chính tôi là anh ta đấy!

– Thôi đi bà ơi! Bà nói gì lạ thế? Anh ta là bạn thân của tôi, anh ta như một thiên thần trẻ trung, đường đường là một nam nhi trượng phu, cơ mà!

– Ấy thế đó! Nhưng tôi lại chính là anh ta đấy, hoàn toàn đúng như thế!

– Chuyện này là thế nào?

– Ngày đó, lần đi tắm sông, ông có nhớ là khi vừa đến cổng thành đã trông thấy trưởng lão Ðại Ca-chiên-diên hay không?

– Vâng, tôi nhớ là có gặp Ngài!

– Bỗng dưng lúc đó tôi chợt nghĩ phải chi Trưởng lão là vợ mình hoặc vợ mình có được nước da như Trưởng lão. Tức khắc tôi biến thành đàn bà. Tôi liền bỏ chạy một mạch đến xứ này… đấy!

– Ồ, thật là tai hại! Tại sao anh không nói với tôi? Mà anh đã sám hối với Trưởng lão chưa?

– Chưa ông ạ, tôi chưa sám hối Ngài! Nhưng ông có biết hiện giờ Ngài ở đâu không?

– Ngài đang ở gần đây, ngay trong thành này!

– Ngài đã đến thành này rồi ư? Tôi rất muốn cúng dường Trưởng lão.

– Tốt lắm, anh hãy chuẩn bị đầy đủ. Tôi sẽ cung thỉnh Trưởng lão giùm cho anh.

Rồi người bạn ngày xưa của Soreyya đến chỗ Trưởng lão, đảnh lễ Ngài trình bày tự sự đầu đuôi câu chuyện, Trưởng lão hứa khả nhận lời cúng dường ngày mai.

Sáng hôm sau Ngài đến đứng trước cửa nhà. Con của chưởng khố dâng cho Ngài chỗ ngồi và những thức ăn chọn lọc. Rồi anh dẫn vợ mình là nàng Soreyya đến phủ phục dưới chân Ngài, xin được tác bạch sám hối. Khi nàng thưa trình lời tác bạch xong, Trưởng lão hoan hỷ đáp từ:

– Tốt lắm, hãy đứng lên! Ta đã tha thứ cho con!

Trưởng lão vừa nói dứt câu, nàng Soreyya lập tức biến thành đàn ông trở lại. Người chồng bèn đến nói với chàng:

– Bạn thân! Vì anh đã là mẹ trong khi tôi là cha của hai đứa bé này. Chúng thật sự là con của cả hai chúng ta. Vậy anh vẫn tiếp tục sống lại đây. Ðừng khó chịu.

Soreyya đáp:

– Này bạn, tôi trải qua hai lần chuyển hóa trong một đời người. Trước tiên tôi là đàn ông biến thành phụ nữ, giờ trở lại làm đàn ông. Ban đầu tôi là cha của hai đứa bé, mới đây là mẹ của hai đứa nữa. Bạn đừng nghĩ rằng sau khi đã trải qua hai lần chuyển hóa trong một kiếp sống, tôi bằng lòng sống đời tại gia nữa. Tôi sẽ đi tu theo Trưởng lão của tôi. Bổn phận của bạn là nuôi dưỡng hai đứa bé này. Chớ xao lãng!

Nói xong Soreyya hôn hai đứa con, ôm vào lòng và trao lại cho người cha, rồi bước theo Trưởng Lão ra khỏi nhà, và trở thành tu sĩ. Trưởng lão chấp thuận cho anh vào Tăng đoàn, dẫn anh cùng về thành Xá-vệ. Và anh trở thành thầy tỳ kheo Soreyya.

Dân cư trong xứ nghe câu chuyện kỳ lạ này rất xôn xao xúc động, họ lũ lượt tìm đến hỏi thầy Soreyya có thật như thế không, và tình cảm dành cho hai đứa con nào mạnh hơn. Thầy trả lời rằng mình thương hai đứa gọi bằng mẹ nhiều hơn.

Do tính hiếu kỳ, hàng ngày quá nhiều người nô nức kéo đến tinh xá xem cho biết, và hỏi đi hỏi lại mãi những câu hỏi xét ra chẳng cần thiết, chẳng lợi ích gì cả nên thầy Soreyya rút lui khỏi đám đông, vào rừng sâu để chuyên tâm tu tập.

Ngài sống độc cư như thế, luôn quán chiếu về sự vô thường hoại diệt, sau đó không bao lâu thầy đã chứng quả A-la-hán cùng những thần thông. Kể từ đó có ai hỏi thầy thương hai đứa bé nào hơn, thì thầy trả lời rằng không đặt tình cảm lên đứa nào cả. Các tỳ kheo nghe vậy cho là thầy nói dối, nên thưa chuyện đến Đức Phật. Phật trả lời:

– Này các tỳ kheo, thầy Soreyya không nói dối đâu. Trước kia thầy ấy chưa chứng quả, bây giờ thầy ấy đã chứng quả các lậu hoặc đã đoạn nên mới đáp lời như thế!

*Lý Đăng đỗ Giải Nguyên lúc mười tám tuổi. Về sau, đến tuổi năm mươi, vẫn chẳng đỗ Tiến Sĩ. Ông bèn đến chỗ Diệp pháp sư để nhờ Sư hỏi nguyên nhân.

Sư dạy ông ta cầu đảo Văn Xương Đế Quân.

Đế Quân sai thư lại cầm sổ đến, chỉ rõ: “Khi Lý Đăng sanh ra, được Thượng Đế ban ấn ngọc, định rằng mười tám tuổi đậu Giải Nguyên, mười chín tuổi sẽ đỗ Trạng Nguyên. Hai mươi tuổi sẽ làm Tể Tướng.

Chỉ vì sau khi thi đỗ Giải Nguyên, ngấm ngầm dòm ngó chọc ghẹo cô gái hàng xóm. Tuy không thành công, lại ngược ngạo kiếm cớ cáo giác, khiến cho cha cô ta bị tù. Do chuyện này, công danh bị chậm trễ mười năm, thứ hạng sẽ kém hơn hai bậc.

Kế đó, lại lấn chiếm nền nhà của anh mình, dẫn tới chuyện kiện cáo. Công danh lại bị chậm trễ thêm mười năm, thứ bậc đỗ đạt giảm thấp hơn ba cấp.

Sau đó, trong khách điếm tại Trường An, lại làm chuyện dâm bôn với một người đàn bà nhà lành, công danh lại bị chậm trễ thêm mười năm nữa.

Nay lại lén lút tằng tịu với gái hàng xóm, làm ác chẳng hối cải, tài lộc hoàn toàn bị tước sạch, sắp tới hạn kỳ chết rồi!”

Sư trở về thuật lại, Lý Đăng nghe xong xấu hổ, hối hận mà chết.

Nhận định: Lý Đăng đáng gọi là “kẻ tự chế tạo gông cùm lặp đi lặp lại” vậy. Nếu sớm sanh lòng hối hận, tu đức để bù đắp oán cừu, ắt sẽ đậu Trạng Nguyên, làm Tể Tướng công danh là một mãng quang minh vô cùng sáng lạn.

Nếu chẳng vậy, lỡ làm quấy một lần, về sau chẳng tái phạm nữa, ắt đối với chuyện đỗ đạt hiển vinh, hãy còn được hưởng một nửa.

Trạng Nguyên, Tể Tướng là do nhân thiện của quá khứ đã khó nhọc tu tạo, do trời đất vun bồi, do tổ tông tích lũy âm đức, nay ông ta tự mình tước sạch! Phụ bạc ân đức của trời đất, cha mẹ tổ tiên quá đỗi!

Lại nữa, thú vui dâm tà so với khoa bảng chẳng bằng một phần vạn; thế mà đem đổi sự phú quý suốt cả một đời bằng niềm vui sướng trong chốc lát, há chẳng phải là quá sức ngu muội ư!

Ôi! Người đỗ Trạng Nguyên sẽ làm Tể Tướng, trong mấy trăm năm chỉ thấy một, hai người!

Do tạo chuyện oan nghiệt ấy, mất sạch chẳng còn sót gì! Huống hồ vận mạng của người khác chẳng bằng một phần vạn Lý Đăng mà cũng tạo nghiệp giống như ông ta, e rằng vị thần chưởng quản tài lộc chưa chắc đã chỉ phạt thứ bậc đỗ đạt thấp hơn, lại còn kéo dài thời hạn để mong ông ta sửa đổi! Nguy hiểm lắm thay!

Những kẻ tài cao học rộng trong hiện thời, đến tận tuổi già vẫn nghèo túng, khốn đốn, hãy nên tự xét những chuyện đã làm, xem có phải là đã phạm vào loại tội nghiệt này hay chăng?

Người Chồng Tài Hoa

Chiêm Nguyệt Quyên là người Đài Loan quê ở Gia Nghĩa, tháng 7 năm 1979 nàng dẫn con gái Tiểu Mẫn 3 tuổi qua thành phố Hoành Tân (Yokohama) Nhật Bản, rồi uống thuốc độc tự sát trong khách sạn.

Khi cảnh sát đến hiện trường, phát hiện dấu vân tay viết chữ “Hận” bằng máu. Lại thấy hai mẹ con đều mở to mắt, và máu lệ vẫn còn đang chảy, chứng tỏ họ chết rất đau khổ, không cam tâm.

Ban cảnh sát hình sự Nhật Bản vốn giàu kinh nghiệm, thầm biết vụ tự sát này có nhiều uẩn khúc, nội tình không đơn giản.

Cảnh sát Nhật Bản rất quan tâm đến vụ án này, lần theo lý lịch hộ chiếu người chết, họ đến Đài Loan trú một ngày tại Cơ Quan Hiệp Trợ và nhanh chóng tìm ra cha mẹ nạn nhân. Phụ thân

Nguyệt Quyên là ông Chiêm Phong Bình làm nghề nông, mẹ là Du Kiều Nguyệt, nội trợ trong gia đình. Quyên là con thứ ba trong nhà, trên có anh và chị, dưới có hai em trai. Cô đang học trường đại học Sư Phạm nổi tiếng ở Đài Bắc, người quanh đấy đều ngưỡng mộ, ngợi khen, nàng là niềm tự hào của gia đình họ Chiêm.

Quyên học đến năm thứ tư, nhân dịp tham gia hoạt động chuyên đội, nàng quen anh Uông Huyền Nhân, người Đài Đại, bề ngoài không có gì xuất chúng, nhưng có lắm tài, tính anh khéo hài hước pha trò chọc người cười vui, nói năng lưu loát, lại khéo nhả ngọc phun châu. Nhờ vậy mà lọt vào mắt xanh của Quyên.

Qua nửa năm giao du, cảm tình ngày một nồng hậu, họ dự định tốt nghiệp xong thì sẽ kết hôn. Trong mắt các bạn, hai người là một cặp trời sanh, “trai tài gái sắc”, khiến người nhìn phải ước ao.

Nhưng thế sự khó lường, năm đó anh Nhân vừa tốt nghiệp thì tham gia leo núi. Trên đường trở về anh bị tai nạn xe. Trong thời gian trị dưỡng, hằng ngày hễ Quyên học xong thì đến bệnh viện chăm sóc anh. Do vậy mà nàng quen biết bác sĩ thực tập Vu Luân Thuận. Thuận trông có vẻ là một người tài hoa mẫu mực, tính trầm lặng ít nói. Lúc đó Thuận đã âm thầm thương yêu Quyên.

Sau khi Nhân tạ thế, Thuận nhiệt tình theo đuổi Quyên, những khi không trực ở bệnh viện, thì anh đến trường Quyên dạy, đón nàng về nhà, đích thân xuống bếp nấu ăn chiêu đãi.

Mỗi lần Quyên về Gia Nghĩa thăm cha mẹ, Thuận đều ra tận ga xe lửa đón nàng.

Thuận kiên trì theo đuổi Quyên suốt một năm rưỡi, cuối cùng nàng cũng bị tình của anh làm cảm động và chấp nhận bước vào lễ đường.

Sau khi kết hôn, Quyên mới biết trước đây Thuận nộp đơn xin du học bên Nhật Bản, đã được chấp thuận, trường thông báo nội trong một tháng Thuận phải đến đăng ký. Vì mới kết hôn nên

Thuận muốn từ bỏ cơ hội sang Nhật Bản để được bên vợ. Nhưng Quyên cho rằng được xuất ngoại du học là dịp may hiếm có, còn vấn đề học phí, nàng sẽ nghĩ cách lo liệu.

Thuận cảm thấy vợ nói có lý, bèn quyết định sang Nhật du học, lòng tràn đầy xúc động và cảm kích.

Trước đêm chia biệt, Thuận ba lần hướng vợ hứa hẹn đảm bảo, rằng một khi tốt nghiệp tiến sĩ xong chàng sẽ quay về Đài Loan ngay, sẽ mở phòng mạch ở Đài Bắc cùng vợ làm việc và sống hạnh phúc bên nhau.

Lời của chàng làm Quyên cảm động không thôi. Nàng tự hào vì tình thương của chồng dành cho, cảm thấy vui sướng vì mình đã lấy đúng người.

Kể từ đó, mọi gánh nặng trút xuống đầu Quyên, nàng phải vất vả lo từ phí học, phí sinh hoạt đắt đỏ cho chồng ở Nhật Bản.

Một năm sau đó, tiền Quyên dành dụm tích lũy đều được gởi cho chồng tiêu dùng. Ngoài dạy ở trường, nàng còn lãnh dạy kèm ở nhà, thỉnh thoảng về cha mẹ ruột để xin tiền, nhưng vẫn vô phương đáp ứng đủ chi phí cho chồng xài. Lúc này con của Quyên đã một tuổi, gánh nặng càng tăng, tiền nuôi đứa con nhỏ, tiền nuôi chồng ăn học tất cả dồn ép nàng bận rộn đến không kịp thở.

Mùa đông năm đó, để giải quyết kinh tế túng quẩn, Quyên bất đắc dĩ phải đến quán rượu làm việc, nhận công tác tiếp khách “bán cười không bán thân” trong thời gian ba năm.

Nhờ vậy mà nàng giải quyết được chi phí tiêu xài cho chồng ở Nhật Bản, nhưng do phải trường kỳ uống rượu thức khuya, dạy học vất vả, nên Quyên mắc bịnh lao nghiêm trọng. Bác sĩ tuyên bố kể từ đây nàng không thể sinh con được nữa, điều này là đả kích cực lớn đối với nàng. Thế nhưng Quyên luôn tự tin: “Tất cả đã hy sinh vì chồng, nhất định ảnh sẽ thông cảm, yêu thương mình hơn”…

Lúc Thuận sắp lấy bằng tiến sĩ, anh có về Đài Loan tham dự lễ tang bà nội. Khi biết Quyên đến quán rượu làm việc bị bịnh phổi thì Thuận chẳng những không tức giận, không truy cứu, ngược lại còn làm như không có chuyện gì. Thuận luôn bình thản và tỏ ra rất quý vợ, khiến Quyên càng thêm tin tưởng vào tình yêu của chồng.

Nhưng Quyên không ngờ được rằng, trước khi về Đài Loan, Thuận đã lén lút kết hôn cùng con gái của giáo sư trưởng và đã mở một y viện nhỏ tại ngoại thành Đông Kinh, tự mình làm viện trưởng, chính giáo sư và con gái ông đã xuất tiền đầu tư cho Thuận nên họ nghiễm nhiên là đổng sự.

Nhưng không bao lâu thì tin này cũng truyền đến tai Quyên. Mới đầu nàng không tin, còn cho là bịa đặt, song thâm tâm vẫn bán tín bán nghi. Thế là nàng quyết định, đợi thân thể khỏe mạnh hơn sẽ dẫn con gái Tiểu Mẫn qua Nhật một lần cho rõ thực hư.

Thuận nhận được tin vợ, biết là sự tình đã đến hồi nghiêm trọng, để việc làm tồi tệ của mình không bị vạch trần khiến chàng phải xấu hổ, Thuận âm thầm dựng lên một âm mưu hiểm độc.

Đầu tiên, chàng lấy lý do bận rộn, phái người đến phi trường đón hai mẹ con Quyên về khách sạn trước và hẹn tối đó sẽ đến gặp…

Sau đó, chàng thuê người đóng giả phục vụ viên, bảo họ mười lăm phút trước khi chàng đến, hãy lẻn vào phòng dùng thủ đoạn thô bạo toan cưỡng hiếp Quyên, ngay lúc đó chàng sẽ xuất hiện.

Tên hại mướn kia làm y theo kế sách của Thuận, trước mặt chàng hắn nói dối mình là gian phu của Quyên, còn Quyên thì quá thực thà, nàng giống như người câm không biết nói lời nào để minh oan cho mình, Thuận liền đanh thép buộc tội, dõng dạc đề xuất ly hôn với Quyên.

Trong khách sạn, sau khi vở kịch thành công mỹ mãn, Thuận lập tức trở mặt phủ nhận nghĩa tình phu thê, phủi luôn bốn năm Quyên gian khổ làm lụng chu cấp tiền cho chàng ăn học, tất cả ân tình sâu nặng, tất cả hy sinh của Quyên, giây phút này đều hóa thành mây khói trôi về chân trời xa xăm tuyệt vọng!

Quyên nhận ra hôn nhân giữa hai người đã vô phương cứu vãn, nàng nghẹn ngào bi phẫn ký tên vào đơn ly hôn. Trước lúc ly hôn tại Đông Kinh, vì muốn cho Tiểu Mẫn gặp lại cha một lần, thông qua hồ sơ và tư liệu nơi trường học, Quyên tìm đến y viện, và nàng phát hiện sự thật phũ phàng: Thuận đã sớm kết hôn vui duyên mới và vụ án cường bạo ở khách sạn là bẫy rập của chàng làm ra để hại nàng. Nàng cảm thấy như đất sụp dưới chân mình, trong cơn phẫn nộ tột độ nàng xông thẳng đến nhà viện trưởng Thuận để hỏi cho minh bạch. Nhưng đến đó nàng đã chuốc thêm nhục nhã chất chồng, Thuận đổ hết mọi điều xấu lên nàng, còn truyền lệnh bảo vệ tống cổ nàng ra. Quyên thân đơn thế cô, chẳng có được cơ hội nào để đối chất. Do thân tâm đều bị đả kích nặng, nàng dẫn con qua thành phố Hoành Tân thăm dì là Hoa Kiều đang ngụ ở Nhật xong thì quay về khách sạn và uống thuốc độc tự sát cùng Tiểu Mẫn.

Mặc dù cảnh sát Nhật Bản đã điều tra ra vụ án, nhưng mẹ con Quyên đã chết, họ không bằng không chứng chẳng thể làm gì được Thuận.

Phần Thuận, khi hay tin mẹ con Quyên tự tử, chàng như trút được gánh nặng, thầm nghĩ kể từ đây tha hồ gối cao đầu ngủ, tha hồ thoải mái không còn phiền lo. Thế là chàng tiếp tục lợi dụng quan hệ và uy tín của nhạc phụ, truy cầu danh lợi tại Nhật Bản.

Sau đó, Thuận được mời đến trường diễn giảng, đề tài là “Bí quyết sống hạnh phúc giữa vợ chồng”.

Thuận đang cao hứng nói thao thao, mới giảng được nửa buổi, thì cái micro vô duyên vô cớ đột nhiên bốc khói, rồi nổ tung. Tại giảng đường, Thuận không chút đề phòng nên bị vỡ đầu chảy máu, mù hai mắt. Do đầu bị trọng thương nên chàng biến thành ngu si ngớ ngẩn, hiện vẫn còn đang trị liệu và điều dưỡng tại bệnh viện Nhật Bản.

Cái micro vì sao có thể phát nổ? Nạn nhân vì sao lại là Thuận, là người chồng bạc tình phụ nghĩa, nhẫn tâm cư xử ác động, ruồng bỏ người vợ ,vừa là người ân của mình? Và đề giảng vì sao lại liên quan đến “Tình phu thê”? Rốt cuộc thì đây là trùng hợp, là thiên ý trừng phạt, hay báo ứng?

Mọi người bàn tán xôn xao. Theo người viết thì Thuận trốn được quốc pháp, nhân luận nhưng không trốn được luật nhân quả báo ứng.

Thông qua câu chuyện có thật này, xin khuyên những cặp phu thê trong thế gian, chớ nên biến quan hệ vợ chồng thành việc mưu cầu lợi riêng. Hôn nhân như thế sẽ không bao giờ hạnh phúc.

Tiến sĩ, kiêm bác sĩ Thuận vì công danh lợi lộc trước mắt mà bước vào nẻo sai lầm, cuối cùng đánh mất cả lương tâm cho nên phải trả giá bằng hậu quả thê thảm như mọi người đã thấy. Đây gọi là “ác nhân gặp ác báo”.

Học pháp là học cái gì? Học cách tu Nhân Quả, bạn phải biết rằng đời này bạn đang nhận Quả gì là do kiếp trước hoặc ngay kiếp này bạn đã gieo Nhân. Còn hiện tại cái mà bạn đang gieo Nhân thì có thể trong đời này hoặc kiếp sau bạn gặt Quả tùy theo Duyên đến sớm hay muộn

Bạn hiểu được Nhân Quả, Tin sâu Nhân Quả thì tự nhiên sẽ không dám nghĩ ác, nói lời ác và làm điều ác mà sẽ chăm lo tích đức tu thiện, gieo các Nhân thiện lành. Quả báo tốt lành đến với bạn không do ai ban thưởng mà là do chính bạn tự gieo trồng mà có đó thôi. “Gieo Nhân gì thì gặt Quả nấy”.

*Người xưa có câu: “Trên đầu ba thước có thần linh”, bất luận con người làm điều gì, thần linh đều biết cả. Và có một quy luật bất biến rằng, những người làm việc thiện và giúp đỡ người khác cuối cùng đều nhận được phúc báo.

Người xưa đối với vấn đề “thiện ác hữu báo” đều có cách lý giải và biểu đạt khác nhau, chẳng hạn cổ nhân có câu: “Tránh được mùng một, nhưng không tránh được 15”, “Giết người phải đền mạng, thiếu nợ phải hoàn trả”, “Kiếp sau nguyện làm trâu ngựa để báo đáp đại ân đại đức” hoặc “Tổ tiên tích đức, đời sau con cháu được phúc báo”.

Khi còn bé chúng ta đều rất thích nghe và tin tưởng vào những điều mà người lớn tuổi thường nói. Mỗi khi ai đó gặp thiên tai nhân họa, các lão nhân hay cảm thán: “Đúng là nghiệp chướng, con người không làm việc thiện tất sẽ gặp báo ứng”, hoặc “Tổ tiên không làm việc tốt, con cháu tất gặp tai ương”. Trong các tài liệu cổ hầu hết đều có ghi chép những câu chuyện về phương diện này.

Năm Khang Hy thứ 4 triều đại nhà Thanh, thành Hàng Châu gặp phải trận hỏa hoạn lớn, ngọn lửa cháy suốt mấy ngày mấy đêm không tắt. Mặc dù tất cả các quan viên đều được điều động đến cứu hỏa, nhưng rốt cuộc hàng ngàn ngôi nhà vẫn bị thiêu hủy.

Tuy nhiên, có một điều vô cùng kỳ lạ đã xảy ra. Trong biển lửa, mọi người đều chợt trông thấy một vị Thần mặc áo giáp vàng, tay cầm cờ đỏ chỉ huy thiên binh thiên tướng bao quanh một ngôi nhà, khi ngọn lửa vừa bén tới đây liền bị dập tắt.

Sau khi ngọn lửa được khống chế, giữa đống hoang tàn đổ nát người ta phát hiện chỉ còn duy nhất một ngôi nhà vẫn bình yên vô sự. Ngôi nhà này chính là nhà của vị quan mới nhậm chức họ

Cố. Bởi vì lúc đó Cố đại nhân đang phụng mệnh đi Giang Nam công tác, trong nhà chỉ có người cha già và mấy đứa con nhỏ. Chứng kiến điều kỳ lạ này, tất cả mọi người đều hết sức kinh ngạc, không hiểu vì sao ngọn lửa không thiêu cháy ngôi nhà này.

Nguyên lai là, khi Cố đại nhân đến Giang Nam công tác đã từng đậu thuyền ở bờ sông Tô Châu. Một buổi chiều, ông chợt thấy có một thiếu phụ ngồi bên bờ sông đang khóc thút thít.

Ông liền đi tới hỏi rõ sự tình, thì thiếu phụ nói: “Chồng tôi bởi vì không có đủ 50 quan tiền để đóng cho quan phủ, nên đã bị nhốt trong đại lao tra khảo áp bức, sống chết chỉ trong nay mai. Tôi vì không muốn thấy chồng mình chết trước, nên muốn đến đây để tự vẫn”.

Cố đại nhân lập tức lấy trong túi ra 50 quan tiền đưa cho thiếu phụ để cô có thể cứu mạng chồng mình. Thiếu phụ ngàn vạn lần cảm kích, bái lạy rồi rời đi.

Cố đại nhân sau khi đã hoàn thành công sự, trong một lần đến tửu quán uống rượu lại tình cờ ở trong căn phòng đối diện với phòng của gia đình người thiếu phụ kia. Người thiếu phụ nhìn thấy

Cố đại nhân, liền nói mọi chuyện cho chồng biết.

Hai vợ chồng liền mời Cố đại nhân về nhà bày tiệc khoản đãi, còn giữ ông ở lại nghỉ qua đêm. Người chồng nói với vợ: “Ân cứu mạng không thể không báo, tối nay em hãy qua phục vụ ông ấy để báo đáp”.

Nửa đêm, thiếu phụ đi vào phòng của Cố đại nhân, nhưng ông nhất quyết cự tuyệt, nhanh chóng đứng dậy quay về thuyền của mình. Sau đó rong thuyền về Hàng Châu.

Khi Cố đại nhân về đến nhà, mọi người thi nhau đến hỏi han, họ đều thắc mắc không biết ông đã tích được công đức lớn ngần nào mà có thể xoay chuyển trời đất như vậy. Cố đại nhân mơ hồ không biết, nhưng sau khi mọi người hỏi cặn kẽ, Cố đại nhân mới kể lại chuyện mấy ngày hôm trước có xảy ra chuyện như vậy. Mọi người bấm tay tính toán, quả là khớp với thời điểm mà hỏa hoạn xảy ra.

Có thể thấy rằng, nơi sâu thẳm trong nội tâm mỗi người, dù chỉ là một niệm rất nhỏ thì Thần linh cũng đều thấy biết rất rõ ràng. Giống như câu cổ ngữ nói rằng: “Trên đầu ba thước có thần linh”.

Việc làm nào của thế nhơn,
Cũng đều có cặp mắt Thần ngó coi.
Trong lòng người mới nghĩ thôi,
Tai Thần nghe rõ như lời sấm vang.
Người dù lấy núi chận ngang,
Mắt Thần vẫn thấy rõ ràng như không.
Làm ra hoặc tính trong lòng,
Việc nào cũng có Thánh Thần xét soi.
Trước khi làm hãy nghĩ coi,
Tội hay là phước để rồi làm sau.
Lời ra khó hốt lại nào,
Phạm rồi muốn gỡ dễ dầu gì ư.

Xem những câu chuyện nhân quả xưa, so với những chuyện xảy ra thời hiện đại, thậm chí là những chuyện quanh mình, chúng ta đều sẽ phát hiện ra rằng quy luật nhân quả báo ứng tồn tại một cách khách quan, dù cho bạn có tin hay không, nó sẽ khởi tác dụng đối với bạn.

Do vậy, nghiêm túc đối đãi với quy luật nhân quả, thuận theo Thiên đạo hành thiện nhiều hơn mới là điều quan trọng nhất khi làm người, mới gặp nhiều may mắn và có tương lai tốt đẹp.

4/- Lưỡng Thiệt

Nói đến vòng tuần hoàn của sinh lão bệnh tử, thì không có hạn kỳ bao lâu là ra khỏi; Tây Phương Cực Lạc nếu đầy đủ tín nguyện hạnh ắt hẳn được sanh về. Sở dĩ xưa nay từ bậc thượng căn lợi trí, cho đến hạng phàm phu nghiệp sâu chướng nặng thảy đều được giải thoát một đời thành Phật, là nhờ chân thật hành trì và thành tâm sám hối nên cảm ứng với lực tiếp dẫn của Đức Từ Phụ A Di Đà.

Vì vậy, hai chữ chân thật chí thành là nền tảng căn bản của sự tu hành!

Nhưng hàng phàm phu tục tử trái lại, thường dựng lên những lời dối trá, nói xấu bên này bên nọ, tạo ra những sự chia rẽ, những cuộc phân tranh, bởi chuyên tìm cách mưu hại lẫn nhau, mà làm cho quyến thuộc người ta hiểu lầm nhau gây nên hiềm khích rồi phải chia lìa, bạn bè tan rã vì sự thêm bớt thành ra cãi vã gây gổ sanh oán sanh thù, mối tình khắn khít trước kia mà nay bỗng chốc biến thành sương khói; Do ưa thích gieo nghiệp ganh ghét hờn giận bất hòa, sẽ chiêu cảm lấy quả báo đau thương nơi địa ngục ngạ quỉ súc sinh; Nếu sanh được làm người thì thường bị kẻ khác chê bai mắng chửi, họ hàng thân thích toàn là xấu ác phá hoại thâm tình, làm cho đời mình dở sống dở chết, và phải sống trong nỗi khổ phân ly cô độc lẻ loi.

Trong luận Thành Thật nói: “Nếu bằng tâm thiện giáo hóa, tuy là biệt ly nhưng cũng không mang tội. Nếu vì tâm ác làm cho người ta đấu đá hỗn loạn, thì đây là tội hai lưỡi rất nặng, phải rơi vào chốn địa ngục ngạ quỷ súc sanh, nếu sanh trong loài người thì bị miệt khinh phỉ báng, luôn gặp cảnh xích mích dối trá xấu xa phá hoại quyến thuộc”.

Quả báo chính:
Lưỡng thiệt làm người đấu đá nhau,
Chết vào địa ngục bị hành phạt.
Quỷ dữ tách miệng người đó ra,
Dao lửa cắt lưỡi tiêu tan nát.
Móc sắt móc lưỡi bắt trâu cày,
Lại còn chịu khổ vì đói khát.
Trở lại uống nước trong thân mình,
Thời gian dài như cát sa mạc!

Quả báo phụ:
Dèm pha làm hại người quá mức,
Đọa ba đường ác đầy khổ lao.
Đến khi được sinh làm người lại,
Nghiệp báo vẫn còn tiếp theo sau.
Quyến thuộc gặp nhiều điều tệ hại,
Chống đối, nghi ngờ, lường gạt nhau.
Thiên hạ kích động cùng phỉ báng,
Phải chịu cô độc trong nỗi đau!

*Niên hiệu Trinh Quán thời nhà Đường ở vùng Hàm Dương có người phụ nữ họ Lương, ngày nọ bỗng nhiên ngã lăn ra chết, trải qua bảy ngày thì sống lại. Tự mình nói là:

– Bị người ta bắt dẫn đến trong một công đường lớn, thấy có một phòng làm việc rất rộng, có một vị quan, cầm bút dựa vào bàn, người đứng hầu hai bên rất nhiều, sai người quan sát và hỏi rằng: “Người phụ nữ này đã tới số chết hay chưa?”

Có người liền ôm đến một văn bản đối chiếu, bèn đáp: “So sánh với người đã đến lúc chết thì tên họ giống nhau, cho nên bắt nhằm!”.

Vị quan ra lệnh cho tả hữu lập tức phải thả về.

Cô bèn thưa với vị quan rằng: “Không biết con lại có tạo tội lỗi gì khác hay không? Xin chịu tội xong rồi, sẽ trở về!”.

Vị quan liền sai đối chiếu văn bản. Khi thuộc hạ tra xong, trả lời: “Ngươi lúc sống trên đời chỉ có tội lưỡng thiệt và ác khẩu, chứ không có tội gì nữa!”.

Quan liền sai một người kéo lưỡi ra và một người cầm rìu chặt đứt lưỡi, mỗi ngày thường chặt bốn lần như vậy, vô cùng đau đớn. Tất cả trải qua bảy ngày, mới chuyển giao khiến quay về.

Ban đầu cô cảm thấy giống như rơi xuống vực sâu, chốc lát tựa hồ giống như đang ngủ mà giật mình tỉnh giấc.

Cô thuật lại tự sự, và le lưỡi ra mọi người đồng xem, thì thấy trên lưỡi của cô hãy còn sưng tấy rất nhiều.

Từ đó về sau cô cẩn trọng lời nói, và vĩnh viễn đoạn dứt rượu thịt, cho đến khi qua đời.

*Ngạ quỷ có nước da đẹp như chư Thiên

Câu chuyện này được Bậc Đạo Sư thuyết giảng trong khi Ngài đang ngụ ở tinh xá Trúc Lâm, liên quan đến một Ngạ quỷ nọ có miệng thúi!

Trong thời của Đức Thế Tôn Kassapa tại thế, có hai chàng thanh niên thuộc gia đình danh giá, đã xuất gia tu theo giáo pháp của Ngài và có đầy đủ giới hạnh, sống với nhau trong sự hoà hợp, đồng thời thọ trì các hạnh đầu đà và cư ngụ ở một ngôi làng nọ.

Rồi một hôm, có vị Tỳ khưu nọ, xu hướng theo những việc làm ác và thích đâm thọc, đã đến trú xứ của họ. Hai vị Trưởng lão đã tiếp đón vị ấy một cách thân mật và lo cho vị ấy đầy đủ nơi ăn chốn ở.

Vào ngày hôm sau, hai vị trưởng lão cùng với vị Tỳ khưu kia đi vào làng để khất thực. Khi trông thấy những vị này, dân chúng tỏ sự tôn kính tột bậc đến ba vị Trưởng lão và cúng dường đến họ một bữa ăn bằng cơm dẻo và những thứ khác.

Khi vị Tỳ khưu ấy đã đi vào Tịnh xá, bèn suy nghĩ rằng: “Ngôi làng này là một nguồn vật thực hấp dẫn, vì những người ở đây rất thành tín, dâng cúng các thức ăn ngon, có nước đầy đủ và quá ư mát mẻ. Ta có thể sống hạnh phúc ở đây; Nhưng chừng nào hai vị Tỳ khưu này còn cư trú nơi này thì ta không được thoải mái. Vì ta sẽ như một đệ tử thường trú. Thôi được, ta phải làm cho họ xa lìa nhau và khiến họ không thích sống ở đây nữa”.

Bởi vậy vào hôm nọ, khi vị Trưởng lão lớn đã giáo giới hai vị kia rồi thì vị Tỳ khưu đâm thọc đi vào chỗ ngụ của vị ấy, ở lại đó một chốc lát và rồi đi đến vị Trưởng lão lớn ấy. Trưởng lão hỏi vị ấy rằng:

– Này hiền giả, tại sao hiền giả đến vào lúc phi thời như thế?

– Thưa ngài, tôi có chuyện cần nói ra.

– Có chuyện gì thì thầy cứ nói!

– Thưa Ngài, vị Trưởng lão bạn của Ngài khoe mình như một người bạn trước mặt của Ngài, nhưng sau lưng thì nói những chuyện về Ngài như là một địch thủ. Khi được hỏi đó là điều gì, vị ấy nói rằng: “Vị Trưởng lão lớn láo cá, xảo quyệt và gian dối; vị ấy kiếm sống bằng những phương tiện bất chánh”.

– Đừng nói như vậy, này hiền giả, vị Tỳ khưu ấy không nói những chuyện như thế về tôi. Vị ấy đã biết tánh của tôi từ lúc chúng tôi còn là cư sĩ. Tôi luôn luôn có tánh thân ái và dễ thương.

– Nếu Ngài nghĩ như vậy do bởi tấm lòng của Ngài thanh tịnh, thời điều ấy xem như xong đối với Ngài. Nhưng tôi thì không có cảm nghĩ xấu đối với vị ấy như vậy, thế thì tại sao tôi lại nói cho

Ngài biết rằng vị ấy đã nói như vậy nếu vị ấy không nói điều đó?

– Tốt lắm, thưa Ngài, nhưng chính Ngài sẽ tự mình hiểu về điều ấy sau một thời gian.

Nhưng Trưởng lão vốn vẫn còn là một phàm phu, đâm ra bán tín bán nghi, tự hỏi rằng: “Có đúng như vị ấy nói không?” Và sự ngờ vực khởi lên trong tâm của Trưởng lão, lòng tin cậy của

Trưởng lão bị lay động một ít.

Sau khi đã làm ly gián vị Trưởng lão lớn, thầy tỳ khưu ấy cũng đưa vị Trưởng lão còn lại vào tình trạng tương tự như trên.

Vào ngày hôm sau, vị trưởng lão lớn chẳng hề nói chuyện với vị Trưởng lão kia khi mang y và bát ra đi. Thấy thế, vị Trưởng lão còn lại cũng rời bỏ trú xứ đến nơi khác.

Khi các tín chúng trông thấy vị Tỳ khưu đâm thọc đi một mình vào làng, mọi người bèn hỏi:

– Thưa Ngài, hai vị Trưởng lão đã đi đâu rồi?

– Họ cãi lộn nhau suốt đêm. Tôi đã khuyên họ đừng cãi cọ, mà hãy vâng lời Đức Phật dạy sống trong tinh thần hòa hợp, cố gắng nỗ lực công phu để đạt giác ngộ giải thoát, và rằng sự bất hòa sẽ dẫn đến bất hạnh, đem lại nhiều đau khổ trong hiện tại cũng như tương lai, và đưa đến những việc làm bất thiện; Hơn nữa, bấy nhiêu công đức mà mình đã vất vả tu tạo tích lũy được từ trước, xem như bị tiêu tan bởi cơn giận hờn tranh cãi… Nhưng họ đã bỏ đi và không quan tâm đến những lời khuyên của tôi!

Khi nghe điều này, dân chúng nài nỉ rằng:

– Hãy để những vị Trưởng lão ấy đi, nếu các vị ấy muốn như vậy. Nhưng Ngài phải ở lại đây vì lòng bi mẫn đối với chúng tôi. Ngài sẽ không có sự hối tiếc nào!

– Tốt lắm!

Khi đã ở lại đó trong vài ngày, vị Tỳ khưu ấy suy nghĩ, “ta đã gây bất hòa cho những vị Tỳ khưu có giới đức và có tánh dễ mến, do lòng ham hố trú xứ của ta. Chắc chắn ta sẽ làm một điều ác độc rồi!”

Và bị dày vò bởi lương tâm khó chịu cùng cực, vị ấy nhuốm bịnh bởi sức nặng của sự sầu khổ do ác nghiệp chính mình; chẳng bao lâu vị Tỳ khưu đâm thọc mạng chung và đọa vào địa ngục A tỳ.

Khi hai vị Trưởng lão kia ra đi lang thang khắp nơi. Bỗng một hôm, họ gặp nhau ở một chỗ ngụ nọ, và chào hỏi những lời thân thiện với nhau. Họ báo cho nhau biết về những lời ly gián mà vị Tỳ khưu kia đã nói, nên hòa hợp trở lại; bèn cùng nhau trở về trụ xứ cũ.

Khi dân chúng trông thấy hai vị Trưởng lão trở về, họ vô cùng vui sướng, và đầy hạnh phúc, dâng cúng hai vị Trưởng lão bốn món vật dụng. Hai vị Trưởng lão ở lại đó, được cung cấp bởi đồ ăn thích hợp và đã phát triển tuệ quán do sự tập trung của tâm, và không bao lâu sau cả hai đều chứng đắc quả A-la-hán.

Vị Tỳ khưu đâm thọc bị thiêu đốt trong địa ngục trong một thời gian thật dài giữa hai Đức Phật.

Sau đó sanh lên làm một Ngạ quỷ có miệng hôi thối, cách thành Vương Xá không xa. Thân của nó có màu sắc huỳnh kim, nhưng có những con giòi bò ra từ miệng và đục khoét chỗ này chỗ nọ trên mặt. Nó tỏa ra mùi hôi thối, xông khắp cả không trung.

Bấy giờ, khi Đại Đức Narada đi từ ngọn núi Kỳ Xà Quật xuống, Ngài trông thấy và hỏi về hạnh nghiệp mà nó đã tạo bằng câu kệ này:

-Thân ngươi sắc đẹp tuyệt vời,
Ai trông cũng thấy bầu trời phóng quang.
Nhưng nhìn kỹ rất kinh hoàng,
Miệng sao giòi tửa mùi toàn thối tha.
Nghiệp gì ngươi đã tạo ra,
Trong thời quá khứ nói ta nghe nào?

Khi được Trưởng lão hỏi về hạnh nghiệp mà mình đã làm, Ngạ quỷ liền thốt lên câu kệ để giải thích vấn đề:

-Tôi xưa là vị xuất gia,

Nói lời chia rẽ thúi tha không chừa.
Dầu công phu sớm lẫn trưa,
Nhưng về khẩu nghiệp tôi ưa xem thường.
Do tu tinh tấn miên trường,
Thân tôi tỏa sắc kim cương sáng ngời!
Và vì đâm thọc với đời,
Nên nơi cửa miệng mãi thời tanh hôi!
Khi Ngạ quỷ ấy đã trình bày nghiệp mà nó đã tạo, sau đó nó nói lên câu kệ kết luận:
– Chính Ngài đã thấy điều này,
Những người tốt bụng và hay giúp đời.
Khuyên “Đừng đâm thọc hai lời”,
Nếu được như thế cõi trời chờ trông.
Đời sau phước đến khỏi mong,
An vui hạnh phúc thỏa lòng ước ao!
Khi đã nghe qua điều này, Trưởng lão đi đến thành Vương Xá để khất thực. Khi đã độ thực xong trở về. Trưỡng lão đã nêu lên vấn đề này với Bậc Đạo Sư. Bậc Đạo Sư liền lấy đó làm đề tài thuyết giảng. Thời Pháp ấy đem lại lợi ích rất lớn cho đại chúng đang tụ họp ở đó.

5/- Ỷ Ngôn

Đã từng nghe, trung ngôn cho nên nghĩa lý rõ ràng, ỷ ngôn cho nên sai sự thực. Bởi trung ngôn cho nên có lẽ thật, có lẽ thật cho nên công đức phát sinh, công đức phát sinh vốn là nguyên do thành tựu đạo quả. Vì ỷ ngôn cho nên hư vọng, hư vọng cho nên gây ra tội lỗi, gây ra tội lỗi chính là duyên cớ nhận chịu khổ đau. Do đó, hãy nhớ rằng nếu hướng về lý mà tìm cầu giải thoát chứng đắc đạo quả, thì cần phải nói lời chân thật.

Lời nói nếu hư vọng không thật thì trái với chân lý, có nghĩa là lời nói không chính đáng, chắc chắn phải chuốc lấy muôn thảm ngàn sầu. Những lời nói có tính chất ỷ quyền, ỷ thế, ỷ học thức lanh lợi khôn ngoan gian ngoa mà mắng chửi, xài xể, hạ nhục người ta đều tạo ra nhân ác, nó chẳng lợi ích an lạc cho mình và người, chỉ tăng thêm phóng túng, nuôi lớn những mầm mống bất thiện, khi chết rồi rơi vào ba đường dữ. Đến lúc sinh lên làm người phải thọ lãnh thân phận: bạc phúc vô phần, nghèo đói kém hèn ngu dốt, hay bị ức hiếp, gièm pha chê bai sỉ nhục, dù có nói những lời chính đáng nhưng cũng bị khinh thường, chẳng ai tin tưởng.

Ngoài ra, hễ nói đến điều gì mà lời lẽ không biện giải rõ ràng, thì cũng gọi là ỷ ngữ. Vì vậy trong luận Thành Thật nói: “Lời nói tuy là chân thật nhưng không phải lúc không phải thời mà nói, cũng thuộc về ỷ ngôn vậy!”.

Như trong luận Trí Độ nói kệ rằng:
“Ỷ ngữ rơi vào loài ngạ quỷ,
Ngọn lửa từ trong miệng phun ra.
Khốn khổ chạy rong mãi kêu la,
Là vì báo ứng miệng gây ác.
Tuy là kiến thức thật uyên bác,
Thuyết giảng ai nghe cũng tuyệt vời.
Bởi không đúng chỗ và đúng nơi,
Thế nên mọi người chẳng tin tưởng.
Nếu muốn tiếng thơm lan khắp hướng,
Thảy đều quy ngưỡng nguyện phụng hành.
Thì nói ra phải thật chân thành,
Không vướng mắc lỗi lầm ỷ ngữ”.

Quả báo chính:
Ỷ ngử không hợp với chân lý,
Khiến người tưởng nghĩ những tào lao.
Đánh mất thiện căn cùng duyên tốt,
Địa ngục nước sôi miệng rót vào.
Sắt nóng đỏ rực thiêu đốt lưỡi,
Cháy thân chẳng để sót chỗ nào!
Nỗi khổ hãi hùng khó kham nhẫn,
Hét gào thảm thiết thật thương đau!

Quả báo phụ:
Lời nói thêu dệt che lẽ thật,
Vì vậy chìm sâu tam ác đạo.
Tạm rời nơi ấy được làm người,
Khốn khổ nghèo hèn thiếu cơm áo.
Nói ra giải thích không rõ ràng,
Thường bị gièm pha và chế nhạo.
Luôn nhận tủi nhục mang tiếng nhơ,
Suốt cuộc đời sống trong phiền não!

Thuở xưa, Đức Phật trú tại nước La-duyệt-kỳ, sai một vị La-hán tên là Tu Mạn đem tóc và móng tay Phật đến núi phía Nam nước Kế Tân xây chùa tháp Phật. Năm trăm vị La-hán trụ trong chùa đó, sớm chiều đốt hương đi xung quanh.

Khi ấy có năm trăm con khỉ thấy các Đạo nhân cúng dường bảo tháp, liền kéo nhau đến bên khe núi sâu vác đất đá bùn sình bắt chước xây một ngôi tháp, dựng cây làm cột rồi treo tràng phan lên đầu cây, sớm chiều lễ bái cũng như những Đạo nhân.

Một hôm nước lũ trong khe núi dâng cao, nhận chìm chết cả đàn khỉ. Thần thức chúng liền sinh lên cung trời Đao-lợi, là tầng trời thứ hai trong Dục giới. Ở trong cung điện thất bảo, việc ăn mặc tự nhiên hiện ra đầy đủ. Họ đều tự nghĩ: “Chúng ta do nhân duyên gì được sinh lên cõi trời này?”.

Rồi họ liền dùng Túc mệnh thông thấy tiền thân của mình là loài khỉ, nhờ bắt chước Đạo nhân xây tháp lễ bái chơi, tuy bị nước cuốn chết mà thần thức được sinh lên trời. Vì vậy họ muốn trở xuống đền ân thân cũ. Chư Thiên đó liền mang theo người hầu đem hương hoa, kỹ nhạc đến bên thây cũ rải hoa, đốt hương, đi nhiễu quanh thi thể bảy vòng.

Lúc ấy, trong núi có năm trăm vị Bà la môn ngoại đạo tà kiến, không tin tội phước, thấy chư Thiên rải hoa, trỗi nhạc, đi nhiễu quanh thây khỉ đều ngạc nhiên hỏi:

– Chư Thiên quang tướng uy nghi như vậy, cớ sao lại hạ mình cúng dường những cái thây thúi tha này?

Các Thiên nhân đáp:

– Những thi thể này chính là thân cũ của chúng tôi. Ngày xưa, chúng tôi ở đây bắt chước các Đạo nhân lập tháp miếu lễ bái chơi, bị nước khe dâng lên nhận chìm chết. Nhờ chút phước mọn đó nên nay được sinh Thiên. Hôm nay xuống rải hoa là để đền ân thân cũ. Chỉ đùa chơi làm chùa tháp mà còn được phước như thế, nếu chí tâm thờ Đấng Thế Tôn, phước đức đó thật khó mà ví dụ cho được. Các ông tà kiến không tin đạo chân chánh, thì dầu cực khổ siêng tu trăm kiếp cũng không được một chút lợi ích gì. Chi bằng hãy cùng chúng tôi đến núi Kỳ-xà-quật đảnh lễ, cúng dường Phật thì sẽ được phước vô lượng!

Các Bà la môn nghe vậy rất hoan hỷ, cùng chư Thiên đồng đến chỗ Phật, thành tâm đảnh lễ, rải hoa cúng dường.

Chư Thiên bạch Phật:

– Chúng con đời trước mang thân khỉ, nhờ ân Đức Thế Tôn mới được sinh Thiên, hận mình không được gặp Phật, nên nay đến để quy y.

Bạch Đức Thế Tôn, chúng con đời trước có tội gì mà phải mang thân khỉ, dầu xây dựng chùa tháp mà vẫn bị nước cuốn chết?”.

Đức Phật nói với các Thiên nhân:

– Việc này có nhân duyên, không phải tự nhiên mà có. Ta sẽ vì các ông mà nói rõ nguyên nhân.

Thuở xưa có năm trăm vị thiếu niên Bà la môn cùng nhau vào núi muốn học đạo Tiên. Lúc ấy, trên núi có một Sa môn định xây một tinh xá bằng đất bùn. Vị ấy xuống khe suối lấy nước thân thể nhẹ như bay. Năm trăm Bà la môn thấy vậy sinh tâm ghen ghét, đồng thanh cười nhạo: “Ông Sa môn này lên xuống lật đật như khỉ, có gì lạ đâu! Ông lấy nước như vậy mãi, có ngày sẽ bị nước nhận chết chìm!”.

Đức Phật kể xong, bảo với các Thiên nhân: “Ông Sa môn trên núi thuở đó chính là thân Ta, còn năm trăm vị Bà la môn niên thiếu chính là năm trăm con khỉ đó, vì cười đùa gây tội mà phải mắc quả báo như vậy.”

Bấy giờ Đức Thế Tôn liền nói kệ:

Đùa cười lầm lỗi,
Thân đã tạo tội.
Thọ báo khóc than,
Dễ nào tránh khỏi!

Đức Phật nói với các Thiên nhân:

– Các ông đời trước tuy là thân loài thú mà biết chơi đùa xây cất tháp miếu, nên tội diệt phước sinh, được sinh lên cõi trời. Ngày nay các ông lại biết đến đây phụng trì Chánh pháp, do nhân duyên này sẽ mãi mãi xa lìa các khổ.

Đức Phật bèn thuyết giảng Phật pháp cho họ nghe, xong thời pháp, năm trăm Thiên nhân thảy đều ngộ đạo. Năm trăm Bà la môn được nghe giảng về quả báo tội phước đều tự than:

– Chúng ta học theo tà đạo đã trải qua quá nhiều năm tháng mà chưa được chút kết quả nào, không bằng đàn khỉ chỉ đùa chơi làm phước mà được sinh Thiên. Đạo của Phật quả thật vi diệu!

Bấy giờ năm trăm vị Bà la môn đảnh lễ Đức Phật xin làm đệ tử. Đức Phật bảo:

– Lành thay, hãy lại đây các Tỳ kheo!

Năm trăm vị đó liền thành tướng Sa môn. Nhờ tu tập tinh tấn, chẳng bao lâu năm trăm vị ấy đều chứng quả A-la-hán.

Chế giễu người hiền phải chịu quả báo

Tại huyện Hào Châu thuộc tỉnh An Huy có một thanh niên tên là Tô Lan Đình. Anh là con trai duy nhất trong nhà nên được cha mẹ yêu thương, chìu chuộng hết mức. Từ sự chìu chuộng đó khiến cho anh ta trở nên hư hỏng, mặc sức làm theo ý mình.

Hằng ngày anh ta chẳng bao giờ thích làm các việc tốt, mà chỉ thích làm những việc xấu ác. Hễ thấy người làm thiện anh ta liền mắng chửi, cho đó là kẻ tâm ý giả dối. Thấy những thơ sách, kinh kệ thì cho đó là những lời nói bậy bạ để lừa bịp thiên hạ. Thấy người niệm Phật tu hành thì cho là việc mê tín dị đoan.

Năm anh ta ngoài ba mươi tuổi thì cha mẹ qua đời. Nhưng anh ta vẫn quen thói chơi bời lêu lổng nên cuộc sống lâm vào cảnh hết sức túng thiếu, nghèo khổ. Tuy vậy, anh ta vẫn thích ngao du đây đó để trêu chọc, quấy phá, làm cho mọi người phải nổi giận.

Một hôm, anh bỗng mắc một chứng bệnh rất quái dị, thân thể càng ngày càng bị co rút lại, nên mọi người cho đó là điều kỳ lạ; lại thấy toàn thân anh ta mọc đầy lông màu vàng trông giống như một người chó. Sau đó, vào một đêm, anh ta cởi hết quần áo lăn lộn trên mặt đất. Sau một trận gào thét bi ai, anh ta bỏ đi thẳng vào trong núi sâu. Từ đó trở đi, không ai còn trông thấy anh ta đâu nữa.

Người xưa có dạy:
Thiện là nguồn gốc của mọi điều phước.
Nói ít là quý, nói nhiều sẽ dễ sai lầm.

Tô Lan Đình làm việc bất lương, lại thường chế giễu, cản trở người làm việc thiện bằng những lời nói rất ác độc nên bị quả báo nặng nề. Đây là một bài học nhằm cảnh tỉnh đối với những kẻ hay chế giễu người khác làm việc thiện.

*Tấn Hiếu Vũ Đế tên là Tư Mã Diệu. Bình sinh có hai sở thích đó là uống rượu và tiếu lâm. Ông thích rượu như yêu bản thân, uống rượu như uống nước, cũng rất giỏi đùa giỡn người khác, thường khiến người khác phải cảm thấy kinh ngạc.

Tư Mã Diệu tự cảm thấy thỏa mãn với những màn giỡn chơi của mình, thường xuyên nghĩ ra đủ trò để tiếu táo làm vui. Nhưng có lẽ ông không bao giờ ngờ tới bi kịch vận mệnh của đời mình cũng bắt nguồn từ câu nói đùa không đúng lúc mà ra.

Ngày Canh Thân tháng 9 năm 396, ông dậy từ rất sớm thấy tâm trạng vô cùng sảng khoái phấn chấn, có ngẫu hứng, bèn truyền lệnh cho quần thần buổi trưa tụ họp tại Thanh Thử điện trong cung, để cùng uống rượu, bàn chuyện tiếu lâm.

Hôm ấy, ông cùng các quan uống rượu vui vẻ có sủng phi Trương Quý Nhân ở bên cạnh. Sau khi đã uống rất nhiều nhưng ông vẫn cố ép Trương Quý Nhân hầu rượu cho mình.

Trương Quý Nhân không giỏi uống rượu nên tìm mọi cách khước từ. Tư Mã Diệu sắc mặt không vui, tỏ vẻ giận dữ và nói đùa với nàng rằng: “Nàng hôm nay dám kháng chỉ phạm thượng, từ chối không uống rượu ta nhất định sẽ phạt tội nàng!”.

Trương Quý Nhân có chút hơi men nên cũng ương bướng cãi lại: “Thiếp nhất quyết không uống để xem hôm nay bệ hạ phạt thiếp tội gì?”.

Tư Mã Diệu ánh mắt nghi ngờ, đầu óc không còn được tỉnh táo nhưng vẫn làm mặt lạnh quay lại nói: “Nàng năm nay gần 30 tuổi, nhan sắc không còn như xưa, lại không sinh được con cho trẫm, nên phí một danh hiệu quý nhân, ngày mai trẫm sẽ phế nàng tuyển người mới!”.

Nói xong thì không còn tự chủ, nôn thốc tháo vào đầy người Quý Nhân. Trương Quý Nhân vội vàng đưa vua vào phòng ngủ. Tư Mã Diệu thực ra chỉ mượn rượu trêu đùa cho vui, nhưng đối với

Quý Nhân đây lại là chuyện kinh thiên động địa. Nghĩ đến nhan sắc của mình đã tàn phai, nay bị vua ghét bỏ nên vừa tức vừa hận, trong đầu nhen nhóm dã tâm.

Sau khi tắm rửa thay quần áo sạch sẽ, nàng liền cho gọi cung nữ tâm phúc lại nhẹ nhàng trèo lên giường. Thấy vua ngủ say như chết, liền dùng gối đậy lên mặt, sau đó dùng vật nặng đè lên người ông ta. Tư Mã Diệu giẫy giụa, ú ớ một lát cuối cùng thì tắt thở.

Sau khi tự tay giết ông chồng hoàng thượng của mình, Trương Quý Nhân tâm trạng như trút được gánh nặng. Hôm sau, nàng khóc lóc nói với mọi người rằng: “Đêm qua hoàng thượng uống say, ngủ mơ bị bóng đè mà chết”.

Để thoát tội “tru di cửu tộc”, người đàn bà lắm mưu nhiều kế lật lọng bao biện trước quần thần rằng: “Hoàng đế bị bóng đè mà băng hà!”.

Sau đó, Trương Quý Nhân đã âm thầm mang theo vàng bạc châu báu trốn đi mất dạng không ai biết tung tích. Chỉ có Tư Mã Diệu thân là bậc thiên hạ chí tôn, cũng đầy triển vọng vậy mà lại chết một cách lãng xẹt ở tuổi 35 chỉ vì một câu nói đùa không đúng lúc.

6/- Ác Khẩu

Phàm phu hiểm độc ngọn lửa giận hờn lúc nào cũng hừng hực bốc cao, gặp cảnh duyên bất như ý liền phát sinh giận dữ. Vì lẽ đó hễ mở miệng thì liền quát tháo thô lỗ, tục tằn, lời lẽ dơ bẩn, xấu xa, như những hầm cầu bay mùi nồng nặc, ai đi ngang qua cũng phải kinh tởm, nhờm gớm, nín thở vội bước nhanh chân, chẳng dám ngó nhìn.

Lời hung ác chẳng kể đạo lý luân thường, không nể kiêng Phật Trời cha mẹ, chửi bướng mắng càng người trưởng thượng, hiếp đáp dọa nạt kẻ dưới, hăm he huynh đệ họ hàng, trù rủa xóm làng bà con cô bác, nhục mạ hiền nhân réo kêu thần thánh, tợ bom nguyên tử hủy diệt muôn loài, sức tàn phá kinh thiên động địa, như ngọn lửa dữ thiêu đốt tất cả mọi công đức lành, tổn hại thân tâm của mình và người, đau đớn hơn bị dao cắt rồi đem chanh chà muối xát, trái ngược thiện tâm của Bồ Tát, cách xa diệu vợi với lời chỉ dạy từ ái của Đấng Như Lai.

Do đó, kệ trong kinh Nghiệp Báo Sai Biệt nói:

“Những lời thô ác tạo bất an,
Thích nói điều xấu của thế gian,
Cố chấp ngang bướng khó trừ diệt,
Đọa làm ngạ quỷ phun lửa than”.

Vì vậy luận Trí Độ nói: “Lúc ấy có một con quỷ, đầu giống như đầu heo, giòi bọ hôi thúi từ trong miệng sinh ra, thân có ánh sáng màu như vàng. Con quỷ này đời trước làm Tỳ kheo, mà ác khẩu hay mắng nhiếc Tỳ kheo nơi khác mới đến. Bởi thân giữ giới thanh tịnh cho nên thân có ánh sáng, do miệng có nói lời tệ hại cho nên giòi bọ hôi thúi từ trong miệng sinh ra”.

Trong kinh Tăng Nhất A Hàm nói: “Thà dùng kiếm sắc cắt đứt lưỡi của mình, chứ không vì lời nói thô ác mà chịu rơi vào ba đường dữ”.

Kinh Xuất Diệu có ghi: Xưa, thời Đức Phật tại thế, Tôn giả Mãn Túc nhập định, thấy mình đến cảnh giới ngạ quỷ, gặp một ngạ quỷ hình trạng xấu xí khó coi, người nào trông thấy đều phải sợ hãi lông tóc dựng đứng, không có ai không thất kinh hồn vía. Thân phát ra ngọn lửa hừng hực, giống như đống lửa lớn, miệng sinh ra giòi tửa, máu mủ chảy đầy, mùi hôi thối không thể đến gần. Có lúc miệng bốc lên ngọn lửa xa đến mấy chục mét, có lúc mắt tai mũi thân thể tay chân phát ra những ngọn lửa hừng hực, môi miệng xệ xuống giống như heo rừng, thân thể ngang dọc một do tuần. Tay tự cào cấu, cất tiếng gào khóc, chạy khắp mọi nơi thật khốn khổ.

Tôn giả bèn hỏi: “Ông gây ra tội lỗi gì mà nay phải chịu khốn khổ như vậy?”

Ngạ quỷ thưa rằng: “Xưa con xuất gia tham nắm giữ chặt phòng ốc lưu luyến không rời ra được, tự cậy thế mình dòng họ cao sang phát lời xấu xa tệ hại, nếu thấy Tỳ kheo tinh tấn trì giới, thì lại trừng mắt cất tiếng mắng nhiếc làm nhục họ, hoặc gây chuyện rắc rối ác hiểm cho họ.

Cho nên nay chịu khốn khổ như vậy. Thà dùng dao sắc tự cắt lưỡi mình chịu khổ nhiều kiếp, chứ không nên dù một ngày mắng nhiếc phỉ báng Tỳ kheo tinh tấn trì giới.

Nếu lúc Tôn giả trở về cõi Diêm phù đề, đem hình trạng của con để khuyên nhủ các Tỳ kheo, cố gắng giữ gìn lỗi lầm do miệng đừng tùy tiện nói năng, thấy người trì giới nên tán thán ca tụng đức hạnh của họ. Từ khi con nhận chịu hình trạng ngạ quỷ này đến nay đã mấy ngàn vạn năm, thường chịu nỗi đau khổ này, sau này mạng chung sẽ vào chốn địa ngục”.
Nói lời này xong, nó gào khóc rạp mình sát đất, như Thái Sơn đổ sụp, long trời lở đất. Đây là vì lỗi lầm của miệng, vốn khiến cho như vậy.

Kinh Bách Duyên ghi rằng: “Có người vợ Trưởng giả vào lúc mang thai, thân thể hôi hám bẩn thỉu ai cũng xa lánh. Khi đủ ngày tháng sanh con, chỉ là đứa trẻ da bọc xương, ốm yếu tiều tụy không thể nào nhìn được, lại nhiều phân dơ xoa đầy thân thể mà sống. Tuổi dần lớn lên không muốn ở trong nhà, ham thích phân dơ chẳng chịu xa rời. Cha mẹ bà con thân thích ghét bỏ không muốn trông thấy, đuổi ra khỏi nhà chẳng ai cho lại gần. Thế là bé lang thang khắp nơi thường tìm phân dơ ăn, mọi người trông thấy rồi vì thế đặt cho tên gọi là Giãm Bà La.

Một hôm được gặp Phật và xuất gia chẳng bao lâu đắc quả La Hán.

Chư tỳ kheo bèn hỏi nhân duyên quá khứ của thầy, Đấng Đạo Sư cho biết:

Vào thời quá khứ có Đức Phật xuất thế, danh hiệu là Câu Lưu Tôn, vị thầy này xuất gia làm chủ chùa, có những thí chủ giặt rửa cho chúng Tăng xong, lại dùng dầu thơm xoa trên thân thể chúng

Tăng. Hôm nọ, một vị A La Hán từ phương xa mới đến được chư tín chủ xoa dầu thơm, chủ chùa đột nhiên trông thấy, liền giận dữ mắng nhiếc:

– Ông là người xuất gia, dầu thơm xoa ướp thân thể, giống như dùng phân người bôi trên thân thể ông!

La Hán thương xót bèn hiện bày các thứ thần thông, chủ chùa thấy rồi sám hối tội lỗi nguyện xin trừ diệt lỗi lầm. Bởi vì sự mắng chưởi tệ hại này, trong năm trăm đời bị quả báo thân thường hôi hám bẩn thỉu, không một ai dám đến gần. Chủ chùa nhờ xưa kia đã hướng về La Hán kia sám hối, cho nên nay được gặp Phật mà xuất gia đắc đạo. Vì thế cho nên chúng sanh cần phải giữ gìn khẩu nghiệp đừng mắng nhiếc làm nhục lẫn nhau.”

Lại trong kinh Bách Duyên nói: “Thời Đức Phật tại thế, trong thành Vương Xá có một Trưởng giả, tiền bạc châu báu vô lượng không thể tính được. Vợ của Trưởng giả mang thai mười tháng tròn thì đến lúc phải sanh con, nhưng thai nhi không chịu ra.

Về sau lại có thai, đã đủ mười tháng thì sanh được một người con. Thai nhi mang trong bụng trước đây vẫn còn nằm ở sườn bên phải.

Như vậy lần lượt mang thai chín người con, đều đủ mười tháng mà sanh ra, chỉ riêng một người con đầu tiên cố tình ở trong bụng không chịu ra.

Mấy mươi năm sau, một hôm bỗng nhiên bà vương bệnh, ông Trưởng giả cho người mời các danh y đến để chữa trị cho bà. Mặc dù đã thay thầy đổi thuốc lắm phen, nhưng bệnh của bà vẫn không thuyên giảm mà ngày càng trầm trọng thêm hơn.

Bà tự biết mình không thể qua khỏi, nên dặn dò mọi người trong nhà rằng: “Đứa con trong bụng tôi vốn là còn sống chứ chưa chết, nay nếu như tôi có mất đi, thì ắt phải mổ bụng tôi bắt lấy con ra mà nuôi nấng”.

Sau khi bà mạng chung. Những người trong quyến thuộc chở thi hài đến thi lâm, rồi mời Đại danh y Kỳ Bà, mổ bụng coi xét, thì có được một đứa bé, hình dáng vốn là trẻ nhỏ nhưng đầu tóc bạc trắng, lưng còng cúi xuống mà đi, quay đầu nhìn bốn phía và nói với những người thân rằng: “Mọi người nên biết, bởi vì thân đời trước tôi ác khẩu mắng nhiếc làm nhục chúng Tăng, cho nên ở trong chỗ nóng bức tối tăm này trải qua sáu mươi năm, nhận chịu khổ não như vậy khó có thể nói hết được”.

Những người thân nghe rồi khóc sụt sùi xót xa không nói sao nên lời.

Lúc bấy giờ Đức Thế Tôn từ xa biết thiện căn người này đã chín muồi, liền dẫn đại chúng đi đến nơi đặt thi thể người mẹ, bảo cho đứa trẻ biết rằng: “Ông là Trưởng lão Tỳ kheo phải không?”

Thưa rằng: “Bạch Thế Tôn! Thật sự như vậy!

Lần thứ hai, thứ ba cũng lập lại câu hỏi ấy, đứa bé cũng đáp lại như vậy.

Bấy giờ đại chúng thấy đứa bé này cùng với Đức Phật đối đáp, đều khởi nghi hoặc trong lòng, nên tiến lên thưa với Đức Phật rằng: “Bạch Đức Thế Tôn! Người già này xưa kia tạo ra nghiệp gì, hôm nay ở trong bụng mẹ đến bạc tóc, lưng còng cúi xuống mà đi, lại cùng với Như Lai hỏi đáp qua lại với nhau như thế?”

Bấy giờ Đức Thế Tôn bảo với đại chúng rằng: “Trong Hiền kiếp này, có Đức Phật xuất thế, danh hiệu là Ca Diếp. Có các Tỳ kheo vào mùa an cư, chúng Tăng hòa hợp cử ra một Tỳ kheo tuổi đã già nua làm Duy na Tăng. Cùng nhau chế định trong mùa hạ này mọi người cần phải đạt được đạo quả, thì cho phép cùng nhau tự tứ, nếu ai chưa đắc quả thì không cho phép tự tứ!

Khi mãn hạ vị thầy Duy na không đạt được đạo quả, chúng Tăng căn cứ vào quy ước chế định ban đầu nên không cho phép ông tham dự Bố tát tự tứ. Do vì không được tự tứ, tâm tư buồn phiền mà ông phát ra lời nói như vầy: “Một mình tôi vì các ông mà quản lý việc của Tăng chúng, để cho bọn các ông yên ổn hành đạo, nay lại trở ngược còn không cho phép tôi tự tứ Bố tát!”

Tức thì giận dữ mắng nhiếc nhục mạ chúng Tăng, lát sau liền quay vào trong phòng đóng chặt cửa, cất tiếng nói to rằng: “Khiến cho bọn ông thường sống nơi tối tăm không thấy ánh sáng, như tôi bây giờ ở trong phòng tối này”.

Nói rồi tự kết liễu mạng sống của mình, thần thức liền đọa vào trong địa ngục nhận chịu khổ não vô cùng. Nay mới được thoát ra cho nên ở trong thai mẹ chịu sự khổ não như thế.

Chúng Tăng nghe xong đều tự mình giữ gìn ba nghiệp, chán ngán xa lìa sanh tử, có người đạt được bốn quả Sa môn, có người phát tâm Bích Chi Phật, có người phát tâm Vô thượng Bồ đề. Lúc ấy những người thân thuộc dẫn đứa trẻ tuổi già trở về nhà nuôi dưỡng. Thời gian sau đứa bé xuất gia, và đạt được quả vị A la hán.

Đức Phật bảo với các Tỳ kheo: “Bởi vì ở thời xa xưa cúng dường chúng Tăng và làm Duy na quản lý việc của Tăng chúng, cho nên nay được gặp ta mà xuất gia đắc đạo”.

Còn như bổn phận nữ nhơn,
Chữ trinh là báu của thân khá gìn;
Bên trong của gia đình khéo xử,
Phải rành bề kim chỉ nấu nêm.
Dung nghi cần được đoan nghiêm,
Nằm ngồi đi đứng càng thêm chỉnh tề.
Đừng tập tánh ngồi lê đôi mách,
Đem chuyện người kẻ vạch cho ghen;
Tập lời dịu ngọt cho quen,
Những lời mắng chửi rủa nguyền phải xa.
Làm cha mẹ phải là khuôn mẫu,
Cần tránh xa tật xấu cho con;
Việc mình phải giữ cho tròn,
Tất là sẽ khiến cháu con theo mình.
Con lỡ phạm kêu lên dạy dỗ,
Lẽ nên hư phân tỏ rạch ròi;
Chớ lời thô lỗ khó coi,
Nhứt là tránh việc đòn roi dữ dằn.

Quả báo chính:
Ác khẩu mũi tên tẩm thuốc độc,
Chất độc tàn hại khi dính phải,
Địa ngục mở cửa sẵn đợi chờ,
Hầm rắn núi đao hết phương chạy.
Cắt lưỡi tự mình cầm lấy ăn,
Gào thét đớn đau thật kinh hãi.
Nếu không ích lợi chi cho mình,
Xét suy khi nói tất vô hại!

Quả báo phụ:
Ác khẩu khiến cho người đớn đau,
Phải vào địa ngục mà thọ nạn.
Báo còn sót lại sanh nhân gian,
Bên tai luôn nghe lời súng đạn!
Giả sử có bàn luận điều gì,
Bị mạ lỵ khinh chê thù oán.
Cam phận hèn mọn mãi sợ lo,
Tủi nhục sầu đau quanh năm tháng.

*Thời nhà Đường, Dương Sư Thao là người làng Đông Dương, huyện Lễ Tuyền, Ung Châu. Ông làm quan Tư trúc giám, sau đó chuyển đến nhậm chức Huyện úy huyện Lam Điền.

Năm thứ 21 niên hiệu Trinh Quán, bị bãi chức nên trở về nhà tự cày cuốc làm ăn sinh sống. Nhưng ông vốn có tánh độc ác và bạo miệng, từ nhỏ đến lớn chỉ thích tìm hiểu lỗi lầm của người ta, cứ mỗi lần người trong làng có chuyện gì thì ghi chép tố cáo với quan phủ. Ty huyện thấy ông đã từng làm việc trong triều cho nên cũng giữ chút thể diện. Nhưng ông vẫn cứ ác hiểm không chịu hối cải, nhiều lần quấy nhiễu kiện tụng bừa bãi, kiếm chuyện sai sót của người mà chẳng cần biết gì lớn bé, cứ luôn luôn dọa nạt làm cho họ sợ hãi.

Ở trong thôn xóm của mình, không có chuyện gì cũng bất ngờ tìm mọi cách chỉnh lý, lớn nhỏ mỉa mai chỉ trích, tùy tiện gây ra điều rắc rối; chỉ có trâu dê thả rông, trai gái tranh luận với nhau, ông cũng mang lên tới huyện. Huyện lệnh là Bùi Cù Đàm vì vậy mà rất phiền toái, ban đầu nhiều lần cho là phải, về sau thấy sự việc có nhiều điều không hợp lý; Sư Thao sau đó thẳng đến châu phủ, hoặc dâng biểu khắp nơi.

Ác tâm của ông ngày càng lớn, mọi người đều không ưa gặp mặt.

Lắm lúc ông tự biết tánh ác của mình, cũng hướng về mọi người nói rằng: “Tánh tôi quả thật là nóng nảy bạo miệng”.

Từ thời Vũ Đức về sau ông đã bốn lần thọ giới, giữ gìn thực hành lễ bái, hàng ngày đọc tụng kinh kệ, chỉ bày cho người làm điều thiện; nhưng nếu ai có điều gì hơi xâm phạm đến ông, thì ông không thể nào nhịn được.

Lần nọ, vào đêm mồng bảy tháng tư, niên hiệu Vĩnh Huy thứ nhất, bỗng nhiên có một người từ phía Đông đi đến, cưỡi ngựa trắng mặc áo đen, đi thẳng đến cửa nhà ông.

Sư Thao trông thấy liền cùng chào hỏi chuyện trò với nhau xong, người ấy nói: “Quan Đại giám Đông Dương có ý sai tôi truy tìm ông, bởi vì ông từ lúc sinh ra đến nay, tâm hiểm độc trói buộc mãi không thể nào chịu từ bỏ được, gặp người ta thì giảng giải khuyến khích làm thiện, còn bản thân mình thì trì giới không trọn vẹn; tham lam keo kiệt không hề bố thí, tự nói rằng mình có thiện tâm cúng dường Tam Bảo, nhưng mà chưa hề bố thí một chút tài vật; tuy miệng nói là hổ thẹn, mà trong lòng thì nảy sinh mưu kế khác làm cho phàm tục bị mê hoặc, vì vậy cho gọi ông!”

Lát sau không trông thấy người ấy đâu cả. Sư Thao đang ở trong cổng bỗng nhiên ngã nhào xuống đất, cứng miệng cứng hàm, chỉ có trên ngực còn chút hơi ấm, người nhà khiêng đem vào trong nhà nằm, suốt đêm không tỉnh.

Thế là ông đã đến chốn Đô lục Đông Dương. Lúc ấy Phủ quân Đại nha chưa phân tán.

Ông liền lén theo người trong nha môn đi xem mọi nơi; đâu cũng có bàn ghế giường phãn, thật vô cùng đẹp đẽ sang trọng, cũng có những người bị cầm tù, hoặc mang gông xiềng từ trên đầu xuống ngang hông, hoặc đứng ngồi đi lại, tội nhân như vậy nhiều không thể tính đếm.

Ông hướng về phía Đông đi đến một nơi, ở trong lỗ hổng rất nhỏ, chỉ thấy đốm lửa rất nhỏ tỏa ra mùi khói ngửi thấy khét lẹt, không thể chịu nổi. Lại có hai người, tay cầm gậy sắt sửa lại đầu cổng, ông nhân đó hỏi người cầm gậy: “Đây là nơi nào?”

Người đó đáp rằng: “Đây là địa ngục lửa dữ, định sửa sang để giam người trì giới không trọn vẹn, hoặc là người tu thiện nửa chừng ngưng hẳn, biết mà cố tình vi phạm, chết sẽ vào nơi này, nghe nói có một người tên Dương Sư Thao, cả đời thích nói đến sai lầm của người ta, cứ mỗi lần tố cáo lên quan phủ là nói chuyện hay dở của họ, gặp người ta thì làm ra vẻ biết hổ thẹn, mà có một chút xâm phạm thì thật sự không thể nào nhịn được, nay sắp đẩy vào chỗ này, cho nên phải sửa chữa lại, người đó trong hôm nay là ngày mồng tám tháng tư, người nhà vì Sư Thao đã chết mà bố thí cúng lễ trai phạn, các quan trong phủ bình xét làm sáng tỏ còn tha cho trở về, nhưng chưa được biết quyết định là tiến hay dừng, tôi phải ở nơi này chờ đợi Sư Thao”.

Ông nghe xong liền rập đầu lạy nhận lỗi mà tự nói rằng: “Dương Sư Thao chính là đệ tử này đây, nguyện tìm cách giúp cho, nếu được cứu thoát thì xin sửa mình”.

Người ấy đáp rằng: “Ông chỉ dốc lòng thành kính lễ lạy chư Phật mười phương, tâm thiết tha sám hối chừa bỏ lòng hiểm độc, thì sẽ được vãng sanh, không đến chỗ này đâu, tuy chất chứa ý niệm xấu ác nhưng một khi có thể hối hận thì vẫn được thay đổi, như hành Bồ Tát hạnh xả bỏ thân mạng không tiếc thì được sanh về Tịnh Độ!”

Ông được nghe lời này rồi, lập tức y theo lời dạy phát lộ ân cần sám hối, liền được tha thứ trở về nhà, trải qua ba ngày được sống lại.

Sư Thao khi tỉnh lại rồi kể đầu đuôi sự việc này.

Thời gian sau ông đến chỗ Thiền sư Huệ Tĩnh sám hối sữa chữa lỗi lầm, tuổi đến hơn bảy mươi thường ngày ăn chay lễ sám sáu thời. Sự tu của ông rất chuyên cần và chân thật.

Lần nọ, trên đường đến Lam Điền, nhân tiện đi thăm ruộng lúa, thì ông thấy ba con trâu mặc sức ăn lúa mạ, bèn đến bên trâu mà sanh tâm hổ thẹn, không dám đuổi ra. Trở về nhà, ngày hôm sau đi xem ruộng lúa thì ruộng lúa không hư hại gì, chỉ có dấu tích của trâu để lại.

Đêm ấy nằm mộng thấy có người đến nói với ông rằng: “Tôi là người đi sứ cố tình đến tìm ông, ông đã ngừng hết niệm ác nên không tiếp tục truy bắt ông nữa, ông chỉ cần thường xuyên chân thành tu thiện, không cần phải lo buồn”.

Vùng phía Tây của huyện Kinh Dương có ngôi chùa Trần Vương, nhiều người tụ tập, ông đến giữa mọi người kể lại đầy đủ việc ấy, kẻ tăng người tục thảy đều kinh hãi cảm thấy Phật pháp mầu nhiệm nên lễ sám càng thêm tha thiết.

A La Hán ăn mày

Giáo pháp của Đức Phật vô cùng bình đẳng, không có sự chênh lệch giai cấp, không có sự sai biệt sang hèn.

Lúc Đức Phật trú tại tinh xá Kỳ Viên, đến bữa ăn Ngài đi vào thành Xá Vệ khất thực, không phân biệt phú quí bần tiện, giàu nghèo, khôn ngu, đẹp xấu, Ngài xem tất cả đều bình đẳng khiến cho nhà nào cũng có được cơ hội gieo trồng hạt giống phúc đức.

Mỗi khi Đức Phật dẫn đầu đoàn đệ tử khất thực, thì sau lưng Ngài có rất nhiều người ăn mày đi theo. Nhờ uy đức của Ngài, họ cũng được mọi người phát tâm từ bi bố thí.

Thời gian chầm chậm trôi qua, những người hành khất này nhờ thế mà kéo dài được mạng sống hạ tiện của họ. Có một hôm, người đứng đầu trong đám ăn mày ấy nói với các đồng bạn rằng :

– Chúng ta thuộc về hạng chúng sinh tội khổ, tuy nương dựa vào ánh sáng từ bi của Đức Phật để được mọi người bố thí mà kéo dài mạng sống, nhưng cứ tiếp tục như thế này mãi cũng chẳng đi tới đâu. Tôi thiết nghĩ, hay là chúng ta kéo nhau đến chỗ của Ngài để xin xuất gia, y Pháp mà tu hành, tương lai không phải là được giải thoát cả hay sao? Các bạn nghĩ như thế nào?

Tất cả mọi người ăn mày đều tán thành ý kiến này, thế là họ cùng nhau kéo đến tinh xá Kỳ Viên, cầu xin Đức Phật cho họ xuất gia để tiêu trừ tội khổ.

Đức Phật nói:

– Pháp của Ta bình đẳng, bất kể kẻ trí hay người ngu, giàu sang hay nghèo hèn, ai cũng có thể được truyền trao giáo pháp, được pháp quang chiếu rọi. Pháp của Ta là pháp thanh tịnh, người tốt hay kẻ xấu ai cũng có thể bỏ sự ô uế để được trong sạch, hồi phục lại chân tánh căn bản. Hôm nay các ông xin xuất gia, đó là do thiện duyên của các ông, các ông chỉ cần tuân theo giáo pháp của Ta thì Ta cho phép các ông gia nhập tăng đoàn, thành những vị tỳ kheo.

Các vị hành khất nghe Đức Phật nói xong hết sức vui mừng, cạo hết râu tóc và khoác pháp y vào. Từ đó họ nỗ lực ra công, diệt trừ tham sân si trong tâm, hiểu rõ căn nguyên của sinh tử, nên lần lượt đã chứng được quả A La Hán.

Lúc Đức Phật cho phép đoàn người hành khất xuất gia, trong dân chúng có rất nhiều người nghi ngờ, vẫn còn ôm giữ tà kiến nên dùng lời oán than phản đối, cho rằng tăng đoàn vốn tôn quý thanh tịnh, không nên để cho bọn ăn mày ấy được phép gia nhập. Quan niệm giai cấp trong tâm ý của những người này hãy còn rất nặng nề.

Có một hôm, thái tử Kỳ Đà làm một cỗ chay thịnh soạn để cúng dường Đức Phật và chư tăng, nhưng ông dặn rõ ràng rằng:

– Kính bạch Đức Thế Tôn! Ngày mai con rất hoan hỉ cung thỉnh Phật và chư tăng đến nhà con thọ cúng, nhưng không có chỗ cho mấy ông tỳ kheo hành khất nọ, xin Thế Tôn đừng mang họ theo!

Ngày hôm sau, lúc lên đường đến cung điện thái tử Kỳ Đà thọ cúng, Đức Phật nói với các vị tỳ kheo đã có thời làm hành khất nọ:

– Hôm nay ta nhận lời thỉnh của thái tử Kỳ Đà đến nhà ông ấy dùng cơm. Các ông hãy đi về phía bắc, đến châu Uất Đan Việt, hái thức ăn như lúa canh v.v… tới nhà thái tử Kỳ Đà rồi tùy ý tìm chỗ mà ngồi ăn!

Các vị tỳ kheo hành khất hiểu ý của Đức Phật, tuân lệnh lên đường. Họ dùng thần thông nên đến châu Uất Đan Việt trong nháy mắt, hái đầy bình bát lúa canh đã chín mang về. Về tới chỗ, họ làm thành một nhóm 500 người, xếp hàng thành chữ “nhất”, từ không trung bay xuống, uy nghi, chỉnh tề, trang nghiêm, khiến ai nhìn thấy cũng phải tỏ lòng tôn kính tán thán. Khi họ đến cung điện của thái tử Kỳ Đà, 500 người theo thứ tự an nhiên ngồi xuống, mỗi người mở bát lấy lúa canh mang theo mà dùng, mùi hương từ trong bình bát lan xa thơm ngát cả vùng.

Thái tử Kỳ Đà nhìn thấy các vị tỳ kheo này rất lấy làm lạ, bèn hỏi Đức Phật:

– Bạch Thế Tôn, các vị đại A La Hán mới từ không trung bay xuống, thái độ uy nghi lẫm lẫm khiến ai nhìn thấy cũng phải tôn kính ấy, chẳng hay từ đâu mà đến? Thỉnh Phật từ bi nói nhân duyên của họ cho con được biết!

Đức Phật nhìn đại chúng, nhìn sang thái tử Kỳ Đà rồi sau đó mới nói một cách từ hòa:

– Thái tử Kỳ Đà! Ông hãy nghe ta nói: Các vị tỳ kheo ấy chính là những vị tỳ kheo hành khất mà hôm qua ông nhất định không muốn cúng dường. Vì ông không mời họ nên hôm nay họ phải đến châu Uất Đan Việt hái lúa canh đã chín mang về đây dùng.

Thái tử Kỳ Đà nghe thế lấy làm vô cùng xấu hổ, biết mình đã có lỗi khinh mạn và tà kiến, buồn rầu hối hận mà tự trách rằng:

– Con thật là ngu si, không biết đâu là thánh đâu là phàm, có mắt đứng trước núi Thái Sơn mà không thấy, thật là đáng tội!

Nói xong vội vàng bày bàn cỗ thức ăn, thỉnh 500 vị La Hán vào bàn rồi hỏi Đức Phật rằng:

– Bạch Thế Tôn, 500 vị La Hán được Phật giáo hóa không lâu đã chứng đắc quả vị, lìa khổ được vui. Đã được một phúc báu to lớn như thế, thì tại sao lúc ra đời lại sinh ra trong nhà hạ tiện?

Thỉnh Thế Tôn từ bi khai thị cho con!

Đức Phật bèn ôn tồn giảng giải cho đại chúng nghe:

– Vào thời quá khứ thật lâu xa, có một thế giới to lớn gấp bội lần thế giới hiện tại của chúng ta. Trong thế giới ấy có một quả núi cao, trên ấy có nhiều vị tu hành và tiên nhân tu đạo cư ngụ. Vì thế người ta bèn đặt tên cho quả núi ấy là Tiên Sơn.

Trong núi, lúc ấy có hơn 2000 vị tu đạo sinh sống, vị nào cũng đã chứng quả thánh.

Có một năm, trời không mưa trong một thời gian rất lâu nên nạn hạn hán lan tràn, không có cách nào canh nông trồng trọt trên núi, vì thế đời sống trở nên vô cùng khó khăn. Vừa may có một nhà buôn cự phú tên là Tán Đàn Ninh, thiết lễ cúng dường hơn 2000 vị thánh nói trên. Vị trưởng giả rất thành tâm, không hề có ý niệm lẫn tiếc nào, còn bảo mấy trăm gia nhân trong nhà phải mỗi ngày phục dịch hầu hạ các vị thánh nhân ấy. Ban đầu thì những gia nhân này làm việc hăng hái chăm chỉ, nhưng về sau họ đâm ra chán nản, thốt ra những lời trách oán, thái độ càng ngày càng lơ là, lười biếng. Nhưng trưởng giả Tán Đàn Ninh không hề hay biết gì về sự việc này.

Một hôm trời đổ mưa, nhà nông vui mừng như bắt được vàng. Hai ngàn vị thánh nhân lên núi trở lại lo việc làm ruộng, trưởng giả cũng bảo gia nhân bắt đầu gieo hạt. Mọi người lấy nông cụ ra, từ sáng đến tối ngoài đồng làm việc, lúa mạch, lúa mì, đậu, ngũ cốc v.v… không đâu là không có. Những gì họ khổ công gieo trồng mọc lên rất mau, chín vàng, ra quả to như quả dưa. Trưởng giả rất vui mừng, bảo họ phải cố gắng thêm, tưới tẩm thêm, bón phân thêm, đến lúc gặt hái thì thu hoạch càng thêm phong phú, kho vựa đầy ăm ắp. Chỗ còn dư thì đem chia cho mọi người và bố thí cho dân chúng trong nước.

Lúc ấy, những người đã phục dịch thánh chúng lúc trước cảm thấy ân hận, xấu hổ, biết lỗi của mình nên từ đó phát nguyện “mấy trăm người chúng ta đây, lúc trước đã tạo khẩu nghiệp, bây giờ biết sám hối sửa lỗi, từ bây giờ trở đi nguyện làm nhiều việc thiện, phụng sự người khác, cầu mong kiếp tới gặp được thánh hiền, tu hành giải thoát”.

Này Thái tử Kỳ Đà! Mấy trăm người làm công ấy, vì đã tạo khẩu nghiệp nên nhiều kiếp phải chịu cái khổ sinh ra làm ăn mày. Nhưng nhờ biết hối lỗi, nên hôm nay họ đã được gặp Phật. Trưởng giả Tán Đàn Ninh chính là Ta trong kiếp trước. Nhờ những nhân duyên như thế nên kiếp này họ mới được độ.

Đức Phật nói xong, thái tử Kỳ Đà và những người cùng nghe đều hoan hỉ không kể xiết, tất cả đều phát tâm chuyên cần tu hành, sám hối tội lỗi, cầu đạo vô thượng Bồ Đề.

7/- Vọng Ngữ

Nghĩ rằng đeo mang hình hài con người thế gian, gặp thời uế trược này; tiếp nhận bản chất thân thể giả tạm, cảnh duyên hư ảo. Vì thế vọng tưởng hư cấu, lòng thường mê muội, tâm cảnh trái ngược, lời nói đều giả. Trước mọi người dối trá thêm thừa huyễn hoặc, có nói không, không nói có, láo xược trớ trêu, khoe khoang tự đắc, tự ý thêm bớt đủ điều, mặc tình dặm mắm dặm muối, khiến cho kẻ nghe sanh ra hiểu biết lệch lạc sai lầm, tạo nên muôn vàn khổ đau tranh nhau trói buộc, trăm mối ưu sầu cùng nhau tụ tập, mù mờ pháp tắc, hoại loạn lý thật lẽ chân, hết thảy đều do nói dối mà ra. Gieo trồng nhân tố hư vọng, cảm lấy quả báo hung hiểm nơi địa ngục non kiếm rừng đao nước sôi lửa đỏ, kéo lưỡi trâu cày vô cùng khổ đau thống thiết, ngàn đời vạn kiếp chẳng có hạn kỳ thoát ly!

Khế kinh, Đức Phật dạy: “Nói đến vọng ngữ, đó chính là tự lừa dối mình và cũng lừa dối người khác. Vọng ngữ khiến cho tâm hồn xấu xa, ý nghĩ và lời nói mâu thuẩn với nhau, tạo nên cõi lòng ngập tràn phiền muộn. Vọng ngữ là làm cho miệng mình dơ bẩn, làm cho thân mình khốn đốn, Trời Thần đều xa lánh từ bỏ. Vọng ngữ là nhân làm cho thiên hạ khinh khi miệt thị, làm mất đi cội rễ của mọi điều lành, làm cho mình tăm tối ngu si không nhận ra đường đi hướng về nẻo thiện. Vọng ngữ là nền tảng cốt lõi tất cả các điều ác, là nguồn gốc cắt đứt cơ hội hành thiện tích đức, đoạn dứt đời sống thanh thản an lạc cho chính bản thân mình”.

Quả báo chính:
Giỏi khéo vọng ngữ lường gạt người,
Phải vào địa ngục mà thọ nhận,
Cưa lửa cắt xẻ nát hình hài,
Sắt nóng nướng lưỡi ngày ngàn bận.
Nước đồng sôi sục miệng rót vào,
Đinh sắt đâm lưỡi nát thành phấn.
Đau thấu tâm can xương tủy tan,
Thống thiết bi thương vô cùng tận!

Quả báo phụ:
Vọng ngữ đọa vào tam ác đạo,
Tội lỗi ba đường đã trả xong,
Trở lại làm người ắt phải chịu,
Thường bị phỉ báng rất đau lòng.
Chẳng ai thành thật luôn lừa dối,
Oán hận trào dâng tợ lửa hồng!
Người trí khá nên đừng tạo tác,
Siêng tu bi nhẫn dứt cùm gông!

Khi Phật còn tại thế, La Hầu La sau khi xuất gia, vì tuổi nhỏ không biết cẩn thận giữ gìn khẩu nghiệp. Như khi Phật tử đến hỏi:

– Hôm nay Đức Thế Tôn có trong tịnh xá không?

La Hầu La biết có Đức Phật, nhưng cứ tùy tiện nói dối là không. Đến khi Đức Phật đi hoằng hóa nơi khác, Phật tử đến hỏi, thì La Hầu La lại nói là có.

La Hầu La nói dối như vậy nhiều lần, có người bạch lên Phật.

Một hôm, Đức Phật đi khất thực mang bát về, bảo La Hầu La đem nước đến cho Ngài rửa chân. Rửa xong, Ngài hỏi La Hầu La rằng:

– Nước này có thể dùng nấu trà, nấu cơm được không?

La Hầu La đáp rằng:

– Kính bạch Thế Tôn! Không được, vì pha trà, nấu cơm phải dùng nước trong sạch mới được. Nước này đã rửa chân rồi, thành ra dơ bẩn, đâu có thể dùng được.

Đức Phật dạy:

– Đúng thế! Ông cũng như vậy. Ông thường nói lời giả dối với người, cũng như nước đã rửa chân nhơ bẩn không thể dùng pha trà, nấu cơm. Ông thường nói dối thì không thể tu đạo vô lậu.

Phật dạy như vậy rồi, lại bảo La Hầu La đổ nước và đem chậu úp lại chỗ cũ. La Hầu La vâng lời, Phật lại bảo La Hầu La đem nước đổ lên chậu, nước chỉ lưu lại một chút ít trên đáy chậu.

Phật biết rõ, nhưng cố ý hỏi rằng:

– Nước đổ vào chậu sao lại không có?

La Hầu La bạch:

– Kính bạch Thế Tôn! Nước không còn trong chậu vì chậu đã úp lại cất.

Bấy giờ, Phật mới nghiêm khắc quở trách rằng:

– Ông là người không có tâm hổ thẹn, do tội vọng ngữ che lấp tâm tánh như nước không chảy vào chậu, ông không thấm đạo cũng như thế.

La Hầu La được sự giáo huấn của Phật, biết vọng ngữ là điều quyết không được làm. Từ đấy về sau không bao giờ nói một lời vọng ngữ nào nữa!

Một câu chuyện rất thương tâm

Vào một đêm mùa đông, cục cảnh sát nhận được điện thoại thông báo có người tự tử trên một cây cầu ở ngôi làng ngoại ô thành phố. Tới nơi, họ phát hiện trên cầu là một phụ nữ trẻ treo cổ tự tử, thời gian chết vẫn chưa được lâu.

Phía cảnh sát điều tra đến ngôi làng gần đó để tìm hiểu về thân nhân của nạn nhân, lúc tới nơi, lại gặp một cảnh khiến người ta không khỏi kinh động.

Khi họ bước vào nhà của người phụ nữ kia, cảnh tượng đầu tiên là một đứa trẻ chưa đầy 1 tuổi bị chết cóng trên giường. Cạnh đó, cha đứa trẻ đang khóc lóc bi thương trước cái chết của con mình. Anh ta kể lể hết mọi việc nhưng không hề hay biết tin gì về cái chết của vợ.

Thì ra, khi người chồng ra ngoài gặp gỡ bạn bè uống rượu, vợ ở nhà một mình trông con. Sau khi người chồng trở về, người vợ nổi giận đùng đùng trách mắng chồng ra ngoài cặp bồ, có quan hệ qua lại bất chính với một người nào đó.

Khi thấy vợ đổ oan, người chồng có giải thích như thế nào thì vợ cũng không chịu nghe, nên anh ta bất mãn lại bỏ nhà đi uống rượu với bạn tiếp.

Cô vợ trong lúc nhất thời nghĩ không thông, cho rằng như thế này thà chết cho xong chứ sống làm gì nữa. Người vợ liền nhắn tin cho chồng rằng: “Anh về nhà mà trông con, tôi không trông con nữa”. Người chồng trong lúc uống rượu không để ý có tin nhắn.

Đến khi say mèm rũ rượi anh ta mới về nhà, về đến nhà chẳng thấy vợ đâu, chỉ thấy đứa con nằm trên giường đã bị chết vì lạnh. Đến khi cảnh sát thông báo cho người chồng về cái chết của người vợ, nghe xong người chồng đau khổ tột cùng lăn ra ngất xỉu.

Vụ án đơn giản, sau khi xác minh rõ mọi chuyện và đây chỉ là vụ tự sát đơn thuần, vụ việc đi đến kết thúc một cách nhanh chóng.

Thì ra có kẻ gây ra chuyện thị phi.

Ở đầu thôn bên cạnh đường quốc lộ có một người họ Lưu làm nghề sửa xe máy, người này ngoài 50 tuổi, đã ly hôn vợ và sống cuộc sống đơn độc một mình.

Người sửa xe này có thói quen xấu, đó là luôn tùy hứng bản thân mà đơm đặt chuyện của người khác. Ông ta nói với người phụ nữ kia rằng chồng cô đã cặp với người phụ nữ khác, đã thế lại còn miêu tả sống động như thật. Cô vợ tin chắc rằng chồng mình đã có bồ thật và đã dẫn đến xảy ra sự việc đau lòng sau đó.

Khi điều tra chứng thực tất cả mọi chuyện này đều là lời đơm đặt của người họ Lưu, mọi người trong thôn ai nấy đều bừng bừng nổi giận. Họ tố cáo cảnh sát.

Tuy nhiên sự đặt điều của họ Lưu kia không thể kết thành tội danh hay liên quan tới trách nhiệm gì. Phía cảnh sát cũng chỉ có thể giáo huấn cho người họ Lưu kia một trận rồi thôi, hi vọng sau này có thể bỏ thói hư tật xấu này đi.

Vào một đêm nọ, ông Lưu đến nhà bạn bè nhậu say khướt. Sau khi được dìu về tiệm sửa xe của mình rồi, nửa đêm ông bò ra ngoài tìm rượu uống. Ông sờ soạng và vớ được một cái bình, đang mơ màng nên ông ta liền nốc một ngụm. Nào ngờ đó không phải là là bình rượu mà là bình hóa chất. Loại nước này dùng để sơn động cơ kim loại, độ ẩm cực thấp, hễ quét qua rồi thì trong vòng hai giây là có thể làm đông cứng bất kỳ vật gì. Ngay khi đó, ông Lưu ngã xuống ngất đi, may là bên cạnh còn có người phát giác kịp thời chở đi cấp cứu.

Lúc bác sĩ khám cho ông, phát hiện lưỡi ông bị đông cứng như kết băng. Hóa chất này mà bị ngấm thì dù ít thì cũng xem như tiêu rồi. Bác sĩ tuyên bố: “Từ nay, không những ông Lưu không nói được mà kể cả vòm miệng cũng khó bảo toàn… Sau này, ông chỉ có thể ăn uống bằng ống dẫn”…

Quả thực đúng như lời của bác sĩ đã tiên lượng, ông Lưu sau đó không còn chuyện trò gì nữa được, và mỗi lần ăn phải đưa thức ăn trực tiếp bằng đường ống vào dạ dày.

Ông Lưu bình thường sử dụng cái lưỡi của mình để thêm thắt, thêu dệt, đặt chuyện, xem đây là thú tiêu khiển của mình mà không biết làm vậy là gieo Nhân đại ác, gây họa hại cho bao người trong thôn xóm. Nếu cái lưỡi ông còn công năng, thì sẽ có thêm nhiều nạn nhân nữa. Do vậy mà nguyên cái lưỡi và cả vòm miệng ông đều bị triệt tiêu. Đây chỉ là hoa báo còn quả báo ắt hẳn nặng nề hơn rất nhiều!

Luật nhân quả thẳng tay trừng phạt,
Vô luận ai tạo tác bất lương.
Muốn thì làm chẳng chịu suy lường,
Dễ đưa tới con đường tội lỗi.
Biển sâu rớt luống công bơi lội,
Tội ác lâm khó nổi gỡ ra.
Vui nhứt thời để khổ lâu xa,
Sự vui ấy chỉ là thuốc độc.
Chúng sanh biết bao điều thảm khốc,
Vì ham vui trong chốc lát sanh.
Cần nghĩ suy rồi sẽ thi hành,
Tránh bã lợi mồi danh câu nhử.
Hành thiện sự hay là ác sự,
Là nguyên nhân vui khổ trong đời.
Mặc dù là một việc nói chơi,
Cũng ảnh hưởng cho người sâu sắc.
Việc thường bữa nhớ nên dè dặt,
Nói hay làm cân nhắc cho minh.
Đừng để cho thị dục lừa mình,
Cũng tránh thứ cảm tình dụ dỗ.
Thấy vui phải nhớ ngay việc khổ,
Biết thương thân phải độ lấy thân.
Đem lợi danh cung phụng xác trần,
Chỉ là việc nuôi ong tay áo.

*Tóm lại, cần biết rằng, cái khẩu nghiệp này không tốt, sẽ tổn phúc báo một cách ghê gớm. Do tiêm nhiễm nhiều thói quen xấu trong xã hội, nói chuyện đã đốp chát um xùm, không thận trọng chín chắn, không tôn trọng trưởng bối, không tôn kính Thánh Thần Trời Phật, ăn nói càng hàm hồ bậy bạ, tùy tiện nói lung tung nên phúc báo sớm đã từ cái miệng chảy đi hết. Cái miệng ti tiện bao nhiêu thì cái mệnh bần tiện bấy nhiêu.

Khẩu đức đối với bất kỳ ai cũng vậy, rất nhiều phúc báo đều đã thông qua cái miệng làm tổn mất đi. Người xưa nói rằng: “Ngôn do tâm sinh”, lời từ tâm mà ra. Nếu cái miệng chỉ biết nói những lời không tốt, nói những lời thị phi và chửi rủa người khác, như thế thì tổn hại phúc báo của chính mình rất nhanh chóng.

Nghĩ việc chung chớ có nghĩ riêng;
Trọng nghĩa hơn là trọng bạc tiền,
Sửa nhân cách trở nên quân tử.
Lúc nào cũng có lòng tha thứ,
Việc ở đời cư xử công bằng;
Cho đến như lời lẽ nói năng,
Cũng gìn được dịu dàng êm ái.
Lời nói rồi khó mong hốt lại,
Phải cần nên suy nghĩ kỹ càng;
Một lời ra mà vạn sự an,
Nửa câu nói tan hoang sự nghiệp.
Nước đổ rồi hốt sao cho kịp,
Lời quấy ra khi biết muộn màng;
Lời nói mà được phước muôn vàn,
Cũng lời nói tội mang vô số.
Nói lựa lời và ngồi lựa chỗ,
Cách ở ăn của kẻ tu hành;

Không chỉ là nói thị phi, lại còn đi nói những xấu dở của bậc trưởng bối, đấy cũng là tổn giảm phúc báo. Có một số ít người phụ nữ rất thích phàn nàn trách móc người chồng, nói người chồng chỗ này không tốt, chỗ kia không tốt. Khi cãi nhau phàn nàn kêu ca đến cả cha mẹ của đối phương, tổ tông tám đời đều dám nguyền rủa. Như thế là đã tạo khẩu nghiệp rất nghiêm trọng. Cứ như thế thì gia cảnh sẽ ngày càng nghèo khổ khốn đốn nhiều hơn, bởi vì phúc báo đều từ cái miệng mắng chửi mà hao tổn. Cho nên, cái cửa khẩu nghiệp này nhất định chúng ta cần phải chú ý.
Cái miệng cần giữ đức, không nói những lời nghiệt ngã chua ngoa, có như thế mới giữ được phúc báu. Tại sao cái miệng lại có thể làm tổn hại phúc báo? Bởi vì phúc báo là do sinh ra từ tâm tưởng tốt lành.

Người mà oán người trách trời, không trân quý những gì mình đang có, cứ mãi than trách oán hờn, lại thông qua cái miệng rồi cứ lem lẻm nói mãi không dừng. Thế thì chính là tổn phúc báo càng nhanh hơn nữa, cái đó ắt gọi là bạc mệnh.

Khi nghe khi tưởng cũng là,
Ngăn ngừa ý quấy xẹt ra bất ngờ.
Nhứt lời nói bao giờ cũng lọc,
Buông ra rồi khó hốt lại nào;
Tục rằng lưỡi bén hơn dao,
Nói ra một tiếng đoạn bao nghĩa tình.
Sự vui buồn trọng khinh thương ghét,
Thường do nơi mồm mép gây nên;
Chỉ trong một tiếng cất lên,
Hoặc tan sự nghiệp hoặc nên cửa nhà.
Lời nói dễ phá hòa ra nghịch,
Lời nói thường giết chết được người;
Cho nên tất cả người đời,
Trước khi nói phải lựa lời cho thanh.
Nói tổn đức nói sanh thù oán,
Nói chia lìa nói tiếng trây trua;
Thì là nhứt định phải chừa,
Dù ai cạy lưỡi không thưa thốt lời.

Cái miệng mà nói những lời chân thật thiện lương từ ái lợi ích mọi người, thì trong ý của ta tồn chứa nhiều hảo tâm, nó sẽ tạo ra từ trường tốt hơn lan tỏa xa rộng mang đến cho mọi người dồi dào năng lượng yêu thương, giúp cho lòng người thơ thới an tĩnh hòa vui. Và chính chúng ta sẽ được những hồi báo tốt lành, đạo lý này cũng không khó hiểu chi cho lắm!

Phạm Thị

Phạm Thị, người ở Đài Loan, con nhà nghèo, buông nghề này bắt nghề kia, làm ăn tuy giỏi giắn, song cuộc sống vẫn vất vả. Tánh bà rất ngang ngạnh, nóng dữ, không tin ngôi Tam Bảo, chẳng kể trời đất thánh thần cho đến bậc tôn trưởng. Sau bà mang nghiệp báo, bị chứng bướu nhọt lớn như cái chén, máu mủ rỉ chảy, ngày đêm đau nhức rên la.

Vào tháng giêng năm 1927, Phạm Thị nghe được một vị tăng thuyết giảng Phật pháp, nói về việc báo ứng nhân quả. Bà sanh lòng ăn năn sợ hãi, đến ngày mùng tám tháng hai năm ấy, bà quyết định vào chùa đảnh lễ Mậu Phong đại sư, quy y thọ giới, được pháp danh là Liễu Hương. Từ đó Phạm Thị ngày đêm chí tâm niệm Phật không dứt, nên bệnh khổ dần dần thuyên giảm, thân tâm được chút thơ thới an vui. Do đó bà phát lòng tín nguyện sâu thiết, tu trì hết sức dõng mãnh chưa đầy hai tháng, bà đã có thể dự biết trước thời kỳ lâm chung.

Trước khi mãn phần ba ngày, Phạm Thị tự nói mình thấy thần hồn dạo chơi cõi Tây Phương Cực Lạc, mục kích nhiều thắng cảnh kỳ diệu trang nghiêm. Vào nửa đêm ngày mùng sáu tháng tư, bà thấy Phật phóng quang rực rỡ như ban ngày. Trong nhà không có đèn đuốc mà tự sáng tỏ. Người nhà dâu con đồng thời đều chứng kiến, Phạm Thị tự ngồi kiết già chắp tay nói:

– Phật cùng Bồ Tát đã đến tiếp dẫn! Tôi xin đi đây!

Nói xong niệm Phật vài câu, mỉm cười mà vãng sanh. Lúc ấy người nhà đều nghe mùi hương lạ bát ngát, đến sáng vẫn chưa tan. Bấy giờ bà thọ 60 tuổi

8/- Tham Lam

Chúng sanh mắc bệnh mê si bởi vì chấp ngã là đầu mối, phàm phu ngu muội vạy tà bởi vì tham lam là nguồn cội. Vì lẽ đó, điều thiện nhỏ mọn như hạt cát mà điều ác rộng lớn tựa sa mạc mênh mông, phước đức thiện lương ít dường ỏi băng mỏng mùa xuân, mà nghiệp tội lầm lỗi nhiều như mưa bão mùa thu. Ngục tù của tham đắm ngũ dục lục trần không dễ gì có thể thoát ra, bến bờ của ham hố tài sắc lợi danh ăn ngon mặc đẹp chẳng khác vực thẳm khó lòng mà vượt khỏi. Do đó, tạo nên biết bao thảm cảnh kinh hồn như: chiến tranh, cướp bóc, giết người… đã làm cho nhân sanh điêu linh trong vòng tai nàn khốc hại, ngập tràn sầu hận thương đau; xác thể nặng nề chìm xuống dễ dàng tợ những loài cá sống trong dòng sông to rộng, vỗ đôi cánh muốn bay vút thẳng lên trời cao quá khó, giống như những loài chim bé nhỏ quen lũi bụi chui lùm.

Tham lam đã khiến cho kiếp sống nghèo túng lại thêm nghèo túng, nối dài dính liền theo nhau bức bách hết này ngày qua tháng nọ, đã khốn đốn càng tăng khốn đốn, đau khổ chất chồng đau khổ, cứ bám đeo mãi gây ra họa hại không ngừng họa hại, giống như bươm bướm bay vào ngọn lửa tự nhận lấy cái chết thiêu thân, in như tằm làm kén tự trói buộc thân mình chứ không phải là ai khác. Bởi vì tham lam keo kiệt, tự tư tự lợi mà phải nhận chịu sự thăng trầm chìm nổi đói lạnh bần cùng.

Lời Phật dạy bố thí chính là nhân tố làm cho đời sống được sung túc vui vẻ bình an hạnh phúc.

Như kệ trong kinh Phân Biệt Nghiệp Báo nói:

“Người nếu thích ưa hạnh trí tuệ,
Nhưng việc bố thí lại lơ là,
Quả báo thường thông minh đấy mà,
Nhưng nghèo túng không có của cải,
Đối với bố thí rất hăng hái,
Mà đường trí tuệ chẳng quan tâm,
Không trân quý kinh kệ thậm thâm,
Đời sau tài sản dồi dào lắm,
Ngu si mọi thứ điều lẩm cẩm.
Nếu cả hai tu tạo đồng thời,
Sinh ra giàu sang trí sáng ngời,
Không tu dưỡng cả hai thứ ấy,
Suốt cuộc đời tất nghèo hèn vậy,
Luôn ngu si dốt đặt cán mai!”.

Vì vậy trong Nhiếp Luận nói: “Keo kiệt là chướng ngại của giàu có, đố kỵ là chướng ngại của tôn quý”. Nhưng chúng sanh dấy khởi tham lam không gì hơn được sắc tài. Thích ham đối với sắc tài sẽ dẫn đến họa tai làm cho phiền muộn đau khổ vô cùng, rời xa đạo nghĩa mất hết thân sơ.

Vì vậy trong luận Trí Độ nói: “Tài vật là các loại phiền não, là nhân duyên của tội nghiệp; giống như các loại thiện pháp trì giới thiền định trí tuệ, là nhân duyên của Niết bàn. Vì lý do này, tài vật hãy còn phải tự mình lìa bỏ, huống gì trong ruộng phước tốt lành mà không bố thí?

Ví như có hai anh em nọ, cùng gánh 10 cân vàng đi giữa đường, lại không có bạn bè nào khác.

Người anh trước tiên dấy lên nghĩ rằng: “Tại sao mình không giết em để lấy vàng, nơi này vắng vẻ người giữa đường không có ai biết được”.

Người em cũng nảy sinh ý niệm muốn giết anh để lấy vàng.

Hai anh em đều có tâm niệm xấu xa, cử chỉ nói năng ánh mắt nhìn nhau đều khác lạ.

Hai anh em liền tự nhiên hiểu ra, lại sanh tâm hối hận, chúng ta không phải là người, so với cầm thú có khác gì đâu, anh em cùng cha mẹ sinh ra mà vì một số vàng, cố tình để nảy sinh tâm độc ác.

Một lát sau, hai anh em cùng đến bên một dòng nước, người anh lấy vàng ném vào trong nước, người em thấy vậy liền nói rằng: “Tốt lành thay, tốt lành thay!”

Em cũng ném vàng xuống dòng nước, người anh cũng nói: “Tốt lành thay, tốt lành thay!”

Hai anh em bèn hỏi lẫn nhau: “Tại vì sao nói là tốt lành thay?”

Cả hai đều tự mình trả lời rằng: “Bởi vì số vàng này cho nên sinh tâm bất thiện muốn làm tổn hại nhau, nay có thể vứt bỏ nó cho nên nói là tốt lành thay!”.
Hai người đều nói như vậy, vì nhân duyên này, hãy thường thuận theo mà tự mình xả bỏ”.

Còn trong luận Đại Trang Nghiêm có ghi: Xưa kia trong nước Xá Vệ, lúc bấy giờ Đức Phật cùng với Tôn giả A Nan đi giữa cánh đồng bát ngát, đến một bờ ruộng thấy có kho tàng ẩn giấu.

Đức Phật bảo với A-nan: “Là rắn độc to lớn”.

A Nan thưa với Đức Phật: “Bạch Đức Thế Tôn! Quả là rắn độc hung ác”.

Bấy giờ giữa thửa ruộng có một nông phu đang trồng trọt, nghe Đức Phật và Tôn giả A Nan nói có rắn độc, bèn dấy lên nghĩ rằng: “Mình nên nhìn xem, vì sao Đức Phật và Tôn giả A Nan nói là rắn độc hung ác?”

Liền đi đến chỗ ấy thì trông đống vàng ròng thật sự, anh bèn nói rằng: “Đức Phật và Tôn giả A Nan đã nói là rắn độc, đó chính là vàng ròng quý báu đây mà! Rắn ơi, mi hãy cắn ta đi. Ta rất sung sướng được mi cắn ta!”.

Anh vô cùng vui mừng, liền mang hết số vàng đem về nhà. Trước đây, anh là người nghèo túng, cơm ăn áo mặc không cung cấp đủ cho gia đình, từ khi được số vàng cho nên trở thành giàu có, cơm ăn áo mặc tự nhiên dư giả.

Nhà vua và các quan cảm thấy quái lạ, chẳng hiểu tại sao người ấy bỗng nhiên giàu có, bèn tra xét rồi tịch thâu tất cả, đồng thời bắt anh ta giam vào trong ngục. Cho dù anh ta giao nộp hết thảy số vàng lấy được lúc trước, nhưng vẫn không khỏi tội chết.

Khi sắp bị xử chém, anh ta thốt lên: “Rắn độc, A Nan! Rắn độc, Thế Tôn! Giờ nó đã thực sự cắn con rồi. Xin Ngài từ bi thương xót cứu con! Rắn đã cắn con rồi, Thế Tôn ơi!”.

Người đứng bên cạnh nghe anh nói như thế, liền tâu lên vua. Vua liền cho gọi đến, hỏi anh ta vì sao mà thốt lên những lời như thế.

Anh ta tâu: “Ngày trước, thảo dân đang cày ruộng thì nghe Đức Phật và A Nan gọi vàng là rắn độc, nay thần mới hiểu”.

Rồi anh tường thuật lại rõ ràng mọi việc. Vua nghe xong, liền thả cho anh ta ra về.

Đức Phật bảo với A Nan: “Nếu như người tích trữ tiền của không tự mình ăn mặc đầy đủ, lại không bố thí, thì người ấy thuộc loại ngu nhất trong mọi cái ngu. Vì vậy cho nên người trí cần phải thực hành bố thí, cầu mong xa rời sanh tử, đừng sanh lòng keo kiệt bủn xỉn mà nhận chịu vô biên khổ đau”.

Quả báo chính:
Tham lam giả mạo làm đạo đức,
Gọt giũa làm thành nghiệp tinh xảo.
Lòng luôn toan tính lừa dối người,
Tâm quấn ngàn vòng danh lợi hảo.
Địa ngục nhận chịu muôn khổ hình,
Luôn ngồi bàn chông đội chậu máu.
Đao bén xuyên thân xương thịt lìa,
Trải ngàn muôn kiếp thọ quả báo!

Quả báo phụ:
Bởi vì nhân duyên của tham lam,
Chìm đắm quẩn quanh trong mê lộ.
Tội hết sanh vào trong loài người,
Tập khí bám đeo thường ham hố.
Suốt đời thiếu hụt chuyện áo cơm,
Khốn đốn nối đuôi luôn đau khổ.
Sống cảnh nghèo hèn người bỉ khinh,
Chẳng ai thương mến khi hội ngộ.

Một thời Đức Phật ở thành La-duyệt, vườn trúc Ca-lan-đà cùng năm trăm đại chúng Tỳ kheo.

Bấy giờ, có bốn vị Ðại Thanh Văn là các Tôn giả Mục-kiền-liên, Tôn giả Ca-diếp, Tôn giả A-na-luật và Tôn giả Tân-đầu-lô đang họp chung một nơi, bàn với nhau: “Chúng ta cùng xem thử trong thành La-duyệt này, có ai không tạo công đức, cúng dường Phật, Pháp và Chư Tăng. Chúng ta hãy đến người không tin ấy trợ duyên cho họ quy y Tam Bảo”.

Bấy giờ có trưởng giả tên là Bạt-đề, nhiều tiền lắm của, không thể tính kể: vàng bạc, xa cừ, mã não, trân châu, hổ phách, voi, ngựa, xe cộ, nô tỳ, đầy tớ, đều đầy đủ, nhưng lại xan tham không chịu bố thí; không có một chút thiện cảm đối với Phật, Pháp, Tăng, không hề tin tưởng nhân quả, nên ông ta đã hết phước lại chẳng tạo phước mới. Ông hằng ôm tà kiến cho là không thí, không phước, cũng không có người thọ, cũng không có quả báo thiện ác đời này, đời sau, cũng không có người đắc A-la-hán…

Nhà trưởng giả ấy có bảy lớp cửa, mỗi cửa đều có người giữ, không để cho ăn mày đến cửa. Ông lại lấy lồng sắt vây chụp trong sân sợ chim bay đến trong sân chui vào kho tích chứa lương thực.

Trưởng giả có người chị là Nan-đà cũng xan tham keo kiệt giống hệt như ông

Các Tôn giả bàn với nhau: ‘Chúng ta hôm nay có thể khiến cho Nan-đà dốc lòng tin Tam Bảo’.

Bấy giờ, sáng sớm trưởng giả Bạt-đề đang ngồi ăn bánh. Tôn giả A-na-luật đến giờ, đắp y ôm bát từ dưới đất nhà trưởng giả đứng lên, đưa bát ra trước mặt ông. Ông hết sức sầu lo, đưa một chút bánh cho Tôn giả. Ngài A-na-luật được bánh rồi liền trở về chỗ mình. Ông nổi cơn giận dữ bảo các người gác cửa:

– Ta ra lệnh không cho người vào cửa! Tại sao các ngươi lại cho người vào?

Người gác cửa đáp:

– Cửa nẻo chắc chắn, không biết Ðạo sĩ này từ đâu đến!

Ông im lặng không nói. Ăn bánh xong, ông lại ăn tiếp thịt, cá. Tôn giả Ðại Ca-diếp đắp y ôm bát đến nhà ông, từ dưới đất đứng lên, đưa bát về phía ông. Ông hết sức buồn bực, đem một chút thịt cá cho ngài. Ngài Ca-diếp được thịt liền biến mất, trở về chỗ mình. Ông càng thêm sân giận gấp bội, bảo người gác cửa:

– Trước ta đã ra lệnh không cho người vào nhà. Cớ sao lại để hai Sa môn vào nhà khất thực?

Người gác cửa đáp:

– Chúng tôi không thấy vị Sa môn nào từ ngoài vào đây cả!

Ông càm ràm:

– Sa môn trọc đầu này khéo dùng huyễn thuật cuống hoặc người đời, chẳng có hạnh chân chánh.

Bấy giờ vợ trưởng giả ngồi cách đó không xa. Người vợ này là em của trưởng giả Chất-đa, được cưới từ núi Ma-sư về. Người vợ bảo trưởng giả:

– Nên giữ miệng mồm. Chớ nói rằng Sa môn học huyễn thuật. Vì sao? Các Sa môn này có đại oai lực. Sở dĩ họ đến đây là muốn có nhiều ích lợi cho ông. Này ông! Ông có biết vị Tỳ kheo đến trước chăng?

Trưởng giả đáp:

– Tôi không biết!

– Ông có nghe con trai vua Hộc Phạn nước Ca-tỳ-la-vệ tên A-na-luật, ngay khi sanh, mặt đất chấn động sáu lần. Chung quanh nhà trong một do tuần, các kho tàng tự nhiên hiện ra chăng?

– Tôi nghe có A-na-luật nhưng không thấy!

Người vợ bảo trưởng giả:

– Vị hào tộc này đã bỏ nhà xuất gia học đạo, tu Phạm hạnh, đắc quả A-la-hán, là vị thiên nhãn đệ nhất không ai hơn được. Và Như Lai cũng nói: “Trong hàng đệ tử của Ta, thiên nhãn bậc nhất là

Tỳ kheo A-na-luật”.

Kế đó, bà hỏi tiếp:

– Ông có biết vị Tỳ kheo thứ hai vào đây khất thực chăng?

– Tôi không biết!

– Ông có nghe trong thành La-duyệt này có đại Phạm chí tên Ca-tỳ-la, lắm tiền nhiều của không thể tính kể, có 999 con trâu cày ruộng hay không?

– Tôi có nghe Phạm chí này!

– Này ông! Ông có nghe con trai của Phạm chí này tên là Tỷ-ba-la-da-đàn-na, thân màu vàng, vợ tên là Bà-đà, là vị thù thắng trong hàng nữ lưu. Nếu đem vàng tử ma đến trước cô ấy thì như đem đen mà so với trắng không?

– Tôi có nghe Phạm chí này, nhưng chưa thấy!

Bà bèn giảng giải tường tận cho ông nghe:

– Chính là vị Tỳ kheo đến sau vừa rồi đó. Ông ấy đã bỏ báu ngọc nữ này, xuất gia học đạo, nay đắc A-la-hán, thường hành hạnh Đầu Đà. Người có đầy đủ các pháp theo hạnh Đầu Đà không ai hơn Tôn giả Ca-diếp. Thế Tôn cũng nói: “Trong hàng đệ tử của Ta, Tỳ-kheo hành Đầu Đà đệ nhất là Ðại Ca-diếp”.

Nay Trưởng giả chóng được lợi lành, mới khiến các vị Hiền Thánh đến đây khất thực. Tôi đã quán nghĩa này nên khuyên ông hãy khéo giữ miệng, chớ phỉ báng bậc Hiền Thánh, bảo họ là tạo huyễn thuật. Ðệ tử của đức Thích-ca đều có thần thông và đức hạnh, nên tôi nói lời này!

Bấy giờ, Tôn giả Mục-kiền-liên đắp y ôm bát bay lên hư không đến nhà trưởng giả chui từ lồng sắt xuống, rồi ngồi kiết già trong hư không. Ông thấy Tôn giả Mục-kiền-liên ngồi lơ lửng trong hư không liền sợ hãi hỏi:

– Ngài là Trời chăng?

– Tôi không phải là Trời.

Ông lần lượt hỏi:

– Ngài là Càn-thát-bà chăng? Là quỷ chăng? Là La sát ăn thịt người chăng?

Tôn giả đều lần lượt đáp rằng không phải.

Cuối cùng ông liền hỏi:

– Cái gì cũng không phải! Vậy ông tên là gì?

– Ta tên Mục-kiền-liên.

– Tỳ kheo có điều gì dạy bảo tôi chăng?

– Nay ta muốn thuyết pháp cho ông, hãy khéo nghĩ nhớ!

Trưởng giả lại nghĩ: “Các Ðạo sĩ này suốt đời để ý uống ăn. Nay muốn luận bàn, chính là luận bàn về ăn uống. Nếu theo ta đòi ăn, ta sẽ nói ‘không!’. Rồi ông lại nghĩ: ‘Nay ta hãy nghe người này nói một chút xíu thử xem sao?’”

Bấy giờ Tôn giả biết tâm niệm của trưởng giả, liền nói kệ:

Như Lai thuyết hai thí,
Pháp thí và tài thí,
Nay sẽ thuyết pháp thí,
Chuyên tâm nhất ý nghe!

Ông nghe nói pháp thí, trong lòng hoan hỉ vì không phải cho gì, liền thưa:

– Mong Ngài diễn thuyết cho tôi nghe!

Tôn giả liền nói:

– Trưởng giả nên biết! Như Lai thuyết năm đại thí, nên nhớ tu hành suốt đời.

Ông lại nghĩ: “Vừa rồi Tôn giả Mục-liên muốn thuyết pháp thí. Nay lại nói có năm đại thí, vậy chắc là có tốn kém…”.

Tôn giả biết tâm niệm của ông, nên nói với ông rằng:

– Như Lai nói có hai đại thí là pháp thí và tài thí. Nay tôi sẽ thuyết pháp thí, không thuyết tài thí.

– Cái gì là năm đại thí?

– Không được sát sanh, đây gọi là đại thí, trưởng giả nên suốt đời tu hành. Không trộm cắp, đây gọi là đại thí, nên suốt đời tu hành. Không tà dâm, không nói dối, không uống rượu, nên suốt đời tu hành.

Ðó là năm đại thí, này Trưởng giả nên nhớ tu hành!

Ông nghe lời này rồi, hết sức hoan hỉ, nghĩ: “Pháp của Phật Thích Ca rất là vi diệu. Nay chỗ diễn thuyết chẳng cần đến bảo vật. Như ngày nay, ta chẳng kham sát sanh. Ðiều này ta có thể vâng làm được. Hơn nữa, của cải nhà ta rất nhiều, ta trọn không trộm cắp. Ðây cũng là việc ta làm. Lại, đàn bà trong nhà ta rất đẹp, ta trọn chẳng tà hạnh với vợ người khác. Ðó là việc ta làm. Lại, ta không ưa người nói láo, huống là chính mình nói láo. Ðây cũng là việc ta làm. Như ngày nay, ta chẳng nghĩ đến rượu, huống là nếm nó. Ðây cũng là việc ta làm”. Ông liền thưa với Tôn giả:

– Năm thí này tôi có thể vâng làm!

Bấy giờ, ông cảm nghe nội tâm vô cùng an lạc lạ thường, một niềm an lạc hạnh phúc mà cả cuộc đời mấy mươi năm, ông chưa từng trãi nghiệm, dù chỉ một lần. Nên ông thầm nghĩ: “Nay ta nên mời Tôn giả Mục-liên ăn cơm”. Nghĩ thế ông ngẩng đầu lên và thưa với Tôn giả:

– Ngài nên hạ cố xuống đây ngồi!

Tôn giả theo lời, xuống ngồi.

Ông tự mình dọn các món ăn uống cho Tôn giả, Tôn giả dùng xong, uống nước. Ông nghĩ: “Ta nên đem một tấm vải dâng Ngài Mục-liên”. Rồi vào kho chọn một tấm vải trắng, muốn lựa cái xấu mà vớ nhằm tấm tốt. Ông lại bỏ ra, lựa tấm khác, cũng tốt luôn, ông lại bỏ để chọn tấm khác.

Tôn giả biết tâm niệm ông, liền nói kệ:

Thí cùng tâm đấu tranh,
Phước này bậc Hiền bỏ,
Lúc cho, không đấu tranh,
Mới nên tùy tâm cho!

Bấy giờ, ông liền nghĩ: “Nay Tôn giả đã biết ý ta”. Ông liền cầm tấm vải trắng dâng lên Tôn giả. Tôn giả bèn chú nguyện cho ông. Khi chú nguyện xong, nhận tấm vải rồi thuyết pháp. Sau một thời pháp, nhờ chí thành cung kính lắng nghe nên ông ở ngay chỗ ngồi đã chứng được pháp nhãn tịnh.

Như áo trắng rất sạch dễ nhuộm màu, trưởng giả Bạt-đề này cũng lại như vậy, ở ngay trên tòa được pháp nhãn thanh tịnh. Do đắc pháp, kiến pháp, không có hồ nghi mà thọ ngũ giới, ông tự quy y Phật, Pháp và Thánh chúng.

Tôn giả thấy ông đã được pháp nhãn thanh tịnh, liền nói kệ sách tấn thêm.

Ông thưa với Tôn giả rằng:

– Từ nay về sau, xin Ngài và bốn bộ chúng nhận lời thỉnh của con mãi mãi. Con sẽ cung cấp y phục, thức ăn uống, giường nệm, thuốc men trị bịnh cho chư Tăng Ni, không có luyến tiếc!

Bấy giờ bà già Nan-đà đang làm bánh sữa. Tôn giả Tân-đầu-lô đến giờ, đắp y, ôm bát vào thành La duyệt để khất thực, dần dần đến nhà bà già Nan-đà. Tôn giả từ dưới đất vọt lên, tay cầm bát đưa ra trước mặt bà để khất thực. Bà nhìn thấy Tôn giả thì hết sức giận dữ, liền nói lời hung ác:

– Này Tỳ kheo nên biết! Dù ông lọt mắt ra, ta trọn không cho ông thức ăn!

Tôn giả liền nhập tam muội cho hai mắt lọt ra ngoài. Bà càng thêm sân giận, nói:

– Dù cho Sa môn treo ngược trên không, ta trọn chẳng cho ông ăn!

Tôn giả lại dùng sức tam muội treo ngược trên không trung.

Bà càng tức giận bội phần liền nói lời hung ác:

– Dù cho Sa môn toàn thân phun ra khói, ta trọn chẳng cho ông ăn.

Tôn giả lại dùng sức tam muội toàn thân phun khói. Bà thấy rồi, sân nộ càng nhiều và nói:

– Dù cho Sa môn toàn thân bốc cháy, ta trọn chẳng cho ông ăn.

Tôn giả liền dùng sức tam muội, khiến thân thể bốc cháy. Bà thấy rồi lại nói:

– Dù cho Sa môn toàn thân ra nước, ta trọn chẳng cho ông ăn.

Tôn giả liền lại dùng sức tam muội khiến toàn thân ra nước. Bà thấy rồi lại nói:

– Dù cho Sa môn chết ở trước mặt ta, ta trọn chẳng cho ông ăn.

Tôn giả liền nhập Diệt tận định, không còn hơi thở ra vào, chết trước mặt bà già. Bà thấy Tôn giả ngưng hơi thở thì sợ hãi, lông tóc dựng ngược và nghĩ: “Sa môn này là con dòng họ Thích, được nhiều người biết, quốc vương cung kính. Nếu họ biết ông ta chết ở nhà mình, chắc chắn ta sẽ không tránh khỏi gặp việc hầu quan lôi thôi”.

Bà bèn nói:

– Sa môn sống lại đi! Ta sẽ cho Sa môn ăn.

Tôn giả liền từ tam muội dậy. Bà bèn nghĩ: “Bánh này lớn quá, hãy làm cái nhỏ cho ông ta”. Bà lấy một chút bột làm bánh, bánh bèn phồng to. Bà thấy xong lại nghĩ: “Bánh này lớn quá nên làm cái nhỏ nữa”. Nhưng bánh lại lớn. “Hãy lấy cái bánh làm trước đem cho”. Bà liền lấy cái trước. Nhưng các cái bánh lại dính vào nhau. Bà bảo Tôn giả:

– Tỳ kheo! Ông cần ăn thì tự lấy mà ăn. Cớ sao làm phiền nhiễu tôi như thế?

– Thí chủ nên biết, tôi chẳng cần ăn. Chỉ cần muốn nói với thí chủ!

– Tỳ kheo muốn răn dạy điều gì?

– Thí chủ nên biết! Nay hãy đem bánh đến chỗ Thế Tôn. Nếu Thế Tôn có dạy bảo gì, chúng ta sẽ cùng vâng làm!

– Việc này rất phù hợp.

Bà đáp xong, bèn bưng bánh đi theo sau Tôn giả, đến chỗ Thế Tôn. Tới nơi bà cúi lạy Phật và đứng một bên. Bấy giờ, Tôn giả liền thưa:

– Bạch Đức Thế Tôn! Bà Nan-đà này là chị của trưởng giả Bạt-đề, tham lam, ăn một mình chẳng chịu bố thí cho người. Cúi mong Thế Tôn thuyết pháp cho bà dốc lòng tin và cởi mở.

Bấy giờ Thế Tôn bảo bà rằng:

– Nay bà hãy đưa bánh thí cho Như Lai và chúng Tỳ kheo Tăng.

Bà lấy bánh dâng lên Thế Tôn và các Tỳ kheo Tăng. Kỳ lạ thay, bánh cứ lấy ra mãi mà vẫn còn. Bà liền bạch Thế Tôn:

– Bánh còn dư.

Thế Tôn bảo:

– Lại đem cho Phật và Tỳ kheo Tăng.

Bà nhận lời Phật dạy, tiếp tục đem bánh cúng Phật và Tỳ kheo Tăng một lượt nữa. Sau đó cũng còn dư bánh, Thế Tôn bảo với bà rằng:

– Nay bà đem bánh này cho chúng Tỳ kheo ni, và các nam nữ cư sĩ.

Nhưng vẫn còn dư bánh, Thế Tôn lại bảo:

– Nên đem bánh này thí cho người bần cùng.

Nhưng vẫn còn dư bánh. Thế Tôn lại bảo:

– Hãy đem bánh này để nơi đất sạch hoặc để vào nước thật sạch. Vì sao thế? Ta trọn không thấy Sa môn, Bà la môn, Trời và người nào có thể tiêu được bánh này, trừ Như Lai Chí Chân Chánh

Ðẳng Chánh Giác.

Bà đáp:

– Xin vâng, Thế Tôn!

Bà liền đem bánh này bỏ vào nước sạch, tức thời lửa bừng lên. Bà thấy như vậy, ôm lòng sợ hãi đi đến chỗ Thế Tôn, cúi lạy Phật rồi ngồi một bên. Thế Tôn dần dần thuyết pháp cho bà. Các nghĩa lý của bố thí, trì giới, sanh Thiên, dục là tưởng bất tịnh, lậu là ô uế, xuất yếu là vui…

Ngài đã thấy bà tâm khai ý mở. Chư Phật thường thuyết pháp Khổ, Tập, Diệt, Ðạo. Thế Tôn đều thuyết hết cho bà. Khi ấy, bà ngay nơi chỗ ngồi được pháp nhãn thanh tịnh. Ví như vải trắng dễ nhuộm màu, đây cũng như thế: Bà đã dứt hết các trần cấu, được pháp nhãn thanh tịnh. Bà đã đắc pháp, thành tựu pháp, không có hồ nghi, đã hết do dự, phụng sự Tam Bảo, thọ trì ngũ giới.

Bấy giờ Thế Tôn lại thuyết pháp thêm khiến bà phát tâm hoan hỉ. Bà liền bạch Thế Tôn:

– Từ nay về sau, cung thỉnh bốn bộ chúng hãy thường đến nhà con thọ thí. Từ đây con hằng bố thí, tu các công đức phụng thờ các bậc Hiền Thánh.

Thưa xong, bà đứng lên cúi lạy Phật và lui đi.

Người Hay Làm Việc Thiện Luôn Có Thiện Thần Bảo Hộ

Vào triều Minh, năm đầu niên hiệu Gia Tĩnh có người họ Kim ở huyện Nghi Chân, tỉnh Giang Tô, mở một hiệu cầm đồ trong trấn. Bấy giờ giặc cướp ẩn trú trên dòng Trường Giang, đêm đêm thường xuyên xuất hiện cướp đoạt những nhà giàu có, gần như không một nhà nào thoát được. Duy nhất chỉ có nhà họ Kim chưa từng bị chúng động đến.

Quan địa phương do đó nghi ngờ rằng họ Kim có sự thông đồng với bọn giặc cướp kia. Đến lúc bắt được một tên cướp liền tra hỏi xem vì sao bọn chúng không cướp nhà họ Kim, tên cướp nói: “Trước đây cũng có lần đến đó định cướp, chợt thấy phía trên nhà ấy có vô số các vị thần mặc giáp vàng, nên sợ không dám phạm đến.”

Quan huyện không tin, cho gọi những người ở gần nhà họ Kim lên hỏi, họ đều nói: “Nhà họ Kim đúng là rất nhân đức. Các hiệu cầm đồ khác thảy đều cân ra non, cân vào già, chỉ có nhà họ Kim là giữ đúng mực công bình. Định giá cho người lại hết sức rộng rãi, mà thời hạn chuộc lại cũng được kéo dài, không gấp rút. Nếu biết được có những người gần gũi mà già yếu, có con nhỏ hoặc nghèo khó, khi có việc phải mang đồ đến cầm liền phá lệ không lấy lãi. Nhà ấy còn có lệ mùa đông không tính lãi áo ấm, mùa hè không tính lãi áo mát, năm nào cũng vậy, cốt để người ta dễ dàng chuộc về mà dùng. Ấy là trời giúp người hiền, nên có thiện thần bảo vệ.”

Quan huyện nghe như vậy rồi hết sức ngợi khen tán thán. Quan Trực chỉ chức quan được triều đình giao cho việc tuần sát các địa phương, thẩm tra xử lý các vụ việc sai phạm biết được sự việc liền đặc biệt tuyên dương khen thưởng nhà họ Kim.

*Vua Lương Vũ Đế muốn dựng chùa trên lăng mộ cho Văn Hoàng Đế, nhưng chưa có gỗ tốt, bèn nói rõ ý định ấy với các quan sai người tiến hành hỏi han tìm kiếm.

Trước đó có người họ Hoằng ở vùng Khúc A, gia đình rất giàu có, mới cùng với thân tộc mang nhiều tiền bạc, đi đến Tương Châu làm ăn sinh sống, trải qua mấy năm kiếm được một bè gỗ rất dài, gỗ thuộc loại tốt đẹp hiếm có ở thế gian, vận chuyển về đến Nam Tân.

Hiệu úy vùng Nam Tân là Mạch Thiếu Khanh, hy vọng triều đình sẽ có ý chỉ tuyển dụng bèn tiến hành đo đạc chuẩn mực. Họ Hoằng đã bán áo quần lụa là, hãy còn có thừa lại đôi chút, Thiếu Khanh vu oan cho là đi đường cướp giật mà có, đồng thời lập tức tạo ra tội lỗi để ràng buộc, không phải điều nên làm của người buốn bán, kết thành tội phải xử tử, tịch thu bè gỗ đưa vào làm của công, lấy sử dụng làm chùa. Trình tấu lên trên, liền được thi hành.

Ngày sắp hành hình, họ Hoằng dặn dò vợ con mình, hãy lấy một trăm tờ giấy vàng và đầy đủ bút mực đặt vào trong quan tài, nhất định sẽ giã bày nỗi oan ức. Ông còn viết tên họ Thiếu Khanh mấy chục lần mà nuốt chửng.

Trải qua khoảng chừng một tháng, Thiếu Khanh đang ngồi trong dinh thì thấy họ Hoằng xuất hiện, ban đầu hãy còn tránh né để bảo vệ, sau mới chầm chậm thuyết phục, chỉ nói cầu xin ân đức, nhưng rồi nôn ra máu mà chết. Tất cả các quan lính thuộc hạ nào tham dự vào sự việc như cai ngục và chủ thư xá nhân, cùng với người thay quyền trình tấu, theo thứ tự lần lượt mà chết sạch chẳng sót người nào.

Chưa qua khỏi một năm mà tất cả đều điêu tàn thảm hại. Ngôi chùa to lớn xây dựng mới hoàn thành thì bị lửa trời đốt cháy rụi, không còn mảy may. Cột gỗ đã chôn vào đất cũng trở thành tro bụi.

Quan Chưởng Khố không con

Khi quan chưởng khố tên Aputtaka không có con vừa chết, vua Ba-tư-nặc bèn hỏi các quan cận thần rằng:

– Người không có con trai nối dõi sau khi chết tài sản thuộc về ai?

– Muôn tâu, tài sản ấy sẽ thuộc về bệ hạ!

Vua cho chở tài sản người quá cố về cung suốt bảy ngày mới hết. Rồi vua đến hầu Phật, Phật hỏi:

– Kìa Ðại vương, do đâu giữa trưa đại vương đến dây?

– Bạch Thế Tôn, tại thành Xá-vệ này có quan chưởng khố không con vừa mới qua đời mấy hôm nay. Con vừa cho chở xong tài sản về cung rồi liền đến đây.

Vua bạch tiếp:

– Con nghe mỗi khi thức ăn thượng vị đựng trong dĩa vàng đem đến cho quan chưởng khố, ông ấy nói: “Người ta ăn thức ăn này à? Tại sao bọn ngươi dám đùa cợt với ta ngay tại nhà ta?” Nếu các người hầu đánh bạo dọn cho ổng ăn, ổng sẽ ném đất đá hoặc lấy gậy đánh đuổi họ đi. Ông chỉ ăn cháo cám hoặc cháo chua, nói rằng: “Người ta chỉ ăn những thức ăn này thôi”. Người hầu đem đến những quần áo đẹp, xe cộ tốt, ô dù, đều bị ông đánh đuổi bằng đất đá, gậy gộc như trên. Ông chỉ mặc áo quần vải gai thô, đi cỗ xe cũ kỹ cọc sạch, đầu thì hái lá che.

Bạch Thế Tôn! Quan chưởng khố Aputtaka thuở quá khứ đã tạo nhân gì mà hiện đời giàu có nhưng lại thọ dụng chẳng khác kẻ ăn xin?

Phật bèn kể chuyện kiếp trước của quan chưởng khố:

– Ðại vương, vào thời quá khứ, có một vị Bích Chi Phật tên Tagarasikhi đến nhà quan chưởng khố khất thực. Ông bảo bà vợ rằng: “Hãy đem thức ăn cho thầy Tỳ-kheo”.

Nói như vậy rồi ông đứng lên đi làm việc khác. Bà vợ mộ đạo nghe lời chồng, nghĩ thầm: “Thực lâu lắm ta mới nghe miệng ông ấy thốt ra chữ “đem cho”. Hôm nay, niềm mơ ước được cúng dường của ta đã biến thành sự thật”. Bà đỡ lấy bình bát của vị Bích Chi Phật, múc đầy những thức ăn ngon lành nhất.

Quan chưởng khố quay lại, thấy vị Bích Chi Phật liền hỏi: “Thầy đã nhận thức ăn chưa?”

Ông cầm bát thầy và trông thấy các thức ăn thượng vị, bất giác tiếc rẻ nghĩ thầm: “Phải chi các thứ này để bọn người hầu ta ăn thì tốt hơn biết mấy! Chúng ăn xong sẽ làm việc tích cực. Còn thầy Tỳ-kheo chỉ ăn rồi nằm ngủ. Thực phẩm này cho đi thật chẳng được gì”

Quan chưởng khố lại còn giết chết con trai độc nhất của anh mình để đoạt gia tài. Người cháu thường nắm tay chú dẫn đi chỗ này, chỗ nọ, miệng liến thoắng: “Cỗ xe này thuộc tài sản cha cháu đấy! Bò này cũng là bò của người”.

Quan chưởng khố nghĩ: “Lúc này hắn còn nói thế. Hắn khôn lớn rồi còn có thể thấy được của cải hắn trong nhà này?”. Một hôm, ông dắt cháu vô rừng, xiết cổ cho chết như người ta bẻ một củ cải vậy, rồi quăng xác vào bụi rậm. Ðấy là tội ác của ông trong kiếp trước nữa.

Ðại vương, do quan chưởng khố kêu người vợ đem thức ăn cúng dường vị Bích Chi Phật, suốt bảy kiếp liền ông thọ phước lành rồi tái sanh trên cõi trời. Do dư báo của việc thiện ấy, suốt bảy kiếp ông giữ độc quyền chức chưởng khố thành Xá-vệ. Ðại vương, trái lại do tiếc rẻ việc thiện mình đã làm và thốt lời báng bổ, khi quả báo đến ông không thể dùng thức ăn ngon, mặc đồ đẹp, đi xe tốt, không thể thưởng thức ngũ dục thế gian.

Hơn thế, do giết cháu để đoạt gia tài, ông bị đọa địa ngục hàng trăm ngàn kiếp. Và do một phần của dư báo ác ấy, suốt bảy kiếp liền ông chết không con, tài sản bị tịch biên sung vào kho vua.

Ðây là kiếp thứ bảy của ông. Ðại vương, do ông ta đã cạn phước báo mà không tạo nên phước mới, quan chưởng khố giờ bị đọa tại địa ngục Kêu Gào.

Phật kể xong, vua Ba-tư-nặc thưa:

– Bạch Thế Tôn, quan chưởng khố này tội thật quá lớn. Gia tài đồ sộ thế kia hắn chẳng chi dùng cho hắn hoặc phát tâm cúng dường Đức Thế Tôn, vị Phật đang trú tại tịnh xá gần sát ngay nhà hắn.

Phật dạy:

– Ðúng vậy đại vương. Quả có thế, khi kẻ ngu được giàu sang họ chẳng tìm cầu Niết-bàn. Trái lại, của cải chỉ khiến tham ái nổi lên trong tâm họ làm khổ họ lâu dài thôi. Ngài nói kệ:

Tài sản hại người ngu,
Không tìm về bờ kia,
Kẻ ngu vì tham của,
Hại mình và hại người.

Xưa có một người giàu tột bực,
Nhưng trong lòng sâu mọt nhỏ nhoi;
Của mình một điếu không lòi,
Của người chút đỉnh cũng moi móc về.
Bắt tôi tớ nặng nề công việc,
Nhưng lương tiền keo kiệt không cho;
Tiền bao nhiêu cũng bỏ kho,
Ai nghèo mặc kệ không lo giúp giùm.
Người giàu ấy lâm chung sau đó,
Liền đầu thai làm chó trong nhà;
Thấy ai đến cũng sủa la,
Ngày đêm thường sợ người ta lấy đồ.
Lúc nào cũng ăn dơ ở bẩn,
Thường bị người đánh mắng không yên;
Khi đau chẳng có thuốc men,
Đến chừng chết chẳng ai thèm cất chôn.
Thế mà vẫn chưa xong hết nghiệp,
Còn sanh lên chịu kiếp bần cùng;
Làm thân nô lệ tứ tung,
Cơm không no bụng áo không mặc lành.
Bị nghèo khổ hoành hành đời sống,
Khiến cho lòng oán hận đủ điều;
Sanh ra trộm cướp xảo điêu,
Làm cho nghiệp tội thêm nhiều hơn lên.
Nghiệp trước hiện đang đền chưa hết,
Đã gây thêm khổ nghiệp đời sau;
Nối liền như xích buộc vào,
Luân hồi sanh tử tiếp nhau không ngừng.
Con ơi ! Bắt dửng dưng chăng nhỉ,
Thấy người rồi tự nghĩ đến thân;
Nếu không sớm dứt hồng trần,
E không tránh khỏi chuyển luân như người.
Đã nhiều kiếp vào đời ra thế,
Biết bao lần nay chế mai tang;
Vẫn còn lưu lại thế gian,
Nghiệp xưa đâu phải nhẹ nhàng ớ con!
Khuyên thiện tín gìn tròn mối đạo,
Để kỳ này trực đáo Tây Phương;
Không còn trở lại trần dương,
Chịu đường sanh tử sáu đường mê si.

Tình ân ái là gốc của sự sanh tử

Bóng hồng vừa gác núi. Chim chóc từng đàn lũ lượt bay về tổ, hót vang rộn ràng. Trên con đường mòn khúc khuỷu, các bác tiều phu vội vã cất gánh củi lên vai trở về làng mạc. Tiếng náo động vắng dần. Quang cảnh rừng rú mỗi lúc càng tĩnh mịch.

Thỉnh thoảng một vài tiếng chuông chùa ngân nga từ xa vọng lại, dường như để thúc hối những người còn chậm bước chưa ra khỏi cảnh hoang liêu ghê rợn của núi rừng. Một vài tiếng hú kêu vang và sâu tận trong hốc núi càng làm cho những kẻ lạc loài khiếp đảm. Các loài thú dữ đã bắt đầu cuộc săn mồi thường bữa, chốc chốc điểm lên những tiếng rống ghê người của chúa tể sơn lâm.

Từ trong thảo am bên mé suối, một vị sư lưng mang dây bố, tay chống gậy tre, lần bước trên con đường mòn, tiến dần về phía xóm nhà cạnh bìa rừng. Trời vừa sắp tối, vị sư đến nơi và đi ngay vào cổng, tìm lại nhà hai vợ chồng vị cư sĩ đã thọ giáo với Ngài. Sau những lời chào hỏi, hai vợ chồng vị cư sĩ trải chiếu mời Ngài an toạ. Trà nước xong, sư liền bảo: “Từ ngày hai ông bà đã thọ giáo theo Phật đến giờ, tôi thường tới lui để thúc nhắc. Độ này việc tu niệm của ông bà được khá lắm, thật tôi rất lấy làm vui mừng. Song sự đời có hiệp phải có tan, hôm nay tôi ghé đây thăm và cũng để ngỏ lời từ giả hai ông bà. Ngày mai này tôi sẽ lên đường đặng đi giáo hoá một nơi khác. Có lẽ cách nhau lâu, vì vậy tôi không dám hẹn ngày tái ngộ. Trước khi lên đường, tôi xin dặn lại ít lời thiết yếu, có thể là châm ngôn tu tập hằng ngày. Hai ông bà phải cố gắng niệm Phật đừng để lãng quên, nếu chẳng may có gặp việc gì xảy ra chênh mếch trong gia đình, ngoài xã hội, nên kiên nhẫn bỏ qua, tự an ủi lấy lòng. Giả như một trong hai người lâm bịnh nặng sắp đến giờ hấp hối, người mạnh cần nhất phải cho tĩnh tâm, sửa sang Phật tượng, hộ niệm cho nhau đến phút cuối cùng; đừng nên rên than khóc lóc, làm cho người chết phải bối rối, loạn niệm, khó được vãng sanh. Đây là một việc khó, mà nhiều người tu hành đã vấp phải. Nên tôi căn dặn hai ông bà hãy ghi nhớ. Được vậy, dù tôi ở cách xa, vẫn yên lòng hóa đạo”.

Dặn dò, chỉ bảo đâu đó xong xuôi, rạng ngày vị sư lên đường…

Ngày tháng qua mau, phút chốc đã được hai thu, nhờ y theo lời dạy của vị sư mà thời gian qua, hai vợ chồng vị cư sĩ ăn ở với nhau rất thuận hòa, hằng ngày làm phước, bố thí tụng kinh niệm

Phật chuyên cần, lối xóm nhiều người cảm mến.

Một hôm người chồng vương phải chứng thương hàn rất nặng. Người vợ chạy thuốc tìm thầy đã hết hơi mà bịnh đâu vẫn còn nguyên đấy. Cuối cùng, có một vị danh y đại tài đã được mời đến do công lao của người anh họ chẳng ngại xa xôi rước về. Sau khi bắt mạch xong, vị danh y bảo: “Bệnh này không qua khỏi ngày nay, vì mạch đã hết. Vậy bà đừng nên chạy chữa làm gì nữa cho tốn công hao của, hãy lo liệu những vật dưỡng già mà thôi”.

Người vợ lúc bấy giờ đã tuyệt vọng, tâm thần bà rối loạn, quên hẳn lời dặn bảo của vị sư, người chồng cứ nằm mê man mãi. Trong tình cảnh này, vì thương chồng, vì tủi phận, người vợ chỉ có nước gục mặt bên chồng khóc kể liên miên. Mãi đến khi người chồng mở đôi mắt thất thần nhìn vợ lần cuối cùng, mà người vợ còn ghé mặt sát mặt chồng nức nở van kêu: “Mình ơi! Mình nỡ nào chết đi để một mình tôi ở lại sống cô độc lẻ loi; hồi nào khổ sở có nhau, vui buồn cùng chịu, ngày nay mình bỏ tôi mình đi một mình! Mình ơi!”.

Tội nghiệp người chồng vì nghe lời lẽ quá bi ai của vợ, cảm tình ân ái bất giác nổi lên, nhìn vợ mà hai hàng lệ thắm tuôn ra, nghẹn thở… rồi… trút linh hồn.

Thần thức ông xuất ra nơi mắt, lẽ ra ông sinh về cõi trời. Nhưng vì người vợ gục mặt gào khóc nức nở, mà ông khởi niệm luyến ái nên thần thức chui ngay vào lỗ mũi vợ, hóa thành một con sâu.

Chồng mất rồi, vợ lo tròn bổn phận, chôn cất xong xuôi, đám ma cũng khá lớn, những ơn nghĩa lối xóm cũng lo tròn.

Đến khi thân quyến ai về nhà nấy, bấy giờ bốn bề lặng ngắt, người vợ vì thương chồng bạc phận xét nỗi cô đơn hiu quạnh, lại thêm lỗ mũi mỗi ngày một lớn và đau nhức vô cùng. Bà cứ ngày đêm than thở khóc thương, làm cho những kẻ ở gần, ai cũng phải động lòng đau xót kẻ xấu duyên bạc phận.

Một hôm, vị sư trở lại và ghé thăm. Khi vừa thấy bóng Ngài bà đã hối hả chạy ra khóc than, kể lể…

Vị sư ôn tồn bảo: “Con hãy nín, chớ quá bi thảm, sống chết là lẽ thường, hễ có sanh là có tử. Người tu hành khi bỏ được thân khổ này như quẳng được cái gánh nặng, con nên mừng giùm chớ sao lại khóc? Con còn than khóc thế là con chưa hiểu đạo. Xin khuyên con hãy nghe thầy, có thương nhớ nên để lòng, lo tu hành cho khuây lãng, nếu còn nặng lòng ái ân thì kiếp sau lại gặp nhau nữa, vay trả, trả vay thành một chuỗi oan gia vô cùng tận”.

Sau khi nghe vị sư khuyên bảo, như giải được sự đau buồn, bà liền sửa lại mái tóc, rồi tình cờ khịt mũi mạnh văng ra một con sâu khá lớn.

Sư cả cười bảo: “Ở đời ít ai có nghĩa hơn con, ai đời thương chồng mà khóc đến có sâu trong lỗ mũi”.

Bà thẹn quá, toan lấy chân dậm chết con sâu. Vị sư vội vàng khoát tay bảo: “Đừng, con đừng nên làm thế, vì con sâu ấy là chồng con đó!”.

Bà lạ lùng hỏi: “Bạch thầy! Chồng con suốt đời niệm Phật, làm phước, tại sao chết lại sanh vào loài sâu bọ như thế?”.

Sư bảo: “Con đã quên lời thầy dặn, khi chồng con lâm chung con không lo tụng kinh niệm Phật và khuyên bảo chồng con khởi chánh niệm, mà con lại còn đem tình ân ái kể lể khóc than, nên chồng con khi sắp mất, bị lòng thương vợ, nặng tình ân ái mà lãng quên chánh niệm. Vì vậy nên thần thức luyến ái không thể vượt lên cao, mà phải chui vào mũi bà thành sâu bọ. Than ôi! Uổng một kẻ tu hành, đã mong thoát kiếp luân hồi lại còn bị ái ân cột chặt. Thật có khác nào con cò muốn cất cánh bay cao để thoát ngoài dò, bẫy; nhưng khốn nỗi nó có bị sợi dây vô tình cột chặt vào chân. Thế có tội nghiệp không?”

Sư lại đến gần con sâu khẽ bảo: “Ngươi trước cũng nghe lời ta chăm chỉ tu hành lẽ ra thời đã được công đức lành mà sanh thiên hay vãng sanh Cực Lạc, song vì tình ân ái của vợ chồng ngươi có còn sâu thẳm ngàn trùng, thành ra khi trút hơi cuối cùng mà còn gây nghiệp chướng nặng nề phải thành loài sâu bọ, thật đáng thương thay!”.

Con sâu nằm im từ này giờ, dường như nó cũng tự biết hổ thẹn ăn năn. Sư chú nguyện cho và nhờ công đức lành đã tạo từ trước, nên con sâu quằn quại một lúc rồi chết, thần thức lại sanh vào cõi người.

Sau đó sư từ giã ra đi.

Nhờ sự khai thị của sư, từ đó về sau người vợ đã sám hối, quyết tâm ngày đêm chuyên tinh tụng kinh, niệm Phật, công phu hành trì, dũng mãnh không thối lui, kết quả ngày lâm chung bà đã được vãng sanh.

Người ta cũng không phải chỉ có một đời sống ngắn ngủi mở đầu trên cái nôi và chấm hết trên cái mồ. Lọt lòng và nhắm mắt chỉ là bình minh và đêm tối của một thời gian lặng lẽ trôi, không bao giờ tạm ngừng, không có đầu, không có đuôi. Vì thế nên biết:

Tham ái là nguồn cội của mọi khổ đau cũng là gốc rễ của sanh tử luân hồi.

Người thế gian có thể lừa gạt nhau nhưng không thể qua mặt cõi âm

Vào triều Thanh, vùng Gia Định, nay thuộc Thượng Hải, có hai anh em nhà họ Trương, khi phân chia gia sản cha mẹ để lại, người anh lẽ ra phải trả cho em mười mấy lượng bạc, nhưng anh ta lại dựng chuyện chỉ hươu chỉ nai, cố ý không muốn trả.

Người em nghèo, tính tình chất phác, không nói lại được anh, liền đến nhờ ông chú phân xử, vì ông là người trước kia đã đứng ra phân chia gia sản. Ông chú thấy người anh giàu có, có thể nhờ cậy được, nên quay sang bênh vực cho người anh. Người em trong lòng hết sức giận tức.

Đến mùa hè năm Đinh Sửu niên hiệu Khang Hy [1697] người em liền viết một bản văn sớ kể lể hết sự tình, mang đến miếu Thành hoàng trong làng khấn vái rồi đốt. Đốt xong, đợi năm ngày mà không thấy chút cảm ứng gì, lại đốt tiếp một bản văn sớ nữa. Qua hôm sau, người chú bỗng lăn ra chết, người anh cũng chết. Rồi cuối cùng người em cũng chết luôn.

Sau khi chết, cả ba người đều thấy mình bị dẫn đến miếu Thành hoàng. Thần nói: “Ba người các ngươi thật chưa chết, nhưng ta triệu cả ba đến đây là vì có sớ kiện, phải thẩm xét cho rõ sự việc.”

Rồi Thần hướng về người anh, nói: “Ngươi quả thật chưa trả mười lăm lượng bảy tiền cho em, sao còn mưu gian cậy thế? Phạt ngươi 30 trượng.”

Lại nói với người em: “Việc này sao không tố cáo với quan ở dương gian, lại xem thường kinh động đến âm phủ? Phạt ngươi 25 trượng.”

Lại trách mắng người chú: “Ngươi là chú sao không phân xét công bằng, lại xu nịnh người giàu, khinh dễ kẻ nghèo, khiến cho hai cháu phải thưa kiện đến đây, phạt ngươi 10 trượng.”

Xử phạt xong, cho cả ba về. Ba người tỉnh lại, hóa ra đã chết hơn nửa ngày, người nào cũng than nơi bắp đùi đau đớn lắm, lại nhìn vào mông đều thấy thịt tím bầm. Cả ba người nằm liệt hơn mười ngày mới dậy nổi.

Người chú họ Trương vốn không có thù riêng với cháu, chỉ là muốn hùa theo điều lợi mà thôi. Đâu biết rằng hết thảy mọi việc ở dương gian, nơi âm phủ đều có sổ sách ghi lại rõ ràng, không sai sót? Cho nên dương thế còn có chuyện oan ức, nhưng âm ty tuyệt không phán xử sai lầm. Trên dương thế còn có ảnh hưởng của tình cảm khi xét xử, nhưng âm ty chỉ theo đúng luật mà làm.

Việc hỏi tội nơi dương thế, bất quá chỉ phán xét theo những việc trong đời này, nhưng âm ty luận tội thì cân nhắc hết thảy mọi việc trong nhiều đời trước. Người gặp việc oan ức, nếu hiểu rõ được nhân duyên đời trước ắt sự uất ức sẽ tự tiêu tan.

Xét suy cho cạn sự đời,
Tu là hạnh phúc của người trần gian.
Dù cho tột bực giàu sang,
Chữ tu không biết như thoàn nước vô.
Lấy gian hùng tạo cơ đồ,
Đâu bằng lấy đức Nam mô xây thành.
Của người lấy sức ra tranh,
Được nay nhưng khó giữ gìn đến mai.
Mình có tay người có tay,
Thắng thì cũng xể mặt mày chớ không.
Sức không thể thắng được lòng,
Lòng không thắng được chớ hòng bình an.
Người đời nay rất khôn ngoan,
Biết thêm đạo đức như vàng khảm châu.
Thông minh mà thiếu đạo mầu,
Uổng thay như cái đèn dầu không tim.
… Giàu sang hay kẻ nghèo hèn,
Cũng là người cả nên xem cho đồng.
Chớ nên lấy cớ dốt thông,
Bẻ bai làm mất lẽ công con người.
Kẻ sanh ra dưới gầm trời,
Cũng đồng số phận luân hồi như nhau.
Như là quyến thuộc khác nào,
Thương nhau thì được hại nhau sao đành.
Không ai được hưởng trường sanh,
Giúp nhau được sống yên lành tốt hơn.
Ban bằng chiến lũy ngã nhơn,
Cho người người được sống gần gũi nhau.
Người ta suốt kiếp khổ đau,
Đâu còn thiếu sót phải đào tạo thêm.
Giúp nhau cho được sống êm,
Chớ làm nhau chịu sống thêm khổ nàn.
Hòa nhau cát cũng hóa vàng,
Nghịch nhau vàng cũng nát tan thành bùn.
Hòa nhau cùng được thung dung,
Nghịch nhau cùng đến đường cùng mà thôi.
Làm lành cũng sống được rồi,
Đâu cần làm dữ mới nuôi được mình.
Sống cho đúng lẽ công bình,
Của người chớ có sanh tình lấy ngang.

Sự kỳ diệu của sám hối

Bà Thu, thời thiếu nữ là hoa khôi trong xóm, nên có rất nhiều chàng trai đeo đuổi cầu hôn. Nhà nghèo, bà xin vào làm việc cho một hãng sữa ngoại và giữ chức thủ quỹ. Nhờ ngày ngày khéo xén bớt tiền hãng giấu làm của riêng, bà để dành được tới hai lon guigoz lượng vàng.

Từ đó, cuộc đời bà phất lên, kinh tế khá giả. Sau một hồi kén cá chọn canh, bà sánh duyên cùng với một bạch mã hoàng tử và sinh được ba con trai, sống sung túc ở thành phố.

Bạn bè trang lứa nhìn vào phải phát ghen với hạnh phúc của bà – đã đẹp mà lại giàu, sinh con như ý, lấy chồng xứng đôi….Trời cao dường như quá ưu đãi bà.

Thế nhưng hạnh phúc ấy cũng mong manh như những giọt sương ban sớm. Chồng bà tự nhiên dần dần đổi tánh, không còn siêng năng làm ăn, tối ngày say xỉn. Đi nhậu xong về lại thẳng tay đánh đập bà. Bà phải bán nhà để cung cấp tiền cho chồng tiêu xài. Chưa hết, lại còn phải nuôi hai đứa con ghiền xì ke. Chẳng bao lâu, chúng đều bị Si-đa mà chết.

Tài sản khánh tận, giờ bà trở thành nghèo cùng, song chồng thì vẫn nhậu nhẹt như xưa. Ngày ngày bà phải đi lượm ve chai bán để nuôi chồng và đứa con trai. Gia đình suy sụp nhưng chồng bà vẫn không tỉnh ngộ. Mỗi lần nhậu xong ông thường đánh đập bà tàn nhẫn, nhất là khi nào bà nộp tiền không đủ cho ông tiêu xài thì đánh không nương tay. Sau đó, ông bỏ đi ở riêng chỗ khác, nhưng mỗi ngày đều ghé qua hạch tiền, không có thì tiếp tục hành hạ bà.

Ông tác tệ đến mức lăng nhục bà đủ kiểu, bắt bà lau dọn vệ sinh, rửa chân, quỳ lạy, hầu hạ ông….thì ông mới tha. Ông lại có tính hay ghen tuông nên đòn roi không ngừng trút xuống bà. Bà sống trong chuỗi ngày cực cùng đau khổ, chỉ muốn quyên sinh…

Sau đó, bà đi chùa, rồi khóc mà kể chuyện cho thầy nghe. Thầy Kiến Châu (thân phụ Ni sư Như Thủy) khuyên bà đừng chán nản và cũng không nên tự sát. Bởi nghiệp báo trả chưa xong mà trốn, thì đời sau lại phải trả gấp đôi, khổ càng nhiều hơn.

Thầy làm lễ quy y cho bà, khuyên bà về nhà lạy Phật sám hối tất cả những tội lỗi đã tạo từ trước đến nay và khẩn thiết phát nguyện dứt ác làm lành, dốc lòng sửa sai, cầu nghiệp ác được tiêu trừ. Thầy giải thích:

– Tiểu sám hối là 80 ngày, trung sám hối 100 ngày, đại sám hối 120 ngày. Nhất định bà phải sám hối thì mới có thể bớt khổ.

Nghe lời thầy khuyên, bà về nhà lễ sám, khẩn thiết phát lộ tội lỗi trộm cắp ngày xưa, niệm thánh hiệu Đức Quán Thế Âm, thành tâm ăn năn, nguyện từ đây sống đời liêm khiết, ngay thẳng, cầu cho chồng hồi tâm sửa tánh, con cái ngoan, gia đình bình an….

Bà sám hối được 100 ngày thì có một đêm nằm mơ. Trong giấc mơ, bà cũng thấy mình là một thư ký trẻ, cũng sống gian dối, lọc lừa, tham lam bòn rút của chủ. Lạ thay, người chủ đó lại là chồng bà hiện giờ….Tỉnh dậy, lòng bà rất hoang mang, ngổn ngang trăm mối. Lúc này, bà không còn oán chồng nữa mà chỉ có nỗi ân hận day dứt khôn nguôi về những hành động xấu xa mình đã từng làm trong kiếp này lẫn kiếp trước. Bà chỉ biết khóc và sám hối, cầu điều lành cho chồng, cầu cho những người từng bị bà xâm phạm tài sản tha thứ….
Sau đó không lâu, chồng bà đột nhiên kiếm được việc làm. Điều bất ngờ là ông hoàn toàn thay đổi, tử tế với bà ngoài sức tưởng tượng, khiến bà ngỡ mình như đang nằm mơ… Ông ân cần bảo bà từ nay về sau cứ ở nhà nấu cơm, niệm Phật lễ sám, để ông đi làm mướn nuôi. Trong cái xiết tay của ông, bà cảm nhận được lòng yêu thương, cảm nhận được sự tha thứ vô hình. Từ đó, bà không còn dám gian tham, ngược lại còn rộng tay bố thí, cúng dường… chân thành hồi hướng đến những người bà từng có lỗi với họ, mong chuộc lại tội xưa.

Hiện tại, bà không còn lao tâm khổ trí vì gia đình nữa. Đứa con trai út của bà giờ đã biết kính tin Phật pháp.

Lúc nào bà cũng giảng về nhân quả cho nó nghe, bà không muốn con bước vào vết xe đổ như bà.

Còn đối với chồng, bà nghĩ ông hoàn toàn có quyền cư xử độc ác, nhưng ông lại thay đổi, biết tu tỉnh chí thú làm ăn, hiền lành tốt bụng đến độ không ngờ. Kỳ lạ là, thấy bà tụng kinh lạy Phật nhiều, ông không hề la lối bất bình, ngược lại còn rất vui.

Bà âm thầm tri ân Phật pháp nhiệm mầu, hối tiếc vì mình biết đạo muộn.

Nếu ngày xưa bà sinh trong gia đình biết Phật pháp, được nghe giảng và hiểu về luật nhân quả, nhất định bà sẽ không bòn rút biển lận của người. Do không hiểu đạo, nên bà đã tích góp của phi nghĩa và phải chiêu cảm lấy một cuộc sống đầy bão táp.

Dù bà sinh toàn con trai, song hai đứa đầu lại phá của, nghiện ngập hút chích và chết vì Sida. Còn ông chồng thì không ngừng giáng đòn trừng phạt cho đến khi bà hồi tâm sám hối, mọi việc mới thay đổi theo chiều hướng tốt lành.

Sau đó, nhờ phúc duyên được nghe quý sư giảng giải về lý nhân quả, bà tỉnh ngộ và quyết tâm sám hối, làm lại từ đầu….Không ngờ kết quả thật kỳ diệu. Đối với Phật, bà chỉ có niềm tri ân vô bến vô bờ. Đêm đêm bà luôn cầu nguyện mọi người ai ai cũng đều biết đến Phật pháp để không gieo nhân lầm lạc, sẽ không phải khổ như bà trước đây.

Bà ước mong bài học về cuộc đời mình sẽ giúp cho nhiều người có thể tránh được lầm lỗi gieo tạo Nhân ác. Hãy tích đức tu thiện, gieo nhân nào ắt gặt quả nấy. Xin hãy ghi nhớ!”.

Chịu thiệt thòi là phước

Vào thời nhà Minh, có người thư sinh tên Ngô Tử Điềm, vợ là Tôn thị.

Mẹ ruột của Ngô Tử Điềm mất sớm, chẳng bao lâu sau cha anh đi bước nữa. Vậy nhưng mẹ kế đối xử với Tử Điềm rất bất công, lại thường xuyên thiên vị em trai.

Kể từ ngày ấy, lòng chàng thư sinh dần sinh ra nhiều bất bình và oán hận. Sau khi lập gia thất, mẹ kế cũng chẳng hề đối xử tử tế với vợ của Tử Điềm.

Nhiều lần Ngô Tử Điềm cảm thấy vô cùng uất ức, muốn cùng mẹ kế nói lý lẽ. Nhưng mỗi lần như vậy, Tôn thị đều khuyên ngăn chồng thôi đi, không nên làm thế.

Khi cha qua đời, ruộng đất và ngân lượng để lại đều bị mẹ kế và em trai chiếm phần tốt nhất. Ngô Tử Điềm chỉ được thừa hưởng một mảnh ruộng xấu.

Tới nước này, chàng thư sinh cảm thấy trong lòng nhịn không nổi, một mực muốn đi tìm mẹ kế đôi co. Nhưng người vợ hiền thục lại một lần nữa ngăn cản chồng.

Chẳng bao lâu sau, con trai của mẹ kế vì ham mê cờ bạc nên đã bán sạch gia sản, khiến hai mẹ con họ rơi vào cảnh túng quẫn chẳng khác nào ăn mày.

Sau khi em trai và mẹ kế rơi vào cảnh túng quẫn, vợ Ngô Tử Điềm đã khuyên chồng đón hai người về nhà mình ở. Về sau, vợ của Ngô Tử Điềm sinh được 3 người con trai. Người xưa có câu “Tam nam bất phú”, nhưng ba cậu quý tử nhà họ Ngô đều thi đậu tiến sĩ.

Người dân trong làng đều nói rằng, đó chính là “phúc báu” của gia đình Tử Điềm.

Đổi lại, nếu bạn là Ngô Tử Điềm, liệu bạn sẽ đối xử thế nào với em trai và người mẹ kế?

Cổ nhân từng dạy, muốn trở thành người có văn hóa, việc đầu tiên phải làm chính là học cách chịu thiệt, học cách nhẫn nhịn. Chữ “nhẫn” ấy không chỉ cần thiết đối với người ngoài mà còn quan trọng với cả người thân.

Bởi lẽ, người thân là gia đình, là ruột thịt, là máu mủ cả đời không thể bỏ rơi. Vì thế, ta hà cớ chi phải so đo, trách cứ? Đối với người thân mà quá sân si, sau cùng người chịu thiệt vẫn là mình.

Trong câu chuyện của Ngô Tử Điềm, vợ anh là một người hiểu lý lẽ, giúp được chồng tránh nhiều tai vạ. Cổ nhân có câu “thê hiền phu họa thiểu”, nghĩa là vợ hiền đức thì chồng bớt gặp họa, âu cũng là như vậy.

Đổi lại, nếu là chúng ta, liệu mấy người có thể hành xử được như Tôn thị? Có chăng, ta sẽ cười lên nỗi bất hạnh của “kẻ thù” mà nói rằng: “Đúng là ông trời có mắt, mấy người cũng có ngày hôm nay!”

Và liệu mấy người có thể buông bỏ mọi thù hận, mở rộng vòng tay đón những người năm xưa từng hành hạ mình về chung một mái nhà, rồi cùng họ vui vẻ ăn tất niên đón năm mới, sống một gia đình hòa thuận, êm ấm?

Người đời nói rằng gia đình Ngô Tử Điềm có tới 3 tiến sĩ thành danh, quả đúng là “ở hiền gặp lành”, là ân đức trời cho.

Lại nói, nếu sinh ra trong một gia đình mà cha mẹ luôn so đo thiệt – hơn với họ hàng, những người con ấy sao có thể thấm nhuần đạo lý của sách thánh hiền, sao có thể lưu danh bảng vàng?

Vì vậy, sống ở đời không cần quá sân si. Thay vào đó, ta nên học được cách chịu thiệt.

Bởi người khác nợ bạn điều gì, ông trời sẽ trả cho bạn thứ khác tương xứng. Chẳng thế mà cổ nhân vẫn thường răn dạy hậu thế: “Chịu thiệt là phúc”.

Phúc phận ấy có được là bởi trời cao có mắt, là nhờ sự công bằng hiển nhiên của lẽ đời. Ngược lại, nếu bị danh lợi làm mờ mắt, con người ta vĩnh viễn sẽ không thấu hiểu được đạo lý, tâm trí cũng chẳng lúc nào được thanh thản.

Vậy chi bằng hãy cứ an lạc mà sống, tin vào sự công bằng của Trời Phật. Không oán hận, không sân si, không so đo, không tính toán, niềm vui trong cuộc sống ắt sẽ chẳng thể mấy đi, mà tương lai còn được hồi đáp bằng hết thảy những gì tốt đẹp nhất.

9/- Sân Hận

Trong bể sanh tử luân hồi các đợt sóng tam độc tham sân si không ngừng gào thét, các ngọn lửa thất tình lục dục hừng hực lan tràn dữ dội, trăm mối não phiền ngày đêm sục sôi nung nấu thân tâm; hoặc vốn có hiềm khích lẫn nhau sâu nặng, thường ôm lòng căm hận, chờ đợi trông mong quan sát những dịp sơ hở, để mà tìm cách thanh toán lẫn nhau, hoàn toàn không có chút nhân nghĩa, lập tức mất hết từ bi, giết chết tánh thiện lương cùng nhân duyên giải thoát.

Hoặc bí mật dùng bùa ngãi tà ma chú thuật, hay ngấm ngầm chế tạo các loại thuốc độc, liền khiến cho tạng phủ chứa đầy chất độc phát ra xé nát tim gan, tổn hại người gánh chịu lắm nỗi đau thương ngậm đắng nuốt cay, suốt đời mang căm hờn xuống tuyền đài, muôn vạn đau sầu chẳng biết cùng ai bày tỏ?!

Trước khi nhập Niết Bàn Đức Thế Tôn có lời răn dạy: “Cái họa hại của sự nóng giận là phá hoại các pháp lành, làm mất danh thơm tiếng tốt, khiến cho hiện tại cùng tương lai chẳng ai muốn gặp gỡ. Nên biết rằng tâm nóng giận nạn tai còn bi ai hơn lửa dữ, phải rán cẩn thận đừng để cho nó thao túng. Vì vậy, nếu dấy lên một niệm sân hận thì ngọn lửa đó sẽ bùng lên thiêu rụi tất cả công đức tốt lành, giặc cướp công đức không có gì nguy hiểm hơn mối ương họa này. Người thế tục sống trong ngũ dục không có cách tự chế ngự, họ nóng giận còn có thể tha thứ; Chứ người tu hành đạo đức, mà còn ôm lòng nóng giận, thật không thể được. Như giữa trời xanh trong mát đột nhiên sấm sét nổ vang, thật không phải là việc đáng có.”

Vì thế những kẻ có tánh ác hiểm thì người và vật đều sợ hãi, họ sẽ không gần được người lương thiện, lời nói của họ thì trở thành chất độc, thích làm hư hỏng tâm người ta, khiến cho người chán ghét, chẳng có ai ưa, thảy đều sợ hãi lánh xa, như tránh xa cọp beo hung dữ. Họ hiện tại thì bị khinh rẻ, chết thì đọa vào địa ngục. Vì vậy cho nên người trí thấu rõ sự nguy hiểm này, dùng nhẫn nhục mà trừ diệt, sẽ không còn lo sợ những điều đau khổ ở tương lai.

Như kinh Chánh Pháp Niệm nói: “Nếu dấy khởi sân hận thì tự đốt cháy thân mình, tâm tư bí hiểm độc địa, nhan sắc thay đổi lạ lùng, mọi người đều kinh hãi xa lánh, đồng thời ruồng bỏ khinh thường phỉ báng, đến lúc thân mạng kết thúc thì đọa vào địa ngục.

Bởi vì ‘giận mất khôn’ cho nên không việc xấu ác nào mà không dám làm. Do vậy, người trí biết tai họa của sân hận nên xả bỏ nó như rời xa ngọn lửa; Vì muốn lợi ích cho mình và lợi ích cho người khác, bèn thuận theo lời Phật dạy cố gắng thực hành hạnh nhẫn nhục.

Ví như lửa lớn đốt cháy nhà cửa có người khỏe mạnh dũng cảm lấy nước dập tắt. Cũng lại như vậy, nước của trí tuệ và từ bi có năng lực dập tắt lửa sân hận. Người luôn an nhẫn là tâm thiện bậc nhất, luôn luôn xả bỏ sân hận, được mọi người yêu mến, mọi người tin tưởng và ưa thích gần gũi, nhan sắc trong sáng tươi tỉnh, tâm tư vắng lặng rỡ ràng, không bồn chồn vội vàng bộp chộp, dễ dàng lắng đọng tâm tư, xa lìa lỗi lầm của thân và miệng, xa lìa sầu não, xa lìa nỗi sợ rơi vào đường ác, xa lìa mọi sự oán ghét, xa lìa mọi sự ưu não, xa lìa nỗi sợ oan gia, xa lìa nỗi sợ người ác mắng nhiếc thô tục dữ dằn, xa lìa nỗi sợ hối hận, nỗi sợ tiếng xấu, nỗi sợ không có lợi ích, xa lìa nỗi sợ khổ đau, xa lìa nỗi sợ ngạo mạn.

Nếu người có năng lực xa lìa những nỗi sợ như vậy, thì tất cả công đức thảy đều đầy đủ, danh tiếng khắp nơi đều nghe biết đến, đạt được niềm vui đời hiện tại và tương lai, mọi người nhìn thấy giống như cha mẹ mình, là người nhẫn nhục thì được mọi người thân cận quý mến.

Vì vậy sân hận giống như rắn độc, như dao bén như lửa nóng, dùng nhẫn nhục mà dập tắt, có năng lực loại trừ hết. Có thể đè nén cơn bực tức, đó gọi là nhẫn. Nếu có người tu tập hạnh lành, nên dấy lên ý nghĩ rằng: “Nhẫn nhục giống như vật báu ta nên cố gắng giữ gìn. Nhưng các chúng sanh thiện ác hiện bày sai khác, người ngu mắng chưởi xúc phạm hơn người thì cho là thắng; người trí hạ mình im lặng cho là bậc nhất. Người ngu bởi vì dấy lên một chút tranh chấp liền trở thành mối thù hận to lớn. Nếu đắc thắng ắt kết oán kết thù càng thêm sâu chắc. Trái lại nếu bị đuối lý hay thua thiệt thì sinh sầu khổ ưu bi”.

Nếu luôn luôn cẩn thận lời nói, không nói đến điều tốt xấu của người, cho dù bị người ta mắng chưởi tự biết rằng thảy đều do nghiệp đời trước mà mình đã gây giờ này trổ quả, hãy nên hoan hỷ chấp nhận trả đền.

“Được thắng cuộc tăng thêm thù oán,
Thua cuộc thì thêm nhiều giận tức,
Người không tranh dù thắng hay thua,
Niềm vui ấy thật là bậc nhứt.”

Thuở xưa ở thành Phong Đức có một gia đình nghèo. Cả chồng lẫn vợ đều keo kiệt, thô ác, và không tin Đạo Pháp. Đức Phật thương xót cho đôi vợ chồng ngu si ấy, nên biến làm một Đạo

Nhân bần khổ và đến ở trước cổng nhà của họ để khất thực.

Lúc đó người chồng đã đi vắng, cô vợ mắng chửi vị Đạo Nhân vô cùng thậm tệ.

Vị Đạo Nhân bảo rằng: “Tôi là một Đạo Nhân. Tôi đi khất thực là để duy trì mạng sống. Xin đừng mắng chửi. Tôi chỉ hy vọng nữ thí chủ có thể cho một chút thức ăn.”

Cô vợ nói rằng: “Cho dù ông có đứng chết ở đây, tôi còn không cho thức ăn. Huống nữa ông đang khỏe mạnh mà muốn xin thức ăn của tôi à! Ông đừng lãng phí thời gian nữa, chi bằng hãy mau mau cút xéo đi!”

Khi ấy vị Đạo Nhân đang đứng ở trước cổng, bỗng nhiên mắt trợn trắng, hơi thở ngừng đập, và liền hiện ra tướng chết. Thân xác trương sình, ở lỗ mũi và miệng có giòi bọ chui ra, vùng bụng nứt vỡ, ruột rữa nát, và chảy ào ra những thứ bất tịnh. Khi thấy thế, cô vợ kinh hoàng sửng sốt và bỏ nhà mà chạy.

Bấy giờ Đạo Nhân hốt nhiên rời khỏi hiện trường và ngồi nghỉ dưới một gốc cây. Lúc đó người chồng đang trên đường về nhà bỗng gặp cô vợ ở giữa đường. Người chồng kinh ngạc về sự hốt hoảng của vợ mình.

Cô vợ nói với chồng rằng: “Có một Đạo Nhân đến nhà của chúng ta khất thực, nhưng bỗng nhiên bị chết, nên mới làm cho em hoảng sợ như thế.”

Nghe xong, người chồng vô cùng phẫn nộ và hỏi rằng: “Hắn đang ở đâu?”

Cô vợ đáp rằng: “Đã bỏ đi rồi! Chắc cũng chưa đi xa chi cho lắm!”

Người chồng lập tức cầm cung tên và mang dao vào mình, rồi tốc hành truy đuổi. Bấy giờ anh ta chạy vội về phía trước, giương cung giơ dao và muốn chém Đạo Nhân. Đạo Nhân liền hóa làm một thành nhỏ bằng lưu ly ở xung quanh để tự bảo hộ. Bấy giờ hắn đi vòng quanh bên ngoài thành vài vòng nhưng chẳng thể nào vào được.

Hắn liền hỏi Đạo Nhân rằng: “Sao không mở cửa?”

Đạo Nhân trả lời: “Nếu muốn tôi mở cửa thì hãy bỏ cung đao của ông xuống.”

Kẻ thô lỗ tự nghĩ: “Mình hãy làm theo lời hắn nói. Một khi được vào trong, mình sẽ dùng nắm tay đánh hắn.”

Rồi kẻ thô lỗ bỏ xuống cung đao, nhưng cửa vẫn không mở.

Kẻ đó lại nói với Đạo Nhân rằng: “Tôi đã bỏ xuống cung đao rồi. Sao còn chưa mở cửa?”

Đạo Nhân trả lời: “Tôi bảo ông bỏ xuống ác niệm và ý nghĩ giết hại của cung đao ở trong tâm, chứ không phải cung đao đang cầm trong tay.”

Khi ấy, lòng của kẻ kia run rẩy sợ hãi và nghĩ thầm: “Đạo Nhân là thần thánh nên đã biết ý nghĩ của mình.”

Ngay sau đó, kẻ thô lỗ khấu đầu sám hối lỗi lầm, rồi cúi đầu thưa với Đạo Nhân rằng: “Vợ của con thật ngu si, đã không biết Ngài là bậc Thánh nhân, và còn khiến con khởi sanh niệm ác. Xin

Ngài rủ lòng từ bi và chớ vội rời khỏi. Con nay muốn dẫn vợ con đến để Ngài khuyên răn và chỉ dạy tu Đạo.”

Người chồng lập tức đứng dậy và trở về nhà.

Cô vợ hỏi rằng: “Đạo Nhân đang ở đâu?”

Người chồng liền kể lại tất cả những sự thần thông biến hóa của vị Đạo Nhân: “Ngài đang ở chỗ kia. Em hãy mau đến để sám hối nghiệp tội.”

Và thế là, hai vợ chồng đến chỗ của Đạo Nhân, đầu đảnh lễ sát đất, sám hối lỗi lầm, và xin làm đệ tử.

Rồi quỳ xuống và hỏi rằng: “Thần thông biến hóa của Ngài đã đạt đến cảnh giới của bậc Thánh. Thành lưu ly do Ngài biến hóa thật kiên cố và không sao vào được. Với tâm minh liễu và ý kiên định, Ngài đã vĩnh viễn chẳng còn ưu sầu và hoạn nạn. Xin hỏi Ngài đã tu hành Đạo gì mà được thần thông diệu dụng như thế?”

Đạo Nhân trả lời: “Ta siêng tu học mà không chán mỏi và phụng hành Phật Pháp mà không lười biếng. Ta tinh tấn trì giới và tu tập trí tuệ mà chẳng buông lung. Do vậy, ta đắc Đạo và tự đạt đến tịch diệt.”

Nhân đó, Đạo Nhân liền nói kệ rằng:

“Nghe pháp vững tu hành
Trì giới làm tường thành.
Chuyên dõng mãnh Tinh tấn
Từ đó định tuệ sanh.
Nghe pháp tâm khai sáng
Phiền não dần tan tành.
Trí tăng rộng giải nghĩa
Thấy nghĩa tâm lặng yên.
Nghe pháp dứt lo sợ
Khéo thâm nhập định thiền.
Khéo giảng Pháp cam lộ
Tự đắc Đạo vô vi.
Nghe Pháp biết Kinh giới
Thấy lý chân hết nghi.
Do nghe lìa pháp ác
Huệ khai dứt mê si”.

Khi nói kệ xong, Đạo Nhân hiện ra uy tướng quang minh của Phật, sáng chói hiển hách và chiếu sáng rực rỡ khắp thiên địa. Bấy giờ hai vợ chồng kinh hoàng, run rẩy sợ hãi, và quyết định sửa đổi tâm tánh hung ác. Rồi hai vợ chồng chí thành cúi đầu đảnh lễ sát đất. Lập tức, họ diệt trừ 20 ức kiếp nghiệp tội sanh tử và đắc Quả Nhập Lưu.

Quả báo chính:
Mê muội khởi lên lòng sân hận,
Bị lửa địa ngục đốt tan tành.
Lang sói cọp beo đua cắn xé,
Rắn rít độc hại cùng nhau tranh.
Hầm than mưa kiếm rơi xối xả.
Âm thanh gào thét tận trời xanh.
Ngày đêm thống khổ không ngưng nghỉ,
Người trí nghiệm suy gắng tu hành!

Quả báo phụ:
Giận dữ đốt tiêu rừng công đức,
Ghìm ta mãi mãi trong ác đạo.
Ra khỏi nơi ấy lên dương gian,
Bị người não hại rất tàn bạo.
Luôn luôn tìm cách vạch lỗi lầm,
Chê bai ghét bỏ như chồn cáo.
Lỗi này đã không ích lợi chi,
Sớm bỏ quay về nương Tam Bảo!

*Đỗ Nghi là con trai thứ hai của Hoài Dao, nhậm chức Thứ sử ở phía Tây vùng Kinh Châu, tánh tình rất ngang ngược và hay ganh ghét, mới cưới một người thiếp, diện mạo vô cùng mỹ miều xinh đẹp, ông rất mực cưng chiều nồng hậu.

Hôm nọ, người thiếp nhận được thư của cha mình nói rằng: “Những ngày gần đây hoàn cảnh gia đình khốn khổ muốn có đôi chút khẩn cầu”.

Người thiếp dựa mành đọc thư, đột nhiên Đỗ Nghi từ ngoài trở về, nàng vì mới về nhà chồng, cảm thấy chuyện mở miệng cầu xin tiền bạc là việc vô cùng xấu hổ nên không muốn để cho chồng biết, do đó cô bèn nuốt chửn bức thư vào bụng. Ông chồng nghi ngờ là lá thư của người tình gởi đến, liền ra lệnh cho gia nhân mổ bụng lấy thư. Người thiếp hơi thở chưa dứt mà thư đã lấy ra,

Đỗ Nghi xem xong than rằng:

– Ta không nên vội vàng tự ý như vậy. Quả thật tội lỗi của ta rất là to lớn!

Nhưng ân hận thì sự việc cũng đã vô phương cứu vãn, người thiếp không cách gì sống sót. Đêm ấy thấy người thiếp về giãi bày sự việc, mười ngày sau Đỗ Nghi liền ngã lăn ra chết. Người vùng Tương Dương cho đến bây giờ vẫn còn truyền miệng câu chuyện này để nhắc nhở với nhau.

Xưa có một người vào non ở,
Sớm khuya lo chuông mỏ tu hành;
Sự tương rau trai giới chặt gìn,
Lòng hằng muốn thác sanh cõi Phật.
Nhưng lửa giận trong lòng chưa dứt,
Thường hay phiền những vật trái lòng;
Một hôm kia có một bò đồng,
Phá đám rẫy ông trồng rất tốt;
Lòng ông phát nóng lên như đốt,
Rượt đánh bò gần chết mới thôi.
Sau ít ngày ông lánh cõi đời,
Hồn được hóa Thần ngồi giữ núi,
Muốn về Phật mà lòng chưa nguội;
Phạm tội gần như tội sát sanh,
Thế cho nên quả Phật chẳng thành.
Làm thần cứ đi quanh theo núi,

*Sáng sớm, thợ săn Koka vào rừng với cung tên và bầy chó săn theo sau. Hắn trông thấy bên lề đường một Tỳ kheo đang vào làng khất thực. Hắn bực bội vì cho rằng gặp một kẻ xúi quẩy.

Không biết có phải vì thế không, mà anh ta sục sạo trong rừng cả ngày chẳng được con thú nào. Còn Trưởng lão khất thực và thọ thực xong trở về tinh xá. Cả hai gặp nhau, và thợ săn vẫn còn tức tối, lùa chó đến cắn Trưởng lão dù Ngài van xin hắn. Ngài vội vã trèo lên cây, bầy chó vây quanh dưới gốc. Thợ săn cay cú nói vói theo:

– Đừng tưởng thoát khỏi nanh vuốt của ta nhé!

Rồi hắn lấy mũi tên đâm vào bàn chân Trưởng lão. Ngài van xin nhưng hắn mặc kệ, cứ đâm hết nhát này tới nhát kia, cho đến khi bàn chân Ngài nát bét. Ngài kéo chân đó lên và thò chân kia xuống. Hắn lại đâm tiếp. Ngài lại kéo chân kia lên. Ngài quá đau nhức, như thể ngồi trên ngọn đuốc, đến nỗi không còn chú ý đến chuyện gì hết, chiếc y ngoài rơi xuống mà Ngài chẳng hay, và chiếc y chụp xuống đầu thợ săn trùm đến chân.

Bầy chó tưởng đó là Trưởng lão rớt trên cây xuống, chúng luồn dưới chiếc y nhai sống anh thợ săn đến trơ xương. Xong rồi chúng chui ra khỏi tấm y, chúng đứng đợi. Trưởng lão bẻ một cành cây khô ném xuống. Thấy Trưởng lão chúng mới biết là đã ăn thịt chủ mình, liền cong lưng chạy tót vào rừng.

Trưởng lão bất an khi thấy anh thợ săn mất mạng vì chiếc y của mình. Ngài trở về bạch lại đầu đuôi câu chuyện cho Thế Tôn, và hỏi Ngài không biết mình vô tội hay có còn là tu sĩ không. Thế Tôn trả lời:

– Tỳ kheo! Sự vô tội của thầy vẫn nguyên vẹn, thầy vẫn là một tu sĩ. Người nào xúc phạm đến người vô tội sẽ bị diệt vong. Đây không phải là lần đầu, mà trong tiền kiếp tên thợ săn cũng đã từng phạm tội như thế.

Người đồng loại khuyên câu nhứt thể,
Kẻ khác nòi dạy lẽ tương thân;
Giàu sang nên giúp cơ bần,
Quan liêu khéo xử cho dân được nhờ.
Chớ mưu việc đầu cơ hối lộ,
Đừng sanh tâm lang hổ hại người;
Xử phân ngay ngắn tốt tươi,
Đáp lời dịu ngọt khi người hỏi han.
Kẻ học thức giúp hàng ngu dốt,
Đừng buông lời cười cợt mỉa mai;
Những người tuy đã lầm sai,
Có lời xin lỗi thứ ngay cho người.
Ăn ở đúng theo lời Hiền Thánh,
Xét mình rồi xét hạnh của người;
Xấu xa cùng việc tốt tươi,
Cả hai điều đáng cho nơi học hành.
Tốt tươi thì lưu tình bắt chước,
Xấu xa thì biết trước lánh đi;
Trên đời bất luận việc chi,
Cũng đều lợi ích nếu suy xét rành.
Khéo dụng sự như anh thợ mộc,
Cây vạy ngay đều được dùng xong;
Tức là chuyển tội nên công,
Đổi điều họa trở phước hồng như chơi.

Ba Mỹ Nhân

Vợ chồng Quan giáo sư đã 55 tuổi, sinh được ba cô con gái dung mạo mỹ lệ, tuổi tác khác cách nhau, 20, 23, 25. Mặc dù là những tiểu thư lá ngọc cành vàng kiều diễm, nhưng các cô gái này vẫn chưa có đối tượng cầu hôn, vì vậy mà vợ chồng giáo sư hết sức khổ sầu. Trong khi đó nhiều thanh niên vừa thoáng nhìn qua các cô thì đã nghiêng ngửa hồn phách, ra công theo đuổi.

Nhưng một khi đã phát hiện các tuyệt đại mỹ nhân này không thể nói năng gì, họ lập tức bỏ giò láy thối lui.

Vợ chồng ông thuộc hàng thượng lưu trí thức, xưa nay không hề tin vào thuyết nhân quả. Nhưng cứ lần lượt sinh hạ liên tiếp ba cô gái câm, quả thực tinh thần họ bị chấn động khốc liệt đến độ muốn suy sụp.

Họ ngơ ngác bàng hoàng, vạn phần thống khổ. Nỗi buồn làm cho khuông mặt họ nhanh chóng già đi, hai người tuy có học thức cao và giàu sang, nhưng không thể nào hạnh phúc trong hoàn cảnh ấy, và cũng chẳng thể đem lại hạnh phúc cho các của con mình. Sự khiếm khuyết của ba mỹ nữ này, khiến người ta cảm thấy kinh sợ, ưu tư thắc mắc nhưng vô phương tiếp giúp được gì.

Thường có câu: “Thanh niên ưa bàn học vấn, trung niên bàn về số mệnh, lão niên bàn về tôn giáo”. Vợ chồng ông hiện đang bước vào tuổi lão niên, song tinh thần họ trường kỳ thống khổ mà không thuốc men nào có thể trị lành. Vì vậy đối với tôn giáo họ dần dần phát sinh hứng thú muốn tìm hiểu.

Cuối tuần, nhờ một người bạn khuyến khích, họ bèn đến một ngôi chùa ven đô thị nghe cao tăng thuyết pháp.

Hòa thượng nói: “Thiện hữu thiện báo, ác hữu ác báo” quy luật nhân quả tồn tại rất khách quan và không do Đức Phật quy định hay sáng tạo ra. Đức Phật chỉ là công bố, nói rõ cho chúng sinh biết mà cảnh giác thôi.

Bất kể bạn tin hay không, đời sống tất cả chúng ta đều nằm trong nhân quả, vì vậy mỗi cá nhân chúng ta cần có trách nhiệm đối với hành vi thiện ác của mình. Mỗi người chính là kẻ sáng tạo vận mệnh của mình. Nếu như tự mình làm ác, thì bạn sẽ gặt hái quả báo thống khổ”

Đề tài buổi thuyết giảng hôm ấy giống như được nêu lên để ông chiêm nghiệm và trực diện với nội tâm sâu thẳm. Ông bỗng hồi tưởng lại chuyện đã qua từ 25 năm trước:

“Hồi đó, Vợ chồng ông vừa kết hôn được hai tháng thì chị hoài thai. Ông rất vui mừng, lái chiếc xe hơi đắt tiền sang trọng chở vợ đến miền duyên hải có phong cảnh nên thơ hữu tình, cùng nhau du lịch.

Có lần, họ đến miền bắc Thái Lan, tham gia ‘hội yến’, xe hơi dừng trước khoảng sân rộng của một ngôi chùa. Ông vừa mở cửa xe, thì lập tức có một đám trẻ hành khất lang thang chạy tới chen lấn, kéo tay họ xin tiền.

Ông rất ghét những kẻ ăn xin, không những tự mình không cho mà ông còn nói với mọi người:

– Không nên cho chúng tiền, như vậy sẽ tập cho chúng quen thói bất lương, chẳng chịu làm việc đàng hoàng, mà cứ ngồi không hưởng thụ, tạo ra tệ nạn cho xã hội…

Đám trẻ lang thang nghe nói vậy bèn bỏ đi.

Vợ chồng ông tham dự hội yến vừa xong, lúc quay về chỗ đậu xe thì phát hiện chiếc xe đời mới sang trọng yêu quý bị rạch một đường sâu, kéo dài từ đầu xe đến cuối xe. Thế là ông bốc hỏa, nổi giận đùng đùng, ông thầm nghĩ nhất định là đám trẻ đường phố ban nãy.

Ông giương mắt nhìn tứ phía, thấy ở dưới gốc cây xoài gần đó, tụ tập bốn-năm đứa trẻ độ tuổi 13-14. Ông liền xông tới, không cần hỏi rõ trắng đen, phải trái, ông giáng cho mỗi đứa một bạt tai.

Sau đó lớn tiếng bắt chúng phải khai ra ai đã rạch chiếc xe quý giá của mình. Ông thấy không ai chịu nhận, liền uy hiếp đòi đưa chúng đến sở cảnh sát.

Đám trẻ sợ quá, trong đây có một đứa lớn tuổi nhất, liền chỉ ra phía xa xa (chỗ có một đứa trẻ hành khất ăn mặc lam lũ đang hướng người ngoại quốc xin tiền) bảo đó là thủ phạm. Ông đang nộ khí xung thiên liền hùng hổ chạy qua bắt đứa trẻ đường phố nọ đến bến xe, còn đám trẻ kia nhân cơ hội này mạnh ai nấy chạy thoát thân.

Ông hung bạo tát vào hai má đứa bé, hung hăng thẩm vấn nó vì sao dám rạch xe ông? Hỏi một hồi mới phát hiện một điều: té ra đó là đứa trẻ câm. Thằng bé không ngừng khua tay múa chân, mắt rưng rưng lệ tỏ vẻ khiếp hãi, ánh nhìn rất đáng thương.

Ông không hiểu được ngôn ngữ ra dấu của nó, cho là nhất định vì ông tuyên bố “không cho tiền” mà thằng nhỏ này ôm hận chơi xấu. Vì vậy ông phẫn nộ tung chân phải ra, đá mạnh vào ngực thằng bé câm. “Huỵch” một tiếng, nó ngã chỏng gọng, đưa hai chân lên trời, tiếp theo là “ọc” một tiếng, máu tươi từ miệng nó tuôn ra, người chung quanh vội chạy tới kéo ông ra và mang đứa trẻ câm đi để nó không phải bị ăn đòn nữa.

Đứa bé câm đi rồi, nhưng vẫn quay đầu nhìn trừng trừng về phía ông. Nhãn quang nó đầy căm hận. Sau đó đứa trẻ câm náu thân trong chùa, nó phát bịnh nặng được mấy năm thì thành tàn phế. Mọi người đều biết đứa bé câm bản tính lương thiện, chiếc xe hơi không phải do nó rạch, ông đã đánh oan nó.

Cuối năm đó, chị hạ sinh một bé gái, mày thanh mắt sáng, đến ba tuổi vẫn chưa nói được. Tiếp đến chị lại sinh một thiên kim thứ hai, ba tuổi cũng không thể nói. Sau chót, chị sinh bé gái thứ ba, vừa sinh là vội mời bác sĩ đến kiểm tra: lại là một cô nương câm nữa! Chị sợ tương lai nếu sinh nữa thì đứa thứ tư, thứ năm vẫn là con gái câm, nên đã nhờ bác sĩ mổ triệt sản giùm”.

Bây giờ, mỗi lần giáo sư Quan nhìn ba đứa con gái câm, là nhớ ngay đến cú đá khốc liệt mình dành cho thằng bé câm ngày xưa. Ông không quên được cảnh miệng nó ọc máu tươi và ánh nhìn oán hận khủng khiếp.

Đến nay nhớ lại, ông vẫn thấy ớn lạnh. Ông đã hiểu ra và không thể không tin đạo lý nhân quả báo ứng, mà thiên lý luôn tuần hoàn báo ứng công bằng, đó là quy luật tự nhiên. Đối với hành vi hung tàn 25 năm xưa, bây giờ ông có hối cũng đã muộn màng.

Từ đó, mỗi cuối tuần, vợ chồng ông đều đến chùa nghe cao tăng giảng kinh và sám hối tội lỗi của mình trước Phật. Họ phát tâm tu thiện tích đức. Đúng như tục ngữ có nói: “Đời người đến 50, mới nhìn ra lỗi lầm năm 49”.

Thật niệm Phật dứt lòng hung dữ,
Quyết tu hành bỏ sự gian phi;
Lợi danh đời lòng chẳng thiết chi,
Đường giải thoát cố đi cho tột.
Trong nhà lửa mà không bị đốt,
Ở cõi trần mà vượt khỏi mê;
Có vinh huê chẳng nhiễm vinh huê,
Được phú quí không mê phú quí.
Càng có của càng đem bố thí,
Càng có quyền càng nghĩ cứu dân;
Giàu sang không phụ bạc cơ bần,
Thông minh chẳng nhạo khinh ngu dại.
Được thân thế lòng càng rộng rãi,
Đủ tiện nghi dạ phải khoan dung;
Không thừa cơ chụp giựt hành hung,
Chẳng cậy thế thổi lông tìm vết.
Muốn làm sống không đành làm chết,
Thương người không nỡ ghét hại người;
Tìm làm cho hòa nhã tốt tươi,
Chẳng muốn tạo lôi thôi gây gổ.
Giữ nhân cách, biết điều thẹn hổ,
Ở thẳng ngay, sống có cương thường;
Nghe khổ người lòng biết xót thương,
Thấy đói biết chia cơm sẻ áo.
Ở chòm xóm lấy câu hòa hảo,
Trong gia đình gìn đạo hiếu thân;
Ai cũng đều ăn ở có nhân,
Người đời sẽ bớt phần thống khổ.
Ai cũng biết chung lo tế độ,
Thì ngục môn bế ngõ từ lâu;
Được lạc an khắp cả hoàn cầu,
Đâu đến nỗi khổ sầu tấp nập,
Nghe lời Phật lòng lành rán tập,
Chí công lo niệm Phật tu hành;
Lúc sống không đày đọa thân sanh,
Khi thác được gởi mình cõi Phật.

10/- Mê Si

Mê si là: thấy biết điên đảo, không phân biệt được tốt xấu, thiện ác, phải quấy, đúng sai, tà chánh… ác cho là thiện, thiện cho là ác, chánh cho là tà, tà cho là chánh… cứ khăng khăng cố chấp ôm chặt cái thấy cái hiểu sai lầm mê muội dại tà.

Bắt đầu đi vào Phật pháp, cần phải lấy tín tâm làm đầu. Ví như có người đi đến nơi hòn núi châu báu, nếu không có niềm tin thì tay không mà trở về, chẳng có ích lợi gì cả. Vì vậy trong kinh nói:

“Người ngu si dốt nát không nhận thức được nhân quả, vọng tưởng dấy lên tà kiến bài báng không có Tam Bảo, không có Tứ Đế, không có họa, không có phước, thậm chí không có thiện, không có ác, cũng không có nghiệp báo của thiện ác, cũng không có chúng sinh thọ sanh ở đời này và đời sau. Người như vậy, đạp đổ tư tưởng về pháp thiện pháp ác, đó gọi là đoạn diệt thiện căn,

Như kinh Đại Phẩm nói: “Nếu người không tin mà phỉ báng kinh Đại thừa Bát Nhã, thì dứt khoát ắt phải rơi vào địa ngục A tỳ, nhận chịu khổ đau vô cùng trong vô lượng trăm ngàn vạn ức kiếp, từ một địa ngục đến một địa ngục, nếu thế giới này hoại thì sanh vào trong địa ngục lớn ở thế giới khác, thế giới phương khác hoại thì sanh trở lại trong địa ngục lớn ở phương này. Như vậy lần lượt chuyển vòng khắp nơi mười phương thế giới.

Tội báo địa ngục chấm dứt thì sanh trong loài súc sanh, cũng khắp nơi mười phương thế giới.

Tội báo súc sanh chấm dứt, sanh đến nơi không có Phật pháp ở trong loài người, nghèo khó hèn hạ thiếu khuyết các căn, thường ngu si điên cuồng khờ dại không phân biệt hiểu biết được gì.

Tuy không ngu đần như loài vật mà cho dù là người thông minh, vọng tưởng nảy sinh cố chấp lạ lùng thì cũng gọi là tà kiến”.

Do đó, trong Thành Thật Luận nói: “Ngu si có sự sai biệt, nguyên cớ do đâu? Bởi vì không phải tất cả ngu si đều là bất thiện, nếu ngu si tăng lên chuyển thành tà kiến, thì gọi là nghiệp đạo bất thiện. Vì vậy từ ngu si tăng lên thành tà kiến, thì trở thành tội lỗi sâu nặng, chắc chắn rơi vào địa ngục A tỳ. Cứ như ngay nơi tà kiến tự nó cũng có nặng nhẹ, nhẹ thì có thể chuyển hóa, nặng thì không thể chuyển hóa”.

Vì vậy trong kinh Bồ Tát Địa Trì nói: “Tà kiến có hai loại:

Phỉ báng nhân quả, nói không có Thánh nhân, đó gọi là loại tà kiến không thể chuyển hóa.

Không phải là nhân xem là nhân, không phải là quả xem là quả, loại tà kiến này gọi là có thể chuyển hóa.

Vì thế cho nên ác nghiệp gọi là tà kiến, thiện nghiệp thì gọi là chánh kiến.

Loại không bài báng Tứ Đế mà mê muội Thánh đạo, không biết lý của đạo là từ tự tâm sinh ra, chỉ thường làm cho thân đau khổ để mong cầu giải thoát, như con chó chỉ đuổi theo viên đá ném ra, chứ không biết tìm đến nơi xuất phát ban đầu”.

Do đó, trong Thành Thật Luận nói: “Thà rằng dừng lại thực hành chứ đừng thực hành tà đạo, đến lúc thân hoại mạng chung sẽ rơi vào nẻo ác thọ nhận khổ đau”.

Vạn vật vốn nhơn duyên tạo cấu,
Các việc đều Thành, Trụ, Hoại, Không;
Thân con người như thể cái bông,
Huê mỹ chỉ được trong ngày buổi.
Mọi sự của người đang cặm cụi,
Đều đi theo cái tuổi của người.
Phật ngàn xưa cũng đã cạn lời
Rằng vạn sự trong đời là tạm.
Kẻ ngu xuẩn đến người bác lãm
Ai cũng đều nhìn nhận thế ư!
Xưa sao thì nay cũng vẫn như,
Vật đã tạm bao giờ cũng tạm.
Giống tham ái cứ lo chăm bám,
Lửa tử sanh ngày tháng thiêu luôn.
Suốt cổ kim nhân vật quay cuồng,
Không tìm thấy con đường vĩnh cửu.
Mưu hạnh phúc ở nơi hình hữu
Thất bại luôn thành tựu vẫn không;
Nào mấy ai được biết tỉnh lòng,
Cứ phí của phí công vào đấy.
Trời Đông vậy trời Tây cũng vậy,
Khắp người trên thế giới một chiều.
Càng văn minh càng lỗi lầm nhiều,
Bị vật chất đủ điều cám dỗ.
Thấy vui thú ít người thấy khổ,
Rõ bề ngoài chẳng rõ bề trong;
Kết cuộc nào khác cái pháo bông
Muôn việc góp vào trong tiếng nổ.
Trên vũ đài văn minh tiến bộ,
Khoác lên bao lớp áo tân kỳ.
Múa đủ trò chẳng thiếu món chi,
Người xem dễ mê ly đắm đuối.
Bao nhiêu việc hoàn cầu thế giới,
Tập trung vào các lối múa này;
Việc mất còn thật giả không hay,
Mê theo vật chưng bày trước mắt.
Hầu hết bị tuồng đời dẫn dắt,
Hết muốn nầy kế bắt muốn kia;
Như vượn chuyền cành cội lịa lia,
Cho đến chết không hề chán mỏi.
Sự biết quấy mà không chống chỏi.
Cứ làm đùa cho tội triền miên;
Không một đời nào được ổn yên,
Chịu đau khổ nối liền muôn kiếp.
Cảnh tạm cứ hiệp tan tan hiệp,
Đời mê luôn còn mất mất còn.
Quả địa cầu còn phải suy mòn,
Huống là vật ở trên mặt đất.
Sớm ôm giữ kế chiều lại mất,
Nay còn đây mai lạc nơi nào?
Có khác gì là cảnh chiêm bao,
Sao chẳng để trí vào suy nghiệm.

Thuở xưa, Đức Phật giáo hóa ở tinh xá nước Xá-vệ. Lúc ấy, trong thành La-duyệt-kỳ có một người ngu si hung bạo, bất hiếu với cha mẹ, khinh khi người lương thiện, không kính bậc tôn trưởng. Ông ấy làm ăn thất bại, không được như ý nên thờ phụng lửa để cầu ban phước. Pháp tắc thờ lửa, mỗi ngày khi mặt trời sắp lặn phải thắp lên một đống lửa lớn rồi hướng về đó mà quỳ lạy, đến nửa đêm lửa tắt mới thôi.

Người ấy thờ như vậy ba năm mà không được phước, bèn chuyển qua thờ mặt trời, mặt trăng. Pháp tắc thờ là ban ngày khi mặt trời mới mọc, ban đêm khi mặt trăng vừa lên thì hướng về đó mà lễ lạy đến chừng nào lặn mới thôi.

Người ấy thực hành như vậy ba năm mà vẫn không được phước bèn chuyển qua thờ Trời, đốt hương quỳ lạy, dâng lên hương hoa, rượu thịt, trâu bò heo dê tươi ngon cho đến khi nghèo túng mà vẫn không được phước báu.

Người ấy vì thế thân thể tiều tụy, bệnh hoạn đến độ bước ra cửa không nổi. Một hôm ông nghe được ở nước Xá-vệ có Đức Phật là bậc chư Thiên tôn kính, nên định đến đó phụng sự, mong được phước báu. Ông liền cố gắng sang nước Xá-vệ tìm đến chỗ Phật. Tới nơi khi nhìn thấy tôn dung uy nghiêm của Đức Phật hào quang rực rỡ như trăng sáng nổi bật giữa muôn sao, ông sinh tâm hoan hỷ, quỳ xuống đảnh lễ Đức Thế Tôn rồi chắp tay thưa:

– Con sinh ra và lớn lên trong ngu muội, không biết gì đến Phật, Pháp, Tăng, chỉ lo thờ lửa, mặt trời, mặt trăng và các Thiên thần. Chín năm qua cần khổ ròng rã không được chút phước nào, mà thân thể con lại tiều tụy, khí lực suy vi, bốn đại nhiều bệnh không biết sẽ chết ngày nào. Nay con biết được Đức Thế Tôn là Bậc Thầy cứu độ chúng sinh, nên từ xa lại đây quy y, xin ban cho ân phước.

Đức Phật nói với ông:

– Ông thờ phụng trước giờ toàn là yêu tà, quỷ mị. Cúng tế cầu đảo với những hạng ấy nhiều như cát trong sa mạc thì tội lỗi sẽ đầy ắp như sông biển! Sát sinh để cầu phước thì cách phước rất xa! Nếu ông trăm kiếp cần khổ sát sinh, đem tất cả bò dê trong thiên hạ ra tế tự cầu đảo, thì sẽ mang tội lớn như núi Tu di mà phước chỉ nhỏ bằng hạt cải! Thật phí công phí của vô ích, há chẳng lầm lẫn lắm sao?

Lại nữa, ông là người con bất hiếu với cha mẹ, khinh khi người hiền, chẳng kính tôn trưởng, cống cao kiêu mạn, tam độc đầy dẫy, tội nghiệp ngày một sâu, do đâu mà được phước?

Nếu ông có thể cải đổi tâm tánh, hiếu thảo mẹ cha, kính lễ bậc hiền, oai nghi lễ phép cung phụng bậc Trưởng lão, bỏ ác làm lành, tu sửa bản thân, trải lòng từ bi thì bốn phước mỗi ngày một tăng, đời đời không gặp họa hoạn. Bốn phước đó là gì?

1. Nhan sắc đoan chánh.
2. Khí lực mạnh mẽ.
3. An ổn không bệnh.
4. Trường thọ, không bị chết oan.

Nếu ông tinh tấn theo những hạnh trên, không chút giải đãi thì có thể đắc đạo.

Bấy giờ Đức Thế Tôn liền nói kệ:

Tế thần để cầu phước,
Xét quả báo tương lai.
So kính lễ hiền tài,
Không được một phần bốn.
Biết lễ độ khiêm tốn,
Thường kính bậc lão thành.
Bốn phước tự nhiên sanh,
An lành, sắc, lực, thọ.

Người đó nghe kệ xong hoan hỷ tin hiểu, đảnh lễ Phật rồi lại thưa:

– Con vì tội cấu ngăn che đã gây ra tội lỗi trong suốt chín năm. Hôm nay may mắn nhờ lòng từ khai thị mới được thông hiểu. Xin Đức Thế Tôn cho con được xuất gia làm Sa môn.

Đức Phật bảo:

– Lành thay! Hãy lại đây Tỳ kheo!

Vị ấy râu tóc tự rụng, y khoát trên thân thành bậc Sa môn. Sau đó, tinh cần tu tập Bát Chánh Đạo, không bao lâu vị ấy chứng quả A-la-hán.

Còn trong kinh Trung A Hàm nói: “Đức Phật bảo với các Tỳ kheo: Nếu như người phàm trần ngu si gây ra ác hạnh do thân, ác hạnh do miệng, ác hạnh do ý, thì sau khi mạng chung sanh vào trong địa ngục, nhận chịu khổ đau cùng cực.

Ví như có người phạm tội ăn trộm giao cho nhà vua trừng trị tội, nhà vua lập tức sai người vào lúc sáng sớm, dùng một trăm cây kích để mà đâm, mạng sống người kia hãy còn, đến buổi trưa nhà vua lại ra lệnh dùng hai trăm cây kích đâm vào thân, mạng sống người ấy vẫn còn; đến lúc sẫm tối nhà vua lại truyền lệnh dùng ba trăm cây kích đâm vào, thân thể người ấy thảy đều rách nát, mạng sống của họ vẫn còn tồn tại.

Đức Phật bảo với Tỳ kheo: “Ý các thầy nghĩ thế nào, người này bị kích nhọn đâm nát là đau khổ hay không?”

Các Tỳ kheo trả lời Đức Phật: “Bạch Đức Thế Tôn! Lúc bị một cây kích đâm vào hãy còn đau khổ, huống hồ ba trăm cây kích đâm vào?”

Đức Phật liền dùng tay lấy một ít cát sỏi, như những hạt đậu, bảo với các Tỳ kheo rằng: “Đá sỏi trong tay Ta so với đá sỏi trên núi Tuyết, đá sỏi nơi nào là nhiều?”

Tỳ kheo thưa rằng: “Bạch Đức Thế Tôn! Đá sỏi trên núi Tuyết nhiều lắm, không thể làm ví dụ được”.

Đức Phật bảo với Tỳ kheo: “Nỗi khổ đau do ba trăm cây kích đâm vào so với nỗi khổ đau trong địa ngục, chỉ giống như một chút đả sỏi nơi tay ta, còn nỗi khổ đau của địa ngục thì giống như đá sạn trong núi Tuyết, trăm ngàn vạn lần không thể làm ví dụ được”.

Nỗi khổ đau trong địa ngục thì điều ấy như thế nào? Nếu có chúng sanh rơi vào trong chốn địa ngục, ngục tốt lấy rìu đốt đỏ khiến cho thật nóng, chặt đứt thân hình thành tám khúc và bỏ ở bốn phía, trải qua trăm ngàn năm khiến cho vô cùng đau khổ, nhưng mà không chấm dứt mạng sống, cần phải khiến cho ác nghiệp kết thúc; lại ngồi trên giường bằng sắt, dùng kiềm sắt kẹp miệng phải nuốt viên sắt nóng, trải qua trăm ngàn năm; lại ngồi trên giường bằng sắt, lấy nước đồng sôi rót vào miệng, trải qua trăm ngàn năm; lại nằm trên đất bằng sắt, dùng đinh sắt nóng đóng vào đầu người ấy, trải qua trăm ngàn năm; lại kéo lưỡi người ấy ra khiến liếm đất bằng sắt, dùng đinh đóng vào lưỡi, như căng tấm da trâu, trải qua trăm ngàn năm; lại kéo gân cổ buộc vào trên xe trải qua trăm ngàn năm. Lại đốt nóng đất bằng sắt khiến đi trên đó trải qua trăm ngàn năm; lại đốt cháy núi lửa khiến ở dưới đưa chân đạp lên ở trên máu thịt lập tức tiêu hết, đưa chân lên thì sống lại, trải qua trăm ngàn năm; lại ở trong vạc sôi trải qua trăm ngàn năm, khiến cho vô cùng đau khổ, nhưng mà không chấm dứt mạng sống, cần phải làm cho ác nghiệp không còn mới được thoát ra mà thôi. Đó là nỗi đau khổ trong địa ngục vậy!

Tội lỗi địa ngục chấm dứt sanh vào trong các loài súc sanh, thường ở nơi tối tăm cùng ăn thịt lẫn nhau, nhận chịu vô lượng khổ đau không thể nói hết.

Tội lỗi súc sanh chấm dứt có thể sanh trong loài người. Nếu từ súc sanh được làm người thì thật là khó, giống như rùa mù gặp bọng cây nổi.

Giả sử sanh trong loài người thì nghèo hèn thấp kém, bị người khác sai khiến, hình dáng và dung mạo xấu xa khó coi, hoặc các căn không hoàn chỉnh, hoặc là mạng sống ngắn ngủi.

Nếu người gây ra ác nghiệp thì chết đi lại sanh vào trong địa ngục, luân chuyển vô cùng tận không thể nào nói hết.

Đức Phật bảo với Tỳ kheo: “Người phàm phu ngu si gây ra ba ác hạnh của thân-khẩu-ý, thì chịu tội báo như vậy.”

Đức Phật lại bảo: “Nếu người trí tuệ thân làm lành, miệng nói lời lành, ý nghĩ tưởng điều lành thì khi mạng chung sanh vào đường thiện trên cõi trời, luôn luôn hưởng thụ vui sướng, như Chuyển

Luân Vương, cùng với bảy báu đầy đủ, và bốn điều tuyệt diệu giữa trần gian”.

Đức Phật bèn hỏi các thầy rằng: “Ý các thầy nghĩ thế nào, điều ấy là vui sướng hay không?”

Các Tỳ kheo trả lời Đức Phật rằng : “Bạch Đức Thế Tôn! Một thứ báu, và một điều tuyệt diệu hãy còn là vô cùng vui sướng, huống hồ ở nơi có bảy thứ báu và bốn điều tuyệt diệu!”

Đức Phật lại dùng tay lấy một ít cát sỏi, như những hạt đậu, bảo với các Tỳ kheo: “Cát sỏi trong tay Ta so với cát sỏi trong núi Tuyết, nơi nào là nhiều hơn?”

Các Tỳ kheo trả lời Đức Phật: “Bạch Đức Thế Tôn! Cát sỏi trong núi Tuyết quả thật là nhiều, không thể làm ví dụ”.

Đức Phật bảo với Tỳ kheo: “Sự vui sướng của Chuyển Luân Vương so với sự vui sướng trên cõi trời chỉ giống như một ít cát sỏi nơi tay ta, sự vui sướng trên cõi trời thì giống như cát sỏi trong núi Tuyết, trăm ngàn vạn lần không thể ví dụ được. Sự vui sướng trên cõi trời thì điều ấy như thế nào?

Nếu sanh lên cõi trời thì sự hưởng thụ sáu trần cảnh không có gì không tùy ý, hưởng thụ vui sướng vô cùng không thể nào nói hết.

Nếu từ trên cõi trời mà sanh vào cõi người thì sanh trong dòng dõi vua chúa, hoặc sanh trong tộc họ cao quý, vô cùng sang trọng giàu có, nhiều tiền bạc nhiều châu báu, danh tiếng vang rộng khắp nơi, đoan chánh tuyệt vời hết sức, mọi người ai cũng yêu quý kính mến.

Nếu người trí tuệ thực hiện ba thiện hạnh của thân, miệng và ý, thì đạt được phước đức như vậy.

Đây là niềm vui hữu lậu của thế gian, nếu tu thiện căn hồi hướng Bồ đề, quả báo chẳng còn ở trong dòng sanh tử, khi đạt đến Niết Bàn an lạc ấy mới thật sự là an lạc thù thắng bậc nhất”.

Quả báo chính:
Sáu kẻ giặc gian tà giả dối,
Bảy thức tình đảo lộn lẽ chân.
Hủy báng chánh lý do mê muội,
Tà ngữ tăng trưởng độc tham sân.
Ác nghiệp tung hoành không bờ mé,
Lời khuyên thành thực lại bất cần.
Một khi đọa vào ngục Vô gián,
Đau khổ tranh nhau trói buộc thân.

Quả báo phụ:
Tà kiến huân tập nghiệp ngu si,
Nhận chịu khổ đau ngục A tỳ,
Nghiệp hết loài người sanh trở lại,
Thầy tà bạn ác dắt nhau đi.
Khổ vui thiện ác luôn ngược ngạo,
Đúng sai tốt xấu chẳng biết chi.
Tâm ấy nếu như không thay đổi,
Quẩn quanh địa ngục mãi sầu bi!

Phật quở bảy vị tỳ kheo già

Thuở xưa Đức Phật trú tại tinh xá Kỳ Thọ nước Xá-vệ. Một hôm, thọ thực xong, Đức Phật thuyết pháp cho các hàng trời người, quốc vương, thần dân bốn bộ đệ tử. Lúc ấy, có bảy vị trưởng lão Bà la môn từ phương xa đến chỗ Phật đảnh lễ, chắp tay bạch rằng:

– Chúng con ở xa, từ lâu được nghe danh giáo hóa của bậc Thánh muốn đến quy mạng. Song vì nhiều duyên sự trở ngại, mãi hôm nay mới đến được để chiêm ngưỡng tôn dung. Chúng con xin được làm đệ tử, tu học chấm dứt các khổ.

Đức Phật chấp nhận cho các vị ấy xuống tóc làm Sa môn và dạy ở chung một phòng. Nhưng bảy vị này gặp được Thế tôn cho là có thể bảo đảm đắc đạo, không lo tư duy vô thường, ngồi chung trong phòng chỉ nghĩ việc đời hoặc trò chuyện cười đùa với nhau. Họ không biết mạng sống của mình chẳng còn bao lâu, tâm ý mê mờ bởi những buộc ràng trong ba cõi.

Đức Phật biết mạng sống của bảy vị này sắp hết. Ngài thương xót bèn đến phòng họ bảo rằng:

– Các ông học đạo nên cầu giải thoát, sao lại đùa cười lớn tiếng như vậy! Tất cả chúng sinh đều cậy vào năm việc. Đó là những gì?

1- Cậy vào tuổi trẻ.
2- Cậy vào sắc đẹp.
3- Cậy vào sức mạnh.
4- Cậy vào tài sản giàu có.
5- Cậy vào dòng họ sang quí.

Các ông thì thầm nói chuyện, cười cợt lớn tiếng là cậy vào điều gì?

Bấy giờ Đức Thế Tôn liền nói kệ:

Có gì mà vui cười?
Lửa vô thường thiêu đốt!
Che lấp trong ngu dốt,
Định huệ sớm lo trao.
Thân dẫu đẹp thế nào,
Tham đắm đưa đến khổ!
Suy xét cho tột độ,
Rất dơ bẩn vô thường.
Già tàn phai sắc hương,
Bệnh dần dà tàn hại.
Tạng phủ lần lụn bại,
Tứ đại phải phân ly.
Thần thức sẽ ra đi,
Theo những gì nghiệp tạo.
Để mà thọ quả báo.
Như chiếc đèn cạn dầu,
Ngọn lửa tựa vào đâu,
Để mà nó tồn tại.
Khi thịt xương tan hoại,
Thân nương cậy được đâu?

Đức Phật nói kệ xong, bảy vị Tỳ kheo giác ngộ, tinh tấn chuyên cần tu tập, chẳng bao lâu không còn vọng tưởng, liền chứng quả A-la-hán.

*Thời nhà Đường có Diêu Minh Giải, vốn là Sa môn ở chùa Phổ Quang, tánh thông minh văn chương hoa mỹ, giỏi viết văn tự, lại có sở trường về hội họa, gảy đàn thì cũng rất tuyệt vời, vì vậy mà thầy luôn vui với niềm vui phàm tục chẳng ham thích công phu hành đạo.

Vào năm thứ nhất niên hiệu Long Sóc, tất cả mọi người thuận theo chiếu thư, Minh Giải cũng tự mình đi đến Lạc Dương, và thi đỗ phẩm bậc rồi hoàn tục, không bao lâu bị bạo bệnh mà chết.

Sau đó thác mộng cho một người bạn tương giao là sư Trí Chỉnh ở chùa Tịnh Độ, ông nói rằng:

– Minh Giải tôi vốn không có phước nghiệp, bởi lúc sống không tuân theo lời Phật dạy mà nổ lực lo tu hành, nên hôm nay phải nhận chịu tội lỗi sâu nặng rất đói khát, nếu như thương tình bạn đạo thuở xưa, thầy có thể ban ơn cho mình một bữa ăn được không?

Trí Chỉnh trong giấc mơ đã đồng ý nhận lời, và sau khi tỉnh mộng mới bắt tay làm thức ăn để thí cúng. Tối đêm đó, vừa thiu thiu ngủ, thì thấy Minh Giải đến hổ thẹn ngỏ lời cảm ơn.

Đến giữa mùa thu năm kế, Diêu Minh Giải lại thác mộng với người bạn thợ vẽ, ông nói rằng:

– Vì tôi không tin Phật pháp cho nên bây giờ nhận chịu rất nhiều khổ đau, nhờ anh cố gắng mượn người thân quen sao chép vài quyển kinh, hồi hướng công đức cho tôi!

Sau đó cầm tay thiết tha làm thơ nói lời từ biệt, bảo người thợ vẽ đọc một lần khiến cho nhớ kỹ.

Khi tỉnh giấc, người bạn thợ vẽ này nhớ bài ấy thơ ấy như sau:

Bắt tay không thể nào từ biệt,
Đấm ngực vì tự mình hại mình.
Thời gian ngắn ngủi đau đớn quá,
Nẻo dữ dài lâu đáng hãi kinh!
Rừng tùng gió lộng tim đau nhói,
Mồ hoang sương lạnh luyến lưu tình.
Nói lời giã biệt lấy gì tặng,
Ghi khắc ngàn đời nỗi điêu linh!

Người thợ vẽ ấy xưa nay không biết chữ, bỗng nhiên tỉnh giấc mà nhờ người ghi lại, bèn đem đi bày tỏ với các bạn cũ của Minh Giải, mọi người đều nói: “Đúng là thể văn của Minh Giải không nghi ngờ gì nữa!”.

Người nghe người thấy không có ai là không xót xa rầu rĩ, tăng tục ở kinh thành truyền miệng cho nhau nghe về câu chuyện này không phải là ít.

Mục đích duy nhất của người con Phật là giải thoát khổ đau của dòng sanh tử luân hồi. Nếu quên mất mục đích quan trọng này mà chạy theo niềm vui hưởng thọ danh lợi ngủ dục thế gian, để cho lỡ làng một đời người quý báu luống qua, biết bao giờ mới có lại được cơ duyên thù thắng hy hữu này!

Phú Lan Ca Diếp xin vua đấu thần thông với Phật

Thuở xưa nước Xá-vệ có một thầy Bà la môn tên Phú-lan Ca-diếp. Ông đi đâu cũng có năm trăm đệ tử theo sau, được vua chúa nhân dân thờ kính.

Lúc đó Phật mới thành đạo, cùng các đệ tử từ thành La-duyệt-kỳ đến Xá-vệ. Đức Phật tướng hảo quang minh, việc hoằng pháp được rộng rãi tốt đẹp, vua và nhân dân ai cũng đến quy y.
Phú-lan Ca-diếp thấy vậy sinh lòng tật đố muốn hủy báng đức Thế Tôn để một mình hưởng sự cung kính. Ông bèn dẫn đệ tử đến ra mắt vua Ba-tư-nặc rồi thưa rằng:

– Hàng trưởng lão chúng tôi đã tu học với những bậc thầy trước đây ở nước này. Còn Sa môn Cù-đàm chỉ là kẻ ra đời cầu đạo sau, ông ta thật sự không có thần thông thánh đức, chỉ tự xưng là Phật mà thôi. Thế mà vua bỏ chúng tôi thờ phụng ông ta. Nay tôi muốn cùng Phật so thử đạo hạnh xem ai hơn. Người nào hơn, vua hãy trọn đời thờ kính.

Vua nói:

– Tốt lắm!

Vua liền cho xa giá đến chỗ Phật, làm lễ xong bạch rằng:

– Bạch Đức Thế Tôn! Phú-lan Ca-diếp muốn cùng Đức Thế Tôn thi đua đạo lực, thần thông biến hóa. Không biết tôn ý như thế nào?
Phật đáp:

– Được! Đại vương hãy hẹn với ông ta bảy ngày sau sẽ so thần túc.
Khi trở về cung, vua bèn cho dựng lên hai bảo tòa ở phía đông của kinh thành, cao mười mấy mét, bằng thất bảo trang nghiêm, treo đầy tràng phan, sắp xếp chỗ ngồi chỉnh tề nơi khoảng đất rộng bằng phẳng. Khoảng giữa hai tòa cách nhau một cây số, chúng đệ tử hai bên đều ngồi dưới tòa bên mình.

Ngày ấy, vua cùng quần thần và nhân dân tụ tập đầy đủ để xem cuộc thi triển thần thông này.

Bấy giờ, Phú-lan Ca-diếp và các đệ tử đến trước. Ông bước lên thang để đăng tòa. Có một vị Thần Hộ Pháp tên là Bàn Sư thấy bọn ông này hư vọng tật đố, bèn nổi gió lớn thổi vào tòa cao. Tọa cụ văng xa, tràng phan đứt tung. Cát bay đá chạy không sao mở mắt ra nổi. Còn bên tòa ngồi của đức Thế Tôn vẫn lặng yên bất động. Đức Phật cùng đại chúng ung dung theo thứ tự đến. Mọi người thấy mới đó mà Phật đã ở trên tòa cao. Chúng Tăng lặng lẽ ngồi vào chỗ. Vua và quần thần càng thêm kính ngưỡng, đảnh lễ bạch Phật rằng:

– Xin Đức Thế Tôn hãy hiện thần thông, hàng phục tà kiến khiến nhân dân được sáng suốt tín ngưỡng chánh đạo.

Đức Thế Tôn đang trên tòa bỗng nhiên biến mất, hiện trên hư không phóng ánh sáng lớn, ẩn bên đông lại hiện bên tây, bốn phương đều như vậy, trên thân phun ra nước, dưới thân phun ra lửa, rồi lại thay đổi. Thế Tôn nằm ngồi trên không, trổ mười hai phép biến hóa rồi bỗng nhiên biến mất, trở lại tòa ngồi. Thiên long quỷ thần rải hoa, đốt hương cúng dường, tiếng tán thán vang động khắp đất trời. Phú-lan Ca-diếp tự biết mình không có đạo hạnh, cúi đầu hổ thẹn không dám ngó ai.
Bấy giờ Kim Cang lực sĩ giơ chày Kim Cang lên, đầu chày phóng ra lửa để nhắc ông, sao không hiện thần thông đi.
Phú-lan Ca-diếp kinh sợ vội leo xuống tòa bỏ đi. Năm trăm đệ tử cũng tản mác đi hết.

Đức Thế Tôn bình thản trở về tinh xá Kỳ Thọ Cấp Cô Độc Viên. Vua cùng quần thần và đại chúng đều hoan hỉ giã từ ra về.

Khi Phú-lan Ca-diếp và các đệ tử mang nhục ra đi, giữa đường họ gặp một cụ bà Phật tử tên Ma-ni. Bà này lại mắng cho họ một trận:

– Các ông ngu si không biết tự xét lại mình, muốn tranh hơn đạo hạnh với Phật. Thật là một bọn giả dối không biết hổ thẹn, còn mặt mũi nào sống trên đời nhìn ai?

Phú-lan Ca-diếp vì thẹn với các đệ tử nên khi đến bờ sông bảo với chúng rằng:

– Ta nay nhảy xuống đây ắt sẽ sinh lên cõi Phạm Thiên. Nếu không thấy ta trở lên, thì biết ta đã hưởng cảnh vui nơi đó!

Nói xong ông liền nhảy xuống sông. Các đệ tử đợi mãi vẫn không thấy thầy mình lên, nên bàn với nhau:

– Thầy ta đã sinh thiên rồi, chúng ta còn chờ gì nữa!

Rồi họ từng người một nhảy xuống sông mong được theo thầy. Không ngờ tất cả đều do tội nghiệp phải bị đọa xuống địa ngục.

Hôm sau vua nghe việc tự sát của Phú-lan Ca-diếp và các đồ chúng, hết sức kinh ngạc vội đến chỗ Phật, bạch rằng:

– Thầy trò Phú-lan Ca-diếp ngu mê, không biết do duyên gì mà lại tự sát như thế?

Đức Phật nói với vua:

– Thầy trò Phú-lan Ca-diếp có hai trọng tội: Một là ba độc tham sân si lừng lẫy, tự xưng đắc đạo. Hai là hủy báng Như Lai mong được cung kính. Do hai tội trên nên họ phải đọa vào địa ngục. Vì tội nghiệp thúc đẩy khiến họ nhảy xuống sông. Khi chết, thần thức ra đi chịu khổ vô lượng. Cho nên người trí thu nhiếp tâm mình, trong không khởi ác ngoài không tạo tội. Ví như tòa thành ngoài biên ải sát bên kẻ địch, nếu phòng bị chắc chắn sẽ không sợ hãi. Dân bên trong an ổn thì giặc ngoài không cách gì vào được. Người trí tự phòng hộ cũng giống như vậy.

Bấy giờ đức Thế Tôn liền nói kệ:

“Vọng chứng thánh cầu lợi,
Dối đời thêm bất chánh.
Ghét ganh người đức hạnh,
Bịp đời lừa chúng sanh.
Nghiệp tội tất kết thành,
Dẫn vào nẻo đường ác.
Thành trì nếu canh gác.
Kiên cố ngoài lẫn trong.
Tâm thanh tịnh rỗng không,
Ắt sẽ luôn an lạc.
Nếu giới hạnh thô ác,
Địa ngục thọ khổ hình”.

Đức Phật nói kệ xong, lại kể với vua rằng:

Thuở quá khứ có hai con khỉ chúa, mỗi khỉ chúa có năm trăm con làm thành một bầy. Một con khỉ chúa vì ghen ghét có ý muốn giết con kia để mình cai trị tất cả, cho nên nó gây chuyện đánh nhau. Đã đánh nhau nhiều lần mà vẫn không thắng, nó hổ thẹn rút lui đến một eo biển. Nơi đây bọt nước được gió thổi tích tụ cao cả trăm mét. Khỉ chúa này ngu si cho là núi tuyết, bèn nói với bầy khỉ rằng:

– Từ lâu nghe nói trong biển có núi tuyết, nơi đó vui vẻ, quả ngọt rất nhiều mặc tình hái ăn, ngày nay ta mới trông thấy. Vậy để ta qua đó trước xem sao. Nếu ta thấy quả thật vui sướng sẽ ở đó luôn, còn không sẽ trở lại báo cho các ngươi biết.

Nói xong, nó leo lên một cây cao, dùng hết sức nhảy sang. Kết quả nó rơi vào đống bọt nước rồi chết chìm dưới biển.

Những con còn lại chờ mãi không thấy khỉ chúa quay về, tưởng là chỗ đó vui lắm nên lần lượt nhảy sang, chết chìm cả lũ.

Kể xong, Đức Phật bảo với vua:

– Con khỉ chúa tật đố thuở đó nay chính là Phú-lan Ca-diếp. Bầy đàn của nó là năm trăm đệ tử của ông ấy ngày nay. Còn khỉ chúa kia chính là thân ta. Phú-lan Ca-diếp đời trước đã ôm lòng tật đố, bị tội nghiệp lôi kéo đã nhảy vào đám bọt nước khiến chết cả bầy. Ngày nay ông ấy lại phỉ báng Đức Như Lai, rốt cuộc cả bọn lại nhảy xuống sông chết chìm. Nghiệp tội xui khiến như thế, nhiều kiếp mà vẫn chưa hết.

Nhà vua nghe xong, tin hiểu rồi làm lễ ra về.

Xưa nay cứ mãi luân hồi,
Trả vay nghiệp hoặc cuốn lôi không ngừng.
Có thân chẳng liệu lấy thân,
Chung qui đưa đến mộ phần vô duyên.
Hiện thân hưởng của nghiệp tiền,
Lai sanh chịu lấy ác duyên đương đời.
Chúng sanh trong lúc hiện thời,
Sao không nghĩ đến cuộc đời mai sau.
Luật nhân quả chẳng sai đâu,
Ác sanh nhứt định đáo đầu ác lai.
Mê trần nên mới bào thai,
Chớ không phải tự nhiên đày ra đâu.
Sanh ra nơi cõi mê sầu,
Suốt đời có thấy ai đâu lạc nhàn.
Cánh hoa hết nở rồi tàn,
Nửa chừng sâu bọ cắn ngang là thường.
Xác thân xét lại tận tường,
Cùng hoa kia cũng một đường khác chi.
Mây trần không ngớt phủ vi,
Chúng sanh chẳng thấy những gì xa xôi.
Thế gian nay lỡ mai bồi,
Phật đài luôn được an ngồi bình thân.
Cũng do lòng chẳng mê trần,
Nên không luân lạc xoay vần trong mê.
Lòng ưa nơi cõi Liên Huê,
Cho nên thân được dựa kề Đài Sen.
Chơi bùn nên mới lắm đen,
Nước trong rửa mãi đâu hoen ố mình.
Dù ai cám dỗ mặc tình,
Phận mình cứ giữ cho tinh tấn lòng.
Đường về cõi Phật chưa thông,
Nguyện chưa nguôi được tấm lòng mộ tu.
Lột cho sạch hết lớp ngu,
Để không còn một mờ lu sai lầm.
Cố công rút hết ruột tằm,
Bảo thân cho đến mọc mầm cánh bay.
Muốn về gặp Đức Như Lai,
Bao nhiêu tội lỗi thẳng tay trị trừng.
Càng làm cho nhẹ được thân.
Thì càng chóng bước đến gần Đài sen,
Những điều lòng mến dạ quen.
Nhứt thời khó bỏ rán kiêng nhiều ngày,
Việc tu không phải một giây.
Mà là cần phải tu hoài cho nên,

Nho giáo có câu: “Nhất ẩm nhất trác, giai do tiền định”. Một cái ăn, một cái uống, một cái mặc cũng đều do tạo nhơn lành hay dữ ở kiếp trước. Do đó, nếu chúng ta tỉ mĩ suy nghiệm về lẽ thiện ác báo ứng sẽ có thể biết được quá khứ, hiện tại, vị lai của mình và người như thế nào, từ đó quyết chí tiến tu để mỗi ngày được thăng hoa hơn trên lộ trình tu tập.

Cho nên, mình là chủ tể tự tạo ra thân-tâm và hoàn cảnh sống cho chính mình. Người hiểu đạo lý, niềm tin này làm cho họ tự ý thức dè dặt, thận trọng trong mọi ý nghĩ, lời nói, việc làm của bản thân, chuyên tu ba nghiệp cho được thanh tịnh, ngõ hầu chuyển hóa bản thân, gia đình và xã hội đều dứt ác hành thiện.

Những người không nghĩ đến quả mà cứ gieo nhân bừa bãi, thì thế nào cũng gặt hái nhiều tai họa, gây tạo cho mình những điều phiền phức, có khi làm ung độc cả cuộc đời, cả sự sống. Chỉ có những người nông nỗi, liều lĩnh mới không nghĩ đến ngày mai, mới sống qua ngày. Chứ những người sáng suốt làm việc có kế hoạch khôn ngoan, thì bao giờ cũng nhắm cái đích chính xác, rồi mới đi tới, hình dung rõ ràng cái quả an vui rồi mới trồng cái nhân lương thiện.

Tin sâu lý thiện ác nhân quả, chúng ta sẽ dè dặt từng chút nhỏ nhặt trong cuộc sống này, sống có ý nghĩa. Và, chúng ta đem cái ý nghĩa đó làm những việc hữu ích cho mọi người. Giáo dục con người biết tin nhân quả thì bản thân họ được an vui, gia đình họ được hạnh phúc và xã hội được ổn định trật tự, làm nền tảng cho niệm Phật vãng sanh Tây Phương một cách hữu hiệu nhất.

Hiện thời rán chừa xong ác nghiệp,
Việc thiện lương nên tiếp tục làm.
Dù khó khăn cũng rán gìn kham,
Mối đạo pháp cứ phăng đi tới.
Rèn lòng chớ để cho phạm giới,
Kiểm điểm từ lời nói việc làm,
Những điều còn ô trược tục phàm,
Thì nhứt quyết trì tâm sửa chữa.
Lo đạo đức như lo cơm bữa,
Nhớ Phật như mẹ nhớ con cưng.
Tất nhiên không còn tạo nghiệp trần,
Cảnh Phật sẽ đặt chơn vào được.
Từ làm tội đổi ra làm phước,
Chỉ cách nhau ở chỗ quyết tâm.
Đâu phải là cách trở xa xăm,
Mà sanh chúng bảo rằng khó đổi.
Việc làm phước hay là làm tội,
Đều tại mình không phải tại ai.
Nếu muốn tu thì cứ tu ngay,
Chớ đừng có đợi mai đợi mốt.
Lòng cương quyết dù ai muốn cột,
Cũng không làm sao buộc được mình.

Khi chúng ta đã biết rõ luật nhân-quả báo ứng công bình, không sai trật dù chỉ tơ hào, thì phải cố gắng thực hành nó cho được trong mọi trường hợp ngay nơi đời sống thường ngày. Nếu chúng ta biết đem nó làm một phương châm hành động và suy luận, thì chúng ta sẽ thu lượm được rất nhiều lợi ích :

1. Nó giúp cho ta tránh những mê tín dị đoan, những tin tưởng sai lầm vào thần quyền. –Nó cho chúng ta thấy được thực trạng của sự vật, không có gì là mơ hồ, bí hiểm. Nó vén lên tất cả những cái màn đen tối, phỉnh phờ của mê tín, dị đoan đang bao trùm sự vật. Do đó, người hiểu rõ lẽ thiện ác báo ứng sẽ không đặt sai lòng tin tưởng của mình, không cầu xin một cách vô ích, không ỷ lại thần quyền, không lo sợ hoang mang.

2. Nó đem lại lòng tin tưởng vào chính con người -.Khi đã biết cuộc đời mình là do nghiệp nhân của chính mình tạo ra, mình là người thợ tự xây dựng đời mình, mình là kẻ sáng tạo tương lai cho mình, chứ không ai khác! Lòng tự tin ấy là một sức mạnh vô cùng quí báu, làm cho con người dám hoạt động, dám hy sinh, hăng hái làm điều tốt, vì những hành động tốt đẹp ấy, họ biết sẽ là những cái nhân quí báu đem lại những kết quả đẹp đẽ mai sau.

3. Luật thiện ác Nhân–quả làm cho chúng ta không chán nản, không trách móc hay giận hờn buồn phiền một cách vô ích khi những khổ đau bất hạnh ập đến, bởi rằng, đâu có cái gì khi khổng khi không từ trên trời rớt xuống đâu! Đã biết như thế thì chỉ còn lo tự sửa mình, lo thôi gieo nhân xấu để khỏi phải gặt quả xấu, thôi tạo giống ác để khỏi mang quả ác.

Mặt khác tin lý thiện ác nhân quả thì khi hạnh phúc mai mắn bất ngờ xuất hiện ta cũng chẳng có gì để tự mãn hảnh diện, sinh ra khinh thường bao kẻ kém số hơn mình.

Ở ăn chi lắm tà tây,
Cho đày đọa hết kiếp nầy kiếp sau.
Chỉ vay lấy có một hào,
Trả ra mười lượng chừng nào cho tiêu.
Lắm người biết quấy làm liều,
Chỉ tham trước mắt quên điều sau lưng.
Mê đời không giữ được thân,
Cái mê ấy có phải đần hay không?
Vì mê thân khổ chập chồng,
Linh hồn do đó mà không nhẹ nhàng.
Sống trong muôn giấc mơ màng,
Cứ cho là thật người càng thêm mê.
Bước sai khó trở lộn về,
Hết thân này lại đến kề thân sau.
Chúng sanh khá tỉnh cho mau,
Ở ngoài cõi tạm còn bao cảnh mầu.
Không tu cõi Phật khó chầu,
Nếu tu thì phải thật cầu siêu sinh.

Tóm lại Hiếu dưỡng phụ mẫu, phụng thờ sư trưởng, từ tâm bất sát, tu thập thiện nghiệp, bốn điều này là nền tảng căn bản của một đệ tử Phật, đây là phước báo thứ nhứt, tức là phước báo Nhân Thiên, người niệm Phật nếu không làm được bốn điều này thì chuyện vãng sanh quả thật là vô cùng khó khăn!

Bạch trinh giữ lấy nghĩa nhân,
Muốn về cõi Phật lập thân cõi trần.

Dù kẻ chẳng biết tu theo Phật,
Cũng khá gìn nhân cách loài người;
Giữ cho nề nếp tốt tươi,
Không nên bạ nói bạ cười vô duyên.
Nên giữ đạo Thánh Hiền đã dạy,
Đối xử nhau cho phải nghĩa nhân;
Làm con phải biết hiếu thân,
Quạt nồng đấp lạnh đền ơn sanh thành.
Không trộm cướp chẳng tình gian lận,
Thà sạch trong chịu phận nghèo nàn;
Không lòng phụ khó tham sang,
Ở cho phải đạo tào khang chí tình.
Lúc nào cũng biết gìn chữ tín,
Lời hứa rồi nhứt định không sai;
Mỗi khi chịu nghĩa của ai,
Quyết làm sao đáp được rày mới ưng.
Thi ân chẳng mong ân đáp lại,
Thọ nghĩa thì nghĩa phải lo đền;
Làm dân nợ nước đừng quên,
Gặp cơn nguy biến ra đền đáp ngay.

********

Tiếp theo là phước báo thứ hai, tức loại phước báo Tiểu Thừa, gồm có ba câu:

Thọ trì tam quy y, Đầy đủ các giới, Chẳng phạm oai nghi.

A/-Thọ trì Tam Quy

Truyền thọ Tam Quy Ngũ Giới có hai loại:

Thứ nhất là, được sự chứng minh của một vị Tỳ kheo, hoặc Tỳ kheo ni.

Thứ hai là, thành tâm đối trước Tam Bảo, tự phát nguyện lãnh nạp Quy Giới.

Hình thức truyền thọ không quan trọng; Nội dung hành trì mới là quan trọng!

Khi đã quy y trở thành một người con Phật rồi, thì chúng ta phải thường xuyên đọc kinh kệ hoặc nghe pháp để cho sự hiểu biết của mình đúng đắn, hành trì mới không sai lệch. Nhất là niềm tin của mình đối với Tam Bảo phải phải kiên định, y theo giáo lý mà chân thật làm theo.

Quy y thì khá làm y,

Giữ lòng thanh tịnh từ bi giúp đời!

Việc trước tiên khi vào cửa Phật là phải quy y Tam Bảo. Hiện tại người quy y Tam Bảo rất nhiều, thế nhưng có làm y hay không? Ở trước mặt Phật, trước mặt Bồ Tát chúng ta phát thệ quy y, nhưng trên thực tế không hề quy, cũng không hề y. Chỉ làm hình thức mà thôi, vậy thì không thể dùng. Nhất định chúng ta phải thọ trì, tức là phải làm mới được!

Thọ là hoàn toàn tiếp nhận. Hai chữ “tiếp nhận” này lại càng không dễ dàng. Nếu ta không thông hiểu tường tận ý nghĩa đạo lý của tam quy y, thì làm sao biết áp dụng thực tiễn vào trong cuộc sống thường ngày?

Công đức, lợi ích, cảnh giới của tam quy y, ta không biết được thì làm sao có thể sanh tâm hoan hỉ?

Danh từ “Quy y Phật, Quy y pháp, Quy y tăng”, vào thời xưa mọi người đều có thể thực sự hiểu đúng, không đến nỗi sanh ra hiểu lầm. Còn hiện tại hiểu lầm, nên người đời cho rằng Phật pháp là tôn giáo, là mê tín, vì vậy đối với danh từ “Phật Pháp Tăng” chúng ta cần phải hiểu cho rõ ràng tường tận.

Một ngàn ba trăm năm trước, Đại sư Huệ Năng, tổ thứ sáu Thiền tông khi giảng quy y Tam Bảo, thì Ngài không dùng danh từ “Phật, Pháp, Tăng” mà dùng danh từ “Giác, Chánh, Tịnh”, có thể thấy cách nói này khế hợp với trình độ căn cơ.

Đại sư Huệ Năng không nói “Phật Pháp Tăng” vì sợ người nghe sanh ra hiểu lầm sẽ không nhận được hiệu quả thực tế, cho nên đại sư đổi lại thành “Giác, Chánh, Tịnh”.

Phật là giác, pháp là chánh, tăng là thanh tịnh. Cách nói này làm cho chúng ta cảm thấy rất dễ hiểu, hơn nữa ba chữ này đều lưu xuất từ tự tánh. Quy y giác là tự tánh giác. Do đây có thể biết quy y không phải là quy y một người nào đó.

Mỗi ngày chúng ta, tu thời khoá sớm tối gọi là tam tự quy. Phật là tự tánh giác, pháp là tự tánh chánh, tăng là tự tánh tịnh. Phật không hề dạy chúng ta quy y theo Ngài, mà Phật dạy chúng ta quy y tự tánh Tam Bảo của chính mình.

“Ta muốn học Phật thì phải học với Phật Thích Ca Mâu Ni”, quan niệm này là mê tín. Phật Thích Ca Mâu Ni nói “các vị phải nương vào tự tánh của chính mình”. Phật Thích Ca Mâu Ni nương vào tự tánh, chúng ta cũng nương vào tự tánh, cho nên tự tánh Tam Bảo quan trọng hơn bất cứ thứ gì. Tự tánh giác, tự tánh chánh, tự tánh tịnh là ba đại cương lĩnh tu học Phật pháp.

Chúng ta đích thực vốn mê không giác, khởi tâm động niệm vốn tà không chánh, là nhiễm ô không trong sạch thanh tịnh, do đó Phật dạy chúng ta từ mê quay đầu lại nương vào tự tánh giác, từ tà tri tà kiến quay đầu lại nương vào chánh tri chánh kiến, và từ tất cả ô nhiễm quay đầu lại nương vào tâm thanh tịnh.

Đối với người niệm Phật cầu vãng sanh thì giây phút nào chúng ta cũng luôn nhớ về thế giới Cực Lạc, luôn nhớ Đức Từ Phụ A Di Đà, luôn làm lành lánh dữ, giữ tâm thanh tịnh thiết tha niệm Phật cầu sớm sanh về Tây Phương, thì đó là chúng ta thực sự quay đầu về bến giác, thực sự quy y Tam Bảo; Bằng như, lúc nào chúng ta cũng luôn nhớ nghĩ chuyện năm xưa tháng cũ, chuyện làng trên xóm dưới, chuyện đúng sai phải quấy của thiên hạ… hay trong lòng còn quá nhiều những thứ được mất vớ vẫn, những thứ buồn vui thương giận, tính toán so đo …v.v… và …v.v… thì xem như chúng ta đang quay đầu về nẻo khổ bờ mê, chúng ta nguyện ở mãi cõi Ta bà này rồi vậy!

B/-Đầy đủ các giới

“Các giới” có nghĩa là rất nhiều giới, không chỉ năm giới, mười giới, giới tỳ kheo, giới tỳ kheo ni, giới Bồ tát…

“Các giới” là chỉ cho những lời giáo huấn của Phật trong kinh.

Đối với người con Phật thì hành trì căn bản nhất vẫn là ngũ giới đã thọ, tức là cố gắng gìn giữ đừng để cho phạm: sát sanh, đạo tặc, tà dâm, nói dối và uống rượu.

C/-Chẳng phạm oai nghi

Dùng lời hiện đại mà nói thì oai nghi là lễ tiết. Trong pháp tắc thế gian, nó là quan niệm đạo đức, phong tục tập quán, nhân tình lễ tiết, mà chúng ta cần phải biết nhất là vào thời buổi hiện nay.
Với công nghệ tin tức, giao thông thuận tiện, không gian hoạt động của chúng ta rộng lớn, thường hay có kỳ nghỉ nơi xa hoặc ở nước ngoài. Đi du lịch hay tham quan đến một khu vực nào đó, trước tiên chúng ta phải dò xét phong tục tập quán, phong thổ nhân tình của khu vực đó để nhập cảnh tùy tục. Tuy cùng ở với nhau thời gian ngắn thậm chí chỉ một hai ngày cũng có thể kết một mối thiện duyên hoan hoan hỉ hỉ với người bản xứ. Ngay trong cái duyên hoan hỉ, chúng ta đem Phật pháp tặng cho họ ngoài một ít lễ vật tùy thân. Đi đến đâu, chúng ta cũng kết duyên với mọi người, thậm chí chỉ bằng một tấm hình Phật nho nhỏ in rất đẹp, phía sau đề mấy câu kinh kệ. Tùy lúc tặng mọi người, mỗi niệm không quên quan tâm chúng sanh, thương yêu, giúp đỡ chúng sanh.

Tặng tấm hình Phật nhỏ cho họ, chính là thương yêu, quan tâm, giúp đỡ họ; khiến cho họ một khi “nghe qua tai mãi trồng được thiện căn”. Nếu họ có hứng thú, có tâm hoan hỉ, chúng ta liền liên hệ với họ, thường không ngừng gửi tặng kinh sách băng đĩa. Tóm lại, mỗi giờ mỗi phút đều phải lưu ý, phải đem Phật pháp giới thiệu cho mọi người, nhất định phải từ “Bất phạm oai nghi” mà làm, để người khác thấy chúng ta liền sanh tâm hoan hỉ. Không nên để người khác nhìn thấy chúng ta liền sanh tâm chán ghét. Cái hoan hỉ đó phải nỗ lực mà làm, ngoài ra còn phải cầu Tam Bảo gia trì. Người tu thì phải thành tựu tấm thành tích. Tấm thành tích đó thể hiện trên tướng hảo đổi tốt, và thân thể đổi tốt.

Tánh thuần lương vẻ mặt vui tươi,
Vậy mới đáng tín đồ Phật giáo.

Sau cùng là phước báo thứ ba, tức loại phước báo Đại Thừa, gồm có bốn câu:

Phát Bồ đề tâm, tin sâu lý nhơn quả, đọc tụng Kinh Đại thừa, khuyến tấn người tu hành.

A/- Phát Bồ Đề Tâm

Phát Tâm Bồ Đề rất là quan trọng, không phát cái Tâm này thì không thể thành tựu, sau khi phát Tâm nhất định phải thương yêu chúng sanh, tâm Bồ Đề chính là tứ hoằng thệ nguyện, chân thật giúp đỡ tất cả chúng sanh, bắt đầu từ câu “Chúng sanh vô biên thệ nguyện độ”, chữ độ nghĩa là phục vụ, chính là giúp đỡ hiệp trợ, muốn giúp đỡ chúng sanh thì chính mình phải có năng lực, phải có đức hạnh, có phước báu, cho nên việc cần thiết chúng ta phải làm là đoạn trừ phiền não, phiền não không đoạn trừ thì “trí tuệ” không khai mở, trí tuệ của chúng ta là sẵn có, chứ không phải từ bên ngoài mà đến.

Trong phẩm Xuất Hiện ở Kinh Hoa Nghiêm, Phật nói rất rõ ràng: “Tất cả chúng sanh đều có Trí Tuệ Đức Tướng của Như Lai, do vì vọng tưởng chấp trước mà không thể chứng đắc.”

Vọng tưởng là vô minh, phân biệt, chấp trước là kiến tư trần sa phiền não, cho nên chỉ cần đem vọng tưởng, phân biệt, chấp trước đoạn dứt thì Trí Tuệ Đức Tướng trong tự tánh liền hiển lộ hiện tiền.

Trí Tuệ không phải từ bên ngoài đến, do đó tu học của Phật pháp là tu Thiền định, nhân Giới được Định, nhân Định khai Huệ, cái Huệ này là Trí Tuệ của tự tánh vốn sẵn đầy đủ. Giới là phương pháp, phương pháp mà ta đã tu học chính xác, không có sai lầm thì ta mới có thể được Định, sau khi được Định rồi Trí Tuệ liền khai, được tiểu Định khai tiểu Trí Tuệ, được đại Định khai đại Trí Tuệ.

Tầng bậc của Định rất nhiều, thế gian có tứ thiền bát định. Thiền định xuất thế gian thì đẳng cấp lại càng nhiều hơn, mức Định càng sâu thì Trí Tuệ đạt được càng rộng. Cái nguyên tắc này là bao gồm tất cả pháp môn, tất cả tông phái đều giống nhau. Vậy thì chúng ta dùng phương pháp trì danh niệm A Di Đà Phật mục đích là đạt Định, y theo những quy củ này mà niệm Phật đó là trì giới, y theo quy củ này mà làm sau đó thì ta được Định, cái Định của Niệm Phật gọi là Niệm Phật Tam Muội. Công phu thấp hơn thì gọi là công phu thành khối, chỉ cần được công phu thành khối vậy thì thành công, vãng sanh thế giới Tây phương Cực Lạc là chắc chắn, phẩm vị tuy không cao nhưng nhất định sẽ được vãng sanh, sanh vào cõi Phàm Thánh Đồng Cư Độ, đây là một đại sự lớn nhất ngay trong đời này của chúng ta.

Cho nên phiền não không thể không đoạn, phải đoạn từ tự tư tự lợi. Là phàm phu cho nên nhiều người than phiền rằng đoạn phiền não quá khó, hay nói khác hơn là chẳng thể đoạn được. Thật ra, là họ không biết phải bắt đầu từ đâu, cái gốc của phiền não chính là tự tư tự lợi, chúng ta nhất định phải dùng “trí tuệ”,, đem cái ý niệm này chuyển đổi trở lại, khởi tâm động niệm đều vì tất cả chúng sanh mà lo nghĩ, không nên vì mình, cái thân này căn bản thì không cần thiết phải để ý đến nó thì ta mới có thể được tự tại, khởi tâm động niệm mà luôn nghĩ đến cái thân này thì nguy rồi!

Nghiệp chướng của ta không thể tiêu trừ, ý niệm vừa thay đổi thì tự thân chính mình bỗng quên đi mất, thân này cùng thân người khác là một thân, vì tất cả chúng sanh là chân chánh vì mình, vì chính mình là chân thật hại chính mình.

Cái đạo lý này trong kinh Phật nói rất rõ ràng, nói rất tường tận, chúng ta nhất định phải hiểu, nếu như từ chỗ này ta có thể thay đổi được nó thì ở trong Phật pháp, không luận tu học pháp môn nào cũng đều sẽ thuận buồm xuôi gió, đều sẽ đạt được lợi ích chân thật, thành tựu “trí tuệ”, chân thật.

Cụ thể hơn, phát Tâm Bồ Đề là phát nguyện cầu sanh về thế giới Cực Lạc, chẳng những nguyện cầu cho riêng mình, mà còn nguyện cầu cho tất cả chúng sinh đồng sanh Tây Phương đồng thành Phật đạo!

B/-Tin sâu lý nhân quả

Nhân Quả này không phải là Nhân Quả của thiện ác thông thường, mà là “Niệm Phật là nhân, thành Phật là quả”, theo kinh Hoa Nghiêm thì đây là “Viên Nhân Diệu Quả”, thật là cái Nhân Quả mà rất nhiều Bồ Tát còn không biết, cho nên khi tu học đạt đến quả vị Thập Địa Bồ Tát, hay nói cách khác, Phật pháp đến giai đoạn cuối cùng, không luận là tu học pháp môn nào, tất cả đều quy về pháp môn Niệm Phật.

Thật đúng như là Ngài Văn Thù, Phổ Hiền đã thị hiện, hai Ngài ở đoạn sau của Kinh Hoa Nghiêm đều phát nguyện cầu sanh thế giới Tây Phương Cực Lạc, làm một tấm gương cho 41 giai tầng Pháp Thân Đại Sĩ của thế giới Hoa Tạng, làm người dẫn đầu, đến đây thì chúng ta mới chân thật xem thấy sự thù thắng của Tịnh Độ tông.

Cho nên Thế Tôn thường hay nhắc đến cái pháp môn này. Mười phương ba đời tất cả chư Phật đều khen ngợi, tất cả chư Phật đều hoằng dương, ngay chỗ này chúng ta mới thể hội được một ít lợi ích, cho thấy pháp môn này thù thắng không gì bằng, công đức niệm Phật không thể nghĩ bàn, vì vậy Thế Tôn đại diện chư Phật tán thán Phật A Di Đà trong kinh Vô Lượng Thọ là “Quang Trung Cực Tôn, Phật Trung Chi Vương”, là vị Phật có ánh sáng tôn quý nhất, xứng đáng là vua của tất cả chư Phật, tức Phật Vương vậy!

C/-Đọc tụng Kinh Đại Thừa

Mục đích đọc tụng Đại Thừa là để cho đệ tử Phật đời sau như chúng ta, một ngày cũng không rời khỏi lời dạy của Phật Đà, đặc biệt là thời kỳ hiện nay, những Kinh giáo này phải thường xuyên đọc mỗi ngày, ba ngày không đọc Kinh Phật thì như ngày xưa nhà Nho đã nói: Quên hết mặt mũi, mặt mũi dễ ghét. Người ta nhìn thấy mình, người ta dễ sanh tâm chán ghét.

Do đó Đại thừa Kinh giáo ngày ngày phải đọc tụng, cách đọc thế nào? Chỉ đọc một môn chủ yếu mà mình đang tu, không nên đọc quá nhiều thứ, đọc được quá rộng, tâm của ta sẽ bị loạn. Mục đích của đọc Kinh là ở tu Định, khai mở Trí Tuệ, cho nên đọc tụng Đại thừa là tu hành, y theo phương pháp, theo lời dạy trong ấy mà làm, làm cho tâm cung kính, tâm bình đẳng, tâm thanh tịnh, tâm giác ngộ của chính mình hiển lộ ra.

Chỉ có thể học một bộ kinh, không được đọc hai bộ kinh, chúng ta là một môn thâm nhập, cho nên mỗi người đều có thành tựu, nếu như khóa mục của ta quá nhiều, việc học như thế là Phật học thường thức, rốt cuộc một thứ cũng không thể dùng được!

Ở trên kinh Phật nói rất hay: “Thân người khó được, Phật pháp khó nghe”. Thân người khó được mà dễ mất, mất đi thân người rồi thì biết đến khi nào mới có lại được thân người cơ chứ! Chẳng thể nói là đời sau, có thể không biết là bao nhiêu kiếp, mấy mươi kiếp, mấy trăm kiếp, trăm ngàn muôn ức kiếp khó được thân người trở lại.

Cơ duyên không dễ gì được, ngày nay được rồi, được rồi mà sơ suất đánh mất thì đó là tội lỗi của chúng ta. Được rồi thì phải biết trân trọng, phải biết nắm giữ, nhất định không thể để mất đi, ở ngay trong đời này nhất định phải tùy thuận lời dạy của Phật.

Khi dùng tâm chân thành cung kính mà đọc nhiều lần thì nơi nơi đều có chỗ ngộ, cảm nhận sẽ rất đặc biệt, nếm được pháp vị, ta sẽ rất thoải mái, an vui, phiền não giảm, trí tuệ tăng. Còn nếu như đọc kinh với tâm khinh mạn, càng đọc rồi thì sẽ càng sanh kiêu ngạo, càng sanh phiền não.

Vậy nếu có dư thời gian thì có thể bước vào kinh giáo Đại thừa khác hay không? Vẫn có thể, nhưng bộ kinh ấy phải có quan hệ với pháp môn tu của chính mình, giúp chúng ta có thể lý giải thâm nhập sâu hơn, vậy thì có thể xem, thế nhưng với người mới tu thì không được, người xưa quy định, lúc nào thì ta có thể xem thêm những bộ kinh khác? Năm năm về sau! Ngay trong năm năm đầu thì ta phải chuyên đọc một bộ kinh, không được đọc hai bộ kinh.

D/-Khuyến tấn hành giả

Đây chính là tích cực, tích cực hơn người, phải khuyên người phá mê khai ngộ, lìa khổ được vui. Khổ nạn lớn nhất của chúng sanh là đối với đạo lý của vũ trụ nhân sanh không rõ ràng, đối với quan hệ giữa người và người, giữa người cùng hoàn cảnh tự nhiên, giữa người cùng thiên địa quỷ thần, tất cả đều không hề biết gì! Chúng sanh lại thường tùy thuận phiền não tập khí của chính mình, tạo vô lượng vô biên tội nghiệp, chịu khổ báo oan uổng…

Tình trạng như thế quả thật đáng thương biết bao! Chúng ta hiểu được rồi thì chúng ta phải có nghĩa vụ, có sứ mạng giúp đỡ cho những người này được giác ngộ, giúp đỡ những người này quay đầu, giống như Thích Ca Mâu Ni Phật vậy. Ngày ngày tích cực vì xã hội, vì chúng sanh mà giảng nói Phật pháp.

Giảng giải Phật pháp chính là lên lớp, chính là dạy học, vĩnh viễn không hề nghỉ ngơi, nơi nào có người mời thỉnh nơi đó cần phải nhanh nhanh đi đến. Phật pháp là Sư đạo, Sư đạo là phải được tôn trọng, nếu có người chịu nghe, chịu học thì thầy mới đến dạy, nếu họ không chịu nghe, không chịu học thì chớ dạy, bởi vì mọi người có tâm đến cầu học, họ mới có được lợi ích, không có tâm muốn cầu học, nếu ta đem Phật pháp tặng cho họ, người ta sẽ xem thường ta, không hề xem ta là người đáng trọng, thậm chí còn nhục mạ ta… Họ vẫn tạo tội nghiệp.

Có người nói, người tu thì nhất định phải bỏ đi tự cao, trong tình huống này thì không phải vậy, đây là Sư đạo, cho nên chúng ta cần phải hiểu đạo lý này: Chỉ cần có người cầu học thì nhất định người thầy giáo phải thành tâm, thành ý để giúp đỡ học sinh, thành toàn học vấn cho họ, nhất định không thể cự tuyệt.

Chúng ta xem thấy trên kinh điển, Đức Phật Thích Ca Mâu Ni chưa từng có nói một lần cự tuyệt người đến thỉnh pháp, nếu có người đến cầu pháp mà chúng ta cự tuyệt họ thì đây là lỗi lầm. Cho nên tất cả những việc Thế Tôn làm đều là tấm gương tốt nhất cho chúng ta. Vậy chúng ta phải thường thường nghĩ đến Phật Thích Ca Mâu Ni, hướng đến Ngài mà học tập thì không hề sai.

********

Sau cùng Thế Tôn đã nêu ra tổng kết: Ba sự việc này, ba điều – mười một câu, gọi là Tịnh Nghiệp Tam Phước. Đặc biệt dặn dò thái hậu Vi Đề Hy, mà thái hậu Vi Đề Hy là đại biểu cho tất cả chúng ta: “Thái hậu có biết không? Ba loại nghiệp này, ba loại tịnh nghiệp, đó là Chánh Nhân Tịnh Nghiệp của ba đời chư Phật – quá khứ, hiện tại và vị lai.”

Câu nói này rất là quan trọng, chúng ta mới liền hiểu rõ ra rằng: Không luận là tu học pháp môn nào: Hiển giáo, Mật giáo, Tông môn, Giáo hạ… cho đến tám vạn bốn ngàn pháp môn, vô lượng pháp môn. Ba điều này là nền tảng, đây là chánh nhân Tịnh Nghiệp, nếu như không có cái nền tảng này, không luận tu học pháp môn nào, đều là uổng công, đều là không thành tựu. Ba điều này giống như chúng ta xây nhà vậy, trước tiên phải làm nền móng, cho dù ta xây nhà cao bao nhiêu tầng lầu, cho dù xây dựng hình dáng thế nào, nền móng là cần thiết, không có nền móng kiên cố thì thành tựu gì cũng không có!

Chúng ta phải cố gắng phản tỉnh, cố gắng nghĩ lại, chúng ta tu hành đã nhiều năm như vậy rồi, tại sao hôm nay vẫn là như thế này? Không hề tiến bộ. Xem qua Cao Tăng truyện, xem qua Cư Sĩ truyện, người ta ba năm đến năm năm, khai ngộ thì khai ngộ, chứng quả thì chứng quả, chúng ta đã học nhiều năm như vậy, cái gì cũng không được, bình tâm nghĩ lại thì do chính là không có xây nền móng, đã bỏ mất đi ba loại phước này, cho nên sự tu phải từ Tịnh Nghiệp Tam Phước, từ ba điều này mà tu học.

Chúng ta sở dĩ ra công nỗ lực niệm Phật rất nhiều năm tháng, vậy mà tâm không an định thì nên biết sự tu của mình đã khiếm khuyết căn bản, có nghĩa là trong ba thứ phước này không có một thứ nào cả. Mà điều kiện để được vãng sanh thì tối thiểu phải làm cho được một loại thấp nhất, đó là phước báo nhân thiên. Điều này mình phải tự lo liệu để bổ sung, bằng không mình đã tự lừa dối chính mình và việc vãng sanh chỉ là ảo tưởng, chúng ta không thể không biết điều này!!!

*******

Cho nên trong khi trì niệm câu lục tự hồng danh thì trong tâm phải có Phật, trong tâm thật sự có tướng hảo quang minh của Đức Từ Phụ A Di Đà, phải có hoa sen, có ao thất bảo, có thế giới Cực Lạc ở trong lòng thì gọi là niệm Phật. Nếu ngày ngày tay cứ lần xâu chuỗi liên tục mà trong ý nhớ nghĩ đủ thứ mừng thương buồn giận, thì chẳng tương ứng với Phật hiệu, đó chính là như câu nói mà cổ nhân thường nói: “Có miệng không có tâm”, có hình thức niệm Phật nhưng không có thực chất, tức là không có Phật trong lòng. Miệng niệm A Di Ðà Phật, nhưng trong tâm suy nghĩ lung tung, nếu niệm kiểu đó thì một ngàn năm cũng không được lợi ích gì cả!

Trau trong chớ chuốt bên ngoài,
Thế gian dụng tướng Phật ngài dụng tâm.
Tu lâu không đạt huyền thâm,
Phần nhiều khẩu Phật mà tâm độc xà.
Chỉ lo dọn dẹp ngoài da,
Trong tâm bỏ phế hơn là rừng hoang.
Dối lòng dối cả thế gian,
Tu như thế ấy tội càng lớn thêm.

Miệng niệm phải hợp với tâm làm thành một, trong lòng luôn có Phật nên “thu hoạch vô lượng phước báu, tiêu diệt vô lượng tội nghiệp”, công đức của danh hiệu thật không thể nghĩ bàn. Công đức của danh hiệu là ở chỗ trong tâm phải nghĩ tới lời dạy trong kinh, đạo lý Đức Phật đã chỉ dạy cho chúng ta, dạy chúng ta sinh sống, xử sự, đãi người, tiếp vật như thế nào, khi niệm một câu danh hiệu liền nhớ lại hết tất cả, được vậy thì mới dùng được. Nếu chỉ niệm một câu danh hiệu này, chẳng liên quan gì đến đời sống, ngôn hạnh của chúng ta, vậy thì danh hiệu này chẳng dùng được, giống như lời người xưa: “Hét bể cổ họng cũng uổng công”.

Việc niệm Phật, đại đức thời xưa thường nói phải tương ứng, “một niệm tương ưng một niệm Phật, niệm niệm tương ưng niệm niệm Phật”, tương ưng với ý của kinh, ta niệm một câu A Di Ðà Phật này tương ưng với nghĩa lý của lời Phật đã dạy, lời của Tổ Thầy đã chỉ dạy, điều nào các Ngài răn dạy chúng ta phải chừa bỏ, ta phải quyết tâm chừa bỏ, điều nào các Ngài khuyến tấn chúng ta phải thực hành thì chúng ta phải cố gắng nổ lực thực hành, niệm được như vậy đó mới gọi là niệm Phật thật sự, như vậy mới thật sự được phước, thật sự diệt tội, phước báu thiệt là vô lượng. Nói cách khác niệm Phật thì tâm ta phải thanh tịnh an lạc, luôn từ bi hỷ xả, luôn thương người mến vật, lời nói và hành vi rất chân thật, từ hòa, khiêm cung, nhẫn nhường, bao dung và lương thiện. Đúng như lời khai thị: “… giữ tâm thanh tịnh, làm việc nhân từ, không lòng hờn giận, chẳng dạ ghét ganh, chuyên tâm niệm Phật, giúp thế độ đời, đừng chứa điều phiền não, và để bụng tham lam, ích kỷ… ”

Niệm Phật được thấy ngay Đức Phật,
Là niệm không còn chút tình đời.
Điều nầy nên nhớ ai ơi!
Phật linh hay chẳng tại nơi lòng mình.

Tiểu Vương

Tiểu Vương nguyên là đầy tớ của cư sĩ Tôn Hậu Tại quê quán tỉnh Hồ Bắc. Vì y vốn họ Vương, lại thuộc thân phận thấp hèn của một đứa ở, nên mọi người đều gọi là Tiểu Vương. Tôn cư sĩ gia thế thờ Phật, sau dời về cư ngụ ở Thượng Hải. Tiểu Vương cũng đi theo chủ.

Giúp việc lâu năm nơi nhà Tôn Hậu Tại, được ảnh hưởng về sự tu hành, Tiểu Vương cũng lần lần thấm nhuần, rồi phát tâm niệm Phật. Y vốn có tật cà lăm, nói năng chậm chạp, khó khăn, nên ban sơ niệm Phật không thành câu. Song với tâm chí thành, y vẫn cố gắng hành trì. Như thế được mấy năm, một đêm Tiểu Vương nằm mộng thấy có người nắm lưỡi của mình kéo ra thật mạnh, tâm sảng sốt cảm giác rất đau. Khi tỉnh giấc, tật cũ tự nhiên dứt trừ, nói năng lanh lẹ thông suốt, câu niệm Phật cũng rõ ràng rành rẽ. Do đó lòng tin nguyện của y rất sâu thiết, sự trì niệm càng thêm chuyên cần.

Tiếp tục tu hơn hai năm, thì không thấy Tiểu Vương niệm Phật nữa. Có người hỏi duyên cớ, y đáp:

– Tôi niệm Phật đã thành một khối, nay không niệm mà vẫn tự niệm, nên không cần phát ra tiếng, chỉ khởi ý giữ cho câu hồng danh thầm liên tục chẳng đứt đoạn mà thôi.

Mọi người nghe nói cũng không mấy lưu tâm, để cho y tùy tiện.

Tình trạng mặc niệm như thế, lại tiếp tục thêm năm năm nữa.

Một hôm Tiểu Vương gọi đứa con trai mười lăm tuổi, đang học ở trường về nhà, mà bảo rằng:

– Hôm nay cha sắp đi, con nên giúp sức niệm Phật để tiển đưa một lần cuối!

Mọi người thấy y vẫn bình thường, chẳng tỏ ra chút chi đau yếu, đều không tin, chỉ nhìn nhau mỉm cười. Tiểu Vương biết ý, bảo:

– Tôi nói thật đấy, chẳng phải là lời đùa cợt bông lông đâu!

Có kẻ hỏi:

– Chú nói đi, mà đi về nơi nào?

– Về nhà!

– Nhà nào, ở đâu?

– Quê nhà cũ, tức là thế giới Cực Lạc ở Tây Phương!

Trong ấy có một vị sanh lòng tin, bảo:

– Con của chú hãy còn nhỏ dại, nên lưu lại thêm ít năm nữa để chiếu cố, nó mới có thể thành lập được!

– Thời tiết đã đến, tôi không thể lưu trụ, thôi mọi việc đều phó cho nhân duyên!

Nói xong, bảo con đồng thanh niệm Phật với mình. Mọi người đều đứng yên, lặng lẽ nhìn xem sự thể diễn tiến ra sao? Lúc ấy Tiểu Vương ngồi ngay thẳng trên giường niệm Phật. Kế đó bỗng hắt hơi hai tiếng, hiện tướng “ngọc trợ hạ thùy”, rồi nhắm mắt đi thẳng. (“ngọc trợ hạ thùy” tức là hai dòng nước mũi màu trắng như sữa đặc thòng xuống tợ đôi đũa ngọc, đây là một thoại tướng hy hữu, chỉ những bậc xả báo thân thăng hóa mới có mà thôi!).

Hôm sau, vào buổi chiều tối, cư sĩ Tôn Hậu Tại cho đem di hài làm lễ thiêu hóa nơi chùa Lưu Vân. Lúc cử hỏa, đống củi liền bừng cháy, khói trắng xông thẳng lên hư không. Trên ngọn lửa hiện ra một đóa sen to lớn sáng rỡ chập chờn, càng lúc càng đẹp rõ, cho đến khi lửa tắt. Sáng ra kiểm lại, trên tro xương cũng hiện nét tướng hoa sen rành rạnh in như vẽ. Bấy giờ nhằm năm 1927.

Gánh trần tục hãy mau quăng ném,
Để rảnh tay gói ghém sự tu.
Nào vùa hương bát nước công phu,
Nào tịnh niệm A Di Đà Phật.
Các ô nhiễm tâm vô nhứt vật,
Chỉ một lòng phước đức vun bồi.
Nơi Liên Hoa cửu phẩm chưa ngồi,
Thì nhứt định chưa thôi niệm Phật.

Ngài Thiện Đạo Đại Sư khai thị
Ðại Sư có bài kệ khuyên tu như sau:
Da mồi tóc bạc lần lần, lụm cụm bước run mấy chốc.
Dù sang vàng ngọc đầy nhà, vẫn khổ suy già bệnh tật.
Ví hưởng khoái lạc ngàn muôn, đâu khỏi vô thường chết mất.
Duy có đường tắt thoát ly, chỉ niệm A Di Ðà Phật!
Có người thưa hỏi:

– Bạch Hòa Thượng! Tại sao Ngài không dạy người quán tưởng Phật, mà chỉ bảo chuyên trì danh?

Ngài đáp:

– Chúng sanh đời này phần nhiều nghiệp chướng sâu nặng thô thiển, thức thần thì hay tán loạn dao động suy nghĩ vớ vẫn lung tung, mà cảnh Tịnh Ðộ thì rất vi tế áo diệu, nên quán tưởng khó thành. Vì thế Đức Phật xót thương, khuyên nên trì niệm danh là thẳng tắt nhất. Chính vì trì niệm danh hiệu là hạnh dễ làm, nếu cứ giữ mỗi niệm nối nhau, tu như thế suốt đời thì mười kẻ niệm mười kẻ được Vãng Sanh, trăm người tu trăm người về Tịnh Ðộ.

Tại sao thế? Vì tâm ý không bị duyên tạp bên ngoài kéo lôi, nên dễ được chánh niệm. Vì cùng với bản nguyện của Phật hợp nhau. Vì không trái với Kinh giáo. Vì thuận theo lời Phật và chư Thánh chỉ dạy.

Nếu bỏ chuyên niệm mà tu xen tạp những hạnh khác thì trong trăm ngàn người chỉ hy vọng được ba, bốn kẻ Vãng Sanh.

Bởi tại sao? Vì duyên tạp loạn động khiến cho mất chánh niệm. Vì không hợp với bản nguyện của Phật A Di Ðà. Vì trái với Kinh giáo và lời Phật, Thánh. Vì sự hệ niệm không nối tiếp nhau. Vì tâm không thường nhớ ơn Phật. Vì tuy hành đạo mà thường nhớ nghĩ tới danh lợi. Vì thích theo duyên tạp để mong người ca ngợi tán thưởng, làm chướng chánh hạnh Vãng Sanh của mình và người.

Gần đây, hàng đạo tục kiến giải không đồng, kẻ thích chuyên tu, người ưa tạp hạnh. Xin khuyên nhắc: Nếu chuyên niệm Phật, tất mười người đều được Vãng Sanh. Như tạp tu mà không chí tâm thì trong ngàn người khó mong được một. Nguyện tất cả đều nên chín chắn tự suy xét kỹ.

Lại người niệm Phật, thì khi đi, đứng, nằm, ngồi, phải cố gắng nhiếp tâm ngày đêm chớ rời thánh hiệu, thề quyết giữ đến hơi thở cuối cùng. Như thế tới lúc mãn phần, niệm trước vừa thọ chung, niệm sau liền sanh Cực Lạc. Từ đây vĩnh viễn hưởng sự vui pháp lạc vô vi cho đến khi thành Phật, há chẳng đáng mừng ư!

Ðại Sư cũng từng dạy phương pháp giữ vững chánh niệm trong lúc lâm chung như sau:

Người niệm Phật khi sắp mãn phần, muốn được sanh về Tịnh Ðộ thì điểm cần yếu là đừng nên sợ chết. Phải thường nghĩ thân này nhơ nhớp, biết bao điều khổ lụy trói vây. Nếu bỏ được xác thân giả tạm thúi hôi, sanh về Cực Lạc thọ thân kim cương thanh tịnh sẽ thoát khỏi luân hồi đau khổ, hưởng vô lượng sự an vui. Ví như bỏ chiếc áo cũ rách đổi lấy y phục gấm vóc lụa là, còn điều chi đáng thích ý bằng. Nghĩ như thế, buông hẳn thân tâm, không còn lo buồn tham luyến.
Lúc vừa có bịnh, liền tưởng đến sự vô thường, một lòng niệm Phật chờ chết. Nên dặn dò thân thuộc chớ lộ vẻ bi thương, cùng bàn việc hay dở trong nhà. Nếu có ai đến thăm, chỉ khuyên nên vì

mình niệm Phật, đừng hỏi thăm chi khác. Cũng không nên dùng lời dịu dàng an ủi, chúc cho sớm được lành mạnh an vui, vì đó chỉ là chuyện bông lông, vô ích. Phải bảo trước cho gia quyến biết, lúc mình bịnh ngặt sắp chết, đừng rơi lệ thương khóc, hoặc phát ra tiếng than thở âu sầu, làm kẻ lâm chung rối loạn tâm thần, lạc mất chánh niệm.

Nói tóm lại, phải giữ vững chánh niệm, tất cả chỉ giữ một việc duy nhất là xưng danh trợ niệm cho đến sau khi tắt hơi. Nếu lại được bậc tri thức hiểu rành về Tịnh Ðộ thường đến nhắc nhở khai thị thì thật là diệu hạnh. Như lúc lâm chung biết áp dụng phương pháp này tất sẽ được Vãng Sanh không còn nghi ngờ chi nữa.

Việc vượt qua cửa tử là điều rất quan hệ lớn lao, phải tự mình gắng sức mới được. Nếu một niệm sai lầm, tất nhiều kiếp sẽ chịu khổ lụy đâu có ai thay thế cho mình? Phải chú ý nghĩ suy và ghi nhớ kỹ.

Ngồi niệm Phật thì ai cũng niệm,
Nhứt tâm không xao xuyến ít người.
Tâm như chong chóng giữa trời,
Phật thì một niệm còn mười niệm ma.
Các việc xấu nhớ ra trước nhứt,
Kế tay chơn buồn bực mõi mê.
Rồi ma buồn ngủ chạy về,
Phật quên niệm đến khói mê phủ vào.
Không cần hỏi ông nào cũng biết,
Niệm thế bao giờ Phật chứng cho.
Khác nào nồi gạo mới vo,
Bắc lên nhắc xuống bao giờ chín cơm.
Mục đích việc sớm hôm niệm Phật,
Là để cho chấm dứt niệm tà.
Chỉ còn một niệm Di Đà,
Để nhờ Phật rước sang qua Liên Đài.

Niệm Phật, kỳ thật chỉ là một loại tâm tình rất đơn thuần. Tâm tình khi niệm câu “Nam Mô A Di Đà Phật” này, thì cũng giống như đứa con lưu lạc liêu lổng nhiều năm, nay muôn quay về nhà, khóc thét lên rằng: “Ba ơi! Con muốn về nhà!” loại tâm tình như vậy. Ngay khi đứa trẻ mê lạc, bỗng nhiên hối ngộ, khóc thét lên cầu cứu, người cha đã nhiều năm chờ đợi mỏi mòn, ngày nhớ đêm mong đứa con của mình, nhất định sẽ vui mừng đến rơi nước mắt, cho dù có liều cái mạng già cũng sẽ toàn tâm toàn lực cứu giúp đứa con, tiếp rước con về nhà, cho con tất cả sự ấm áp nhất tốt đẹp nhất trong nhà. Đứa con bị bệnh rồi! thất nghiệp rồi! nợ nần chồng chất! Lại cách nhà rất xa! Con đường hiểm ác v.v. những thứ này đều không phải là vấn đề, tất cả những vấn đề khó khăn này, người cha đều sẽ vì đứa con mà lo liệu giải quyết, vấn đề là ở đứa con có chịu quay đầu trở về nhà hay không mà thôi!

Pháp môn Tịnh Độ là do Phật A Di Đà kiến lập, Thích Ca Mâu Ni Phật đã tuyên dương, mười phương tất cả chư Phật đều cùng khen ngợi đại pháp vô thượng siêu thắng khác biệt.

Do lòng tin sâu này, mà phát ra đại nguyện chân thật, nhàm chán Ta Bà, không sợ chết, bằng lòng xả bỏ tất cả thế gian vô thường; vui cầu Cực Lạc, thích được chết, bằng lòng chết sớm một chút, sớm một chút được vãng sanh Tây Phương, thân cận Phật A Di Đà. Chuẩn bị đầy đủ loại tâm tình Tín nguyện này, bất cứ chúng sanh nào trong mười phương, chỉ cần xưng niệm “A Di Đà Phật”, Phật A Di Đà liền sẽ y theo thệ nguyện đích thân tiếp dẫn, dùng Phật lực tiếp độ chúng sanh niệm Phật, vượt khỏi sanh tử, vĩnh thoát luân hồi.

Ngay trong một ngàn người niệm Phật thì có hơn chín trăm chín mươi chín người giả niệm Phật, đây chính là chân tướng vì sao niệm Phật không thể vãng sanh. Thường ngày chúng ta niệm Phật, tâm miệng không đồng nhau, giả tín hư nguyện, trong tâm luôn quyến luyến của cải, vướng bận con cháu, tuyệt đối chẳng phải vì việc lớn sanh tử, mà chỉ là tất cả lợi ích thế gian; khi vừa đến cửa ải sanh tử, thì nhìn không thấu, buông bỏ không được, lo lắng đầu này, dính mắc đầu kia, nhưng tuyệt nhiên không cầu vãng sanh, toàn là “Tin suông – Nguyện dối”. Cho nên, tuyệt đại đa số người niệm Phật đem của báu vô cùng quý giá, chỉ để đổi thành một cục đường. Do đó niệm Phật chỉ thành phước báo trời người, tạo thành oan nghiệp cho đời thứ ba, mãi mãi ở trong luân hồi, chịu khổ đau dài lâu vô cùng tận!

Dựa trên lý mà nói pháp môn Tịnh Độ là nhờ Phật lực của Phật A Di Đà cứu giúp, thì bảo đảm chắc chắn vãng sanh, nhưng vì sao thấy người niệm Phật hiện nay rất nhiều, nhưng người vãng sanh thì lại rất là ít. Tại sao lại kỳ lạ như thế?

Đây là một vấn đề rất quan trọng, mỗi một người niệm Phật phải nghiêm túc đối với việc này, nhất định không được xem thường! Ngày nay chúng ta niệm Phật mà chẳng vãng sanh, then chốt là ở “không có Tín Nguyện, hoài nghi bất an, sợ chết, vốn không cầu vãng sanh”. Người niệm Phật ngày nay niệm Phật, chỉ là cầu bảo hộ, cầu tiền của, cầu công danh, cầu bình an, cầu thuận lợi, cầu tiêu tai, cầu khỏi nạn, cầu hết bệnh, cầu sống lâu, cầu tất cả những lợi ích của thế gian, chứ không cầu vãng sanh Tây Phương. Vì thế mà đã lỡ mất cơ hội hy hữu hiếm có khó gặp, tự cô phụ chính mình, mười phương chư Phật tuôn lệ xót xa!

Con người sống trong thời hiện tại,
Mặc dù là thông thái văn minh;
Nhưng vẫn còn trong cảnh tử sinh,
Theo định luật hữu hình tất hoại.
Người vẫn bịnh vẫn già chết mãi,
Vật có sanh đều hoại đều tàn;
Khổ não còn đầy giữa thế gian,
Thân người rốt cuộc hoàn tro bụi.
Sự vật thấy chế nhiều thứ mới,
Già chết xem còn cũ như xưa;
Sức lên trời xuống biển có thừa,
Nhưng thiếu sức ngăn ngừa thần chết.
Giàu sang bỏ xác rồi cũng hết,
Nghèo hèn hơi thở dứt cũng thôi;
Hỏi cái chi là của người đời?
Trả lời chẳng có gì tất cả.
Chỉ một cuộc lữ hành xứ lạ,
Về rồi thôi không thể mang theo;
Đời khác chi là cảnh bọt bèo,
Không thể tránh khỏi ngày tan rã.

Phương Hải Sanh

Đồng tử Phương Hải Sanh là con của cư sĩ Phương Dưỡng Thu ở Hương Cảng. Dưỡng Thu ưa làm việc phước thiện, sau tuổi trung niên lại chuyên tâm hướng về Tịnh Độ.

Hải Sanh mới 7 tuổi, thường tập theo cha lễ Phật trì niệm. Em có thể tụng được chú Chuẩn Đề cùng bài kệ Phá Địa Ngục trong kinh Hoa Nghiêm. Đôi khi còn nhớ lời cha dạy, thường đem cảnh trang nghiêm thanh tịnh của cõi Tịnh Độ thuật lại với người thân quen, và bảo:

– Phải chuyên cần niệm Phật. Niệm hồng danh A Di Đà sẽ được sanh về thế giới Cực Lạc.

Ngày 18 tháng 2 năm 1911, mẹ của Hải Sanh trong cơn mơ màng, thấy tòa đại điện rất nguy nga tráng lệ, kim quang chiếu rực rỡ, khoảng chiều sâu chính giữa có đóa hoa sen lớn đẹp, một vị

Phật thân sắc vàng ngồi nơi trên. Từ xa trông vào chỉ thấy đôi chân Như Lai ngồi kiết già.

Hôm sau, ngày 19 tức là ngày vía đức Quán Thế Âm, em bỗng ngã bệnh. Dưỡng Thu ngồi một bên xưng hồng danh hộ trợ, em cũng xướng niệm theo cha. Lúc nhắm mắt hôn mê lại tụng chú

Chuẩn Đề rành rẽ không sót một chữ. Dưỡng Thu bồng con đến trước bàn Phật, nhắc nhở bảo hãy chiêm ngưỡng chân dung Tây Phương Tam Thánh, em trông thấy tôn tượng liền cao tiếng niệm Nam Mô A Di Đà Phật hơn vài mươi câu, tiếng vang to hơn lúc còn chưa bịnh.

Em bệnh được ba hôm, vào lúc xế chiều ngày 21, đồng tử bỗng xuống giường lần đi từng bước. Dưỡng Thu vội chạy lại đỡ, hỏi muốn đi đâu thì đáp:

– Con lên lễ Phật!

Bấy giờ tiếng nói của em đã hơi khó khăn, song vẫn còn có thể đốt hương lễ Phật. Đến mười giờ đêm, bà vú và đứa em gái của Hải Sanh đang niệm Phật cầu cho đồng tử mau khỏi bịnh, bỗng thấy tường vách đều biến mất trống không, có kim quang ẩn hiện năm sắc chiếu rực rỡ như đêm trăng sáng. Trong kim quang, một vị bồng Hải Sanh vượt lên khỏi nóc nhà bay về phương Tây.

Bà còn đang nghi lự, chợt như tỉnh mộng, tường vách đều hiện lại như cũ. Bà vội vàng chạy nhanh xuống hỏi thăm thì em đã vừa dứt thở.

Lúc em sắp mãn phần thì tay chân lạnh trước, đôi mắt chăm chú nhìn song thân. Dưỡng Thu đốc suất bảo mọi người xung quanh xưng hồng danh trợ niệm. Cư sĩ lại nói sự vui đẹp ở Liên Bang, khuyên con đừng luyến tưởng chi khác, hãy chuyên tâm hướng về Cực Lạc, Hải Sanh vâng lời, chí tâm niệm Phật cho đến lúc tắt hơi.

Sau khi em mãn phần, tay chân trở lại nóng ấm, sắc mặt tươi như sống.

Hải Sanh kiếp trước đã trồng căn lành sâu nên mới lên 7 tuổi liền biết niệm Phật. Em lại được cha hiền hộ trợ, khi lâm chung điềm lành ứng hiện, chánh niệm rõ ràng.

Đồng thời lại có Đàm Lạc Kiều, người quận Nam Hải, làm khách sanh nhai ở Hương Cảng. Tánh ông rất chân thật, tin sâu lý nhân quả, cùng với Dưỡng Thu có quen biết nhau. Dưỡng Thu có trao cho quyển Tây Quy Trực Chỉ, khuyến tấn về sự niệm Phật vãng sanh. Lạc Kiều liền tin nhận thật hành, ngày đêm không biếng trễ. Ít lâu sau ông mang bịnh, tự biết mình khó qua khỏi, liền thu xếp công việc trở lại quê hương. Dọc đường ông vẫn cố gắng chuyên tâm niệm Phật, về tới nhà bịnh khổ dường như tan mất, ông gọi vợ đến mà nói rằng:

– Tôi sắp vãng sanh Tịnh Độ, bà chẳng cần rước lương y, nên giúp tôi xưng niệm Phật!

Bà vợ trước nay vẫn tin Tam Bảo, liền làm theo lời ông dạy. Đến lúc sắp từ trần, Lạc Kiều còn có thể xuống giường bước đi, bảo vợ đem y phục mới sạch cho mình thay đổi. Xong mọi việc, ông ngồi niệm Phật mà qua đời, dung mạo rất an lành tươi tỉnh.

Cuộc đời mộng mị chả bao lâu?
Ân ái sao còn quấn quít nhau!
Một đãy da dồn bao bất tịnh,
Chứa nhiều bệnh khổ lẫn ưu sầu!
Luân hồi sống chết xoay vần mãi,
Tờ lệnh Diêm La kíp tới hầu,
Phước tội tóc tơ bày rõ hết,
Phân minh sổ sách trước như sau.

Cột đồng giường sắt trông ghê khiếp,
Than khóc kêu gào tránh được đâu?
Sớm hối tu hành e kẻo muộn,
Ðầu thai làm kiếp ngựa hay trâu.
Nghiệp duyên chồng chất quên đời trước,
Bể khổ trầm luân mãi thảm sầu!
Vô lượng kiếp qua đều như thế,
Đủ rồi, giờ hãy sớm quày đầu!!!

Đêm qua ngày lại chóng như thoi,
Than hỡi! Ðời ta được mấy hồi,
Riêng cõi Tây Phương nơi An Dưỡng.
Di Đà hãy gấp niệm đi thôi!

Dù cho nhà ngọc với kho vàng,
Đến lúc Vô thường khó nỗi mang,
Riêng cõi Tây Phương nơi An Dưỡng.
Quan Âm Bồ Tát độ cho sang.

Sống lâu bảy chục mấy ai đâu?
Trăm tuổi xem nào khác bóng câu.
Riêng cõi Tây Phương nơi An Dưỡng.
Cầu xin Thế Chí độ sang mau.

Nguyện cầu chúng sinh sang Tịnh Độ,
Chín phẩm sen là chỗ náu nương,
Liên trì hoa nở ngát hương,
Hân hoan chư Phật mười phương đợi chờ!

*Đại sư Thiện Đạo dạy:

Người niệm Phật khi lâm chung chớ nên sợ chết. Phải thường nghĩ rằng: thân này không sạch, chịu nhiều sự khổ, nếu được bỏ huyễn thân mà sanh về Tịnh độ, chính là điều đáng vui mừng!

Khi sắp đi nghỉ, lễ Phật quán tưởng, rồi đọc bài văn phát nguyện rằng: “Con tên… là phàm phu trong vòng sanh tử, tội chướng nặng sâu, luân hồi sáu nẻo, khổ không nói được! Nay gặp bậc trí thức, được nghe thánh hiệu Đức Từ Phụ A Di Đà, cùng với bổn nguyện, công đức của Phật, một lòng xưng niệm, cầu nguyện vãng sanh, Nguyện Phật từ bi không bỏ, xót thương nhiếp thọ. Nay đệ tử con, chưa biết thân Phật, tướng đẹp quang minh, xin Phật hiện ra, cho con được thấy. Lại con chưa biết, Quán Âm, Thế Chí, các chúng Bồ Tát, tướng mầu sáng rỡ, và thế giới kia, thanh tịnh trang nghiêm, xin khiến cho con, thấy được tỏ tường”.

Lại khi sắp đi ngủ, nên niệm Phật cho đến lúc ngủ quên. Và cần phải thật hành cho bền lâu, thì công phu Tịnh Nghiệp tất không luống uổng!

Nhớ câu nhứt cú Di Đà,
Tâm vô biệt niệm tất là qui Tây.
Tuy là ở chốn trần ai,
Nhưng trên cửu phẩm Liên Đài có tên.
Mãn phần thì được bước lên,
Đồng hàng chư Phật lâu bền an vui.
Khắp nơi sen báu nực mùi,
Thân sen cho đến chỗ ngồi cũng sen.
Hào quang thay thế trăng đèn,
Thần thông thay thế tàu thuyền ngựa xe.
Pháp mầu khi muốn được nghe,
Vật chi khi muốn thì là có ngay.
Không già không chết không phai,
Không người đau khổ, không ai luân hồi.

Hiếu Tâm Chân Thật

Vương Nữ cư ngụ ở Kiết An, thuở nhỏ cô hâm mộ Pháp môn Tịnh Độ, mỗi ngày tụng các Kinh Di Đà, Quan Âm, Kim Cang. Bà mẹ cô mang bệnh rồi mất. Khi sắp liệm, thi thể của bà rất nhiều máu ứ chảy lan.

Cô phát thệ rằng: “Nếu lòng hiếu thảo của tôi chơn thật, nguyện cho thi hài của mẹ tôi không còn hôi dơ nữa!”.

Cô nguyện vừa dứt lời, bỗng nhiên máu liền ngưng chảy, đến khi tẩn liệm hẳn không có mùi hôi.
Ít lúc sau, cha chắp nối. Cô cùng bà kế mẫu đồng chung chí hướng tu Tịnh Nghiệp.

Một hôm cô ngã bệnh nặng, bèn nhờ gia quyến thỉnh chư Tăng đến nhà giảng giải pháp môn Tịnh Độ cho mọi người nghe. Giây lát, cô trỗi dậy đòi thay áo, rồi nằm nghiêng hông về phía bên phải theo tư thế kiết tường, tay trái nắm chót lá phan trước tượng Đức Quan Thế Âm Đại Sĩ mà vãng sanh. Lúc sắp liệm, bà kế mẫu rải tro trên đất. Sáng hôm sau, chỗ rải tro mọc lên vài đóa hoa sen.

Trong tâm khởi một niệm sanh,
Mười phương chư Phật nghe rành như vang.
Chớ nghi Phật ở Tây Phang,
Không nghe thấu tiếng vái van trong lòng.
Phật nào cũng có lục thông,
Ngồi xa vẫn biết rõ lòng chúng sanh.
Lo mình niệm Phật không rành,
Đừng lo Phật ở xa mình không hay.
Nhứt tâm cầu đạo Như Lai,
Phật trong được rõ Phật ngoài đều thông.
Nam Mô sáu chữ thành lòng,
Có ngày sẽ được sáu thông tại trần.
Dù cho kẻ phú hay bần,
Đều tu niệm được không phân nghèo giàu.
Nhứt tâm niệm Phật thì mau,
Phóng tâm niệm Phật thế nào cũng lâu.
Mau lâu chẳng tại Phật đâu,
Mà là tại kẻ thật cầu hay không.
Thật cầu thì Phật mau trông,
Giả cầu thì Phật khó mong thấy liền.
Thế gian dụng bạc làm duyên,
Phật Trời dụng tấm lòng thiềng làm căn.
Lòng thiềng nếuđể nứt răn,
Thì là không thể bước sang Phật đài.
Nhằm kỳ Mạt Pháp thời nay,
Niệm Di Đà Phật đủ khai tâm thần.
Ngày đêm niệm Phật chí cần,
Đồng thời bố đức thi ân mau thành.

Luận bàn xác thực thì pháp các môn Ðại Thừa, pháp nào cũng viên diệu. Nhưng căn cơ có sống, có chín, duyên có cạn, có sâu. Bởi thế, xét về mặt lợi ích thì có “khó được” và có “dễ được”. Tổ Thiện Ðạo, hóa thân của Phật A Di Ðà, đã dạy chuyên tu. Ngài chỉ e cho người tu hành tâm chí bất định, bị các sư tăng trong những pháp môn khác lung lạc, nên bảo:

– Cho dù thánh nhân Sơ Quả, Nhị Quả, Tam Quả, Tứ Quả, và Thập Trụ, Thập Hạnh, Thập Hồi Hướng, Thập Địa, Ðẳng Giác Bồ Tát, cho đến thập phương chư Phật tận hư không, trọn pháp giới hiện thân đến, phóng quang, khuyên ta bỏ pháp Tịnh Ðộ, để dạy cho ta tu pháp thù thắng nhiệm mầu nào khác, ta cũng chẳng chịu nhận. Thưa là do lúc ban đầu con đã phát tâm chuyên tu Tịnh

Ðộ rồi, nên bây giờ chẳng dám trái nghịch nguyện ấy!

Niệm Phật muốn được nhất tâm thì trước hết phải phát tâm chân thật, thật sự vì liễu sanh thoát tử, chẳng phải vì mong mọi người gọi mình là người tu hành chân thật. Lúc niệm, từng câu, từng chữ phải từ tâm phát khởi, từ miệng thốt ra, lọt vào tai. Mỗi câu đều như thế, trăm ngàn vạn câu cũng đều như thế. Làm được như vậy thì vọng niệm không do đâu khởi được, tâm và Phật tự có thể khế hợp nhau. Lại phải khéo dụng tâm, đừng để cho thân tâm bất an, đến nỗi sinh ra nhiều phiền não chướng ngại. Nhiếp trọn sáu căn, tịnh niệm tiếp nối, hành đúng theo đây, nhất định sẽ chẳng lầm lạc.

Người tu Tịnh Nghiệp phải nên niệm Phật chân thật, nếu không thì cũng giống như người nói ăn mà không có ăn và người đếm tiền của người khác, chẳng có ích gì cho việc tu hành cả. Nói mười mét không bằng làm được một tấc, một tạ lý thuyết không bằng một trăm cà ram thực hành!

Niệm Phật hàng ngày là chúng ta gieo trồng chủng tử thành Phật vào tâm thức của mình. Mỗi tiếng niệm Phật là gieo trồng một chủng tử, mười tiếng niệm Phật là gieo trồng mười chủng tử. Nếu mỗi ngày ta niệm một triệu lần, tức là ta đã gieo trồng một triệu chủng tử. Cứ niệm, đừng lo tâm tán loạn.

Đã muốn liễu sanh thoát tử ngay trong đời này thì phải giữ vẹn luân thường, trọn hết bổn phận, dứt lòng tà, giữ lòng thành, đừng làm các điều ác, vâng làm các điều lành, thật sự vì sanh tử phát tâm Bồ Đề, dùng tín nguyện nhất ý mà chấp trì danh hiệu Phật.

Điều cần yếu là phải:
Làm hết các việc từ thiện,
Tránh tất cả điều độc ác,
Quyết rửa tấm lòng cho trong sạch.
Ngày sáu khắc cũng không quên Phật,
Đêm năm canh thường nhắc Di Đà;
Phật trong lòng chẳng rời xa,
Có ngày Phật đến giúp ta vừa lòng.
Phải thành khẩn từ trong tim não,
Chớ lương khương lỡ đạo lỡ đời;
Tu thì tu phải đến nơi,
Nguyện thì nguyện được như lời mới ưng.

Hai Cô Gái

*Cô Huỳnh Tuấn mồ côi từ thuở bé, mỗi ngày cô theo bà nội lạy Phật và tụng Kinh, lớn lên hứa gả cho chàng trai nhà họ Lục.
Hôm nọ, đột nhiên cô nhiễm bệnh nguy kịch, bèn quyết chí xuất thế, cô nhờ thân quyến dìu đỡ lạy Phật sám hối. Chàng rể được tin bèn đến thăm, người nhà muốn dắt tới bên giường, cô khoát tay không cho.

Chiều hôm ấy, khi thỉnh chư Tăng đến nhà truyền thọ tam quy ngũ giới cho cô xong, cô nhờ người gọi anh chàng họ Lục lại mà bảo với anh ta rằng:

– Từ nay nhân duyên kể như đoạn tuyệt chớ có nhớ tưởng. Anh cũng sớm hồi đầu đừng mê say mãi!

Dứt lời cô xin chư Tăng xuống tóc.

Cạo tóc xong, cô xá Sư Tăng ba xá tạ ơn, rồi cô liền ngồi xếp bằng trang nghiêm niệm Phật, niệm được một lúc mà vãng sanh, hơn một giờ sau thân cô vẫn không nghiêng ngả.

Qua ngày sau, người nhà thay y phục, bỗng nghe mùi thơm lạ phát ra từ thi thể của cô, đồng thời nhìn thấy trên má và chân mày chiếu ra ánh sáng màu hồng.

*Con gái ông Vương Kinh Thạch ở Giang Tô, hứa gả cho Từ Cảnh Thiều. Năm 17 tuổi, cô trường trai thọ giới, sớm tối lễ tượng Quan Thế Âm Bồ Tát. Không bao lâu Cảnh Thiều mang bệnh rồi chết. Ngày tiếp được thiệp tang, cô liền mặc áo vải, mang dép rơm, cất nhà ở riêng, chuyên tu niệm Phật.

Trải qua được năm năm. Một hôm, cô từ biệt thân thuộc hẹn đến ngày mùng 9 tháng 9 thời vãng sanh về Tây Phương Cực Lạc thế giới.
Đến kỳ hạn, tay trái cô kiết ấn, đứng thẳng người mà qua đời.

Có thật cảm Phật Ngài mới ứng,
Niệm lơ là Phật chứng vào đâu.
Ví người đã rớt sông sâu,
Không cần kêu cứu ai hầu cứu cho.
Niệm Phật chẳng béo no chi Phật,
Phật cũng không mong nhắc đến tên.
Chúng sanh muốn Phật vớt lên,
Cho nên mới tưởng niệm tên Phật Ngài.
Phật nguyện độ muôn loài thoát khổ,
Nên khi nghe ai có lời xin.
Phật thêm động tánh bi tình,
Như là mẹ thấy con mình lâm tai.
Phật nhứt định không sai lời nguyện,
Nhưng chúng sanh phải niệm chí thành.
Chỉ là một niệm trọn lành,
Cũng là được Phật thân hành đến nơi.
Hoặc chẳng niệm một lời chi cả,
Nhưng thường hay có dạ từ bi.
Trần ai chẳng nhiễm vật gì,
Cũng là được Phật hộ trì ngày đêm.

Kinh Pháp Hoa nói rằng: “Gặp thiện tri thức là nhân duyên lớn, nhờ sự dẫn dắt của thiện tri thức được thấy Phật”. Chúng ta vì nghiệp chướng sâu nặng nên sinh vào thời đại mạt pháp này. Phật pháp đã quá suy vi, tà sư nói pháp nhiều vô số như cát sông Hằng, người học pháp tà không thể kể xiết.

Ngoài môn Niệm Phật A Di Đà cầu vãng sinh Tịnh Độ mà tu các Pháp môn khác có thể tăng trưởng được phúc trí, nhưng vẫn khó vượt thoát sinh tử luân hồi. Chỉ duy có pháp môn Tịnh Độ, tuy thời nay ít người chứng được Nhất Niệm Tam Muội như người thời xưa, nhưng vẫn có thể nương vào nguyện lực của mình và bản nguyện của Phật A Di Đà mà “đới nghiệp vãng sanh”, và khi đã tới được cõi Cực Lạc Tây Phương thì không còn sợ bị đọa lạc nữa, vì đã nhờ được hoàn cảnh thuận lợi thường được gặp Phật, nghe Pháp nhiệm mầu để tiến tu đến quả vị Vô Sanh.

Lóng sạch nơi lòng ta,
Thống nhứt niệm Di Đà.
Làm lành không làm dữ,
Đường tắt đến Liên Hoa.

Tào Thị

Tào Thị là thân mẫu của Bá Thiên Hộ cư ngụ ở Thường Châu. Thiên Hộ tính tình thích làm việc phước thiện, tu theo đạo Tiên, kính thờ Lữ Chơn Nhơn. Ông thường cầu cơ, gạn hỏi Tiên thuật nơi Chơn Nhơn và ưa lặng lòng đoan tọa.

Một hôm, ông qua Tô Châu, được người bạn tặng cho tập “Tây Phương Xát Chỉ”. Trong tập sách ấy có đoạn bác Tiên thuật, chỉ quy Tịnh Độ. Thiên Hộ mới bắt đầu quay về nương tựa nơi Phật thừa, nhưng vẫn còn hoài nghi, bèn đem việc ấy thưa hỏi Chơn Nhơn.

Lữ Chơn Nhơn bảo:

– Ông còn ngờ gì nữa! Khi đại tam tai đến, bọn Thiên Tiên chúng ta cũng không có đường nào trốn thoát. Lạc Bang rất thanh tịnh an ổn. Ông nên cố gắng nguyện sanh về! Ngoài việc niệm Phật lễ Phật, ông nên kèm thêm tụng Kinh Kim Cang để hồi hướng cầu vãng sanh.

Nghe Chơn Nhơn giảng giải, ông mới hết nghi, từ đó ông chí quyết tu Tịnh Độ. Năm ấy, mẹ của ông được 64 tuổi và mang bệnh. Được tin, ông từ Tô Châu vội vã trở về nhà. Khi ông về đến nhà thì mẹ đã tắt hơi, chỉ nơi ngực chưa lạnh.

Người nhà đang lo sắm quan quách, ông khóc to, kính lạy Đức Quan Thế Âm Bồ Tát, tụng chú bạch y mười hai ngàn biến, nguyện giảm tuổi thọ của mình một kỷ, tức 12 năm, để cầu cho mẹ được sống lại. Ông khóc đến nước mắt nước mũi ướt cả vạt áo dài.

Sáng ngày sau, bà mẹ bỗng cựa mình đòi uống nước, chỉ vài ngày sau đó là lành mạnh hẳn, sức khỏe hồi phục bình thường trở lại. Bà thuật lại rằng:

– Lúc mới chết, bị hai con quỷ dẫn đi qua các ty Thổ Địa, Thành Hoàng rồi đến phủ Đông Nhạc. Phủ Quân phán là nhờ con trai bà chí thành cầu khẩn nơi Quan Âm Đại Sĩ, nên bà được thêm tuổi thọ. Rồi Phủ Quân truyền quỷ đưa mẹ về, vì thế nên sống lại!

Ông bèn khuyên mẹ tu Tịnh Độ. Bà liền phát tâm ăn chay trường, mỗi ngày ba thời lần chuỗi niệm Phật cầu sanh Cực Lạc. Mười hai năm sau, bà được 76 tuổi, Rằm tháng chín, bà nói với ông rằng:

– Mẹ sắp về Cực Lạc, con cho mời các thân thuộc đến để mẹ từ biệt!

Sau khi từ biệt mọi người xong, bà tắm gội thay y phục rồi niệm Phật an lành mà mất.

Thiên Hộ có người dì là Hứa Thị cũng trường trai niệm Phật mà chưa được chuyên nhứt. Ông rước dì về nhà mình, khuyên dì buông bỏ tất cả sự duyên, nhứt tâm niệm Phật. Hứa Thị y lời. Năm đó, bà đã 65 tuổi.

Từ tháng ba đến tháng sáu, trọn ba tháng bà niệm Phật không để xen hở. Một hôm, bà đến lạy Thiên Hộ, ông cả kinh gạn hỏi lý do.

Hứa Thị đáp :

– Dì trên 65 tuổi, mãi điên đảo trong vòng mộng tưởng, chưa từng được một ngày an lạc. Từ khi cháu chỉ dẫn cho dì niệm Phật tới nay, dì sáng niệm Phật thoạt đã đến tối, tối niệm Phật phút chốc đã sáng ngày. Sự an lạc trong đời có gì hơn nơi đây! Nếu không nhờ cháu thời tất không được như thế này, nên dì lạy tạ.

Nhơn đó ông khen ngợi cảnh thù thắng của thế giới Cực Lạc trang nghiêm thanh tịnh, và nói, nếu đặng nhứt tâm Thánh cảnh tự hiện, lúc Thánh cảnh hiện cũng không nên quá vui mừng tham trước.

Ba tháng sau, vào lúc nửa đêm, Hứa Thị đang ngồi niệm Phật, thoạt thấy kim liên hoa bay hiện ra trước mặt, rồi hóa thành trăm nghìn muôn ức liên hoa bay lên hư không, chói sáng cả trời đất. Sáng ngày, bà cũng đến lạy ông mà thuật sự ấy.

Từ ngày đó, dung sắc của bà tươi trẻ như người chừng ba mươi tuổi. Bấy giờ là năm Càn Long thứ 42. Trọn cả ngày, ngoài câu niệm Phật, bà không hề nói gì khác. Ban đêm Thị chỉ nằm nghỉ chừng 2 tiếng đồng hồ, thời còn lại thì ngồi niệm Phật.

Lòng thành cõi Phật được siêu,
Làm lành chứa đức mai chiều ấm thân.
Gương trong chẳng nhuộm bụi trần,
Trí minh mọi việc cân phân không lầm.
Di Đà lục tự trì tâm,
Mau lâu cũng được Phật tầm độ ta.

Kinh Đại Tập có ghi: Trong đời Mạt pháp, ức ức người tu hành, ít có người đắc đạo, chỉ nương theo pháp môn Niệm Phật mà thoát sinh tử luân hồi.

Ở trong cuộc sống thường ngày cho dù là việc thiện nhỏ, cũng không thể không làm, tập hợp nhiều việc thiện nhỏ lại thành việc thiện lớn. Cho dù có lỗi lầm rất nhỏ, cũng không thể không sửa, nếu nhiều lỗi nhỏ không sửa sẽ thành lỗi lớn và sẽ biến thành tội nghiệp sâu rộng không bến không bờ. Đoạn ác tu thiện chính từ nơi hết sức nhỏ nhặt này mà bắt đầu. Đây mới là chân chính tu hành. “Chớ xem thường giọt nước nhỏ có thể chảy hết bồn nước to”

Chúng ta cô phụ sự chờ đợi nhớ mong của Phật A Di Đà đã nhiều kiếp qua! Cũng đã cô phụ tấm lòng Phật Thích Ca thiết tha dặn dò hết lời khuyên bảo! Càng phụ lòng bi tâm kỳ vọng, khuyến tấn tán dương, chứng minh khen ngợi của chư Phật trong khắp mười phương! Nghĩ đến chỗ này, mỗi một người niệm Phật chúng ta phải nên thống thiết mà rơi lệ, không chổ dung thân!

Người niệm Phật, tín tâm phải nên kiên cố, tin sâu chắc vào Phật lực bất khả tư nghì của Đức Từ Phụ A Di Đà, nhất định đầy đủ tín nguyện niệm Phật, quyết định vãng sanh thành Phật, không đợi phải nhất tâm bất loạn, bởi thời mạt pháp này trình độ niệm đến nhất tâm bất loạn chẳng có mấy ai có thể làm được, vì thế chớ nên hoài nghi tự ti mặc cảm, chần chừ do dự bất an, lo lắng sợ chết… mà lỡ mất cơ hội vãng sanh ngàn năm khó gặp này!

Nếu không sớm dứt hồng trần,
E không tránh khỏi chuyển luân như người.
Đã nhiều kiếp vào đời ra thế,
Biết bao lần nay chế mai tang;
Vẫn còn lưu lại thế gian,
Nghiệp xưa đâu phải nhẹ nhàng ớ con!
Khuyên thiện tín gìn tròn mối đạo,
Để kỳ này trực đáo Tây Phương;
Không còn trở lại trần dương,
Chịu đường sanh tử sáu đường mê si.

Tào Vân Tôn

Cư sĩ Tào Vân Tôn pháp danh Liêu Nghĩa, người ở huyện Cửu Giang, tỉnh Giang Tây. Ông nhà nghèo, sanh nhai bằng nghề buôn bán, tánh hiếu thuận, ưa bố thí làm lành. Vì thuở bé mồ côi bị thất học, nên lúc gia tư đã hơi khá, ông xuất tiền xây cất trường học, rước thầy dạy dỗ để giúp trẻ em trong vùng.

Thân mẫu ông là Đàm thị tin Phật, từng phát nguyện triều lễ chùa núi Phổ Đà và Cửu Hoa, song chưa kịp đi mà đã tạ thế. Vì muốn làm tròn tâm nguyện của mẹ, nên vào tháng hai năm Quý Mão thời Quang Chữ nhà Thanh, ông sắm sửa cúng phẩm đi triều lễ thánh tích núi Cửu Hoa.

Xong việc đó, kế tiếp lại triều lễ non Phổ Đà. Khi đổ thuyền lên bộ, đến rừng Tử Trúc Lâm, ông thấy mẫu thân ngồi nghiễm nhiên nơi trong, liền mừng rỡ kêu gọi chạy vội đến, bỗng hình tượng chợt tan biến, ông bi cảm đứng thương khóc. Một vị tăng ở trong chùa, thấy thế lấy làm lạ bước ra thăm hỏi.

Sau khi biết được nguyên do, vị tăng sĩ ấy bảo:

– Đó là đức Quán Thế Âm Bồ Tát hóa thân để an ủi lòng hiếu cảm của ông. Thế thì việc hoàn nguyện thay cho mẹ của ông, đã được Ngài chứng giám!

Sau khi lễ điện Lạc Già xong xuống thuyền trở về, ông thấy trên mặt biển nổi hiện đóa hoa sen ngàn cánh. Trên hoa có đức Thiên Thủ Thiên Nhãn Quán Thế Âm Bồ Tát ngồi kiết già, tướng tốt trang nghiêm kỳ diệu. Mục kích cảnh tượng, ông mừng thương lẫn lộn, sanh lòng tin rất thiết sâu.

Về sau, khi được gần gũi Ấn Quang pháp sư, ông mới biết pháp môn Niệm Phật.

Ông từng đến chùa Lô Sơn ở huyện Cửu Giang, cùng các chùa khác tổ chức những kỳ Phật thất và đề xướng pháp môn Tịnh Độ. Mùa hạ năm 1927 ông xả cúng nhà ở sửa sang lại thành ngôi Niệm Phật Lâm. Đến mùa hạ, năm 1929, lại kết lập hội Đông Lâm Liên Xã, lấy nơi đây làm trụ sở. Ông cùng với vị sư trụ trì ký vào quy ước đem trú xứ này cúng dường cho mười phương Tăng, mở đón tiếp chúng các nơi, tự ông đảm nhiệm chịu phần kinh phí. Qua cuối đông lại trù định cất ngôi điện để thờ thánh tượng Đức Văn Thù. Khi vật liệu xây cất như ngói gạch, gỗ đá vừa đầy đủ, tượng cũng đã thỉnh về, thì ông lâm bịnh.

Sang xuân Canh Ngọ, vào ngày mười chín tháng hai, nhằm lễ vía đức Quán Thế Âm, ông mời các vị cư sĩ tập họp lại và nói:

– Văn Thù Bồ Tát đã hứa ba hôm sau sẽ đến rước tôi về cõi Cực Lạc, xin mời chư vị đúng kỳ hạn đến trợ niệm để đưa nhau lần cuối cùng!

Các cư sĩ nghe nói lấy làm kinh lạ. Trước khi lâm chung, ông gọi con trai lớn là Thiên Chương, nấu nước cho mình tắm gội và thay y phục mới sạch. Xong mọi việc, ông lại phú chúc rằng:

– Thời kỳ vãng sanh của cha đã đến không thể lưu lại được. Mọi sự kiện nơi Đông Lâm Liên Xã cùng việc kiến tạo điện Đức Văn Thù, con phải nối chí duy trì và hoàn thành chớ nên trễ sót!

Nói xong ngõ lời giã biệt các liên hữu, ngồi kiết già ngay ngắn và cầm chuổi niệm Phật giây lát, rồi mãn phần giữa tiếng xưng niệm hồng danh của đại chúng.

Bấy giờ nhằm tiết Xuân phân năm 1930. Ông thọ được sáu mươi ba tuổi.

Bụi trần tuy bao phủ,
Son sắt vẫn một lòng.
Mây qua trăng lại tỏ,
Sóng lặng biển hườn trong.
A Di không ngớt tưởng,
Đà Phật vẫn hằng mong.
Nguyện sanh về Cực Lạc,
Chẳng thích ở trần hồng.
Được phát tâm như thế,
Chúng sanh đó thành công.

Chúng ta niệm Phật nhằm cầu việc gì? Ấn Quang đại sư luận định một cách thẳng thừng:

Phàm tu Tịnh Nghiệp, phải lấy Vãng Sanh Tây Phương làm mục đích!

Đạo lý căn bản của sự niệm Phật là mong người niệm Phật khởi sanh lòng tin, phát nguyện cầu sanh Tây Phương, liễu thoát sanh tử. Đừng chỉ cầu sự giàu sang vui sướng ở thế gian mà không cầu sanh Tây Phương. Khi nhất tâm niệm Phật cầu sanh Tây Phương cũng có thể tiêu diệt tai nạn thế gian. Chẳng phải là niệm Phật không thể tiêu diệt tai nạn không đâu.

Đức Phật mở ra pháp môn Niệm Phật là chỉ mong hết thảy chúng sanh vãng sanh Tịnh Độ ngay trong một đời này. Nếu Như Lai không mở ra pháp này thì chúng sanh đời Mạt pháp chẳng ai có thể liễu thoát sanh tử.

Phải biết Phật pháp có vô lượng pháp môn, nhưng phàm phu chánh cống như chúng ta mà muốn liễu sanh thoát tử ngay trong đời, thì ngoài pháp môn “tín nguyện niệm Phật cầu sanh Tây Phương” này ra, thì không có pháp môn thứ hai nào để cho chúng ta tu nổi cả, bởi vì tất cả những pháp tu kia đều phải hoàn toàn tự lực!

Người tự độ cầu thêm Phật độ,
Như nước xuôi gặp gió thuận chiều.
Đường về chóng biết bao nhiêu,
Được hai sức độ mau siêu phàm trần!

Nếu có ý niệm mong cầu sanh cõi trời, cõi người thì Tây Phương sẽ chẳng có phần của mình. Vì tâm sanh tử quá quen thuộc, một sức lực bé tí có thể chống cự nổi sức mạnh ngàn cân của sanh tử sao?

Nếu không cầu sanh Tây Phương, chỉ cầu tiêu tai và cầu chẳng mất thân người; làm vậy cũng giống như dùng một hạt châu Ma ni vô giá để đổi lấy cục kẹo. Người ấy là kẻ ngu si, đáng thương, hoàn toàn chẳng biết tốt xấu!

Pháp niệm Phật này là một pháp môn vi diệu thù thắng bậc nhất để Đức Phật phổ độ hết thảy chúng sanh. Khi gặp nguy hiểm, niệm Phật gặp hung liền được hóa kiết. Niệm Phật lúc vô sự có thể tiêu tai, tăng phước. Nhưng nhứt định phải cầu sanh Tây Phương mới là lợi ích to lớn rốt ráo.

Niệm Phật nếu không cầu sanh Tây Phương, dù sanh đến cõi trời Phi Phi Tưởng tôn quý nhất, đến khi phước trời hết vẫn phải luân hồi vào lục đạo trở lại. Nếu chí thành khẩn thiết niệm Phật, dù sắp đọa địa ngục A Tỳ cũng có thể nhờ Phật tiếp dẫn vãng sanh Tây Phương.

Ngày nay thiên tai nhân họa trước mắt, mọi người đều nên nỗ lực niệm Phật cầu sanh Tây Phương, chứ đừng cầu phước báu nhân thiên đời sau. Dù được phước báu cũng chỉ là tạm thời.

Phước lớn sẽ tạo nghiệp lớn, đã tạo nghiệp lớn ắt chịu khổ lớn. Nếu sanh Tây Phương, sẽ vĩnh viễn xa lìa các thứ khổ, chỉ thọ các niềm vui.

Nếu có một niệm cầu phước báu trời người trong đời sau, dù có tu trì tinh thuần cũng gọi là “trái nghịch lời Phật dạy”. Tuy có trồng thiện căn, nhưng liễu sanh thoát tử sẽ xảy ra vào năm con lừa, tức là vĩnh viễn ngàn đời không bao giời xuất hiện, đáng thương biết mấy!

Quyết giữ vững lòng son với Phật,
Quyết tu cầu giải thoát trần gian.
Đạo tâm tinh tấn một đàng,
Nhiệm mầu được thấy Tây Phang được kề.

Pháp môn Tịnh Độ, dùng chân tín thiết nguyện niệm Phật, quyết định cầu sanh Tây Phương làm tông chỉ. Nếu người niệm Phật chẳng nguyện cầu sanh Tây Phương tức là trái nghịch lời Phật dạy. Ví như vương tử ở nhờ nước khác, chẳng tin chính mình là con vua, chỉ nguyện cả đời khất thực, chẳng đến nỗi chết đói bèn mãn nguyện. Tri kiến thấp hèn đó có thể làm cho người ta không thương xót hay sao?

Thật sự có thể niệm Phật, chẳng cầu phước báu thế gian nhưng tự nhiên được phước báu thế gian, như: trường thọ, mạnh khỏe, gia tộc thanh thái, con cháu phát đạt, các duyên như ý, vạn sự cát tường… Nếu cầu phước báu thế gian, không chịu hồi hướng vãng sanh, phước báu thế gian có được đã bị tổn giảm so với không mong cầu. Còn tâm không chuyên nhất thì khó được vãng sanh!

Phải nên phát tâm quyết định, lâm chung chỉ cầu vãng sanh về Tây Phương. Đừng nói là chẳng mong cầu thân người hèn hạ tầm thường, dù cho thân vua cõi trời người, dù cho thân người xuất gia làm cao tăng, nghe một hiểu ngàn, được đại tổng trì, đại hoằng pháp hóa, rộng độ chúng sanh, đều coi như sự độc hại, tội ác to lớn, tuyệt chẳng sanh một niệm muốn thọ thân ấy. Quyết tâm như vậy thì tín nguyện hạnh của chính mình mới có thể cảm được Phật lực. Thệ nguyện của Phật mới có thể nhiếp thọ, cảm ứng đạo giao, mong Phật tiếp dẫn, thẳng lên chín phẩm, vĩnh viễn ra khỏi sinh tử luân hồi.

Niệm Phật bằng cả tấm lòng son,
Chỉ một niệm đủ thân Phật hiện.

Pháp môn Tịnh Độ chú trọng ở Tín và Nguyện. Người chẳng biết chỉ cầu phước báu nhân thiên, hoặc cầu đời sau làm Tăng, hoằng dương Phật pháp, độ thoát chúng sanh. Phải bỏ hết những tâm niệm như vậy, nếu còn mảy may nào bèn chẳng thể vãng sanh. Một khi vãng sanh bèn siêu phàm nhập thánh, liễu sanh thoát tử. Nếu không vãng sanh, dù cho một đời hoặc hai đời không mê, tuyệt đối khó được vĩnh viễn không mê. Khi mê thì do phước báu tu trì sẽ tạo nghiệp to lớn, rất đáng sợ. Đã tạo ác nghiệp thì ác đạo tự nhiên chui vào, cầu mong thoát khỏi khổ nơi tam đồ sẽ chẳng bao giờ được!

Một pháp Niệm Phật quan trọng ở chỗ phải có chân tín, thiết nguyện. Có chân tín thiết nguyện, dù chưa được nhất tâm bất loạn, cũng có thể nương vào từ lực của Phật mà đới nghiệp vãng sanh. Nếu chẳng có tín nguyện dù cho tâm không vọng niệm thì cũng chỉ là phước báu nhân thiên. Vì chẳng tương ứng với Phật, cho nên phải chú trọng nơi tín nguyện cầu sanh Tây Phương.

Chỉ biết niệm mà chẳng sanh khởi tín tâm, phát nguyện, dù được nhất tâm cũng chưa chắc được vãng sanh. Nếu có đủ chân tín thiết nguyện, tuy niệm chưa tới nhất tâm bất loạn cũng có thể nương vào từ lực của Phật mà vãng sanh. Dù có thể chấp trì danh hiệu, nhưng vì không cầu thoát ly, bèn thành nhân quả trời người, thọ hưởng si phước. Do phước tạo nghiệp nên sẽ chìm đắm trong ác đạo.

Những đoạn pháp ngữ nêu trên được trích lục từ “Ấn Quang Pháp Sư Văn Sao”. Mỗi chữ trong lời khai thị của Ấn Tổ đều là bến bờ trong đời Mạt pháp. Lời nào cũng là tấm gương quý báu cho người tu Tịnh Độ. Ngài tự khiêm tốn và nói:

“Văn sao của Ấn Quang tôi, lời văn tuy chất phát, mộc mạc, những gì nói trong đó đều là lời của Phật, Tổ, chẳng qua là lấy những ý đó của Phật, Tổ rồi tùy cơ nghi mà nói, chứ đâu phải do Ấn Quang tự ý bịa chuyện? Ấn Quang chỉ chuyển đạt lời nói làm cho kẻ sơ cơ dễ hiểu. Tuy vì sơ cơ, nhưng nếu làm đến cùng cực thì cũng không thể bỏ những điều ấy mà tu cách khác. Vì một pháp Tịnh Độ là pháp triệt trên thấu dưới”. “Học thức của Ấn Quang nông cạn, chẳng phát huy gì to lớn, nhưng nếu có thể làm theo lời chỉ dạy trong Văn Sao, quyết định có ích chứ không tổn hại. Chắc chắn có thể liễu sanh tử ngay trong đời này, sau khi vãng sanh được hầu một bên Đức Phật Di Đà”.

Tám muôn bốn ngàn pháp,
Vào thời kỳ mạt kiếp.
Dễ tu có một môn,
Niệm A Di Đà Phật.
Mọi tội lỗi tiêu tan,
Các vọng tâm biến mất.
Niệm Phật một lòng thành,
Đủ sanh về Phật Quốc.

Diệp Cửu Thành

Cư sĩ Diệp Cửu Thành pháp danh Huệ Cơ, người huyện Dư Dao tỉnh Triết Giang, ông từng theo cha đi đó đây tập nghề buôn bán từ thuở nhỏ. Sau khi thân phụ từ trần, ông thu dọn công việc trở về quê nhà an dưỡng. Trong sự giao tế, ông được tiếng khen là người tinh tường sáng lẹ.

Trên bước đường học Phật, trước tiên Cửu Thành được cư sĩ Hà Mai Sơn trao tặng cho quyển Sơ Cơ Tịnh Nghiệp Chỉ Nam. Sau khi xem xong, ông phát lòng tin, gia nhập vào Phật Học Hội ở Dư Dao. Lâu ngày được Hà cư sĩ và các bạn đồng tu nhắc nhở, lòng tín nguyện của ông càng thêm bền chắc. Thời bấy giờ hàng phụ nữ địa phương này còn tập quán mê tín, nghĩ rằng niệm một câu Phật sẽ được phước báu một đồng tiền. Ông cùng cháu là cư sĩ Chiếu Không thường diễn giảng hết sức giải thích điều sai lầm ấy. Do đó nữ chúng ở Dư Dao mới biết sự lợi ích niệm Phật được sanh về Tây Phương, nên tu Tịnh Độ mỗi ngày càng thêm đông.

Kế tiếp, nhân các cư sĩ thỉnh Tịnh Quyền pháp sư đến Phật Học Hội giảng về kinh điển Đại thừa, ông hiểu biết càng sâu rộng thêm, tin chắc cõi Tây Phương quả thật có, cảnh ngũ trược dễ chìm mê, lòng ưa chán lại thâm thiết hơn. Mỗi buổi sáng ông đều thức dậy sớm trì niệm, sự tu tập hàng ngày đều có định khóa. Đối với việc giới sát phóng sanh, ông tuân hành rất cẩn mật.

Mùa hạ năm 1927, ông mới chánh thức thọ Tam quy với Bảo Tịnh pháp sư. Đến năm Canh Ngọ, nhằm ngày vía Đức Địa Tạng ông thọ Ngũ giới. Sang tháng chín ông bị bệnh hạ lỵ thuốc thang điều trị mãi mà không công hiệu, liền quyết ý gác bỏ muôn duyên, ở riêng trong một gian tịnh thất chuyên tâm tinh tấn niệm Phật.

Đêm mười chín tháng ấy, trong khi tịnh niệm, ông bỗng thấy cảnh giới Cực Lạc mầu đẹp trang nghiêm, hiện ra tỏ rõ. Giây lâu thắng tướng mới ẩn, song ánh sáng vẫn còn rạng rỡ trước mắt.

Cách vài đêm sau lại trông thấy nữa. Lúc đó bịnh trở nặng, ông tự biết mình không qua khỏi. Các liên hữu cùng Chiếu Không cư sĩ đến viếng thăm, an ủi sách tấn. Ông nói:

– Mỗi ngày tôi đều cầu Quán Thế Âm Bồ Tát gia bị cho nghiệp chướng mau tiêu trừ, tịnh duyên sớm thành tựu!

Vài hôm sau, ông gọi hai con trai lại dặn dò hậu sự, dạy thỉnh các bạn đồng tu mỗi ngày đến trợ niệm. Lại bảo vợ rằng:

– Từ giờ phút này, tôi chỉ để tâm cầu Phật tiếp dẫn. Khi tôi sắp mãn phần, đừng cho dâu con lại gần, vì e chướng ngại đến sự vãng sanh!

Đêm trước khi lâm chung, hai cư sĩ Hà và Lý hướng dẫn đoàn liên hữu trợ niệm. Ông vẫn theo đại chúng thầm trì danh niệm Phật. Bảy giờ sáng hôm sau, Hà cư sĩ thấy sắc mặt ông hơi đổi khác, liền cảnh giác rằng:

– Thời khắc này rất khẩn yếu, anh phải nên gắng sức!

Đại chúng đều đứng vây quanh to tiếng niệm Phật, ông sẽ động môi thầm niệm theo. Độ mười lăm phút sau, thấy môi miệng chẳng còn khẽ động, một liên hữu khẽ dò thăm, thì ông đã tắt hơi.

Bấy giờ nhằm ngày hai mươi mốt tháng mười một, năm 1927. Ông hưởng dương được năm mươi lăm tuổi.

Lời bình:

Kinh nói: “Đức A Di Đà thường phóng ánh sáng đến khắp mười phương nhiếp lấy những chúng sanh niệm Phật!”. Cho nên nếu kẻ nào chí tâm thanh tịnh niệm hồng danh A Di Đà, do duyên cơ cảm sẽ thấy ánh sáng đó, và cũng nương theo quang minh ấy mà được thấy Phật hoặc cõi Tịnh Độ. Sự mục kích ánh sáng và cảnh Tây Phương của Diệp Cửu Thành, chứng tỏ cõi Cực Lạc có thật, không phải là lời thí dụ, hoặc cõi phương tiện giả lập để khuyến dẫn người tu.

Ở chỗ vắng không người,
Cũng như nơi đô hội.
Bình tĩnh niệm A Di,
Chăm nom Bồ Đề cội.
Nếu tà ý còn sanh,
Bởi Phật tâm còn rối.
Khéo điều khiển lòng mình,
Đường Tây Phương một lối.

Tống Lai

Cư sĩ Tống Lai, người đời nhà Thanh, quê ở Tô Châu. Đến tuổi hơn sáu mươi ông mới được nghe biết pháp môn Tịnh độ. Từ đó phát tâm niệm Phật mỗi ngày vài chục ngàn câu. Ông thường nói với bạn bè rằng:

– Việc đã qua dường như mộng, tôi chỉ còn nương Hồng Danh sáu chữ để giải quyết kiếp luân hồi này mà thôi!

Sau ông đến Kiều Giang ở trọ để dạy học. Chủ nhà lấy việc ông ăn chay niệm Phật làm rộn phiền, ngăn cấm mãi chẳng được, nên không cho ông ở, ông bèn dời đi nơi khác mở trường dạy học, thầy trò rất là tâm đắc.

Có lúc ông gọi môn đồ đến bảo:

– Quang cảnh ở phòng học này rất tốt. Giả sử thầy mãn phần tại nơi đây các con thấy có nên chăng?

Một hôm học sinh tề tựu đến, thấy thầy mình còn đang ngồi chắp tay niệm Phật, nên lui ra. Hồi lâu sau trở vào vẫn thấy ông còn ngồi im lặng, liền lại gần dò xem thì phát hiện ông đã qua đời.

Chúng bèn lục lạo xung quanh, dưới nghiên mực gần đó có dằn một mảnh giấy. Tất cả họp lại xem, thì thấy ghi lời dự báo ngày giờ vãng sanh, đã viết sẵn từ ba hôm trước. Trong trường có mùi hương lạ cách đêm hôm sau vẫn chưa tan. Lúc ấy nhằm năm Đạo Quang thứ mười lăm.

Đi đứng niệm Di Đà,
Nằm ngồi trì Lục Tự.
Thức cũng tưởng A Di,
Ngủ cũng ghi sáu chữ.
Nói cũng nhớ Nam Mô,
Nín cũng ôm Phật sự.
Cực Lạc muốn vãng sanh,
Cứ y hành như thử.

Ấn Quang đại sư có một đoạn khai thị vô cùng quan trọng như sau, chúng ta nên ghi nhớ:
“Đức Phật chỉ muốn chúng sanh siêu phàm nhập thánh, liễu sanh thoát tử. Nhưng căn cơ của chúng sanh chẳng đồng, tâm nguyện mỗi người khác nhau. Có chúng sanh cầu phước, cầu thọ, cầu tài, cầu con…, chỉ cần dùng tâm thành mà cầu, có cầu ắt ứng. Đó tuy là pháp thế gian, nhưng tiếp dẫn hạ căn, dần dần trồng thiện căn đều được mãn nguyện. Nếu luận theo bổn ý của Phật, thì Ngài chỉ muốn chúng sanh nhất tâm niệm Phật cầu sanh Tây Phương, nương nhờ từ lực của Phật lâm chung tiếp dẫn vãng sanh An Dưỡng. Khi được vãng sanh bèn thoát nỗi khổ luân hồi trong tam giới. Dần dần tiến tới đến khi thành Phật. Đó mới là thật nghĩa rốt ráo của sự niệm Phật”

Từ biệt mọi người, tọa hóa vãng sanh

Cư sĩ Lý Ngoa, biệt hiệu là Tế Hoa, người huyện Như Cao tỉnh Giang Tô; ông tốt nghiệp từ Trắc Hội Học Ðường (tức là trường dạy về ngành đo lường và vẽ bản đồ).

Năm 1911, ông được cử về làm việc ở Trắc Lượng Cục của Lục Quân, gia nhập Ðồng Minh Hội. Khi cách mạng lần thứ hai thất bại, ông bị tống giam; lúc sắp bị xử tử, ông được người cứu khỏi, sau đó phóng thích. Tuy vẫn phục vụ trong quân ngũ, nhưng ông ăn chay niệm Phật, dù gặp nhiều cảnh duyên thuận nghịch ngang trái vẫn chẳng hề gián đoạn.

Từ chiến dịch Bắc Phạt trở về, ông từng đảm nhiệm các chức vụ: Nghị Trưởng huyện nghị hội và Cục Trưởng các cục kiến thiết, tài chánh v.v…

Mùa Xuân năm 1933, ông quy y với Ấn Quang Đại Sư, được đặt pháp danh là Trí Thoát. Từ đấy, ông chuyên tu Tịnh Nghiệp, thời khóa sáng tối đều tụng một cuốn kinh A Di Ðà, niệm Phật cả vạn tiếng. Ông nghiên cứu sâu sắc các kinh điển Ðại Thừa, hạnh lẫn giải đều sâu, chuyên hoằng dương Tịnh Ðộ, khuyên người niệm Phật cầu sanh Tây Phương, trọn đời chẳng lười nhác.

Sau khi qua Ðài Loan, ông sáng lập Liên Hữu Niệm Phật Ðoàn ở Ðài Bắc, soạn cuốn Phổ Khuyến Tịnh Nghiệp Ðồng Nhân Phát Khởi Tổ Chức Trợ Niệm Vãng Sanh Ðoàn Văn để đề xướng việc trợ niệm.

Ngày hai mươi lăm tháng hai năm 1962, là ngày pháp hội định kỳ của Niệm Phật Ðoàn, ông lãnh chúng niệm Phật. Sau bữa ăn trưa, ông giảng đại ý kinh A Di Ðà. Lẽ ra buổi thuyết giảng hôm ấy là của vị sư đệ đồng tu, pháp hội lần kế mới đến lịch thuyết giảng của ông, nhưng ông đề nghị thay đổi đột xuất, người sư đệ này cũng rất hoan hỷ, vì rất kính trọng sư huynh của mình. Hôm ấy ông rất cao hứng thuyết giảng gần hai tiếng đồng hồ, đến 2 giờ 50 phút chiều là giảng xong, ông từ biệt đại chúng:

– Tôi sắp đi rồi, mọi người hãy chăm chỉ niệm Phật!

Rồi ông tọa hóa giữa tiếng niệm Phật của đại chúng. Ðúng ba giờ năm phút, tay ông kết ấn Di Ðà như đang nhập Thiền Ðịnh. Ngày hôm sau, nhập liệm, toàn thân ông mềm mại, vẻ mặt như còn sống, thọ bảy mươi chín tuổi. Ngày mồng bốn tháng ba làm lễ trà tỳ, thu được rất nhiều xá lợi.

Nhận định:

Ấn Quang Đại Sư nói:“Chịu giúp người tịnh niệm vãng sanh thì cũng sẽ được hưởng báo có người trợ niệm!”. Ông sáng lập Liên Hữu Niệm Phật Ðoàn, đề xướng trợ niệm nên được liên hữu đại chúng trợ niệm vãng sanh.

Ngôn giáo chẳng bằng thân giáo nên ông chọn đúng vào lúc pháp hội định kỳ để tọa hóa, ngõ hầu đại chúng cùng thấy cùng tin, gấp gáp bắt chước theo đồng sanh Tây Phương vậy!

Niệm A Di Đà Phật,
Nối liền không hở dứt.
Lục tặc hết đường sanh,
Tam bành không chỗ xuất.
Tan dần nẻo ngục môn,
Hiện rõ đường Lạc Quốc.
Sức mầu nhiệm vô cùng,
Khi được chơn công đức.

Tổ-Thầy dạy: Đối với phương pháp niệm Phật lẽ trước tiên là để chế trừ được vọng niệm của chúng sanh, vì trong tâm của mỗi chúng sanh thường có những vọng niệm sai lầm này, kế vọng niệm sai lầm khác cứ chuyền nối nhau chưa hề dứt. Bởi vậy mới đắm đuối các việc trần thế khiến cho cõi lòng chúng sanh thường thấy phiền não rối loạn, sợ sệt, lo buồn không được an lặng vui vẻ. Nếu mãi như thế thì cái tâm ấy càng mờ lu rối rít có bao giờ trở nên sáng sủa thấy biết đúng đắn được. Bây giờ chúng ta nên thành tâm niệm Phật thì mỗi khi khởi lên một tiếng niệm Phật thì diệt trừ được một tiếng niệm phàm phu, càng nhiều tiếng niệm Phật càng diệt được nhiều tiếng niệm phàm phu. Trái lại ngưng một tiếng niệm Phật thì sẽ khởi lên một tiếng niệm phàm phu; cái này lui, cái kia tới, cái kia tới, cái này lui; giữa cái niệm phàm với cái niệm Phật thường tranh đua nhau, nếu cái lực lượng niệm Phật mạnh thì thắng được lực lượng niệm phàm; còn như lực lượng niệm phàm mạnh thì thắng được lực lượng niệm Phật, nên mỗi người cần phải tăng gia lực lượng niệm Phật cho mạnh mẽ để lấn áp cái niệm phàm phu. Khi lấn được cái niệm phàm phu rồi, thì những việc ham muốn, các cảnh dục tình không còn nảy nở ra được.

Giặc nào bằng thứ giặc lòng,
Lúc nào cũng đánh chớ không lúc ngừng.
Phải lo dè dặt canh chừng,
Hớ hinh một tí địch quân nó vào.
Thói quen không thể trừ mau,
Đừng cho tật xấu nó vào ở lâu.
Trong tâm có Phật rán cầu,
Phật tâm thấy được đạo mầu chứng khai.
Chớ tu ỷ lại Phật ngoài,
Mà cần phải kiếm Như Lai trong lòng.
Nếu không tìm thấy Phật trong,
Phật ngoài cũng lại khó mong lại gần.

Nói một cách rõ hơn, mình niệm Phật là niệm cái bản lai thanh tịnh của Phật để nương theo bản lai thanh tịnh ấy, gương siêu mầu ấy để lòng mình trở nên thanh tịnh. Hễ lòng mình được thanh tịnh y như tâm thanh tịnh của Đức Phật, thì những điều trược nhiễm trần ai không còn. Nhưng trước khi đến mức hiền lương, thanh tịnh, mỗi người cần phải làm mười điều thiện đặng hộ trợ cho sự niệm ấy, vừa có công đức, vừa có phước lợi cho đời, khiến sự vãng sanh của mình mau đến chỗ thành tựu.

Đạo người nếu để mờ lu,
Thì là đạo Phật khó tu cho rồi.
Tu không phải với Trời với Phật,
Mà phải tu với vật với nhân.
Muốn tu thành Phật thành Thần,
Phải nên bố đức thi ân cho người.
Làm một việc một lời ân đức,
Hơn ngàn ngày kinh Phật tụng suông.
Thấy người khổ động lòng thương,
Đức cao hơn kẻ niệm suông Di Đà.
Phước do bố thí ra mà có,
Đức do lòng cứu độ mà sanh.
Ngôi Tiên quả Phật được thành,
Do điều bố thí do tình độ dân.

Sớm khuya rán ân cần tu niệm,
Thân tâm thường kiểm điểm tốt lành,
Quyết lo lánh trược tầm thanh,
Lòng không để các lợi danh làm cuồng.
Giải thoát ấy cội nguồn trên hết,
Từ bi là công việc thường xuyên;
Điều lành đem đặt trước tiên,
Việc cho người hoặc việc riêng cho mình.
Tâm trí cố giữ gìn tinh khiết,
Hành động lo thi thiết nhân từ;
Ngôn hành chân thật bất hư,
Nói như Phật bảo làm như Phật hành.
Hành đạo có nhọc nhành chẳng quản,
Tu thân dù cay đắng không nao;
Ngày đêm đạo niệm thân trau,
Trau cho thân chánh, trau sao đạo thành.
Nếu chưa thật trọn lành trọn sáng,
Sức công phu tinh tấn càng tăng;
Núi nhân ngã phá cho bằng,
Rừng vô minh đốn cho tan không còn,
Các vọng tưởng cho mòn cho giảm,
Các lỗi lầm cho trắng cho trơn,
Hết tà còn một điều chơn,
Không còn sợ các tánh trần chen vô.
Trong tâm não mơ hồ đã sạch,
Ngày đêm luôn minh bạch cõi lòng.
Có đời mà vẫn tâm không,
Như nhiên khỏi phải dụng công giữ gìn.
Chẳng còn sợ tâm sinh niệm quấy,
Cũng hết lo vật ngoại làm mê.
Tự do sống ở thác về,
Thân tuy cách Phật, tâm kề Đài sen.

Nói tóm lại, thể theo lời của Đức Phật và Tổ Thầy đã chỉ dạy, thì mỗi người của chúng ta muốn cầu sanh về cõi Tịnh Độ, đồng thời với sự niệm Phật cần phải đền xong nợ tứ ân, thật hành được thập thiện, vâng giữ pháp tam qui, gìn xong năm giới cấm, lại phát tâm Bồ đề cầu đạo giải thoát, chót hết là mở lòng thương xót mọi người để tìm phương cứu giúp họ ở phương diện này hay phương diện khác, khiến họ được sự lợi ích. Được như thế, sự niệm Phật của mình sớm muộn gì cũng được toại lòng nguyện ước, nghĩa là được vãng sanh về cõi Phật.

Muốn cho Phật Di Đà lai viếng,
Trong lòng đừng vắng tiếng Nam Mô.
Có thật mời thì kẻ mới vô,
Không thèm gọi ai mà bước đến.
Mong về Phật cõi phàm chớ mến,
Muốn nên Tiên tách bến hồng trần.
Phải quyết tâm chớ có ngại ngần,
Quang âm cứ xoay vần chẳng đợi.
Chúng sanh ở trong miền hạ giới,
Khá chọn đường đi tới Tây Phương.
Để phủi rồi hết cảnh oan ương,
Và cũng dứt xong đường sanh tử.
Nếu nghiệp ác không còn lo trữ,
Tất là không khỏi sự báo oan.
Vay thế gian phải trả thế gian,
Đi đường Phật thì sang cõi Phật.
Thế gian chịu khổ sầu chất ngất,
Cõi Phật thì khoái lạc vô biên.
Rán tu hành rán chưởng phước duyên,
Để sớm được trường miên bổn mạng.

CHƯƠNG BA LỢI ÍCH CỦA NIÊM PHẬT

“Chữ lục tự trì tâm bất viễn,
Thì lâm nguy có kẻ cứu mình”.

Lời Phật ghi lại trong kinh điển, cũng như bao lời chư Tổ – Thầy đã thiết tha khuyên dạy: mọi người hãy giữ chặt sáu chữ “Nam Mô A Di Đà Phật” trong lòng đừng để phút giây nào xao lảng, thì sau này dù gặp phải nạn ách đưa lại cũng được ơn trên hiện thân đến cứu giúp hoặc khiến người khác cứu giúp cho khỏi sự nguy hại, mà nỗi khổ sống chết sanh tử luân hồi là nạn ách lớn lao nguy hiểm nhất của mọi loài chúng sinh. Hai câu kệ này giống câu: “Nhứt cú Di Đà vô biệt niệm; Bất lao đàn chỉ đáo Tây Phương”. Chỉ tưởng một câu Di Đà chớ không tưởng điều gì khác, thì khỏi phải nhọc khảy móng tay là đã được vãng sanh về cõi Phật.

Tuy nói dễ song chẳng phải dễ, bởi sự niệm Phật mà được cầm chặt trong lòng, không lúc nào để quên, thì đâu phải là chuyện dễ làm. Vả lại, chúng sanh thường giao tiếp với mọi cảnh, thành thói quen nhớ, quen tưởng đến các cảnh ấy nhiều hơn nhớ Đức Phật, hễ lòng hơi xao lảng một chút là nó liền xen vô rồi. Nên nói giữ một niệm Phật không rời là điều khó lắm. Nếu như, lòng không xa rời tiếng niệm Phật thì chẳng nhọc khảy móng tay đã đến Tây Phương là lẽ cố nhiên.

Chỉ tưởng một câu Di Đà chớ không tưởng điều gì khác, thì khỏi phải nhọc khảy móng tay là đã được vãng sanh về cõi Phật. Lời này chẳng phải lời sai dối, vì chúng sanh khởi niệm một cái là đã, ngang thì bao trùm khắp mười phương không gian, dọc thì thông suốt ba đời quá khứ hiện tại vị lai, bởi nó vô hình vô ảnh, không vật nào ngăn cản được. Cho nên nó đi mau không có cái gì mau bằng. Cái niệm như thế thì việc đáo Tây Phương cũng như thế.

Hễ lòng khởi một niệm Phật là đã dứt được một niệm chúng sanh, càng khởi nhiều niệm Phật càng dứt được nhiều niệm chúng sanh, cho đến tâm cứ niệm Phật mãi thì các niệm chúng sanh đều dứt hết. Khi đó, trong tâm chỉ tồn một niệm Phật chớ chẳng còn một niệm chúng sanh nào xen vào nữa. Như thế gọi là tâm Phật. Được tâm Phật thì có vô lượng công đức, vô lượng quang, vô lượng thọ giống như Đức Phật.

Được công đức vô lượng là được có lòng từ bi rộng lớn không ngằn; được vô lượng quang là được sáng suốt gấp ngàn muôn lần của ánh sáng nhựt nguyệt và thông hiểu hết tất cả vạn vật không một điều nào che khuất được; được vô lượng thọ là tuổi sống không số lường nổi. Đó là ba đức lớn của Đức Phật A Di Đà.

Cũng vì tâm thuần niệm Phật tức là tâm Phật nên người niệm Phật thường được mười việc lợi ích:

– Lợi ích thứ nhứt, người niệm Phật thường được các vị đại lực Thần tướng ở các cõi Trời ngày đêm ẩn mình ủng hộ, khiến các loài quỉ mị, ác thần không xâm phạm được.

– Lợi ích thứ hai, người niệm Phật thường được Đức Quan Thế Âm và các vị Bồ Tát ở mười phương giúp đỡ, khiến tâm niệm ấy càng tinh tấn trừ xong được phiền não nơi lòng, được đến chỗ nhứt tâm bất loạn, thanh tịnh giải thoát.

– Lợi ích thứ ba, người niệm Phật tức niệm bản lai thanh tịnh của Đức Phật, nhứt là ý nguyện mong cầu vãng sanh về cõi Cực Lạc, nên thường được Đức Phật A Di Đà dùng hào quang soi chiếu vào thân và nhiếp độ cho ngày kia được vãng sanh.

– Lợi ích thứ tư, người niệm Phật nhờ sự gia hộ mầu nhiệm của Đức Phật và nhờ nơi lòng đã diệt xong những ác duyên (tức là những nhớ nghĩ lăng xăng), vì thế mà những loài quỉ mị dữ dằn chẳng hề nhiễu hại được, rắn độc cũng không va chạm được, cho đến thuốc độc cũng không làm hại tánh mạng.

– Lợi ích thứ năm, người niệm Phật thường được các vị đại lực thần tướng, Đức Quan Âm, các vị Bồ Tát và ánh từ quang của Đức Phật soi nhiếp mỗi ngày, dầu gặp phải nạn nước, lửa, đao binh cũng được qua khỏi, và không mang lấy những cái chết bất đắc kỳ tử hay tù đày.

– Lợi ích thứ sáu, người niệm Phật mặc dù trước kia đã tạo nhiều tội oan, nhiều ác báo, mà bây giờ đã quyết tâm cầu sanh về Tịnh Độ, nơi lòng luôn niệm Đức Phật, không vọng tưởng điều ác, thành thử những tội oan, những ác báo ấy, không nhân vào đâu mà đòi nài được. Đó chẳng khác nào đốt ngọn đèn trong hang tối ngàn muôn năm, thảy đều sáng tỏ trở lại hết.

– Lợi ích thứ bảy, người niệm Phật tâm thường nhớ tưởng Đức Phật, khao khát được vãng sanh về cõi Phật, vì thế các vọng tưởng ác độc xấu xa đã dứt, nên trong giấc ngủ không thấy điềm mộng dữ dằn, chỉ thấy những cảnh tốt lành quí báu chưa từng có, nhứt là có khi thấy Đức Phật hiện thân vàng chói, đến an ủi khuyến tấn.

– Lợi ích thứ tám, người niệm Phật được ảnh hưởng bản tâm từ bi của Đức Phật, hơn nữa được trừ diệt những ý tưởng xấu ác nơi lòng, mà mình tin rằng chẳng có việc ác nào trả lại, nên cõi lòng thường thấy vui vẻ và những việc làm lớn nhỏ trong lẽ đạo ở mỗi ngày thường được thành quả tốt đẹp.

– Lợi ích thứ chín, người niệm Phật tức tâm kia đã hết còn niệm phàm, nên thường được công đức, được quang minh, được ảnh hưởng oai lực của Đức Phật, khiến cho khắp cả nhơn dân xa gần đều đem lòng cung kính, và nếu người ấy ở trong phạm vi xuất gia hay độc thân cư sĩ, về phần vật chất sinh hoạt trong đời sống thường ngày có thiếu thốn, sẽ được mọi người cúng dường những món y thực cần thiết.

– Lợi ích thứ mười, người niệm Phật nhờ lúc bình thường vẫn chú tâm tưởng niệm đến danh hiệu của Đức Phật, nên được Đức Phật phóng hào quang nhuần gội, các vị Quan Âm Bồ Tát và chư vị Thần Tướng ở các cõi Trời thường ẩn thân ủng hộ, nên người ấy lúc lâm chung không bị những cảnh hung ác hiện đến hay loài ma quỉ hóa hình nhiễu hại, khiến lòng được an vui không sợ sệt, lại còn được bình tĩnh niệm Phật hoặc niệm ra tiếng hay niệm thầm trong tâm một cách rõ ràng. Như thế, mà tự họ được thấy Đức Phật và các vị Quan Âm, Thế Chí hiện thân đến, hoặc phóng hào quang tiếp dẫn cho vãng sanh về cõi Cực Lạc, ngồi trên tòa sen báu, hưởng quả bất thối.

*******

Nhờ niệm Phật hết bệnh ung thư

Sáng ngày 6 tháng 6 năm 2015 cô Diệu Thuần đã đưa chú Huệ Chiếu đến cùng niệm Phật với đại chúng. Không ngờ chú lại là một trong những người niệm Phật có thể vượt qua được nghiệp chướng chính mình. Thật sự là vô cùng tuyệt vời, rất đáng được tán thán! Chú đã đem lại niềm tin cho những đồng tu chúng ta trên bước đường niệm Phật cầu về Tịnh Độ.

Chú Huệ Chiếu, thế danh là Dương Ngọc Trước, 75 tuổi, nguyên quán Bà Rịa Vũng Tàu.

Trước đây chú là con nhà giàu có quyền thế, nên hồi trẻ chú đã sát sinh hại vật khá nhiều để phục vụ cho sở thích ăn uống của mình.

Thời thanh niên trai tráng chú đã tha hồ vung vãi tiền bạc để hưởng thụ các thú vui ngũ dục thế gian.

Đến tuổi thất thập cổ lai hy thì chú vướng phải căn bệnh nan y thời đại đó là Ung thư tiền liệt tuyến, di căn tới xương, phải dùng xạ trị. Đến giai đoạn này thì lẽ ra bệnh nhân phải sử dụng morphin để giảm đi sự đau đớn. Thế mà khi tiếp nhận pháp môn niệm Phật do hòa thượng Thích Trí Tịnh chỉ dạy nên chú quyết tâm làm theo.

Chú đầy đủ thiện căn nên đã buông bỏ muôn duyên để tinh chuyên niệm Phật, không dùng bất cứ thứ thuốc Đông Tây Nam Bắc nào, chỉ dùng thuốc A-già-đà cũng không cầu hết bệnh, một lòng một dạ cầu vãng sanh Tây Phương Cực Lạc thế giới mà thôi.

Ngài Ấn Quang Đại Sư từng dạy:

“Niệm Phật mới hòng tiêu túc nghiệp,
Chí thành sẽ tự chuyển phàm tâm”.

Câu Thánh hiệu “A Di Đà Phật” cũng chính là “Thậm thâm vi diệu thiền. Chú phát tâm trường chay, hằng ngày thường niệm Phật lạy Phật, sám hối tất cả nghiệp chướng trước kia mình đã từng tạo tác. Tâm chỉ một nguyện duy nhất là cầu sanh Tây Phương.

Chú bảo: “A Di Đà Phật tiếp dẫn lúc nào thì chú sẽ đi ngay lúc đó, không hề luyến tiếc cái thế gian này nữa. Làm người cũng đã khổ quá rồi. Làm thân súc sinh, ngạ quỷ… còn khổ bao nhiêu nữa đây? Rồi bao giờ mới thoát khỏi luân hồi. Chỉ có về Tây Phương mới vĩnh viễn lìa khổ được vui mà thôi”.

Chẳng hiểu thế nào mà chú càng niệm thì lại càng thấy hoan hỷ, càng lạy Phật thì thấy càng khỏe ra. Sau đó không bao lâu, đến khi vào bệnh viện Ung Bướu ở Sài Gòn để kiểm tra thì không còn tế bào ung thư nữa, không cần phải dùng thuốc, bác sĩ chỉ dặn là cách ba tháng thì tái khám định kỳ một lần. Thật là vô cùng mầu nhiệm!

Điểm quan trọng ở chỗ là chú niệm Phật, lạy Phật mà không cầu hết bệnh, mà chỉ cầu vãng sanh Tây Phương. Cái thân này chú không cần nữa, chỉ nguyện sanh về Cực Lạc.

Mấu chốt ở điểm này, nếu ta niệm Phật cầu hết bệnh, mà thọ mạng mình đã chấm dứt rồi thì mình cũng sẽ chết mà lại mất phần vãng sanh. Nếu ta niệm Phật cầu sanh Tây Phương, thọ mạng mình còn thì nghiệp tiêu, bệnh hết. Thọ mạng mình dứt thì được Phật A Di Đà phóng quang tiếp dẫn về Cực Lạc vĩnh viễn thoát ly sanh tử. Vì vậy, niệm Phật mình đừng cầu hết bệnh mà chỉ một lòng cầu vãng sanh thôi thì mới đúng pháp, mới tốt được!

Chú Huệ Chiếu là một tấm gương cho chúng ta về lòng tin vào câu Phật hiệu, niềm tin vào Phật lực không thể nghĩ bàn.

Ngưỡng mong ai nấy nghe xong câu chuyện này, tín tâm kiên cố, nguyện lực kiên cố, trong một đời này cố gắng nỗ lực tu học, khi mãn báo thân, đồng sanh Cực Lạc, đồng kiến Di Đà, đồng ngộ vô sanh, đồng thành Phật đạo!

Bị tai nạn giao thông nhờ tiếng niệm Phật được cấp cứu

Tục ngữ có câu: “Không có quỷ không làm cho chết người” thật là đúng. Những năm gần đây, tai nạn giao thông không ngừng xảy ra liên tiếp ở các nơi, có lẽ là cô hồn uổng tử các nơi quấy phá, mắt phàm của chúng ta không thể thấy. Tuy không thấy được, nhưng nếu như biết trì một câu Thánh hiệu vạn đức hồng danh A Di Đà Phật thì có thể khiến cho những ma quỷ đó bỏ đi ngay, lập tức được an nhiên vô sự.

Vị liên hữu Khưu Liên Châu hiện ở làng Nội Tân phía Nam ngoại thành Đài Trung, mọi người đều gọi bà là sư tỷ Ngọc. Trước kia, bà mở một tiệm chụp ảnh ở gần chợ Đệ Tam.

Một hôm bà ở ngã tư trước bưu điện, bị một chiếc xe hơi đụng ngã lăn trên đường, chiếc xe gây ra tai nạn bỏ chạy mất! Tội nghiệp sư tỷ máu ra đầy mặt, hơi thở thoi thóp không còn biết gì nữa, những người vây quanh nhìn nhau, không nhận biết người bị thương là ai. Ngay lúc đó có một anh lính trẻ đi đến, vội kêu lên: “Sư tỷ! Đây là sư tỷ ở tiệm chụp hình đây mà!”.

Lập tức anh cõng bà về tiệm chụp hình, các con bà vừa thấy liền hoảng kinh, thất sắc, cả nhà đều lớn tiếng niệm A Di Đà Phật và Quán Thế Âm Bồ Tát, anh lính trẻ kia cũng niệm Phật cùng với mọi người. Sau đó không bao lâu, đang trong cơn hôn mê bà bỗng nhiên cất tiếng nói rằng:

– Các người đông như thế muốn ta đi theo các người à, ta không đi! Các người lái xe hơi lại, muốn ép ta lên xe hả? Ta cũng không đi. Không đi là không đi! Ta là đệ tử của Tam Bảo, suốt ngày niệm A Di Đà Phật, chỉ muốn đi Tây Phương thôi, làm sao có thể tùy tiện đi theo các người được chứ? Nếu như Phật A Di Đà đến tiếp dẫn thì ta mới đi!

Nói đến đây ngừng một tí, rồi bà lại nói tiếp:

– Rất đông người như thế, muốn đến kéo ta đi, nghe tiếng niệm Phật của các con ta, đã chạy ra ngoài hết rồi, xe hơi cũng chạy luôn rồi!

Chẳng bao lâu bà tỉnh táo lại hẳn.

Lúc bà Lâm là bạn đồng tu thân thiết đến thăm thì bà kể lại việc thấy rất nhiều tà ma quỷ quái muốn ép bà lên xe cho bạn nghe. Bà Lâm bèn khen ngợi công sức niệm Phật của bà là rất tốt. Nếu như một người không có tin Phật hoặc không dụng công phu hành trì nhiều, thì thần thức không sáng suốt, thấy xe hơi có thể đi được, liền vui mừng đi theo họ ngay, há chẳng đáng sợ lắm ư?

Thì ra anh lính trẻ cõng bà về nhà là một liên hữu trong Ban Thanh Niên của Liên Xã, do nhiều năm nghe giảng kinh nên đã quen biết nhau, nếu bà không gặp được anh ta, đồng thời tự mình không giữ được chánh niệm rõ ràng, chắc chắn khó qua khỏi cơn ách nạn này rồi, và cũng rất khó phục hồi sức khỏe bình an như hiện tại!

Bắt trói loài vật để chơi bị quả báo

Thuở xưa, có người họ Lương, tên là Hồng Mãn ở xứ An Định, sanh trong gia đình lễ giáo, nên tuy còn nhỏ tuổi mà tánh tình hòa nhã, khoan hồng độ lượng, xử trí mọi việc đều vừa lòng cha mẹ và thầy bạn. Khi chàng được 15 tuổi, bỗng phát bệnh tê bại, co rút hai chân. Cha mẹ lo thuốc thang điều trị, rước đủ danh y mà kết quả chỉ tiền mất tật mang. Anh bèn phát tâm trì tụng kinh Quán Thế Âm Phổ Môn phẩm trọn ba năm trời, một lòng tinh tấn không giải đãi.

Một đêm nọ, anh vừa tụng kinh xong, bỗng thấy có một vị sa môn tay cầm bình bát, đứng lặng im trước mặt anh.

Anh thấy vậy, liền cúi đầu thi lễ hỏi rằng: “Bạch đại sư! Chẳng hay Ngài từ đâu tới và có việc chi cần, xin vui lòng khai thị cho đệ tử được biết?”.

Vị sa môn đáp rằng: “Vì ba năm nay ngươi có lòng thành kính, thường niệm danh hiệu ta, nên ta thân hành đến đây để chứng lòng thành của ngươi”.

Anh lắng tai nghe xong, cúi đầu đảnh lễ và hỏi rằng: “Bạch cùng đại sư! Nếu vậy Ngài quả là bậc phi phàm thị hiện đến đây mà cứu độ đệ tử. Song chẳng biết kiếp trước đệ tử có tạo ác nghiệp chi mà đời này phải chịu quả báo thế này, xin Ngài từ bi chỉ dạy để đệ tử hay mà tự sám hối”.

Vị sa môn dạy rằng: “Đời trước, ngươi hay bắt trói loài vật để chơi nên dư nghiệp ấy làm cho kiếp này ngươi phải mang bệnh như vậy. Nhưng nhờ ngươi ăn năn sám hối nên tội đã diệt, nay ta đến đây trị bệnh cho ngươi, vậy ngươi hãy nhắm mắt lại”.

Anh vâng lời, nhắm cả hai mắt thì cảm giác trên hai đầu gối đau nhức như có người nhổ cây đinh vài tấc ra vứt bỏ. Khi đầu gối bớt nhức, anh bèn mở mắt ra xem, định cúi đầu lạy tạ nhưng vị sa môn đã biến mất. Anh đứng dậy đi thử, thấy hai chân cứng cáp và đi đứng như thường nên rất đỗi mừng vui. Chừng ấy, chàng mới giác ngộ, biết vị sa môn ấy chính là đức Quán Thế Âm thị hiện đến ban vui cứu khổ cho mình

Hồng Mãn thấy sự linh ứng lại càng gắng chí tu trì, nguyện không cưới vợ và từ bỏ mọi thú vui riêng mình. Chàng sắm lễ, rồi lạy cha mẹ mà tỏ ý không muốn tạo lập gia đình như người ở thế.

Cha mẹ chàng nghe vậy cũng chẳng lấy làm vui song thấy con đã quyết tình, nên đành để con được như ý nguyện.

Từ ấy về sau, anh giữ phận tu tại gia, ngày chăm lo mọi việc, nuôi dưỡng cha mẹ già, đêm lại lo tụng kinh, công phu hành trì, hết lòng tinh tấn. Khi cha mẹ đã khuất, anh lên ở am Thông Thiền Quán, đối với Pháp môn thiền định có chỗ lãnh ngộ sâu sắc, nên mỗi khi tĩnh tọa, có thể trải qua trọn suốt ba ngày, hay năm bảy ngày, vẫn an nhiên bất động, không ăn uống chi mà khí sắc vẫn tươi tỉnh. Đến niên hiệu Khai Hoàng, nhà Tùy, anh đến xuất gia tại chùa Cứu Độ. Hưởng thọ 83 tuổi mới viên tịch.

Công đức của niệm danh hiệu Phật, danh hiệu Bồ Tát, hay trì chú, hoặc trì kinh… đều như nhau, đều bất khả tư nghì! Nhưng có người trì niệm thì linh nghiệm, có kẻ trì niệm siêng năng săn sái nhiều năm nhiều tháng mà chẳng cảm ứng chi hết. Tại vì sao lại có sự sai khác như thế? Tất cả đều tùy thuộc vào tâm của mình có chí thành cung kính hay không mà thôi! Đúng với câu: “Linh bất linh tại ngã” Nghĩa là linh nghiệm hay không linh nghiệm hoàn toàn tùy thuộc vào lòng thành kính của chính nơi ta. Chứ chư Phật, Bồ Tát, chư Long Thiên Thiện Thần từ bi bình đẳng chẳng hề thiên vị một ai!

*Phía trước ngọn núi xã Tây Hương, huyện Hựu Nguyên tỉnh An Huy có một gia đình cư ngụ, chủ nhân tên là Hồng Trạch. Mẫu thân của Hồng Trạch là Đặng Thị, bình nhật bà thờ Quan Âm Đại Sĩ trong nhà và thường lễ niệm rất thành kính. Đặng Thị lại phát nguyện mỗi năm tự pha chế một thứ thuốc gọi là Cứu Khổ Thần Cao để bố thí cho dân nghèo bị tật bệnh khắp mọi nơi.

Vào tháng sáu, niên hiệu Đạo Quang năm thứ 17, cháu họ của Hồng Trạch mới 6 tuổi mắc chứng bệnh đậu mùa, khắp người đều nổi đầy những nốt đậu đen bầm, mắt bên trái bị mù hẳn do tác hại của bệnh. Mẹ của đứa bé ấy nằm mộng thấy một bà lão bước vào nhà bảo rằng:

– Chứng bệnh đậu mùa này không phải thế nhơn có thể trị được, ngươi nên thành kính cầu nguyện lễ bái Đức Quán Âm Bồ Tát để xin Ngài cứu độ cho.

Mẹ đứa bé liền hỏi:

– Thưa cụ! Con phải đi đến nơi nào để cúng dường lễ bái Bồ Tát?

Bà lão đáp rằng:

– Đặng Thị là người có tâm chí thành, đã ba năm nay lễ bái Đức Quan Âm và đã được Đại Sĩ cảm ứng. Tại sao ngươi không đến nhà Đặng Thị xin thuốc Cứu Khổ Thần Cao?

Sáng sớm, mẹ của đứa trẻ liền đi đến nhà Hồng Trạch để lễ bái cầu nguyện. Trong khi đó, ở nhà có một thầy thuốc từ xa đến, tự xưng tên Hứa Nguyên và nói rằng mình có thể chữa được bệnh này. Ông ta dùng đèn lửa áp vào con mắt bị mù của đứa bé để trị bệnh, thì tròng mắt đứa bé đột nhiên bị lòi ra, dính tòn ten với các sợi gân và mạch máu.

Nhìn thấy vậy cả nhà đều kinh hãi, tên thầy thuốc hoảng kinh hồn vía bỏ trốn mất. Mẹ đứa bé khi về đến nhà nhìn thấy con mình như thế thì bay hồn bạt vía, tức tốc trở lại nhà Hồng Trạch, đến trước Thánh tượng Đại Sĩ chí thành lễ bái cầu khẩn.

Đêm ấy, mẹ đứa bé lại nằm mộng thấy bà lão hôm trước đến bảo:

– Ngươi phải trì niệm Tâm Kinh 2.000 biến, trong vòng hai ngày phải tụng cho đủ số.

Nhưng người mẹ này từ trước đến giờ chưa từng biết tụng kinh, nên bà Đặng Thị nghe nói bèn phát tâm tụng thế. Bà cụ tụng trong suốt hai ngày thì đủ số hai ngàn biến, lại dùng thuốc cao sẵn có của mình để dán vào đôi mắt mù của đứa trẻ. Tròng mắt phía bên trái của đứa bé dần dần thục vào, và mắt mù sáng trở lại như thường.

Ngày hôm sau, chứng bệnh đậu mùa của đứa bé cũng được hoàn toàn khỏi hẳn.

Ấn Quang Đại Sư dạy: Nếu người nào trong lúc bệnh khổ quá nguy kịch mà không thể nhẫn thọ được thì ngoài việc chuyên tâm niệm Phật, phát nguyện hồi hướng vãng sanh, nên chí thành khẩn thiết xưng niệm Nam Mô Quán Thế Âm Bồ Tát. Đức Quán Thế Âm hiện thân khắp vi trần sát độ trong mười phương, Ngài hằng tầm thinh cứu khổ, cứu nạn. Vì thế những ai trong lúc bị khổ nạn cấp bách, nếu chí thành trì niệm danh hiệu và lễ bái đều cảm ứng được Ngài thùy từ gia hộ.

* Sử Tuần là một người tài ba lỗi lạc, học vấn uyên thâm, đương thời không người sánh kịp, nhưng ông lại là người không tin Phật pháp và thường bài bác rằng: “Phật là người, không cần phải thờ.”

Về sau ông bị chứng bệnh hai chân tự nhiên bại liệt, ngồi mãi một chỗ không di chuyển được. Ông nhờ người tìm hết danh y này đến danh y khác, thậm chí còn thiết lễ cầu đảo quỷ thần để tìm phương thuốc chữa trị nhưng tất cả đều vô hiệu. Lúc bấy giờ, người bạn thân là Triệu Văn đến thăm, khuyên ông rằng:

– Đức Quán Âm Bồ Tát là đấng Đại từ Đại bi, thường tầm thinh cứu khổ. Nếu chúng sanh nào bị tai nạn, bệnh hoạn, mà chí thành cầu nguyện, xưng niệm danh hiệu Ngài đều được sự linh ứng.

Nay bệnh của anh đã chạy chữa đủ cách, cúng tế Thánh Thần rất nhiều cũng không có kết quả, vậy tại sao anh không phát tâm tạc tượng Đại Sĩ, lễ bái cúng dường để cầu cho bệnh khổ được tiêu trừ?

Sử Tuần vì bệnh quá ngặt nghèo nên y theo lời, sai rước thợ đúc tượng Quan Âm Bồ Tát. Khi pho tượng đã hoàn thành thì ông nằm mộng thấy Quán Âm Bồ Tát, tướng hảo trang nghiêm hiện trên hư không.

Lúc thức dậy, nghĩ lại những lời nói sai lầm và xấc xược xưa kia của mình thì cảm thấy vô cùng hối hận.

Từ ấy, ông hết lòng kính tin Phật pháp, mỗi ngày đều hết sức tinh tấn lễ bái, cúng dường pho tượng Đức Quan Âm đã đúc thờ trong nhà, và trì niệm danh hiệu Đại Sĩ không gián đoạn.

Một thời gian sau, chứng bệnh bại liệt không chữa trị gì cả mà tự nhiên hoàn toàn dứt hẳn.

*Triều nhà Đường, niên hiệu Lân Đức có người tên Hứa Nghiễm ở phường Vĩnh Hưng tại Kinh Đô làm nghề chài lưới để sinh sống. Về sau ông bị bệnh, suốt ngày nằm thiêm thiếp trên giường, thân đỏ hồng như lửa, đau đớn tưởng chừng như đang bị lửa than nung đốt, các danh y được mời đến thảy đều bó tay hết cách.

Ông thường bảo với thân nhân rằng những lúc như thế, ông thấy có chiếc xe lửa lăn trên mình thiêu đốt ông, lại thêm có vị minh quan nét mặt nghiêm khắc, lớn tiếng quở trách ông làm nghề đánh cá đã tạo ác nghiệp rất nặng nên ông phải chịu hiện báo đau đớn như vậy.

Căn bệnh của ông cứ như thế kéo dài ngày này qua ngày khác, chết đi sống lại không biết bao nhiêu lần. Bà con thân thích thấy vậy khuyên ông phải làm những công đức lớn mới hy vọng có thể chuyển nghiệp. Ông vâng lời, sau đó nhờ người tạc hai pho tượng Quán Thế Âm. Một cúng dường cho chùa, còn một tượng để tại nhà thờ cúng.

Khi tượng được tạc xong, ông chuyên tâm ngày đêm sám hối và trì niệm Thánh hiệu Quán Thế Âm, lại bảo vợ con trong nhà đều trường trai, niệm Phật, bệnh ông nhờ đó không bao lâu dần dần thuyên giảm và lành hẳn.

Từ ấy về sau ông bỏ nghề đánh cá và phát tâm tu hành rất tinh tiến.

* Có người tên là Mã Tử Vân sống vào đời Đường, thi đỗ Hiếu Liêm, được tiến cử làm chức Huyện Úy ở Kinh Ấp. Sau đó, ông áp tải tiền của, châu báu về kinh đô, trên đường đi gặp bão, tàu bị chìm nên ông bị bắt giam. Trong thời gian bị giam giữ, ông chuyên tâm niệm Phật. Năm năm sau, ông được trả tự do. Từ đó, ông giác ngộ trần gian là giả tạm, đầy dẫy những khổ đau, sanh già bệnh chết nối tiếp theo nhau như bốn mùa lưu chuyển. Vả lại thế sự vốn vô thường biến đổi nhiều tang thương dâu bể, vì vậy mà ông vào chùa Nam Lăng Sơn ở ẩn.

Một hôm, ông nói với mọi người: “Tôi một đời siêng năng niệm Phật, nay duyên lành ở Tây Phương đã chín muồi, nhất định vãng sinh về nước An Dưỡng”.

Sáng hôm sau, ông tắm gội sạch sẽ, mặc đồ mới, ngồi ngay thẳng chắp tay niệm Phật, có hương thơm lạ phảng phất khắp phòng. Ông mỉm cười và nói: “Phật đến rước tôi!”.

Nói vừa dứt lời, ông qua đời.

Ghi chú:

Thân bị giam cầm, tâm chuyên niệm Phật, cuối cùng được ân xá. Cũng giống như trong phẩm Phổ Môn của kinh Pháp Hoa ghi: “Người bị giam cầm, xiềng xích niệm danh hiệu Bồ Tát Quán Âm thì liền được thả ra”.

Hiện nay chúng ta bị năm món dục trói buộc, thế chẳng phải đang bị giam cầm đó sao?

Niệm Phật một tiếng diệt trừ được tội nặng sinh tử trong tám mươi ức kiếp, lẽ nào đó chẳng phải là bí quyết để thoát tội hay sao?

Người đắm đuối trong năm dục, không biết niệm Phật thì mãi mãi chịu tội không có thời hạn ân xá. Thật đáng thương xót!

*Triều nhà Tống, niên hiệu Nguyên Phong năm thứ hai, có quan Thị Lang tên Biên Tri Bạch. Ông là vị quan hết lòng vì nước, do phải xông pha nắng gió mà mắc chứng bệnh thương hàn nhập lý rất nặng. Tuy chạy chữa nhiều nơi nhưng bệnh không thuyên giảm.

Ông vốn là một Phật tử thuần thành nên phát tâm thành kính chuyên xưng niệm Thánh hiệu Quán Âm Đại sĩ rất dõng mãnh.

Một hôm, ông nằm mộng thấy một người mặc Bạch Y dùng nước rưới từ đầu đến chân của ông.

Khi thức dậy, ông thấy trong người thân thể nhẹ nhàng khỏe khoắn, tinh thần lại rất sảng khoái. Bấy giờ, ông tự biết rằng lòng thành kính của mình đã được cảm ứng với Đức Quan Âm, và Ngài đã cứu ông khỏi bệnh, nên từ đó ông phát nguyện sưu tập tất cả những sự tích linh nghiệm của Đức Quan Âm có từ xưa đến nay làm thành một bộ sách, đề mục là Quán Âm Cảm Ứng và cho lưu hành phổ biến trong nhân gian.

*Cuối triều nhà Minh ở tại Đàm Hưng, có người tên Nguyễn Ứng Kiệt là một Phật tử tại gia. Ông vốn là người rất tin tưởng và luôn thành kính lễ bái trì niệm danh hiệu đức Quán Thế Âm Bồ Tát.

Năm Nhâm Dần, niên hiệu Thiên Mệnh triều nhà Thanh, ông mắc phải chứng bệnh đàm ứ lên chận cổ, một giọt nước gần như cũng không thể uống được.

Trải qua bảy ngày, sức lực ông hoàn toàn suy kiệt. Vào nửa khuya đêm ấy, ông mê man, thấy thần thức mình đang khiêng một chiếc kiệu đi dọc theo bờ con sông lớn, bỗng nhiên trượt chân té xuống nước. Ngay lúc ấy các loài thủy tộc có vảy, có mai hiện đến trước mắt và xúm lại đòi mạng.

Lúc đó ông tự nghĩ: “Chắc là ta từ nhiều đời đã từng ăn thịt những loài này nên hôm nay mới lâm nạn như vậy”.

Trong lúc hốt hoảng, đột nhiên ông cảm thấy dường như có người nắm hai tay mình dắt lên bờ, ông ngước đầu lên xem thì thấy có một vầng thái dương đỏ thắm lơ lửng trên không trung, tựa bên chân núi Quán Âm Đại Sĩ đang ngồi trên đài sen, trang nghiêm lộng lẫy, lại có Thiện Tài, Long Nữ hai bên cùng với chim anh vũ và các đồ vật tịnh bình, nhành dương liễu,… như trong bức tranh mà hàng ngày ông thường lễ bái chiêm ngưỡng. Ông đưa tay sờ y phục của mình thì thấy vẫn khô ráo, liền đến trước Bồ Tát cúi đầu lễ tạ. Đại Sĩ bèn dạy:

– Con vốn là thiện tri thức chuyển thân, lại thêm thờ Ta chí thành cung kính nên Ta đến đây để cứu con, nhưng vì sát nghiệp của con quá lớn mới mắc phải chứng bệnh nan y này. Vì vậy nếu con hoàn toàn không sát sanh nữa thì bệnh của con sẽ được lành!

Ông bèn thưa:

– Kính bạch Đại Sĩ, đây cũng là bổn ý của đệ tử, đệ tử xin thành kính vâng lời răn dạy của Người!

Đại Sĩ lại bảo:

– Hiện Ta có thứ đề hồ này cho con uống!

Ông bước đến gần kính cẩn bưng chén đề hồ lên uống cạn. Chén đựng đề hồ ấy giống như pha lê, đề hồ có màu vàng và trong, mùi vị thanh tao không thơm gắt như ở thế gian. Uống xong, ông cúi đầu lễ tạ Đức Quan Âm thì liền thức giấc, trong miệng vẫn còn hương vị ngan ngát của đề hồ, toàn thân ông ướt đẫm mồ hôi, chỉ trong giây lát, bỗng cảm thấy thân thể mát mẻ nhẹ nhàng, nơi vùng tim ngực cảm nghe sảng khoái, cổ họng thông suốt. Người nhà mang nước cháo đến, khi dùng xong thì ông cảm thấy tinh thần minh mẫn, sức khỏe hồi phục lại như trước.

Từ ấy về sau, ông từ bỏ việc sát sanh, lại tự thân trước tác bộ Ký Linh Giới Sát Trung Ngôn (tức là dùng lời chân thật ghi chép sự linh ứng và lời răn dạy cấm sát sanh của Quán Thế Âm Bồ Tát).

*Triều nhà Nguyên ở tại Bình Giang, có vị sư Huệ Cang. Từ lâu thầy mắc phải chứng bệnh đau bao tử rất nặng, vô cùng nguy hiểm khiến thầy không thể ăn uống gì được.

Một đêm nọ, thầy nằm mộng thấy có một con mèo chui vào trong bụng mình. Từ ấy bệnh tình càng nặng hơn, lại thêm trong lòng bỗng nghe thèm ăn thịt cá vô cùng.

Giữa lúc tư tưởng loạn động như vậy, thì thầy chợt phản tỉnh, tự trách mình đã không giữ được chánh niệm, thầy biết ý nghĩ thèm ăn cá thịt là do nghiệp chướng từ nhiều đời mới khiến ra như thế, nên thầy liền phát tâm trì niệm Thánh hiệu đức Đại Bi Quán Thế Âm Bồ Tát một triệu biến, và mỗi ngày trì tụng chú đại bi 108 biến.

Chẳng bao lâu, thầy lại nằm mộng thấy mình đi vào trong núi gặp một vị tăng, tướng mạo vô cùng trang nghiêm khả kính, bảo với thầy rằng:

– Ta cho ngươi thứ thuốc này để trị chứng bệnh bao tử của ngươi!

Ngay lúc ấy bỗng có một đồng tử mặc áo xanh, tay xách một cái lồng, trong lồng ấy có con gà. Đồng tử đến trước mặt thầy, mở chiếc lồng ra, liền khi đó con mèo từ trong bụng của thầy nhảy ra khỏi miệng thầy và vồ lấy con gà đang ở trong lồng. Thầy bèn giật mình thức dậy thì mới biết đó chỉ là giấc mộng, nhưng thật lạ lùng, chứng bệnh bao tử của thầy từ đó dứt hẳn.

*Triều nhà Minh, tại Ngô Quận có Phật tử tên là Từ Minh Phu. Ông rất thâm tín Tam Bảo, nhất là đối với Quán Âm Đại Sĩ. Ông hàng ngày lễ bái, xưng niệm danh hiệu của Ngài rất là chí thành cung kính.

Ông có đứa con tên Quán mới lên 10 tuổi, ngày nọ đột nhiên mắc bệnh nguy ngặt, các danh y đều bó tay hết cách. Hai vợ chồng ông bèn đối trước tượng Đại Sĩ, ngày đêm chí thành khẩn thiết cầu đảo, trì niệm Quán Âm Bồ Tát.

Đến ngày thứ bảy thì xảy ra chuyện vô cùng lạ lùng. Vào đêm ấy, cả hai vợ chồng đều nằm mộng thấy Bồ Tát đến dạy: “Ngươi hãy yên tâm, đừng quá buồn rầu. Con của hai ngươi sáng ngày mai sẽ ngồi dậy được!”.

Khi đó, tự nhiên trên bàn thờ Phật có tiếng động mạnh, hai vợ chồng đồng giật mình thức giấc, ông đến trước bàn thờ Đại Sĩ thì thấy lư hương, chân đèn, bình hoa, dĩa trái cây đều bị rơi xuống đất nhưng không đồ vật nào bị hư bể. Ngay lúc ấy, bỗng nghe trong miệng đứa nhỏ có tiếng nói lâm râm: “Xin Bồ Tát cứu con! Xin Bồ Tát cứu con!”

Vợ chồng ông gọi nó, nhưng nó vẫn ngủ say, không đáp.

Đến sáng ông hỏi duyên cớ thì đứa trẻ cho biết:

– Tối qua trong lúc đang ngủ thì con thấy Quán Âm Đại Sĩ đến trước giường con và nói: “Con trai, Ta đến cứu con đây.” Nói rồi Bồ Tát cho con một chén nước bảo uống. Con vừa uống xong thì liền cảm thấy nhẹ nhàng khắp xương tủy, toàn thân toát mồ hôi, đầu óc vô cùng tỉnh táo.

Cả hai vợ chồng nghe con kể lại rất vui mừng, lại càng hết lòng tin tưởng vào thần lực của Đức Đại Sĩ, mấy ngày sau thì bệnh của đứa trẻ lành hẳn.

*Triều nhà Minh tại chùa Thiên Đồng có thầy Tăng Chiếu là người có rất nhiều bệnh. Vào niên hiệu Hồng Vũ, năm Bính Thìn, bệnh tình của thầy ngày càng trở nên nguy cấp nghiêm trọng. Vị thượng tọa trong chùa thấy vậy, khuyên thầy nên thành kính trì tụng danh hiệu Quán Thế Âm Bồ Tát sẽ được tiêu trừ tật bệnh.

Thầy vâng lời, mỗi ngày trì niệm danh hiệu của Đức Quan Thế Âm đến hàng vạn câu.

Qua năm ngày sau, lúc giữa trưa, thầy tự nghĩ: “Bệnh tình của mình chắc khó lòng qua khỏi, có lẽ không bao lâu sẽ chết, chi bằng ngưng trì niệm danh hiệu Đức Quan Thế Âm, mà đổi sang trì niệm danh hiệu Từ Phụ A Di Đà Phật để cầu vãng sanh thì chắc có kết quả tốt hơn”.

Khi thầy vừa dấy khởi niệm tưởng này lên thì liền thấy có một phụ nữ tuyệt đẹp, thân mặc Pháp y, tay cầm tịnh bình, từ ngoài cửa đi vào, đến trước mặt thầy.

Lúc ấy, thầy rất kinh ngạc, chẳng biết làm gì, sau khi thầy định tâm nhìn kỹ lại, biết đó là Bồ Tát Quán Thế Âm hiện thân.

Thầy quá sức cảm động, rơi nước mắt, liền quỳ xuống, thầy thành kính cầu xin sám hối thật bi thiết, chỉ trong chốc lát thì người phụ nữ ấy biến mất.

Trải qua năm ngày sau thì bệnh của thầy tự nhiên khỏi hẳn.

* Triều nhà Minh niên hiệu Sùng Trinh, năm Tân Tỵ, tại huyện Đương Đô, có một người từ tỉnh Sơn Đông đến, người này mắc bệnh bại liệt hai chân nên phải dùng hai tay thay chân lết đi xin ăn trong chợ. Bất hạnh cho ông, đa số người qua đường trông thấy ông là người nghèo khổ, tàn tật nên đều khinh khi, xa lánh, ít người giúp đỡ mà nhiều người lại còn buông lời nhục mạ, khiến ông rất khổ tâm không thể chịu nổi. Có người thấy vậy mách bảo cho ông biết:

– Ở Am Đường Kiều có một vị tăng, pháp danh là Thủy Cốc rất giàu lòng thương người. Tôi nghĩ là ông nên đến nơi đó mà tỏ bày hoàn cảnh và nỗi khổ nhục của mình, chắc chắn rằng thầy ấy sẽ có phương cách để cứu độ cho ông!

Nghe kể xong, ông liền y theo lời đề nghị. Khi đến nơi vừa gặp mặt thì thầy Thủy Cốc ôn tồn khuyên bảo rằng:

– Nếu con phát tâm xuất gia đồng thời nương nhờ sức đại từ đại bi của Phật gia hộ, thì nhờ đó có thể sẽ có người phát tâm bố thí, cung ứng tứ sự cần thiết trong sinh hoạt đời sống của con!

Ông bèn vâng lời, thỉnh thầy làm lễ tế độ cho mình và phát nguyện trường chay giới sát. Từ ấy về sau, ông nương nhờ nơi cửa Phật, ngày ngày đi khất thực dù bị người hạ nhục, hủy báng ông vẫn an nhẫn.

Thầy thấy thế rất thương xót nên dạy ông hàng ngày chuyên niệm Thánh hiệu của Quán Thế Âm và trì tụng chú Chuẩn Đề.

Ông thọ trì hơn hai năm thì, đêm nọ, ông nằm mộng thấy một bà lão đi đến bảo rằng:

– Ngươi hãy mau đứng lên!

Ông trả lời:

– Thưa cụ! Con bị bệnh bại liệt, làm sao đứng dậy được?

Lúc ấy ông thấy bà lão đến nắm kéo hai chân ông thẳng ra, thật lạ lùng là hai chân của mình không còn bị co quắp như trước nữa, đồng thời ông cũng giật mình tỉnh giấc.

Sáng sớm ngày hôm sau, khi bước xuống giường, ông kiểm tra đôi chân của mình thì thấy đôi chân mạnh hẳn lên, chứng bại liệt đã tiêu mất. Ông đi đứng đường hoàng mạnh mẽ, trong lòng vô cùng mừng vui sung sướng, niềm tín tâm đối với ân đức cứu độ của Đại Sĩ vô cùng sâu chắc, và tự đặt cho mình pháp hiệu là Bán Nhai.

Từ ấy trở đi, có nhiều thí chủ phát tâm đến cúng dường và ông tiếp tục con đường tu hành của mình đến ngày tạ thế.

*Ở Dương Châu có một người bị bệnh tê bại đã hơn vài chục năm. Một hôm, ông đang làm việc ở bên mé ao thì bỗng nhiên nhặt được một pho tượng Quán Thế Âm bằng sành. Ông vô cùng mừng rỡ bèn đem về kỳ rửa thật sạch, xông hương tinh khiết rồi mang đến am Đồng Ẩn gần đó để cúng dường.

Hàng ngày lúc ba bốn giờ sáng, thì ông đến am thành kính dóng chuông trước tượng Quan Âm và đốt hương, lễ bái.

Tu hành cần khổ như vậy trong suốt năm năm thì một hôm, ông nằm mộng thấy có một bà lão đến dùng tay xoa bóp toàn thân, đoạn gọi ông đứng dậy. Ông trả lời:

– Thưa bà! Con bị bệnh tê bại mấy chục năm nay rồi, làm sao mà đứng lên cho được!

Bà cụ bèn nói:

– Không sao! Hôm nay ngươi đi được rồi.

Ông giật mình thức giấc, khi bỏ chân xuống giường thử đứng lên ngồi xuống thì thật là linh nghiệm, hai chân ông đã mạnh và cứng cỏi, ông mang dép vào và đi tới đi lui như người thường.

Quá xúc động trước lòng từ bi vô lượng của Quan Âm Bồ Tát, ông liền đến am Đồng Ẩn xin xuất gia làm tăng.

Lúc bấy giờ có huyện lệnh Thái Phó ở Giang Tô, là người rất kính tin sự cứu khổ của Quán Âm Đại Sĩ, nghe chuyện của ông thành tâm cần khổ tu niệm mà cảm ứng được sự mầu nhiệm như vậy, nên đã phát tâm kiến tạo một ngôi tịnh thất rất trang nghiêm đề hiệu là Tồn Tế. Trong tịnh thất ấy, vị quan có cúng dường tượng Bồ Tát Quán Thế Âm.

Kể từ đó trở đi ông suốt đời tinh tấn tu hành.

*Triều nhà Minh, niên hiệu Sùng Trinh thứ 11, nhằm năm Mậu Dần, ở tại Dương Châu có một vị tăng hiệu là Thùy Kế. Từ lâu thầy đã bị chứng đau lưng rất nặng, ngày đêm bệnh tình hành hạ làm thầy rên la khổ sở, đến hơn một tháng sau thì bỏ luôn ăn uống, cơ hồ như sắp sửa mạng chung. Có một vị đồng tu từ xa đến thăm, thấy thế nói với thầy:

– Tôi nghe thường ngày thầy khuyên mọi người chuyên niệm danh hiệu Đức Quán Thế Âm, hôm nay chính thầy bị thọ nạn sao không nhất tâm quy mạng Đại Sĩ, để cầu xin đức đại từ đại bi của

Ngài cứu độ để thoát được chứng bệnh này!

Thầy nghe lời nói của người bạn đồng tu thì chợt giật mình tỉnh ngộ. Thầy lập tức nhờ người sắm sửa hương đăng, hoa quả để cúng dường và chuyên tâm trì niệm danh hiệu Quán Thế Âm Bồ Tát không dứt.

Đến lúc canh tư, đại chúng không nghe tiếng trì niệm của thầy nữa, ai cũng lấy làm lạ, liền sanh nghi, nghĩ rằng chắc thầy đã tắt hơi nên mở cửa phòng vào xem, thì thấy thầy đang ngủ ngon nên đồng trở ra để thầy yên giấc.

Đến chiều, bỗng mọi người nghe tiếng thầy gọi lớn:

– Tôi đói quá, xin mau làm cơm cho tôi ăn!

Mọi người đem cơm đến cho thầy dùng. Sau khi dùng xong, thầy bước xuống giường đi đứng bình thường và không còn đau đớn nữa. Đại chúng thấy vậy kinh ngạc hỏi thầy duyên cớ gì mà bệnh lại mau lành nhanh như vậy. Thầy thành thật kể lại:

– Lúc đầu khi tôi mới niệm Thánh hiệu Quán Thế Âm Bồ Tát thì thấy trong người đau nhức như bị dao cắt, một lúc sau thì thấy có một vầng mây đỏ hiện ra trong không trung và Quan Âm Bồ Tát đứng trên vầng mây đó, Ngài dùng nước cam lồ trong bình rưới trên đầu tôi. Trong giây lát, tôi cảm thấy mát mẻ từ đầu xuống tới chân, ngắm vào tận xương tủy, toàn thân ướt đẫm mồ hôi. Sau đó tôi ngủ thiếp đi, khi thức giấc thì thấy bụng đói cồn cào, bây giờ khi dùng cơm xong thì thấy trong người khỏe khoắn lạ lùng, cảm giác đau ở lưng đã không còn nữa!

Thật là sự nhiệm mầu không thể tưởng tượng được.

*Triều nhà Thanh có Phật tử tên là Như Lâm thường kể cho mọi người nghe về câu chuyện của thân phụ mình lúc bình sinh.

Nguyên cụ ông là một người nhân hậu tánh tình cương trực, thích làm các thiện sự và ưa bố thí. Hằng ngày, ông thường cúng dường, lễ bái trì niệm danh hiệu Quán Thế Âm rất kiền thành.
Đến khi hơn 40 tuổi thì bỗng mắc chứng bệnh xơ gan cổ trướng, bụng nổi gân xanh chằng chịt như có người dùng dây quấn quanh cái trống, nhìn thấy rất đáng sợ, người nhà thay thầy đổi thuốc lắm phen mà bệnh tình vẫn y nguyên không hề thuyên giảm.

Một ngày nọ, ông nằm mộng thấy có bà lão tay cầm một cây kim, đến bảo rằng:

– Bịnh nhà ngươi rất nặng, ngồi cũng khó khăn chứ đừng nói chi đi đứng, tuy nhiên hôm nay Ta sẽ giúp cho ngươi đi lại một cách dễ dàng!

Dứt lời thì bà lão dùng kim khều những sợi gân trong bụng ông ra, khều hết sợi này đến sợi khác, sau đó dùng kéo bén cắt tất cả các sợi gân ấy vứt bỏ đi. Ông lúc ấy sợ hãi kêu la rồi giật mình thức dậy. Người nhà chạy đến hỏi nguyên do thì ông bèn kể lại câu chuyện trong mộng, ai nấy đều kinh ngạc.

Đến sáng mọi người xúm vây quanh quan sát thì thấy bụng ông nhỏ lại như người bình thường, những sợi gân màu xanh nơi bụng quả nhiên không còn, chứng bệnh xơ gan cổ trướng lành hẳn, và cụ bắt đầu đi đứng, sinh hoạt, ăn uống bình thường trở lại.

*Triều nhà Thanh, Hà Thế Kiệt là người ở huyện Sơn Âm, tỉnh Chiết Giang. Vào tháng 9, niên hiệu Càn Long thứ mười ba, thì bỗng nhiên mắc chứng bệnh sâu cổ, đây là chứng bệnh do ăn phải độc chất từ loài độc trùng. Người ta chế thuốc độc này bằng cách nhốt chung các loại độc trùng như rắn, rít, bò cạp… để chúng tàn sát nhau, con nào còn sống sót thì đem giết chết, sau đó đốt tồn tính, rồi tán ra thành dạng bột. Chất bột cực độc này nếu bỏ vào đồ ăn, thức uống của người mà kẻ chủ mưu muốn hãm hại thì người ăn trúng độc nếu không chết ngay lập tức thì cũng mắc phải các chứng bệnh không thể chữa trị được.

Mẫu thân của Thế Kiệt là Điền Thị ngày đêm chí thành lễ bái ở trước tượng Quán Thế Âm Bồ Tát và xưng niệm danh hiệu của Ngài. Bà lại phát nguyện tụng kinh Quan Âm Cứu Khổ một nghìn biến, ấn tống 1.200 quyển kinh này. Trải qua sáu tháng sau, chứng bệnh sâu cổ của Thế Kiệt hoàn toàn hết hẳn.

* Lương Nữ người Phần Dương, đôi mắt mù từ thuở bé. Có một vị tăng bảo cô thành tâm niệm A Di Đà Phật thì sẽ tan nghiệp tiêu bệnh. Cô bèn y theo chuyên cần niệm Phật. Ba năm sau, hai mắt của cô đột nhiên sáng tỏ bình thường trở lại.

Từ đó lòng kính tin càng thêm sâu chắc, và khẩn thiết phát nguyện cầu vãng sanh Tây Phương, nên ngày đêm cô niệm Phật không xen hở.
Một hôm, bỗng nhiên cô trông thấy tràng phan bảo cái từ trên không trung giáng xuống, đồng thời Phật và Bồ Tát cũng đến tiếp dẫn, cô liền từ biệt thân quyến, chắp tay mà mất.

* Lòng thành cảm Quan Âm Đại Sĩ

Vào thời nhà Tống, Vương Bá Nương cư ngụ tại Minh Châu, mồ côi cha lẫn mẹ từ thuở bé, khi vừa mới có chồng, chẳng bao lâu thì chồng qua đời, lại phải lâm vào hoàn cảnh góa bụa, bèn trở về sống nhờ nơi nhà người cậu là ông Trần An Hành.

Mùa Hạ năm Thiệu Hưng thứ hai, cô bỗng nhiên mắc bệnh điếc và câm. Khi cô muốn việc chi, chỉ viết chữ trên giấy. Ông cậu bảo cô nên chí tâm quy y nơi Đức Quan Thế Âm Bồ Tát, cô vâng lời bèn sớm tối siêng năng thành kính lễ lạy và trì niệm.

Một hôm trong cơn mơ màng, cô chợt thấy Bồ Tát hiện thân dạy cho tu hành pháp môn mau tắt: “Mỗi ngày ngươi nên hướng về Tây Phương lễ niệm Đức Phật A Di Đà!”.

Bồ Tát lại truyền cho bài kệ rằng :

“Tịnh Độ châu sa giới,
Vân hà độc lễ Tây?
Đản năng hồi nhứt niệm.
Xúc xứ thị Bồ đề !”.

Bồ Tát lại căn dặn cô rằng nên truyền rộng bài kệ này ra, và khuyên mọi người trì tụng.

Sau đó chưa đầy một tháng, cô hết câm điếc mà thêm được niệm lực thuần thục, trí huệ khai phát, ứng đáp thông suốt trôi chảy vô cùng hy hữu phi thường.

Vì muốn người đời phát khởi tín tâm đối với Phật pháp, nên ông Trần An Hành bèn cho khắc in câu chuyện trên để tuyên truyền rộng ra cho mọi người cùng biết, ngõ hầu thực hành theo để được lợi ích.

*Triều nhà Thanh có Phật tử tên Đinh Triều là người rất tin tưởng Phật pháp. Ông thường kể cho mọi người nghe về chuyện bà nội của mình.

Bà nội của ông là Khổng Thái Quân, hai mắt bị mù đã 20 năm. Vào niên hiệu Càn Long nhà Thanh, lúc mùa xuân năm Nhâm Tý, mọi người trong nhà đang vui vẻ đón mừng năm mới thì bà lão rất buồn khổ, tâm trạng giống như là người bị nhốt trong ngục tối. Quá buồn tủi, bà nói với đứa cháu nội:

– Triều ơi, nội không thấy gì cả, sống mà như đã chết. Nội chỉ mong sao Trời Phật chỉ cho một con mắt của nội được sáng thôi để nhìn thấy mọi người xung quanh thì cũng được mãn nguyện trước khi chết rồi.

Triều nghe bà nói thì trong lòng rất xúc động, rưng rưng nước mắt thưa với bà rằng:

– Nội đừng quá bi quan! Con nghe rằng Thần Chú Đại Bi rất linh nghiệm, người nào bị bất cứ tai nạn bệnh khổ nào mà thành tâm trì tụng, chắc chắn mọi sự đều được như ý nguyện. Nhưng con nghĩ Thần chú này rất nhiều chữ nên con dạy nội cũng sẽ lâu thuộc, chi bằng nội hãy chuyên tâm thành kính trì niệm 7 chữ Thánh hiệu “Đại Bi Quán Thế Âm Bồ Tát” thì con chắc rằng mắt nội sẽ sáng lại!

Bà nghe cháu nội của mình nói xong thì sanh tâm tin tưởng, ngày đêm kiền thành trì niệm Thánh hiệu Đại Bi Quán Thế Âm Bồ Tát không gián đoạn. Chưa được một tháng thì đôi mắt của bà quả nhiên sáng lại như xưa, bà tự nhìn được những đường chỉ tay trên lòng bàn tay rất rõ ràng.

Một hôm, bà bảo tất cả con cháu trong nhà và gia nhân đến đứng dưới lầu, bà đứng trên lầu nhìn xuống nhận diện từng người một, rồi vô cùng hoan hỉ khi thấy rõ tất cả. Bà nói:

– Hai đứa cháu dâu về nhà này đã lâu mà già này chưa từng biết mặt, hôm nay luôn cả cháu chắt đều đủ mặt, ta có thể trông thấy rõ từng mảng tóc vá trên đầu của chúng. Sự việc này nếu không phải sức đại từ đại bi của Quan Âm Bồ Tát thì không ai có thể giúp cho ta được.

Sau đó, bà bảo Đinh Triều viết lại câu chuyện của bà và khắc bản lưu bố các nơi để giúp mọi người tăng thêm lòng tín ngưỡng với Đức Quan Âm Đại Sĩ.

Người mù được thấy

Vào đời Hậu Chu có Trương Nguyên, năm lên 16 tuổi thì ông nội bị mù mắt. Trong suốt 3 năm, Trương Nguyên ngày đêm lễ Phật, hồi hướng công đức cho nội.

Một hôm đọc kinh Dược Sư, thấy trong đó có nói đến việc “người mù được thấy”, liền y theo trong kinh dạy, thỉnh 7 vị tăng, thắp 7 ngọn đèn, trong 7 ngày 7 đêm liên tục tụng đọc kinh Dược Sư, vừa bái lạy vừa khóc, khấn nguyện rằng:

– “Lạy đấng Thiên Nhân Sư, Trương Nguyên này làm đứa cháu bất hiếu, khiến cho ông nội phải mù lòa. Nay nguyện mang ánh sáng đèn rộng thí khắp cõi pháp giới, nguyện cho chính con chịu mù lòa thay, để mắt ông nội được sáng.”

Tha thiết ân cần lễ bái khấn nguyện như vậy trải qua 7 ngày, đêm ấy nằm mộng thấy có một ông lão dùng kim vàng khơi vào tròng mắt cho ông nội mình, lại bảo Trương Nguyên: “Con đừng lo, sau 3 ngày mắt ông nội con sẽ sáng lại!”

Trương Nguyên trong mộng vui mừng phấn khích vô cùng. Lúc tỉnh giấc liền đem sự việc kể lại với mọi người trong nhà. Ba ngày sau, ông nội Trương Nguyên quả nhiên được sáng mắt.

Thầy thuốc giỏi ra tay trị bệnh, không ngoài việc tùy bệnh chứng mà cho thuốc. Người bị mù lòa, phần lớn đều là do đời trước phỉ báng Phật, phỉ báng Chánh pháp. Cho nên, muốn cứu độ người mù quáng không tin Phật pháp, ắt phải vì người ấy mà chỉ bày chánh kiến, chánh tín.

Kinh Đại tập dạy rằng: “Nếu có chúng sinh trong đời quá khứ hủy báng Chánh pháp, hoặc hủy báng bậc thánh nhân; hoặc gây chướng ngại khó khăn cho người thuyết giảng Chánh pháp; hoặc khi sao chép kinh văn lại cẩu thả hay cố tình làm mất mát câu chữ, sai lệch văn nghĩa; hoặc làm mất mát hư hỏng những sách vở ghi chép giáo pháp, hoặc cố tình che giấu những quyển kinh văn của người khác; do những nghiệp đã tạo như thế, trong đời này sẽ bị mù lòa.”

Ngoài ra, trong kinh Phó pháp tạng cũng nói rằng: “Nếu gây trở ngại cho việc xuất gia tu hành của người khác, ắt phải đọa vào các đường dữ. Chịu đựng xong tội nghiệp trong các đường dữ rồi, khi được sinh trở lại vào cõi người lại phải chịu kiếp mù lòa.”

*Tại Lâm Giang có Phật tử tên Đinh Triệu Hy thường đi buôn bán ở đất Thục. Mẫu thân của ông là Diệp Thị ở nhà bị liệt hai chân rất là đau khổ, chạy chữa mãi vẫn không hết. Ông ở xa nghe tin, dù tâm luôn hướng về thăm mẹ già ở quê nhà, nhưng không biết phải làm sao nên chỉ biết thành kính xưng niệm Thánh hiệu Quán Âm Đại sĩ cầu xin cho bệnh của mẹ mau lành.

Ít lâu sau, có người ở trong làng của ông đến đất Thục, ông hỏi thăm mới biết mẫu thân của mình nhờ sức từ bi của Đại Sĩ linh ứng hiển hiện trong điềm mộng nên bệnh được lành.

Theo người này kể lại, đúng vào ngày ông đang trì niệm Thánh hiệu Quan Âm thì mẹ ông ở nhà mộng thấy Đức Đại Sĩ đến dùng nước cam lộ rưới lên đôi chân bà. Sáng ngày tỉnh giấc thì bà cảm thấy đôi chân có cảm giác trở lại, sau đó bà đứng lên đi lại được như bình thường.

Thế mới biết nhờ tâm chí thành cầu khẩn của ông, dù đường xa vài nghìn dặm, có cảm liền có ứng nên mẹ ông được hết bệnh.

Qua năm Đinh Dậu, ông hồi hương nhằm ngày sinh nhật lục tuần của mẫu thân, ông tắm gội sạch sẽ, thực hành trai giới, thanh tịnh phát nguyện chí thành cung kính tụng kinh Phổ Môn 100 biến để cầu nguyện cho mẫu thân được khang kiện.

Quả nhiên, về sau mẫu thân của ông tuy lớn tuổi nhưng thân hình vẫn mạnh khỏe, tinh thần minh mẫn, hưởng thọ cao niên. Riêng ông thì việc làm ăn cũng phát đạt, mọi việc đều như ý.

*Vương Đạo Hạnh ở Giang Lăng, là người hay say sưa chè chén. Một hôm sau khi uống rượu say, trên đường về nhà, chân bên nọ đá bên kia, quơ tay giậm chân mồm kêu la lảm nhảm, rồi thì anh trợt chân té xuống vực núi cao, bị gãy lưng, may nhờ những người đi ngang qua giúp đưa về nhà. Gia đình đi tìm rước nhiều thầy thuốc giỏi đến điều trị nhưng không thuyên giảm chút nào.

Thấy tất cả lương y đều bó tay, anh bèn phát nguyện tụng phẩm Phổ Môn, trải qua một năm nhưng bệnh vẫn y nguyên, không nhút nhích cụt cựa chi hết, nên trong ý tự nghĩ là kinh không linh nghiệm nên không muốn tụng nữa. Đêm ấy, anh ta nằm mộng thấy một Thần nhơn đến quở trách:

– Nhà ngươi tụng kinh mà tâm hoàn toàn không chí thành, suy nghĩ vớ vẫn lung tung, chỉ y theo văn tự mà tụng cho lấy có, thế mà lại còn hờn trách kinh không linh nghiệm. Sao không tự xét lại bản tâm mình?

Giật mình thức dậy, anh vô cùng hối hận, từ ấy quyết tâm gột rửa tạp niệm trong tâm, kiền thành trì tụng.

Trải qua hai tháng, anh lại nằm mộng thấy vị Thần nhơn trước kia đến dùng tay vỗ vào lưng. Lúc giật mình tỉnh giấc thì thấy lưng đã thẳng, không còn đau nhức, có thể đứng lên đi lại và mạnh khỏe như trước.

Bấy giờ lòng tin của anh càng sâu dầy, trì tụng kinh càng tinh tấn, vợ của anh hơn 40 tuổi mà chưa có con, nay nhờ anh trì tụng kinh đã liên tiếp sanh hai đứa con trai trong hai năm.

*Trong Lời Tựa của bộ Nam Hải Từ Thuyền, Phật tử Tự Cảnh Hiền tự thuật lại như sau:

-Hiền này trước kia đã cho rằng trong Phật giáo thường nói tụng kinh được phước là điều không thật có, chỉ là do những người trong Phật giáo đặt điều mà nói. Sau đó tôi tỉnh ngộ và thấy mình hoàn toàn sai lầm khi nghĩ như vậy, nguyên nhân giúp tôi giác ngộ ra điều này là do câu chuyện thế này:

Tôi cưới vợ đã hơn 8 năm nhưng vẫn không có con, cha mẹ vợ bảo vợ tôi phát nguyện ấn tống kinh Quán Âm và trì lục trai thì sẽ thấy sự linh nghiệm.

Vợ tôi vâng lời thực hành theo lời chỉ bảo thì sau đó nằm mộng thấy điềm lành và có thai. Lúc sắp sanh thì lại mộng thấy một bà lão mang trao cho đứa bé bảo đặt tên là Tích.

Đến lúc sanh cháu bé vì thấy giấc mộng đã ứng nên vợ tôi đặt tên đứa bé là Tích. Mặc dù vậy, tôi vẫn mỉa mai chê cười không tin, cho là sự huyễn hoặc. Liên tiếp sau đó, trong nhà tôi, mỗi khi ai bị tật bệnh tai nạn, gia đình đều thành tâm cầu đảo Đức Quan Âm thì đều được ứng nghiệm rõ ràng, nhưng tôi vẫn ngoan cố, bán tín bán nghi, cho đó ngẫu nhiên trùng hợp, chứ không phải là có linh nghiệm thực sự.

Đến năm Giáp Tuất thì đứa con thứ hai bị bệnh thổ tả, cho uống thuốc vào thì ói ra, nhìn đứa bé tứ chi rủ rượi, nằm thiêm thiếp trên giường khó bề qua khỏi, mẫu thân tôi vì quá thương cháu ngày đêm khóc than, chính tôi cũng không cầm được nước mắt và không biết cầu cứu nơi đâu.

Lúc ấy tôi mới đến trước Quán Âm Đại Sĩ, chí thành cầu đảo, thành tâm sám hối lỗi lầm đã báng bổ lòng tin của những người tin tưởng Đức Đại Sĩ trước kia. Tôi lại phát thệ nguyện biên tập bộ Nam Hải Từ Thuyền để chừa bỏ lỗi xưa và thực hành tất cả các thiện sự. Vừa cầu nguyện xong thì chứng thổ tả của con tôi đột nhiên giảm sút, đứa trẻ bắt đầu đòi ăn.

Có điều lạ là vợ tôi trước đó vì quá buồn lo do bệnh của con, bỏ ăn vài ngày nên sữa đã tắt, thế mà sau khi tôi cầu nguyện và lập thệ xong thì tự nhiên sữa lại có trở lại thật nhiều.

Chứng kiến sự linh nghiệm rõ ràng này, Cảnh Hiền tôi tự hận mình vì phước đức thiển bạc, bị vô minh che lấp nên không có tín tâm với Phật pháp, lại còn dám cả gan bắt chước bọn cuồng huệ si mê, sanh tâm chê bai, bài xích việc tụng kinh cầu phước trong Phật pháp cho đó là điều hư dối. Tội lỗi ấy nói không kể xiết, nhưng than ôi! Sự việc đã rồi, có hối hận cũng chẳng làm sao được nên nguyện dùng chút tâm thành mà biên tập lại bộ Nam Hải Từ Thuyền này để khắp khuyến hóa mọi người, phát tâm hướng về đức Quán Âm Đại Sĩ để được nhiều phước lạc. Khi biên tập hoàn chỉnh thì nguyện khắc bản in thành tập, thành kính ghi lại duyên khởi nói trên để những vị xem bộ sách này được rõ mà vun bồi tín tâm.

*Phật tử Lưu Sơn Anh tự thuật về sự linh cảm của Đức Quan Thế Âm như sau: “Bản thân tôi vào mùa đông năm Nhâm Thìn may mắn được gặp bộ sách Liễu Phàm Tứ Huấn và truyện Du Công Tịnh Ý Ngộ Táo Thần Ký.

Sau khi đọc xong, lòng khởi niệm sự thâm tín về lý thiên đạo, phước thiện, họa hại của phóng túng ăn xài hoang phí, tức là sự may mắn cát tường, rủi ro, tai họa của đạo lý thiên nhiên hay còn gọi là Luật Nhơn Quả. Tôi nhận thức được rằng số mạng là do mình tự lập, phước đức cũng do mình cầu nên lòng tôi rất vui vẻ.

Đầu năm Quý Tỵ, tôi tự thảo sớ sám hối tội lỗi, lại mỗi ngày phát nguyện quì trước Phật đài, trì tụng kinh Phổ Môn, chú Chuẩn Đề… để cầu nguyện cho mẫu thân được tiêu bệnh sống lâu. Ngoài ra, với các thiện sự giúp người, lợi vật, tôi đều hoan hỉ phụng hành.

Mẫu thân tôi từ lâu mắc phải chứng đàm hỏa khí, đến năm nay lại bị tái phát liên miên và có chiều hướng nặng hơn trước.

Một hôm, mẫu thân gọi tôi đến bảo rằng:

– Mẹ mang chứng bệnh này đã 31 năm, trước kia bệnh không đến đỗi nhiều, mỗi khi phát bệnh liền lành, nhưng có một điều mẹ không hiểu vì sao từ lúc con phát nguyện lễ Phật, tụng kinh trì chú hồi hướng cho mẹ thì bệnh của mẹ càng thêm nặng, không lẽ già này bạc phước không thể thọ nhận được công đức ấy hay sao?

Vừa nghe qua mấy lời ấy, tôi đau đớn nghẹn ngào, hai dòng lệ tuôn rơi, quỳ dưới chân mẹ thưa rằng:

– Thưa mẹ, con nghĩ là lỗi ở con, vì tâm của con chưa đến mức chí thành, vọng tưởng chưa trừ diệt nên sự cầu nguyện chưa đạt kết quả.

Nói rồi, tôi liền từ giã mẹ đến trước bàn Phật đốt hương cúng dường lễ bái, nước mắt tuôn rơi lả chả, năm vóc sát đất, cầu Phật chứng giám, quyết thệ trừ vọng niệm và chí thành trì tụng danh hiệu Đức Quan Thế Âm cầu cho mẹ, được mau lành bệnh.

Bấy giờ mẫu thân tôi đã trải qua năm ngày không ăn uống thì hôm nay bỗng dưng đòi ăn cháo. Đêm ấy, tôi nằm mộng thấy Đại Sĩ vẫy tay bảo tôi đến bên Ngài rồi trao cho tôi một chén nước đậu xanh bảo đưa cho mẹ tôi uống.

Tôi giật mình thức dậy, vội đến thăm mẹ thì thật nhiệm mầu, bệnh tình mẹ tôi thuyên giảm một nửa. Độ hơn tuần lễ sau, thì hoàn toàn khỏi hẳn. Thế là căn bệnh kéo dài 31 năm nay của mẹ tôi đã dứt tuyệt, tôi thật vui mừng vô cùng, càng thâm tín hơn về lý cảm ứng và thần lực của Đại bi Quán Thế Âm Bồ Tát. Từ đó về sau mỗi khi tụng kinh niệm Phật, tôi đều tụng niệm bằng tất cả tâm chí thành tuyệt đối.

*Triều nhà Thanh có Phật tử Đặng Thừa Chiếu, người ở Phiên Ngung, tỉnh Quảng Châu, phát tâm quy y Tam bảo, thọ Ngũ giới từ lúc nhỏ.

Vào tháng năm năm Mậu Thân, niên hiệu Khang Hy, người chị dâu của ông là Huỳnh Thị, nơi cổ bỗng nhiên bị mọc mục nhọt độc, chữa trị mãi mà chẳng chút nào thuyên giảm, bệnh hành hạ khốn khổ không sao nói được.

Trải qua hơn một tuần lễ, ông gặp hòa thượng Hoàng Tân trên đường đi ngang qua nhà, ông vội vàng chạy ra xin Ngài dừng bước. Rồi ông bước đến lễ bái vấn an hoà thượng, đoạn đem bịnh trạng nguy ngập của chị dâu bạch lên hòa thượng, và xin Ngài chỉ dạy phương pháp cứu chữa. Sau khi nghe xong, hòa thượng từ bi khuyên dạy:

– Lão tăng này cũng chưa có cách gì để cứu chữa, nhưng ngươi nên biết Quán Âm Đại Sĩ oai thần bất khả tư nghì, Ngài thường đem pháp vô úy bố thí cho chúng sanh. Nếu ai thành kính tin tưởng nơi Ngài và hết lòng cầu khẩn xin cứu giúp thì chắc chắn sẽ được cảm ứng.

Dứt lời, hòa thượng đem phẩm Phổ Môn trong kinh Pháp Hoa trao cho ông. Ông mang kinh về để trên bàn, trước giường bệnh của người chị dâu và bảo chị tự tụng. Vì bệnh nhân không còn khả năng đứng lên được nữa, nên không thể đến trước bàn Phật, chỉ có thể ngồi trên giường bệnh mà tụng, tuy vậy bà tụng kinh rất thành tâm.

Vào lúc ban đêm khi bà tụng, thì những chữ trong kinh dường như lớn gấp bội, giúp bà có thể nhìn thấy dễ dàng.

Qua ngày kế tiếp thì bà thấy thân thể nhẹ nhàng, tinh thần tỉnh táo. Tiếp tục trì tụng đến ngày thứ ba thì vào lúc nửa đêm, mục nhọt trên cổ tự nhiên bể miệng, máu mủ lan tràn khắp cả người, sau đó bà cảm thấy toàn thân nhẹ nhàng, khỏe khoắn. Quá vui mừng, bà bật kêu lớn: “Bệnh của tôi đã khỏi rồi!”.

Mọi người kéo đến hỏi thăm, bà xin người nhà cho nước súc miệng thật sạch rồi đến trước tượng Đại Sĩ, chí thành lễ bái, cảm tạ ân đức từ bi vô lượng của Ngài.

Cả nhà chứng kiến sự nhiệm mầu này nên đều vui mừng khôn xiết, bà con láng giềng, cũng như tất cả những người xa gần nghe thấy việc ấy đều khen ngợi, và tán thán từ lực vô cùng mầu nhiệm của đức Quan Âm Đại sĩ.

*Quan Thị Ngự Châu Hòa Khanh ở tỉnh Sơn Đông, tuổi trên 40 mới có được hai đứa con trai. Cả hai đều thông minh đỉnh ngộ, tâm tánh lại hiền hậu không giống những trẻ con đồng trang lứa khác. Nhưng thật bất hạnh, một độ nọ, đột nhiên chúng đều cùng mắc chứng bệnh đậu mùa nguy hiểm, các thầy thuốc nổi tiếng được mời đến đều lắc đầu vô phương cứu chữa, bệnh tình càng ngày càng nặng, sắp sửa đến kỳ cáo chung.

Vợ chồng ông rất đau buồn, ngày đêm quên ăn bỏ ngủ, luôn ngước mặt lên trời khóc than bi thảm và quyết lòng chết theo hai đứa trẻ nếu như số mệnh của chúng không thể vượt qua.

Vào đêm nọ, cả hai vợ chồng ông đều nằm mộng thấy một vị sư bảo với hai ông bà rằng:

– Ta thấy nhà ngươi làm việc không phù hợp vì thế chẳng có kết quả nên đến đây khuyên bảo. Các ngươi không nghe người ta bảo con người có thể làm thay đổi thiên ý hay sao? Chỉ có cách làm phước thiện mới mong cải số, tuy nhiên muốn làm phước thiện, phải biết cách mới đạt được ý nguyện. Nếu các ngươi ấn tống 500 bổn phẩm Phổ Môn, thì hai đứa trẻ có thể hết bệnh!

Sáng hôm sau, hai ông bà thuật lại cho nhau nghe sự trùng hợp lạ lùng này. Rồi bèn y theo lời của vị sư đã dạy trong giấc mộng, bèn phát thệ nguyện gột rửa những điều xấu xa trong nội tâm và từ bỏ lỗi xưa. Cả hai đều gắng sức thực hành thiện sự, ấn tống phẩm Phổ Môn 500 quyển. Quả nhiên, bệnh tình của hai đứa con tự nhiên đều khỏi hẳn.

Từ đấy, hai ông bà đối với Phật pháp càng sanh lòng tin sâu chắc. Trong nhà thờ Quán Âm Đại Sĩ rất trang nghiêm, hàng ngày đều chí thành lễ bái cúng dường và tụng kinh Quán Âm thật tinh tấn. Sau đó, hai vợ chồng ông lại tiếp tục ấn tống kinh nhiều hơn để phổ biến khắp nơi. Hai đứa trẻ lớn lên đều mạnh khỏe và học hành tấn phát, về sau cả hai đều đậu cao và ra làm quan vinh hiển.

To tiếng niệm Phật đuổi được oan hồn

Chí tâm niệm câu Lục Tự Hồng Danh, cũng có thể hóa giải được oán cừu của người khác.

Câu chuyện này xảy ra vào tháng 4 năm 1957, ở khu trung tâm, có một chiếc xe tải lớn vì muốn tránh xe đạp mà tông thẳng vào ngay cửa rạp hát Đông Bình, làm ngã hai cây cột lớn ở hành lang gây ra tai họa tử thương sáu người, trong đó có một người chết liền tại hiện trường là một bà cụ hơn sáu mươi tuổi, bà ta mới từ Đài Bắc về đây mấy hôm trước, do vì cãi nhau với đứa con trai mà bỏ nhà ra đi đến nhà con gái. Cô này rất hiếu thuận với mẹ, khuyên bà không cần phải về, người con rể cũng rất vui vẻ mong muốn bà ở lại Đài Trung.

Ngày hôm đó khoảng 5 giờ chiều, bà cụ cõng đứa cháu gái nhỏ đi ra ngoài chơi, đến dưới hành lang rạp hát, tội nghiệp cho bà bị xe đụng vào đầu chết liền, may mà đứa cháu gái đang cõng trên lưng lại bình an vô sự.

Qua ngày sau, khi hỏa táng xong, lấy tro xương làm lễ thỉnh về nhà để thờ, mời được mấy vị đạo sĩ tới làm lễ siêu độ vong linh. Hôm đó đứa con trai của bà cũng từ Đài Bắc vội vã đến, tay trái cầm gậy, tay phải cầm phướng, đi theo các đạo sĩ khóc thút tha thút thít làm người con hiếu nam.

Trong lúc cử hành nghi lễ náo nhiệt, bỗng nhiên người con hiếu nam, gậy và phướng đang cầm trong tay, một chân còn bên trong cửa, một chân ngoài cửa đứng nghệch ra đó, không nhúc nhích gì được nữa, tròng mắt ngây ra hơi nhướng cao, trong miệng thở khò khè, gương mặt xám đen.

Lúc ấy, liên hữu Hà Trần Nguyệt Nga đang ngồi trên chiếc ghế nơi cửa nhà mình, tay cầm xâu chuỗi niệm Phật, đột nhiên nghe có tiếng la thất thanh, không biết xảy ra chuyện gì, vừa rồi tiếng chiêng trống hãy còn ngân vang, tại sao lập tức biến thành âm thanh hỗn loạn như thế.

Cô vì lòng hiếu kỳ xui khiến, trên tay vẫn cầm xâu chuỗi, trong miệng vẫn niệm danh hiệu Phật, bước qua nhà bên cạnh xem thử. Vừa nhìn thấy hình dáng của người con hiếu nam như thế, thì cô giựt mình hoảng sợ không tự chủ được, vội lớn tiếng la lên: “Nam mô A Di Đà Phật”, niệm Phật to tiếng như thế liên tục được khoảng hai phút, thì người con hiếu nam đang đứng ngây ra đó, nghe được tiếng niệm Phật, sắc đen trên mặt dần dần tan đi, tay chân cũng hoạt động trở lại, tròng mắt hết ngây dại, không bao lâu lại hồi phục như cũ, cây gậy trong tay trái, lá phướng bên tay phải lại tiếp tục phất phơ đi theo đạo sĩ bình an vô sự.

Cô sau này kể lại: “Nói thật tình… cho nhau nghe… lúc đó tôi to tiếng niệm Phật hết sức như thế là do quá sợ, không nén được mà niệm ra, chứ hoàn toàn không phải do vì cứu người mà niệm.

Nhưng mà nhờ thành tâm nên diễn tiến mang lại kết quả thật không thể nghĩ bàn!”

Sáng lại, người con hiếu nam đó trước khi mang bài vị và tro xương của mẹ thỉnh về Đài Bắc an táng, liền đến cảm tạ cô, anh ta nói: “Ngày hôm qua may mắn được sư tỷ niệm A Di Đà Phật, nếu không… thì chẳng thể tưởng tượng được! Tôi không ngờ niệm Phật lại có lợi ích lớn lao như thế”.

Nhân cơ hội đó cô liền khuyên anh ta: “Sau khi anh về nhà cần phải niệm Phật hàng ngày, thì có thể hóa giải oan kết với mẹ anh, anh cũng có thể tiêu tai giải nạn, tiền đồ rạng rỡ không lường”.

Anh nhận lời rồi cảm tạ ra về.

Qua ngày sau, cô đem cái việc đáng ghê sợ ấy kể cho bạn đồng tu là bà Lâm nghe từ đầu đến cuối. Rồi nói: “Tối hôm kia việc xong rồi, tôi vẫn còn sợ đến nỗi không dám vào nhà, ngồi một mình trên ghế ngoài cửa niệm Phật, niệm đến 11 giờ càng nghĩ càng thấy kỳ lạ, cho dù bị cảm dịch (lúc bấy giờ đang có đợt dịch cảm cúm) cũng không thể có cái lý chỉ hai phút mà khỏi được, không tránh khỏi phải mời bác sĩ chích thuốc, uống thuốc mới có thể bình an”.

Sư tỷ suy đoán có lẽ là mẹ của người con hiếu nam kia, do vì cái chết thê thảm bất ngờ, oan hồn không tan, ôm lòng hận con trai của bà đã gây gổ với bà, mới khiến bà đến Đài Trung gặp tai họa thảm khốc này. Thế là lúc dẫn vong, liền đi đến con trai để tính nợ, oan hồn nẹp cứng đầu cổ của con trai, làm cho anh ta gần như chết. Sư tỷ vừa thấy liền niệm to “Nam mô A Di Đà Phật”.

Ai ngờ oai lực của sáu chữ hồng danh vô cùng lớn lao, nhất là lúc đó sư tỷ quá sợ nên niệm Phật đến hết sức, cũng có thể nói là nhất tâm bất loạn, do đó mới có được hiệu quả thù thắng tuyệt diệu như thế, đồng thời hồn quỷ nghe được Thánh hiệu, tâm oán hận liền được tiêu trừ, cho nên mới buông tha anh ta ra.

Chúng ta thử nghĩ xem, nếu như khuyên người học Phật, niệm Phật, mọi người đều nói: “Không có tiền bố thí không dám học Phật”. Những hạng người này sao mà phước mỏng như thế? Bạn hãy xem sư tỷ Nguyệt Nga chỉ là niệm có mấy câu Phật hiệu, không có hóa ra được đồng xu nào mà làm ra được công đức bố thí lớn, cứu được mạng người còn hơn xây tháp bảy tầng.

Bệnh cũ mười năm, không thuốc mà tự khỏi

Lâm A Thuyên ban viên của Ban Bố Thí Tài Vật, cô có một người em gái ở gần cầu khu Đông, 20 năm trước sanh đứa con trai thứ hai, đặt tên là Kim Tinh.

Đứa bé này từ lúc lọt lòng mẹ đến 3 tuổi thân thể gầy còm yếu đuối hơn những trẻ bình thường khác, hầu như không có ngày nào không khám bác sĩ và uống thuốc, suốt ngày đêm mẹ em đều bế trong lòng. Một hôm vào buổi chiều bệnh của bé đã đến mức rất nghiêm trọng, chỉ còn chút hơi thở thoi thóp, mẹ của nó bỗng nhiên nhìn thấy ba, bốn tên ác quỷ cực kỳ hung hăng xông đến chòm hòm muốn giựt lấy đứa con mà cô đang bế trong lòng, nhưng cô bất kể thế nào cũng ôm chặt không chịu buông ra.

Trong khoảnh khắc sống chết muôn phần nguy hiểm đó, thì thấy từ trên hư không hiện xuống một người nữ, dung mạo trang nghiêm tay cầm phất trần, hướng về những quỷ thần hung ác ấy bèn nói: “Thằng nhỏ này phải sống trên dương thế, các ngươi không được bắt nó đi!”.

Nói xong vung phất trần lên phẩy một cái, những quỷ thần đó liền biến mất.

Người nữ trang nghiêm đó liền hướng về mẹ con của Kim Tinh nói: “Ngươi phải nên niệm Phật A Di Đà thì con của ngươi sẽ dễ nuôi”.

Từ đó về sau sức khỏe Kim Tinh được chuyển đổi từ ốm yếu thành mạnh mẽ, vui vẻ dễ nuôi.

A Thuyên kể cho bà Lâm nghe hết tự sự, rồi hỏi rằng: “Sư tỷ Khán Trị à! Sư tỷ xem, nếu không phải là Quán Thế Âm Bồ Tát đại từ đại bi cứu khổ cứu nạn hiện thân đến giải cứu, thì làm sao có được Kim Tinh ngày nay? Chắc đã chết non năm 3 tuổi rồi phải không?”.

Bà Lâm liền hỏi: “Quán Thế Âm Bồ Tát dạy cô ta phải niệm A Di Đà Phật, mà hiện tại cô ta có niệm hay không?”

A Thuyên đáp: “Em gái tôi vốn không hiểu được A Di Đà Phật và Quán Thế Âm Bồ Tát là gì? Do vì nó hỏi tôi việc này. Tôi liền nói cho nó nghe những điều hay tốt và ý nghĩa của việc niệm A Di Đà Phật, từ đó nó mới bắt đầu niệm Phật”.

Ngày tháng thoi đưa, thời gian như tên, mới nháy mắt mà Kim Tinh đã 17 tuổi rồi, và là một thanh niên hiền lành, siêng năng làm việc. Từ sự giới thiệu của Diệu Đường, anh gia nhập lớp bổ túc Quốc văn của liên xã ở Đài Trung, thành tích học hành được xếp hạng giỏi, và anh cũng tham gia bốn lần đại hội giảng diễn của thanh niên Phật giáo Tân Xuân, và tham gia hoằng pháp ở thành phố, đều do từ một tấm lòng thành mà ra, tài ăn nói lanh lợi, chẳng những tự thân được pháp hỷ sung mãn, anh lại còn tâm tâm niệm niệm muốn độ cho mẹ anh nữa.

Vào năm 1966 lúc bà Lâm Khán Trị đến giảng phẩm Quán Thế Âm Bồ Tát Phổ Môn ở cô nhi viện Từ Quang, thì cậu học sinh Kim Tinh mỗi lần như thế đều đạp xe chở mẹ đi nghe thuyết giảng và niệm Phật.

Theo lời Kim Tinh thì gia đình của cậu trước đây làm ruộng, mẹ cậu là một người đàn bà giỏi giang, cần cù và tiết kiệm, nên sanh con chưa đầy tháng đã ra ruộng làm việc; vì cực khổ quá mức như thế nên sau lần sanh cậu ta thì mắc chứng bệnh chân bị co giật, rất đau đớn, đi đứng không được tự nhiên; nhưng từ sau khi nghe giảng phẩm Phổ Môn, biết được sự linh cảm của việc niệm Thánh hiệu Quán Thế Âm Bồ Tát và việc Bồ Tát tầm thanh cứu khổ, bà liền thờ tượng Tây Phương Tam Thánh trong nhà, sớm tối thành kính lễ bái.

Có một đêm, khoảng 2 giờ khuya thức dậy, hai chân bị gân rút đau quá, đau đến độ toàn thân đều đau. Đang lúc đau không chịu nổi bà chỉ một mực to tiếng niệm Quán Thế Âm Bồ Tát, niệm mãi đến lúc trời sáng.

Sáng ra thì cái bệnh cũ hơn 10 năm, rốt cuộc không thuốc mà khỏi hẳn, từ đó về sau gân cốt đau nhức hết thảy đều tiêu sạch.

Nhành dương rải vào thân, cái đau ở nơi ngực đều tiêu

“Thiên xứ sở cầu thiên xứ ứng” (ngàn nơi cầu thì ứng hiện ngàn nơi). Đây là việc xảy ra trong tháng 5 năm 1951. Cô Trần A Quyên cư ngụ tại số 4 hẻm Tân Lịch, thôn Tứ Đức ở Vụ Phong, năm 38 tuổi, bộ ngực bên trái phát đau và xương sườn khắp người đau nhừ hết, đau đến độ nói không nổi.

Điều mà khiến cho cô lo rầu hơn hết, là nhà bên cạnh có cô gái hai năm trước đã chết vì mắc phải chứng bệnh sưng vú quái ác này!

Nhìn thấy một bầy con nheo nhóc, nếu như bệnh tình của mình mà không hết, về tương lai thật là không thể tưởng tượng được!

Mặc dù đã trị liệu trải qua rất nhiều vị thầy Đông Tây y nổi tiếng suốt năm tháng liền, nhưng không hiệu quả chi cả, trái lại càng ngày càng nặng. Về sau ngực bên trái sưng trướng lên hơn 3 tấc, ngay cả cánh tay trái cũng không còn nhúc nhích được, áo chỉ có thể mặc bên tay phải mà thôi!

Một hôm lúc cô đang đến nhà thầy thuốc, khi đi ngang qua đường Trung Chánh, bỗng nhiên gặp lại người bạn cũ tên là Trần Giang Đào, nước mắt tuôn dầm dề kể lể lê thê bao nỗi thống khổ của chứng bệnh quái ác mà mình đang đeo mang.

Giang Đào vừa nghe cũng thương và tội nghiệp cho cảnh ngộ của bạn mình, liền nói: “Chị A Quyên! Chị không nên khóc, khóc rất có hại cho sức khoẻ! Phật, Bồ Tát là bậc từ bi nhất, chi bằng chị theo tôi đến cơ sở Hoằng Pháp lạy Phật, cầu Quán Thế Âm Bồ Tát phò hộ cho, chỉ cần thành tâm sám hối, thành khẩn xưng niệm ‘Cứu khổ cứu nạn Quán Thế Âm Bồ Tát’ nhất định sẽ bình an hồi phục mạnh khỏe lại thôi”.

Cô đang cần người đến giúp đỡ, vừa nghĩ đến Đông Tây y đều bó tay hết cách, nên liền bằng lòng đi đến cơ sở Hoằng Pháp ở Vụ Phong.

Các vị liên hữu sau khi nghe cô nói rõ mục đích đến đây, ai cũng đều nói: “Cô phải cố gắng niệm Phật, niệm Quán Thế Âm Bồ Tát”. Đồng thời lại cầu nguyện nước đại bi thần chú cho cô uống, và tặng cho cô tượng Tây Phương Tam Thánh, dạy cô phương pháp lễ bái sám hối, và niệm Phật sớm tối.

Sau lần lễ bái này, về mặt tinh thần cô đã có được chỗ dựa rất lớn, không còn giống như hồi trước, suốt ngày âu sầu khóc than thảm não nữa, mà lúc nào cũng hết sức niệm Phật, và niệm Quán Thế Âm Bồ Tát, cô tự suy nghĩ nếu như bệnh tình có thể hết thì tốt, nếu như không hết, thì cũng nhất tâm nhất ý cầu sanh Tây Phương Cực Lạc thế giới.

Cứ thế trải qua mười mấy ngày, có một đêm nọ trong mộng, cô thấy Quán Thế Âm Bồ Tát dung mạo hết sức đoan nghiêm trong trang phục Bạch Y, tay phải cầm nhành dương, tay trái cầm tịnh bình, lấy nhành dương rải nước khắp trên mình cô, vừa tỉnh dậy cảm thấy thân thể nhẹ nhàng thoải mái, khắp người mát mẻ. Về sau trong một tuần, mỗi ngày có mấy lần thân thể bỗng nhiên mát mẻ như mới tắm ra, chứng bệnh đau vú càng ngày càng thuyên giảm rất nhanh, không đầy một tháng thì khỏi hẳn.

Cảm ứng của Phật, Bồ Tát thật là không thể nghĩ bàn.

Mấy tháng sau khi cô hết bệnh, cũng là lúc tai nạn cơn bão lụt ngày mùng 1 tháng 8 ập đến, ngôi nhà nhỏ trong làng nơi cô ở bị nước ngập cả mét, cô vẫn cứ thành tâm niệm Quán Thế Âm Bồ Tát cầu nguyện Ngài gia hộ, bỗng nhiên có người nói với cô rằng: “Ruộng dưa của chúng ta bị nước dâng lên cao quá, tất cả dưa đã chín sắp sửa thâu hoạch, nhứt định bị nước lớn cuốn mất hết rồi!”

Cô nghe nói bất giác khóc to lên, do vì mồ hôi nước mắt suốt nửa năm đổ vào ruộng dưa, nếu như bị nước cuốn đi thì tình hình kinh tế gia đình quá ư thắt ngặt! Cô mặc dầu lo rầu nhưng cũng không có cách gì, chỉ còn biết thắp hương bạch lên Đức Quán Thế Âm Bồ Tát cứu khổ cứu nạn cho nhà cửa không bị sập, dưa không bị cuốn trôi mà thôi.

Trải qua một ngày một đêm, khi nước dần rút hết, cô lo cho ruộng dưa của mình, nên mặt mày âu sầu ủ dột, vừa chạy vừa niệm Quán Thế Âm Bồ Tát, đến nơi thì xem thấy dưa đầy đất, chẳng những không bị trôi mất, mà còn không biết dưa từ đâu trôi đến chồng chất rất nhiều, lại còn có rất nhiều cây tạp trôi lại nữa! Bao vây quanh ruộng dưa lại, hai mẹ con của cô ra gánh những cây tạp về để làm củi, gánh suốt ngày còn chưa gánh hết.

Câu chuyện thật trên đây là vào ngày giảng kinh ở cơ sở Hoằng Pháp ngày 19 tháng 9 năm ngoái, cũng là ngày Quán Thế Âm Bồ Tát thành đạo, mấy trăm liên hữu tụ tập lại một nhà, cô cảm tạ sâu sắc lòng đại từ đại bi của Phật, Bồ Tát, tức thời đứng dậy hướng về đại chúng nói ra câu chuyện cảm ứng của chính cô ta. Cô ta khuyên mọi người nên niệm nhiều Thánh hiệu A Di Đà Phật và Quán Thế Âm Bồ Tát.

*Triều nhà Đường có thầy Đạo Hiển cư ngụ tại chùa Thánh Thiện.

Trong niên hiệu Khai Nguyên, thầy làm trụ trì chùa Đại Vân, tỉnh Giang Châu.

Bấy giờ có quan Thứ Sử họ Nguyên, phát nguyện muốn họa bảy bức tượng Bồ Tát Quán Thế Âm nên đem việc ấy nhờ thầy giúp dùm.

Nhận trách nhiệm này nên thầy bảo họa sĩ phải trì trai thanh khiết khi vẽ tượng. Lúc họa tượng phải dùng toàn nhủ đào hương thay thế cho a dao để làm vật liệu trộn vào các màu. Khi vẽ xong thì bảy bức họa này thật trang nghiêm và vô cùng đẹp đẽ.

Công việc đã hoàn mãn nên thầy đi đến Dự Ninh đốn gỗ để kiến tạo điện thờ Bồ Tát Văn Thù. Khi đốn gỗ xong chất lên bè chở về thì không may thầy bị té xuống sông, lúc bấy giờ vì nước chảy quá xiết nên nước cuốn thầy đi thật xa, đồng bạn không ai vớt thầy kịp.

Lúc vừa té xuống sông thì thầy liền xưng niệm Thánh hiệu Quán Thế Âm. Ngay lúc ấy bỗng nhiên thầy thấy dưới làn nước có ánh sáng lạ, thầy chuyên chú nhìn kỹ thì thấy bảy bức tượng Bồ Tát mà mình đã họa hiện ra phía trước, và đồng bảo với thầy rằng:

– Ngươi nên chí thành xưng niệm Nam Mô A Di Đà Phật thì tai nạn này liền được thoát khỏi!

Thầy liền làm y theo, lại nhờ có ánh sáng chiếu rọi nên biết mình đang ở dưới lòng sông, trong bụng vô cùng lo sợ tự nghĩ rằng khó mà tránh khỏi cái chết, nên càng nhất tâm xưng niệm Nam

Mô A Di Đà Phật. Thầy vừa niệm vài câu thì thấy bảy vị Bồ Tát đồng nâng chân thầy lên mặt nước, kỳ diệu là cả y áo và giầy dép vẫn không ướt chút nào.

Chỗ thầy bị nạn cách bè gỗ hơn 20 cây số, nhưng nhờ từ lực của Bồ Tát cứu mạng đã đưa thầy trở lại kịp với bè cây.

Về sau thầy viên tịch vào niên hiệu Thiên Bảo năm đầu. Hiện nay tại chùa Đại Vân ở Giang Châu vẫn còn thờ bảy bức tượng của Bồ Tát, ngoài ra còn có bức họa kể lại sự việc của thầy té xuống nước mà thoát chết, được lưu truyền khuyến hóa mọi người nhất tâm hướng về Quan Âm Đại Sĩ để được nhiều lợi lạc.

*Triều nhà Đường có Ngài Bất Không Tam Tạng pháp sư, vốn thuộc dòng Bà la môn, nước Thiên Trúc.

Một lần nọ, Ngài quá giang thuyền đến Nam Hải, đi giữa đường thì gặp cuồng phong nổi dậy, sóng nhồi rất lớn. Các thương nhân đều kinh sợ nên mỗi người đều theo tín ngưỡng của mình mà xưng niệm vị giáo chủ mà họ quy ngưỡng, nhiều vị còn tác pháp theo các tôn giáo riêng của họ đang tu, nhưng tất cả đều không hiệu nghiệm. Sóng gió mỗi lúc một dữ dội nên mọi người bèn quay sang pháp sư lễ bái cầu xin cứu độ. Pháp sư điềm tỉnh an ủi:

– Quý vị đừng lo, tôi hiện nay có một phương pháp có thể giúp chúng ta thoát nạn.
Dứt lời, pháp sư dùng tay mặt cầm bảo xử ngũ cổ bồ đề tâm, tay trái cầm quyển kinh Bát Nhã, Ngài tụng Thần chú Đại Bi của Đức Quán Thế Âm một biến, tức thì gió lặng sóng yên; Nhưng lúc ấy bỗng có một con cá kình to lớn từ dưới biển nổi lên mặt nước, phun ra những đợt sóng cao như núi, đập vào mạn thuyền. Tình hình lúc này còn nguy hiểm gấp vạn lần so với trước, các thương nhân chỉ còn biết phó thác sinh mạng vào pháp sư nên đồng nhất tâm hướng về pháp sư xin cứu nạn, pháp sư vẫn thực hành theo cách như trên, Ngài lại bảo vị thị giả đi theo là thầy Huệ Biện, tụng Kinh “Ta Yết Long Quảng”.
Tụng được một lúc thì mọi cơn sóng đều tan biến, tại nạn liền qua khỏi, cả đoàn thuyền nhờ đó đều được bình an vô sự.

* Triều nhà Minh có Lưu Cát Hiền là quan Tả Vệ Quân, thống lĩnh ngàn quân ở tỉnh Trực Lệ. Ông cùng với quan Thái Giám Trịnh Hòa đi sứ ở các nước ngoài.

Khi thuyền đang đi trên biển thì Lưu Cát Hiền trượt chân té xuống biển, bấy giờ nhằm lúc trương buồm theo hướng gió mạnh, nên thuyền chạy rất nhanh, quân sĩ không thể nào cứu được. Quan Thái Giám chỉ còn biết sai người leo lên cột buồm, để xem xét tình hình thì họ chỉ thấy phía sau ở đằng xa dáng một người lúc ẩn lúc hiện trong các đợt sóng, cách thuyền đang chạy rất xa. Ai ai cũng đều bảo với nhau rằng ông khó lòng sống sót. Nhưng chỉ trong chốc lát thì thấy ông đã đuổi theo kịp.

Quan Thái Giám cùng mọi người đều vui mừng khôn tả, lấy đồ tiếp cứu để đưa ông lên thuyền. Điều vô cùng lạ là thấy có một con cá lớn dài hơn mười mấy mét, thong thả bơi quanh mạn thuyền. Ai nấy xúm lại hỏi thăm thì ông bèn kể:

– Lúc tôi bị rớt xuống biển, nhờ có con cá này đỡ lên. Mấy lần bị chìm, đều nhờ cá nâng lên không cho chìm xuống, do vậy mà nước không vào miệng. Sau đó, con cá ông lại chở tôi đuổi theo chư vị.

Mọi người trên thuyền nghe nói đều kinh ngạc tán thán và hỏi ông:

– Bình sanh ngài tu tập thiện hạnh gì mà được quả báo tốt đẹp như vậy?

Ông đáp:

– Tôi chẳng tu được thiện hạnh gì cả, từ lúc chưa ra làm quan cho đến nay, hàng ngày tôi chỉ thành tâm lễ niệm Quán Âm Đại Sĩ và tụng kinh Phổ Môn mà thôi.

*Triều nhà Thanh có Phật tử Bành Nhứt Thừa, người ở Nam Hải Phật Sơn, tỉnh Quảng Châu. Ông phát tâm quy y thọ giới từ lúc nhỏ. Hàng ngày ông tụng kinh niệm Phật, phụng trì pháp lục trai mỗi tháng.

Niên hiệu Khang Hy nhà Thanh, vào tháng chạp năm Đinh Mùi, trên đường từ Quảng Châu về nhà, ông cùng với năm người bạn đi trên một chiếc thuyền.

Giữa đường thì gặp cuồng phong nổi lên, sóng biển dâng cao nên thuyền bị lật úp chìm. Năm người kia đều là những tay bơi giỏi nên bơi được vào bờ thoát chết, chỉ duy nhứt một mình ông bị kẹt trong lòng ghe lật úp, không thể nào thoát ra được. Trong tình thế nguy hiểm muôn phần này, ông nhất tâm thành kính niệm Thánh hiệu Quán Âm Đại Sĩ. Mặc dù bấy giờ, ông đã bị nước biển tràn vào miệng, uống đầy bụng nước, nhưng tâm ông vẫn giữ chắc Thánh hiệu Bồ Tát.

Lúc ấy, bỗng nhiên ông cảm thấy dường như có người nắm tay kéo lên mặt nước, chiếc thuyền tự động lật xuôi trở lại và trương buồm lên, ông được đặt vào trong thuyền. Chiếc thuyền theo hướng gió thuận chiều, tiến vào bờ an toàn. Sau khi lên bờ, mọi người đều xúm lại gạn hỏi ông rằng:

– Khi nãy chúng tôi trông thấy có người mặc áo trắng vác tấm buồm ngồi trên thuyền, trương buồm lên cho thuyền đi, sao bây giờ chỉ thấy có một mình ông, người ấy đâu rồi, sao không thấy?

Ông đáp:

– Không có người nào hết, chỉ có một mình tôi mà thôi. Chính trong lúc tôi sắp bị chết chìm thì cảm thấy hình như có ai đó đã kéo tôi, để vào trong thuyền, sau đó tôi hoàn toàn không biết vì sao thuyền có thể vào bờ được.

Mọi người vẫn hoài nghi, gạn hỏi ông hai, ba lần, nhưng ông đều đáp như vậy. Lúc ấy ông mới vỡ lẽ ra rằng, người mặc áo trắng cứu mình thoát nạn chính là Đại Sĩ hiện thân cứu độ.

Sau khi thoát nạn, ông đã tự ghi lại việc này và in thành sách để lưu truyền trong nhân gian.

*Triều nhà Thanh, niên hiệu Khang Hy năm thứ hai, có một ngư dân sống tại một miền duyên hải. Đêm nọ, anh cho ghe đánh cá đậu dưới chân ngọn núi nhỏ tên là Tiểu Côn Sơn.

Khi anh đang mơ màng ngủ thì nghe âm thanh của vị Sơn Thần bảo thuộc hạ rằng:

– Sáng ngày mai này sẽ có ghe muối đi ngang qua đây, tụi bây phải để ý và bắt họ lại!

Đến sáng, quả nhiên anh thấy có ghe muối trương buồm theo hướng gió chạy ngang qua núi ấy. Vừa lúc đó thì cuồng phong nổi lên làm cho sóng nhồi rất dữ dội, nhưng lạ thay chiếc ghe muối mấy lần sắp bị lật úp nhưng một hồi lâu vẫn bình yên. Cuối cùng, cuồng phong không đánh úp được chiếc thuyền và nó từ từ vào bờ một cách an toàn.

Đêm ấy, anh vẫn cho ghe mình đậu ở chỗ cũ, nửa khuya anh đang ngủ thì nghe Sơn thần lớn tiếng quở trách bọn thuộc hạ vì sao trái mệnh lệnh của ông, không đánh đắm chiếc thuyền chở muối, thì thuộc hạ liền đáp:

– Chúng tôi đã vâng theo lệnh của Ngài, nhưng lúc làm cho cuồng phong, sóng gió nổi lên, định bắt chiếc ghe muối thì thấy phía sau ghe có Quán Âm Đại Sĩ, nên chúng ta không dám đến gần.

Sáng dậy, người đánh cá bèn đi tìm ghe muối hôm trước để hỏi cho biết thực hư, thì người trong ghe muối cho biết là không ai đứng phía sau ghe ngoài người cầm lái.

Người cầm lái là một bà lão hơn sáu mươi tuổi, bà trì trai đã lâu năm và hàng ngày đều lễ bái phụng thờ Đức Quán Thế Âm Bồ Tát rất thành kính.

*Tại huyện Đông Đoài có một bà lão họ Phương tuổi đã ngoài 60. Một hôm, bà bồng đứa cháu xuống thuyền để qua sông thì trượt chân trên cầu té xuống nước. Nước sông lúc ấy chảy xiết nhưng điều lạ lùng là mọi người nhìn thấy bà lão bồng đứa cháu vẫn đứng trên mặt nước như đứng trên mặt đất, không bị chìm.

Mọi người đều vội vã cho ghe đến tiếp cứu. Khi đưa bà và cháu bé lên bờ, ai cũng ngạc nhiên, gạn hỏi nguyên do làm sao mà bà không bị chìm thì bà lão cho biết:

– Tôi vẫn không biết gì là tai nạn nguy hiểm đang xảy ra, chỉ vì lúc đó tôi đang mãi chuyên tâm trì niệm Thánh hiệu Đức Quán Âm.

Bà lão cũng cho biết trong lúc hàng ngày bà đều trì niệm Danh hiệu Đức Quan Âm, và thời gian trì niệm đã lâu năm nên đã trở nên thói quen thuần thục, do đó lúc bị nạn, bà tin chắc rằng bà đã được Bồ Tát thùy từ gia hộ.

*Triều nhà Tấn có người tên là Trúc Tường Thư, gốc ở xứ Thiên Trúc nhưng lập nghiệp sinh sống ở Ngô Trung đã lâu năm. Hàng ngày ông chuyên tâm trì tụng kinh Phổ Môn.

Một hôm, có nhà hàng xóm bị hỏa hoạn nên các nhà tiếp nhau đều bị cháy, ông lúc ấy nhất tâm trì niệm, cầu xin Quán Âm Đại Sĩ minh gia cứu độ. Túp lều tranh của ông ở ngay hướng gió, nhưng khi ngọn lửa sắp đến gần thì gió bỗng nhiên chuyển hướng nên nhà ông vẫn nguyên vẹn.

Vào thời đó, dân chúng toàn huyện nghe câu chuyện này đều lấy làm lạ và ngợi khen là việc chưa từng có. Trong số những người nghe chuyện, có một thiếu niên nghe mọi người tán thán về sự linh nghiệm của Quan Âm Đại Sĩ thì rất ghét, vì anh ta không tin Phật pháp.

Đêm đến, chờ đến lúc gió mạnh, anh ta bèn lén phóng lửa ném vào nóc nhà ông, nhưng khi củi chạm vào nóc nhà thì ngọn lửa tắt lịm, ném đến lần thứ tư, củi vẫn tắt, không cháy được. Lúc này vị thiếu niên kia vô cùng kinh ngạc và rất ân hận về việc làm đầy tội lỗi của mình, nên liền đến trước mặt ông cúi đầu nhận tội sám hối. Thiếu niên này bèn hỏi:

– Ông có thần lực chi mà cả bốn lần tôi cố ý đốt nhà ông, lửa đều bị dập tắt?

Ông thành thật đáp:

– Tôi không có thần lực gì cả, chỉ là do hàng ngày thành kính trì niệm Thánh hiệu của đức Quán Thế Âm mà thôi. Nhờ Bồ Tát từ bi gia hộ, chẳng những không bị tai nạn hỏa hoạn mà mỗi khi có những tai nạn cấp bách gì thì cũng đều được bình an, thoát khỏi.

*Triều đại Dao Tần, thầy Pháp Trí lúc chưa xuất gia, thầy đã từng một mình đến một khu đầm lớn. Thuở bấy giờ nhằm mùa khô nên người dân trong vùng đốt cỏ để trồng hoa màu. Khi thầy phát hiện thì thế lửa đã trở nên dữ dội, vì gió to nên bốn phía đều cháy mạnh, chẳng khác nào một trận cháy rừng.

Thầy lúc bấy giờ bị kẹt trong đám cháy, mạng sống trăm phần nguy ngập nên trong lúc thập tử nhất sinh ấy, thầy liền nhớ đến Đức Quan Âm Bồ Tát cứu khổ độ sanh bèn nhiếp tâm khẩn thiết trì niệm Thánh hiệu Đại Sĩ.

Một lúc sau, khi lửa tắt hết thì thầy nhìn thấy cây cỏ trong đầm đều bị thiêu rụi, chỉ có chỗ thầy ngồi là còn nguyên vẹn, không hề bị cháy.

Sau khi thoát khỏi tai nạn này, thầy liền phát tâm quy hướng Phật pháp, mặc dù còn tại gia nhưng vẫn luôn tinh tấn trì niệm danh hiệu Quan Âm Bồ Tát hàng ngày, không hề xao lãng.

Trải qua thời gian không bao lâu, chúa Giao Hưng sai thầy cầm quân đi dẹp loạn. Trong một trận tùng chinh, tự nhiên con ngựa của thầy chạy lạc vào vòng vây của quân địch. Trước tình trạng vô cùng nguy cấp này, thầy túng thế, vội ẩn mình trong một bụi gai bên dòng suối nhỏ. Tuy nhiên bụi gai này không rậm nên chỉ che được phần đầu và cổ của thầy mà thôi. Trong giờ phút ấy, thầy chỉ còn biết một lòng chí thành xưng niệm Thánh hiệu Quán Âm, xin Ngài cứu mạng.

Lúc đó, một số người nhìn thấy thầy núp trong bụi gai nên gọi quân giặc đến chỉ chỗ đó để bắt thầy. Tuy nhiên khi bọn họ kéo đến tìm kiếm thì không thấy thầy, tìm một hồi lâu không có kết quả, chúng bèn bỏ đi, nhờ vậy mà thầy thoát được tử nạn. Sau chuyến dẹp loạn ấy, thầy xin từ quan và xuất gia tu hành.

*Triều nhà Thanh, Phật tử Thái Ân Tương, phụng mệnh triều đình thực hiện việc giám sát các tuyến vận tải đường thủy tại cửa sông Hoàng Hà.

Ông đến Giang Tây, một thị trấn nằm bên bờ sông Hoàng Hà thuê một dãy nhà lớn của dân địa phương để làm công sở. Dãy nhà này không có vách ngăn, bốn phía để trống, nằm liền kề với nhà dân chúng.

Ngày 11 tháng 5, thị trấn Giang Tây bị hỏa hoạn, tất cả các gia đình đều lo cứu hỏa và dời đồ vật ra ngoài. Trong lúc đó ông vẫn ngồi yên bất động. Thuộc hạ thấy vậy rất sợ hãi, đã mấy lần đến thỉnh ông ra ngoài tránh nạn lửa, nhưng ông không nao núng và không rời khỏi chỗ ông ngồi. Ngọn lửa càng lúc càng dữ dội, lan sang các nơi bên cạnh và thiêu cháy các nóc nhà sát chỗ của ông. Tuy nhiên có điều rất lạ là khi lửa cháy đến nóc nhà của ông thì nhảy lướt qua và tiếp tục thiêu hủy mấy nóc nhà kế tiếp còn lại rồi mới tắt.

Dân chúng xung quanh thấy ly kỳ bèn xúm lại gạn hỏi:

– Ngài có pháp thuật chi mà được như vậy?

Ông đáp:

– Tôi hoàn toàn không có pháp thuật chi cả. Lúc lửa cháy dữ dội, chỉ kiền thành trì tụng chú Đại Bi của Quán Thế Âm Bồ Tát để cầu xin Ngài cứu độ cho qua nạn lửa mà thôi.

Có một người nghe xong bèn nói:

– Thần chú của Phật linh hiển là lẽ dĩ nhiên, chúng tôi không bao giờ dám phủ nhận, nhưng chúng tôi thấy rất nhiều người trì tụng mà trong muôn người, thì không có được mấy người cảm được sự linh ứng! Vậy mà Ngài dám cả gan ở trong biển lửa, ngồi yên bất động, đây chẳng phải là việc hy sinh thân mạng một cách oan uổng hay sao?

Ông nghe xong liền ôn hòa giải thích:

– Quý vị nói như vậy cũng đúng. Gia đình tôi từ xưa đến nay, qua nhiều đời đều chí thành trì tụng Thần chú ấy nên được thoát ly tất cả tai nạn đao binh thủy hỏa, v.v… những việc này không thể nào kể hết được. Chính bản thân tôi trì tụng chú Đại Bi đã hơn 20 năm, mỗi khi gặp cấp nạn thì chí thành khẩn thiết trì tụng liền được cảm ứng.

Trước đây, vào niên hiệu Càn Long năm thứ 29, vào lúc mùa xuân, lúc ấy tôi đang ở Kinh đô, nhà tôi nằm trên phía Nam hồ Đầm. Một ngày nọ, xóm nhà này phát hỏa, lại nhằm lúc gió nam thổi mạnh, ngọn lửa nương theo sức gió nên cháy lan dữ dội. Lúc đó, tôi biết mình không thể nào dời đồ đạc đi cho kịp nên nhất tâm thành kính trì chú Đại Bi. Chưa xong một biến thì gió đổi hướng, ngọn lửa chuyển sang hướng khác, nhờ đó mà nhà tôi còn nguyên vẹn.

Vì vậy, tôi tin chắc rằng Thần chú Đại Bi này có năng lực chuyển tất cả ách nạn. Nếu lòng tin không chân thật thì tôi đâu dám khinh thường sanh mạng của mình, dấn thân vào chỗ hiểm nguy như thế!

*Triều nhà Tấn có Đậu Truyền là người tỉnh Hà Nam. Vào niên hiệu Vĩnh Hòa, ông bị kẻ địch bắt cùng với bảy người bạn, cả tám người đều bị trói chung trong ngục, xiềng xích gông cùm rất nghiêm ngặt. Sa môn Thích Đạo Sơn vốn là người quen biết với ông, nên vừa nghe tin ông bị bắt thì đến thăm nhưng không vào trong được, chỉ đứng ngoài cửa nói chuyện. Ông thưa rằng:

– Hiện nay sanh mạng của con như ngàn cân treo sợi tóc, thầy có phương pháp gì cứu khổ cho con chăng?

Thầy Đạo Sơn nói:

– Tôi là phàm tăng, đâu có pháp gì cứu nạn được, tuy nhiên nếu đạo hữu thành tâm quy mạng Quán Thế Âm Bồ Tát, xưng niệm danh hiệu Ngài, thì Ngài sẽ tầm thinh cứu khổ, nhất định có cảm ứng!

Thời gian trước đó, ông cũng đã từng nghe nhiều người nói về việc tầm thinh cứu khổ của Đức Quán Thế Âm, nên bây giờ nghe thầy nhắc lại thì liền phát tâm thâm tín, chuyên lòng trì niệm ngày đêm không dứt.

Trải qua ba ngày ba đêm, ông cảm thấy gông cùm nơi thân bị nới lỏng như muốn rớt ra, dùng tay tháo thử thì xiềng xích tuột ra khỏi người. Ông lại tự nghĩ, những người bạn của mình đương bị xiềng xích gông cùm, nỡ nào một mình ta thoát thân, nên ông lại chí thành khẩn thiết cầu đảo Quán Thế Âm Bồ Tát Đại từ Đại bi, dùng thần lực phổ độ cho tất cả tù nhân đồng khỏi tai nạn.
Sau khi cầu nguyện, ông lại đi cứu những người khác, rồi thừa lúc đêm tối, mở cửa trốn thoát, lính canh không một người nào hay biết. Trèo thành đi được hơn 5 cây số thì trời sáng. Lúc ấy mới biết mình đang nơi chốn rừng sâu, nhưng trong chốc lát đã nhìn thấy quân lính bao vây tứ phía, chỗ ông đang ẩn nấp cách chỗ binh lính đang tìm không xa chi cho lắm, nhưng may mắn thay, binh lính không đến đó, nhờ vậy mà tất cả mọi người đều thoát nạn.

Các tù nhân sau khi thoát nạn về lại quê hương đều phát tâm tín kính Đức Đại từ Đại bi Quán Thế Âm Bồ Tát, người nào cũng tạc tượng Bồ Tát để hàng ngày chiêm bái, xưng niệm Thánh hiệu của Bồ Tát.

*Triều đại Lưu Tống có người tên Trương Hưng ở huyện Tân Hưng, tỉnh Quảng Đông. Người này có tâm tín kính Tam Bảo và đã nhiều lần theo hai vị Cao tăng là sa môn Tăng Dung và Đàm Duật thọ Bát Quan Trai giới.

Niên hiệu Nguyên Gia năm đầu, ông bị người vu khống là giặc cướp nên đã bỏ nhà trốn đi nơi khác. Ở nhà, vợ ông bị bắt tống vào ngục. Sau khi vợ ông bị bắt vào ngục thì vài ngày sau đó, nhà ngục bị hỏa hoạn nên phải chuyển các tù nhân ra vệ đường. Lúc ấy có hai vị sa môn đi ngang qua, vợ ông thoáng thấy bèn kêu lớn: “Hòa thượng, xin hai thầy cứu con!”

Tăng Dung nhìn thấy vợ ông bèn nói:

– Bần đạo không có năng lực gì có thể cứu tín nữ được. Tuy nhiên nếu tín nữ nghe lời tôi thì nên chí thành khẩn thiết niệm Thánh hiệu Quán Thế Âm Bồ Tát, chắc chắn sẽ qua khỏi tai nạn này!

Vợ ông vâng lời, ngày đêm chí thành cầu nguyện, xưng niệm Thánh hiệu Đại Sĩ. Trải qua 10 ngày, thì một đêm nọ bà nằm mộng thấy một vị sa môn dùng chân đạp mạnh vào chiếc gông trên thân mình bà, và nói rằng: “Đừng ngủ nữa, dậy mau đi vợ họ Trương”.

Bà giựt mình tỉnh giấc thì thấy gông cùm trên thân đều rời khỏi thân mình nhưng cửa ngục vẫn còn đóng khóa rất kỹ nên không thể đi ra được. Sợ lính canh biết nên bà lấy gông cùm mang vào mình và ngủ trở lại. Vừa nhắm mắt mơ màng thì thấy vị sa môn lúc nãy đến bảo: “Cửa đã mở rồi, hãy thoát ra ngoài đi”.

Bà giật mình choàng tỉnh bò ra, tất cả lính canh đều ngủ mê mệt không hay biết nên bà chậm rãi mở cửa trốn thoát. Trời tối mịt nên bà phải dò từng bước, đi được vài cây số thì bỗng vấp phải một người, té nhào xuống đất, thế rồi khi hỏi thăm nhau thì mới biết người này không ai xa lạ, mà chính là chồng bà. Hai người cùng nhau bỏ trốn đến chùa của sa môn Đàm Duật. Thầy bảo hai vợ chồng nán ở lại vài ngày rồi hãy về nhà, tất sẽ an ổn và khỏi hẳn tai nạn.

* Tại huyện Tu Văn, Quý Châu có một động bạch thủy chuyên sản xuất thủy ngân. Quan huyện vùng này xây cất nhà cửa cho dân chúng sinh sống để khai thác lấy thủy ngân. Số nhân công ước trên nghìn người, sống ở dưới chân núi trong khoảng vài trăm nóc nhà.

Cách khu vực họ ở không xa lắm là một con suối nước trong veo nhưng lại gần cạn. Một hôm nọ, có người phụ nữ tuyệt đẹp đến suối ấy tắm, nên dân chúng hiếu kỳ bỏ nhà kéo ra xem. Khi ra gần đến suối thì ngọn núi bỗng nhiên sập xuống, đè bẹp hết nhà cửa nhưng may mắn không có ai bị thương, người phụ nữ đang tắm trong suối lúc ấy bỗng nhiên cũng biến mất.

Dân làng bèn chuyển đến xây dựng làng mạc ở một khu vực khác. Hơn ba năm sau, một số người trong làng đến khu núi sập trước đây để tìm hái thuốc thì nghe trong đống đá có tiếng gọi cầu cứu, mọi người sợ hãi bỏ chạy thì nghe tiếng kêu lớn: “Tôi đây là Triệu Nhị ở trại Tây, năm xưa bị núi sập đá đè nhưng may mắn có một lỗ hở trống giữa đống đá nên thoát chết. Xin mọi người cứu tôi với! Cứu tôi với!”.

Mọi người nghe nói bèn đến nơi, moi đống đá ra thì cứu được nạn nhân. Đến chừng khỏi đống đá, Triệu Nhị kể lại: “Khi núi mới sập thì tôi hôn mê bất tỉnh, đến khi tỉnh lại thì thấy bốn phía đều là đá, chỉ có một chỗ trống đủ dung thân không cách gì ra khỏi được. Tôi bị đói khát, khổ sở chẳng thể tả xiết, lúc ấy tôi nhìn thấy bên cạnh có một con chuột trắng nằm nép bên cạnh thân tôi, chuột ấy có đôi mắt sáng lóa như điện chớp, chiếu soi trên vách đá nên tôi nhìn được trên đó có những hàng chữ. Đó là những chữ trong phẩm Phổ Môn của kinh Pháp Hoa mà tôi thường trì tụng ở nhà. Chuột ấy le lưỡi liếm vào chữ trên vách đá và nuốt vào bụng. Tôi lấy làm lạ, bắt chước làm theo nó, thì cảm thấy mỗi lần nuốt một chữ thì nghe trong người bớt đói khát. Từ đó về sau, mỗi lần liếm một chữ là trong bụng no đến mấy ngày. Trải qua thời gian ba năm đến nay, chữ liếm đã gần hết, chỉ còn vài hàng mà thôi, may gặp được các vị đi tìm thuốc nên tôi được cứu thoát”.

Triệu Nhị lúc chưa bị nạn là người thâm tín Phật pháp, thành thật và chất phác. Ngày ngày dù công việc có bận rộn cách mấy thì mỗi buổi sáng sau khi thức dậy cũng dành thời gian để lễ lạy Quán Âm Bồ Tát, thành kính đọc tụng phẩm Phổ Môn và thần chú trong kinh, trải qua hơn 10 năm không thiếu một ngày nào. Sau khi thoát nạn, Triệu Nhị trở về nhà, khi mở quyển kinh thường đọc tụng thì thấy quyển kinh đều mất hết chữ, trong đó chỉ còn lại vài hàng sau cùng giống y như những hàng chữ còn lại trên vách đá.

*Ở cửa phía Nam của huyện Tế Ninh, tỉnh Sơn Đông có một ngôi bảo điện. Bảo điện này trước kia do dân chúng tại địa phương xây cất lên để thờ phụng Quán Thế Âm Bồ Tát và Quan Thánh Đế Quân. Do lâu năm nên ngôi bảo điện bị hư sập. Lúc bấy giờ có một Phật tử tên là Trần Ích Tu thấy vậy bèn phát tâm trùng tu, đi quyên góp các nơi để sửa chữa ngôi bảo điện ấy.

Vì ngôi bảo điện nằm gần với đền Hồi giáo nên những người Hồi giáo cật lực ngăn cản không cho ông trùng tu bảo điện để trong vùng chỉ có đền Hồi giáo mà thôi. Ông không lùi bước, bèn đến quan thưa kiện bèn được quan địa phương hứa khả và ngăn cấm những người Hồi giáo không được gây trở ngại.

Vào mùa xuân năm Quý Mùi, có Lưu Khấu nổi loạn vây hãm thành. Bọn người Hồi giáo Vương Sanh Hoa nhân dịp này muốn trả thù cá nhân bèn canh lúc ông đang đi trên đường thì dùng gậy gộc đánh chết. Chúng lại nhẫn tâm móc mắt ông rồi đem tử thi quăng vào nhà. Thần thức ông vừa rời khỏi thân thì thấy Đức Quan Thánh Đế Quân an ủi rằng: “Ngươi an tâm. Ta sẽ bái thỉnh Quán Âm Bồ Tát đến đây cứu sống nhà ngươi và cho ngươi lại đôi mắt.”

Quan Đế vừa dứt lời thì ông nhìn thấy một vị Thiên Nữ mặc bạch y, tướng mạo vô cùng đoan nghiêm, tự tay trao cho ông hai tròng mắt dê bảo nuốt, lại rót từ trong bình ra chén nước cam lồ bảo uống, ông vâng lời, sau khi uống xong thì sống lại.

Người nhà nghe thấy ông sống lại thì vội vàng mang đèn đến xem, thấy hai mắt ông cũng đã sáng trở lại. Trời vừa rạng sáng thì dân chúng trong vùng đều kéo đến nhà thăm hỏi. Nghe ông thuật lại việc bị nạn và Quán Âm Đại Sĩ cứu khổ thì trăm người như một đều cảm động rơi nước mắt và đồng thinh xưng niệm “Nam mô cứu khổ cứu nạn Quán Thế Âm Bồ Tát”, đoạn đem sự việc trên tuyên truyền ra khắp nơi. Bọn người Hồi giáo nghe tin thì vô cùng sợ hãi và sanh lòng hối hận.

Năm sau nhằm năm Kỷ Dậu, hai anh em ông cùng với các bạn đồng học là Vương Đạo Đồng, Vương Hoàng đi thi. Qua năm Bính Tuất thì ông đậu Tiến sĩ được bổ nhiệm làm Quan huyện ở Quý Trì, sau đó thăng chức Hộ Bộ Lang Trung nội triều. Cũng trong năm này thì Vương Sanh Hoa bị Lưu Khấu giết chết, bị móc mắt, mổ tim trăm phần thê thảm hơn lúc y ta giết ông thuở trước.

*Triều nhà Thanh có Phật tử là Mạch Truyền Thành, người ở xã Thuận Ấp. Thành phát tâm quy y thọ giới từ lúc nhỏ, hành lục trai mỗi tháng. Vào niên hiệu Khang Hy, ngày mùng 2 tháng 8 năm Giáp Thìn, anh bị cướp bắt đem về sào huyệt. Chúng dùng ba sợi dây xích, xiềng vào cổ và hai ống chân rồi giam anh trong một gian nhà trống.

Từ lúc bị nạn, thì anh ngày đêm luôn chí thành thầm niệm hồng danh của Quán Âm Đại Sĩ không một phút xao lãng. Trải qua bốn ngày đêm, bọn cướp mới đem cơm đến cho anh, bẻ cành cây để làm đũa, sau đó khóa cửa bỏ đi. Mỗi ngày chúng đến mở cửa thăm chừng.

Một ngày nọ chúng mất chìa khóa nên chỉ đứng ngoài cửa nhìn xuyên qua lỗ cửa để xem chừng mà thôi. Hôm ấy anh lấy chiếc đũa tre chọc thử vào dây xích ở nơi chân thì bỗng nhiên cả hai dây xích đều rớt khỏi thân, chỉ còn một dây xiềng nơi cổ thì không lay động.

Anh biết rằng đây là do thần lực của Đại Sĩ từ bi cứu nạn nên càng khẩn thiết cầu đảo, hai hôm sau lại dùng chiếc đũa tre chọc thử thì dây xích trên cổ bỗng rớt xuống, muốn chạy trốn nhưng trong tâm lại phân vân, bấy giờ anh lại nhất tâm cầu nguyện: “Nam mô Thập phương thường trụ Tam Bảo. Nam mô đại từ đại bi cứu khổ cứu nạn Quán Thế Âm Bồ Tát. Con đã được Bồ Tát từ bi gia hộ cho xiềng xích đều rớt. Giờ phút này con muốn trốn đi nhưng sợ bị bắt lại thì khó mong sống sót. Xin Bồ Tát chứng minh gia hộ cho con, nếu quả thật con được thoát khỏi nạn này, thì

Bồ Tát cho con xin keo liên tiếp năm lần đều được, để tâm con an ổn khỏi lo sợ nghi ngờ.”

Sau khi cầu nguyện xong, anh xin keo liên tiếp năm lần đều trúng, bấy giờ anh mới leo lên nóc nhà để tìm đường thoát thân, thì nhìn ra xa thấy ngôi nhà bên bờ suối chính là nhà của nhạc phụ mình.

Anh liền leo xuống, bỏ chạy về hướng đó. Chẳng may những tên cướp canh gác phát hiện nên đuổi theo bắt lại, anh dùng hai tay xô bọn cướp qua hai bên như con heo chống với bầy trâu rồi chạy vào nhà nhạc phụ trốn. Bọn giặc cướp đuổi theo đến nhà nhạc phụ của anh đòi bắt, thì ông nài nỉ với bọn cướp: “Nhà nó nghèo quá, xin các ông cho nó một tuần lễ để đi vay mượn mà trả tiền chuộc hai lạng bạc cho các ông”.

Bọn cướp đồng ý bỏ đi. Qua hai ngày sau thì lính của quan địa phương đến vây ráp sào huyệt của bọn cướp, chúng sợ hãi đều bỏ trốn. Nhờ vậy mà anh được thoát nạn.

Chú của Thành tên là Liên Phong, vốn là một Phật tử trai giới thanh tịnh. Cũng vào tháng giêng năm ấy bị giặc cướp đuổi bắt, ông vội chạy vào một nhà trống bên làng, dùng tấm phên bằng tre trúc che kín toàn thân.

Bọn cướp đuổi theo vào làng tìm kiếm và tuyên bố với dân làng nếu thấy người lạ nào có chùm râu trên cằm thì phải đem nộp cho chúng, bằng không chúng sẽ đốt phá san bằng làng này. Khi đang núp trong tấm phên và nghe lời hăm dọa của giặc cướp, Liên Phong hoảng sợ chí thành xưng niệm Nam mô cứu khổ cứu nạn Quán Thế Âm Bồ Tát, rồi cố sức để nhổ vài cọng râu, nhưng lạ thay cả chùm râu bỗng dưng rụng xuống hết mà không hề đau đớn.

Sau đó, bỗng có một người từ địa phương khác đến làng này nói rằng đã nhìn thấy người có chùm râu đang trốn lên núi, do đó bọn giặc bèn kéo nhau lên núi. Phong ra khỏi nơi ẩn nắp đi đến gặp chủ của ngôi nhà trống cho họ biết là ông đã vào nhà họ ẩn nấp và tạ ơn họ thì mới biết chủ nhà này là bà con với mình, họ vui vẻ mang y phục cho ông thay rồi thuê ghe chở ông về nhà.

*Triều nhà Minh có Huỳnh Ngạn Sĩ ở Tô Châu, cưới vợ là Nhan Thị. Vì mới cưới nên đôi vợ chồng này khắng khít không rời nhau. Lúc ấy tại Tô Châu có loạn, dân chúng đua nhau chạy giặc nên hai vợ chồng anh cũng chạy loạn. Chẳng may trên đường chạy trốn thì bị thất lạc, mỗi người một nẽo.

Nhan Thị lúc lạc mất chồng rồi thì vô cùng sợ hãi, thân gái nơi xứ lạ quê người nên đến lúc trời tối không dám xin trọ nhà người nào, đang lủi thủi trên đường thì bỗng gặp một ngôi cổ miếu, cô định bước vào trong để trọ tạm qua đêm tại đây, thì nghe có âm thanh từ bên trong phát ra nên cô kinh hãi định bỏ chạy. Lúc ấy chợt nghe có tiếng nói cất lên: “Cô nương đừng hoảng sợ. Tôi đây là một ni cô!”

Nghe hai chữ Ni Cô, Nhan Thị vui mừng trong lòng, liền bước vào cổ miếu thì nhìn thấy một sư bà tuổi đã lớn. Hai người dù chưa quen biết nhưng khi gặp nhau đàm luận lại cảm thấy rất thân tình. Đến sáng, sư bà nói với cô: “Con tuổi còn trẻ, đi đường một mình e có nhiều bất tiện, hiện tại trong hành lý của ta có áo và mũ cho con cải trang, con nên thay đồ và theo ta về nương tựa ở am tranh”.

Cô vâng lời, bèn cải trang theo sư bà về am thất, ngày ngày quét tước dọn dẹp, lo việc hương đăng trên bàn Phật để sư bà tiện đi lo Phật sự.

Nói về Ngạn Sĩ lúc chạy giặc lạc mất vợ nên lòng buồn lo vô hạn, tìm kiếm khắp nơi trong ba năm mà vẫn không thấy tông tích chi cả, trong lòng nghĩ thầm: “Chắc vợ ta trong lúc loạn lạc đã gặp phải nạn tai”.

Ngạn Sĩ lưu lạc rày đây mai đó, viết mướn độ nhật qua ngày. Một ngày nọ, anh bỗng nhớ đến người bạn đồng học hiện đang làm quan ở tỉnh Chiết Giang nên thuê chiếc ghe nhỏ, mướn người chèo để đến tìm bạn. Khi tới Gia Hưng thì gặp tuần hải binh đến nên vội cho ghe tấp vào bờ, anh lên bờ nghỉ ngơi, trong lúc ngồi nghỉ, thì anh nhìn thấy trong bọng cây dương khô có một cái gói rất đẹp nên mở ra xem thì thấy một cái hộp đựng đầy vàng, anh vui mừng khôn xiết tự nói “Đây là trời cho ta!”

Nhưng khi xem kỹ lại thì thấy có một quyển sổ ghi rõ danh tánh của những người cúng dường nên anh sực tỉnh, dặn lòng không được tham lam, đừng cho là của người bỏ rơi mà tự mình thọ dụng. Đây là tài vật của Tam Bảo, chỉ một nén vàng thôi đã không biết là bao nhiêu công đức, huống hồ đây là cả một hộp vàng. Nghĩ rồi, anh cho dừng ghe ở lại nơi ấy để chờ người bỏ rơi quay lại nhận. Trải qua hai ngày thì thấy có một sư bà ở đâu chạy đến, đập đầu vào thân cây than khóc thảm thiết.

Anh đến hỏi thăm nguyên do, thì sư bà cho biết trước kia có phát nguyện sẽ rước thợ làm một Thánh tượng Quán Âm Đại Sĩ, nên thời gian qua đã đi quyên góp tiền khắp nơi để dành được 30 lượng vàng. Ngày hôm kia khi đang trên đường về thảo am, khi đi ngang qua đây thì gặp tuần hải binh. Trong lúc vội vàng sợ hãi không biết cất giấu số vàng nơi nào thì nhìn thấy gần đó có một bọng cây khô, bèn đem giấu nơi bọng cây ấy, giờ đây không còn nhìn thấy nữa nên sư bà quá đau buồn chỉ muốn chết tại đây.

Nghe xong không nói một lời, anh liền trao trả lại hộp vàng. Sư bà muôn phần cảm động, vái tạ người đã cứu mạng mình nên sư bà nói: “Từ đây đến thảo am của tôi khoảng chừng 10 cây số.

Xin ngài đừng phụ lòng thành, xin quá bước đến đó để tôi được mời dùng một bữa cơm chay, và đưa ngài đến trước Đại Sĩ để tỏ bày thanh đức và cùng lễ bái cho ngài được phước thọ miên trường”.

Anh lúc ấy trong bụng cũng có phần đói vì đã hai ngày vất vả đợi người mất của đến nhận lại, lại thấy sư bà tha thiết mời về am nên ưng thuận theo chân sư bà. Khi đến thảo am thì Nhan Thị ra mở cửa, hai vợ chồng bất ngờ gặp lại nhau nên nắm tay òa khóc, rồi thuật lại cho sư bà nghe duyên cớ lưu lạc nhau mấy năm nay.

Lúc ấy có nhà buôn muối họ Uông là gia đình giàu có trong vùng, khi nghe tin anh là người trọng đạo nghĩa, khinh thường tiền tài nên vội đến thảo am mời cả hai vợ chồng về nhà rồi lấy lễ đối đãi như thượng khách, giữ chân hai vợ chồng ở lại một thời gian rồi đem tiền bạc vật dụng tặng cho hai vợ chồng anh, lại sai người đưa về Tô Châu.

Về sau vợ anh sanh được một trai, một gái. Trai thì trí huệ, thông minh, hình dung tuấn tú, còn cô con gái thì hiền đức, dung mạo đoan chính. Một ngày nọ, hai vợ chồng tự nghĩ: “Chúng ta ngày nay ở trong cảnh đầy đủ, con cái nên người chính là nhờ ân đức của Tam Bảo từ bi gia hộ, chúng ta nên thỉnh Thánh tượng của Quán Âm Bồ Tát về thờ phụng”.

Hai vợ chồng bèn thỉnh Thánh tượng Quán Âm về thờ, ngày đêm chiêm bái đảnh lễ, tụng kinh niệm Phật rất tinh tiến, cả hai vợ chồng đều hưởng thọ đến tuổi thượng thọ.

*Triều đại Lưu Tống, Vương Cầu là người ở quận Thái Nguyên, tỉnh Sơn Tây, ra làm quan Thái Thú ở Đồi Lăng, tỉnh Tứ Xuyên.

Ông là một vị quan có lòng từ tâm, thương dân như con. Niên hiệu Nguyên Gia năm đầu, có nội loạn tại địa phương nên ông bị bọn chúng bắt hạ ngục, gông cùm xiềng xích nghiêm ngặt.

Ông vốn là một Phật tử luôn kính phụng Phật pháp, đối với các Phật sự thường không biếng trễ. Khi bị hạ ngục, nhìn thấy tội nhân hơn cả 100 người đa số đều bị đói khát thì động từ tâm, mỗi bữa ăn đều đem phần mình bố thí chia cho họ, phần ông thì trường trai và chí thành xưng niệm Thánh hiệu Quán Thế Âm.

Vào một đêm, ông nằm mộng thấy mình lên một pháp tòa cao đẹp, có vị sa môn đem một quyển kinh trao cho, đề mục kinh ấy là “Quang Minh Âm Hạnh Phẩm” trong đó có các danh hiệu của chư Bồ Tát mười phương. Ông cúi đầu nhận lãnh, mở kinh ra đọc. Sau đó, ông lại nhìn thấy một bánh xe, thì được vị sa môn giải thích là bánh xe luân hồi ngũ đạo.

Sau khi tỉnh giấc thì ông không nhớ danh hiệu vị Bồ Tát thứ nhất, chỉ nhớ danh hiệu Bồ Tát thứ hai là Quán Thế Âm, thứ ba là Đại Thế Chí.

Sau khi chí thành trì niệm, ông bỗng thấy xiềng xích đều rời khỏi thân mình, thì trong tâm ông tự biết mình được như thế đó chính là nhờ Phật từ gia hộ. Bấy giờ, ông càng tinh tấn chuyên tâm xưng niệm nhưng vì sợ người giữ ngục biết nên ông tự lấy xiềng xích gông cùm mang vào lại.

Ba ngày sau, ông được bọn giặc phóng thích.

*Phật tử Trương Ngọc ở tỉnh Tây Sơn có đứa con gái nhỏ tên Phật Nhi. Bé gái này khác hẳn với các trẻ đồng trang lứa khác, tuy là sống trong gia đình cha mẹ không hề dạy bảo, mà lại thích tụng kinh niệm Phật, đặc biệt nhất là đối với phẩm Phổ Môn. Bé gái này trì tụng không thiếu một ngày.

Lúc gần tuổi cập kê, một hôm, bỗng nhiên bị bệnh đột ngột mà qua đời, trong nửa ngày thì sống lại, rồi thuật rằng:

– Con bị hai người bắt, dẫn đến xứ Xoa Lãnh, trên đường con thấy những người đồng hành với mình, thì có hai người đi trước bị lính dưới âm phủ dùng mền đen trùm toàn thân, tiếp theo đó thì họ dùng chiếc mền hoa trùm lên thân mình của con lại.

Vừa tới nhà họ Trần, các lính ấy bảo rằng: “Tụi bây mắc nợ nhà này nên phải vào trong ấy đền trả, riêng Phật Nhi số nợ của ngươi lên đến 1.500 quan.”

Lúc đó bỗng có một người mặc áo xanh đến trước mặt bảo họ rằng: “Hai ngươi không biết hay sao, con bé Phật Nhi này ăn chay niệm Phật mỗi ngày, chuyên tụng kinh niệm Phật, các ngươi nên mau phóng thích nó về nhà.”

Hai người ấy vâng lời, dẫn con đi nhanh, thì bỗng nhiên con trượt chân té và sống lại.

Phật Nhi đem việc ấy kể hết cho mọi người trong nhà.

Đến sáng ngày, cha của cô liền đến Xoa Lãnh hỏi thăm thì quả nhiên có nhà họ Trần và trong đêm vừa rồi, con chó cái trong nhà sanh được ba con chó con, hai con màu đen, một con vá. Con chó vá thì đã chết nhưng chưa đem đi chôn.

Cha của cô là Phật tử thông giáo lý, thâm tín nhân quả, khi vừa thấy chó vá thì biết đó chính là con mình, ông vội vã trở về nhà đem số tiền 1.500 quan trả cho họ Trần, nhưng dù cho ông có nói cách nào thì chủ nhà họ Trần cũng không chịu nhận. Ông thành kính tạ ơn, đem số tiền ấy về, thêm vào chút ít rồi mang đến chùa làm Phật sự, cầu nguyện cho con được tiêu túc nghiệp.

*Triều nhà Minh, có Vương Lập Hộ cư ngụ ở Đài Châu, năm Bính Tý, niên hiệu Vạn Lịch, phụng lệnh triều đình lãnh trách nhiệm làm giám khảo trường thi. Đêm ấy, ông nằm mộng thấy cha mình là Vương Tánh Công khuyên nhắc: “Số con 15 năm nữa sẽ chết, nếu con cố gắng vun trồng phước đức, phát tín tâm với Tam Bảo, ăn chay niệm Phật thì chắc có kết quả tốt.”

Tỉnh giấc, ông phát nguyện trường trai cùng thọ bốn giới sát – đạo – dâm – vọng. Về sau lúc ông ra làm quan ở Tân Cam, tỉnh Giang Tây thì đối với việc trường trai, thọ giới lại bỏ hẳn.

Năm Mậu Ngọ, ông vào cung yết kiến Hoàng thượng thì ngay trong đêm sắp đi, nằm mộng thấy cha ông đến buồn phiền quở trách.

Sau khi thức dậy, trong lòng ông rất lo sợ.

Sáng ngày ông khởi hành, khi ghe đến Địch Cảnh là vào lúc canh hai, vì quá mệt mỏi nên vừa nằm xuống là ông mê mang thiếp đi. Lúc ấy ông bỗng thấy có hai người mặc y phục màu xanh cầm thẻ tới bắt đi. Trong chốc lát thì thấy mình đến nơi Minh phủ, vào một đại điện rất trang nghiêm, tội nhân bị bắt khoảng vài nghìn người, đứng chật trong sân điện, có người bị xiềng, có kẻ đeo gông,… Trên đại Điện, Diêm Vương áo mão trang nghiêm ngồi giữa, hai vị minh quan ngồi hai bên tả hữu, có bàn án trước mặt những người đứng hầu thì hình tướng rất hung dữ đáng sợ.

Diêm Vương gọi đến tên Lập Hộ liền quở trách: “Thọ số của ngươi đã hết từ tháng 8 năm Bính Thìn, nhưng được sống đến nay là nhờ sự trai giới, tại sao ngươi lại phế bỏ việc làm công đức đó.”

Dứt lời thì quăng quyển sổ bộ đến trước mặt ông bảo mở xem. Ông nhìn thấy dưới tên của mình có ghi rõ ngày, tháng, năm, đến tháng 8 năm Bính Thìn thì bỏ trống. Ông xem xong thì cúi đầu tâu rằng: “Tâu Bệ hạ, làm quan ở thế gian nếu không như vậy thì không thể được, vì ngày ngày tiếp xúc với bạn đồng liêu, các quan, đối với việc ăn chay giữ giới rất khó thực hiện.”

Diêm Vương bèn quở trách: “Đã được làm quan là do phước lực của trai giới mà được, đúng lý phải tiếp tục vun bồi, tại sao ngươi ngu si hưởng phước lại tạo tội.”

Ông nghe xong bèn xin cho hồi dương để tiến tu trở lại.

Diêm Vương than rằng: “Số ngươi đã hết, giờ có hối cũng chẳng biết phải làm sao?”

Nói xong thì bảo quỷ tốt dắt ông vào ngục. Lúc ấy vị minh quan phía tả đứng dậy thưa rằng: “Tâu Bệ hạ! Xin Bệ hạ cho dừng lại một chốc để xem lại những việc mà ông ta đã làm sau khi phá giới.”

Trong giây lát, có người hầu đội đến hai cần xé lớn, trong đó đều là những sổ bộ văn tự lúc ông làm quan ở Tân Cam, giấy yết thị, danh thiếp,… đều có đủ trong ấy. Các giấy tờ này hiện lên theo màu sắc không đồng nhau: trắng, đen, xanh, đỏ lẫn lộn. Diêm Vương bảo Minh Quan kiểm tra và xếp lại, đầu tiên là màu đen và màu xanh để vào một chỗ, sau đó là màu trắng và đỏ để thành một chỗ. Đống màu xanh dần dần mờ nhạt, còn đống màu đen dần dần nhỏ lại như chiếc đũa, đống màu đỏ thì lại chói sáng rực rỡ. Ông đứng bên cạnh lén nhìn trong đống đỏ, thì thấy chính là

Kinh Kim Cang Bát Nhã và quyển Hiểu Sinh Biên Xã Thưởng tự mình đã khắc bản in ấn lúc còn sống.

Diêm Vương xem qua thì sắc diện có phần hòa dịu, ngó hai vị quan tả hữu rồi phán rằng: “Ngươi cũng thuộc về người biết vun trồng phước đức, chỉ tổn nhãn quan, thân mạng có thể được an toàn, khỏi xua vào ngục.”

Nói rồi hạ lệnh cho quỉ tốt móc mắt để trên cột. Ông thấy sáng chói lập lòe tự nghĩ: mắt mình đã bị móc, đâu còn xem thấy được. Vừa nghĩ đến đây thì bỗng nhiên mọi thứ trở thành tối đen. Bấy giờ vua quan điện đường đều không thấy nữa. Ngay lúc ấy, ông có cảm giác như có người vỗ vai hối thúc mình, bảo rằng: “Đi mau, Đi mau!”

Vì phải đi mau nên liền trợt chân té, rồi tỉnh dậy. Bấy giờ gà đã gáy sáng. Ông nghe tiếng khóc của gia nhân xung quanh, ông hỏi nguyên cớ thì họ bảo: “Từ lúc canh hai đến giờ, ông mê mang bất tỉnh, tay chân lạnh ngắt, hai hàm răng ngậm cứng. Chúng tôi rước lương y đến thì bảo rằng ông trúng phong, phát lãnh, đổ thuốc đã bảy lần nhưng không hiệu quả.”

Ông bèn mở mắt ra nhưng thấy ánh đèn như kim châm, mắt mình không sao mở được, tự biết là do nghiệp báo, không thể chữa trị thuốc men gì được nữa nên xin hồi quan trở về quê cũ.

Sau khi về nhà, ông gác bỏ mọi việc, quyết tâm chuyên tu Tịnh Nghiệp niệm Phật cầu vãng sanh, hàng ngày chí thành trì tụng Kinh Kim Cang, Kinh Pháp Hoa, mai chiều không giãi đãi.

Vào tháng 7 năm Canh Thân, sau khi lễ sám, đêm ấy, ông mộng thấy Đại Sĩ dùng cành dương rưới nước cam lồ vào trong đôi mắt. Sáng ngày thức dậy, hai mắt sáng lại như thường. Về sau ông du hành đến nhiều nơi danh lam, yết kiến Đại Sư Liên Trì, Ngài Bát Sơn, v.v… chân thật tu học Phật pháp, kiêm hành Đại Bi Sám Pháp, rồi phát nguyện xuất gia tu hành tinh tấn, lấy hiệu là Bích Như. Ông sống thêm được 12 năm nữa thì vãng sanh.

Ôi! Con người ngoại trừ các vị thánh hiền, chẳng có ngày nào không phạm lỗi, cái có thể trông cậy để vãn hồi tạo hóa chỉ là “có thể sửa đổi” mà thôi! Nếu không, nhân trước đã kém cỏi, nghiệp sau lại tăng dần, dẫu nhiều phước, lắm cháu con, đến lúc một hơi thở ra chẳng hít vào được nữa, sẽ chỉ có nghiệp theo thân, chỉ thấy nỗi khổ vì bị Diêm Vương tra xét, tính toán, lúc ấy có thể mang theo gia sản hay chăng? Có thể dẫn theo con cái hay chăng? Ai người trí hãy tự suy nghĩ kỹ!

*Triều nhà Minh niên hiệu Vạn Lịch, Chánh Côn theo chú là Lâm Đường đến chùa Vạn Đức học hỏi Phật pháp, lại tham phỏng với Phổ Môn Đại Sư nên có chỗ tỉnh ngộ, phát tâm quy y Tam Bảo, chuyên tu Tịnh Nghiệp. Chánh Côn là thầy giáo, nên ngoài giờ dạy học, thường khuyên nhủ học trò nên trường trai và niệm Thánh hiệu Tây Phương A Di Đà Phật.

Trong số học trò có Dịch Đức là người có tâm tín kính sâu dày, nên phát nguyện chép Kinh Kim Kim Cang 30 bộ, Đại Bi 50 quyển.

Vào ngày 29 tháng 5, Dịch Đức tắm nơi suối Cẩm Khê, bị bạo bệnh chết.

Mọi người khiêng xác về nhà thì tử thi nằm trên giường bỗng cất tiếng nói: “Ta đây chính là thần Hộ Pháp, hầu phía tả Đức Phật. Dịch Đức nhân vì đời trước làm quan, giết lầm nhiều người nên đã bị oan hồn bắt vào Minh phủ. Do ông ấy có thiện niệm, thờ Phật kính thành, và chép kinh nên Ta đến đây đặc biệt ủng hộ. Chánh Côn, nhà ngươi nên vì Dịch Đức mà niệm Phật tụng kinh, đợi đến ngày mùng bảy tháng sau sẽ hoàn hồn, để viết kinh thù đáp bổn nguyện, nương nhờ công đức ấy mà oan hồn của các quỉ được siêu thăng.”

Hộ Pháp nói mấy lời trên rồi bảo rằng: “Ta đi đây!”

Đến ngày mùng bảy, quả nhiên Dịch Đức sống lại, tự đấm lưng mình kêu la bị té rất đau. Chú của anh hỏi nguyên cớ thì anh đáp:

-Lúc con tắm suối Cẩm Khê thì thấy hai người cầm thẻ bài đến gọi, con theo hai người ấy đi một hồi lâu thì đến chốn bảo điện rất trang nghiêm, thấy có tấm bảng đề là “ Sum La Điện”.

Trong ấy có Diêm Vương ngự nơi bàn án. Con vừa đến thì thấy có vô số quỷ đầu trâu mặt ngựa, đua nhau đến trước đánh con tới tấp như mưa. Trong tâm con nghĩ mình là Phật tử ăn chay niệm Phật nên gặp cảnh khổ đau này thì phải an nhẫn. Tiếp đó con bỗng nhiên nhận biết đời trước làm một vị tướng quân đã lầm giết hại sanh mạng của 800 người, ác nghiệp đã gây thì khi quả báo thuần thục phải trả. Lúc ấy, con khóc lóc tỏ bày với Diêm Vương vì việc triều đình mà lầm lẫn gây tội nghiệp như thế. Diêm Vương hiện vẻ giận dữ bảo rằng: “Tội này đáng phải nấu trong dầu sôi”.

Nói dứt lời thì có quỉ tốt, thân xanh mặt lửa khiêng một chảo dầu to, sôi sùng sục đến. Nhóm quỉ tốt áp đến trói con toan ném vào chảo, thì trước điện bỗng phóng đến một đường kim quang làm tan biến cảnh tối tăm, con nhìn lên thì thấy cảnh tượng sáng rỡ, Vi Đà Tướng Quân và Quan Đế Thánh Quân đứng ở không trung. Vi Đà cầm bảo xử nhảy vào chảo dầu sôi, tự nhiên trong chảo dầu, hoa sen mọc đầy trong chảo.

Diêm Vương nhìn thấy tức khắc rời khỏi tòa, chí thành chấp tay đảnh lễ và ra lệnh phóng thích con về, bảo hai người bịt khăn vàng đưa đi đường, đi qua núi Tuấn Lãnh thì người bịt khăn vàng xô con té xuống nên tỉnh dậy.

Tỉnh lại thì thấy lưng bị đau, Chánh Côn nghe xong thì vui mừng đỡ cháu đến trước Phật đài lễ tạ Phật, Bồ Tát Vi Đà và Quan Đế. Sau khi lễ Phật thì thân thể anh khỏe mạnh như xưa. Mỗi ngày anh chí thành viết hai bộ kinh nói trên để ấn tống. Cả nhà sau đó đều theo gương anh ăn chay và niệm Phật rất tinh cần.

*Danh sĩ Nghiêm Tập Chí cư ngụ ở xứ Phù Lương là một Phật tử tu hành rất tinh tấn, hàng ngày chuyên trì tụng kinh Kim Cang và phẩm Phổ Môn. Trải qua hơn 20 năm, ngày nào cũng y như vậy không thiếu. Ông lại thường khuyên mọi người trì tụng. Trong số người mà Nghiêm Tập Chí khuyến hóa có một vị tên Thoại Năng.

Vào ngày 23 tháng 6, niên hiệu Đạo Quang thứ 15, triều nhà Thanh, Thoại Năng trong lúc bị bệnh hôn mê bất tỉnh thì thấy một người đến bắt đi, dắt đến một điện đường. Ông vừa đến đó thì chợt nghe có tiếng hoan hô: “Đại Bồ Tát giáng lâm.”

Hai vị Minh quan lập tức rời chỗ ngồi, bước xuống nghinh tiếp. Ông lúc ấy nhìn thấy Bạch Y Đại Sĩ trên thân choàng khăn liên hoa màu đỏ sáng, phía sau có một ông già mặt đen theo hầu Bồ Tát. Hai vị Đại quan truyền lệnh cho bộ hạ thiết lập bảo tòa, thỉnh Bồ Tát ngồi. Bồ Tát vừa an tọa thì ngó vị quan bên tả quở rằng: “Các ông làm việc không thuận theo trong sổ bộ. Thoại Năng này tuổi dương thế chưa hết tại sao lại bắt đem đến đây?”

Hai vị quan nghe nói giật mình, rời chỗ ngồi đứng dậy, đảnh lễ Bồ Tát xin thứ lỗi, đoạn gọi người lính dịch đến quở trách và đánh cho 40 trượng phạt tội. Bồ Tát bèn nói: “Thoại Năng này sống trong gia đình đã ba đời không ăn thịt trâu, thịt chó, nam nữ cả nhà đều trì trai, tụng phẩm Phổ Môn, hiện có ông già này ở nhà đó làm chứng.”

Lúc này Thoại Năng mới biết ông già mặt đen đi sau Bồ Tát chính là Thần Ty Mạng. Bồ Tát quở trách hai vị Đại quan xong thì dẫn ông ra khỏi điện đường đi xem các ngục. Trước tiên là đến ngục giã cối, thấy quỉ tốt bắt tội nhân ném vào cối, mỗi khi giã chày xuống, máu phun ra như bình hoa tưới nước, thịt da xương cốt văng ra như bắn pháo bông.

Đại Sĩ bảo với ông rằng: “Ngươi chớ có đến gần vì linh hồn của ngươi không nên dính vật ấy.”

Ông vội lấy vạt áo che mặt. Kế tiếp Bồ Tát dẫn đi xem địa ngục kéo lưỡi, địa ngục xay xát, địa ngục chém chặt, địa ngục cưa xẻ, địa ngục ôm cột đồng nóng, địa ngục nằm giường sắt, v.v…

Sau khi xem xong thì Bồ Tát dẫn ông ra về và căn dặn rằng: “Sau khi ngươi hồi dương phải khuyên bảo tất cả mọi người trong nhà cố gắng ăn chay niệm Phật. Với những việc công phu lễ bái phải chí thành cung kính, đừng làm lấy có. Nếu trường trai không được thì cũng phải ăn theo trai kỳ nhưng không được viện lý do đổi ngày này sang ngày khác mà bỏ quên. Hôm nay là ngày trai kỳ nhưng nhà của ngươi đều quên hẳn, từ đây về sau phải gắng nhớ cho kỹ. Và nên nhớ khi trở về nhà thưa lại với bà nội của ngươi rằng: Kinh Kim Cang mà bấy lâu nay bà đã trì tụng trong nhiều năm qua có công đức không thể nghĩ bàn, đừng nghe theo những người vô trí cho rằng tụng Kinh Kim Cang thì trong nhà sẽ xảy ra việc này việc nọ, có trước không sau là đều không tốt.

Còn về bệnh trạng của ngươi thì không hề gì, phải nên cố gắng tinh tiến hơn trước để thành người tốt.”

Trong chốc lát đã thấy Bồ Tát dẫn đến cửa sau, rồi Ngài vỗ đầu bảo “Tỉnh dậy, ngươi về đến nhà rồi!”

Ông chợt tỉnh lại, cảm thấy khỏe khoắn lạ thường.

Sau đó bèn thuật lại cho mọi người nghe chuyện dưới Âm Ty. Từ đó bà nội của ông và cả nhà từ trên xuống dưới đều trì chay tụng kinh niệm Phật rất tinh cần, những người không trường trai cũng đều giữ trai kỳ rất là nghiêm ngặt.

Hóa giải nợ cũ

Ngày xưa, có một người thư sinh tên Cao Biền sống tại Lâm Giang, tỉnh Giang Tây. Thuở mới lên 6-7 tuổi mà đã nổi tiếng là thần đồng, thông minh không ai bì kịp, lại kiêm đủ đức hiếu hạnh. Năm lên mười bốn Cao Biền đã đậu tú tài. Cha mẹ sau đó cưới vợ cho anh. Người vợ là Phàn Thị, cô gái này có nhan sắc xinh đẹp, nhưng tính tình lại bướng bỉnh, bạo ác chẳng ai bằng, thường hay lấn lướt chồng.

Vậy là đời Cao Biền đành vùi chôn trong âm thầm đau khổ. Lấy phải một cô vợ hung dữ như con sư tử xứ Hà Đông. Đôi vợ chồng trẻ gần nhau chưa bao lâu thì trở thành như là bà chủ đối với đầy tớ, Phàn Thị chẳng những không quan tâm, chăm sóc cho chồng mà trái lại còn lấn hiếp anh đủ muôn ngàn cách. Cha mẹ chồng không thể cấm ngăn nên bất đắc dĩ phải cho ra riêng.

Anh không chịu nổi sự khổ nhọc hành hạ của vợ, ngày càng gầy ốm, thân thể chẳng khác gì que cũi. Mẹ anh thấy thế buồn đau, ngày đêm biếng ăn bỏ ngủ, vì anh là con trai duy nhất, lại tài đức vượt trội hơn người.

Bà nhạc mẫu vốn người hiền lương, hết lòng tín phụng đức Quán Thế Âm Bồ Tát. Một đời quy hướng Phật pháp. Nhân thấy con mình đối đãi với chồng nó chẳng được tử tế, nên bà lấy làm lo âu.

Rồi bà mới thiết lễ cầu nguyện đức Quán Thế Âm Bồ Tát xin gia hộ. Đêm nọ, khi đang ngủ bà mộng thấy có người nói:

– Con gái của người đời trước là một con chuột lông xanh tu luyện thành tinh, sống trong một ngôi chùa lâu năm do vị hòa thượng Tịnh Nghiệp nuôi dưỡng. Còn Cao Biền kiếp trước là tên nho sinh nghèo khó, ở nhờ trong chùa chờ ngày đi thi. Do sơ ý hắn đã làm chết con chuột kia. Nay quả báo nhãn tiền, nợ đã vay tức phải trả, không thể dùng nhân lực chuyển hóa được.

Bà nhạc mẫu nghe nói, lòng vô cùng lo sợ. Bèn hỏi cách cứu giúp:

– Dạ thưa! Nghiệp duyên trắc trở như thế liệu có cách nào thay đổi không tiên nhân?

– Chỉ còn một cách niệm danh hiệu Quán Thế Âm Bồ Tát và trì tụng kinh Phổ Môn cùng chú Bạch Y 108 biến thì chắc chắn sẽ có hiệu quả..

Tỉnh mộng bà cho Cao Biền và họ nhà thông gia hay việc mình vừa chiêm bao thấy. Sau đó toàn gia trì niệm nhưng, trì niệm hơn hai tháng trôi qua, thì tánh tình tàn bạo của Phàn Thị so với thuở xưa chẳng những không giảm bớt mà còn tăng nhiều thêm hơn. Họ mới hỏi Cao Biền rằng:

– Cả nhà ta đã dốc lòng thành khẩn trì tụng kinh văn, niệm danh hiệu Bồ Tát nhưng vẫn không có kết quả. Nay con hãy cùng phát tâm, hằng thường đồng tâm trì niệm, hy vọng sẽ có cảm ứng.

Cao Biền nghe nói cũng miễn cưỡng làm theo.

Sau vài ngày, bỗng nhiên có một vị hòa thượng đi giáo hóa ngang qua địa phương đến ở trong một ngôi chùa làng để tuyên dương Phật pháp. Vị hòa thượng này ngoài việc thông suốt kinh văn lại thêm am tường, tinh chuyên môn tướng thuật và minh đạt lý nhân quả nữa.

Bấy giờ dân lành tranh nhau đến hỏi những việc cát hung đủ thứ. Phàn Thị vì hiếu kỳ muốn tận mắt thấy cao Tăng nên cũng tháp tùng theo mọi người.

Hôm nọ, sau khi hòa thượng xong buổi thuyết giảng, Ngài bước xuống pháp tòa, bảo người mang lại cho Ngài một chén nước trong.

Khi có chén nước trong tay rồi, Ngài bưng đến trước mặt Phàn Thị, trịnh trọng nói rằng: “Con không nên sân hận mãi vì đời trước chẳng phải hư giả, đời này cũng chẳng phải chân thật. Chao ôi!

Chuột hãy chạy cho mau, đừng để mèo nó tìm được thì khốn lắm đấy!”

Dứt lời, Ngài liên tiếp hớp nước phun vào mặt cô khiến mặt mày và y phục của cô đều ướt đẫm. Hàng thính chúng thấy thế đều kinh hãi phập phồng lo sợ, vì họ nghĩ rằng thế nào hòa thượng cũng bị cô chửi mắng một trận trời long đất lở, nhưng trái lại cô lúc này như bị thôi miên, mặc nhiên cứ để hòa thượng làm phép, không hề tỏ chút giận dữ, cô ta lau mặt, rồi kính cẩn cúi đầu chào rồi đi về nhà. Vị hòa thượng này sau khi phun nước rồi cũng ra đi.

Phàn Thị từ đó về sau tỉnh ngộ cải đổi hoàn toàn tính khí cũ, ăn năn lỗi lầm ngày trước, lại phát tâm tin Phật pháp, trì trai niệm Phật, tụng kinh, bái sám, v.v… Cố gắng sức ăn năn, làm nhiều việc tốt để mong chuộc lại lỗi lầm xưa, và dần dần cô đã trở thành một con người mới, xứng đáng là bậc vợ hiền dâu thảo, Cao Biền cũng thấy an tâm phần nào..

Sau sự việc đó, hai vợ chồng Cao Biền xin quy y Tam Bảo. Một lòng trì niệm danh hiệu Quán Thế Âm Bồ Tát, thường bố thí, cúng dường. Bà con làng xóm ai ai cũng thầm khen ngợi.

Hóa giải oan gia trái chủ

Huyện Nam Đầu, tỉnh Tứ Xuyên có cư sĩ Lưu Tịnh Mật, trong nhà ông có một cô làm thuê họ Nhiếp tên Ngọc Nương; đời trước cô này sinh sống bằng nghề đồ tể, đã giết 96 con trâu. Vong hồn những con trâu oán hận nên theo cô để báo thù.

Cô Nhiếp Ngọc Nương cũng là người Tứ Xuyên, từ khi xuất giá trở về sau, thường bị âm hồn phá hoại, mỗi năm phát bệnh đến mấy lần, mỗi lần phát bệnh như vậy cô phải chịu thống khổ không thể nào tả xiết.

Tháng 2 năm 1932, cô Nhiếp đến nhà cư sĩ Lưu Tịnh Mật xin làm thuê. Một hôm, bỗng nhiên cô phát bệnh nặng, toàn thân bị mụt đỏ giống như ban đỏ vậy, đã đau đớn lại vô cùng ngứa ngáy khó chịu. Vì chịu không nổi cô định nhảy sông tự tử, nhưng mọi người phát hiện và ngăn cản. Cô luôn cào xuống đất và tru giống như chó điên, lại còn hát bài ca giết trâu, mà hát có vần có điệu, nội dung bài hát nói về những nỗi khổ của con trâu sắp chết. Cô đi khắp nơi và hát ầm ĩ không ngừng.

Cư sĩ Lưu đến thăm cô. Vừa nhìn thấy ông, cô nói:

– Lão gia! Tôi không phải là cô Nhiếp, chúng tôi là hồn trâu. Đời trước cô Nhiếp ở huyện Vạn đã giết chúng tôi, tất cả có 96 sinh mạng bị giết, hôm nay chúng tôi đến đây để đòi mạng, xin ông đừng có can dự vào việc của chúng tôi!

Cư sĩ Lưu nhìn thẳng vào cô Nhiếp nói với hồn của 96 con trâu:

– Các ngươi thật hồ đồ, không chịu truy cứu nguyên nhân vì sao đời trước cô Nhiếp lại giết các ngươi. Do các ngươi đã từng sát hại cô ta, nên mới đầu thai lên làm trâu cho cô giết hại, bằng không tại sao cô ta chỉ giết có 96 mạng mà không giết nhiều hơn, cũng không giết ít hơn? Tất cả mọi việc đều có nguyên nhân cả. Hôm nay các ngươi không nhớ mình đã từng giết cô ta, mà chỉ nhớ cô ta giết các ngươi, cho nên mới trở lại làm quỉ để báo thù; cứ oan oan tương báo như vậy đến bao giờ mới chấm dứt? Cuối cùng cũng chỉ xoay đi lộn lại trong luân hồi để trả nợ lẫn nhau.

Các ngươi nghĩ xem, hôm nay các ngươi giết cô ta, rồi tương lai cô ta sẽ giết lại các ngươi, vậy thì sẽ như thế nào?

Hồn của các con trâu ấy nói:

– Ông nói rất có lý, đích thật chúng tôi quá hồ đồ. Nhưng máu trên cổ chúng tôi vẫn chưa khô, sự đau đớn vẫn chưa nguôi, do bị thống khổ hoành hành, cho nên chúng tôi mới có ý niệm báo thù.

Cư sĩ Lưu liền nói:

– Chuyện này giải quyết không khó.

Nói xong, ông liền sai người hầu lấy nửa ly nước, rồi niệm ba biến cam lộ chân ngôn, sau đó mời những oan hồn đó uống. Tất cả oan hồn này đời trước là trâu, khi thành quỉ thì chúng có khả năng đi như người, nhưng đầu vẫn là đầu trâu, hai chân trước biến thành tay, nhưng cong queo như hai chi trước của khủng long, nên không cầm được ly để uống. Chúng liền nói:

– Chúng tôi không có tay làm sao cầm ly được?

Cư sĩ Lưu liền sai người hầu bưng ly nước để sát vào miệng cô Nhiếp, nhờ vậy chúng mới uống được. Không ngờ vừa uống xong, tất cả bọn chúng liền vui mừng nói: “Nước này thật kỳ diệu!

Chúng tôi vô cùng khỏe khoắn. Cổ chúng tôi lành hẳn rồi. Tất cả móng đều rụng, sừng cũng mất”. Nói xong, bọn chúng nhảy nhót vui mừng.

Cư sĩ Lưu lại giới thiệu cảnh trang nghiêm thù thắng của cõi Tây Phương Cực Lạc và dạy bọn chúng niệm Phật. Khen ngợi cảnh đẹp của cõi Cực Lạc xong, cư sĩ hỏi bọn chúng:

– Nếu được vãng sinh về thế giới Cực Lạc, thì sẽ vĩnh viễn không còn chịu luân hồi thống khổ, vậy các ngươi có muốn về đó không?

Những oan hồn trâu liền đáp:

– Thế giới Cực Lạc thật sự tốt đẹp như ông nói, lý gì chúng tôi lại không muốn về? Nhưng nghiệp chúng tôi quá nặng sợ không về được!

– Nếu các ngươi phát nguyện niệm Phật, một lòng cầu xin về Cực Lạc, tôi sẽ thỉnh Đức Phật A Di Đà đến tiếp dẫn các người, đồng ý không?

– Tốt quá! Tốt quá! Nhưng chúng tôi đã bị đói rất lâu rồi, xin ông hoan hỷ cho chúng tôi một ít thức ăn.

Cư sĩ Lưu gật đầu đồng ý. Ông lấy một ly nước, cơm và niệm bảy biến biến thực chân ngôn, rồi đổ vào bụi trúc. Lát sau, các oan hồn đó nói: “Chúng tôi đã được ăn rất no, cảm ơn ông! Cảm ơn ông!”.

Cư sĩ Lưu đứng trong cửa sổ, lấy ba cây hương xoay về hướng Tây, phụng thỉnh Đức Phật A Di Đà, lại niệm chú Vãng Sinh, chú Đại Bi, Tâm Kinh Bát Nhã và niệm thánh hiệu Tây Phương Tam Thánh (tức Phật A Di Đà và hai vị Bồ Tát Quan Âm Thế Chí), thỉnh các Ngài đến tiếp dẫn tất cả các hồn trâu này vãng sinh Cực Lạc. Bỗng nhiên có một con trâu trong số đó nói lớn:

– Mau lên các bạn! Lão gia vừa thỉnh, Đức Phật A Di Đà liền đến, Ngài đang đứng chờ chúng ta. Các bạn xem Đức Phật rất trang nghiêm, toàn thân màu vàng óng, đẹp quá, đẹp quá. Chúng ta mau theo Đức Phật A Di Đà về Cực Lạc!

Lúc đó, vợ của cư sĩ Lưu đang đứng ở bên cạnh hỏi ông:

– Ông có thấy thế giới Tây Phương Cực Lạc không?

Cư sĩ Lưu đáp:

– Tôi đã thấy!

– Cảnh ấy nó như thế nào?

– Cảnh giới Tây Phương Cực Lạc trang nghiêm, đẹp đẽ hơn trong kinh diễn tả rất nhiều.

Trước khi, những oan hồn đó vãng sinh Cực Lạc, chúng chắp tay cảm tạ cư sĩ Lưu, chúng nói:

– Chúng tôi vô cùng cảm tạ ông đã giúp đỡ, làm cho oán thù nhiều đời nhiều kiếp của chúng tôi liền được tiêu hết. Nhiều năm nay chúng tôi luôn theo cô Nhiếp để hại cô ta, làm cô ta luôn chịu thống khổ. Chúng tôi thật ngu muội, cứ tưởng làm như vậy sẽ trả được thù, sẽ hả giận, ai dè làm như vậy chính chúng tôi cũng bị thống khổ. Hôm nay, nương vào oai lực của chư Phật, chư Bồ Tát được vãng sinh Cực Lạc. Hy vọng ông có thể từ bi cũng khuyên cô Nhiếp niệm Phật, tương lai cùng vãng sinh Tây Phương Cực Lạc. Chờ đến lúc lão gia cùng phu nhân vãng sinh, chúng tôi sẽ theo Đức Phật A Di Đà đến tiếp dẫn các vị.

Nói xong liền đi ngay.

Trải qua một giờ đồng hồ sau, cô Nhiếp tỉnh dậy. Cư sĩ Lưu hỏi cô, cô đáp:

– Vừa rồi trong lúc ngủ con gặp cơn giấc mộng, thấy bầy trâu rất hung dữ chạy xồng xộc về phía con, trên đầu chúng đầy máu me, vô cùng đáng sợ. Trong lúc nguy cấp ấy, bỗng nghe tiếng của lão gia, cảnh vật trước mắt tức thì biến đổi, mặt đất bằng phẳng, cây cối tốt tươi, ai thấy cũng ưa thích; kế đó nghe những con trâu khen cơm thơm, thấy tất cả bọn chúng ăn rất ngon lành, thậm chí còn nhảy cẫng lên. Những gì xảy ra sau đó con không được rõ…

Sau việc này, cô Nhiếp không còn bị oan hồn quấy phá nữa, cô cũng bắt đầu phát nguyện ăn chay trường và niệm Phật.

Mùa xuân năm 1934, cư sĩ Lưu Tịnh Mật phát tâm xuất gia tại Tây Khang, pháp hiệu “Tuệ Định”. Đây là câu chuyện được Đạo Tràng Tịnh Tông Malaysia đã làm thành phim với tựa đề là “Giải Oan” dưới sự chỉ đạo của pháp sư Đạo Tuyên.

Xe lật, được bình an vô sự

Hồng Liên Di, ở Vạn Đẩu Lục, bà có một đứa cháu gái tên là Hoàng Mẫn, mười tám tuổi. Cô này từ nhỏ chịu sự hun đúc của bà ngoại, trong thức thứ tám đã trồng được hạt giống Phật. Sau khi tốt nghiệp tiểu học ở trường Quốc Dân năm mười ba tuổi, lúc muốn thi vào trung học, tự cô đã cầu Phật Bồ Tát gia hộ có thể thi đậu vào trường trung học Thảo Đồn, cô đã phát nguyện trọn đời niệm A Di Đà Phật và ăn ngọ, do vì trường này gần nhà, nên cô mong ước được học ở đây cho thuận tiện.

Thật là Phật, Bồ Tát không phụ người có tâm, cuối cùng cô đã đạt được ước vọng của mình. Sau ba năm cô tốt nghiệp nghành y, bèn đến làm việc ở một y viện tổng hợp tại Đài Trung. Cô làm việc rất cẩn thận, cố gắng học tập, đối với người bệnh rất thân thiết, mặc dù bận rộn suốt cả ngày, hai thời khóa sớm tối tụng niệm cũng không gián đoạn, do vì cô mang theo bên mình tượng Phật nhỏ có lộng khung kiếng, khi đến thời khóa thì thỉnh ra lễ bái, niệm Phật xong rồi bèn cất vào tủ.

Một hôm, bác sĩ trưởng phái cô đưa người bệnh đến Thảo Đồn, ngồi trên một chiếc xe taxi trở về, đến nửa đường vùng phụ cận của Thảo Hồ, chiếc xe này bỗng nhiên bị hư máy, lộn lật nhào vào trong đám lau bên đường, bốn bánh chổng lên trời. Lúc đó sư tỷ Ngân Tiếu đang đứng ngay cổng nhà nhìn rất rõ ràng, buột miệng kêu lớn lên: “A Di Đà Phật! Tội nghiệp người trong xe tiêu hết rồi!”.

Trong khoảnh khắc đó, lại thấy cửa xe mở ra, một cô gái trẻ, tay dìu một ông cụ chun ra, tài xế cũng chun ra, ba người chẳng những bình an vô sự, mà ngay cả da cũng không có trầy sướt chút nào, nhưng kiếng của xe thì vỡ nát hết. Sư tỷ Ngân Tiếu nói là mình nghĩ hoài mà nghĩ không ra, ba người này sao mà may mắn như thế, chẳng có bị thương một chút nào hết, rồi họ đổi xe khác tiếp tục đi về Đài Trung.

Ngày hôm sau được nghỉ, cô về nhà nói với bà ngoại rằng: “Bà ngoại! Đức Phật A Di Đà thật là linh cảm, đã phò hộ cho con”.

Liền đem chuyện kinh sợ xe lật vào đám lau hôm qua nói cho bà ngoại nghe, cô ta còn nói: “Con mỗi lần lên xe, trong tâm đều nhứt tâm niệm A Di Đà Phật, cho nên hôm qua ngồi trong xe cũng đang niệm Phật, sau khi xe lật gọng, con đỡ ông bác già ngồi kế bên dẫn ra, cùng về Đài Trung, đến Đài Trung xuống xe con liền mua trái cây về cúng dường lễ bái Phật A Di Đà, để bày tỏ chút lòng thành kính cảm tạ ân đức cứu mạng”.

Niệm Phật: Nước rút, người và vật bình an

Ở làng quê Vạn Đẩu Lục, có một tín đồ tên Đoạn Tỷ. Hôm nọ, bà đến cơ sở hoằng pháp nghe kinh, bà nói với giảng viên Lâm Khán Trị:

-“Bà thật là công đức vô lượng, một người thân thích của tôi, có đứa con dâu, vì chồng đi lính, ở nhà không giữ đạo đàn bà, về sau bị bắt giam trong ngục sáu tháng. Sau khi hết hạn ra ngục, mang về tượng Phật Tây Phương Tam Thánh, thời khóa sớm tối niệm Phật, lạy Phật, tính tình đối đãi với bố mẹ chồng, và con cái so với hồi trước như là hai người vậy đó. Cô này thực sự trở thành một người vợ hiền, một người mẹ tốt, hiếu thuận với bố mẹ chồng, hơn nữa còn biết khuyên người trong nhà niệm Phật và còn nói đạo lý cho mọi người nghe.

Người ta hỏi cô ta: ‘Cô hồi trước không tin Phật, hiện nay tại sao có thể tin Phật và tin tưởng thành khẩn như thế?’

Cô ta nói là lúc còn trong tù có một vị sư tỷ ở Liên Xã, mỗi chủ nhật đều đến thuyết giảng Phật pháp, dạy người niệm A Di Đà Phật, sửa ác làm lành, nghe rất có đạo lý, đồng thời tặng cho kinh Phật, tượng Phật, chuỗi v.v… khiến cho người sau khi về nhà an phận giữ mình, sống hạnh phúc.

Tôi nghĩ vị sư tỷ ở Liên xã đến nhà giam nữ giảng Phật pháp đó nhất định là bà. Cả nhà người bà con đó của tôi đều rất cảm tạ bà, kêu tôi đại diện cho họ gởi đến lời cảm ơn bà”.

Bà Lâm liền đáp: “Đây là căn lành của cô ta, nhân duyên Phật pháp đã đến, đối với tôi đâu có can hệ gì!”.

Sau khi nạn bão lụt ngày mùng 7 tháng 8, bà Đoạn Tỷ lại đến cơ sở hoằng pháp ở Vụ Phong nghe kinh, tường thuật lại rằng:

– “Sư tỷ! Những việc tôi đã nói hồi trước, việc người bà con của tôi có con dâu, sư tỷ dạy cho cô niệm Phật, trong lần nạn bão lụt chuyến rồi, được sự cảm ứng rất lớn.

Nguyên là nhà cô ở ba gian nhà tranh ở dưới cầu phía cửa Nam nuôi mấy trăm con vịt làm phương kế sinh sống. Từ sau khi cô ra tù, do vì thường sống bên con kênh này nên cuộc sống không thể phát triển, liền tính kế mua mười tám con heo nhỏ về nuôi, đợi đến lớn bán đi thì có thể mua đất cất nhà ở nơi khác làm ăn, cô ta lợi dụng khoảng đất trống, trồng một ít khoai lang… làm thức ăn để nuôi heo.

Suốt ngày bận rộn, đến cái hôm bão lụt đó, cô ta nhìn thấy nước trong con kênh dâng lên, liền lấy một cây thang bò lên nóc nhà, sau đó cùng với chồng đi lùa mười tám con heo lại, rồi cũng từng con, từng con lùa lên thang lên trên nóc nhà.

Cuối cùng tự mình cũng lên trên nóc nhà, nhìn thấy thế nước trong con kênh lên quá mạnh, cô ta vẫn bình tĩnh kêu cả nhà chắp tay đồng niệm “Nam mô cứu khổ cứu nạn Quán Thế Âm Bồ Tát”, niệm được mười mấy phút, liền đổi niệm “Nam mô A Di Đà Phật”, niệm một lúc lại niệm Quán Thế Âm Bồ Tát, niệm đến sau khi nước trong con kênh rút hết, người và vật đều bình an vô sự từ trên nóc nhà mà lần lượt tuột xuống.

Sư tỷ nghĩ xem đây có phải là Phật, Bồ Tát gia bị không? Chứ riêng tôi thật nghĩ không ra việc cảm ứng của Phật, Bồ Tát này! Thật là ít có! Do vì một vùng trên hai bờ của cây cầu ở cửa Nam này, bị nước lụt cuốn mất hơn một trăm căn nhà, mặc dù là nhà tường đất, nhưng cũng có rất nhiều ngôi nhà lớn xây cất kiên cố, cũng đều bị nước cuốn đi, chết rất nhiều người, tại sao căn nhà tranh cũ nát bên bờ khe dưới cầu lại không bị nước cuốn đi? Trên nóc nhà chẳng những chịu đựng mấy người cả nhà, lại còn có cả mười tám con heo to nữa, rốt cuộc người và vật đều an nhiên vô sự! Điều khiến tôi càng nghĩ càng lấy làm kỳ quái là heo mà cũng biết leo thang, thật là mầu nhiệm vô cùng không thể tưởng tượng nổi!”

Khi đến ngày chủ nhật, bà Lâm Khán Trị lại đến nhà giam nữ giảng pháp, bà liền đem chuyện chí thành niệm Phật Bồ Tát được cảm ứng, giải cứu được cái nguy khổ vì nước lụt, được tiêu tai khỏi nạn này giảng cho các nữ tù nghe, trong đó có một người đứng dậy nói: “Cô ấy chính là cô số mười sáu ở đây với chúng tôi, cô ta cũng từng nói có bố mẹ chồng nuôi vịt dưới cầu cửa Nam”. Cô này lại nói: “Sau khi cô ta ra ngục bèn muốn sửa lỗi làm mới lại, cố gắng làm người tốt, tạm thời nuôi mấy con heo, sau này sẽ đổi nghề”.

Chúng ta thử suy gẫm xem, Phật, Bồ Tát thật là từ bi, bất cứ người nào chỉ cần chịu chí thành xưng niệm, liền được lợi ích rất lớn lao vậy!

Té xuống kênh rạch, niệm Phật được cứu

Cư sĩ Trần Phi Lâm có một cô cháu gái. Cô cháu họ này mới đầu cũng không tin Phật và cực lực phản đối lòng thành tin Phật của ông chú. Nhưng ông rất từ bi, hễ gặp mặt là khuyên cô niệm Phật, giảng cho cô nghe về đời người ở thế gian vui ít, khổ nhiều, tai nạn nhiều, nghịch cảnh nhiều, phiền não nhiều, muốn lìa khổ được vui cần phải niệm A Di Đà Phật, lúc nguy cấp, sợ hãi càng phải cố sức niệm A Di Đà Phật. Nhưng cô này như đàn khảy tai trâu, không chịu nghe theo lời khuyên của chú mình!

Không lâu sau, cô muốn dời nhà đến Hoa Liên kinh doanh buôn bán, ông liền thỉnh tượng Tây Phương Tam Thánh, lộng kiếng, tự mình đem đến bến xe Đài Đông cho cô. Lúc chia tay ông còn ân cần dặn đi dặn lại cô cháu phải chí tâm thành ý niệm A Di Đà Phật.

Cô sau khi dời đến ở Hoa Liên kinh doanh buôn bán rất tốt, có một hôm do việc làm ăn cô đi vào làng, đến nửa đêm mới cưỡi xe đạp về nhà, khi đi qua một con kênh bên đường lúc không để ý cả người lẫn xe đồng rơi xuống kênh. Con kênh này chỉ sâu hơn người một chút mà thôi, tự mình rất dễ leo lên. Lúc đó cô phủi bụi đất trên mình, rồi xem lại tứ chi, không có bị thương chút nào hết, liền lo kéo chiếc xe đạp lên, trong lúc dùng hết sức kéo lên đó, lại rất kỳ quái, dường như có người gị xe lại.

Cứ thế, hễ muốn kéo lên lại bị kéo trở xuống mấy lần. Khi ấy bất giác cô lông tóc dựng đứng, sợ đến nỗi hồn bất phụ thể. Vào lúc tiến thối lưỡng nan, không có cách nào, liền nhớ đến việc ông chú thường dạy mình niệm A Di Đà Phật, khi gặp lúc tai nạn nguy cấp càng phải to tiếng niệm Phật. Cô liền chắp hai tay lại, cố sức to tiếng niệm “Nam mô A Di Đà Phật”.

Thành tâm thành ý niệm được khoảng nửa tiếng đồng hồ thân tâm cảm thấy an nhiên, tâm sợ hãi đã không còn nữa.

Bỗng nhiên trên đường có chiếc xe ba bánh chạy đến, người tài xế đến trước mặt cô liền thắng xe lại, không nói một tiếng nào, nhanh tay kéo chiếc xe đạp lên, lại mời cô lên xe ba bánh, và đưa xe đạp lên luôn, rồi chở cả người lẫn xe về đến cổng nhà của cô.

Trong lòng cô rất cảm tạ người tài xế trẻ tuổi mạnh khỏe nầy, sau khi xuống xe, muốn lấy tiền nhiều một chút hậu tạ cho anh ta, nhưng lúc cô quay đầu lại thì anh lái xe ba bánh đã đi mất! Lúc đó đã là nửa đêm, cũng không biết tìm ở đâu.

Qua ngày hôm sau, sáng sớm cô vẫn cứ nhớ cái ân của người lái ba bánh, muốn đưa tiền cho anh ta, liền đến bãi xe ba bánh tìm trong mấy người tài xế, hỏi tới hỏi lui cả ngày, mọi người đều nói tối hôm qua không có ai chở cả người lẫn xe ở đó. Sau đó cô liền nghĩ lại lúc đang nguy cấp cố sức niệm A Di Đà Phật mới có sự cảm ứng ấy.

Cô liền nhanh về nhà lục tìm tượng Phật của ông chú đưa cho lúc ở bến xe Đài Đông để xem, thì thấy tướng hảo trang nghiêm của Phật A Di Đà rất giống với phước tướng của anh tài xế xe ba bánh hồi tối.

Lập tức cô treo lên, rất là cung kính, mua về hương hoa quả phẩm, đèn cầy để cúng dường lễ bái. Lại nhớ đến tinh thần từ bi của ông chú, đích thật là ân sâu như biển. Cô liền từ Hoa Liên đi về Đài Đông thăm ông chú của mình, và tường thuật lại sự việc cảm ứng mà chính bản thân đã trải nghiệm!

Đến lúc việc xảy ra mới ôm chân Phật cũng có hiệu quả

Cư sĩ Trần Phi Lâm ở Đài Đông, là công chức hãng chế biến đường, cũng là một vị Phật tử thuần thành, bà vợ lúc đầu chống đối kịch liệt khi thấy ông chồng tin Phật, niệm Phật. Tuy nhiên Trần cư sĩ cũng không thối tâm, vẫn cứ tinh tấn, và một mặt với tâm từ bi cố sức khuyên vợ rằng: “Chúng ta có miệng phải nên niệm Phật A Di Đà tức là cái vốn cho sau này được vãng sanh Tây Phương, nhưng trước khi chưa được sanh Tây Phương, cũng có thể gặp dữ hóa lành, tiêu tai giải nạn, đối với bản thân có sự lợi ích không gì sánh bằng”.

Bà vợ được ông hàng ngày cảm hóa khuyên giải những điều hay lẽ phải, lại cứ như đàn khảy tai trâu, hoàn toàn chẳng nghe. Mặc dầu như thế nhưng trong gia đình bà lại là một bà chủ giỏi khéo coi sóc việc nhà, vừa cần cù vừa tiết kiệm, có lúc còn lên núi kiếm củi, gánh xuống núi một gánh củi lớn, rồi lên xe lửa ngồi chuyến cuối cùng để về nhà.

Một lần nọ, khi bà xuống núi, không ngờ mặt trời đã lặn, chuyến xe cuối cùng đã chạy rồi, chiếc xe lửa nhỏ trên núi là xe kéo mía, không phải là xe chuyên chở khách, cho nên sau khi chuyến xe cuối cùng chạy đi rồi, thì ai tự về nhà nấy, không có ai ở lại trạm xe cả. Trời đã tối, bà tự khích lệ chính mình, gánh một gánh củi lớn trên vai, quyết định một thân một bóng thuận theo con đường sắt đi bộ về nhà, màng đêm cũng bắt đầu buông xuống.

Lúc đi được nửa đường đột nhiên thấy giữa đường ray trước mặt xuất hiện một bóng đen của một đại hán đang đứng, lúc ấy bà càng đi thì càng gần, nhìn càng rõ, toàn thân lông tóc dựng đứng, sợ đến nỗi quăng gánh củi trên vai, do vì bà đã hết còn sức lực để gánh tiếp tục nữa.

Bà đang lúc đêm đen có một mình nhìn thấy bóng đen kia, trong khoảnh khắc đó, bỗng nhiên nhớ lại việc mấy năm trời được chồng huân tập cho một câu Chú Vương từ nào không chịu đón nhận, nhứt là không hề muốn niệm, đang lúc vô cùng nguy cấp này, việc đến mới ôm chân Phật, bà đứng ngay nơi đó, chắp tay lại, to tiếng niệm “Nam mô A Di Đà Phật”. Niệm được vài phút, cái bóng đen đó đứng lại, rồi bước sang một bên và dần dần tan biến mất dạng. Bà nhìn thấy thật rõ ràng, liền vội vã đi nhanh lên, cả đến gánh củi cũng không màng tới.

Trên đường chạy về nhà miệng bà vẫn không ngớt niệm “Nam Mô A Di Đà Phật, Nam Mô A Di Đà Phật, Nam Mô A Di Đà Phật”. Nhưng chạy được một hồi bỗng nhiên đôi chân không thể cất lên được nữa, lúc đó trong bụng bà cảm thấy rất lỳ lạ. Tại sao mà đôi chân bỗng nhiên không đi được, liền cố gắng tự phấn chấn tinh thần lên, khom lưng xuống đưa tay sờ lên mặt đất, bà mới hay lại qua một lần đại nạn nữa, thì ra chỉ cần tiếp tục tiến về phía trước một bước nữa là sẽ rớt xuống một khe suối lớn rồi!

Lắng tai nghe kỹ tiếng nước chảy trong khe rất mạnh. Bà khi đó càng cảm tạ ân đức của Phật A Di Đà đã từ bi cứu giúp, nếu như không phải hai chân bất động, đi tiếp một bước nữa thì rơi vào trong khe, bị nước cuốn trôi, cả nhà cũng không ai hay biết, chắc chắn mãi mãi ngậm hờn nơi chín suối. Lúc bấy giờ ở khe suối đó người ta dùng miếng ván nhỏ làm cầu, bà liền dùng hai tay hai chân như móc câu mà bò qua. Qua khe xong, mới thở ra một hơi nhẹ nhõm, rồi thẳng lưng lên tiếp tục chạy về phía trước.

Liên tục ba lần lạ lùng như vậy, hễ đến sát bên bờ khe, thì chân tự động dừng bước, thật là không thể nghĩ bàn! Sai một bước, nếu không phải là chết đuối thì cũng té bể đầu, vỡ sọ, gãy tay, gãy chân… do vì ban đêm nhìn không thấy rõ.

Bà về đến nhà là đã 12 giờ khuya!

Ngày hôm sau, bà trở lại tìm gánh củi hồi tối mình quăng mất, thuận tiện bà đã đi dò hỏi những người ở trạm xe, về cái bóng đen hồi tối hôm qua mà mình thấy rốt cuộc là cái gì?
Người ta liền nói cho bà biết: “Thuở trước có một người bị tai nạn chết ngay chỗ đó, có lẽ âm hồn không tan, nên thường hiện ra nơi đó”.

* Triều nhà Tống có một người tên Trương Thành ở huyện Kiết Thủy, tỉnh Giang Tây.

Vào niên hiệu Càn Đạo, năm thứ nhất, ông đi đến Đàm Châu để thăm người bạn cũ, sau đó tới Kinh đô để tham quan và lễ bái lăng tẩm của các Tiên đế. Đêm đến, ông chọn một quán trọ để nghĩ chân thì người chủ quán trọ này rất niềm nở tiếp đón, dọn rượu thịt ra mời ông dùng. Trương Thành thấy vậy thì lấy làm lạ vì giữa mình và người chủ quán trọ này không hề quen biết nên ông có ý đề phòng, nên lúc ăn thì ông không dùng đến rượu.

Do bởi, đường xa mỏi mệt nên vừa ăn xong thì ông đi nằm nghỉ. Đến lúc nửa đêm bỗng nhiên ông giật mình thức giấc, nhìn thấy nhà trên đèn nến thắp sáng rực, ông ngồi dậy lén dòm qua khe cửa thì thấy người chủ nhà trọ áo mão chỉnh tề đang đứng trước một bức tượng vẽ, rót trà ngon rượu quý, lễ bái cầu đảo. Ông lắng tai nghe thì trong lời cầu nguyện có nhắc đến tên của mình, nên trong tâm ông đoán là chủ nhà trọ chuẩn bị đem mình ra tế quỉ, vì thế không dám nằm ngủ lại.

Chủ nhà trọ làm lễ xong thì lui ra, lúc ấy ông nhìn thấy bức tượng vẽ đôi mắt lớn như cái chén thì biết chắc là hình tượng của ác thần. Do thường ngày ông cũng trì tụng Thần Chú Đại Bi, giờ khắc này ông nhớ đến trong kinh nói Thần chú Đại bi có thể trừ tà ma yêu quái nên chí thành khởi tâm trì tụng, cung kính cầu xin cho thoát khỏi tai nạn. Tụng vài biến thì thấy Hung thần từ bức tượng vẽ bước ra, hình trạng hung dữ ghê gớm đi về phía phòng mình thì ông bước ra đóng cửa phòng lại, rồi lên giường ngồi nghiêm chỉnh, chuyên tâm trì chú, giây lát nghe có tiếng gõ cửa và đẩy cửa vào nhưng không được, hồi lâu sau đó có tiếng bỏ đi.

Ông vẫn thành tâm trì niệm cho đến khi trời sáng, rồi vội vã rời khỏi quán trọ. Khi vừa ra khỏi quán trọ thì ông nghe tiếng khóc lóc rất thê thảm, ông đi chừng một cây số thì dừng lại hỏi thăm người xung quanh, thì được kể là đêm hôm qua chủ nhà trọ đã chết.

Hỏi nguyên nhân thì những người này cho biết chủ quán trọ này đã ba đời thờ yêu quái. Mỗi năm đều phải cúng tế một người, nếu không có người ngoài thì họa sẽ lây đến gia trưởng, mà ở xứ sông Tương này thường có ác tục như thế. Ông sau khi thoát nạn về đến nhà thì đóng cửa chuyên tâm niệm Phật, trì chú không ra ngoài nữa.

*Triều nhà Tống có một người tên Lại Tỉnh Cáng ở tỉnh Kiến Ninh, chuyên dùng yêu thuật để lừa gạt người kiếm sống, và dùng người để cúng tế quỉ thần.

Ông một lần nọ đến tỉnh Chiết Giang dụ dỗ đồng nam đồng nữ từ mười tuổi trở xuống đi theo mình để đem về nuôi và cúng tế cho quỉ ăn. Trong số trẻ con bị dụ dỗ, có một bé gái là con của một Phật tử, bé gái này thường theo mẹ tụng kinh niệm Phật, vì còn nhỏ nên chỉ thuộc Bát Nhã Tâm Kinh và niệm Thánh hiệu Quán Âm Bồ Tát.

Một hôm ông đem bé gái này ra cúng tế cho quỷ, hắn tắm gội sạch sẽ cho bé gái và thay trang phục hết sức đẹp đẽ rồi trói lại để trong một nhà trống.

Đứa bé gái vô cùng kinh sợ bèn một lòng trì tụng Bát Nhã Tâm Kinh, đến lúc nửa đêm thì cửa sổ trên nóc nhà tự mở, bé thấy một quái vật từ trên ấy đi xuống, mắt sáng như điện chớp. Bé kinh hoảng miệng niệm lớn: “Nam Mô Đại Bi Quán Thế Âm Bồ Tát – Yết đế yết đế, Ba la yết đế, Ba la tăng yết đế, Bồ đế tát bà ha”.

Bỗng nhiên trong miệng bé gái phóng ra quang minh, quái vật đang tiến về bé gái phải lùi lại. Quang minh trong miệng bé gái càng lúc càng lớn và phóng về hướng quái vật, rồi một tiếng động lớn phát ra, quái vật ngã nhào dưới đất.

Bé hoảng sợ la to: “Cứu tôi với, cứu tôi với!”

Lúc ấy, phía bên ngoài có một toán quân đang đi tuần, nghe tiếng kêu cứu, họ liền phá cửa để vào thì nhìn thấy xác một con bạch mãng xà lớn, chết cứng bên cạnh một bé gái bị trói.

Nghe bé kể chuyện xong thì các binh sĩ này đưa bé gái về nhà, sau đó bắt giữ Tỉnh Cáng và những người liên quan đưa về phủ tra hỏi. Sau khi ông nhận tội thì triều đình có lệnh tịch thu toàn bộ gia sản, bắt ông và gia đình đày ra nơi biên địa.

*Triều nhà Minh, Phật tử Trương Tổ là người ở Cao Kiều, Tô Châu. Ông vốn là một Phật tử thành kính ngôi Tam bảo, bình nhật ông hay sắm đồ cúng dường Tam Bảo.

Vào niên hiệu Vạn Lịch, năm Tân Hợi, Trương Tổ đến Phổ Đà Sơn để chiêm bái Quán Âm Bồ Tát. Khi đi, ông dắt theo đứa cháu nội 8 tuổi.

Lúc xuống thuyền, đứa bé ấy bỗng thấy tất cả người trong thuyền đều bị trói cột tay chân. Nó hoảng sợ vội theo sau, nắm vạt áo của ông kéo lại và nói sự lạ lùng ấy. Ông vừa nghe thì sợ hãi, bèn dắt cháu lên bờ.

Đến thuyền thứ hai, đứa bé ấy cũng nói nó thấy giống như trước. Ông lại dắt cháu lên bờ đi tìm chiếc thuyền thứ ba.

Khi vừa xuống thuyền này, ông hỏi cháu mình có thấy điều lạ không, thì nó đáp: “Con chỉ thấy ở hai chiếc thuyền trước có sự lạ như vậy còn chiếc thuyền này và các chiếc khác đều không có.”

Lúc ấy, trong ý của ông chưa biết quyết định như thế nào thì bỗng phía trước có hai người kêu lớn rằng: “Ông đừng đi lên hai chiếc thuyền kia, nên lên thuyền này mà đi, thuyền này rất an ổn.”

Ông dụ dự còn chưa muốn bước lên thuyền thì trong giây lát cảm thấy dường như ở phía sau có người xô đẩy. Ông lập tức dắt cháu lên thuyền. Khi vừa ngồi tạm yên thì người kêu cũng như người xô đẩy ông lúc nãy biến mất.

Bấy giờ mặt trời sắp lặn, thuyền cũng vừa đến biển lớn, đột nhiên ba đào nổi dậy trắng xóa, lượn sóng nào cũng cao như núi. Hai chiếc thuyền trước đều bị chìm lật úp, tất cả mọi người trên thuyền không người sống sót. Riêng chiếc thuyền ông đi thì vẫn an nhiên vô sự.

Ba ngày sau đó, quan huyện ở Nhơn Hào ra biển tuần hành kiểm soát thì phát hiện thấy ở xác của những tử thi nổi lên, phía sau lưng của mỗi người đều có cột 2 cây côn và dao nhọn. Quan huyện nhìn thì biết đây là đồ dùng để giết người cướp của, nên suy luận theo đó thì biết bọn người trên hai chiếc thuyền bị chìm này đều là bọn vô lại, chuyên hành nghề bất chánh, vì chủ thuyền không biết nên mới rước họ đi biển, nên bọn chúng đã bị trừng trị.

* Triều nhà Lương có thầy Huệ Giảng là người nghiêm trì giới luật, tu hành tinh tiến, tính tình can đảm tràn đầy nghị lực mà lại khiêm hạ nên ai cũng tán thán là người hiếm thấy trong thiên hạ.

Ở phía Đông, có dinh thự của quan địa phương tại Kinh Châu. Dinh thự này có ba gian riêng biệt, tuy nhiên chỗ ấy từ trước đến giờ không ai dám đến ở vì nghe nói có yêu ma quỉ quái. Thầy bèn đến xin nơi dinh thự này và dùng cả ba gian, một gian thờ Phật, một gian thờ kinh và một gian để ở.

Một tối nọ, thầy bỗng nhìn thấy một người mặc y phục màu đen nhưng không có mắt, hiện ra từ trong vách tường, đứng nơi cửa gian phòng nghỉ của thầy. Trong tâm thầy vẫn bình tĩnh nhưng miệng không thốt được thành tiếng nên lúc ấy, thầy chí thành thầm niệm Thánh hiệu Quán Âm Bồ Tát.

Giây lâu sau, thì quỉ tự nói: “Tôi nghe nói Ngài tu hành tinh tấn nên đến đây để thử. Giờ phút này, thần sắc của Ngài vẫn an nhiên bất động nên tôi đâu dám làm hại.”

Nói rồi, quỉ liền trở vào lại trong vách.

Thầy bèn xuống giường rửa tay xúc miệng, lạy Phật tụng kinh xong thì trở về chỗ ngủ lại như thường.

Trong đêm ấy, thầy nằm mộng thấy một người đến trước mặt nói: “Thưa Ngài, tôi đây là người đã ở đây từ cuối nhà Hán đến nay đã trải qua vài trăm năm, tính tình cương trực ít người chịu nổi.

Ngài là người giới hạnh thanh tịnh, tu hành tinh tấn xứng là bậc hảo nhân nên tôi đặc biệt ủng hộ cho Ngài vậy.”

Thầy an trụ nơi đó nhiều năm vẫn bình yên, khi thầy đi nơi khác thì dinh thự nói trên để trống trở lại vì vẫn không có một ai dám đến ở.

* Triều nhà Lương có thầy Đạo Dung. Một hôm có duyên sự phải đi ra ngoài, khi trở về chùa thì trời đã tối bèn tìm đến một quán trọ để nghỉ chân. Một mình nghỉ trong phòng vắng, nhằm lúc trời mưa to gió lớn nên thầy trằn trọc không ngủ được.

Đến lúc nửa đêm, lúc vừa thiu thiu ngủ thì trông thấy binh tướng của quỉ đến rất đông, trong đó chúa quỉ thân mặc áo giáp, dưới nách cặp đao, hình dung trông rất ghê sợ.

Lúc ấy quỉ ngồi xổm chân ở trước giường, đối diện với thầy, sắc mặt hung dữ xẳng tiếng quát hỏi: “Tại sao ngươi dám cả gan cho là quỉ thần không linh thiêng?”

Rồi ra lệnh: “Chúng bây đâu, mau lôi nó xuống đất”.

Quỉ tốt vâng lời bu lại định bắt, thì thầy chí thành niệm lớn “Nam Mô Đại từ Đại bi Quán Thế Âm Bồ Tát”, vừa dứt lời thì phía sau giường bỗng có một vị Thiên tướng thân cao hơn 3 mét, y phục sắc vàng, tay cầm chày báu kim cương, hướng về phía quỉ, bọn quỉ kinh hồn thất phách bỏ chạy tứ tán, áo giáp mũ mão khí giới đều bị nát tan như bụi.

*Triều nhà Minh, vào niên hiệu Vạn Lịch, có người tên là Tiêu Giáp làm quan ở huyện Tiêu Văn. Do có công soạn bộ Sự Tích Hồ Quảng mà được thăng lên chức Lương Sự. Tiêu Giáp lúc rảnh rỗi thường ngao du chốn núi sông, thưởng ngoạn nơi biển cả.

Một hôm, có một vị hòa thượng ở Nam Hải từ đất Thục đến xin quá giang thuyền để về Phổ Đà, nhưng chủ thuyền không ưng thuận.

Hòa thượng thấy ông là hàng hoạn quan và là người tử tế nên đem sự tình thổ lộ với Giáp rằng:

– Không dấu gì Ngài, bần tăng từ lâu đi quyên góp được 600 lạng vàng, định đem về Phổ Đà kiến lập bảo điện thờ đức Quán Âm Bồ Tát. Mong Ngài thương lượng giúp với chủ thuyền cho tôi được quá giang thì công đức ấy thật vô lượng vô biên, vì chắc Ngài cũng dư rõ, bần tăng một mình mà lại nhiều tài bảo, ở lại đây chắc là bất tiện.

Ông ưng thuận thương lượng với chủ thuyền cho hòa thượng cùng đi. Nhưng đi được vài ngày, trong lòng ông bỗng khởi ác niệm. Thừa lúc đêm tối, sóng to gió lớn, ông liệng hòa thượng xuống biển, đến giở tráp ra thì quả nhiên có số vàng mấy trăm lượng.

Khi trời vừa hừng sáng thì bỗng ông thấy hòa thượng ấy từ dưới biển ngoi lên đứng trước mặt đòi mạng. Từ đấy, ngày đêm hòa thượng luôn hiện hình khuấy rối, vì vậy trong tâm ông lúc nào cũng vô cùng lo sợ, không một phút tạm yên nên sanh trọng bệnh. Ông đi khắp nơi cầu đảo khấn vái nhưng vô hiệu, hình bóng hòa thượng không lúc nào xa rời. Bệnh gần một năm thì số vàng của hòa thượng, cũng như tài vật của gia đình ông đều tiêu sạch.

Ngày nọ, vị hòa thượng quá cố nói trên bỗng nhiên xuất hiện. Ngài cầm chiếc gậy đến viếng thăm ông và bảo ông rằng:

– Thưa Ngài, tôi đây chính là người thật, chẳng phải quỷ ma đâu! Năm vừa rồi, lúc tôi bị ném xuống biển, đang lênh đênh trên sóng gió thì trong tâm tự nghĩ thế nào cũng sẽ chết. Giờ phút ấy tôi vẫn nhớ Phật, niệm Phật, nên cầu vãng sanh về Tây Phương Cực Lạc, đột nhiên Đức Đại Bi Quán Thế Âm từ trong không trung giáng hạ, tay cầm một ngọn đèn rồi đưa tôi vào một bãi lau, sau đó thì gặp được một người chài lưới cứu thoát. 600 lạng vàng ấy dù bị Ngài cướp đoạt, nhưng sau khi thoát nạn thì tôi liền đi quyên góp lại và số ấy đến nay đã gần đủ. Hiện nay tôi đang về Phổ Đà để thù đáp bổn nguyện năm xưa. Khi ngang qua xứ Giang Âm này thì tôi nghe dân chúng xôn xao truyền rằng Ngài mắc phải chứng bệnh lạ, nên đến đây thăm viếng, tôi khuyên Ngài hãy bỏ hẳn cái sai lầm ấy đi. Hiện giờ bần tăng cũng có phần đói bụng nên xin Ngài cho một bữa cơm chay rồi sẽ từ biệt lên đường.

Sau khi hòa thượng thọ trai xong thì từ giã ông, cất bước lên đường. Ông trong ý vẫn còn ngờ vực nên cho người theo chân hòa thượng dò xét, quả nhiên thấy Ngài cầm gậy, bước lên thuyền đang đậu sẵn nơi bờ biển.

Từ ấy, hình bóng ma quỷ hoàn toàn không hiện nữa, nhưng bệnh trạng của ông vẫn không thuyên giảm chút nào. Trải qua vài tháng thì thần thức rời khỏi thân xác, theo nghiệp vào chốn u minh để thọ cực hình thảm khốc do chính mình đã tạo.

Ông chỉ có một người con trai, học vấn văn chương có tiếng. Nếu gặp vận tốt thì có lẽ đã làm đến đại quan hơn cha mình nhiều nhưng đến kỳ ứng thí, vì cha chết nên không thể bỏ đi. Không biết thiếu niên ấy vì buồn rầu hay vì nhìn thấy cha chết nằm đó chưa chôn mà thẩn thờ đi ra bờ sông rồi nhảy xuống sông tự tử.

Hòa thượng, sau khi về đến Nam Hải, Ngài được tin cha con của ông đều qua đời một cách thảm thiết, với niềm bi mẫn của một người đã xuất gia, nghĩ đến ác nghiệp của chúng sanh, lòng hòa thượng đau như cắt. Ngài quá thương tâm nên không thể ngăn được giọt lệ, từ ấy mỗi thời khóa tu niệm hàng ngày, lễ Sám, niệm Phật, Ngài đều nhất tâm cầu nguyện cho cha con họ Tiêu được mau thoái khỏi luân hồi mà vãng sanh về Cực Lạc.

*Thời nhà Tấn, có Nam Cung Tử Ngao là người ở Thủy Bình, làm quan đến hàng tam phẩm. Sau nhà vua nghe lời dua nịnh của bọn gian thần cho là ông đã ăn hối lộ quốc khố triều đình trong việc sửa đê chống lũ. Vì thế ông bị đày đi Vân Nam.

Ngay lúc này, Trường Lạc Công làm loạn, thành Vân Nam bị thất thủ, nên ông bị bắt làm tù binh. Biết mình chẳng thể nào sống dưới lưỡi dao của Trường Lạc Công nên ông chuyên lòng niệm danh hiệu Bồ Tát Quán Thế Âm cầu mong thoát khỏi kiếp nạn này.

Khi bị dẫn ra pháp trường, ông vẫn không thay đổi thần sắc, nhất tâm niệm Bồ Tát. Đến lúc hành hình, thì đao phủ cảm thấy tứ chi bải hoải, mỏi mệt vô cùng, không cầm nổi lấy thanh đao. Lúc quân sĩ đến chém xuống mấy dao, tự nhiên lưỡi dao cong gãy, chỉ làm trầy sơ sơ chứ chém chẳng được nữa.

Trường Lạc Công lấy làm lạ cho là tà thuật, rồi tự tay lấy dao mà chém. Nhưng chém cách nào đi nữa Nam Cung vẫn bình yên không tổn một mảy lông. Trường Lạc Công thấy vậy hỏi:

– Ngươi có bản lãnh gì mà được như vậy hả? Có phải ngươi là yêu tinh hiện hình làm nhiễu loạn lòng quân của ta không?

Ông đáp:

– Thưa Trường nguyên soái! Tôi vốn chẳng phải yêu tinh, quỷ quái mà tôi là quan bị đày của Tấn quốc. Vì vua tôi nghe lời bất chánh nên thân tôi phải gánh lấy hậu quả thế này.

Trường Lạc Công ngắt lời:

– Vậy ngươi tu thuật trường sinh bất tử sao?

Ông đáp:

– Bẩm ngài không phải! Vốn là từ khi bị đày đến Vân Nam, lúc nào tôi cũng chuyên lòng trì niệm danh hiệu Bồ Tát Quán Thế Âm. Chính vì thế mới được Đại Sĩ che chở khỏi đại nạn.

Nghe vậy, Trường Lạc Công bèn phóng thích cho ông toàn mạng sống.

Sau khi thoát nạn trở về cố hương, Tử Ngao phát nguyện tạo một tượng Quán Âm nhỏ, dùng hộp đàn hương cất giữ, đi đâu thì đội trên đầu và thường xưng niệm Thánh hiệu Quan Âm.

Lời bàn:

Kinh Hoa Nghiêm, Phật dạy: “Tin là nguồn đạo, mẹ công đức, nuôi lớn tất cả các pháp lành, dứt trừ lưới nghi, thoát dòng ái, mở lối Niết Bàn, đạo vô thượng; tin lòng trong sạch không dơ bẩn, dứt trừ kiêu mạn, là gốc của cung kính, là vật quý thứ nhất trong kho pháp, là tay trong sạch lãnh các hạnh; tin hay huệ thí tâm không tham; tin hay vui mừng vào Phật pháp; tin hay thêm lớn trí công đức; tin hay quyết đến cõi Như Lai; tin khiến các căn lành sáng suốt; tin sức bền chắc không thể hư; tin hay dứt hẳn gốc phiền não; tin hay hướng về Phật công đức; tin đối cảnh giới không tham lam, xa lìa các tai nạn; tin hay vượt khỏi các đường ma, thị hiện đạo vô thượng giải thoát; tin hay nuôi lớn cây Bồ đề; tin hay tăng trưởng trí huệ tối thượng; tin hay thị hiện tất cả Phật”.

Thật vậy, nếu niệm Phật, niệm Bồ Tát với lòng tin kiên cố dù chỉ trong giây phút công đức vẫn không thể nghĩ bàn.

Trong mỗi con người đều hàm chứa một đức tin. Có người tin cạn, có người tin sâu, có người tin ít, có người tin nhiều. Chung quy đều được lợi ích!

Thế nhưng đường vào Phật đạo cao xa vời vợi, nếu lấy niềm tin nhỏ bé mà đi vào thì quả thật “tìm kim đáy biển”. Vì thế muốn đạt được sự cảm ứng giữa ta và Phật thì cần phải có đức tin sâu dầy. Đó chính là con thuyền lớn, cỗ xe lớn đưa chúng ta đến gần Phật đạo. Câu chuyện trên đây là một thí dụ điển hình.

Nam Cung Tử Ngao nhờ tin sâu và danh hiệu đức Quán Thế Âm mà thành tâm niệm. Niệm đến quên cả thời gian, quên cả không gian, vượt ra ngoài hai chữ “sống chết”. Chỉ trong giây phút ngắn ngủi mà thể nhập được pháp giới chân như. Ngay khi đó đức Quán Thế Âm soi thấu tiếng tăm thị hiện cứu cho thoát nạn.

Chúng ta ngày nay cũng niệm. Niệm một ngày không biết bao nhiêu mà kể. Hễ gặp ai cũng lớn tiếng nói rằng: “Một ngày tôi niệm ba, bốn chục xâu chuỗi Phật. Đi cũng niệm, đứng cũng niệm, ngồi cũng niệm, ăn cũng niệm,… lúc nào cũng niệm mà có thấy gì đâu. Huống hồ chỉ niệm trong giây lát”.

Đúng! Người này nói rất đúng. Song chúng ta cần phải kiểm chứng lại xem mình có chí tâm, có thành lòng hay chưa? Có thực sự an trụ vào câu niệm Phật hay chưa? Hay là vừa khởi tâm niệm Phật thì ngay lúc đó niệm tham, niệm sân, niệm si, niệm tật đố, ganh ghét xen vào. Niệm như vậy cả đời cũng chỉ là “Dã tràng xe cát biển Đông; Nhọc nhằn mà chẳng nên công cán gì”, thế thì làm sao bằng người nhất tâm niệm Phật trong phút chốc!

*Trong niên hiệu Càn Phù đời Đường, Tiết Độ Sứ Duyện Châu là Thôi Thượng Thư, luật lệ rất nghiêm khắc. Một viên tướng không đến dinh đúng hạn, ông Thôi bèn hạ lệnh xử trảm ngoài cửa dinh.

Vị tướng ấy bị chém xong, vẻ mặt chẳng đổi. Canh ba đêm ấy liền trở về nhà. Vợ con kinh hoảng tưởng là quỷ hiện. Viên tướng nói: “Thoạt tiên khi bị chém đầu, như say, như mê ngủ, chẳng đau đớn gì hết. Nửa đêm, nhận biết thân đi đến giữa đường, do gần nhà nên trở về”.

Sáng sớm, viên tướng trở vào dinh tạ lỗi, ông Thôi kinh hãi, ngỡ là huyễn thuật. Viên tướng nói: “Trọn chẳng phải là huyễn thuật, tôi chỉ có đọc kinh Kim Cang từ nhỏ, mỗi ngày ba biến. Ngày hôm qua do tụng kinh nên đến trễ”.

Họ Thôi ra lệnh lấy kinh tới. Đem kinh đến thì hộp kinh trông vẫn như cũ, nhưng khi mở ra xem thì cuốn kinh đã đứt làm hai đoạn. Thôi Thượng Thư hết sức kinh hãi, liền ban áo, sai chép một trăm quyển kinh để cúng dường.

Hiện nay ở ngoài cửa chùa Diên Thọ tại Duyện Châu, Tế Ninh, tỉnh Quảng Đông chính là chỗ viên tướng ấy bị xử trảm, hình tượng cuốn kinh bị chém đứt vẫn còn.

*Trong niên hiệu Trung Hòa đời Đường, người đất Thục là Triệu An thường trì kinh Kim Cang. Từ nơi gò mả ngoài đồng, bỗng nhiên ông nhặt được một tấm áo, bị hàng xóm vu cáo là ăn cắp, nên ông bị bắt giải lên quan huyện. Quan bèn dùng kìm lớn kẹp đùi, kìm liền gãy thành ba đoạn. Lại truyền đánh trượng vào lưng, trượng vừa đập xuống liền gãy. Vì thế, được quan tha về. Khi ông về vừa tới nhà thì bà vợ bèn nói: “Ngày hôm qua thiếp nghe trong hộp đựng kinh của chàng có tiếng chấn động rất mạnh, thiếp sợ quá chẳng dám mở ra xem”.

Ông liền vội vàng mở hộp ra coi thì thấy bìa của quyển kinh đã đứt rời, giấy bị rách nát bét.

*Vào đời Đường, có người họ Tào tên là Bá Liên ở Lô Lăng, bản tánh tự nhiên ưa thích dùng rau cải chay lạt. Từ thuở nhỏ đã có chí nguyện xuất gia. Ông là người mạnh mẽ mà dung mạo xấu xí. Vả lại, tính tình của ông hiền lành thiện lương, thường trì tụng Kinh Kim Cương, ông dùng ống trúc đựng đầy kinh luôn đeo kè kè bên mình. Ông phát thệ chẳng lập gia đình, nhưng chẳng biểu lộ ra bên ngoài cho người hay biết, âm thầm hành trì thật là chí thiết.

Khi ấy, có loạn An Lộc Sơn, nên Thứ Sử Lưu Ninh bắt lính rất ngặt.

Tháng 11 năm 772, nhằm niên hiệu Đại Lịch thứ 7, ông bị bắt sung vào binh lính, vì thấy ông quá khỏe mạnh quan trên liền giao cho làm Tiểu tướng trong quân đội. Thật chẳng phải điều ưa thích đối với ông, nên ông có ý định quyên sinh.

Sau đó, do ông trái lệnh nên bị đem đi trị tội. Khi đưa đến cầu Chu Mộc để xử tử, lúc chém xuống đao bị gãy, mà thay đao ba lần đều như thế cả. Thứ Sử Lưu Ninh lấy làm lạ, tra hỏi. Ông thưa rằng: “Tôi trọn mang chí hướng xuất gia, thầm trì kinh pháp”.

– Kinh hiện giờ ngươi cất ở đâu?

– Khi bị bắt tôi đã đánh mất rồi!

Lưu Ninh bèn sai người đi tìm, bèn tìm được ống trúc đựng kinh cách đó vài chục mét. Quan sát thì thấy ống trúc có vết đao chém sâu xuống gần như đứt lìa.

Lưu Ninh liền vòng tay ca ngợi, tán thán rồi phóng thích ông.

Ông bèn xuất gia làm Tăng.

Sau đó Lưu Ninh đem sự việc của ông tấu trình lên triều đình. Vua Đường Đại Tông ban sắc tặng sư Đạo hiệu là “Tam Đao Pháp Sư”, đồng thời sắc tứ sư trụ chùa Long Hưng trong bổn Châu.

*Đầu niên hiệu Vĩnh Thái đời Đường, có anh chàng làm lính canh gác phong hỏa đài ở Phong Châu buổi tối ra ngoài ải bị giặc bắt đem về Tây Phiên nuôi ngựa.
Sống ở đấy một năm, mộng thấy mẹ, muốn trở về, nhưng luật của người Phiên rất ngặt, không có lệ tha về. Tướng Phiên khá nhân từ, lén cho anh hai con ngựa, bảo hãy trốn đi.
Anh bắt ngựa chạy quá sức, cả hai con đều chết, bèn ngày ẩn núp, đêm đi. Chân lại bị sỏi đá đâm bị thương, gục ngã trong sa mạc, chợt có gió thổi vật gì lướt qua trước mặt, do vậy nắm lấy để buộc chân, trong khoảnh khắc không còn đau đớn nữa, bèn lên đường.

Khi về được nhà gặp mẹ, mẹ nói: “Kể từ sau khi con bị mất tích, mẹ chỉ niệm kinh Kim Cang. Do thỉnh kinh để lạy, đường chỉ khâu các trang kinh bị đứt, mất mấy trang, chẳng biết vì lẽ nào?”
Đến khi con kể với mẹ chuyện chân bị thương, tháo băng ra nhìn thì vật để buộc vết thương chính là mấy trang kinh đã mất vậy!

*Trong niên hiệu Nguyên Hòa đời Đường, Cường Bá Đạt ở Phòng Châu, dòng họ đời đời mắc ác tật cùi hủi đã hai trăm năm. Bá Đạt mắc bệnh năm hai mươi tuổi, tự biết chẳng khỏi được, bèn xin cha anh sắp đặt lương thực, đưa đến ẩn dưới gộp đá trong núi.

Chợt có vị tăng đi qua, thương xót, dạy hãy niệm bốn câu kệ trong kinh Kim Cang. Niệm mấy ngày, đột nhiên có con cọp đi đến, Bá Đạt cả kinh nhắm mắt chí thành trì niệm. Cọp bèn liếm quanh chỗ lở loét, anh cảm thấy mát mẻ như được đắp thuốc. Hồi lâu sau, cọp bỏ đi, vết thương đã khô miệng. Ngày hôm sau, vị tăng lại đến trao cho một ôm cỏ xanh, bảo trở về nhà, nấu nước tắm.

Trở về nhà tắm liền hết lở loét, ác tật vĩnh viễn chấm dứt.

*Đời Đường có một phú thương hằng tụng kinh Kim Cang, thường mang quyển kinh theo bên mình. Ông ta từng buôn bán ở Cao Ly, đêm ngủ nơi hải đảo. Các lái buôn tham muốn tài sản của ông ta bèn cùng nhau sát hại bằng cách nhét ông ta vào một cái sọt lớn, bỏ thêm một tảng đá to, đem cả cuốn kinh cùng nhận chìm xuống đáy biển.

Bình minh, lũ lái buôn nhổ neo ra đi, nhưng ở hòn đảo họ đậu thuyền hồi đêm có một ngôi chùa. Tăng chúng mỗi đêm nghe có tiếng người tụng kinh Kim Cang, tiếng vang lên từ đáy biển, lấy làm lạ, bèn sai người lặn giỏi xuống nước tìm, bèn lôi cái sọt lên. Anh lái buôn nói: “Khi tôi bị giết dìm xuống đáy biển, chẳng biết là ở trong sọt, chỉ cảm thấy như thân ở trong cung điện, thường có người đưa đồ ăn uống tới, nên rất an lạc tự tại”.

Anh ta bèn xuống tóc làm tăng, xuất gia tại ngôi chùa trên hải đảo.

*Vào đời Đường, Tống Khản là người xứ Giang Hoài, làm nghề biên chép mướn cho Diêm Thiết Viện, lương mỗi tháng là hai ngàn.

Sau khi cưới vợ, an phận thủ thường sống tạm qua ngày, chẳng tính làm nghề khác. Được hơn một năm, có nhà lái buôn mua bán gạo đi sang Tam Môn, mời ông theo giữ sổ sách, trả lương mỗi tháng tám ngàn.

Vợ ông là Dương Thị rất hiền, thấy đường đi đến Tam Môn vô cùng hiểm trở bèn can ngăn. Nhưng ông không nghe, cứ đi. Quả nhiên gặp sóng gió thuyền chìm, ông rớt xuống nước, thời may nắm được một bó rạ, trôi nổi vào gần bờ, thoát nạn. Những người khác đều chết hết. Do vậy bèn biết ơn bó rạ, thề chẳng vứt bỏ.

Đi được mấy dặm đường thì trời tối, bỗng thấy có một bà lão trơ trọi bán trà, có hai gian nhà tranh, bèn xin ngủ qua đêm ở đó. Đến sáng phơi áo, lại tháo bó rạ để phơi, tìm được một ống tre. Mở ra thì là kinh Kim Cang đựng trong ấy. Bà cụ bảo: “Là do từ sau khi ông ra đi, vợ ông lễ niệm, chép kinh thành khẩn, thiết tha lễ tụng, nên mới cứu được ông đấy!”

Rồi bà cụ chỉ cho con đường tắt về phía Đông Nam, bảo: “Cứ đi theo đường ấy, ngày mốt sẽ về đến nhà”.

Ông đi hai ngày về đến nhà, thấy vợ liền thẹn thùng cảm tạ. Lấy kinh ra, quả nhiên là do vợ chép. Do vậy, nhờ người đến cảm tạ bà lão. Đến nơi thì người lẫn nhà đều chẳng thấy tông tích, mới hay chính là thần biến hóa ra.

Quan Tướng Quốc là Trịnh Công Nhân nghe chuyện, ban cho ông chức quan võ, chu cấp lương mỗi tháng 5000. Sau đó, họ Trịnh thỉnh bản kinh ấy để tôn thờ.

*Đời Đường, vị Tăng ở Quảng Châu là Kiền Huệ, thọ trì kinh Kim Cang từ bé. Do vượt biển sang Việt Nam, gặp trận sóng gió lớn, thuyền lật, người chết, ngẫu nhiên sư gặp được một đám cỏ bồng hao, dùng tay nắm chặt, lênh đênh lướt sóng ba ngày. Đến bờ, tách cỏ ra xem, thấy trong cỏ bồng hao có một quyển kinh Kim Cang chẳng hề bị ướt.

Về sau, sư sống đến một trăm ba mươi tuổi, một hôm sư ngồi ngay ngắn mà qua đời. Cuốn kinh ấy tự tỏa ra khói thơm, dần dần hóa thành đám mây năm sắc, từ từ bốc lên trời. Tăng chúng và Thái Thú, quan liêu, già trẻ xa gần trông thấy thảy đều vô cùng cảm kích.

*Vào đời Đường, Khang Trọng Thích qua Triều Tiên mấy năm chẳng về. Mẹ ông ở nhà nhớ mong tha thiết, có vị Tăng bảo: “Chỉ trì kinh Kim Cang thì con bà sẽ về”.

Vì bà không biết chữ, nên nhờ người chép kinh, khoét cột nhà đặt vào, quét sơn lên trên, sáng tối cung kính đảnh lễ.

Một hôm trời nổi sấm ầm ĩ, sét đánh cái cột ấy văng mất đi. Hơn tháng sau, khi Trọng Thích trở về, dùng túi gấm đựng một khúc gỗ to, thưa với mẹ: “Con ở giữa biển gặp bão, thuyền thủng, té xuống nước, chợt có tiếng sấm nổ vang rền dữ dội bỗng nhiên con bám được khúc gỗ này, nhờ đó mà con được nổi lên, trôi dạt vào bờ. Cho nên con tôn kính nó”.

Mẹ ông nhìn kỹ rồi bảo: “Đây chính là cây cột đựng kinh của ta!”

Khi chẻ khúc gỗ ấy ra, quả nhiên có quyển kinh Kim Cang. Từ đó hai mẹ con suốt đời trì tụng chí thiết hơn.

*Triều nhà Tấn có Từ Vinh là người ở Lang Gia, tỉnh Sơn Đông. Một độ nọ Vinh có duyên sự phải đến Đông Dương.

Khi trở về thì đi bằng đường thủy, lúc đến Định Sơn thì do người lái thuyền không thạo đường nên thuyền đi vào chỗ nước xoáy. Khi thuyền sắp bị chìm thì Từ Vinh chí thành cung kính xưng niệm danh hiệu Quán Âm Đại Sĩ.

Chỉ trong chốc lát, dường như có sức mạnh vô hình của vài mươi người đồng sức kéo chiếc thuyền ra khỏi vùng nước xoáy và đưa thuyền ông đi dọc theo bờ sông.

Khổ nỗi, lúc ấy mặt trời đã lặn, bầu trời tối tăm như mực, lại gặp lúc mưa to gió lớn, chiếc thuyền chỉ tiến về trước mà không biết phải đi theo hướng nào, lại sóng nhồi dữ dội nên thuyền mấy lần muốn lật úp.

Ông lại chí tâm tụng kinh Phổ Môn không dứt, bỗng thấy trên đầu núi có ánh đèn lửa soi sáng như ánh đèn hải đăng, nhờ đó ghe của ông vào đến bờ an ổn.

Sau khi vào bờ thì không ai còn nhìn thấy đèn lửa ấy nữa.

Sáng hôm sau, ông đi dò hỏi mọi người trong vùng xem ai đã đốt lửa cứu mình thì dân chúng rất ngạc nhiên bảo rằng:

– Đêm qua mưa to gió lớn như bão thì làm gì có đèn lửa trên đầu núi cho được!

Bấy giờ, ông mới biết chính là nhờ từ lực của Đại Sĩ gia hộ.

Ông về sau làm Đốc phủ ở Hội Kê đã đem chuyện này thuật lại cho một danh sĩ là Tạ Phu Hằng nghe.

Người đi cùng ghe với ông là sa môn Tích Chi Đạo Uẩn là người nghiêm trì giới luật, tánh tình rất thận trọng cũng đem việc nói trên kể cho mọi người biết để phát khởi tín tâm hướng về Đại Sĩ để được nhiều lợi lạc.

*Triều nhà Tấn có sa môn Pháp Thuần ở chùa Hiển Nghĩa, xứ Sơn Âm. Trong niên hiệu Nguyên Hưng, thầy có duyên sự phải đi qua biển Thái Hồ thì gặp lúc mưa to gió lớn. Vì thuyền của thầy nhỏ nên nước tràn vào thuyền, sinh mạng gần như chỉ còn trong nháy mắt.

Thầy bèn nhất tâm quy hướng về đức Quán Âm, chí thành xưng niệm danh hiệu của Bồ Tát không dứt. Một lúc sau, từ xa bỗng nhiên có một chiếc thuyền lớn trôi lềnh bềnh đến trước thuyền của thầy, mọi người thấy vậy lớn tiếng kêu cứu thì chiếc thuyền ấy áp sát lại, nhờ đó mà mọi người trèo qua an toàn.

Khi mọi người vừa qua hết chiếc thuyền lớn thì nhìn lại thấy chiếc thuyền nhỏ cũng đã chìm dần. Ai nấy đều vô cùng khiếp sợ và đều thành kính cảm tạ sự linh ứng của Đức Quan Âm Đại Sĩ.

Chiếc thuyền lớn lướt sóng đi về phía trước, chốc lát thì đã đến bờ. Mọi người lên bờ và dò hỏi xem người chủ thuyền là ai thì không ai nhận là chủ và cũng chỉ trong chớp mắt, chiếc thuyền lớn đã biến mất không còn dấu vết. Bấy giờ, một lần nữa ai ai cũng đều kinh ngạc và tán thán lòng từ bi của Bồ Tát Quan Âm đã minh gia cứu độ. Thật là một phép màu không thể nghĩ bàn.

*Triều nhà Tấn có một Ni sư pháp danh Minh Cầm, họ Châu là người ở Cao Bình. Khi chưa xuất gia, Châu Thị đã là người có tâm tín kính Phật pháp, tu theo kinh Đại thừa.

Một hôm, Châu Thị bị bọn giặc cướp bắt. Tướng cướp thấy hình dung xinh đẹp thì có ý định muốn đem về làm vợ nhưng Châu Thị một mực không đồng ý, nên bị mọi hình phạt khổ sở đủ cách.

Châu Thị thệ nguyện thà chết chứ không chịu nhục nên Tướng cướp nổi giận bắt Châu Thị phải đi chăn dê. Trải qua suốt 10 năm, trong lòng Châu Thị luôn nhớ nghĩ đến Tam Bảo và nuôi ý hướng xuất gia đầu Phật.

Một hôm trong lúc chăn dê, Châu Thị nhìn thấy một thầy Tỳ kheo đi ngang qua, bèn kể hết sự tình và cầu xin Thầy truyền trao ngũ giới. Thầy Tỳ kheo đồng ý, sau khi truyền giới pháp, Thầy trao cho cô một quyển kinh Quán Âm và bảo phải siêng năng trì tụng. Nhận được quyển Kinh, Châu Thị vui mừng khôn xiết, ngày đêm trì tụng, mong mau sớm được về nhà.

Một hôm, thừa dịp vắng người canh gác nên Châu Thị bỏ trốn, nhằm theo hướng đông mà đi. Do không biết đường nên Châu Thị đi lạc vào chốn thâm sơn cùng cốc, đang không biết phải làm sao thì bỗng nhiên cô nhìn thấy một con hổ mình vằn vện trông rất ghê sợ chỉ đứng cách mình vài bước. Thoạt vừa nhìn thấy thì hoảng sợ vô cùng, nhưng sau đó khi định tâm lại thì cô thấy dường như mãnh hổ này không có ý làm hại mình, mà còn ra hiệu có vẻ như muốn cô đi theo, nên Châu Thị đi theo nó. Trải qua hơn tuần lễ thì đến Tân Châu, lúc sắp bước vào làng thì chẳng thấy mãnh hổ đâu nữa.

*Triều nhà Tấn, Lữ Tung là người ở huyện Đoài Châu, tỉnh Sơn Đông. Nhà ông ở bên ngọn núi Thủy Phong. Phía Nam huyện Đoài Châu có một dòng suối nước chảy như thác và quanh co uốn khúc như rắn lượn, lại có bờ đá cao chót vót rất nhiều đá lớn chất chồng, địa thế hiểm trở, vì thế mà nhiều người đi ngang qua đó trong lúc ban ngày vẫn lo sợ nguy hiểm.

Ông thường kể lại việc phụ thân của mình đã từng đi qua suối ấy cho mọi người nghe. Ông thuật lại rằng:

– Một hôm cha của tôi chèo thuyền đi qua suối, khi cách nhà chừng hơn 5 cây số thì lúc bấy giờ, trời đã về chiều nên mặt trời sắp lặn, lại gặp lúc mưa to gió lớn, tối tăm mù mịt, không nhận biết được phương hướng đông tây, ông tự nghĩ thế nào cũng bị lật ghe; chết chìm, nên nhất tâm quy hướng Quán Âm Bồ Tát và chí thành xưng niệm danh hiệu của Ngài.

Trong giây lát, bỗng thấy có ánh sáng của ngọn đuốc đang soi đường, ánh sáng ấy chiếu soi rất xa, soi sáng lòng suối một cách rõ ràng và cứ cách thuyền khoảng 10 bước. Nhờ ánh sáng ấy dẫn đường cho thuyền hướng vào bờ an toàn, mà cha của ông về nhà được an nhiên vô sự.

*Triều nhà Thanh, Chương Khai Nguyên là người huyện Nam Phong, tỉnh Giang Tây. Niên hiệu Gia Khánh thứ 25, vào ngày 14 tháng 3, Khai Nguyên cưỡi ngựa để tập bắn. Do sử dụng lực quá mạnh nên bị té nhào xuống đất bất tỉnh nên ông được mọi người khiêng về nhà. Ông nằm trên giường rên la rất thảm.

Trong lúc hôn mê ông thấy một vị quan, tay cầm thẻ bài, tay nắm cây côn, đến lôi ông dẫn đi. Lúc ấy phía sau bỗng có người kéo lại mà nói rằng: “Ông lôi người ta đi đâu, ông nên biết người này dù làm quan nhưng vẫn tin Phật pháp. Hàng ngày đều có tu trì, thường tụng kinh Phổ Môn rất chí thành. Lại từng trích trong bộ Kính Tín Lục những điều mà con người phạm tội rồi tự sao chép thành 10 bộ, phân phát cho người xem để khuyên họ tránh dữ làm lành. Người này còn y theo Đô Giang nói khuyên người lánh xa tội ác, siêng tu hạnh lành, chẳng những thế lại phát nguyện khắc bản ấn tống. Người biết tụng kinh niệm Phật làm lành và khuyên mọi người làm lành như thế mà bị yểu số thì thử hỏi có lợi ích gì?”

Vị quan kia vẫn lôi ông đi như trước, nhưng người phía sau vẫn cố gắng hết sức níu kéo lại.

Bấy giờ vị quan ấy bèn buông tay cho đi, người phía sau bèn dặn dò ông rằng: “Vị quan này bỏ đi nhưng chắc chắn sẽ quay lại, giờ Ta chỉ cho ông đường đi đến Nam Hải, cầu cứu với Quán Âm Đại Sĩ.”

Khai Nguyên lúc ấy tự nghĩ: “Mình bị té đi đứng khó khăn quá làm sao đến được Nam Hải đây?” thì bèn nghe người ấy nói: “Nếu ông không thể đi được thì ngồi ngay thẳng, nhất tâm thành kính niệm Thánh hiệu Nam Mô A Di Đà Phật và Đại từ Đại bi cứu khổ cứu nạn Quán Thế Âm Bồ Tát. Ông hãy nghe ta dặn kỹ: Khi ông nhìn thấy một người đẹp đáng yêu thích thì phải hết sức thận trọng, đừng để động tâm mà phải đọa vào ác thú.”

Ông vâng lời chỉ bảo thì tự cảm thấy thân mình nhẹ nhàng như chiếc lá gặp gió bay lượn giữa hư không. Chỉ trong chốc lát thì thấy mình đến một nơi đường hẻm có nhiều cô gái bán rượu, cô nào cũng đẹp tuyệt trần chẳng khác gì tiên nga ngọc nữ, đua nhau đến níu kéo ông. Nhớ kỹ lời dặn, lòng dặn lòng nên ông nhắm mắt không nhìn mặt họ, thì tự nhiên không nhìn thấy họ đâu nữa.

Vừa lúc ấy lại thấy ba đào nổi dậy, lượn sóng cao chọc trời, trước mắt ông là biển cả mênh mông, ông thành kính quì xuống nơi bờ biển nhất tâm niệm Phật trong giây lâu thì thấy có 2-3 ông già râu tóc bạc phơ bắt một người đem xuống chân núi. Khi nhìn kỹ thì thấy người bị bắt ấy rất giống mình, chợt nghe một tiếng nói từ phía sau: “Đấy là thần thức của ngươi”.

Dứt lời thì thấy Bồ Tát hiện ra trước mắt, ông vội vàng đảnh lễ Bồ Tát, Bồ Tát bèn dẫn ông đi xem khắp chốn Âm ty, hai đường thiện ác, rồi lại dặn dò rằng: “Sau khi trở về dương thế, ngươi hãy cố gắng giữ gìn, thấy sắc đừng động tâm và tinh tấn niệm Phật tụng kinh, đừng giải đãi, tự thực hành như thế và cũng đừng quên khuyến hóa mọi người”.

Ông cúi đầu thành kính vâng lời thì tỉnh lại. Bấy giờ thân thể mạnh khỏe như trước, không còn đau nhức nữa, lập tức ngồi dậy mặc áo bước ra ngoài cửa.

Mọi người lấy làm lạ nên hỏi nguyên nhân thì ông thuật lại đầu đuôi câu chuyện, nghe xong ai cũng đều cảm động và phát tâm thành kính quy hướng về Quán Âm Đại Sĩ.

Ông đương thời là một vị quan võ quyền tước cao sang, dân chúng thấy ông tu tập và khuyên răn người như thế, đều thành kính vâng lời làm theo.

*Triều nhà Thanh, có Tương Tâm Dư cư ngụ ở Duyên Sơn.

Vào niên hiệu Càn Long, đêm rằm tháng 11 ông nằm mộng thấy lính lệ cầm thiếp đến mời mình đi tới một chỗ có cung điện nguy nga. Vừa đến nơi thì có một vị đại quan niềm nở tiếp đón. Ông thấy vị quan ấy phục sức nghiêm chỉnh nên trong ý cho là hàng vương giả. Đại quan ấy nói: “Chốn Minh Ty này nhiệm kỳ của tôi đã mãn, tôi sẽ đi nơi khác nên tòa vị này của tôi xin Ngài thay thế.”

Ông nghe xong thì nói: “Không được. Không được. Mẹ tôi đã già mà con trẻ còn thơ dại, công việc của tôi cũng chưa xong nên tôi không thể lãnh trách nhiệm này được!”
Vị Đại quan nghe xong thì nói: “Sự việc ở thế gian, công việc muốn xong hay không là do mình, tôi biết Ngài là người chánh trực nên mời đến đây, Ngài không nên từ khước!”

Nghe đến đây thì ông bỗng giật mình thức giấc, ngọn đèn trong nhà còn sáng, nhưng tứ chi cảm thấy lạnh và đau buốt như mới từ trong băng tuyết đi ra. Ông lại rơi vào giấc ngủ, đến canh tư thì lại thấy mình đến Minh phủ, trên điện đường đã thiết lập sẵn năm tòa vị, án tiết, sổ bộ chồng chất lên như núi cao. Bốn tòa vị đã có người, chỉ tòa vị thứ năm là còn trống. Một vị quan vừa thấy ông thì bèn nói: “Đây là tòa vị của Ngài, xin mời an tọa”.

Ông không đồng ý ngồi xuống, nên đi sang nhìn các tòa vị kia. Khi đến tòa vị thứ ba khi nhìn kỹ thì thấy người đó không ai khác chính là thầy của mình là Phùng Tịnh Sơn tiên sinh, ông vội đến trước, cúi đầu vái chào và thưa: “Xin thầy vui lòng nói thay cho con, con xin được nghỉ!”

Thầy ông bèn đáp: “Con đã đến đây rồi nên giờ hãy trở về dương thế để sắp xếp hậu sự. Hôm nay là ngày 15, ngày 20 con sẽ xuống lãnh trách nhiệm.”

Nghe nói xong biết khó từ chối, nên ông liền bái biệt thì giật mình tỉnh giấc. Sáng ngày hôm sau, ông đến nhà bạn thân là Vương Phương Bá có đôi lời giã biệt để sau đó về nhà sắp đặt mọi thứ cho việc lâm chung.

Vương Phương Bá nghe chuyện thì bảo: “Anh đừng sợ. Tôi có một phương cách nếu anh thực hành thì họ sẽ không mời anh nữa đâu. Phương pháp này rất dễ làm, đó là chỉ cần chí thành trì tụng Đại bi Thần chú của Đức Quán Âm.”

Ông vâng theo, bèn tắm rửa trai giới, thanh tịnh, kiến lập đàn tràng, đồng thời khuyên bảo tất cả gia nhân tập trung nhất tâm trì tụng Thần chú Đại bi để trợ lực.

Đến ngày 20, tất cả thân quyến vì sợ người Âm Ty đến bắt nên tất cả vây quanh nơi chỗ của ông và hết lòng trì tụng Đại Bi Chú. Sau lúc canh ba thì chính mắt ông nhìn thấy từ nơi không trung có một chiếc kiệu bay xuống, có hai người khiêng kiệu và mấy người cầm cờ. Trong tâm, ông biết đây là người đến rước. Bấy giờ, trong nhà gia nhân đều lớn tiếng đồng thanh chí thành trì tụng Đại Bi chú. Những người cầm cờ xí khiêng kiệu dần dần đến nơi nhưng rồi tất cả đều tan như sương khói. Đến sáng ông vẫn khỏe mạnh và không bịnh hoạn gì. Trải qua thời gian ba năm, ông được triều đình tuyển vào Hàn Lâm Viện.

Do nhân duyên này mà cả nhà ông đều phát nguyện ăn chay niệm Phật, Trong nhà đều thờ Quán Âm Bồ Tát, hàng ngày lễ bái cúng dường và trì tụng Đại bi Thần chú rất tinh tấn.

*Triều nhà Tống, Phạm Trọng Yêm là một vị đại thần trong triều. Mẫu thân ông qua đời đã 21 ngày thì ông thấy mẹ hiện về trong giấc mộng, buồn khóc nói rằng: “Con ơi! Mẹ khi còn ở dương thế tạo nhiều ác nghiệp nên sau khi xả thân, đọa vào chốn Minh ty, bị hình phạt không sau tưởng được. Con là người chí hiếu nên hãy rước quý thầy tụng kinh Kim Cang Bát Nhã 500 biến để cứu độ cho mẹ!”

Ông nghe mẹ nói xong thì buồn khóc rồi tỉnh giấc. Lập tức ông tắm rửa trai giới thanh tịnh, đích thân đi đến Thiền Lâm ở non Nguyên Mộ, bái thỉnh chư Tăng về tư dinh rồi thiết lập đạo tràng tụng kinh 7 ngày đêm. Đến đêm thứ sáu, việc tụng niệm bái sám sắp viên mãn thì ông lại thấy mẫu thân hiện về, hình dung vui vẻ, tươi cười bảo với ông rằng: “Nhờ con chí thành thỉnh chư Tăng về nhà tụng kinh bái sám siêu độ cho mẹ, và lúc chư Tăng tụng kinh thì con luôn thành kính lễ Phật cầu nguyện, mà cảm đến Bạch Y Đại Sĩ đã giáng lâm phàm trần. Ngài có trì kinh nửa quyển nên chẳng những tội nghiệp của mẹ đã được tiêu trừ lại còn được sanh về thiên giới. Việc này thế nào sáng ngày mai thì con sẽ rõ biết. Con nên sắm sửa lễ vật cho hậu để cúng dường nhằm báo đáp đại ân của Bồ Tát”.

Hôm sau, ông đợi đến lúc pháp sự viên mãn, rồi thành kính phụng thỉnh chư Tăng tề tựu để lễ tạ cúng dường. Sau khi cúng dường cho chư Tăng xong, thì ông quỳ trước chư Tăng tác bạch rằng: “Con kính xin hỏi chư Thượng đức ở đây, vị nào tụng kinh nửa quyển thì xin cho con biết.”

Chúng Tăng nghe nói thì ai nấy đều nhìn nhau thất sắc rồi đáp lại rằng: “Kinh điển của chúng tôi trì tụng không sai một chữ, không sót một câu thì đâu có việc trì tụng chỉ nửa quyển!”.

Bấy giờ có một vị Tăng thung dung thưa rằng: “Hôm rồi, lúc đại chúng tụng kinh, Sơn tăng này có đứng dựa cột tụng thầm đến phẩm thứ 16, thì lúc ấy Quan đại thần đến niệm hương nên Sơn

Tăng này trở về nhà bếp để làm công việc. Nhân tiện Quan đại thần hỏi thì Sơn Tăng này xin thành thật nói lại cho Ngài biết”.

Vì kinh Kim Cang tổng cộng 32 phẩm, nên phẩm thứ 16 tức nửa quyển.

Vừa nghe xong thì ông quỳ xuống cúi đầu đảnh lễ, vị Tăng ấy bèn nói: “Đừng! Đừng!” rồi bay lên không trung biến mất.

Lúc này Tăng cũng như Tục còn đang ngơ ngác thì ông đã kể lại giấc mộng tối qua, ai ai cũng sanh tâm cung kính chiêm ngưỡng lễ bái Đại Sĩ. Sau khi hoàn tất lễ cầu siêu cho thân mẫu, ông đã kiến tạo ngôi chùa lấy tên hiệu là “Đừng! Đừng! Thiền Đường” để ghi lại sự linh nghiệm của Đức Quán Âm Bồ Tát giáng lâm đàn tràn, tụng thầm nửa quyển kinh mà mẹ mình được thoát khỏi chốn Minh đồ, lại được siêu sanh thiên giới. Ngôi đại già lam ấy đến nay vẫn còn.

*Triều nhà Đường ở tại xứ Thiểm Hữu, tập tục của dân chúng địa phương này chuyên cưỡi ngựa tập bắn, đối với Phật pháp, danh hiệu Tam Bảo họ còn chưa biết huống chi là quy y, thọ giới, ăn chay, niệm Phật và tụng kinh.

Vào niên hiệu Nguyên Hòa thứ 12, một hôm bỗng xuất hiện một mỹ nữ xách giỏ cá rao bán. Tất cả nam tử trong vùng ấy, đua nhau muốn cưới mỹ nữ làm vợ. Cô gái ấy phân trần: “Tôi đây thân gái chỉ có một, làm sao có thể làm vợ hết cho các anh. Giờ tôi quyết định một việc cho các anh thực hiện, mỗi người sẽ được tôi trao cho một quyển kinh Phổ Môn, chỉ trong một hôm phải tụng cho thuộc lòng. Sáng ngày mai, nếu ai đọc kinh thuộc lòng thời tôi sẽ ưng thuận làm vợ người ấy.”

Sáng ngày hôm sau, trong số các nam tử đến trước mỹ nữ tụng kinh thì những người tụng thuộc có trên 20 người. Bấy giờ cô lại phân trần với họ: “Tôi là phận thân gái không thể làm vợ một lúc 20 người được nên giờ đây, tôi trao cho các anh quyển kinh Kim Cang Bát Nhã, cũng trong một đêm nếu người nào tụng thuộc, không sót một chữ thời tôi sẽ ưng thuận làm vợ người ấy.”

Sáng hôm sau, những người thuộc kinh được 10 người. Mỹ nữ cũng nói lời từ chối như trước, lần này trao cho bộ kinh Pháp Hoa và kỳ hạn cho trong ba ngày, nếu người nào đọc tụng thông suốt thì sẽ ưng thuận làm vợ người ấy.

Sau ba ngày, chỉ có chàng họ Mã là tụng kinh Pháp Hoa thông suốt, thế là cô không thể từ chối được nữa. Chàng thanh niên họ Mã, sắm sửa lễ vật hậu hĩnh để rước cô về nhà, sau khi làm lễ ông bà, đến tối trong giờ phút chuẩn bị động phòng thì cô nói hiện giờ đang bị trọng bệnh nên cầu xin cho ở riêng một phòng khác. Chàng họ Mã và người trong gia đình đều ưng thuận. Khi bước vào phòng riêng, chưa kịp dùng thuốc thì chỉ trong chốc lát cô đã qua đời.

Có điều lạ là sau khi chết, thông thường các tử thi thường để hai, ba ngày thì mới sình trương rục rã, còn cô sau khi tắt thở thì tử thi sình trương ngay lập tức, thúi hôi không tả xiết, nên người nhà lập tức lo tẩn liệm, sáng ngày làm lễ an táng.

Sau khi làm lễ an táng cho vợ xong, chàng họ Mã mỗi ngày đến phần mộ khóc than kể lể.

Đến ngày mở cửa mã thì đột nhiên có một vị hòa thượng mặc y màu tía đến nơi phần mộ, thấy thanh niên họ Mã khóc than kể lể, Ngài hỏi lý do. Anh đem hết đầu đuôi câu chuyện thuật lại cho hòa thượng nghe.

Ngài nghe xong liền bảo rằng: “Đấy chẳng qua là do ông thấy sai lầm, chứ làm gì mà thân người vừa chết lại sình trương hôi thúi, giờ ông nghe lời Ta, cho người đào mã giở hòm ra xem.”

Quả nhiên sau khi đào mã lên, giở hòm ra xem thì nhìn thấy trong ấy, phần xương của mỹ nữ đều là những thỏi hoàng kim sáng rực. Tất cả dân xứ Thiểm Hữu nghe tin đua nhau đến xem. Ai nấy đều lấy làm lạ và tán thán là sự việc chưa từng có.

Hòa thượng đứng giữa mọi người rồi trịnh trọng dạy rằng: “Mỹ nữ này chính là hóa thân của Quán Âm Đại Sĩ, vì thương xót các ông si mê, gây tạo vô biên tội ác rồi gánh chịu trầm luân thống khổ mà thân người quý báu muôn thuở mới có được một lần, nên Ngài phương tiện thị hiện để hóa độ các ông thế thôi”.

Dứt lời, vị hòa thượng nọ bay lên không trung biến mất. Thanh niên họ Mã kia, vốn là con của một nhà triệu phú, bỗng nhiên được một chiếc quan tài đầy vàng trong ấy thì đâu biết dùng vào việc gì, nên chàng trai họ Mã vô cùng cảm động thâm ân của Bồ Tát đã từ bi hiện thân hóa độ mình, bèn dùng hết số vàng ấy xây một đại điện và rước thợ đúc kim thân Bồ Tát để thờ cúng.

Từ đấy dân chúng địa phương Thiểm Hữu bỏ hẳn tập tục cưỡi ngựa bắn cung, ngoài giờ lo công việc làm ăn lương thiện thì ngày ngày sớm chiều đến nơi bảo điện lễ sám, tụng Kinh niệm Phật rất tinh cần. Riêng chàng họ Mã thì không còn nghĩ đến chuyện vợ con thế tục nữa mà cắt tóc xuất gia, suốt đời tu hành và đem Phật Pháp soi sáng cho mọi người.

Khi người gặp tai nạn lớn, dùng tâm chí thành mà phát đại nguyện niệm Phật thì sẽ vượt qua ách nạn.

Bác sĩ Quách Huệ Trân, lần nọ, cô trực ở phòng cấp cứu. Nửa đêm có một người bị nghẽn động mạch cơ tim, đã ngừng hô hấp và hôn mê không tỉnh. Mặt và lưỡi đã biến thành màu tím ngắt.

Máy đo tim và kết quả thử máu cho biết là tim đã bị hư hoại trầm trọng. Theo kinh nghiệm của bác sĩ chủ nhiệm thì bệnh trạng nhẹ hơn người này cũng không cứu được nữa huống chi là tình trạng nặng như người này, nên nói cho người nhà phải ‘chuẩn bị tinh thần’.

Cô cứ theo lệ thường, vừa niệm Phật vừa lo cấp cứu bệnh nhân. Dùng hết nhiều thứ thuốc rồi nhưng huyết áp của ông không thể nào đo được, ông vẫn còn hôn mê và không thể tự mình hô hấp. Vợ của ông đau lòng nói với cô: “Người ta nói ông trời thương và giúp đỡ người hiền lương, nhưng tại sao ông trời không thương tôi? Xin bác sĩ tìm mọi cách để cứu ông, cho dù ông biến thành ‘người thực vật’ thì tôi cũng chịu chăm sóc cho ông”.

Cô cảm thấy là bà rất đôn hậu và thật thà nên mới khuyên bà: “Lúc người gặp tai nạn lớn, phải phát đại nguyện niệm Phật thì hy vọng có thể vượt qua”.

Bà nói: “Làm sao phát đại nguyện?”.

Cô đáp: “Dùng tâm chí thành của mình mà phát đại nguyện”.

Bà liền nói: “Từ nay trở đi hai vợ chồng chúng tôi sẽ ăn chay trường và niệm Phật; ông ta là thầy giáo, khi hết bệnh có thể hoằng dương Phật pháp”.

Cô bèn đưa cho bà và mấy người con mỗi người một xâu chuỗi và nói: “Đêm nay quý vị nóng lòng chờ đợi trong phòng cấp cứu thì cũng không ích lợi gì, không bằng đem tâm bồn chồn này lắng xuống để niệm mười ngàn danh hiệu Phật A Di Đà, cầu Phật gia bị, Phật lực không thể nghĩ bàn. Chúng tôi ráng hết sức để cứu ông. Quý vị vì ông mà niệm Phật, nếu thọ mạng của ông hết thì ông cũng có thể vãng sinh Cực lạc”.

Đêm đó ba vị bác sĩ cứ nhìn các điện đồ đo tim và đo máu, điều chỉnh lượng thuốc từ 7 giờ chiều đến 3 giờ khuya. Một trong ba bác sĩ than là: “Chúng ta ba người trực cả đêm để lo cho một người mà không đo áp suất máu được!”.

Điều kỳ lạ là đến khoảng bốn năm giờ sáng thì áp suất máu của ông từ từ tăng lên, ông cũng từ từ tỉnh lại. Cô lập tức đi thông báo cho người nhà của ông. Cô rất cảm động khi mở cửa nhìn thấy cả nhà ngồi xếp thành một hàng đang niệm Phật một cách rất chí thành.

Con của ông viết trên một trang giấy: “Thưa ba, con rất muốn ba mở đôi mắt hiền từ ra”.

Có một thanh niên đến thăm ông và khóc sướt mướt làm cô cứ tưởng là con của ông. Người thanh niên đó nói: “Ông là thầy tôi, lúc trước ổng ở trong một chái nhà lụp sụp, dùng hết tiền lương để cung cấp lo cho đám học sinh chúng tôi, nếu không có thầy thì hôm nay không có tôi, xin bác sĩ nhất định phải cứu sống ông!”.

Lời nói chưa dứt thì lại khóc tiếp; sau đó cô mới biết ông đã được chọn là một trong ‘mười người thầy có lòng thương lớn nhất đối với học sinh’. Sau khi ông tỉnh lại phải tiếp tục dùng máy để trợ giúp hô hấp thêm ba ngày nữa. Lúc đó ông bắt đầu niệm Phật; ngoài bệnh bị nghẽn động mạch cơ tim, ông còn bị bệnh phổi nữa.

Cuối cùng ông cũng lành bệnh và tự mình bước đi ra khỏi bệnh viện.

Sau đó ông trở lại bệnh viện kiếm cô để hợp tác in Kinh. Những bác sĩ xem qua tâm điện đồ và kết quả thử máu và thấy sức khỏe ông từ từ bình phục đều không thể tưởng tượng nổi.

Qua câu chuyện chúng ta thấy sự thành tâm của gia quyến đóng một vai trò hổ trợ rất đắc lực cho sự chuyển đổi nghiệp, tiêu tai trừ bệnh!

Thành tâm tụng Chú Đại Bi giúp mẹ giải nguy

Lý Thân là một cư dân Hương Cảng, một lòng kính tin Tam Bảo, hằng ngày tụng kinh Kim Cang và chú Đại Bi.

Chiều tối một ngày nọ, anh đang ngồi tĩnh tọa, đột nhiên cảm thấy tim đập dữ dội, cảm giác khó thở như có điềm chẳng lành, anh đoán chắc mẹ mình đang bị nạn. Vì trước đây hễ mỗi lần mẫu thân xảy ra chuyện là anh đều có linh cảm này, thế là anh lập tức đến lễ trước tượng Quan Âm Bồ Tát, tụng to chú Đại Bi, cầu Ngài che chở cho mẹ. Tụng được mười biến, cảm thấy lồng ngực nhẹ nhàng thư thới, anh mới dừng.

Tối đó mẫu thân trở về, bà kể cho mọi người nghe rằng vào lúc hoàng hôn, tại nơi bến đò, đã bị bốn tên cướp truy đuổi, chúng hét to bảo là nếu bà không bỏ bóp tiền lại, thì sẽ ra tay không nương tình. Đang trong lúc nguy cấp, bà lách mình trốn được vào cái hốc của một tòa cao ốc, mấy tên đại hán chạy ngang qua chẳng phát giác ra chỗ ẩn nấp của bà, cứ như thể bà đang tàng hình vậy.

Lý Thân nói chính là nhờ Đức Quan Âm Bồ Tát che chở, nên bà mới tránh được hiểm nạn. Bởi vì lúc bọn gian truy đuổi bà, chính là lúc đang anh lớn tiếng tụng chú Đại Bi. Từ đó về sau, mẹ anh càng nhiệt thành thực hành Phật pháp.

*Diệp Tư Sơ ở huyện Văn Hỷ, tỉnh Sơn Tây, là một đệ tử tại gia của Ấn Tổ. Hôm nọ, ông cưỡi lừa đi trong vùng núi thẳm, một bên núi cao chót vót, một bên là khe sâu thăm thẳm. Tuyết đóng thành băng, con lừa trượt chân, liền rơi xuống khe. Nhờ công đức âm thầm trì niệm, nên ngang lưng vách núi có một cái cây to, khéo sao rớt đúng ngay trên cây ấy, không hề hấn gì. Nếu không, sẽ bị tan thân, nát xương. Ngài Ấn Quang Đại Sư giải thích rằng: “Cây ấy do đâu mà có? Ấy là do Quán Âm Bồ Tát thị hiện vậy!”

*Năm 1928, ông Thái Nhân Sơ người huyện Ninh Ba mở cửa hàng Ngũ Kim Pha Lê ở Thượng Hải. Ông là một người cực thuần hậu, kết giao thân thiết với cư sĩ Nhiếp Vân Ðài. Vân Ðài dạy ông nên thường niệm Quán Âm, cốt ý để phòng ngừa bị bắt cóc, tống tiền. Ông tin tưởng và làm theo lời khuyên của bạn mình.

Ngày nọ, sắp chuẩn bị ra về, xe của ông đậu ngoài cửa chính, bọn cướp đã ngấm ngầm cầm súng khống chế tài xế, rồi bọn cướp ngồi trên đó. Ông vừa đi ra liền bước lên xe, xe liền chạy đi, lúc đó mới biết mình bị bọn cướp bắt cóc, ông liền khẩn thiết chí thành thầm niệm Quán Âm Bồ Tát, mong cho xe chết máy hòng thoát nạn.

Quả thật, chạy được một đoạn thì xe bị bể bánh, xe chạy khật khừ, nhưng vẫn cứ chạy tiếp. Kế đó bình xăng bị nổ bể khiến xe bắt lửa, bọn cướp xuống xe, cáu kỉnh hướng về phía ông nã liền ba phát súng, nhưng ông Thái chạy ba lần chạy né được, liền ngồi xe kéo trở về. Tháng Sáu năm đó, ông và vợ cùng đến Phổ Ðà quy y Tam Bảo với Ấn Tổ.

*Trương Thiếu Liêm là giám đốc của một hãng ngoại quốc, trọn chẳng tin Phật. Một ngày kia, ngồi xe hơi lái đến chỗ nghỉ mát, hai tên cướp cầm súng đuổi người tài xế đi. Ông Trương nói: “Các ông lên xe ngồi, sai hắn lái đến chỗ nào là được rồi!”

Hai tên cướp cầm súng chĩa về phía ông Trương. Ông Trương thầm niệm Quán Âm, xe lái đến chỗ náo nhiệt, chợt có hai người đánh lộn, cảnh sát thổi còi, hai tên cướp trèo xuống xe, lủi mất.

Ðấy là vì ông Trương niệm Quán Âm nên hai tên cướp mới lầm tưởng là cảnh sát đến bắt chúng.

Qua tai nạn này Thiếu Liêm đến quy y Tam Bảo với Ngài Ấn Quang Đại Sư.

*Trong cơn loạn lạc Hồng Dương, một nhà buôn gỗ ở Giang Tây là Viên Cung Hoằng bị bọn phỉ bắt được, trói vào cây cột ở nhà khách, khóa chặt cửa lại, bọn chúng chờ chừng cướp tài vật xong sẽ giết. Ông Viên tự nghĩ ắt bị chết, bèn thầm niệm thánh hiệu Quán Âm, hồi lâu ngủ quên đi, tỉnh dậy thấy thân mình nằm ngoài đồng, ngẩng đầu lên thấy hãy còn sớm liền trốn thoát.

Chí tâm niệm Phật, khắc phục được tai nạn gió lửa

Cư sĩ Trần Ngọc Phương ở đường Bảo Tang phố Đại Đồng thị trấn Đài Đông. Trước kia khi chưa nghe Phật pháp cô là một chuyên gia trang phục, vốn là người thông minh đầy đủ trí huệ, sau khi nghe được pháp môn Tịnh độ liền giác ngộ đời người vô thường, vạn pháp đều không, liền bỏ nghề may đồ cưới cho người, đến chợ mua hai xâu trân châu, về nhà xỏ lại làm thành một xâu chuỗi, sớm tối bắt đầu khóa tụng, ngày ngày niệm Phật không ngừng. Đây là về mặt tự lợi, đồng thời phát tâm Bồ đề mong muốn đem lợi ích đến cho người khác.

Lúc bấy giờ thiện tín ở Đài Đông đều là hàng sơ cơ học Phật, rất ít người niệm Phật, cô từ cục bưu chính chuyển tiền đến thư cục Thụy Thành mua năm mươi xâu chuỗi, về sau lấy chuỗi đến nhà những bạn thân dạy họ niệm Phật, và tặng cho họ những xâu chuỗi đó.

Cô thường đến xưởng nước tương Nhựt Đông khuyên người niệm Phật, bà chủ của xưởng tên là A Quai, cư ngụ ở đường Nhân Ái. Đài Đông lúc ấy phần lớn nhà vẫn còn làm bằng ván, cho nên xưởng nước tương Nhựt Đông cũng làm bằng cây ván và lợp lá.

Có một hôm, cô đến nhà dạy A Quai niệm A Di Đà Phật, đang lúc nói đến chỗ mầu nhiệm của sự niệm A Di Đà Phật, bỗng nhiên nghe tiếng người ầm ĩ huyên náo ngoài đường, tiếng còi báo động vang lên rất khẩn trương, có người la lớn: “Xưởng nước tương Nhựt Đông bị cháy!”.

Cô và A Quai ngó ra ngoài đường, xe cứu hỏa màu đỏ của cục Cảnh sát đã đậu nơi cổng, lại nhìn ra phía sau, thì lửa phát lên nhà cạnh bên phải, đã cháy lan đến cửa sau công xưởng, khói bay mù mịt đầy nhà, hôm đó đang là ngày nghỉ, người nhà và công nhân đều đã đi chơi bên ngoài, chỉ có một mình A Quai ở nhà mà thôi.

Lúc bấy giờ cô và A Quai thấy thế của lửa đã tràn vào nhà, đang lúc nguy hiểm tột cùng đó, liền quỳ xuống đất chắp tay lại chí tâm niệm: “Nam Mô A Di Đà Phật, Nam Mô Đại Từ Đại Bi Cứu Khổ Cứu Nạn Quán Thế Âm Bồ Tát”.

Niệm được chưa tới 5 phút, thật là: “Năng phục tai phong hỏa; Phổ minh chiếu thế gian”, liền tức thời nổi lên một trận gió Nam, thổi thế lửa đi thẳng hướng về phía sau, năm ngôi nhà lá nhỏ phía sau lập tức bị đốt thành tro, may mắn là công xưởng nước tương và cửa hàng của A Quai đều không việc gì, chỉ có lúc nhà kế bên mới phát hỏa thiêu cháy mười mấy tấm ván vách chung với nhà kế bên thôi.

Thật là Phật, Bồ Tát phò hộ việc lớn hóa thành nhỏ, việc nhỏ hóa thành không, cũng là may mắn gặp thiện tri thức sư tỷ Ngọc Phương từ bi, nên được phước đức che chở!

Phật vốn là y vương có thể trừ dứt các chứng bệnh

Mẹ của liên hữu Lý Thủy Cẩm là một vị thọ giới Bồ Tát ở thư viện Từ Quang vào ngày 10 tháng 6 năm 1960, mọi người đều gọi bà là lão Bồ Tát.

Năm bà 80 tuổi, ở dưới vú bên phải bỗng nhiên nổi lên một cục thịt to bằng cái chén trung. Theo bác sĩ chẩn đoán là ung thư gan, đã rất nguy kịch, hết phương cứu chữa, chẳng những dùng thuốc không hiệu quả, mổ lại càng không được, đề nghị với gia đình rằng bà muốn ăn gì thì cố mua cho bà ăn, thế là tốt rồi! Tây y, Đông y đều tiên lượng chắc chắn như đinh đóng cột, không kê đơn thuốc và cũng không chích thuốc, châm cứu gì cả!

Bà cứ như thế nằm trên giường bệnh đau đớn triền miên suốt 6 tháng, nhờ vào đứa con trai tên Nghĩa, là một cư sĩ thuần thành và người con dâu chăm sóc phục dịch kề bên; cô con gái là Thủy

Cẩm cũng về nhà chuẩn bị hậu sự cho mẹ. Nhưng trong 6 tháng, bà mỗi ngày hai thời sáng tối, bất luận thế nào đều nhất định đứng dậy lạy Phật, dầu là đang trong cơn bệnh khổ, nằm trên giường bệnh, miệng cũng không rời Thánh hiệu A Di Đà Phật.

Vào khoảng đầu tháng 8 bệnh trạng đã rất trầm trọng, thân thể không thể cử động được, miệng không nói được!

Một đêm kia, lúc bệnh trạng đang rất nguy cấp bỗng nhiên nghe bà nói lẩm bẩm: “A Di Đà Phật, Quán Thế Âm Bồ Tát … các Ngài viết chi nhiều chữ như thế, con một chữ cũng không biết! Các ngài sao không nói thẳng với con có tốt hơn không?”.

Ngưng lại một chút, bà nói tiếp: “Cảm ơn lòng từ bi của Phật rất nhiều, các Ngài 10 giờ tối mai sẽ đến giải phẫu cho con cắt bỏ đi cục thịt ở dưới ngực bên phải này, A Di Đà Phật, Quán Thế Âm Bồ Tát, các Ngài thật là từ bi quá!”.

Những lời này mọi người đều nghe rõ mồng một, nhưng lúc đó ai cũng cho là người già trước lúc lâm chung, tinh thần rối loạn nói lung tung vậy thôi!

Nhưng hôm sau bà bảo con, cháu đi chuẩn bị hương hoa quả phẩm, đặt một cái bàn thờ trong phòng để tiếp đón Phật Bồ Tát đến trị bệnh cho mình. Vì muốn cho bà vui nên gia quyến làm y theo lời bà sai bảo, chứ chẳng ai nghĩ rằng đó là sự thực.

Thật là không thể nghĩ bàn, vừa đợi đến 10 giờ tối, liền nghe âm thanh khua “lắc cắc, lụp cụp” của dao kéo vang lên… giây lâu, đột nhiên nghe một tiếng “sựt”, cục thịt ở dưới ngực bên phải đó bỗng bị cắt rời ra, máu chảy ra đen như than, từng giọt từng giọt to bằng ngón tay cái, chảy ra rất nhiều.

Rồi như một phép mầu, sức khỏe của bà khôi phục dần, miệng của vết thương nhờ con dâu hằng ngày dùng nước trà lau rửa, chưa đầy một tháng, không cần thuốc gì mà khỏi bệnh.

Từ đó trở đi bà gặp người nào cũng liền khuyên niệm A Di Đà Phật; xâu chuỗi từ nào đến giờ chưa từng rời tay.

Năm bà tám mươi bốn tuổi sức khỏe so ra còn mạnh hơn người thường. Giữa Đài Trung và Minh Tú bà thường đi đi về về tinh thần sung mãn khác thường.
Phật vốn là đại Y Vương, ngoại khoa đại phẫu thuật của Phật, Bồ Tát là trị muôn người lành muôn người, nhưng điều quan trọng là chỉ hỏi nơi ta là có đúng “nhất tâm niệm Phật” hay không? Có chí tâm, có thành tâm trì niệm hay không mà thôi!?”

Chị lạy Phật, em trai được nhờ phước

Phật và Bồ Tát là thầy tốt, là phước điền của chúng sanh. Vị liên hữu Lý Thủy Cẩm, cũng là một vị thiện hữu tri thức, gieo rắc hạt giống Bồ Đề. Bà mỗi lần mời hẹn các nhân viên hoằng pháp của Liên Xã ở Đài Trung, ngày giờ đã định xong, liền về nhà trước đi tuyên truyền khắp các nơi ở trên núi, già trẻ trai gái không ai không đến niệm Phật, nghe pháp. Gieo giống thì nhất định sẽ nảy mầm; có niệm Phật thì nhất định có cảm ứng.

Trong xóm núi ấy có một bé gái mười tuổi, rất là thông minh và có căn lành, cô lần nào cũng đến tham gia nghe các vị thuyết giảng về Phật pháp, cảm thấy rất là hay, bèn phát tâm hàng ngày niệm A Di Đà Phật. Do vì trong nhà cô chưa có lập bàn thờ Phật, cho nên sáng tối đều đến nhà bên cạnh có bàn thờ Phật để lạy ké.

Khoảng mấy tháng sau, đứa con trai ở nhà có bàn thờ Phật kia mắng cô: “Mầy không biết thể diện, không biết xấu hổ, Phật ở nhà tao, không cho mày đến lạy!”.

Nghe nói thế, cô không dám đến lạy Phật nữa, nhưng trong lòng lúc nào cũng nhớ nghĩ đến Phật. Có một đêm đang ngủ bỗng nhiên thức dậy, quỳ trên giường, chắp tay niệm: “Nam mô A Di Đà Phật”, niệm mãi không thôi.

Mẹ của cô giật mình, thấy lạ liền hỏi: “Con nhỏ này nửa đêm nửa hôm thức dậy làm cái gì vậy?”.

Cô bèn đáp: “Má! Con thấy được kim thân to lớn của Đức Phật A Di Đà, diện mạo tươi vui, từ trong hư không bay đến trước mặt con, con vội vã thức dậy cung kính niệm Phật. Má! Con rất mong có được một tượng Phật để cúng dường. Con cầu xin má thỉnh một tượng Phật về nhà thờ được không, thưa má?”.

Cô chắp tay lại cầu xin mẹ: “Má! Con nghĩ ra rồi, con heo đất của con ngày mai sẽ đập ra, có được bao nhiêu tiền, nhờ ba đến đường Sa Lộc thỉnh về một tượng, như thế mỗi ngày con đã có Phật, có thể lễ lạy được rồi”.

Má của cô liền hứa nhận lời. Sáng sớm thức dậy, sau khi đập vỡ con heo ra đếm, tất cả được 28 đồng, cha của cô đi đến đường Sa Lộc, tìm được một tượng Quán Thế Âm Bồ Tát bèn thỉnh về nhà, giá đến 50 đồng. Buổi sáng ngày mùng một hôm đó liền làm lễ an vị . Mẹ cô chuẩn bị bánh dày đỏ và mua về hương hoa quả phẩm v.v… Đang khi cả nhà vui vẻ, bỗng nhiên phát hiện mất đứa em trai bốn tuổi của cô bé!

Thế là cả nhà hoảng hốt lập tức cho người đi tìm khắp nơi, đồng thời tổng động viên mấy trăm người bà con trên núi dưới núi chia ra đi tìm, ngay cả mấy ao cá lớn trong làng, cũng đều có người lặn xuống mò tìm, vẫn không tìm ra tông tích!…

Từ sáng đến tối vẫn không tìm được! Có mấy người chê cười cha mẹ cô rằng: “Vợ chồng mấy người là người lớn cũng đi nghe lời của con nít, muốn lạy Phật cái gì! Mấy người ngày hôm nay cũng chính vì bận lo việc an vị tượng Phật mới xảy ra đại họa như thế!”.

Tội nghiệp cho cô bé, bị người này một câu, người kia một câu đàm tiếu, sợ đến nỗi một mình lén lén quỳ trước tượng Bồ Tát hai mắt tuôn lệ dầm dề, khổ sở cầu xin: “Phật, Bồ Tát ơi! Các Ngài phải phò hộ cho đứa em trai bốn tuổi của con được bình an về nhà. Nếu như xảy ra điều không may gì, con từ nay về sau không thể tiếp tục lạy Phật, niệm Phật được nữa, những người hàng xóm đây cũng không dám tin Phật nữa!”.

Lúc đó cha của đứa bé sực nhớ lại thằng bé bốn tuổi này sau khi sanh, đã từng có đi xem quẻ bát tự cho nó, liền lập tức tìm trong tủ lấy ra tờ giải về số mạng của thằng bé đưa cho mọi người xem. Quả nhiên trong quẻ giải viết rất rõ ràng vào năm đó tháng đó (vừa khéo chỉ đúng vào tháng này năm này!) sẽ xảy ra tai họa bất ngờ! Thế là mọi người nhìn nhau nhưng rồi cũng không ai biết làm thế nào!

Vốn là, thằng bé từ lúc sáng sớm, một mình tự chạy ra khỏi nhà, rồi thuận theo đường sắt dọc biển, cứ chạy đi thẳng một mạch đến hơn 5 giờ chiều. Ở gần trạm xe Vương Điền có một anh sinh viên trẻ trông thấy một đứa bé cắm đầu chạy trên đường sắt, lập tức liền cất tiếng gọi lớn: “Em bé! Em bé! Ở đó nguy hiểm lắm, mau dừng lại đi!”.

Thằng nhỏ cũng chẳng thèm quay đầu lại, cứ cắm đầu chạy miết. Anh sinh viên tốt bụng này liền chạy thẳng tới trước ôm cứng nó lại. Ai có ngờ thằng nhỏ này, mắt trợn lên dữ dằn, há miệng cắn trên tay anh sinh viên một cái. Anh này vẫn không giận nó, cố nén chịu đau, ôm thằng bé ép đưa đến trạm xe, giao cho trưởng trạm giữ nó lại. Hỏi nó ở đâu, tên họ là gì, nó cũng nín thinh không ừ hử gì cả… Trưởng trạm sực nhớ hồi sáng ở trạm xe Long Tỉnh đã liên lạc điện thoại đến dặn chú ý có một đứa bé bốn tuổi đi lạc, trưởng trạm xe Vương Điền liền gọi điện thoại cho trạm xe Long Tỉnh mời người nhà của thằng bé đến nhận lãnh về.

Bà vợ của trưởng trạm thấy thằng bé toàn thân bụi bặm, bộ dạng đáng thương và rất đói, liền dắt nó về nhà, tắm rửa, lấy quần áo của con mình thay vào và cho nó ăn hai chén cơm. Có lẽ chạy suốt ngày đường mệt quá, nên nuốt hai chén cơm xuống bụng xong, liền lăn ra ngủ, bà vợ của trưởng trạm liền bế lên giường để nó ngủ yên.

Người ở trạm xe Long Tỉnh lập tức cho cha mẹ nó hay, nhanh chóng đi nhận về. Từ nhà của trưởng trạm xe Vương Điền đem nó về, lúc đó đã 11 giờ khuya. Mặc dù đã nửa đêm, nhưng những bà con già trẻ lớn bé ở vùng đó đều đến thăm nó. Thằng bé này đã được bà vợ của trưởng trạm tốt bụng, dùng xà bông thơm tắm cho toàn thân thơm phức, lại mặc cho bộ đồ đẹp nữa, mọi người ai nấy đều nói: “Hôm nay thằng bé được bình yên về nhà, chính là nhờ phước phần của chị nó lạy Phật. Thật là tin Phật, niệm Phật có cảm ứng vậy!”.

Nếu không thế thì thằng bé này từ Long Tỉnh đến Vương Điền chạy suốt một ngày trên đường sắt dọc biển lại không gặp việc gì bất trắc ngoài ý muốn… Đồng thời lại còn gặp được sự thương yêu giúp đỡ của anh sinh viên và bà vợ tốt bụng của ông trưởng trạm xe. Đây nếu không phải Phật, Bồ Tát phò hộ thì làm sao có thể về nhà bình yên vô sự như thế!

Bồ Tát thị hiện khuyến hóa niệm Phật

Đầu tháng 5 năm ngoái, con gái của thím Tuấn là A Lan, do vì sinh non nên sức khỏe rất yếu, một hôm bị băng huyết té ngã trên giường hôn mê, thím Tuấn tưởng cô ta ngủ, không để ý.

Vài giờ sau tỉnh dậy, cô nói với mẹ: “Con vừa rồi bị hôn mê, thần thức sợ sệt đi đến một nơi rậm rạp um tùm, dường như rất xa, nhưng con vẫn cứ đi mãi về phía trước, giữa đường gặp một người nữ trẻ tuổi, rất là đoan chánh trang nghiêm, bèn chặn con lại, lại thêm duỗi tay đẩy con một cái té lộn nhào, lúc bò dậy con liền mắng cô ta: ‘Ngươi… cái cô gái này sao mà vô cớ xô ta vậy? Cô tên là gì?’. Cô gái đó liền nói với con rằng: ‘Chỗ này không phải chỗ ngươi đến, mau mau quay về đi, ngươi về nhà sẽ biết tên ta’. Nói như thế xong, cô liền cung kính chắp tay lại, miệng niệm: ‘Nam mô A Di Đà Phật’. Lúc đó con liền tỉnh dậy”.

Thím Tuấn nghe xong liền nói với con gái rằng: “Cô gái đó e rằng chính là Quán Thế Âm Bồ Tát biến hóa ra để cứu con đó. Có khả năng là Đức Đại Từ Đại Bi cứu khổ cứu nạn Quán Thế Âm Bồ Tát rồi!”.

Từ đó về sau sức khỏe của A Lan hồi phục mạnh khỏe như thường. Sau việc đó, thím Tuấn đến Liên Xã thăm giáo lý viên Lâm Khán Trị và kể cho nghe chuyện của A Lan, rồi hỏi rằng: “Tại sao Quán Thế Âm Bồ Tát cũng phải chắp tay niệm A Di Đà Phật? Quán Thế Âm Bồ Tát không phải là một trong Tam Thánh của Tây Phương Cực Lạc thế giới sao?”.

Bà Lâm liền đáp: “Quán Thế Âm Bồ Tát chắp tay niệm Phật là dạy cho A Lan niệm. Đây chính là thân giáo, tức là dùng bản thân làm khuôn phép dạy cho con gái của bà, không niệm Phật làm sao có thể thoát ly được Ta Bà khổ hải, khỏi vào trong vòng luân hồi?”

Từ đó con gái của thím Tuấn càng tinh tấn niệm Phật nhiều hơn.

Niệm Phật cảm ứng thai nhi sinh ra không bị dị tật

Chị Huệ, pháp danh Diệu Ân, nhà ở Biên Hòa, Đồng Nai đã kể một câu chuyện Phật pháp nhiệm mầu của bạn chị như thế này:

Vợ chồng Liên là bạn thân của chị, theo đạo Công giáo, họ đã có một bé trai. Ngày nọ, Liên thấy mình càng ngày mập ra, vòng bụng cứ to dần lên, đầu óc hay bần thần choáng váng. Liên đi khám bệnh thì bác sĩ cho uống thuốc tâm thần. Tình hình vẫn không thuyên giảm nên có một hôm không chịu nổi nữa cô lên bệnh viện tỉnh để kiểm tra tổng quát.

Vì Liên hay buồn nôn nên bác sĩ cho là bộ tiêu hóa cô có vấn đề. Ông cẩn thận kiểm tra, chẩn khám rất kỹ, cuối cùng phát hiện ra Liên đã có thai bốn tháng.

Nghe kể đến đây những người đã từng làm mẹ không kềm được sự kinh ngạc, liền cất tiếng hỏi lại:

– Cái gì mà lạ vậy! Liên đã từng sinh con, lẽ nào bản thân có thai mà lại không biết?

Diệu Ân cười đáp:

– Vậy mới có chuyện đáng nói! Bởi vì chu kỳ phụ nữ của Liên vẫn xảy ra đều đặn hàng tháng nên Liên không hề nghĩ rằng mình có thai. Khi phát hiện ra thì thai nhi đã được bốn tháng rồi, không thể phá. Nhưng do ảnh hưởng của thuốc an thần Liên đã dùng trong đợt điều trị vừa rồi nên đã ảnh hưởng đến não của thai nhi, khiến cho em bé bị dị tật, không bình thường.

Liên rất lo lắng, nhất là khi đi siêu âm, bác sĩ quả quyết chắc chắn đứa bé sinh ra sẽ bị dị dạng. Cô buồn lắm, quyết định sẽ bỏ thai. Cô nói với Diệu Ân:

– Nhà em kinh tế đã không khá, sinh thêm một đứa nữa lấy gì mà nuôi? Đã vậy đứa bé còn mang dị tật, có khả năng bị liệt rất là cao. Làm sao em dám giữ em bé lại chứ?

Diệu Ân vốn là một Phật tử thuần thành, có niềm tin rất sâu với Phật pháp, nên đã trấn an bạn:

– Em cứ niệm danh hiệu Bồ Tát Quán Thế Âm và lễ bái Đức Phật Dược Sư cầu cho bé đi. Bồ Tát Quán Âm rất linh, còn Phật Dược Sư vốn từ bi, có đại nguyện chữa lành bệnh cho chúng sinh.

Không những vậy, ai chịu tụng niệm, lễ bái Ngài thì đời sau sẽ có dung nhan xinh đẹp. Em cứ làm như lời chị khuyên đi, an tâm sẽ sinh con ra bình thường. Nếu em đã làm y như lời chị dặn mà cháu bé sinh ra bị dị tật, chị hứa sẽ nuôi dùm cho em!

Nghe vậy Liên yên lòng. Anh chồng đạo Công giáo, nhưng thấy tình trạng thai nhi như vậy đành để vợ tùy ý thực hiện theo lời của Diệu Ân khuyên thử.

Thế là suốt năm tháng ròng rã, Liên ngày đêm khẩn thiết niệm danh hiệu Quán Thế Âm Bồ Tát và lễ sám Phật Dược Sư.

Kết quả tới ngày khai hoa nở nhụy, một bé trai khôi ngô tuấn tú chào đời. Chẳng những dung mạo xinh đẹp, mà mỗi ngày một lớn, bé rất thông minh, vượt xa hẳn anh mình về sắc vóc lẫn trí tuệ.

Chồng Liên sau biến cố này, anh liền đi thỉnh tượng Phật Dược Sư về thờ. Còn Liên thì luôn bảo với thằng bé:

– Này con, con phải biết ơn má Huệ, nhờ có má Huệ mà con mới được sinh ra đó nhé!

Qua câu chuyện trên chúng ta nhận thấy rằng: Lẽ ra thai nhi lần này chính thực là oan gia đến để báo oán, quyết lòng tới đòi nợ hai vợ chồng cô Liên (bởi vì cô Liên đến chu kỳ phụ nữ vẫn bình thường nên thụ thai mà không biết). Cũng chính nhờ người bạn Diệu Ân khuyên niệm Quan Âm, lạy Phật sám hối giúp tiêu nghiệp, hóa giải oan gia giữa đứa bé và hai vợ chồng cô Liên. Việc này rất nhiệm mầu chỉ có những người trong cuộc đã từng trải qua mới cảm nhận được sâu sắc. Có người thai nhi bị phán “bệnh Down”… cũng nhờ ăn chay, niệm Phật, sám hối hồi hướng cho thai nhi, kết quả sinh ra em bé vô cùng xinh xắn, khỏe mạnh. Quả là chỉ có sám hối, ăn chay, niệm Phật, lạy Phật mới giúp giải trừ nghiệp chướng giữa cha mẹ và thai nhi mà thôi. Bài học cần ghi nhớ!

Niệm Phật hóa giải oan gia, con sinh ra không bị hội chứng Down

Tháng 11-2012, sau khi đã mang thai được hơn 5 tháng, nhà tôi đi siêu âm và được bác sĩ cho biết kết quả thai nhi phát triển không bình thường, có dấu hiệu của bệnh Down (đao).

Từ khi nhận hung tin, không khí trong gia đình tôi nặng nề như bị đè dưới núi đá. Sau giờ làm việc ở cơ quan, hai vợ chồng cứ nhìn nhau, rồi nhìn vào bụng vợ – nơi có đứa bé không bình thường ấy. Im lặng, im lặng, một sự im lặng thật đáng sợ! Thế rồi, tôi cũng tìm được hướng đi cho chính mình.

Gia đình tôi theo Phật, có người đi xuất gia. Đêm đến, tôi chắp tay niệm Phật A Di Đà, vừa niệm Phật vừa hướng tâm về đứa bé đang nằm trong bụng mẹ, đồng thời liên tục thắp hương khấn nguyện các vị chư thiên, thiện thần từ bi gia hộ.

Hai tháng sau, nhà tôi đi kiểm tra thai nhi lần nữa và cũng nhận một kết quả tương tự như lần trước. Thật là tiến thoái lưỡng nan, tôi kiên trì, thành tâm niệm Phật đêm ngày và động viên vợ cùng cầu nguyện cho đứa bé. Nhiều lúc ở cơ quan, giờ rảnh rỗi, lúc ra chơi, tôi cũng tranh thủ tìm nơi yên tĩnh để niệm Phật vài câu. Trước khi ngủ tôi niệm Phật, có đêm trong giấc mộng, tôi nghe thấy tiếng niệm Phật vang dội cả đất trời, tỉnh dậy lòng thấy vui, phấn chấn, nhẹ nhàng và càng nung nấu ý chí, quyết tâm niệm Phật cầu nguyện cho con an lành.

Thật linh ứng và vi diệu tuyệt vời! Có cầu ắt sẽ có ứng. Tháng 3-2013 vừa qua, nhà tôi đã sinh một bé trai 3,5 kg, mặt mày khôi ngô tuấn tú, và đặc biệt các bác sĩ sau khi kiểm tra kỹ đã cho biết, bé không có dấu hiệu của bệnh Down.

Thế là, không khí nặng nề, phủ trùm bóng tối lâu nay trong gia đình tôi đã biến mất, niềm vui như vỡ òa, bà con nội ngoại đến chúc mừng xúm xít. Có được niềm vui ấy là nhờ suốt hơn 4 tháng qua tôi đã thành tâm, kiên trì niệm Phật. Còn vợ tôi từ khi nhận hung tin, tinh thần sa sút, mặt mày xẹp như cái lốp xe, nay đã lấy lại tinh thần, sắc thái tươi vui.

Trước hiện tượng trên, mọi người trong gia đình tôi ai nấy đều lấy làm ngạc nhiên, có người nghi ngờ bệnh viện: “Máy móc thiết bị hiện đại mà siêu âm không chính xác”.

Còn vợ chồng tôi chỉ nhìn nhau mỉm cười và thành thật chia sẻ với mọi người: “Bé trai kháu khỉnh này là do tụi con chí thành niệm Phật đấy!”

*Ở thành phố Bắc Kinh, có một bà Phật tử nhưng còn ăn tam tịnh nhục (là 3 loại thịt: không phải do mình giết, không phải người ta giết đãi mình ăn, lúc bị giết mình không nghe, không thấy). Vào khoảng cuối thập niên 90, bà cùng với nhóm bạn đồng nghiệp hai mươi mấy người đi du lịch Hoàng Sơn. Đến khi xuống núi quay về, thì họ bị một đám cướp chặn lại, ra lệnh dừng xe.

Do vậy, bác tài xế trước lúc dừng xe đã nhắc nhở với mọi người nên sẵn sàng xả bỏ tài vật để bảo toàn mạng sống. Họ thấy sáu tên cướp xông lên xe, tay cầm khí giới sáng loáng, trừng mắt quan sát khắp xe, giây lát rồi nhảy xuống, dõng dạc bảo tài xế:

– Cút xéo cho mau!

Mọi người đều ngạc nhiên vì thấy chúng một xu cũng chẳng lấy. Sau khi thoát hiểm, biết bà là người niệm Phật, rất kính tin Phật, họ bèn hỏi thăm:

– Hồi nãy chúng tôi thấy bà cúi đầu đọc niệm lâm râm cái gì vậy?

Bà đáp:

– Tôi niệm “Nam Mô Quán Thế Âm Bồ Tát!”

Qua việc này, nhiều đồng nghiệp của bà phát tâm quy y kính tin Phật giáo, bà Phật tử ấy tín tâm càng thêm kiên định, thệ dứt tuyệt đồ mặn, nguyện ăn chay trường, hiện giờ là một người nghiêm trì giới luật, tu hành rất tinh tấn.

Trên thế giới hiện nay, vật chất lên ngôi, vì mưu lợi người ta không từ thủ đoạn chi, thậm chí giết người cướp của, tạo ác đủ dạng đủ kiểu…Chúng ta thấy báo chí, truyền hình đưa tin đầy rẫy.

Nếu gặp người bố thí, phóng sinh, in kinh tặng người, thậm chí khởi một niệm nhỏ nhoi làm lợi cho mọi người thì ta đều phải tán thán, tùy hỷ, tuyệt không được gièm chê hay bình luận thị phi.

Phật nói: “Niệm một câu ‘Nam Mô Phật’ là đã kết duyên cùng Phật, cuối cùng sẽ tu thành Phật”, huống nữa là tạo nhiều thiện hạnh…

Người có trí huệ, phải mau sớm hồi đầu, hễ có thời gian thuận tiện thì chịu khó lễ bái, tụng kinh, niệm Phật cho nhiều vào, đừng sinh chán mệt. Phải biết rõ: “Chịu khổ trong tu hành chính là dứt khổ vô biên của luân hồi sinh tử, vì: “Khổ tận thì cam lai!”

*Tại Đương Hồ có một người họ Lâm có hai chị gái đều gả cho hai anh em nhà họ Lục. Người chị lớn sanh được đứa con trai thì sau đó người chị kế cũng sanh được một con trai, đặt tên là Thiên Tứ.

Vào niên hiệu Khang Hy, nhà Thanh, năm Mậu Ngọ, người họ Lâm này bị bệnh chết. Qua hôm sau thì anh sống lại, rồi nói với mọi người rằng: “Vô cùng quái lạ, hai đứa cháu trai họ Lục của tôi thật là một chuyện nhân quả ly kỳ. Vừa rồi, trong lúc tôi bị bệnh và hôn mê thì thấy mình đi đến một nơi có cung điện lầu các nguy nga tráng lệ.

Lúc ấy tôi thấy có một nhóm thần nhân đem bảng khoa thi năm nay từ thiên đình xuống để tra xét rõ ràng công đức tội lỗi của những thí sinh để quyết định người nào đáng bỏ, người nào đáng lấy.

Bấy giờ phía trong có một vị Vương Gia đi ra, an tọa nơi bàn án, lập tức quan lại đem sổ bộ đến dâng. Tôi đứng bên cạnh thì nhìn thấy tên của người đậu giải nguyên là đứa cháu trai họ Lục.

Trong sổ bộ lại ghi chép, mẹ của nó họ Lâm vì có lỗi ưa nguyền rủa, tạo khẩu nghiệp rất nặng nên phạm đến thiên đình.

Vương Gia vừa xem xong, nổi giận phừng phừng, Ngài kiểm tra tiếp việc làm của đứa cháu họ Lục thì thấy nó thường phạm về các tội mê đắm hai chữ sắc – tài. Vương gia lập tức cầm bút son vòng lại và gạch bỏ tên nó.

Tiếp theo, Ngài kiểm tra đến tên thứ 21 là thằng cháu trai họ Lục tên Thiên Tứ thì cũng thấy tội khẩu nghiệp của mẫu thân nó cũng bằng với bà Dì.

Vương Gia cầm bút chuẩn bị gạch bỏ thì bỗng Quán Âm Bồ Tát từ đâu giáng lâm trước mắt Vương Gia. Ông liền tức khắc đứng dậy, rời khỏi chỗ ngồi đến đảnh lễ Bồ Tát, đoạn truyền lệnh thiết lập pháp tòa, cung thỉnh Bồ Tát an tọa.

Sau khi Bồ Tát an tọa, Ngài nói với Vương Gia:

– ‘Nhà vua nên biết, phu nhân họ Lâm, mẫu thân của Thiên Tứ này, dù lời khẩu nghiệp có nhiều nhưng với Phật pháp thì có tín tâm, lại thờ Phật rất chí thành, vậy là có pháp lành đáng ghi.

Hơn nữa Đại Vương nên tra kỹ trong sổ bộ phần của Thiên Tứ có ghi chú rõ ràng việc có một người bạn của nó vì trốn thuế nên bị phạt bằng đánh trượng rất nặng. Thiên Tứ đã vì bạn bồi thường số thuế giúp nên người bạn được tha tội.

Chú của nó khi làm tri huyện, xâm tổn công quỹ rất nhiều, nó cũng lập tức bán tài sản bồi thường.

Còn một điều cũng đáng lưu ý là nó từng cự tuyệt việc quan hệ bất chánh với một thiếu nữ.

Ba sự kiện Ta vừa nói đều thuộc về đại thiện. Nếu Đại vương không tin thì bảo Phán quan đem sổ bộ tra thì sẽ rõ’.

Vương Gia nghe lời Bồ Tát dạy, nhan diện vui tươi, tức khắc quỳ xuống chắp tay thưa rằng:

– Xin Bồ Tát từ bi tha lỗi, con xin vâng lời!

Đoạn Vương Gia trở về chỗ ngồi khuyên dạy tôi rằng: ‘Chắc nãy giờ ông đã nghe lời Bồ Tát dạy ta, cháu trai của ông có ba điều đại thiện ấy sẽ được lưu danh vào trong bảng. Còn ông, phước lộc cũng như tuổi thọ chưa hết nên mau trở về dương thế, cố gắng thực hành thiện sự. Đối với Tam Bảo phải có tín tâm, ăn chay niệm Phật, tụng kinh lễ sám cho tinh cần thì mới khỏi phụ hồng ân của Đại Sĩ đã giáng lâm nơi đây chỉ dạy’.

Tôi cúi đầu lạy tạ Bồ Tát cùng Vương Gia, rồi bước ra khỏi điện thì trong lúc đang mơ màng đã thấy đến nhà nên tôi sống lại.”

Hai đứa cháu trai họ Lục nghe tin cậu qua đời nên về nhà, đứng bên cạnh nãy giờ đã nghe rõ câu chuyện cậu mình đã tường thuật. Hai đứa đều suy nghĩ đến việc mình đã làm trong lúc hàng ngày, bên nội bên ngoại không một ai hay biết nhưng dưới chốn Minh ty đều đã biết trước một cách rõ ràng thì lấy làm lạ không sao kể xiết.

Khoa thi năm ấy khi nêu tên lên bảng, quả nhiên Thiên Tứ trúng tuyển thứ 21. Câu chuyện sau khi hồi dương người em kể lại từ dưới Âm Ty làm cả hai người chị đều rùng mình rợn óc, từ ấy về sau đều nguyện bỏ tội ác khẩu, nguyền rủa, đem thân lễ Phật, dùng miệng tụng kinh niệm Phật để chừa bỏ tội lỗi khẩu nghiệp ngày xưa.

Cậu con trai của người chị cũng nguyện chừa bỏ tội tham luyến sắc tài, hướng về Phật pháp, lánh dữ làm lành. Riêng Thiên Tứ, dù lộc vị quí hiển nhưng vẫn không dám buông lung, mà y theo lời của Minh Vương dạy cho cậu mình nên ngày thì lo việc quan còn sớm chiều thì tu niệm rất tinh cần.

*Triều nhà Thanh, phụ thân của thư sinh Du Nguyên ở Triều Châu, tỉnh Giang Tây, bị bệnh phổi đã nhiều năm. Riêng Du Nguyên bị chứng động phong từ lúc nhỏ, đôi mắt bị tổn thương, tất cả lương y đều bó tay không có cách nào chữa trị.

Du Nguyên cưới vợ là Hồ Thị đã 30 năm nhưng không có con. Cô nhìn thấy toàn gia bên chồng bị tai ách nên buồn rầu kém ăn, mất ngủ.

Mùa xuân năm Kỷ Hợi niên hiệu Càn Long, cô mời họp cả gia đình lớn nhỏ, đoạn quì dưới gối rồi thưa với cha mẹ chồng rằng:

– Thưa cha mẹ! Từ lâu con rất buồn khổ, vì trông thấy gia đình mình, từ cha mẹ cho đến chồng của con, và anh chị em trong nhà đều bị bệnh khổ triền miên. Con tự nghĩ đây chắc là do nghiệp nhân không tốt nên chiêu cảm quả báo như thế. Vậy con mong cha mẹ cũng như anh chị em trong nhà, đồng một chí nguyện hướng về Tam Bảo, ăn chay niệm Phật tụng kinh, và giữ lòng cho thanh tịnh. Ngoài việc niệm Phật tụng Kinh, tất cả nên chí thành xưng niệm danh hiệu Quán Âm Bồ Tát để sám hối túc nghiệp, thì con chắc chắn nhờ từ lực của Tam Bảo minh gia sẽ chuyển khổ thành vui, chuyển nguy thành an ổn!

Cha mẹ chồng thuận theo lời khuyên của cô mà thực hành, quả nhiên không cần thuốc thang, cả nhà bệnh hoạn dần dần đều khỏi hẳn. Du Nguyên bệnh mắt cũng được lành. Hồ thị sau đó cũng sanh một đứa con trai.

Lần nọ, mẹ chồng bị bệnh lạc huyết rất nguy kịch, cô đã đến trước Thánh tượng Quán Âm Bồ Tát, huyết lệ tuôn rơi, nhất tâm cầu đảo Bồ Tát xin cho bệnh bà mau khỏi.

Mẹ chồng trong lúc hôn mê bất tỉnh, phảng phất thấy một bà già đứng trước giường bệnh nói rằng: “Không hề gì đâu. Ta bảo đảm bệnh ngươi sẽ khỏi.”

Quả nhiên, trong vòng vài ngày, bệnh của mẹ chồng dứt tuyệt, và hưởng thọ đến 80 tuổi.

Từ đó về sau, gia đình họ Du tụng Kinh niệm Phật rất chuyên cần, mỗi năm đều ấn tống kinh Phổ Môn và khuyến hóa mọi người lễ niệm hành trì.

*Triều nhà Thanh, ở tỉnh Triết Giang có một thư sinh tên Kim Hoàng, tánh tình hiền hậu và chí hiếu. Vào ngày 21 tháng 7, niên hiệu Khang Hy năm thứ 6, Hoàng nằm mộng thấy Tường Y Tiên nhân đến bảo rằng: “Ngươi có túc nghiệp nên đúng ngày này năm sau sẽ bị Thiên lôi đánh chết.”

Hoàng giật mình thức dậy, nhớ lại lời của Tiên nhân dạy, vô cùng lo sợ. Nhưng do anh là đứa con sống trong gia đình kính tín ngôi Tam Bảo, hiểu rõ lý nhân quả, nên hàng ngày đến trước Phật đài, cầu xin sám hối tội lỗi, tiêu trừ nghiệp chướng. Ngoài giờ lễ sám tụng kinh, thì cầu Bồ Tát gia hộ.

Năm sau, vào ngày nói trên đúng lúc bầu trời quang đãng, anh bỗng thấy không trung mây đen đột nhiên kéo đến bủa kín âm u, tự biết không thể nào tránh khỏi túc nghiệp như lời Tiên nhân đã nói. Việc trả quả, anh vui lòng nhưng điều anh hết sức lo buồn là còn mẹ già ở lại, không người phụng dưỡng, dù anh chị em có đông nhưng những người ấy không lo được cho mẹ.

Hoàng vội đến dưới ngôi chùa ở núi Vân Bút, quỳ trước bảo tháp, chắp tay thành kính xưng niệm Thánh hiệu Quán Âm. Bỗng một trận cuồng phong bão nổi dậy, sấm sét đùng đùng vang trời, lúc ấy tất cả gia nhân đều hốt hoảng khóc than, vì họ tin rằng thế nào anh cũng sẽ chết dưới lưỡi tầm sát của Thiên lôi, nhưng trận mưa dông vừa chấm dứt thì cảnh trời trở lại quang đãng.

Mọi người kéo nhau đến ngôi chùa thì thấy anh vẫn chắp tay quỳ thẳng như đang nhập định, ai cũng mừng rỡ muôn phần, đỡ anh đứng dậy, đưa về nhà. Anh lúc ấy kể lại:

– Lúc tôi đến quì trước bảo tháp thì chuyên niệm Thánh hiệu Quán Âm. Tôi cảm thấy an ổn như ngủ và thấy Quán Âm Đại Sĩ tay cầm nhành liễu tưới nước cam lồ trên thân. Ngài lại cầm chiếc gương báu chiếu vào thân tôi rồi bỏ đi. Khi ấy tôi như người trong giấc mộng thức dậy.

Từ đấy, thân mẫu anh cùng tất cả gia nhân, tín tâm với Phật pháp càng mãnh liệt, nhất là đối với Đại bi Quán Thế Âm Bồ Tát, lòng tin của họ càng triệt để. Mỗi ngày hai thời, việc tụng niệm không biếng lười bê trễ và chuyên lễ bái cúng dường Đại sĩ để ghi nhớ thâm ân hồi sanh cứu tử cho anh.

*Vào đời Tống, Châu Tiến Sĩ ở Tô Châu vốn theo đòi nghiệp khoa cử, chưa hề nghe Phật pháp.

Ngẫu nhiên, lần nọ sang chơi chùa Hổ Khâu, nghe ngài Phật Ấn giảng kinh Kim Cang đến phần giảng về bốn câu kệ:

“Nhứt thiết hữu vi pháp,
Như mộng huyễn bào ảnh.
Như lộ diệc như điển,
Ưng tác như thị quán”

Thì tâm ông cảm thấy vui vẻ chưa từng có. Do vậy, muốn tham cứu tông chỉ, ý nghĩa của toàn bộ cuốn kinh.

Nhằm lúc nghỉ trưa, ông mộng thấy một gã áo xanh áp tải năm người, ông cũng theo sau, đi chừng một cây số, đến một khu phố lớn, rồi rẽ vào trong ngõ hẻm, vén tấm rèm bằng vải màu xanh vào nhà người ta.

Đến nhà bếp, thấy trong thùng có canh, năm người kia đều uống. Ông cũng muốn uống thử xem sao, nhưng người áo xanh, ngăn lại bảo: “Người nghe Phật pháp chẳng được uống”, liền giật mình tỉnh giấc.

Ông Châu bèn đi theo lối đã nhớ, đến phố lớn, vào trong ngõ, quả nhiên có căn nhà của người ta giống hệt như trong mộng.

Ông gõ cửa, bước vào hỏi trong bếp có chuyện gì lạ không?

Chủ nhân nói: “Trong bếp có sáu con chó mới sanh, một con đã chết!”.

Ông kinh hãi đẫm mồ hôi, tự nhủ: “Nếu chẳng nghe Phật pháp thì đã vào thai chó rồi”.

Do vậy, từ đó về sau chuyên trì kinh Kim Cang, thọ tới tám mươi chín tuổi. Ngày rằm tháng tám, ông mời các đạo hữu khắp các chùa đến từ biệt, trèo lên cành cây ở sau vườn, nói bài kệ xong, bèn gieo mình xuống, đứng sững trên mặt đất mà vãng sanh!

*Triều nhà Thanh, Lâm Tựu Khiết là một Phật tử thuần thành ở Hàng Châu. Một hôm, đứa con gái bỗng mắc chứng bệnh rất lạ kỳ, miệng cứ lẩm bẩm. Ông bèn gạn hỏi thì đứa con gái đáp: “Ta họ Nghê, tên Thoại Lâm, người ở Dương Châu, có 50 mẫu đất bị mày chiếm đoạt. Đời trước, đứa con gái này là con người họ Lưu, làm quan Tuần Án có nhận của ta một số bạc lớn để xử vụ kiện ấy, nhưng đã không xử, lại còn giết ta chết trong ngục. Từ ấy đã 60 năm ta bị hàm oan nên tìm cách đòi mạng, nhưng vì không có dịp nên tới hôm nay, ta đến đây đòi mạng vậy thôi!”

Thế rồi trong miệng cô gái đó cứ lâm râm chuyện mình đến địa phủ và thuật lại những việc ở chốn Minh ty. Tựu Khiết thấy vậy, hết sức buồn rầu nhưng không biết làm sao giải quyết. Sau đó, ông bảo con gái mình đến trước Thánh tượng Quán Âm Bồ Tát lễ bái cầu đảo và phát nguyện mỗi ngày sẽ niệm thánh hiệu của Ngài 3.000 biến để nhờ Bồ Tát giải trừ oan nghiệp.

Cô gái ấy một hôm nằm mộng thấy vị quan cầm thẻ bài cho biết rõ thời gian xử án. Quả nhiên, đến thời hạn thì bị đưa đến Minh phủ. Cô nghe thấy người tố cáo mình ăn hối lộ và giết hại mạng của ông ta nên cô cật lực cải chính rằng người họ Nghi chết không phải do mình giết. Phán Quan bảo rằng: “Tội giết sanh mạng thì không thật nhưng tội thọ lãnh tiền tài thì thật có, vì thế ngươi cần phải đền tội. Tuy nhiên việc ấy phải đợi Diêm Vương Đệ Tam Điện phán xử.”

Trải qua ba ngày, cô gái ấy lại bị bắt đến Đệ Tam Điện để thẩm vấn, đối diện trước Diêm vương, cô vô cùng sợ hãi khóc lóc cầu xin tha tội. Diêm Vương phán: “Tội của ngươi tạo thì phải lãnh thọ, không thể dung tha. Nhưng Ta niệm tình ngươi có tâm sám hối và trì niệm Thánh hiệu Đại Sĩ, vậy Ta tha cho ngươi, khi trở về dương thế thì phải gắng làm lành, lánh dữ, giữ tâm thâm tín Tam Bảo đừng xao lãng, phải niệm Phật, lễ sám tụng kinh tinh tấn hơn trước thì sẽ hưởng thọ cao niên.”

Dứt lời, Diêm vương truyền lệnh hai quỷ đưa cô gái ấy hồi dương.

Phật tử Lục Kỳ bình luận: Xét kỹ thì thấy cô gái họ Lăng bị bệnh từ năm Quý Tỵ, nếu so với thời điểm của câu chuyện xảy ra thì đúng là 60 năm. Khi vị Quan huyện địa phương cho người đi kiểm tra thì đúng là có người tên Ưng Lăng, người ở Triều Dương, huyện Bảo Khánh tỉnh Hồ Quảng.

Vào niên hiệu Vạn Lịch nhà Minh thứ 8, năm Canh Thìn, Ưng Lăng thi đậu Tiến sĩ. Sau khi thi đậu thì nhậm chức tri huyện ở Côn Sơn. Qua năm Bính Tuất, ông đi thẩm tra ở tỉnh Tứ Xuyên.

Đến năm Mậu Tý thì làm quan Tuần Diên coi các sở muối ở xứ Tường Lô.

Đến năm Kỷ Sửu, ông làm quan Tuần Án ở Hoài Dương.

Thế là trước kia trong niên hiệu Vạn Lịch, nhà Minh năm Kỷ Sửu, Ưng Lăng đã làm quan Tuần Án, cho đến thời điểm hiện tại là năm Quý Tỵ thì đầu thai làm thân nữ. Khi bị quỷ bắt đến Minh ty thì tổng cộng thời gian từ đó đến nay là 65 năm, đến năm Ất Mùi là 67 năm, mọi sự chuyển biến như vậy thật đáng ghê sợ.

Tôi mong tất cả mọi người nói chung, và trong hàng Phật tử nói riêng, khi xem tích này nên sanh tâm chán ngán kiếp luân hồi của chúng sanh trong lục thú, mau tìm đường giải thoát.

Nhưng muốn giải thoát thì không phải là chuyện nhỏ bé dễ dàng, cốt yếu nên vâng lời Phật dạy, chí thành ăn năn sám hối, nhất tâm niệm Phật, cầu về Tây Phương Cực Lạc thế giới, ấy là thượng sách, không có phương cách gì tốt hơn!

* Đời nhà Tống tại Lâm An, có một vị tên là Trương Công Tử, một hôm đến xem một ngôi chùa đã gần sụp, trong ấy có một tượng Quán Âm, tay chân bị sứt xẻ, ông ta xin với vị sư trụ trì đem về tu bổ để thờ.

Về sau thời buổi loạn lạc, gặp giặc ông bèn nhảy xuống giếng để trốn, thấy Đức Quán Âm hiện hình nói với ông rằng: “Ngươi hôm nay phải thọ tử, ta không thể cứu ngươi được, bởi vì kiếp trước ngươi đã giết chết một người tên là Đinh Tiểu Đại; giờ đây y sẽ tới giết ngươi để báo thù”.

Nói chưa dứt lời thì liền có một người tay cầm xà mâu chạy đến, đứng trên miệng giếng kêu ông lên.

Khi bò lên, ông liền hỏi: “Ông có phải là Đinh Tiểu Đại không?”

Người ấy vô cùng ngạc nhiên, bèn hỏi lại: “Vì sao ngươi lại biết được tên họ của ta?”

Ông đáp: “Chính do Đức Quán Âm Bồ Tát chỉ thị cho tôi. Ngài nói rằng bởi kiếp trước tôi đã sát hại ông, nên hôm nay tôi phải đền mạng, vì vậy tôi hoan hỷ trả nghiệp nợ. Vậy thì ông hãy cứ ra tay!”

Đinh Tiểu Đại nói: “Thế thì anh và tôi nên giải oan thù, không nên kết oán nghiệp lại đời sau làm gì nữa!”

Nói xong hai người vui vẻ chia tay nhau, mỗi người đi một ngã. Đây cũng là một phương thiện xảo do lòng từ bi phổ độ của Bồ Tát bất khả tư nghì vậy!

* Tại Giang Hạ có nhà nọ tổ chức đám chay linh đình. Một bé gái tới xem, bỗng có một con quỷ hình thù to lớn bắt em ấy bỏ vào trong một căn phòng tối đóng cửa lại. Em la hét kêu cứu rầm lên mà mọi người hai bên đều không nghe thấy hay biết gì cả. Chốc lát con quỷ ấy dắt em bé chạy đi!

Chạy độ một quãng đường, thoạt thấy ánh sáng hồng chiếu đến, con quỷ rất sợ hãi, bỏ em bé trốn mất.

Ánh sáng càng lại gần, em trông thấy, một đoàn người hộ vệ một vị cao lớn, mình đeo toàn ngọc anh lạc, cất tiếng tự giới thiệu: “Ta là Nam Hải Đại Sĩ, nên đi theo ta!”.

Chốc lát, em thấy đi đến một chỗ đền đài lầu các lung linh, tráng lệ, không phải cảnh giới phàm trần sánh kịp. Đại Sĩ cùng nhiều thị giả nói chuyện. Trong số đó có một thị giả dắt đến một con quỷ ban nảy đến. Đại Sĩ bảo một người mặc giáp vàng đuổi đi!

Lại trông thấy một người đội mão vàng, cúi đầu đảnh lễ Đại Sĩ và thưa: “Người mẹ em bé này ăn trường trai và thờ Phật rất thành kính”.

Đại Sĩ nói với em: “Mẹ con làm lành rất đáng khen, con nên theo người đội mão vàng này mà trở về, khi đi nên nhắm mắt lại!”.

Em vâng lời nhắm mắt đi theo người đội mão vàng, trong nháy mắt đã đến nhà, thấy mẹ ngồi đầu giường tay bồng một đứa bé giống hệt như mình.

Rồi em bỗng mê đi, khi tỉnh lại liền ngồi dậy bên giường mở miệng kêu lớn: “Mẹ! Mẹ!”

Hỏi ra mới biết từ khi em đang xem đám chay thì bị hôn mê bất tỉnh, các lương y mời đến thảy đều bó tay, em nằm thiêm thiếp đã hơn một tháng nay, bà mẹ chỉ còn có cách duy nhất là niệm

Phật mà thôi, bây giờ em tỉnh lại, cả nhà rất mừng rỡ.

Về sau em bé ấy lớn lên phát nguyện trường trai và thọ trì kinh Quán Âm rất chuyên cần.

* Đời nhà Đường, Đổng Hùng làm chức quan Đại Lý thuộc triều đại Đường Thái Tông, lúc nhỏ ông đã ăn chay thờ Phật rất thành kính.

Do vì bạn đồng liêu hiềm khích vu cáo, ông phải bị tống giam vào ngục. Không biết kêu cứu vào đâu, ông chỉ nhất tâm đọc tụng phẩm Phổ Môn và niệm danh hiệu Quán Thế Âm Bồ Tát mà thôi.

Rất lạ là gông xiềng tự nhiên được cởi mở mà khóa xiềng vẫn y nguyên. Giám ngục bẩm lên cấp trên, ngự sử Trương Thủ Nhất thân hành đến khám nghiệm, cho là kỳ quái, và ra lệnh xiềng khóa lại rất kỹ lưỡng.

Đổng Hùng chiếu thường lệ chí thành tụng Kinh, khóa xiềng lại tự nhiên rớt xuống đất mà niêm phong vẫn như cũ.

Nhờ thế được phán xét lại mới biết là ông bị hàm oan, liền được trả lại tự do.

* Đời nhà Ngụy có một người xuất gia tên là Lãng Đại Sư bị giặc bắt đem đi, giam tại trong vòng vây.

Đại Sư cùng bạn đồng học muốn trốn thoát, nhưng bốn mặt bị canh phòng nghiêm mật, không đường tẩu thoát, hai bên đều vách đá lởm chởm chẳng biết mấy tầng lớp!

Có một cây đại thọ nằm sát bên góc thành, tất cả liền leo lên cây dùng dây thả xuống, đêm đã tối dưới hố lại toàn là gai góc chưa biết sâu hay cạn!

Không biết để chân vào đâu mà xuống, sư níu dây thầm nghĩ: “Nguy rồi đây!” Thế rồi chí tâm thầm niệm danh hiệu Quán Thế Âm Bồ Tát! Giây lát thấy hào quang chiếu sáng. Lần tuột xuống đến đất lại thấy một con cọp to lớn, đồng bọn hết sức sợ hãi, không sao thoát khỏi miệng cọp.

Sư nói: “Chúng ta được cứu, nhất định là nhờ oai lực của Bồ Tát, cọp này chắc chắn không ăn người, phải chăng là Bồ Tát thị hiển để dẫn đường cho chúng ta, chúng ta cứ theo cọp mà đi, chắc chắn sẽ thoát được tai nạn.”

Lạ thay! Hễ người đi chậm thì cọp cũng đứng đợi. Trời sáng thấy được đường về thì cọp cũng biến đâu mất!

Trì kinh Kim Cang và kinh Pháp Hoa được bảo hộ nơi chiến trường sau sinh về Tịnh Độ

Thiếu sinh Chí Thông, người quận Thiên Thủy, tuổi còn nhỏ đã giữ trai giới, sáu thời lễ sám, hằng tụng kinh Kim Cang Bát Nhã và Pháp Hoa.

Năm 20 tuổi, ông bị tuyển làm vệ sĩ trong Đoàn Thọ Quân ở phủ Thỉnh Đức. Kế đó, cả đoàn lại phụng sắc chỉ đi dẹp giặc phương Nam, đường từ nhà đến đó xa hơn muôn dặm. Giữa đường, ông vẫn cố gắng giữ sự lễ tụng không thiếu sót.

Đến Nam Phương, lâm trận bị thua, tướng sĩ đều rã bỏ chạy. Đoàn Thọ Quân hơn trăm người phần nhiều chết và bị thương. Ông đang khi sợ hãi thất lạc, bỗng có năm người cỡi ngựa chạy theo sau kêu rằng:

– Chớ nên kinh hãi! Ngươi tu công đức, xung quanh hộ vệ không ai làm hại được!

Ông chạy hơn 35 cây số, đến một tòa tháp miếu, liền vào đó ẩn thân, giặc tìm không thấy đều trở về. Đang khi ấy, bỗng có hai vị tăng bước vào miếu, bảo ông rằng:

– Đàn việt lễ niệm chư Phật, tụng kinh Pháp Hoa và Kim Cang, công đức không thể nghĩ bàn, nên chúng ta đến đây cứu trợ. Năm vị vừa rồi là chư thần theo hộ vệ không để cho đàn việt bị thương. Từ đây, đàn việt hãy gắng tu phước nghiệp đừng bê trễ, mọi việc đều có thiện thần ủng hộ, chớ nên lo ngại.

Nói xong, đồng bay lên hư không.

Ông vì trọn ngày nhọc mệt, lại không ăn uống, nên cảm thấy đói khát rã rời. Giây lát bỗng có hai đồng tử đem cơm nước, thức ăn và bánh trái đến dâng mời. Đợi khi ăn xong, hai vị lại bảo:

– Hãy cố gắng trì kinh chớ để thiếu sót.

Nói xong, cùng đồng bay đi. Ông thương khóc sám tạ. Sau đó, lại tìm được Đại quan tiếp viện, liền xin gia nhập, trải qua ba trận phá tan giặc mà không bị một vết thương. Biết là nhờ công đức Pháp Hoa và Kim Cang. Lúc trở về, ông lại càng chuyên tâm trì tụng không dám biếng trễ.

Ngày 28 tháng giêng năm Trinh Quán thứ tám, ông đau nặng, đến đêm mồng 8 tháng hai thì từ trần. Sau khi tắt hơi, ông bị dẫn đến một đại điện, đứng sau số người rất đông đảo. Trên điện, phán quan lần lượt xướng danh, Diêm Vương tùy theo nghiệp lành dữ mà phán xử. Sau rốt nghe gọi đến tên mình, ông liền bước ra. Diêm Vương hỏi sự tu phước lúc sinh thời, ông thưa:

– Tôi thường giữ trai giới, sáu thời lễ Phật, tụng kinh Pháp Hoa và Kim Cang Bát Nhã.

Diêm Vương nghe nói, chắp tay cung kính khen rằng:

– Lành thay! Công đức không thể nghĩ bàn.

Liền sai quan Chủ Ty kiểm lại sổ bộ, thấy ông hãy còn sáu năm thọ số, tụng kinh Pháp Hoa được một ngàn bộ, kinh Kim Cang vạn bộ, ngoài ra công đức lễ Phật trì giới cũng đếu có ghi trong đó.

Xem xét xong, vua cho mời ông sang điện phía Tây, sai đem giường vàng ghế ngọc, trải đệm ngồi và thỉnh tụng kinh. Kế đó, lại cho dẫn đi xem cảnh địa ngục để biết việc tội phước. Dạo qua các ngục xong, ông được đưa đến một tòa thành lớn phía Tây Bắc. Nơi đây, có lưới sắt bao trùm, bốn tên quỷ tốt giữ cửa, thân hình cao lớn, đầu như La sát, tay cầm khí giới kỳ quái, miệng phun lửa dữ. Lại có hai con chó đồng thật to, miệng khạc nước đồng sôi chảy tràn lan vào trong ngục, tội nhân đau khổ đủ các không thể kể xiết. Thấy cảnh tượng ấy, ông kinh hãi, liền được sứ giả đưa trở về. Diêm Vương bảo:

– Nay ông đã thấy việc tội phước báo ứng, lúc sống lại, xin cố gắng siêng năng tu tập. Nếu biếng trễ, ngày kia sẽ sa vào ác đạo không ai cứu vớt. Như tinh cần, tất sẽ được sinh về cõi Phật!

Sau khi sống lại, ông thuật đủ mọi việc, từ đó hết sức tinh tấn. Qua sáu năm, ông biết trước ngày giờ, được sinh về Tịnh Độ. Ngày vãng sinh, nhạc trời dìu dắt, hương lạ đầy nhà.

*Trương Chí Đạt, người quận Thiên Thủy, viết chữ rất khéo, nhưng rất ưa thích đạo Lão, không tin Phật pháp.

Một hôm, ông đến nhà bạn chơi, thấy đang chép kinh Đại Bát Nhã, lại ngỡ là kinh đạo Tiên, bèn cất tiếng hỏi rằng:

– Anh viết kinh Lão Tử đó phải không?

Người bạn vui tính, mỉm cười đáp:

– Phải!

Chí Đạt mừng rỡ, lại giành bút chép, đến chừng chép vừa được vài ba hàng, biết chẳng phải kinh đạo Tiên, nên giận dỗi đứng dậy bỏ ra về.

Qua ba năm, ông bị bệnh rồi chết, trải qua một đêm bỗng sống lại rơi lệ thương khóc. Hôm sau, ông liền đến nhà bạn cũ, vừa mừng vừa cảm, sám hối tạ lỗi rằng:

– Anh thật là bậc đại thiện tri thức, khiến cho tôi được sống lâu, được phước cõi trời, mà tôi mê lầm không biết, trở lại buồn giận!

Người bạn kinh lạ liền hỏi:

– Tại sao anh lại nói như thế?

Ông đáp:

– Tôi chết xuống Âm Ty, vua Diêm La trông thấy quở rằng: “Ngươi là kẻ ngu si, chỉ tin bàng môn, không biết Phật pháp!”. Nói xong, Diêm Vương tra sổ bộ, đọc kể tội ác hơn hai mươi trang giấy.

Chỉ còn nửa trang, Diêm Vương bỗng chăm chú nhìn xem rồi mỉm cười bảo: “Ngươi có công đức lớn, là đã đến nhà bạn thân chép được ba hàng kinh Đại Bát Nhã, nay ân xá cho ngươi trở về nhân gian, hãy cố gắng thọ trì kinh ấy!”.

Thuật xong, ông nói tiếp:

– Nhờ anh mà tôi được hoàn sinh, biết đường lối tu tập chân chính, đó chẳng phải là ân lớn sao?

Hàn huyên giây lát, ông liền trở về nhà, xuất tiền mua giấy bút, rồi từ đó ở yên nơi thư phòng, ngày đêm chuyên tâm chép kinh. Trải qua thời gian khá lâu, ông cần mẫn không giải đãi nên chép được tám bộ, mỗi bộ kinh Đại Bát Nhã gồm 600 quyển. Chép xong, ông thiết lễ trang nghiêm để cúng dường.

Năm được tám mươi ba tuổi, ông không bệnh mà mãn phần. Trước khi qua đời, ông bảo người nhà rằng:

– Ta thấy nơi thân mình hiện ra đôi cánh, toàn là văn kinh Đại Bát Nhã. Có một ngàn đức Phật đến rước ta vãng sinh về Tịnh Độ.

Nói xong, rồi ngồi chắp tay mà an nhiên tự tại vãng sanh.

Ông ngày đêm chuyên cần chép kinh, tâm luôn niệm kinh không nhớ nghĩ gì khác nên công đức bất khả tư nghì. Cũng đồng một lý, như người niệm Phật phải nhứt tâm thì mới có được cảm ứng thù thắng như thế!

Trì danh giải nguy

Vào thời nhà Đường, có một vị quan Biệt giá, tên là Kiện Khác, bình sanh ông có lòng tin Phật một cách thiết thật, vâng theo chỉ giáo của Phật pháp ở đời, nên trên đã được lòng vua thương và các quan đều kính nể, dưới cũng được nhân dân yêu mến, xem ông như một vị phúc tinh vậy. Một ngày kia, ông vào chùa hỏi mấy vị Tăng: “Bạch các ngài! Kẻ tại gia cư sĩ như tôi đây nên thờ vị Phật hay là vị Bồ Tát nào là thích hợp?”.

Khi ấy mỗi vị đều nói khác nhau, sau rốt có một vị Tăng nói rằng: “Quan lớn nên thờ Đức Địa Tạng, vì Ngài đã vâng sắc chỉ của Phật, thề độ tất cả chúng sinh trong tam giới lục đạo”.

Kiện Khác nghe rồi để vào lòng và xin lên chánh điện lạy Phật. Khi từ giã các vị Tăng mà trở về, thì ông nghĩ: “Đức Địa Tạng đã vâng lời Phật dạy mà phát nguyện độ hết chúng sinh thì lẽ nào Ngài không độ ta?”

Ông phát nguyện khắc tượng Địa Tạng từ khi đó, nên quyết lòng kiếm mua cho được cây chiên đàn thứ tốt, rồi lựa thợ thiện nghệ mà mướn chạm một vị tượng đã khéo lại trang nghiêm, ai xem thấy cũng phát khởi tâm cung kính tín ngưỡng. Sau đó, ông làm lễ an vị tượng và thường dùng hương hoa cúng dường, khi đi đứng nằm ngồi đều hết lòng âm thầm trì niệm danh hiệu của Đức Địa Tạng.

Vào khoảng niên hiệu Thiên Thành, đời vua Trang Tông, cả trong thiên hạ đều nổi loạn, ông bị vây, sắp thấy cái chết trước mắt, nhưng ông vẫn định tâm chuyên niệm danh hiệu của Đức Địa Tạng liên tục không gián đoạn. Khi ấy, bên loạn quân dường như bị cái mãnh lực gì đó làm cho họ ghê sợ trong lòng rồi giải tán, chớ không vây ép nữa, nên ông được bình an vô sự. Đến lúc thời bình rồi, ông bèn thuật lại câu chuyện cảm ứng ấy cho mọi người ở xứ ấy nghe, thì ai nấy cũng đều cho là việc hết sức lạ kỳ.

Sang niên hiệu Trường Hưng, ông vâng thánh chỉ đi phó nhiệm một nơi xa, nhưng khi đi được nửa đường lại gặp bọn oan gia vây đón thích khách. Trong cơn khủng hoảng, ông đành bó tay chỉ lo trì niệm danh hiệu Địa Tạng chờ chết, bỗng nhiên bọn hung thủ kia chỉ nhìn thấy một vị Tăng, chớ không phải là ông. Chúng liền hối hận vô cùng, cầu Ngài tha lỗi cho chúng ăn năn sám hối, thì vị Tăng đó vui vẻ nói rằng: “Tham, sân, si là ba thứ độc, nó làm cho người đời phải trôi lăn trong tam đồ lục đạo, chịu sự khốn khổ gớm ghê. Vậy ta khuyên chúng ngươi hãy ráng trau dồi tâm tánh, nuôi dưỡng lòng từ và quy y Tam Bảo, đặng nhờ phần an lạc về sau, cho khỏi luân hồi thống khổ nữa!”

Nghe sơ qua mấy câu ấy rồi, chúng toan cúi đầu cảm tạ thì chẳng còn thấy vị Tăng đâu nữa, nên lòng chúng càng phập phồng sợ hãi, bèn thầm nguyện cải ác tùng thiện, rồi cùng nhau trở về xứ sở. Đó là nhờ từ lực của Đức Địa Tạng gia bị mà ông được an toàn vô hại.

Lần sau, ông đi lỡ đường, phần trời cũng tối, cùng mấy kẻ tùy tùng ở giữa đồng, nên chia ca kẻ ngủ người thức canh gác. Không ngờ đến lúc nửa đêm, trời đổ mưa rất lớn, làm cho đèn lửa tắt hết, chỉ có pho tượng gài trong búi tóc tỏa ánh sáng rực rỡ sáng như ban ngày. Khi ấy ông đang ngủ, bỗng nghe có tiếng nói nho nhỏ rằng: “Đàn việt hãy thức dậy sửa soạn mà rời nơi này lập tức!”.

Ông nghe mấy lời, bật tỉnh dậy, nhờ ánh sáng chiếu từ pho tượng dẫn đường, liền vội vã đi tìm chỗ khác mà an trú. Tản sáng ông trở lại chỗ cũ coi thử, thì thấy nước mưa trên bốn phía núi chảy dồn lại đó mà thành một trận ngập lụt thật sâu. Chừng đó ông mới biết nhờ Đức Địa Tạng độ mình khỏi bị thủy thần nhận chết.

Đến niên hiệu Thanh Thái ông đã 78 tuổi, sức khỏe rất tốt. Một hôm pho tượng trong búi tóc tỏa ánh sáng, ông bèn chắp tay niệm Phật, mà an tường vãng sanh.

Khắc tượng tiến thân

Vào triều nhà Đường, có một người thiếu nữ con của quan Đô Đốc họ Trần. Cô mồ côi mẹ hồi thuở còn nhỏ, đêm ngày rầu rĩ nhớ thương không biết làm sao thấy được mẹ, nên không còn hy vọng sống đời, chỉ một lòng quyết hủy mình, đặng xuống suối vàng tìm mẹ mà thôi. Quan Đô Đốc thấy tình cảnh ấy, thiệt như dao cắt ruột, như bị muối xát vào lòng, song ông cũng ráng làm tỉnh mà dùng lời an ủi rằng:

– Con ơi! Hết thảy nhân loại trên thế giới này, không ai là người chẳng muốn sống, nhưng vì số thọ yểu chẳng đồng, cuộc hiệp ly có khác, kẻ giàu lại chết sớm, người nghèo thì sống lâu, là bởi chỗ tạo nhân sai biệt mà xưa nay chẳng có ai cải theo ý muốn của mình được. Huống chi mẹ của con tuy mất rồi, thì đạo làm con cũng đồng một tâm lý biết thương mến buồn rầu, phải toan liệu cách nào cho đặng lưỡng toàn. Chớ nay con rước lấy sự lo buồn vào lòng, rồi bỏ ngủ, bỏ ăn, bỏ uống, quyết làm cho chết thân con mà để lại cho cha thêm một mối thống khổ nữa, thì thiệt hại cho sự sống của cha trong lúc tuổi già nhiều lắm. Vậy nếu con nhớ thương mẹ của con thì con nên tạo tượng Đức Địa Tạng như trong kinh Phật đã dạy, đặng đêm ngày lễ bái cầu nguyện cho vong linh của mẹ con sớm thoát khỏi khổ luân, sanh về Cực Lạc. Như vậy thì con cũng trả được cái công lao mười tháng cưu mang, ba năm bú mớm.

Ông khuyên nói như thế rồi, bèn xuất ra năm trăm quan tiền, mướn thợ khắc tượng Đức Địa Tạng cao một mét, và đặt bàn hương án nghiêm trang nơi phòng của vợ ông nằm khi trước, rồi để con gái của ông chiêm ngưỡng Thánh tượng mà tụng kinh niệm Phật.

Từ khi đó nàng mới an tâm, sớm chiều chí tâm cầu nguyện cho mẹ hết khổ được vui, tiêu diêu miền Cực Lạc. Một đêm nọ, sau giờ tụng kinh niệm Phật, nàng đương lúc ngủ, bỗng chiêm bao thấy một vị Tăng nói với nàng rằng: “Hồi khi ta thọ thân nữ nhân, cha ta là Thi La Thiện Hiện, mẹ ta là Duyệt Đế Lợi, bị khổ nơi địa ngục hết sức nặng nề, ta bèn phát tâm Bồ Đề thệ nguyện cứu độ hết thảy những chúng sanh bị khổ, đặng đem công đức ấy mà hồi hướng cho cha mẹ được siêu thoát. Nay ta cảm tấm lòng chí hiếu của con, nên ta thân hành vào địa ngục, thuyết pháp mà độ thoát cho vong mẫu của con được sanh lên cõi trời Đao Lợi rồi”.

Cô nghe vị Tăng nói như vậy rồi thì rất vui mừng, liền giật mình thức dậy, đem câu chuyện chiêm bao mà tường thuật lại cho cha và hết thảy người trong nhà nghe, ai nấy cũng đều vui vẻ, đồng thời nhìn lên bàn thờ thì thấy áo tượng Đức Địa Tạng đổi ra sắc nám đen, y như trong cơn chiêm bao nghe vị Tăng nói, vì vào địa ngục mà bị lửa liếm nhằm tà áo, vì thế mà sự tín ngưỡng của các người ấy lại càng tăng lên đến cực điểm.

Từ đó, chẳng những người trong xóm, mà cả người ở xa cũng đồng vẽ tượng Đức Địa Tạng mà thờ để cầu siêu cho cha mẹ, và phát tâm tu hành rất nhiều.

Địa Tạng Bồ Tát chỉ điểm bình an

Thân là cội gốc của các khổ, vốn không đáng tiếc; nhưng thân có thể tải đạo, cũng không thể không trân trọng. Những lời này là những lời của các bậc Đại đức thuở xưa tả về cái thân này của chúng ta là cái thân nghiệp báo chứa nhóm những tội ác, sống trên cõi đời chẳng qua chỉ vài mươi năm ngắn ngủi, đâu đáng quý trọng.

Nhưng nếu muốn được giải thoát thì phải mượn giả tu chân, chẳng kể là tu học Phật pháp hay lạy Phật, niệm Phật, đều phải nhờ vào thân này; lúc tự mình gặp phải tai nạn nguy khổ thì tự mình niệm Phật, tự mình được cứu.

Vào 3 giờ chiều chủ nhật ngày 12 tháng 6, là ngày hội giảng kinh định kỳ của ban Song Tu của Liên xã. Đến 5 giờ giảng xong, sau khi niệm kệ hồi hướng bỗng có một vị thính chúng mới, đứng dậy hướng về mọi người nói: Nhà tôi ở hợp tác Tân Thôn, chồng tôi họ Hoàng, tôi hiện muốn đem chuyện cảm ứng chính tôi đã trải qua báo cáo cho mọi người nghe, để đáp tạ ân đức của Phật A Di Đà và Địa Tạng Bồ Tát.

Bà Hoàng kể: Vào tháng 2 năm 1965, tôi có một lần đi du lịch ở Đài Bắc, ở chợ gặp một người gánh một gánh rùa mời chào, hỏi tôi muốn mua rùa không? Tôi liền nói với anh ta: “Tôi là người xứ khác, mua rùa làm gì?”.

Tôi chơi ở Đài Bắc hai ngày về đến Đài Trung, qua ngày sau thì ở chợ Đệ Nhất lại gặp người bán rùa ở Đài Bắc, bị anh ta nhìn thấy, lại kêu tôi và nói: “Bà ơi! Ở Đài Bắc bà nói bà là người xứ khác, bây giờ bà đã về nhà rồi, bà nên mua đi!”.

Tôi liền bỏ ra 50 đồng mua bốn con rùa đem về nhà, đưa cho con dâu bảo nó đem bỏ ở miếng đất trống phía sau nhà để nuôi, hằng ngày cho ăn lá cải và cơm.

Có một hôm lúc tôi không có ở nhà, con dâu tôi liền bắt một con rùa ra giết, đứa con gái nhỏ mười lăm tuổi của tôi, ở bên nhìn thấy thì sợ quá, co rút hai tay ra phía sau nói với con rùa rằng:

“Rùa ơi! Tay của tao bị người ta cột rồi, nên không thể cứu mày được”.

Lúc tôi về nhà thấy một con rùa bị giết liền quở trách con dâu rằng: “Mua rùa về là để phóng sanh, không phải để cho cô giết ăn”.

Đêm đó tôi nằm mộng thấy một người nói với tôi: “Tai họa của bà đến rồi”. Lúc thức dậy trong lòng cảm thấy thắc thỏm không yên.

Đứa con gái nhỏ của tôi ba năm trước là mười lăm tuổi, học tiểu học, sau khi nhìn thấy cảnh giết rùa, một buổi sáng ba ngày sau, lúc nó chạy xe đạp đi học ở trên đường Tự Do, thì bị một chiếc xe ba gác máy chở heo đụng ngã, người lái xe ba gác máy đó nhìn thấy cô bé lúc cả người lẫn xe ngã bên đường, trong miệng vẫn còn la to ba lần “A Di Đà Phật” rồi trong miệng chảy ra rất nhiều nước dãi, trong lỗ tai lại chảy máu ra, liền hôn mê bất tỉnh nhân sự, may mà anh lái xe ba gác máy đó tức khắc nhảy xuống bồng nó lên, đón taxi đến bệnh viện khoa ngoại Trọng Tân, bác sĩ nói: xương đầu đã vỡ và ra máu, không dám nhận trị! Anh lái xe đó lại đưa nó đến bệnh viện khoa ngoại Lý Hựu Kiết, bác sĩ Lý vừa xem cũng nói thương thế rất nặng, đầu vỡ, máu chảy, bất tỉnh nhân sự, hãy nhanh chóng đưa đi bệnh viện Đài Trung.

Anh lái xe lại đưa nó đến khoa ngoại của bệnh viện, năn nỉ với bác sĩ: “Trong nhà cô bé này, chắc chắn có người tin Phật, đang lúc hai xe đụng nhau trong miệng cô ta vẫn còn la to “A Di Đà Phật” luôn ba lần, rồi mới chảy nước dãi, và hôn mê luôn. Xin bác sĩ nhanh nhanh chích thuốc cấp cứu dùm”

Lúc cô bé cấp cứu ở bệnh viện may mà có một nhân viên trong cửa hàng bán gạo nhận biết nó, liền chạy đến nhà tôi ở hợp tác xã Tân Thôn cho chúng tôi hay việc tai nạn xe, vợ chồng tôi tức thời đến bệnh viện xem, chăm sóc, lúc đó con bé còn có hơi thở thoi thóp yếu ớt, máu trong lỗ tai vẫn còn chảy ra mãi.

Lúc đó người làm cha mẹ mắt nhìn thảm trạng của con gái như thế, thật đau lòng, không dám nghĩ sẽ hồi phục lại như cũ; bác sĩ cũng không dám chắc bảo đảm về tính mạng, tất cả bà con bạn bè đến thăm hỏi an ủi cũng đều nói lành ít dữ nhiều, mãi đến ngày thứ sáu tính từ hôm vào viện, vẫn cứ trầm trọng như thế, không có một chút biến đổi nào khả quan.

Nhưng kỳ tích không thể nghĩ bàn, khiến người khó tin nổi, cuối cùng đã xảy ra. Vào cái ngày thứ sáu đó, trong đêm lúc tôi đang nửa thức nửa ngủ, thì nhìn thấy một vị Bồ Tát tướng mạo trang nghiêm, đến bên giường bệnh nói với tôi: “Ta là Địa Tạng Bồ Tát đến báo tin cho ngươi, con gái của ngươi rất có căn lành, hiện đang ở chỗ của Phật Tổ, ngày mai sẽ trở lại, nó sẽ còn mau lành bệnh hơn những người bệnh khác trong phòng nữa, ngày mai có thể xuất viện, sau này thân thể mạnh khỏe, bình an vô sự”. Nói xong phất phới bay đi.

Lúc tôi đem cảnh trong mộng này nói với chồng tôi, hai người đều nửa tin nửa ngờ hầu như cho là không thể có việc dễ dàng cho mình như thế. Qua ngày thứ bảy, con nhỏ vẫn cứ hôn mê chưa tỉnh, nếu như thế tôi là kẻ nằm mộng mê mờ, nhưng ông ta lại nói với tôi là Địa Tạng Bồ Tát đến chỉ điểm cho tôi mà, nói nghe rõ rõ ràng ràng!…

Lúc đó chồng tôi đang ngồi một bên giường của con gái, thì bỗng nhiên cánh tay phải đã một tuần không có nhúc nhích, giở lên rờ rờ mặt của ba nó, tay trái cũng đồng thời giở lên, hai tay rờ rờ mặt ba nó một hồi, lúc rờ đến cái cà vạt, liền cuốn tròn cái cà vạt lại, rồi mở mắt ra, mặt mày hớn hở kêu lên “Ba!”.

Lúc đó người làm cha mẹ nhìn thấy con gái đã nói chuyện được, con ma bệnh như biến mất, nỗi vui trong lòng thật khó tả. Con nhỏ lại nói: “Con không có bệnh gì hết, tại sao lại nằm bệnh viện?”, liền liếng thoắng đòi về nhà. Ngay trong buổi chiều ngày hôm đó, cuối cùng thật sự xuất viện về nhà.

Con bé từ sau khi về nhà, tinh thần rất tốt, trí huệ lại tăng trưởng, học trung học thành tích lại hạng ưu, dung mạo cũng thay đổi xinh đẹp phước tướng. Phật, Bồ Tát đại từ đại bi khiến cho nó khởi tử hồi sinh, thật là không thể nghĩ bàn.

Bệnh điếc bỗng dưng nghe được tiếng niệm Phật

Tiên sinh Quân Thiết Thiều là vị tiền bối của phái cải cách về Đông Y. Sau khi tốt nghiệp ở trường Nam Dương Công Học, ông từng làm giáo sư Anh Văn ưu tú, sau làm Biên Tập ở Thường Vụ Ấn Thư Quán. Trên lĩnh vực nghiên cứu y học, nhất là đối với Thương Hàn Luận của Trương Trọng Cảnh ông rất là tinh tường, chữa bệnh rất là hiệu nghiệm.

Ban đầu đối với Phật pháp ông chẳng mấy tin tưởng, mà còn khinh thường cho là mê tín, nhưng nhờ có duyên gần gũi các thiện tri thức. Sau đó đọc đến Địa Tạng Bản Nguyện Kinh do bạn bè gửi tặng thì tín tâm tự nhiên khởi phát không còn hoài nghi gì nữa.

Vào tháng 9 năm 1934 là ngày đản sinh của Đức Quan Thế Âm, lúc bốn giờ sáng ông bỗng nghe tiếng khánh, rồi nghe tiếng niệm Phật, câu nào cũng rất rõ ràng. Tiên sinh vốn dĩ là một bệnh nhân tai đã bị điếc hơn mười năm, dù lớn tiếng ở bên tai ông cũng không nghe được gì. Nay nghe được tiếng niệm Phật liên tục hơn mười câu, âm thanh kỳ diệu. Trong đời chưa lần nào nghe âm thanh hay ho như thế. Mới đầu ông nghi là phu nhân của mình đang đọc kinh, nhưng lúc đó bà còn nằm ngủ bên cạnh chưa dậy, ông rất kinh ngạc, bất giác run lên.

Bốn giờ sáng hôm sau, ông lại nghe tiếng niệm Phật như hôm trước. Buổi chiều hôm đó đang ngồi dưới lầu, ông cũng nghe tiếng đọc kinh như cũ. Trước hết ông nghe tiếng khánh trổi lên, kế sau đó là tiếng niệm Phật.

Có hôm ông ăn cua. Sáng hôm sau ông không nghe tiếng niệm Phật nữa. Bèn tự nguyện rằng: “Thề từ nay suốt đời không ăn cua nữa.”

Từ đó về sau trong khoảng nửa năm, ngày nào ông cũng nghe thấy tiếng niệm Phật. Ban đầu ông ngỡ rằng là mình bị bệnh ở màng óc, bởi vì tại sao lại không nghe được những âm thanh khác.

Sau đó thì mới biết là Linh Cảm của Bồ Tát Địa Tạng, hướng dẫn cho ông niệm Phật.

Năm 1935 tháng 3 ông gửi người mang hai trăm bạc nhờ in kinh Địa Tạng, đồng thời tự thuật lại chuyện kỳ dị này để báo đáp ân Phật, Bồ Tát.

Ba tháng sau, cuối mùa hạ ông tạ thế.

Tiên sinh trước khi mất khoảng ba bốn ngày, tự biết là mình sắp ra đi, nên đã dặn dò mọi việc rất rõ ràng, lại ra lệnh cho người nhà đừng khóc. Mọi người cùng đọc kinh niệm Phật. Buổi sáng trước khi mất, ông ngẩng đầu nhìn bốn phía xung quanh, hỏi người nhà rằng: “Các người có thấy cuốn sổ cái của ta không?”

Gia nhân hỏi rằng: “Trong cuốn sổ viết những gì?”

Ông lại ngẩng đầu nhìn quanh chậm rãi nói rằng: “Viết rất nhiều, nhưng những chữ nhìn không rõ” và nói tiếp “Ta đi đến chỗ an lành, các người đừng buồn bã!”.

Lại nói tiếp: “Ta đã biết chuyện quá khứ và mai sau!”.

Người nhà yêu cầu nói đại khái, ông trả lời là: “Chẳng thể nói hết! Các con phải chăm lo niệm Phật!”

Nói rồi, ông niệm Phật nho nhỏ không ngừng, rồi dần dần không niệm ra tiếng được nữa, nhưng miệng vẫn mãi mấp máy niệm Phật liên tục, cuối cùng đôi môi ông đang động bỗng dưng dừng lại, mà an tường vãng sanh Tây Phương.

Căn cứ vào lúc sinh tiền, khi ông giữ chức Biên Tập tờ Nguyệt San ở Thường Vụ Ấn Quán, trong các bài ông viết thường có những lời lẽ xem thường Tam Bảo, hoặc khi trò chuyện đôi lúc chê bai, mỉa mai Phật pháp. Nhất là phu nhân niệm Phật đã hơn mười năm, ông nói với bạn bè rằng: “Bà ấy muốn sống nơi Tây Phương, tôi sẽ sống ở đông Phương”. Ông tự cho mình là người có trí thức, thường hay chế nhạo Phật giáo đồ, cho những kẻ học Phật là mê tín!

Nhưng ông có thiện căn rất sâu dày, nên cuối cùng ông đã hướng về Phật pháp mà được hưởng lợi ích thực sự. Với bệnh hai lỗ tai điếc, vậy mà hàng ngày ông vẫn nghe được duy nhất âm thanh Phật hiệu để không thể không khởi lòng tín ngưỡng Phật pháp, tu theo pháp môn niệm Phật cầu sanh Tây Phương.

Vả lại mấy tháng cuối ông thành kính sám hối, nghiệp xấu mất dần. Ông ghi trong sổ những việc thiện ác của mình. Cuốn sổ đó mới đầu ông không để ai biết. Tâm niệm của mình khởi phát, ông bèn ghi chép lại. Bởi, thiên đường hay địa ngục đều do lòng mình biểu hiện ra. Tội lỗi hay hình phạt, Tịnh Độ hay Cực Lạc, hết thảy mọi thứ đều do nghiệp của mình chiêu cảm mà có. Duy chỉ những người tịnh tu Tịnh Nghiệp, khi sắp chết mới được nhẹ nhõm thư thái. Mặc dầu bệnh nặng nhưng lúc này cũng không cảm thấy đau khổ, cho nên ung dung niệm Phật, không bị tục lụy nghiệp chướng làm trở ngại.

Chúng ta đừng cho rằng khi sắp chết được niệm Phật một cách rõ ràng là chuyện dễ dàng, là bình thường, mà phớt lờ coi nhẹ vấn đề này. Kinh A Di đà nói: “Không có thể thiếu thiện căn phước đức và nhân duyên mà được sang Phật Quốc”.

Tiên sinh là người trung thực, có dũng khí can đảm thuật lại việc lầm lỗi của mình và thành tâm sám hối, nêu gương sáng cho người sau. Đó là Tịnh Nghiệp của ông thành tựu vậy!

*Vào niên hiệu Vạn Lịch thời nhà Đại Minh có người tên Dương Gia Vỹ, quê ở Thái Hòa, là con của một gia đình danh giá.

Thuở bé ông có chí hiếu học, từng đọc qua tất cả các loại kinh sách. Về sau, ông chỉ chuyên tâm nghiên cứu nội điển nhà Phật. Đặc biệt, chỉ để tâm nghiên cứu pháp môn Tịnh Độ.

Năm mười ba tuổi, ông đã biết giữ giới không sát sinh rất nghiêm, dù đó là ruồi muỗi chấy rận cũng không hề làm tổn thương. Đến năm hai mươi ba tuổi, vào trường Quốc Tử Giám ở Nam Kinh học tập, không được bao lâu, ông bị bệnh nằm mộng thấy mình đi đến địa ngục, gặp Địa Tạng Đại Sĩ ở điện Minh Dương. Khi tỉnh dậy, ông lo phóng sinh và mời chư tăng về nhà tụng kinh siêu độ phần âm, riêng mình thì chuyên trì danh hiệu Phật.

Được ít lâu, một hôm ông gọi người nhà đến và bảo rằng: “Tôi sắp về Tây Phương. Hoa sen xanh to lớn hiện ra trước mắt tôi, phóng ánh sáng rực rỡ, lẽ nào không phải là cảnh Tịnh Độ sao?”

Từ đó, ông ngày đêm niệm Phật không dứt. Tối hôm đó, ông bảo gia nhân tắt hết các ngọn nến và nói: “Mọi người nhờ đèn đuốc để thắp sáng, nhưng tôi thì không cần. Tôi thường ở trong ánh đại quang minh”.

Có người hỏi:

– Ông có thấy tướng trạng gì chăng?

– Hoa sen nở bốn màu nơi ao báu hiện rõ ràng trước mặt.

– Ông có thấy Đức Phật A-di-đà không?

– Tôi thấy Đức Phật A-di-đà hiện thân một nghìn trượng, tướng tốt rực rỡ trang nghiêm.

– Ông có thấy Bồ-tát Quán Thế Âm hay không?
– Bồ-tát Quán Thế Âm cũng hiện thân cao lớn bằng thân Đức Phật A-di-đà.

– Ông có thấy Bồ-tát Thế Chí hay không?

– Không thấy!

Nói dứt lời bỗng nhiên lộ vẻ vui mừng, đột nhiên ông đứng phắt dậy đốt hương và liên tục xưng tán: “Công đức của Phật A-di-đà không thể nói, không thể nói, không thể nói! Tôi đã được sinh lên thượng phẩm rồi”.

Nói xong, rồi ông chắp tay an nhiên qua đời. Nhằm ngày mùng 9 tháng 10 năm Ất Tị (1605).

Một sự thật linh nghiệm của tụng kinh, trì chú, niệm Phật

Năm Ất Tỵ, tức năm 1965, ở cố đô Huế có xảy ra một câu chuyện như sau:

Vào khoảng mồng 10 tháng 11, có mấy đạo hữu đến cầu thỉnh Hòa Thượng Diệu Hoằng, trụ trì Chùa Diệu Đế qua nhà họ để khai Kinh cầu an cho người mẹ đang bệnh nặng.

Hòa thượng nhận lời, vì bà bệnh nhân này tên Phan Thị Nguyên, pháp danh Nguyên Thanh là Phật tử thâm tín của bổn tự.

Hòa thượng bảo đệ tử là thầy Toàn Châu (hiện là hòa thượng viện chủ Pháp Hạnh Tùng Lâm) cùng đi với mình và dặn: “Ông đem theo áo quần để qua đó ở lại tụng Kinh, và đem thêm Kinh Thủy Sám”.

Hòa thượng và thầy Toàn Châu được rước bằng xích lô đạp qua đó vào buổi sáng. Đó là ngôi nhà ngói xưa, ba căn, thờ Phật ở căn giữa rất trang nghiêm đẹp đẽ. Giữa bàn kinh có bộ Kinh Địa Tạng 3 cuốn, bằng chữ Hán có in âm Việt bên cạnh, và Kinh Thiền Môn Nhựt Tụng, chuông mõ đầy đủ. Người trong nhà cho biết, lúc còn khỏe cụ bà hằng ngày thường tụng Kinh Địa Tạng.

Lúc đó cụ bà nằm trên bộ phản được làm bằng 4 tấm ván dày, cứ la đau rất lớn tiếng, các người con trai, con gái và dâu bu xung quanh, người thì nhìn, người thì rờ xoa vào mình của bà, mà Bà cứ la đau không ngừng, họ chỉ biết đau lòng thôi, chẳng có cách nào hơn. Vì bà cụ ấy bị bệnh ung thư sưng một cục đỏ lớn ở một bên trước cổ, đã đưa đi chữa trị tại Sài Gòn, bác sĩ đã đầu hàng. Mấy người con ở Sài Gòn, Đà Nẵng đành phải chở bà về bằng máy bay, đợi ngày chết. Bà cứ nằm lăn qua trở lại kêu la đau, không ai chịu nổi. Thấy hiện trạng và thăm hỏi xong, họ đã đơm hoa quả dâng hương đèn trên bàn Phật, cầu thỉnh quý Thầy làm lễ cầu nguyện.

Hai thầy trò làm lễ khai Kinh xong, hòa thượng bảo thầy Toàn Châu rằng: “Ông ở đây để hằng ngày tụng Kinh cho bà. Tụng ba bộ Thủy Sám xong rồi tụng tiếp ba bộ Địa Tạng, mỗi ngày đêm tụng ba thời, mỗi thời một cuốn”.

Thầy Toàn Châu thành kính vâng làm theo lời dạy, không có một chút ý niệm so tính nào cả. Cứ tụng và bái sám qua mỗi ngày cho bà thì thấy bà mỗi ngày một nhẹ bớt cơn la đau.

Tới sáng ngày 14 tháng 11, là lệ thường làm lễ Bố Tác của chư tăng tại chùa Linh Quang, tới ngày đó vì thấy bà đã hết la đau, nên thầy Toàn Châu xin ông Nguyễn Thiện Hạp (tức con trưởng của bà) và những người trong nhà, để thầy lên chùa Linh Quang làm lễ Bố Tác như thường lệ mỗi tháng hai kỳ. Nhưng lạ thay, có thầy ở trong nhà thì Bà nằm êm đềm, thầy vừa ra khỏi nhà tới ngõ ra đường công cộng thì bà la lên: “Thầy mô rồi! Thầy mô rồi! Đau quá mời thầy vô gấp!”.

Ông Hạp chạy ra mời thầy vô. Khi thầy trở vô thì bà hết la đau và mừng rỡ. Tiếp những ngày sau đó bà càng lành hẳn, chẳng còn nghe la đau. Điểm đặc biệt là bà rất tin tưởng Phật Pháp. Trong những lúc thầy tụng Kinh thì bà chuyên tâm lắng nghe và nằm chắp tay, càng về sau bà càng khỏe còn ngồi dậy chắp tay được. Bà dặn người con gái nhiều lần: “Phải lo cơm nước, thức ăn tươi tốt cho Thầy… nghen con!”.

Những lúc thầy không tụng Kinh, bà hay nói nhảm một mình, thầy khuyên bà niệm Phật là bà nghe theo thực hành liền. Có mấy lần bà nằm nhìn lên mái nhà mà nói sảng: “Mớ cá đó 15 đồng bán không?”, “Ôi! Con rắn to quá!”… Thầy chỉ biết khuyên bà niệm Phật, bà làm theo là hết và nằm yên.

Vào tối 16 tháng 11 âm lịch, thầy và cả nhà thấy bà khỏe hẳn như không bệnh chi cả, chứng kiến bà ngồi chia của cho các con cháu ở gần: “Vải nầy cho con… (tên gì đó), áo quần và tiền nầy cho vợ chồng thằng… (tên gì đó)” v.v… Mọi người ai cũng cứ tưởng bà sẽ khỏe sống thêm. Nhưng vào lúc 3 giờ 30 sáng ngày 17 tháng 11 âm lịch, lúc thầy đang ngủ ngon, ông Thiện Hạp tới đánh thức thầy dậy nói: “Thầy ơi, giờ sao thấy mẹ tôi mệt lắm, xin Thầy dậy tụng Kinh cho mẹ tôi”.

Nghe thế, thầy lật đật bật dậy lo rửa mặt súc miệng rồi đốt hương đèn tụng Kinh liền. Thầy tán, tụng Chú Đại Bi rồi tụng Kinh A Di Đà, niệm Phật, hồi hướng… Hồi đó thầy đang sức trai rất khỏe, tụng chậm rãi rang rảng, chủ ý cho bà nghe rõ. Tụng gần xong, tới “Nguyện tiêu tam chướng trừ phiền não” v.v… thì nghe mấy người con nói: “Mẹ khỏe lại rồi!”.

Thầy thầm nghĩ: “Mình tụng là để cho bà nghe rõ mà vãng sanh, sao bà lại khỏe trở lại?”. Tụng hồi hướng, phục nguyện xong thời Kinh đó, còn đang mặc y hậu thầy liền bước qua thăm bà.

Thấy thầy qua thăm, bà ngồi dậy xây mặt về phía thầy chắp tay nói: “Xin cám ơn Thầy!”, rồi bà xá 3 xá với niềm thành kính, rồi nằm xuống lặng lẽ trút hơi thở sau cùng, chẳng biểu lộ một chút đớn đau thống khổ nào cả. Lúc ấy đúng 4 giờ sáng ngày 17 tháng 11, nhằm ngày vía Đức Phật A Di Đà.

Lúc đó thầy ra hiệu cho mọi người trong nhà tiếp tục niệm Phật trợ niệm cho bà, mọi người đều thành tín y theo.

Thật là phước báo vô lượng vô biên cho cụ bà Phan Thị Nguyên, pháp danh Nguyên Thanh, chuyển nghiệp rõ ràng nhờ tụng Kinh trì Chú bái sám của một ông thầy còn nhỏ mới vừa thọ giới và nhờ thiện căn, niềm tin kiên cố của cụ. Thuở ấy, hòa thượng viện chủ Pháp Hạnh Tùng Lâm chưa hiểu gì nhiều về giáo lý cao siêu của lời Phật dạy, chỉ bằng niềm tin và tụng niệm lễ lạy bái sám để hồi hướng cho bà bằng trái tim thành kính thanh tịnh của mình mà thôi.

*Thuở trước có một phu nhân nọ, từ nhỏ đã một lòng tin tưởng, chuyên tâm trì niệm danh hiệu đức Quán Âm. Chồng bà là một thương gia, nên thường đi xa buôn bán.

Thỉnh thoảng, ông ta cùng những người bạn đồng sự uống rượu, vui chơi sau những chuyến đi dài mệt mỏi.

Ông thường khen vợ mình trước mặt mọi người. Ông bảo rằng:

– Bà xã của tôi rất đảm đang, thương chồng con hết mực. Đặc biệt là từ khi chung sống đến giờ, bà luôn tỏ ra là người đoan chánh, trong sạch, thật thà…

Có một người bạn thầm nghĩ: “Anh chàng này cưng vợ ra mặt, luôn khen vợ mình là trinh tiết, khả ái. Được rồi, mình sẽ cho anh ta một cú cho bỏ ghét!”

Một hôm, anh ta lén đến tận gia đình. Người vợ thấy bạn của chồng mình liền ân cần tiếp đón rất lễ độ chứ chẳng dám coi thường.

Đang loay hoay chế nước pha trà, cung tay vái mời thì nốt ruồi son trên cánh tay lộ ra vì tay áo rộng, ông khách nhìn thấy. Thế là ông ta ghi nhớ thật kỹ nốt ruồi đó vào trong đầu, ngõ hầu làm đề tài chọc tức bạn mình.

Ngày nọ, như thường lệ những người bạn làm ăn gặp nhau. Giữa lúc, chén tạc chén thù vui vẻ, anh cũng tán dương phẩm hạnh của bà xã thì anh chàng ngộ nghĩnh ấy nghiêm nghị phát biểu:

– Bữa trước, tôi có đến nhà anh chơi. Anh thường khen chị nhà trinh tiết, đức hạnh nhưng tôi biết trên cánh tay của chị ấy có một cái nốt ruồi son, nếu không để ý thì chắc không thấy được đâu!

Anh chàng khác liền chen vào:

– Vậy thì vợ anh trinh tiết ở điểm nào? Cứ thế mà suy thì biết vợ anh là…

Anh ta ngập ngừng.

Tội nghiệp người chồng ngu si không hiểu rõ tận tường, vội vàng tin đó là sự thật. Tức thì anh chàng đỏ mày cay mắt, máu ghen sôi sục trong lòng.

Nửa đêm hôm đó trời tối đen như mực, anh vác dao dò đường về tới nhà, anh giận dữ, đập cửa la hét vang trời:

– Mở cửa! Mau, mở cửa cho ta!

Liền khi đó có tiếng chân người từ trong nhà đi ra mở cửa, tức thì anh chém một dao vào giữa trán người ấy, người bị chém gục ngã nằm sóng soài bất động, đoan chắc là vợ mình đã chết, vì trong nhà chỉ có hai vợ chồng, mấy đứa nhỏ thì hôm nay đã về nhà ngoại cả rồi.

Chém xong anh quăng dao và cấm đầu cấm cổ chạy thật xa, như kẻ điên cuồng. Chạy một lúc trong người thấm mệt, rồi ngã dài trên bãi cỏ bên lề đường mà thiếp đi.

Khi tỉnh giấc thì nghe tiếng gà gáy vang dội, lòng anh xúc cảm dâng trào khó tả. Trời còn mờ sương, cảnh vật chung quanh dường như chùn lại, anh chợt suy nghĩ về những đứa con, về vợ, về cuộc sống bình yên hạnh phúc mà trước kia anh đã có…

Chẳng lẽ vì một chút lỗi lầm chưa chính xác mà mình phải đánh mất cả một gia đình êm ấm hay sao? Liệu vợ mình có thật như vậy không? Vợ mình chết rồi con mình sẽ ra sao? Còn mình…???

Anh suy nghĩ thật nhiều, nhưng không câu hỏi nào có đáp án cả. Anh hối hận định đập đầu vào gốc cây để tự tử. Vừa định như vậy thì dường như văng vẳng bên tai, từ đằng xa vọng lại tiếng nói của con anh, của vợ anh.

Anh vụt chạy một mạch về nhà. Đến nơi, hình ảnh của mái ấm gia đình vẫn yên ắng như mọi khi, không có tí xíu động tĩnh gì, anh rón rén ghé mắt nhìn qua cửa sổ anh thấy vợ mình vẫn còn đang ở trên Phật đường niệm Quán Âm. Nghe tiếng động vợ anh xuống gát, đi ra mở cửa.

Nhìn bộ dạng bơ phờ của chồng, người vợ liền hỏi:

– Chàng đi đâu mà giờ này mới về, thiếp lo quá? Sao đầu tóc rối tung thế này? Có chuyện gì vậy chàng?

Anh định nói, song người vợ lại tiếp lời:

– Chàng ngồi nghỉ, thiếp đi lấy khăn nóng lau mặt và pha trà cho chàng uống, chắc là chàng đói lắm phải không?

Nói xong cô vào trong bếp. Anh chàng ngồi bệp xuống cảm nghe nhẹ nhỏm toàn thân.

Bỗng nhiên, chàng rùng mình khi nhớ lại lúc khuya đã chém chết vợ rồi, sao bây giờ… vừa nghĩ đến đây thì người vợ trong nhà bước ra. Anh liền hỏi:

– Hồi khuya có ai mở cửa không,… vậy nàng?

– Dạ, thưa không! Cửa vẫn còn khóa kia mà. Thiếp đợi hoài mà chẳng thấy chàng về, nên ngủ quên luôn ở trên Phật đường lúc nào mà cũng không hay biết, chợt nghe tiếng động biết là chàng đã về, thiếp liền ra mở cửa mới hay trời đã sáng!

Nghe vợ nói, chàng bán tín bán nghi, không thể hiểu nổi… Thế là chàng thuật lại đầu đuôi câu chuyện cho người vợ nghe và cảm thấy có một điều gì rất lạ sau sự việc ấy.

Nói đoạn, cả hai đồng lên Phật đường thì nhìn thấy nơi tượng Quán Âm có một vết dao rành rạnh giữa trán, lúc đó mới biết chính Đức Quán Thế Âm hiện thân, ra mở cửa cứu nạn cho vợ mình.

Từ đó trở đi hai vợ chồng hạnh phúc hơn xưa, gia đình luôn an vui hòa thuận, con cái hiếu thảo ngoan hiền, ngày ngày hai vợ chồng đồng tinh chuyên cần mẫn lễ bái và trì niệm danh hiệu Quán Thế Âm Bồ Tát.

Vợ lễ niệm hồi hướng cho chồng được thoát nạn

Lý Thái An ở Lũng Tây là anh của Công bộ thượng thư Lý Thái Cao.

Trong khoảng niên hiệu Võ Ðức thời Tiền Ðường, Lý Thái Cao làm Tổng quản tại Việt Châu, Lý Thái An từ Kinh đô sang viếng thăm. Lúc Thái An trở về, Thái Cao cho vài người lính theo hầu hạ hộ tống anh mình trên đường về.

Về đến Cốc Châu, qua khỏi cầu bèn dừng lại để nghỉ qua đêm. Trong bọn lính ấy có đứa hiềm thù riêng muốn giết Thái An. Vào giữa khuya, hắn chờ ông ngủ say, dùng dao nhỏ nhọn đâm nơi cổ. Dao xuyên thấu xuống giường, vì vội vàng hắn không kịp nhổ lên mà bỏ chạy đi mất.

Kinh hãi tỉnh giấc, ông truy hô, nhóm còn lại chạy vào muốn nhổ dao ra, ông ngăn lại, bảo: “Nếu rút dao lên có thể ta sẽ chết ngay, mau đem giấy bút lại để ta viết thư”. Thư vừa viết xong, kế đó quan huyện cũng vừa kịp đến, bèn cho y sĩ nhổ dao lên, tẩy rửa vết thương và băng bó thuốc thang. Quá đau đớn ông bèn chết ngất đi, chìm vào hôn mê.

Trong lúc mơ màng, ông thấy một vật vuông dài trạng như khối thịt, từ ngoài cửa bay đến trước giường, vật ấy phát ra tiếng nói: “Hãy nhanh trả thịt heo lại cho ta”.

Ông bảo: “Từ trước đến nay tôi chưa hề ăn thịt heo! Vậy đâu có duyên cớ gì mắc nợ ngươi?”

Khi ấy, liền nghe phía ngoài cửa có tiếng nói vọng vào: “Lầm rồi, không phải!”

Vật ấy liền bay trở ra ngoài cửa. Ông nhìn ra trước sân thấy có ao lớn, nước ao trong xanh rất đẹp, ở trên bờ tây có tôn tượng bằng vàng cao khoảng năm tấc, bỗng chốc tượng đó hóa lớn thành vị tăng đắp áo cà sa rất mới sạch. Vị tăng ấy bảo với ông rằng: “Ngươi bị thương, nay Ta sẽ vì ngươi mà dứt trừ đau khổ ấy. Sau khi được bình phục, trở về nhà ngươi nhớ ráng cố gắng niệm Phật làm lành”.

Nhân đó đưa tay xoa vào vết thương nơi cổ của ông rồi bước đi. Ông nhìn theo thấy tấm áo cà sa sau vai vị Tăng có vá miếng lụa đỏ rộng ước độ bàn tay, rất rõ ràng.

Thế rồi, ông tỉnh giấc sống lại, vết thương tự dưng không đau nhức chi cả, có thể đứng dậy ngồi xuống, ăn uống bình thường.

Mười ngày sau, gia đình ở Kinh đô hay tin đến đón ông về nhà. Mọi người thân quen đến hỏi thăm, ông kể lại tình trạng nguyên do bị thương và việc nằm mơ thấy tôn tượng. Đứa tớ gái đứng gần bên nghe nói vậy, bèn trình bày một duyên sự: “Khi ông vừa mới đi, ở nhà, phu nhân sai người đến chỗ thợ nhờ tạc tượng Phật. Khi tượng đã hoàn thành dùng các màu để tô vẽ y áo, có một vết son làm dơ bẩn trên vai tượng, bảo người thợ tẩy xoá mà không được, nên tướng trạng ấy vẫn hiện còn tợ như lời nói của ông kể vậy.”

Nhân đó, ông bèn cùng vợ và mọi người đồng đến trông xem pho tượng, thì thấy vết son nằm đúng chỗ miếng lụa đỏ nơi vai vị tăng mà trong giấc mơ mình đã thấy. Ông kinh lạ than thở, càng tin sự cảm ứng cứu độ của Phật pháp bất khả tư nghì.

Từ đó ông sùng kính ngôi Tam Bảo, làm lành niệm Phật đến trọn đời.

*Thuở trước có Đàm Hiếu Khanh, nhà giàu có. Đã năm mươi tuổi mà ông không có một đứa con nào cả. Các cháu trong gia tộc tranh nhau kế thừa và chia của. Lòng ông buồn lắm.

Nỗi khát khao có được một đứa con để nối dõi tông đường đã thôi thúc ông làm rất nhiều việc thiện, ngay cả đi xin xăm bói quẻ. Ông cũng đích thân đi hết núi này, núi nọ, chùa lớn chùa nhỏ, thắp hương lễ Phật cầu xin cho được một đứa con.

Hôm nọ, có một vị Tăng đi khất thực ngang nhà. Nhìn thấy dung mạo đoan chánh, ông sinh tâm hoan hỷ thỉnh Tăng vào nhà cúng dường. Thoạt trông dáng vẻ tiều tụy của ông vị Tăng bèn hỏi:

– Chẳng biết bần Tăng có thể giúp được gì cho thí chủ không?

Ông ngập ngừng đáp:

– Bạch hòa thượng, con vốn thuộc hàng danh gia vọng tộc. Bao đời tin sâu Phật pháp, làm việc phước lành không mong cầu chi cả, chỉ mong có được một đứa con để nối dòng nối dõi. Cúi mong hòa thượng từ bi giúp cho, con xin đội ơn Ngài.

Tăng nhân nói:

– Tôi rất cảm thông cho tình cảnh của ông nhưng ngặt nỗi không cách nào giúp được. Nay tôi khuyên ông nên lập đàn sám Đại Bi, chuyên tâm trì niệm hồng danh Quán Thế Âm Bồ Tát, may ra sẽ có kết quả!

Trải qua bốn mươi chín ngày đêm tu sám. Đêm nọ, người vợ nằm mơ thấy đức Quán Thế Âm lấy mâm đựng đứa con trai đem cho. Người vợ liền đưa tay tiếp nhận thì ngay khi đó có một con bò chạy xốc tới người vợ giật mình thức giấc, liền có mang. Ông nghe vợ nói mừng như mở hội, hai vợ chồng lại xuất ra một ngàn đồng để xây dựng Quán Âm Các, thỉnh tượng Bạch Y Quán Âm phụng thờ.

Thời gian sau người vợ hạ sinh được một cậu trai, nhưng chưa được mấy ngày, đã bị yểu vong.

Nỗi mừng chưa thỏa thì nỗi đau ập đến. Bà vợ vì quá đau buồn nên sinh bệnh. Ông thì than trời trách đất, quyết đi đến gặp hòa thượng hỏi cho ra lẽ.

Trông thấy ông, hòa thượng đã nói:

– Tôi đợi ông từ sáng đến giờ, thôi vào trong rồi hãy nói!

Không cần ông trình bày, hòa thượng giải thích:

– Gia đình ông vốn ưa ăn thịt bò, tuy làm việc thiện nhưng không trì trai giữ giới, sự việc xảy ra là lời cảnh báo cho ông. Thôi, từ nay nên kiêng ăn thịt trâu bò, hãy cố gắng có cầu tất có ứng.

Trở về ông tiếp tục làm các việc thiện như: bố thí, phóng sinh, trì trai, giữ giới. Hai năm sau người vợ có thai. Lần này bà hạ sinh được một cậu con trai, nằm trong bọc trắng sinh ra, khôi ngô tuấn tú, thông minh lạ thường.

Từ đấy về sau, cả gia đình cùng nhau trai giới, chuyên lòng trì niệm hồng danh Quán Thế Âm Bồ Tát.

*Vào thời triều nhà Thanh, có một người họ Huỳnh cư ngụ tại Sở Bắc, thuộc Kinh Châu, ông ưa thích tu tập thiện pháp, lại là người con chí hiếu. Ông sống trong cảnh nhà thanh bần, làm nghề giáo dạy trẻ con trong làng. Bà vợ chẳng may mất sớm, chỉ có duy nhất một cô con gái đã đính hôn cho một người cháu bên ngoại.

Khi ông đến tuổi lục tuần cô con gái mới 14 tuổi. Đứa bé này rất ngoan hiền lại có trí huệ vì từ thuở nhỏ đã được theo cha đọc sách Thánh hiền. Cô từng mua chỉ tơ về thêu bức tranh Thánh tượng Quán Âm Bồ Tát để thờ cúng. Hàng ngày, cô lễ bái xưng niệm rất chí thành.

Một đêm nọ, cô nằm mộng thấy Đức Quán Âm Bồ Tát đến nói rằng:

– Cha của con là người hiếu nghĩa, không lẽ chẳng có người nối dõi, ngặt vì tuổi già. Vậy nay Ta muốn đem thân con biến thành một nam tử!

Dứt lời thì Bồ Tát liền trao cho cô một hoàn thuốc màu đỏ và bảo cô bỏ vào miệng nuốt đi. Sau khi nuốt xong, cô cảm giác có hơi nóng rang từ ngực chạy thẳng xuống bụng, rồi cô bắt đầu chìm vào cơn hôn mê sâu suốt bảy ngày. Khi tỉnh dậy, cô cảm thấy khỏe khoắn nhưng chỉ có điều đặc biệt ly kỳ là thân nữ giờ đã biến thành con trai. Cô vừa thẹn thùng, vừa cảm động vui mừng vì biết việc này là do thần lực bất khả tư nghì của Bồ Tát muốn cho cha mình có người nối dõi.

Người cha khi biết được sự việc rất lấy làm lạ, và vô cùng vui mừng. Rồi ông đi thông báo cho gia đình chàng rể hay. Nhưng không ai tin cả, họ cho là ông bội ước, liền đâm đơn kiện cáo lên quan. Dân chúng nghe tin bèn rùm beng náo nức kéo đến để chứng kiến xét xử vụ việc này như thế nào!

Quan liền cho khám nghiệm, thấy quả đúng sự thật, đôi bên đều lấy làm lạ, mọi người hết sức xôn xao kinh ngạc!

Vì vậy, người đời truyền tụng nhau hai câu thơ như sau:

Mộng trung biến hóa chơn kỳ sáng,
Hồng nhan hốt tái nam nhi tướng.
(Chiêm bao biến hóa thật kỳ lạ,
Gái đẹp trở thành tướng trượng phu).

Từ đó về sau tín tâm của cô với Tam Bảo càng sâu chắc, tu hành càng dõng mãnh tha thiết hơn.

*Triều nhà Minh, Châu Đức Trinh, người Lư Giang là con gái thứ ba của Quan Tể Tướng đại thần.

Từ thuở bé, nàng đã được sự dạy dỗ của gia đình nên là một người con chí hiếu và giữ gìn đức hạnh trinh tiết không ai bì được. Lúc lên 8 tuổi, cha mẹ đính hôn, hứa gả nàng cho con trai của Nghi Vệ Đại Thần Vương Đình Khanh là Trọng Hiền. Nhưng không may, mấy năm sau thì Trọng Hiền bị bệnh qua đời. Đức Trinh nghe tin thì phát nguyện ăn chay trường, mặc áo vải thô, mướn thợ vẽ Thánh tượng Quán Âm Đại Sĩ để thờ, mai chiều hương khói lễ bái tụng kinh niệm Phật, cầu nguyện hồi hướng cho chồng.

Lúc đến tuổi cập kê, có một công tử trong vùng nhờ người đến mai mối dạm hỏi, nhưng cô đến trước song thân chắp tay thưa rằng: “Con gái cha mẹ đã là vợ của họ Vương, từ ngày được tin Trọng Hiền qua đời, con đã thề sẽ không tái giá.”

Cha mẹ cô vừa nghe xong, đùng đùng nổi giận đánh mắng cô thậm tệ, nhưng cô vẫn cương quyết không thay đổi, cô lại phát thệ rằng: “Con không thể kết hôn với người sống mà lỗi đạo với người chết, nếu cha mẹ cho là trái lệnh phụ mẫu, ra lệnh giết chết thì con cũng cam lòng chịu chết.” Phát thệ xong thì cô tuyệt thực nhiều ngày liền, cha mẹ cô thấy vậy sợ cô chết nên không bàn đến việc hôn nhân nữa.

Niên hiệu Thiên Khải, nhà Minh, vào mùa thu năm Tân Dậu, đến ngày mãn tang Trọng Hiền, cô đến lễ bái song thân rồi vào Tổ miếu dâng hương lễ bái ông bà tổ tiên, đến ngày 29 tháng 8, cô về nhà họ Vương, mặc áo vải thô, tay cầm gậy làm lễ mãn tang cầu siêu cho chồng. Sau lễ cầu siêu, cô đến chùa xin thầy truyền trao Tam quy ngũ giới, rồi về nhà dọn dẹp thành ngôi tịnh thất trang nghiêm thờ Tây Phương Tam Thánh. Mỗi ngày hai thời công phu đều đặn, thời khóa sáng thì tụng kinh Phổ Môn và Chú Đại Bi, niệm Phật; còn thời khóa chiều thì tụng Kinh Di Đà, chú Vãng Sanh, niệm Phật,…

Đức Trinh xưa kia nổi tiếng là nữ sĩ giỏi về thi văn nhưng bây giờ thệ bỏ hẳn. Mỗi năm, đến ngày giỗ của Trọng Hiền, cô lại lo chuyện cúng tế rất chu đáo, từ trái cây phẩm vật cúng dường Tam Bảo, đến tụng kinh niệm Phật từ sáng đến tối, nhất nhất nghi tắc không sai sót.

Cha mẹ chồng thấy nàng dâu như vậy thì vô cùng cảm động nên đều nguyện trường chay niệm Phật theo cô. Sự ăn uống hàng ngày của cha mẹ chồng đều do tự tay cô nấu nướng đem dâng.

Lúc hai ông bà bị trọng bệnh, cô đến săn sóc, vấn an rất kính cẩn và chu đáo.

Năm Giáp Tý, phụ thân của cô lâm trọng bệnh, cô tự cắt bắp thịt ở chân để làm thuốc cho cha uống. Đêm ấy, phụ thân của cô nằm mộng thấy Quán Âm Đại Sĩ đến dạy rằng: “Ngươi nhờ có đứa con gái chí hiếu nên bệnh sẽ được lành hẳn và còn sống lâu nữa!”

Thời ấy, người ở Hương Giang từ quan đến dân, ai ai cũng ngợi khen tấm lòng chí hiếu và đức tiết trinh của Đức Trinh.

*Triều nhà Minh, Bành Hiếu Từ Hữu Nguyên là người ở Ích Dương tỉnh Hồ Quảng. Ông phát tâm tín kính Tam Bảo từ lúc thơ ấu, hàng ngày thường trì tụng Kinh Phổ Môn và Chú Đại bi để cầu nguyện cho song thân được tăng tuổi thọ.

Một ngày nọ, phụ thân bị trọng bịnh, ông bèn cắt thịt cánh tay để làm thuốc điều trị cho phụ thân lành bệnh, nhờ đó phụ thân ông sống thêm được mười năm năm nữa. Sau khi cha chết, ông thờ mẹ chí hiếu. Sống trong cảnh gia đình túng thiếu nhưng ông luôn cố gắng làm thuê làm mướn, kiếm tiền để mua món ngon vật lạ dâng lên cho mẹ hàng ngày.

Đến niên hiệu Sùng Trinh, mùa thu năm Bính Tý, mẫu thân ông lâm trọng bệnh, bệnh liệt giường không ngồi dậy nổi, lại bị lở loét ung nhọt ăn lủng bàn tay, đau nhức rên la thảm thiết. Ông nhìn thấy cảnh tình ấy trong lòng buồn rầu không xiết. Một đêm, ông nằm mộng thấy Quán Âm Đại Sĩ mách bảo: “Thọ số của mẫu thân ngươi sắp hết, chứng bệnh đang phải thọ khổ đó không có phương thuốc nào trị lành, ngoại trừ phải ăn gan người thì bệnh mới mong qua khỏi.”

Sáng hôm sau ông đến thăm mẹ thì bà bảo muốn ăn món gan dê. Ông bèn thưa: “Thưa mẹ, đây là sự việc Bồ Tát có dạy con trong giấc mộng đêm qua, xin mẹ cứ yên tâm, để con đi tìm món ăn này dâng lên cho mẹ”.

Ông nói xong thì từ giã mẹ ra khỏi phòng rồi đi đến trước tượng Bồ Tát Quán Âm, chí thành lễ bái rồi bạch rằng: “Nam Mô Quán Thế Âm Bồ Tát, Bồ Tát đã thùy từ chỉ dạy cho con, cầu xin Bồ Tát chứng minh gia hộ cho con, con nguyện tự mổ gan mình để cứu cho mẹ con khỏi bệnh.”

Đêm ấy, ông nằm mộng thấy Quán Âm Bồ Tát cùng với các Thánh hiền ngự trước mắt mình, lại thấy có vô số Thánh chúng cầm tràng phan, bảo cái theo hầu. Ông giật mình tỉnh giấc thì toàn thân toát mồ hôi như nước, bèn đi tắm rửa sạch sẽ rồi vào trước Phật đài đảnh lễ, sau đó trở về phòng, rồi dùng dao tự rạch bụng chỗ có lá gan. Vì quá đau đớn nên ông ngất đi một hồi lâu. Khi tỉnh lại, ông gọi vợ bảo: “Bà hãy đem lá gan này chưng cho thật kỹ rồi dâng cho mẫu thân.”
Người vợ vâng lời, đem dâng món gan cho mẹ chồng mình ăn. Bà mẹ không biết tưởng là gan dê nên vui vẻ dùng món ăn thì quả nhiên lành bệnh. Sự việc này sau đó được đồn khắp nơi, nên xa gần người người đều cảm động rơi lệ tán thán, nhiều người đến thăm ông nhìn thấy vết thương quá lớn đều nghẹn ngào, họ đến trước bảo tọa của Đại Sĩ cầu đảo cho ông. Tuy bị trọng thương nhưng tinh thần của ông vẫn an ổn như thường. Đêm ấy, ông lại mộng thấy Đại Sĩ hiện thân và bảo rằng: “Lá gan và vết thương của hiếu tử con muốn mau lành không khó, nhưng vì đây là thời mạt pháp, thế gian kẻ nhân hiếu hiếm có nên Ta muốn để vết thương này sẽ tự lành trong một trăm ngày, để cho tất cả thế nhân đến xem mà phát khởi tâm hiếu đạo phần nào. Qua thời gian một trăm ngày, vết thương con sẽ tự bình phục lại bình thường như trước đây.”
Tiến sĩ Vương Văn Nam khi biết được sự việc bèn ghi lại đầy đủ rồi mướn người chép ra và in ra rất nhiều bản, phát cho dân chúng để mong mọi người học theo hạnh hiếu đạo của Hữu Nguyên.

*Triều nhà Thanh có người thiếu phụ ở xứ Quảng, tỉnh Hồ Bắc, người chồng vì tìm kế sanh nhai phải đi xa xứ. Lúc ấy trong gia đình chỉ còn có hai người là mẹ chồng và nàng dâu. Gia đình đã nghèo thiếu giờ càng bất hạnh hơn vì bà mẹ chồng mắc phải chứng bệnh nghẹn, chẳng những cơm ăn không được mà hớp nước cũng không vô, chạy chữa thuốc thang đều không hiệu quả.
Lưu Thị thấy thế hết sức buồn đau vì thuốc đã vô hiệu thì không biết lấy phương cách gì mà chạy chữa. Lúc ấy, cô nghe người chỉ bảo, bèn tự nguyện cắt thịt bắp đùi, hầm cháo dâng cho mẹ chồng dùng, bà ăn cháo ấy xong thì bệnh liền lành, nhưng một tuần sau bệnh lại tái phát. Lưu Thị lại tiếp tục cắt thịt bắp đùi mình làm thuốc dâng cho mẹ. Bà dùng thuốc này xong thì bệnh lành tức khắc nhưng sau một tuần thì vẫn tái phát như cũ.

Lưu Thị không còn biết phương cách gì nữa nên đến quỳ trước Quán Âm Bồ Tát cầu nguyện, xin đem thân mình thay thế cho mẹ chồng, nhờ Bồ Tát từ bi gia hộ, chỉ cho phương cách cứu mẹ.

Bấy giờ, trong hàng y sĩ có một người bảo rằng: “Bệnh này không thể dùng thuốc mà trị được. Nếu có được miếng gan tươi của người sống thì mới có thể trừ tiệt bệnh căn.”

Lưu thị hớn hở tin theo, lập tức lén dùng dao bén mổ dưới hông bên phải của mình, lá gan lòi ra ngoài chừng một tấc thì lập tức cắt đi. Nhưng vì quá đau đớn nên cô té nhào xuống đất ngất đi.
Trong lúc bất tỉnh, cô mơ màng thấy Quán Âm Đại Sĩ vuốt ve trên thân thể cô mà nói rằng: “Khổ lắm phải không con?”

Dứt lời, Ngài dùng một loại thuốc phết lên chổ bị thương. Cô liền tỉnh lại, đem miếng gan đi chưng cách thủy và dâng cho mẹ chồng ăn. Sau khi bà ăn món thuốc này thì bệnh lành hẳn, không còn tái phát nữa. Sau khi bệnh đã khỏi thì thân thể khỏe mạnh, tinh thần minh mẫn. Mẹ con chung sống trong gia đình rất vui vẻ nhưng bà để ý thấy có điều lạ là cô khi làm việc cũng như đi đứng, thường đem bàn tay đỡ nơi hông. Bà gạn hỏi nhiều lần nhưng cô vẫn không chịu đáp.

Một hôm nọ, bà tự động đến dở vạt áo Lưu Thị lên xem thì thấy có một vết mổ rất lớn. Bà kinh hoàng hỏi duyên cớ, cô biết không thể giấu giếm nên thưa rõ tự sự đầu đuôi. Bà nghe xong cảm động kêu lớn: “Dâu hiền vì ta mà đến nông nổi này sao con ơi, lòng mẹ sao nỡ nhận việc làm ấy của con”.

Sau đó bà đem chuyện con dâu mình đã làm kể cho khắp mọi người gần xa biết. Người người đua nhau đến xem, không chỗ chen chân nhưng cô vẫn nhốt mình trong phòng kín, không chịu ra cho mọi người thấy mặt. Vì thế, mọi người thất vọng giải tán ra về. Người trưởng tộc đem việc này trình cho quan huyện Lý Quân biết nên ông liền cho người mời Lưu Thị đến để nghiệm xét sự thật nhưng cô từ khước và nói với sứ giả của quan huyện rằng: “Kẻ hèn này nhìn nhận đã vì mẹ chồng bệnh nặng, không tiếc kiếp sống thừa của mình để làm việc ấy, nhưng không mong được biểu dương. Xin Ngài về bẩm lại với quan trên không cần phải kiểm nghiệm thực giả để làm gì.”

Sứ giả trở về tâu lại, quan huyện vô cùng cảm động nên sanh tâm cung kính. Việc này sau đó được lan truyền đến tai của một vị đại quan, lập tức ông sai người mang kiệu, cờ xí đến đón mẹ chồng nàng dâu về tư dinh, nguyện cung cấp bảo hộ suốt đời.

Từ ấy, mẹ chồng nàng dâu có nơi ăn chốn ở rất êm ấm, không phải lo đến chuyện sinh kế hàng ngày nữa. Một ngày khi nghĩ lại, cô cảm động đến đức từ bi của Bồ Tát đã gia hộ nên phát nguyện chuyên tâm vào việc tu niệm, cả hai mẹ con thực hành bái Sám, niệm Phật, tụng Kinh rất tinh tấn.

Gương sáng ấy đã ảnh hưởng đến cả gia đình của vị đại quan nên cả gia đình đều phát tâm kính tín Phật Pháp, lễ Phật, tụng Kinh, trì chú như mẹ con Lưu Thị. Việc này xảy ra vào tháng sáu năm Kỷ Hợi, niên hiệu Càn Long, triều nhà Thanh

*Triều nhà Thanh, Trầm Trinh Nữ là con gái của Trầm Tuyết Phong cư sĩ, một lương y nổi tiếng trong vùng.

Trinh Nữ lúc ấu thơ đã từng nghe cha mẹ giảng về thuyết nhân quả. Tuy còn nhỏ nhưng đã phát tâm kiên trì giới sát và thực hành hạnh phóng sanh. Khi lên 14, 15 tuổi, cô nghe ai bàn chuyện hôn nhân thì đều khóc lóc và bỏ cả ăn uống. Cha mẹ thấy thế bèn gạn hỏi chí hướng là muốn làm gì? Cô liền thưa: “Con có ý nguyện đợi đến khi nghĩa lý trong Kinh có thể thông hiểu thì xin cha mẹ cho con được xuất gia làm Ni.”

Mẫu thân của cô thì im lặng nhưng phụ thân thì vô cùng tán thán và chấp nhận. Thoạt đầu, cô chỉ đọc văn tự các Kinh nên không lưu tâm nghiên cứu tìm tòi. Hàng ngày cô chỉ chuyên tụng Kinh Kim Cang Bát Nhã Ba La Mật, kinh Di Đà, Thập Chú Đại bi, Bát Nhã tâm kinh. Dù đọc tụng nhiều nhưng nghĩa lý vẫn chưa hiểu. Vì vậy cô chỉ nhất tâm niệm Phật mà thôi.

Đến lúc mẫu thân tạ thế thì cô phát nguyện trường trai. Năm lên 25 tuổi, vào lúc tháng năm, cô mắc chứng bệnh thời khí, nằm liệt giường hơn 20 ngày. Phụ thân của cô thấy con bệnh nên rất buồn thương, nhưng là người thông đạt Phật pháp nên ông thường đến cạnh giường con để khuyên nhủ phải thường xuyên niệm Phật, quán Phật và nhất tâm cầu về Tây Phương.

Đến sáng ngày 30, bệnh cô càng nặng nên hôn mê bất tỉnh. Phụ thân thấy thế buồn đau rơi lệ, nhưng vẫn đến trước giường bệnh, kêu lớn tên con mà cảnh tỉnh, lại đem những cảnh an vui ở Cực Lạc thế giới tuyên thuyết nhắc con phải gắng nhớ Phật, niệm Phật, đừng nghĩ đến việc khổ đau.

Đến giờ 1 giờ chiều, cô bảo người đỡ ngồi dậy, hướng về phương Tây, chắp tay niệm Phật. Trong chốc lát, cô bỗng mở mắt hỏi người xung quanh: “Phụ thân của tôi ở đâu sao không thấy?”
Mọi người đáp: “Ông có việc đã đi ra ngoài rồi”.

Do bà mẹ của quan huyện bệnh nặng nên cho người rước phụ thân của cô đến chẩn mạch. Cô nói: “Không hề gì! Không cần tìm kiếm và mời Người về. Khi cha tôi về đến thì hãy hoan hỉ nói lại xin Người hãy yên tâm vì vừa rồi tôi đã được hai đại Bồ Tát dẫn đi đến Cực Lạc Tây Phương và được Từ phụ A Di Đà thọ ký cho tôi vãng sanh hạ phẩm hạ sanh nhưng vì lòng chí hiếu với mẫu thân đã hai lần cắt thịt cánh tay trị bệnh cho mẹ nên chuyển lên hạ phẩm trung sanh. Tôi may mắn được phụ thân luôn nhắc nhở niệm Phật nên xin Người hãy an tâm lo tu niệm, đừng để tâm nhớ nghĩ đến tôi.”

Dạo trước, có người giúp việc trong nhà là bà họ Tôn, thấy cô trẻ tuổi mà tu hành tinh tấn nên bà cũng phát nguyện trường chai, chuyên tâm niệm Phật. Giờ đây khi chứng kiến sự vãng sanh của cô, bà thốt lên rằng: “Tiểu thư ơi! Tiểu thư là một đồng nữ trinh tiết mà cũng là bậc chân tu nên được sự lợi ích vĩ đại thù thắng này, còn chúng tôi đây là kẻ mới giữa đường phát tâm tu hành, sợ rằng sẽ không được như thế!”

Cô trả lời: “Xin Bà an tâm, không phải như thế đâu. Việc niệm Phật cần phải có tâm chân thiết, còn việc tu hành bất luận là nửa đường hay không nửa đường, tùy thuộc vào hoàn cảnh của mỗi người.”

Nói mấy lời trên xong thì cô quay sang quyến thuộc dặn dò: “Quí vị trong lúc bình nhật niệm Phật mà không có tâm chí thành tha thiết, tôi sợ e khó đắc lực. Nếu dùng tâm chí thành, chân thật mà niệm Phật, thì đến giờ phút này mới tự biết mình sẽ được sự thọ dụng rất lớn lao. Vậy xin quí vị cố gắng, tôi xin đi đây.”

Dứt lời cô nhắm mắt tạ thế. Phụ thân của cô đến tối mới về tới, nghe người nhà thưa lại tình hình giờ phút cuối cùng của con, ông đến sờ trên đầu thì trên đảnh đầu của cô vẫn còn rất ấm.

*Thuở xưa có hai người chị dâu em chồng sống chung với nhau. Hai chị em ăn xài rất cần kiệm ròng rã suốt mười năm trời, khó khăn lắm mới dành dụm được một số tiền. Thế là hai chị em chuẩn bị một giỏ hương đèn hoa quả, cùng nhau thuê thuyền đến Phổ Đà Sơn dâng hương và lễ bái Bồ Tát Quán Âm.

Lúc ấy Phổ Đà Sơn chưa có bến đò, thuyền bè cứ thế mà đậu dọc theo một bãi cạn đầu phía tây của Nam Thiên Môn, và lấy dây thừng cột thuyền lại ở đấy.

Thuyền đến Phổ Đà Sơn đúng lúc thủy triều hạ xuống, khách hành hương vội vã rời thuyền đi mất, chỉ có cô em chồng là còn ngồi đó ôm bụng, yên lặng cúi đầu không nhúc nhích. Người chị dâu gấp đi nên thúc giục, cô bèn lí nhí nói với chị rằng mình đang có kinh nguyệt, thân không thanh tịnh nên không dám bước chân lên đất thánh. Người chị dâu nghe thế, giậm chân thình thịch trách rằng:

– Cô lớn đầu như thế mà tới ngày kinh nguyệt cũng tính không ra. Bây giờ lên không lên, xuống không xuống, ái dà! Đó chính là nghiệp tội của cô đó thôi!

Người chị dâu khiển trách cô em chồng một trận xong, chỉ đành tự xách giỏ lên bờ đi dâng hương một mình.

Ông lão lái đò cũng lên bờ uống rượu rồi, trong khoang thuyền chỉ còn lại mỗi một mình cô gái nhỏ. Nghĩ đi nghĩ lại thân phận mình, muốn dâng hương mà không dâng được còn bị chị dâu chê trách cho một trận, cô tủi thân chỉ biết khóc, nước mắt tuôn thành dòng, vừa ân hận mà cũng vừa sợ hãi. Bốn giờ đã trôi qua, nước triều lại dâng lên cao. Nước triều phủ cả bãi cát, con thuyền theo sóng mà lắc tới lắc lui, cô gái ngồi một mình trên thuyền vừa đói vừa khát, nghĩ lại thật là đau lòng!

Ngay lúc ấy, từ rừng trúc tím có một bà lão bước ra, một tay chống gậy, một tay xách giỏ tre, bước những bước chân run rẩy đến chỗ chiếc thuyền. Bà còng lưng xuống nhặt một vốc đá nhỏ, và vừa đi vừa ném từng viên đá xuống nước biển nghe “bõm, bõm”. Viên đá vừa chìm xuống đáy biển thì lập tức biến thành một tảng đá ngầm trồi lên khỏi mặt nước. Bà lão đi đến đâu ném đá đến đó, và trên bãi cạn một hàng đá ngầm mọc lên ngay ngắn, thẳng đến chỗ chiếc thuyền, giống như một cái bến đò vậy.

Bà lão lên thuyền, cười tủm tỉm nói với cô gái:

– Cô nương, cô đói rồi phải không?
Vừa nói bà vừa dở chiếc khăn hoa đậy giỏ tre, lấy ra một bát cơm rau thơm phưng phức đặt trước mặt cô gái.

Cô em chồng thấy bà lão đem thức ăn tới, kinh ngạc hỏi:

– Thưa bà, bà làm sao biết được là cháu đang đói bụng ở nơi này?

Bà lão cười cười:

– Chị dâu của cô bảo tôi đem cơm đến cho cô dùng đó, cô dùng mau đi!

Cô em chồng đói chịu không nổi nữa, nghe nói chị dâu gởi thức ăn đến thì bưng bát đũa lên và lấy và để . Ăn no rồi, cô mới đỏ mặt cám ơn bà lão. Bà lão không nói không rằng, thu dọn bát đũa, xách giỏ bỏ đi. Cô em chồng mỏi mệt, dựa vào khoang thuyền mà đánh một giấc.

Ông lão lái thuyền uống rượu xong trở lại, mở to cặp mắt kèm nhèm. Quái lạ! Làm sao chỗ này lại biến thành một cái bến đò? Hay là ta đi lộn đường rồi chăng? Ông lão dụi dụi mắt, tính toán cẩn thận. Đâu có lộn! Chiếc thuyền nhỏ nhà mình đây mà!

Lúc ấy bà chị dâu cùng những người khách dâng hương cũng vừa về đủ, nghe lão lái đò nói họ cũng lấy làm lạ. Bà chị dâu bước mau vào khoang thuyền lay cô em chồng dậy, hỏi cô bến đò làm sao hiện ra? Cô gái lắc đầu nói không biết. Bà chị dâu vừa lấy trong giỏ ra hai cái bánh lớn, vừa trách cô rằng:

– Đoảng như cô là cùng! Chỉ biết ngủ chứ không biết gì nữa hết. Thôi, mau ăn bánh đi!

Cô em chồng ngạc nhiên:

– Chị cho người đem cơm về cho em rồi mà?

Bà chị dâu cũng ngạc nhiên:

– Ai cho người đem cơm về cho cô hồi nào? Cô nằm mơ đấy hả?

Cô em chồng kể lại chuyện bà lão đem cơm ban nãy. Ông lái đò nghe xong vừa kinh ngạc vừa vui mừng, vỗ đùi reo lên:

– Người đã tạo cái bến đò này và đem cơm đến cho cô, chắc chắn là Quan Thế Âm Bồ Tát!

Những người đồng thuyền, ai cũng mừng cho cô gái vì cô đã được chính mắt nhìn thấy Ngài Quán Âm hiện thân, lại còn được Bồ Tát đem thức ăn cho ăn nữa.

Bà chị dâu hãy còn nghi ngờ, bèn chạy một mạch đến Đại Hùng Bảo Điện của ngôi chùa trước mặt, giương mắt trông lên tượng Ngài Quán Âm, nhìn kỹ thì quả nhiên thấy vạt dưới của chiếc áo

Ngài mặc hãy còn vết ướt của nước biển. Lúc ấy bà chị mới chịu tin lời của ông lão lái đò là đúng.

Lòng thành nếu có, Phật thánh chứng biết. Những ai chấp nhận thua thiệt, Bồ Tát cùng Thiện Thần sẽ gia hộ độ trì. Sống trên cõi đời này, xin khuyên mọi người đừng quá tính toán so đo, sợ lo được mất, cần gấp vun bồi hai chữ chân thật, mà niệm Phật ắt sẽ ra khỏi sanh tử luân hồi.

Từ xa cứu nạn giảng đường sụp đổ

Vào thời Bắc Chu, chùa Đại Truy Viễn ở kinh thành có vị sư pháp danh Tăng Thật, là bậc chân tu đạo hạnh. Một hôm, vào lúc giữa trưa ngài bỗng lên lầu gióng chuông rất gấp, tụ tập chúng tăng, dặn tất cả đều phải chuẩn bị hương trầm. Mọi người mang hương trầm đến, thưa hỏi nguyên nhân, ngài liền dạy: “Trong giờ khắc này, tại Giang Nam ở chùa… có một giảng đường sắp bị sụp đổ, có thể đè chết cả ngàn người. Nếu mọi người ở đây đồng tâm trì niệm danh hiệu Bồ Tát Quán Thế Âm, có thể cứu được nạn ấy”. Chúng tăng vâng lời, cùng nhau niệm Phật hiệu, âm thanh vang rền cả vùng.

Mấy ngày sau có tin từ Giang Nam đến, quả nhiên đúng là trong giờ ngọ ngày hôm trước, có giảng đường tại Dương Châu đang tổ chức thuyết pháp, thính chúng ngồi chật bên trong đến cả ngàn người. Bỗng thấy từ hướng tây bắc có đám khói hương lạ bay đến, cùng với tiếng nhạc trong trẻo ngân nga. Mây hương từ cửa phía bắc của giảng đường bay vào, rồi bay thẳng ra cửa phía nam. Người trong giảng đường lấy làm kinh dị, tất cả đều đổ xô chạy theo đám mây hương ấy mà ra khỏi giảng đường. Mọi người vừa ra hết thì giảng đường cũng vừa sụp đổ. Nhờ đó mà không ai bị thương tổn gì.

Vua nhà Lương nghe biết chuyện này, ba lần xuống chiếu thỉnh ngài triều kiến nhưng ngài đều không đến. Niên hiệu Bảo Định năm thứ 3, ngài thị tịch, trong triều ngoài nội ai ai cũng đều thương tiếc.

Một niệm chí thành có thể tạo ra khói hương, âm nhạc, chỉ trong chớp mắt đã đến được nơi xa ngàn dặm, từ đó có thể hiểu ra được ý nghĩa “tất cả đều do tâm tạo”. Thế thì, tại sao có thể cho rằng việc tu phước cầu siêu thoát cho hương linh trong một chớp mắt không thể không thông suốt chốn u minh địa phủ? Hay là, tại sao lại cho rằng người niệm Phật cầu vãng sinh chẳng thể trong một sát na mà chẳng thẳng đến cảnh giới Tây phương Cực Lạc?

Bé Hạnh thoát chết nhờ câu Phật hiệu

Nguyễn Ngọc Mỹ Hạnh 9 tuổi, sinh năm 2010. Cha của cháu là Bùi Ngọc Châu 42 tuổi và mẹ là Nguyễn Thị Hương 37 tuổi (bé lấy họ mẹ). Cư ngụ Phường 11, Quận Bình Thạnh, Thành phố Hồ Chí Minh..

Như mọi ngày bình thường cháu Hạnh vẫn mạnh khỏe vui chơi, nhưng hôm đó vào ngày 8 tháng 9 năm 2010, khoảng gần 11 giờ đêm đang xem Tivi bỗng nhiên bé bị ngất xỉu. Sau một lúc sơ cứu không hiệu quả gia đình và bà con chòm xóm vội đưa vào bệnh viện Nhân Dân Gia Định để cấp cứu, các bác sĩ đã chẩn đoán là chứng bệnh “Viêm não Nhật Bản”!

Một ngày nằm ở phòng cấp cứu thấy không khả quan, nên chuyển bé đến bệnh viện Nhi Đồng 2, vào ngày 9 tháng 9 năm 2010.

Qua 21 ngày hôn mê sâu, không ăn uống, dù cho nền y học hiện đại cộng với tình thương yêu và dốc hết sức cứu chữa của các Y Bác sĩ, nhưng sức khỏe của em mỗi ngày mỗi cạn kiệt và suy hô hấp nặng, cuối cùng các bác sĩ đành phải bó tay…rút ống dưỡng khí và cho bé xuất viện về nhà để lo phần… hậu sự, nhằm ngày 29-10-2010.

Hôm gia đình đưa bé về nhà, vị bác sĩ Trưởng khoa nhân từ đã nói với ba mẹ cháu rằng: “Người ta bảo còn nước thì còn tát, nhưng cháu nó đâu còn giọt nước nào nữa đâu mà tát!”

Bác sĩ còn nói: “Nếu tôi mà có phép nhiệm mầu, tôi cũng phải cứu cháu nhưng rất tiếc….. Chỉ có Phật Trời mới cứu được cháu mà thôi!”

Em từ bệnh viện về đến nhà chỉ còn một bộ xương, thoi thóp trong hơi thở như một con mèo quặc quẹo sắp sẽ ra đi.

Bà con lối xóm đến thăm, ai ai cũng xót xa thương cảm, nhìn trong nhà giấy báo che kín hết bàn thờ, tủ rương, hình ảnh thờ lật úp vào trong, cảnh ảm đạm tang tóc thê lương mà ta thường thấy khi nhà có người chết.

Ông ngoại cháu đã mua đất, mướn người đào huyệt mộ, và đã lo hòm, vải, trà khô… những thứ cần thiết cho hậu sự đều xong xuôi đầy đủ.

Một lương y ở cạnh nhà bên nghe cháu từ bệnh viện trả về cũng qua thăm. Lương y cũng là một người Phật tử, sau khi xem xét cháu Hạnh, bèn nói với ba mẹ cháu:

– Nếu anh chị đồng ý tôi sẽ mời Ban Hộ Niệm đến niệm Phật cho cháu, nếu cháu hết số thì sẽ về với Phật, nếu thọ mạng còn thì tai qua nạn khỏi!

Ba mẹ cháu đồng ý, thế là qua các cuộc gọi điện thoại, một lát có một nhóm Phật tử đến nhà bèn thiết lễ bàn Phật. Sau một giờ tụng kinh sám hối và niệm Phật hồi hướng cầu nguyện cho cháu xong ai nấy từ giã trở về nhà, còn lại những người gia đình, bỗng thấy bé chớp mắt và sau đó cháu mở cặp mắt yếu ớt nhìn mọi người.

Ngạc nhiên và mừng rỡ, gia đình bèn chạy qua cho vị lương y hay, mong sao mời được Phật tử tiếp tục đến niệm Phật.

Thế là chỉ mấy cú điện thoại mà gần cả trăm người đến thay nhau niệm Phật vang trời, niệm suốt mấy ngày mấy đêm. Nào là Đoàn Phật tử Ban trợ niệm Chùa Vạn Đức Thủ Đức, do cô Thanh

Lý làm trưởng ban. Đoàn Phật tử Ban Hộ Niệm ở Gò Vấp bác Huệ Nguyện dẫn đầu. Các Phật tử chùa Hoằng Pháp, Phật tử các chùa ở Bình Thạnh, các chị tiểu thương chợ Gò Vấp, Phật tử chùa Như Lai và các Phật tử khắp nơi các quận huyện trong Thành phố Hồ Chí Minh, thông tin nhau qua điện thoại, tự túc mang theo lương thực, không quản ngày đêm cùng niệm câu “Nam mô A Di Đà Phật”. Những người mà trước giờ gia đình cháu Hạnh chưa hề quen biết!

Khu phố nơi đây mọi ngày bình yên nay bỗng ồn ào hẳn lên, ngày cũng như đêm rất khuya thế mà không biết Phật tử từ đâu ùn ùn kéo đến tay cầm chuỗi, đồng phục áo dài lam từng tốp thay nhau niệm Phật vang trời, bà con lối xóm vui mừng đến thăm cháu cũng chắp tay đồng thanh niệm Phật…

Sau một tuần, bé tỉnh táo lại nhưng đôi lúc co giật làm kinh. Để tiếp tục điều trị cho em, ngày 4 tháng 11 năm 2010 ba mẹ cháu đến Bệnh Viện Nhi Đồng 2 xin hồ sơ bệnh án về, mục đích là chuyển bé đến khoa Thần Kinh Bệnh Viện Chợ Rẫy.

Thấy ba mẹ cháu vừa đến mọi người ùa ra hỏi han, trong lòng ai cũng nghĩ rằng em đã chết, nhưng khi nghe em đã khỏe, và ăn uống lại rồi, ai nấy thật sự không tin, cứ tưởng đùa!

Mọi người ngỡ ngàng khi nghe tin bé đã sống lại rồi. Họ đều có chung một nghi vấn: Điều kỳ diệu nào đã làm cho em từ cõi chết trở về?

Bác sĩ trưởng khoa khi tiễn cháu Hạnh xuất viện cũng đã có nói với người nhà rằng: “Chỉ có Phật Trời mới cứu được cháu!”

Vâng, đúng vậy! Nhờ Phật Trời bé đã sống lại ngay buổi niệm Phật đầu tiên và tỉnh dần sau những buổi niệm Phật tiếp theo, thật sự bé đã sống lại nhờ câu niệm: Nam Mô A Di Đà Phật của số đông Phật tử qua mấy ngày đêm.

Khi không còn phương điều trị được nữa, Bệnh viện cho bé xuất viện về nhà là sẽ chết, điều đó tập thể Y Bác sĩ tại khoa Nhiễm Bệnh viện Nhi Đồng 2 và tất cả mọi người không ai chối cãi.

Đã qua rồi cơn nguy hiểm, gia đình tiếp tục xin nhập viện Nhi Đồng 1, gần 1 tháng nằm viện và được trở về nhà, tuy thần kinh còn co giật liên tục, nhưng nhờ châm cứu mỗi ngày. Bé dần dần hoàn toàn tỉnh táo, hết co giật, nói được, ăn ngủ tốt, đùa giỡn suốt ngày. Tuy nhiên vẫn phải thường xuyên đến bệnh viện tái khám theo dõi.

Hôm nay, ngoài sự tri ơn Phật Trời đã cứu sống con mình, ba mẹ em tỏ lời biết ơn đến với quý Phật tử trong các Ban Hộ Niệm không quản ngày đêm mưa gió đến niệm Phật cầu an cho cháu.

Riêng ba em, lúc mọi người đang chuẩn bị lo hậu sự cho cháu, thì ông vì quá thương con gái út, đã tự đập đầu vào tường và ngất xỉu, anh tự vận để chết theo con, nhưng mọi người ngăn cản kịp thời.

Giờ đây, đã qua rồi cơn biến cố gia đình và thấy sự nhiệm mầu quá sức tưởng tượng của câu Nam Mô A Di Đà Phật. Ba của cháu đã nguyện xuống tóc, tại gia thờ Phật A Di Đà, bỏ ác làm lành, tập ăn chay, tu học.

Danh hiệu Nam Mô A Di Đà Phật đến nơi đâu sự mầu nhiệm đến đó!

Thành tâm niệm Phật giúp giải trừ oan thân trái chủ

Vào thời nhà Thanh, tại thôn Lý Gia có một gia đình anh nông phu nọ, chị vợ mỗi ngày hai lần sáng chiều đi đem cơm ra đồng cho anh. Nhưng có điều kỳ lạ, là chị luôn nhìn thấy một cô gái trẻ hớt ha hớt hải đi theo phía sau. Chị ta hỏi những người nông dân khác rằng họ có nhìn thấy người con gái kia hay không, thì mọi người đều nói là “Không thấy!”. Chị này vì thế mà sinh tâm sợ hãi, cả ngày phập phòng lo âu.

Về sau, cô gái kia lại lần lần từng bước bám theo chị về tới tận nhà, nhưng lại không đi vào phòng, chỉ là quyến luyến, quẩn quanh ở trong vườn hoặc nơi góc tường. Khi chị tiến bước lại gần thì cô kia liền bước lùi về phía sau. Nếu chị đi về chỗ cũ, thì cô kia lại nhích lại gần một chút, cứ như vậy, luôn giữ một khoảng cách không xa không gần. Chị nhận thấy con ma nữ này nhất định là oan gia đối đầu với mình.

Có một ngày, chị mạnh dạn lấy hết can đảm, đứng từ xa hỏi cô gái kia rằng: “Cô có chuyện gì cứ thẳng thắn nói ra, đừng cứ mãi không xa không gần bám theo ta như thế!”
Cô gái nói:

“Kiếp trước chị và tôi đều là thê thiếp trong một gia đình phú quý. Chị ghen ghét đố kỵ vì tôi được chủ nhân yêu thương sủng ái hơn, liền vu hãm đổ oan cho tôi cùng người khác tư thông vụn trộm. Chủ nhân đã cả tin những lời sàm bậy thêu dệt của chị, đưa tôi đi giam cầm, khiến tôi uất ức, phiền muộn mà chết.

Nay tôi đến tìm chị là để đòi mạng. Khốn nỗi kiếp này chị phụng dưỡng mẹ chồng hiếu nghĩa đến nơi đến chốn, luôn có Thần linh âm thầm bảo vệ, khiến tôi không cách nào đến gần chị được.

Cho nên ngày ngày tôi bám theo chị, mong tìm cơ hội ra tay, nhưng tôi đã xét kỹ lưỡng, xem ra khả năng báo thù không lớn.

Nếu chị có thể mời hòa thượng tới lập đàn tràng siêu độ, khiến tôi sớm ngày được chuyển thế thác sinh, thì oán thù giữa chúng ta coi như đã được giải trừ xong”.

Nghe oan hồn thương lượng chị cũng có đôi phần an tâm, trầm ngâm suy tư một hồi, chị bèn lên tiếng: “Nhà tôi gia cảnh bần hàn, sự sinh nhai còn thiếu trước hụt sau, đâu có tiền bạc chi mà để lập đàn tràng cho cô?”.

Ma nữ nói: “Đúng là gia cảnh chị bần cùng, điều này không hề giả. Thế thì nếu như chị có thể chí tâm thành kính, niệm Phật mười ngàn câu, như thế tôi cũng có thể được siêu độ”.

Chị liền hỏi lại: “Chỉ niệm Phật thôi, làm sao có thể siêu độ được chứ?

Cô gái kia bèn giải thích: “Người bình thường niệm phật, bởi vì tâm tư tạp loạn, tự nhiên khó tác động cảm ứng tới Phật. Cần phải niệm như đang ở trước Phật, nỗ lực trấn nhiếp các loại tâm tán loạn. Nếu là trung thần hay hiếu tử, lòng thành của họ sẽ làm cảm động Thần Phật. Một tiếng niệm Phật của những người ấy, âm thanh vọng khắp tam giới. Cho nên công đức, uy lực niệm Phật của họ và việc tụng kinh bái sám là như nhau.

Xét thấy, chị là một người phụ nữ hiếu thuận, tôi tin rằng, nếu chị thành tâm niệm Phật, tự khắc có thể cảm ứng tới Phật”.
Vậy là chị tin lời của ma nữ, bèn phát tâm thành kính niệm Phật hiệu, mỗi một tiếng niệm, ma nữ liền quay về hướng Tây cúi đầu bái lạy. Chị niệm tới mười ngàn câu thì ma nữ kia cũng liền biến

mất. Cô ta đã thực sự được siêu độ mà rời đi!

Câu chuyện này thường được người trong thôn Lý Gia truyền kể lại qua nhiều đời sau. Có thể thấy “trung thần hiếu tử”, bậc trung thần và những người con hiếu thuận với cha mẹ, do tâm ý của họ rất chí thành cung kính nên công đức niệm Phật của những người ấy gấp trăm ngàn lần so với người thường, Quỷ Thần đều coi trọng.

Nhờ Phật, uống thuốc độc mà… không chết!

Em tên là Lâm Duy Tùng, pháp danh Diệu Âm Đức Thọ, hiện đang ở số nhà 16 đường Nguyễn Tri Phương, tổ 9, thị trấn Liên Nghĩa, huyện Đức Trọng, tỉnh Lâm Đồng. Em vốn là người tu pháp môn Tịnh độ, nguyện vãng sanh về cõi của Phật A Di Đà.

Câu chuyện sau đây của em, đó là một câu chuyện đáng tiếc. Trong thời gian trước, em chìm đắm trong bế tắc, không lối thoát. Từ công việc, gia đình, tình cảm… nói chung là mọi thứ. Vậy nên, em đâm ra bi quan, uống thuốc diệt cỏ để tự sát.

Hôm đó là ngày 8/3/2016, em uống khoảng 1/4 chai thuốc diệt cỏ loại nhỏ, từ lúc 2 giờ chiều, mãi đến gần ba tiếng đồng hồ sau, gia đình em mới phát hiện bèn cấp tốc đưa em lên bệnh viện, lúc đó là đã hơn 5 giờ chiều.

Các bác sĩ ở bệnh viện Đức Trọng muốn súc ruột nhưng em không cho, vì em quyết chết bằng được.

Thế là, họ chuyển em lên trên bệnh viện thành phố Đà Lạt. Lên đó, thì bác sĩ lắc đầu, bảo về nhà nằm chờ chết thôi, không cứu được nữa rồi.

Tối hôm đó, do thuốc ngấm vào bao tử và dạ dày nên người em nóng rát, bụng cứ như đang đun nước sôi ở trong, ngay cả một ngụm nước uống cũng không được, giống hệt như cảnh giới ngạ quỷ đã miêu tả trong kinh.

Sáng hôm sau, mấy chú trên Tịnh Thất Quan Âm, do thầy Giác Nhàn trụ trì biết tin nên xuống để đưa em lên phòng hộ niệm. Mấy chú bảo em cố gắng niệm Phật, nếu mạng còn thì Phật sẽ cứu, còn không thì Phật sẽ rước về Tây Phương.

Suốt thời gian đó, em niệm Phật, gia đình phóng sanh, tuy không được nhất tâm nhưng cũng có sự cảm ứng của chư Phật, phải nói thêm rằng hơn một năm trước, em thường phóng sanh, cố gắng hành thiện mong chuyển nghiệp báo của mình, nên có sự trợ duyên rất lớn.

Nằm ở trên đó, không dùng bất cứ thứ thuốc gì, bụng và cuống họng lúc nào cũng nóng như lửa đốt. Chỉ dùng được chút nước sắn dây, ngoài ra không dùng được gì khác, cũng có ăn chút cháo, nhưng rồi, hệt như nuốt sắt nóng vào bụng, muỗng cháo đi đến đâu, bụng em cháy đến đó, đau đớn không gì tả xiết.

Thế rồi, cho đến hôm thứ 5 kể từ ngày em uống thuốc tự tử, người em bắt đầu yếu dần, mệt mỏi tưởng chừng mạng căn sắp sửa kết thúc. Đêm đó em sốt li bì, ai cũng đinh ninh là em sẽ không vượt qua được….. Thế rồi, ánh sáng chư Phật sáng soi.

Đến sáng hôm sau, em mở mắt ra và thấy mọi người. Các chú giúp em thay đồ, đi vệ sinh, và em bình phục như một phép màu. Từ hôm đó, em khỏe dần, bắt đầu ăn được ít chuối. Và được vài hôm, các chú cho em về nhà.

Đến gần 20 ngày sau, các cơn đau cũng không còn nữa, em đã ăn uống lại được bình thường, chỉ là sức khỏe còn hơi yếu một chút thôi.

Phật pháp vốn nhiệm mầu là như thế, mong rằng qua câu chuyện này của em, mọi người đừng nên nông nỗi khờ dại như em, cần phải tin sâu lý nhân quả nghiệp báo và cố gắng xây đắp tín tâm vào hiệu lực vô biên của câu “Hồng Danh Vạn Đức”!

Tụng kinh niệm Phật chuyển hóa được con hư

Có lẽ đối với bậc làm cha mẹ, ai cũng mong ước con mình trưởng thành ngoan ngoãn vâng theo lời ba mẹ, có công ăn việc làm cuộc sống ổn định. Nếu không may, cha mẹ nào có đứa con ngỗ nghịch, hung dữ thì cũng đành ngậm đắng nuốt cay, cố gắng tìm mọi cách để chuyển hóa con biết quay về nẻo thiện. Câu chuyện sau đây là một điển hình để cho chúng ta thấy tấm lòng của cha mẹ như trời cao, biển rộng.

Bác Nguyễn Định Kế sinh năm 1940, sống tại Lâm Hà. Con trai bác, pháp danh Diệu Âm Quảng Hiền, sinh năm 1971, là tài xế chạy xe tuyến đường từ Bắc vào Nam, nhưng anh rất ngỗ nghịch, thích nhậu nhẹt và đánh nhau. Trong cốp xe anh luôn có thủ sẵn kiếm, dao, gậy v.v. bản tính anh rất dữ tợn, lúc nào cũng nóng nảy, sẵn sàng đâm chém, đánh người và tự hủy hoại mình. Cha mẹ anh rất khổ tâm vì có người con ngổ ngáo như anh, trong xóm ai cũng gọi anh là “Tí điên”. Mỗi khi nghe nói đến anh, ai cũng lắc đầu ngán ngẩm và tránh xa. Mặc dù, anh nhậu nhẹt nhiều, nhưng chủ các quán nhậu rất sợ anh đến quán; bởi vì khi anh đến là họ mất khách, hoặc đánh khách hàng của họ. Anh còn lôi kéo cả đàn em nhậu để đi đánh người và không hề xem việc tù tội là việc đáng sợ.

Vợ chồng bác Kế vô cùng khổ tâm về đứa con hung bạo như thế. Bản thân bác tu học theo Phật pháp rất lâu, cũng hướng cả gia đình quy y Tam Bảo với Hòa thượng Trúc Lâm. Bác đã từng tu học qua các pháp môn Thiền tông, Mật tông v.v. nhưng cuối cùng bác tu theo pháp môn niệm Phật.

Một hôm, bác xem đĩa giảng pháp của thầy trụ trì tịnh thất Quan Âm. Bác cảm nhận được sự vi diệu câu Thánh hiệu A Di Đà Phật, nên về sau thường tham gia những ngày chuyên tu tại tịnh thất. Bác tâm sự với thầy về hoàn cảnh người con trai hư hỏng của mình, nên rất buồn khổ vì con. Thầy hướng dẫn bác cách tu tập tụng kinh, niệm Phật, lạy sám hối…đem công đức này hồi hướng cho con quay đầu.

Bác tinh tấn tu theo được hai tháng vẫn không thấy chuyển biến gì, nên lên trình với thầy. Thầy dạy bác phải kiên nhẫn tiếp tục tu tập. Khi bác tu chưa hết tháng thứ ba thì chuyển hóa được tâm con trai.

Bỗng một ngày, anh xung phong chở bác lên chùa để gặp thầy, cho anh tu học, niệm Phật, lạy Phật. Kế đến, anh tập ăn chay, niệm Phật thường xuyên; dần dần về sau, anh theo cha nhập thất chuyên tu một tuần. Không những bản thân anh tu học mà còn về nhà khuyên vợ tu theo.
Hiện nay, chẳng những anh tìm được sự an lạc bằng cách thực hành theo Phật pháp, mà còn ăn chay trường. Nếu có bạn bè xấu ngày xưa rủ rê, anh đều từ chối, lánh hết duyên xấu, chỉ theo

cha lên tịnh thất Quan Âm tu tập.

Khi kể lại chuyện này, bác Kế cảm động nước mắt tuôn trào nói: “Phật pháp thật nhiệm mầu, câu Thánh hiệu A Di Đà Phật thật không thể nghĩ bàn!”

Nhờ công đức tu tập mà bác chuyển hóa con trai hư hỏng trở thành Phật tử, biết ăn chay, tinh tấn tu học.

Đời này, chúng ta phải phát nguyện nương theo Phật lực để thoát khỏi sanh tử luân hồi, không còn con đường nào hay hơn. Một câu Thánh hiệu A Di Đà Phật có diệu dụng chứa vô lượng công đức. Chúng ta tu tập xưng danh hiệu Ngài, hồi hướng công đức này làm nhân vãng sanh về Cực Lạc thì không gì bằng!

Một câu Phật hiệu khởi tử hồi sinh

Liên hữu Lại Lâm Trị ở làng Bắc Đồn, ngoại ô của Đài Trung, vì chồng của bà tên là Tuấn, cho nên mọi người đều gọi bà là thím Tuấn.

Mỗi thứ tư và thứ bảy bà đều đến thư viện và Liên Xã chùa Từ Quang nghe thuyết pháp; hai thời khóa sáng tối bà chỉ biết niệm Phật.

Bà có một người con gái tên là Lan, năm mười tám tuổi đã lấy chồng và sanh được một đứa con trai tên là Đạt Tử.

Lúc Đạt Tử vừa mới ba tuổi, một hôm dạo chơi trước cổng, bỗng nhiên có con heo nái từ xa chạy lại đụng bé té nhào, từ đó trở đi em bị sốt cao, lại hôn mê bất tỉnh, theo chẩn đoán của bác sĩ là viêm màng não. Trung y, Tây y, thuốc thang gì đều vô hiệu, hai mươi ngày sau thì chết!

Vào khoảng 8 giờ tối là dứt thở, người trong nhà để Đạt Tử trên nền gạch trong phòng khách dùng một bao vải rách đắp lên, giấy khai tử mọi việc chuẩn bị xong, dự định sáng mai đem đi chôn.

Thím Tuấn nhìn thấy xác của cháu ngoại mà vô cùng đau lòng, chiều tối đó đến thời khóa, bà vẫn cứ lên niệm Phật như thường, nhưng tình cảm đau thương khó mà ngăn chận. Bà vừa niệm Phật vừa khóc, hướng lên Phật Bồ Tát nói rằng: “Nam Mô A Di Đà Phật, Nam Mô Quán Thế Âm Bồ Tát! Các Ngài sao không phò hộ cho con? Vùng này chỉ có mình con tin Phật, niệm Phật, vậy mà người ta còn cười con, đã nghèo mà còn bày đặt tin Phật, niệm Phật cái gì? Sau này nhất định họ càng cười con! Phật, Bồ Tát ơi! Các Ngài sao không phò hộ cho con?”.

Thím Tuấn lại khóc to lên một hồi, rồi nặng nề lên giường nằm ngủ, nhưng nhớ lại đứa cháu dễ thương đã chết, bà lăn qua lăn lại hoài mà không ngủ được. Vào khoảng hơn 4 giờ, bỗng nhiên thấy một luồng ánh sáng màu vàng từ trên hư không xẹt thẳng vào trong nhà khách, ánh sáng rực rỡ không thể nghĩ bàn. Trong khoảnh khắc, bỗng nhiên nghe được tiếng khóc ré lên của Đạt Tử, hơn hai mươi ngày không biết khóc và tay chân cứng còng!

Thím Tuấn và con gái là A Lan, vội vã chạy tới xem, thấy hai tay của em đã kéo cái bao vải ra, hai mẹ con vừa mừng vừa sợ, bế nó lên và rót cho nó một tí nước, thì nó cũng uống được, thật là không thể nghĩ bàn. Sáng sớm hôm sau, hai mẹ con lại bồng bé đi Bắc Đồn cho bác sĩ khám, bác sĩ cũng thấy kỳ lạ, làm sao chết rồi mà sống lại? Bảo hai mẹ con nhanh chóng đưa lên bệnh viện Đài Trung. Lúc đó thím Tuấn đến nhà một bạn đạo là bà Lâm Khán Trị yêu cầu phụ giúp mình đưa cháu đi bệnh viện!

Đạt Tử liền được đưa vào bệnh viện Khoa Nhi ở Đài Trung. Nhưng khi thím nhìn thấy mấy chục đứa nhỏ bị viêm màng não đang nằm viện bị biến dạng kỳ quái: có đứa mắt lệch, có đứa miệng méo, có đứa tay chân không động đậy gì hết, thì trong lòng rất là buồn bã. Bà hỏi thăm thì đa số nhập viện từ sáu tháng đến hai năm, sức khỏe vẫn chưa bình phục, mà bác sĩ chẩn đoán cho Đạt Tử, tối thiểu phải nằm viện bốn tháng, còn khả năng hết bệnh hay không cũng không dám chắc!

Thím Tuấn mới nói với bạn mình rằng: “Về tình hình kinh tế nhà tôi làm sao có thể nằm viện lâu đến bốn tháng cho được?!”.

Bà Lâm liền khuyên: “Thím Tuấn à! Thím thực là cả đời khôn ngoan, lại đi tính dại một lúc! Đạt Tử là nhờ phước ấm của thím mà được Phật, Bồ Tát phò hộ, mới chết mà được sống lại, tôi nghĩ cháu nhất định sẽ khỏi, chỉ cần chúng ta vừa cố hết sức trị liệu cho cháu, vừa thành khẩn cầu Phật, Bồ Tát cứu giúp, rồi mới phó mặc số mạng cho trời!”.

Thím vẫn còn do dự chưa quyết định, rốt cuộc bạn bà lại tiếp tục khuyên: “Thôi tạm nằm hai tuần đi, khỏe hay không cũng xuất viện, nhưng thím cần ở lại bên cạnh bé niệm Phật không được gián đoạn”.

Cuối cùng thím đồng ý, bèn làm thủ tục nằm viện điều trị.

Đạt Tử nằm viện trị liệu được tốt đẹp, sốt cao đã lui dần; tròng đen con ngươi vốn đã bị lật vào trong chỉ còn thấy tròng trắng, nhìn không thấy người, cũng ngày một khôi phục như cũ; dần dần cũng đã nói chuyện lại được, xưng hô với người thân cũng từ từ rõ ràng lại.

Khoảng một tuần thím muốn về nhà, liền kêu A Lan lại chăm sóc Đạt Tử thay thế cho bà. Nhưng có điều kỳ lạ là thím vừa ra khỏi cổng bệnh viện, thì bệnh của bé bèn nặng trở lại, trong miệng nổi lên hai cái lưỡi và trạng thái hôn mê cũng trở lại, còn chảy máu đầy cả miệng, bác sĩ liền dùng bông gòn nhét vào giữa hai hàm răng.

Thím vừa về đến nhà, con rể bà liền nói: “Má à! Má về làm gì? Nhanh chóng đi vào bệnh viện lại đi! Nhanh đi! Nhanh đi!”.

Thím trở lại bệnh viện, vừa thấy biến chứng của cháu như thế liền vội ngồi xuống bên cạnh, chí thành niệm Phật. Kỳ tích lại phát sanh lần nữa, thật là Vạn Đức Hồng Danh linh nghiệm không gì bằng! Bà niệm được nửa giờ, bé đã thở nhè nhẹ đi vào giấc ngủ, lúc thức dậy, chứng bệnh hai lưỡi đã hết, thật là Phật pháp vô biên.

Thím đi về chỉ có ba tiếng đồng hồ mà bệnh tình đã biến đổi xấu nghiêm trọng như thế. Khi trở lại, vừa qua niệm Phật thì bệnh càng lúc càng hồi phục bình thường. Mười ba hôm sau, bác sĩ tuyên bố ngày mai có thể xuất viện. Mọi người đang vui mừng, nhưng vào lúc nửa đêm bệnh của bé đột ngột tái phát thật là nguy ngập, sốt rất cao, trong khoảnh khắc thím Tuấn vô cùng hốt hoảng, nhứt thời không có cách gì, bèn lấy mười đồng kêu A Lan đi ra chợ tìm thầy tướng số đưa ngày sinh tháng đẻ của bé cho thầy đoán xem số mạng của nó có tới số chết chưa?

A Lan đi xem số mạng về nói: “Trong số mạng của Đạt Tử mang chứng tê liệt, năm ba tuổi chắc chắn bị phát sởi mà chết!”.

Lúc đó bác sĩ và y tá lại đến chẩn bệnh, lột hết quần áo của em ra xem, thì phát hiện phía sau lưng nổi đầy những chấm đỏ nhỏ, liền lắc đầu nói: “Đáng tiếc! Đáng tiếc! Thằng bé này đột nhiên lại phát sởi, sau khi bị viêm màng não lại bị sởi rất dễ dẫn đến sưng phổi. Nếu như thế, thì thật không còn cách trị!”.

Thím và A Lan trước đã nghe đoán số mạng Đạt Tử sẽ chết, nay bác sĩ cũng nói như thế càng đau lòng vô cùng! Lúc đó lại hối hận là không nên vào viện, trong hai tuần đã tốn hết mấy ngàn đồng.

Bà Lâm ở kế bên, liền nói với họ rằng: “Có lẽ Đức Phật A Di Đà và Quán Thế Âm Bồ Tát từ bi thương xót cho bà là người đệ tử trung thật, mới đặc biệt gia bị, khiến Đạt Tử trước khi xuất viện tái phát sởi, ở trong bệnh viện chăm sóc dễ dàng thuận tiện, chớ nếu sau khi xuất viện về nhà rồi mà tái phát sởi thì càng nguy hiểm hơn! Không tin, ở lại thêm một tuần lễ nữa liền có thể bình an xuất viện. Bây giờ bà phải ở bên cạnh nó niệm Phật khẩn thiết hơn nữa, không được gián đoạn, không nên nản lòng!”.

Lúc đó bà Lâm bạo miệng để trấn an, và cũng chỉ an ủi họ như thế thôi, thật ra trong lòng còn sốt ruột hơn họ nữa!

Một tuần lễ trôi đi, việc trị liệu rất thuận lợi, quả nhiên bé đã vượt qua cửa ải tử vong một cách dễ dàng, có thể an nhiên xuất viện ra về. Nhưng theo nguyên tắc của bệnh viện, người bệnh muốn xuất viện, nhất định phải được bác sĩ tái khám thật kỹ lần cuối.

Khi bác sĩ khám lại cho bé lần cuối, luôn miệng nói: “Kỳ lạ! Kỳ lạ! Làm sao mà bệnh trạng nghiêm trọng quá sức như thế, lại mau khỏi như vậy?”.

Rồi liền quay sang hỏi thím Tuấn rằng: “Trong miệng bà không ngớt niệm những gì vậy?”.

Thím trả lời: “Niệm A Di Đà Phật”.

Bác sĩ nghe xong nói: “Mẹ tôi cũng là người ăn chay trường hai, ba chục năm nay rồi, vì sao không biết niệm A Di Đà Phật?”.

Đáng tiếc thím không biết trả lời, lỡ mất một cơ hội khuyên dạy vị bác sĩ này!

Lại nói về Đạt Tử, từ khi xuất viện về nhà, sức khỏe cùng với những đứa trẻ bình thường khác mạnh khỏe như nhau, nhưng hay hỏi bà ngoại: “Con còn nhỏ như thế này tại sao biết tự mình ăn cơm, lại biết nói chuyện, biết đi?”. Có lẽ bị ảnh hưởng viêm não nên thần kinh hơi bất bình thường. Thím liền đổi tên nó lại là “A Châu”

Thời gian qua như tên, mới chớp mắt, A Châu đã mười bảy tuổi, anh ta thường ngày làm việc rất siêng năng, lại hiếu thuận với người lớn, là một thanh niên tốt có lễ giáo nhân nghĩa.

Cuối cùng chúng ta hãy nghiên cứu một chút, một câu Thánh hiệu này thật bất khả tư nghì. Hãy xem các bác sĩ đã nghiên cứu khoa học mấy chục năm họ chẩn đoán: nếu như thằng nhỏ nằm viện ít nhất phải bốn tháng, còn khả năng khỏi hay không còn không dám chắc! Và một vị khác có khả năng bói bát tự, khéo đoán về âm dương, đoán là bé chỉ sống có ba tuổi bị ban sởi mà chết, rốt cuộc bị câu Thánh hiệu A Di Đà Phật mà tiêu tai giải nạn, gặp dữ hóa lành.

Nhưng có lẽ có người sẽ hoài nghi: “Niệm Phật thì không chết ư?”. Đương nhiên chẳng ai dám quả quyết như thế, do vì đời người có sanh ắt có tử. Nhưng trong kinh có nói rằng: “Chí tâm niệm một câu A Di Đà Phật có thể tiêu diệt tội nặng sanh tử trong tám mươi ức kiếp”. Chỉ cần xem người niệm Phật có phải là “chí tâm” niệm hay không? Nếu như không chí tâm, niệm Phật không có cảm ứng, không tự trách mình, lại đi trách ai đây?

Dát vàng trang nghiêm tượng Phật, lửa nhảy qua khỏi nhà

Sư tỷ Khoan Kim là một người có đầy đủ căn lành từ kiếp trước, từ lúc đứa con trai giữa qua đời, vì quá đau buồn, liền tính kế dời chỗ ở, thay đổi hoàn cảnh, cho nên mười tám năm trước, lưu con trai trưởng ở lại quê, quản lý tài sản, còn mình thì dẫn đứa con út là Tấn Truyền dời đến xứ Hạn Khê thuộc Đài Trung, mướn nhà ở.

Hai mẹ con nương nhau mà sống, tự lực cánh sinh, đến một nhà máy giày dép cao su làm thuê, không bao lâu liền cùng với những vị liên hữu của vùng Hạn Khê, mỗi thứ hai cùng đến liên xã niệm Phật, thứ bảy cũng đến liên xã nghe kinh, làm một vị đệ tử Tam Bảo rất cung kính.

Có một hôm vào buổi chiều, bà từ nhà máy đi về nhà. Trên đường đi ngang qua cửa nhà của một cô gái tên là Kê Thỉ, nhìn thấy đứa con nhỏ của cô trong tay cầm một tượng Quán Thế Âm Bồ Tát chơi dưới đất. Bà nhìn thấy, rất không nhẫn tâm, lập tức tìm mẹ nó rồi nói: “Kê Thỉ, cô không nên tạo tội, tại sao lại để con nít giỡn chơi Thánh tượng Bồ Tát như thế? Như vậy sẽ tạo ra tội nghiệp rất lớn!”

Kê Thỉ bèn đáp: “Đây là tượng mà mẹ chồng tôi hồi còn sống thờ cúng, tôi là người không có tin và lạy khúc gỗ đó đâu, tôi không cần, bà cần thì bà lấy đi là được rồi!”.

Bà hớn hở ra mặt, bước lại gần đưa tay nâng lên xem, thì ra một tượng Bồ Tát bằng cây cao gần 3 tấc, mặt mũi đã hư hết, liền thỉnh tượng đó đến cửa hàng làm tượng Phật, dùng hơn 100 đồng dát vàng cho tượng, rồi an vị trong nhà thờ cúng, sớm tối lễ bái cung kính, xưng niệm Thánh hiệu Bồ Tát, thật là pháp hỷ sung mãn, tâm không rời Phật, Phật không rời tâm.

Sau đó một thời gian, có một bạn đạo của bà liền hỏi rằng: “Còn người nữ không có căn lành kia hiện giờ thế nào rồi?”.

Bà đáp: “Tội nghiệp cho người phụ nữ ấy không bao lâu của cải tán thất, người không biết hiện giờ dời đi ở xứ nào rồi?”.
Đ

ây quả là một sự thật do vì ngu si không biết mà tạo nghiệp, nên chịu lấy ác báo.

Qua hơn một năm, một hôm lúc bà làm việc ở công xưởng, bỗng có một người hớt hải đến nói rằng: “Bà ơi, bà! Nhà gần bên nhà của bà bị cháy, hiện lửa lớn đang cháy lan sắp sửa cháy nhà của bà rồi!”.

Bà vừa nghe thật là hồn phi phách tán, vội vã chạy về nhà, trên đường bị té một cái, vừa bò dậy lại bị té nữa nhưng trong miệng của bà vẫn cứ niệm riết “Quán Thế Âm Bồ Tát”, thầm khấn cầu

Bồ Tát cứu khổ cứu nạn, may sao gặp một người đàn ông chạy xe đạp, xem thấy bà đáng thương như thế, hỏi rõ tình hình, liền dùng xe đạp chở đưa bà về nhà.

Vừa về đến nhà, quan sát tình hình thật là không thể ngờ, tại sao lửa biết nhảy qua khỏi nhà mình? Những nhà bên trái, bên phải đều bị lửa cháy thành tro, mà nhà của mình chính giữa lại còn nguyên? Nhiều người xúm lại chúc phúc cho sư tỷ, nói nhờ sư tỷ cung kính lạy Phật, Bồ Tát mà được cảm ứng. Điều kỳ lạ nhứt là mọi người đều nói: “Cửa của nhà bà khóa lại, tại sao lại có khói trắng thơm phức từng lọn từng lọn bay ra từ trong khe cửa, mọi người chúng tôi từ thuở cha sanh mẹ đẻ cho đến giờ, đều chưa từng ngửi qua mùi thơm nào như thế!”.

Bà nói: “Đây nhứt định là kỳ tích của Quán Thế Âm Bồ Tát hiển thị”.

Từ sau khi thoát khỏi nạn hỏa tai, bà càng cung kính tin Phật niệm Phật hơn, và gặp ai cũng tuyên dương sự linh cảm của Phật, Bồ Tát. Nhưng người con trai đã đến tuổi đi lính phải phục vụ trong quân đội ba năm, cuộc sống của bà liền trở thành vấn đề khó xử. Không biết như thế nào mới tốt đây?

Bà liền khẩn thiết van cầu Quán Thế Âm Bồ Tát một cách rất là cung kính rằng: “Tín nữ Khoan Kim xưa kia ngu si không biết về nhân quả báo ứng, đã tạo ra rất nhiều ác nghiệp, cho nên tai nạn, khổ nguy trùng trùng, hiện nay được nghe chánh pháp, rất cảm tạ Phật, Bồ Tát đã phò hộ con được sống bình an qua ngày. Nhưng giờ đây cầu xin Phật, Bồ Tát giúp cho con một việc: Xin giúp con tìm được một việc làm có tiền lương cao một chút do vì hiện nay tiền lương ở nhà máy giày dép cao su một ngày chỉ có 5 đồng, con trai của con sắp vào lính ba năm, cuộc sống ngày ba bữa trong ba năm này của con sẽ phải khó khăn. Đệ tử tự biết đây là một yêu cầu gần như vô lý với Phật, Bồ Tát nhưng vì tín nữ đã hơn năm mươi tuổi, lại không biết chữ, tự mình đi tìm việc rất khó, dám xin Quán Thế Âm Bồ Tát đại từ đại bi, cứu khổ cứu nạn tìm cách giúp con giải quyết vấn đề sinh sống trong ba năm này”.

Bà sớm tối đều cầu xin như thế. Quán Thế Âm Bồ Tát thật là linh nghiệm vô cùng, không phụ sự cầu xin của người chí thành. Có một đêm, bà bỗng nhiên nằm mộng thấy một cô gái khoảng mười lăm, mười sáu tuổi nói với bà: “Khoan Kim! Bà muốn có một công việc tốt, sáng mai lúc cầm hộp cơm đi làm, phải đi đường nhỏ không được đi đường lớn, sẽ có quý nhơn giúp đỡ cho bà”.

Nói xong thì biến mất.

Sáng hôm sau, lúc bà mang hộp cơm ra cửa, nhớ lại cảnh trong mộng, nửa tin nửa ngờ. Nguyên là mỗi ngày đi ra khỏi nhà đều đi theo đường lớn, nhưng hôm nay đổi hướng đi đường nhỏ thử xem.

Đi được nửa đường thì ở bên bờ tường của một ngôi nhà cao cấp có một cô gái cười cười đến hỏi bà: “Bà tên là Khoan Kim muốn đi đến hãng giày dép cao su làm phải không?”

Bà vội vàng đáp: “Phải!”

Nhưng trong lòng lại rất lấy làm lạ: cô gái làm sao lại biết rõ thế? Cô gái lại nói: “Chủ tịch Hội đồng Quản trị của chúng tôi sáng sớm kêu tôi đợi bà ở đây, ông ta mời bà vào trong có chuyện muốn nói với bà”.

Bà lúc đó trong lòng càng vô cùng ngạc nhiên hơn, đi theo cô gái vào trong. Ông Chủ tịch Hội đồng Quản trị hỏi bà một cách rất thân tình: “Bà tên là Khoan Kim, con trai bà sắp vào lính ba năm, cho nên bà muốn tìm một chỗ làm có lương tương đối khá phải không?”.

Bà liền đáp: “Dạ thưa, phải!”

Ông Chủ tịch lại nói: “Nhà máy của chúng tôi có một cô nhân viên làm tạp vụ, chuyên lo về công việc nấu nước pha trà, nhưng cô này lại để móng tay quá dài, lại sơn đỏ chót, cho nên bình trà, chung trà, mâm đều rất dơ, bởi vì cô ta sợ gãy móng tay, cho nên rửa cái gì cũng không sạch. Bây giờ cần đổi người khác, chỉ cần hàng ngày rửa sạch những dụng cụ uống trà là được rồi, mời bà đến đảm nhiệm công việc. Thế nào? Lương mỗi tháng là 450 đồng, cuối năm lại thưởng một tháng lương nữa”.

Bà nghe ông Chủ tịch nói thao thao một hồi, vui mừng vô cùng nói: “Cám ơn ông Chủ tịch rất nhiều có lòng tốt giúp đỡ”

Từ lúc bỏ nơi làm việc mỗi ngày 5 đồng chuyển vào nơi tiền lương mỗi ngày 15 đồng, bà làm việc rất chăm chỉ. Nhưng trào lưu của thời đại, những hãng xưởng lớn mà mướn mấy bà già làm nhân viên tạp vụ như thế rất là ít có, cho nên trong xưởng có một số viên chức mắt nhìn thấy một bà già bưng trà đi ra đi vô ở văn phòng có hơi ngứa mắt, liền nửa đùa nửa thật kiến nghị với ông Chủ tịch rằng: “Thưa ông Chủ tịch! Ông mướn bà già này bưng trà, thật không hay chút nào!”.

Có người còn nói xen vào: “Thưa ông Chủ tịch! Nếu như không tìm được người trẻ tuổi, ngày mai tôi lập tức dẫn đến một cô vừa thông minh vừa lanh lợi đến thay thế cho!”.

Ông Chủ tịch vội vàng nói: “Không được! Không được! Việc này xin các anh tha thứ cho, do vì tôi đã hứa với Quán Thế Âm Bồ Tát rồi, Bồ Tát kêu tôi giúp bà ta ba năm”.

Lúc đó mọi người trong văn phòng đều cười rộ lên, cho là ông Chủ tịch nói chuyện thần thoại, liền hỏi ông ta: “Bồ Tát làm thế nào ước hẹn với ông bảo ông giúp cho bà già này ba năm chứ?”.

Ông Chủ tịch liền nói với mọi người rằng: “Bà Khoan Kim này không phải là bà con của tôi, tôi lại cũng không có quen biết bà, không tin thì các người hỏi bà ta xem lập tức có thể chứng minh.

Do vì cái đêm trước mời bà ta lại làm, tôi chiêm bao mơ mơ màng màng, nhìn thấy một cô gái khoảng mười sáu tuổi, cô ta nói với tôi cô là Quán Thế Âm Bồ Tát hóa thân đến nhờ tôi một chuyện, do vì có một tín nữ lớn tuổi rất thành khẩn với Phật pháp, con trai của bà ta sắp đi lính ba năm, cho nên cuộc sống gặp khó khăn, yêu cầu tôi thuê dùng ba năm, trong thời gian đó, nếu như có người phản đối, ông cũng không được nản lòng, giúp ba năm đến nơi đến chốn. Lúc bấy giờ tôi liền hỏi cô gái đó rằng: ‘Vị lão tín nữ đó tôi lại không quen biết bà ta, thì biết làm sao đây?’. Cô gái đó lại nói: ‘Lão tín nữ tên là Khoan Kim, hơn 7 giờ sáng mai, trong tay cầm hộp cơm đi đến làm ở nhà máy giày dép cao su, sẽ đi ngang qua cửa nhà của ông, ông chỉ cần phái người theo giờ đó đứng đón ngoài cửa là được rồi’. Nói đến đây thì cô gái biến mất”.

Lúc đó sư tỷ Khoan Kim nói với mọi người: “Thì ra là lòng từ bi của Quán Thế Âm Bồ Tát, chẳng những báo mộng cho ông Chủ tịch, đồng thời cũng chỉ điểm cho tôi, kêu tôi lúc đi làm buổi sáng, không được đi đường lớn mà đi theo đường nhỏ sẽ có quý nhơn giúp đỡ, không ngờ thật sự gặp được nhân duyên đặc biệt này. Hồi lúc trước ông Chủ tịch kêu vào làm một cách thân tình như thế, trong bụng tôi hết sức hoang mang: ông Chủ tịch làm sao biết tôi rõ như thế?… Qua lần giải thích này tôi mới biết là lòng đại từ đại bi cứu khổ cứu nạn của Quán Thế Âm Bồ Tát đã giải quyết dùm cho tôi. Thật là Phật pháp vô biên không thể nghĩ bàn!”.

Từ hôm đó trở đi, sau khi ông Chủ tịch giải thích chuyện kỳ diệu không thể nghĩ bàn, trong ba năm trời, không còn người nào nói ra nói vào gì nữa!

Đang kể tới đây, bạn bà liền hỏi: “Ông Chủ tịch đó là ai, tên họ là gì?”

Bà nói: “Ông ta họ Trương tên Kiết, ông là Chủ tịch Hội đồng Quản trị của nhà máy bột mì Quảng Nguyên.

Đây là chuyện cảm ứng chuyển nghiệp thứ hai của sư tỷ Khoan Kim do niệm Phật mà được.

Cô dâu niệm Phật, lật xe được bình an

Tục ngữ nói: “Nhà muốn hưng thịnh nhìn xem con cháu”. Trong Phật giáo cũng thế, nếu muốn Phật pháp hưng long, nhất định nhờ vào lớp thanh niên phát tâm học Phật, đây là cùng một đạo lý.
Gần đây “Giác Uyển học xã” của Hoằng Quang Hộ Chuyên thành lập ở Sa Lộc tiếng tăm thật vang dội. Nên biết học xã này với hơn một trăm học viên là do hai cô nương trẻ 17 tuổi, không ngại gian khổ, với tâm từ bi khuyên gọi vận động, dũng cảm tổ chức mà được thành tựu. Tinh thần vĩ đại của họ, khiến mọi người bội phục sát đất. Hai vị tiểu cô nương phát tâm đại bi này là thiên kim tiểu thơ Úc Thanh, con của ông Vương Diệu Dân trưởng phòng hành chánh của nhà máy đường ở Tân Dinh, vị kia là cô Kim Chi bạn học của Úc Thanh.

Thuở trước, lúc Lâm Khán Trị cùng với đại tỷ Lữ Chánh Lương đến Đại Thừa tịnh xá của ông trưởng phòng hành chánh dạy người niệm Phật, cô gái này mới có năm tuổi. Vương cư sĩ chuyển đến làm việc ở nhà máy Đài Đông, Vương phu nhân Nhan Gia Hanh là một người đàn bà rất giỏi giang lanh lợi, vừa đến Đài Đông liền cùng với một số vị cư sĩ, như Trần Ngọc Phương v.v… đồng kiến lập một liên xã.

Rồi kế đó, vợ chồng họ Vương di chuyển đến làm ở nhà máy chế biến đường nhãn hiệu là Long Nham, cũng tổ chức một hội niệm Phật ở vùng đó, lại một lần nữa mời các giảng viên đến đó giảng pháp tùy hỷ công đức, đồng thời kết pháp duyên. Bậc làm cha mẹ mà phát tâm lớn như thế, nên trong tâm linh nhỏ bé của Úc Thanh nhờ nghe được chánh pháp mà trồng được căn lành.

Thời gian như nước chảy, trong nháy mắt vào một hôm, có cô học sinh đứng đắn lịch sự dáng thanh mảnh đi đến hội liên nghị của Liên Xã, lúc cô kêu lên “Cô Khán Trị!”, nhứt thời, cô giảng viên Lâm Khán Trị không nhớ là ai, cô học sinh ấy liền giải thích: “Con là con gái của bà Vương ở nhà máy đường ở Tân Dinh nè!”. Thì ra cô hiện đang học ở Hoằng Quang Hộ Chuyên. Do vì cô mong ước được thành lập một xã đoàn nghiên cứu Phật học tại trường, muốn cô Khán Trị đến giúp đỡ để mở lớp.

Cô Khán Trị sau khi nghe được tin tức này, thật là vui mừng hớn hở, lập tức giới thiệu cho cô ta mấy người bạn học của mình đang ở Trí Hải học xã của trường đại học Trung Hưng, sẽ chỉ dẫn cho họ những gì nên làm khi thành lập Học Xã, và phải lần lượt tiến hành như thế nào…

Nhưng vì tâm hiếu kỳ, nên cô Khán Trị bèn hỏi cô ta: “Tuổi tác của cô quá trẻ mà đã phát tâm hoằng pháp như thế, cô biết được những điều hay tốt của việc học Phật, niệm Phật như thế nào vậy?

Úc Thanh đáp: “Con đã từng tận mắt thấy hai lần niệm Phật được cảm ứng, lại thường xem tờ nguyệt san Cây Bồ Đề. Con nghĩ: Nếu muốn được tốt đẹp trong đời người ở hiện tại và có thể lìa khổ được vui trong đời sau, nhất định phải học Phật và niệm Phật”.

Cô Khán Trị liền đề nghị: “Hai lần cảm ứng cô đã chứng kiến, có thể nói cho tôi nghe được không?”.

Úc Thanh liền nói: “Lúc ba má con ở nhà máy đường Long Nham có lập một niệm Phật đường nhỏ, các vị liên hữu vào hai thời khóa sớm tối đều tham dự cộng tu không hề có gián đoạn. Lúc bấy giờ có một vị liên hữu tên Ấu hai mươi tuổi. Hôm đó đúng vào ngày cô xuất giá, nhưng buổi sáng cô vẫn cứ đến niệm Phật đường niệm Phật thời khóa sáng, khóa lễ xong cô mới đi trang điểm vai cô dâu, sau đó theo chàng rể, bà mối đến rước dâu về nhà chồng. Ba người đó tính cả tài xế là bốn người ngồi một chiếc xe bốn chỗ. Nguyên là cô Ấu được gả cho một vị giáo sư ở Đàm Tử quốc hiệu, trường thuộc cấp quốc gia. Mấy chục vị liên hữu chúng tôi đưa cô dâu cũng ngồi một chiếc xe đò, đi đến Đàm Tử, mọi người đều rất vui, suốt đường ca bài “Lô Hương Tán”, thoáng chốc đã đến Viên Lâm.

Hôm đó đúng là ngày hoàng đạo, nhưng trời lại không quang đãng mà lại đổ mưa! Xe đến Viên Lâm gần một ngôi trường làng, do vì mưa đường trơn, xe cô dâu đột nhiên bị lật nhào, xe lật chỏng gọng bên lề đường, bốn bánh quay lên trời. Các vị liên hữu chúng tôi trên xe phía sau vừa thấy ai nấy đều thất kinh hồn vía, vô cùng lo sợ!

Nhưng trong nháy mắt, chú rể, cô dâu, tài xế, bà mối từ cửa xe chun ra từng người một, mọi người nhìn nhau, xem xét kỹ, bốn người đều không có bị thương gì cả, thật là không thể nghĩ bàn, ngay cả kiếng trên cửa xe cũng không có bể miếng nào.

Nhưng mà xe của cô dâu, bốn bánh quay lên trời làm sao bây giờ? Bỗng có mấy người dân làng đi ngang qua đó, những người dân làng đó mỗi người đều cầm một cái cây để gánh đồ, liền tự động đến giúp, lật chiếc xe cô dâu lại. Tài xế xem xét kỹ lưỡng lại máy móc xe cũng không có hư chút gì hết, chú rể, cô dâu, bà mối, lại cứ y như cũ vào ngồi lại chỗ của mình, xe bình an đưa đến nhà chú rể, mọi người đều chúc phúc cho cô dâu sẽ có phước về sau. Cô dâu nói: “Tôi ngồi trên xe trong lòng cứ niệm Phật miết!”.

Úc Thanh lại nói “Đây là việc chính mắt con nhìn thấy, vì con và má của con cũng có tham dự trong đoàn đưa dâu này”

Nghe Úc Thanh kể tới đây, cô Khán Trị liền hỏi tiếp: “Còn một chuyện cảm ứng nữa thế nào?

Úc Thanh lại nói: “Hiện nay ở gần nhà con có một ngôi chùa, má con thường đi lạy Phật, còn giảng chút chút về những điều hay tốt của việc tin Phật, niệm Phật cho người ta nghe nữa, và lấy nguyệt san Cây Bồ Đề cho người ta xem, khuyên người ta niệm A Di Đà Phật. Trong những người nghe đó có một ông bác già, nghe xong cảm thấy rất có đạo lý, chẳng những tự thân ông niệm Phật rất cung kính mà còn khuyên cả bà con trong thân thuộc đều niệm Phật.

Ông có một cô cháu gái mới mười sáu tuổi, được sự hun đúc của ông nội, cũng rất cung kính niệm Phật; người con gái này hồi năm ngoái học năm thứ hai Trung học, có một hôm sáng sớm lúc cô cỡi xe đạp đi học, muốn chạy qua một cây cầu hẹp, cô gái đó nhìn trước nhìn sau chỉ có một chiếc xe taxi chạy qua, cô liền an tâm cũng chạy qua, bất ngờ phía trước có một chiếc xe tải nặng chạy lại nhanh như giông như gió, ở trong cây cầu hẹp muôn phần nguy hiểm. Lúc đó, tiến thối lưỡng nan, cô bị kẹt cứng giữa hai chiếc xe, thật là cái chết trước mắt, may mắn là lúc bình thường niệm Phật, nên lập tức nghĩ tới danh hiệu Phật, liền to tiếng niệm A Di Đà Phật. Lúc đó chiếc xe đạp của cô đã bị chiếc xe tải nặng cán gãy nát, cô cũng bị xe tải lôi đi cả chục mét mới ngừng lại. Khi ấy những người trông thấy cái thảm trạng đó, cho là cô kia đã bị thịt nát xương tan, nhứt định chết rồi. Không ngờ lúc xe tải ngừng lại, cô gái kia đã trở mình đứng dậy, tự xem kỹ lại mình, chẳng những không có gãy xương, ngay cả máu cũng không có chảy giọt nào, chỉ có hơi bị xây xát trên cánh tay mà thôi”.

Câu chuyện sự thật trên đây có thể nói là một kỳ tích! Niệm Phật có thể được tiêu tai khỏi nguy như thế, việc lớn thành nhỏ, việc nhỏ thành không, thật là không thể nghĩ bàn.

Có rất nhiều người nói tin Phật, lạy Phật là được rồi, cần gì phải niệm Phật? Lời nói này có lỗi rất lớn, nên biết Phật pháp là tâm pháp, vạn pháp duy tâm. Trong tâm niệm Phật, tâm được thanh tịnh; tâm không niệm Phật thì sẽ niệm ngũ dục, lục trần, tâm sẽ vẩn đục. Tâm nếu bất tịnh, thì làm sao có thể cảm ứng được? Nếu nước trong ao vẩn đục và sóng cứ gợn lăn tăn, làm sao có thể chiếu hiện được cảnh vật và trăng sáng trên trời cho được? Như nước lắng trong mặt hồ lặng yên thì tự nhiên cảnh vật và trăng sáng trên trời đều hiển hiện đầy đủ rõ ràng, đây là cái đạo lý cảm ứng, sự và lý không khác, cho nên muốn có cảm ứng, nhất định phải chí thành niệm Phật cho thật nhiều!

Trong mộng niệm Phật cứu mẹ thoát hiểm

Cơ sở hoằng pháp Vụ Phong của Liên Xã ở Đài Trung có một vị liên hữu niệm Phật rất cung kính, họ Hầu, tên Anh Mãn, nguyên quán ở làng quê Tân Dinh, năm 34 tuổi theo chồng dời về cư ngụ tại thôn Thảo Hồ ở Vụ Phong.

Cô gái này đời trước trồng nhiều căn lành, sau khi nghe được pháp môn Tịnh độ, tín tâm kiên cố, hai thời khóa sớm tối chưa từng gián đoạn, có được công phu lớn mạnh hơn người: tâm không rời Phật, Phật không rời tâm, cho nên mới được cảm ứng ở trong mộng niệm Phật cứu mẹ thoát được cơn nguy hung hiểm.

Ngày mùng 1 tháng 8 là ngày giảng kinh ở cơ sở hoằng pháp, liên hữu Anh Mãn hướng về mọi người thuật lại chuyện mầu nhiệm mà cô đã trải qua.

Cô ta nói: “Phật pháp đích thực không thể nghĩ bàn, chỉ cần thành kính niệm Phật thì ai cũng được lợi ích, được cảm ứng vô cùng to lớn. Năm trước, đêm nọ, trong mộng, thần thức tôi không biết sao tình cờ đi về thăm mẹ ở Tân Dinh. Bỗng nhìn thấy một con quỷ hung ác, tay cầm một sợi dây trói mẹ tôi lại, đang sắp lôi đi; tôi lập tức chạy đến níu mẹ tôi lại không buông, đồng thời lớn tiếng la lên thật to: ‘A Di Đà Phật đến cứu mẹ con! A Di Đà Phật đến cứu mẹ con!’. Vừa cố sức kêu A Di Đà Phật vừa mở dây ra, con ác quỷ đó không biết bỏ đi lúc nào, không thấy nữa”.

Sáng sớm thức dậy, liền đem cảnh giới không lành trong mộng nói cho chồng cô biết, nếu như không phải Thánh hiệu “A Di Đà Phật” có oai lực như thế, thì mẹ chắc không cứu trở lại được. Mặc dù đã nói như thế, nhưng trong lòng vẫn không yên, nói chung cảm thấy không yên tâm lắm.

Đến hơn 10 giờ, lúc cô đang vo gạo trong bếp, thì anh nhân viên của bưu điện đưa đến một lá thư chuyển phát nhanh, bóc ra xem mới biết là mẹ đêm qua bỗng nhiên bị chứng xuất huyết não, hiện còn đang hôn mê. Cô tức thời sửa soạn đồ đạc để về Tân Dinh, ngồi trên xe tạm nén nỗi âu sầu, nhất tâm khẩn thiết niệm Thánh hiệu “Nam mô A Di Đà Phật”.

Lúc xe đi ngang qua Chương Hóa, vô tình ngẩng đầu lên trên không thì thấy Tây Phương Tam Thánh hiện trên hư không rất là sáng rỡ. Lúc đó cô càng niệm mạnh hơn, không buông lơi Lục tự hồng danh một hơi nào hết, niệm mãi đến Tân Dinh xuống xe nhìn lại trên không thì không còn thấy nữa.

Vừa về đến nhà thì cô thấy mẹ miệng mắt đều méo lệch, bất tỉnh nhân sự. Tay trái, chân trái, nửa bên thân đã bị liệt. Cô liền ngồi bên mẹ niệm Phật mãi không ngớt. Đến ngày thứ ba bà mới tỉnh và nói chuyện lại được. Cô mỗi ngày đều tụng chú đại bi vào nước cho mẹ uống và bảo mẹ cũng niệm A Di Đà Phật. Đến ngày thứ bảy thì miệng mũi của mẹ đã dần dần hồi phục. Sau đó mỗi tháng cô đều về thăm mẹ, mỗi lần về đều khích lệ mẹ niệm Phật, đồng thời dẫn mẹ đến chùa quy y Tam Bảo, gieo trồng căn lành.

Bà cụ đã niệm Phật được hai năm, cuối cùng an tường ra đi trong tiếng niệm Phật trợ niệm của cô. Chuyện kể tới đây các vị liên hữu ai nấy đều khen cô là người con chí hiếu, thần thức ở trong mộng còn biết niệm Phật đẩy lùi được quỷ, khiến mẹ khỏi rơi vào tam đồ; lại còn hướng dẫn cho bà biết thành kính niệm Phật, khi lâm chung trợ niệm cho vãng sanh Tây Phương, thật là hy hữu ít có được.

Bạch y nữ nhân trong mộng cho thuốc

Pháp môn niệm Phật, không luận là già, trẻ, nam, nữ, sang, hèn, giàu, nghèo, chỉ cần tin sâu Phật là Đạo Sư của ba cõi, Cha Lành của bốn loài, tin và chí tâm trì niệm thì diệt tội hằng sa, được phước vô lượng.

Trần tiên sinh là người từ Sa Lộc dời đến Đài Trung, cư ngụ ở đường Trung Hoa khu Bắc Đài Trung, vợ ông họ Lâm tên là A Kiều.

Bà này ở quê từ lâu đã bị bệnh triền miên, đứa con lớn là Chấn Trung tuy mới tám tuổi, lại rất biết chuyện, hầu hạ thuốc men v.v… thường ở bên mẹ. Có một hôm ban trưởng ban niệm Phật là sư tỷ Trần Kim Chi đến nhà của Chấn Trung, nhìn thấy mẹ nó là A Kiều nằm trên giường rên rỉ, có trạng thái của bệnh tình rất nguy kịch, đứa con Chấn Trung kia đang ở bên mẹ rơi nước mắt, sư tỷ thấy rồi, lòng từ bi tự nhiên phát sanh, liền nói rằng: “A Kiều à! Cô nên niệm Thánh hiệu cứu khổ cứu nạn Quán Thế Âm Bồ Tát, cầu nguyện Bồ Tát khiến cho bệnh tình sớm hồi phục, mạnh khỏe trở lại”.

Lúc đó A Kiều thều thào nhỏ giọng “Tôi không biết niệm!”.

Sư tỷ nói: “Cô không biết niệm, con cô niệm cũng được, cô chỉ cần chú ý lắng nghe, chí tâm nương theo tiếng niệm là được rồi”.

Sư tỷ lại đi thỉnh về một bức ảnh Tây Phương Tam Thánh lộng trong khung kiếng, treo trên bức tường đối diện với chỗ bệnh nhân nằm, rồi dạy cho Chấn Trung chắp tay, học niệm A Di Đà Phật và Quán Thế Âm Bồ Tát.

Đứa bé này rất thông minh, không bao lâu đã học được rồi. Cứ như thế niệm hơn hai tiếng đồng hồ, lại còn dạy nó hồi hướng, cầu nguyện Phật Bồ Tát mau đến cứu giúp cho bệnh của mẹ được nhanh bình phục. Chấn Trung đều có thể nhất nhất y giáo phụng hành, bèn luôn luôn ở trước Phật niệm Phật van cầu. Trước mắt A Kiều, mặt thì đối Thánh tượng vạn đức trang nghiêm, bên tai lại nghe được Thánh hiệu vạn đức hồng danh, trong tâm bèn cảm nhận được có chỗ nương tựa.

Xưng niệm Thánh hiệu Phật Bồ Tát là việc chẳng thể nghĩ bàn. Đứa bé ấy vì cầu cho mẹ khỏi bệnh, hàng ngày thành khẩn niệm Phật, chưa đến một tuần lễ, quả nhiên xuất hiện kỳ tích.

Có một hôm mới sáng sớm bé kêu lên rất vui sướng: “Má à! Hồi tối con chiêm bao thấy một người nữ mặc áo trắng cầm một bó cỏ thuốc dài như cây hẹ, đưa cho má ăn, má nhận qua tay liền cho vào trong miệng, con nhìn thấy rất là rõ ràng. Ngài còn nói với con Ngài là Quán Thế Âm Bồ Tát, do vì bệnh của má chỉ cần ăn loại cỏ thuốc này, liền được bình an”.

A Kiều nghe xong cảm thấy rất là kỳ lạ, cũng nói với con rằng: “Chấn Trung à! Mẹ đêm qua cũng chiêm bao thấy một người nữ cầm một bó cỏ thuốc lá dài kêu má ăn, má liền lấy cỏ thuốc cho vào trong miệng nhai và nuốt xuống. Sáng sớm vừa thức dậy, trong lòng mát mẻ, cảm thấy bệnh tình nhẹ đi rất nhiều”.

Từ đó bệnh của A Kiều ngày càng hồi phục mạnh khỏe, mẹ con đồng hưởng niềm vui tự nhiên của đạo. Hơn nữa trong tâm linh bé nhỏ của Chấn Trung đã gieo trồng được căn lành rất là sâu dày, cho nên mỗi ngày trước khi đi học, bé nhất định đến trước Phật xin phép, chắp tay đảnh lễ nói: “A Di Đà Phật! Con phải đi học đây”. Tan học về nhà lại nhất định trước tiên đến trước bàn Phật vẫn cứ chắp tay đảnh lễ nói: “A Di Đà Phật! Con về rồi”. Ngày nào cũng thế, tập hoài thành quen.

Mẹ già niệm Phật, con được tai qua nạn khỏi

Vị liên hữu Lý Thủy Cẩm là một vị đệ tử Phật phát tâm Bồ Tát rất thành khẩn. Nhà của bà ở số 31 đường Nam Kinh trong nội thành, chẳng những làm cho cả gia đình theo Phật mà còn độ được cả nhà của mẹ mình.

Nhà của mẹ bà ở trên núi làng Minh Tú trấn Sa Lộc. Năm nọ, vào ngày mồng 8 tháng 9, bắt đầu mời các vị hoằng pháp trong Liên Xã đến để thuyết giảng chánh pháp, khuyên người niệm Phật. Trong nhà bà thờ phụng tượng Tây Phương Tam Thánh, đặt tên là “Tín Nghĩa Đường”, thế là tổ chức định kỳ hằng tháng, lại còn lấy ngày mồng 8 tháng 9 làm ngày lễ kỷ niệm mỗi năm. Những tín đồ ở gần đấy, mỗi lần đến ngày đó đều sắm sửa hương hoa quả phẩm đến Tín Nghĩa Đường lễ Phật, nghe pháp.

Ngày mồng 8 tháng 9 năm 1963, bà Lâm Khán Trị được mời đến thuyết giảng Phật Pháp kết duyên. Hôm đó có một bà lão cùng một người con trai trong tay bưng một khung kiếng, trên mặt hai người lộ nét hân hoan, ở trước Phật, năm vóc sát đất, rất là chí thành cung kính dập đầu ba lượt, bà Lâm nhìn thấy không khỏi hiếu kỳ liền bước lại gần hỏi bà lão:

-Các vị tin Phật lễ bái thành khẩn như thế, không biết là nhân duyên gì?

Bà lão lập tức trả lời rằng:

-Tôi đến để đáp tạ ân đức mà Phật, Bồ Tát đã phò hộ!

Bà Lâm liền mời bà ngồi, thế là bà từ từ kể lại một đoạn nhân duyên tin Phật như sau:

-Vào giữa tháng rồi, có một đêm tôi nằm mộng thấy răng của tôi toàn bộ rụng hết. Trời sáng thức dậy suy nghĩ đây là một điềm báo trước không tốt lành, tôi liền đem việc chiêm bao không tốt lành này nói với em dâu Thủy Cẩm, cô ta dạy tôi quỳ trước Phật, nhứt tâm niệm Phật, khẩn cầu Phật Tổ phò hộ cho cả nhà bình an, gặp dữ hóa lành, nạn lớn biến thành nhỏ, nạn nhỏ biến thành không.

Bà lão nói tới đây thì dừng lại một chút rồi nói tiếp:

-Tôi có đứa con trai lớn tên Thành, làm công nhân đốt than trong vùng núi sâu ở miền Trung. Sáng hôm đó nó đang công tác nổi lửa đốt củi, thì bên tai bỗng nghe có người gọi: “Thành à! Về nào!”. Nó quay nhìn xung quanh, hoàn toàn không thấy ai, tại sao lại có tiếng kêu? Bèn chạy ra bên ngoài nhìn xem cũng chẳng thấy người nào gọi nó, nhưng khi nó vào trong nhà, thì bên tai lại nghe tiếng gọi: “Thành à! Về nào!”. Lúc đó Thành cảm thấy rất kinh ngạc, liền nghĩ đến bà mẹ già hơn bảy mươi tuổi ở nhà, có phải đã xảy ra chuyện gì ngoài ý muốn rồi không? Lập tức đến ông chủ xin nghỉ phép, kiên quyết sửa soạn hành trang về nhà thăm.

Khi Thành vai mang quần áo, mền bông rời khỏi nơi đốt than khoảng hơn một trăm bước, thì bỗng nhiên nghe “bình” một tiếng thật to, quay đầu nhìn lại xem thử, thì chính là cái gian nhà của mình ở vừa bị sập xuống, Thành lúc đó thở phào ra một hơi nhẹ nhõm, mừng rỡ đã thoát khỏi tai nạn bị đè chết, trong lòng rất là an ủi, sau đó vẫn cứ vai mang hành lý tiếp tục lên đường đi riết về nhà.

Suốt đường đi toàn là đường núi, Thành phải vượt qua mấy ngọn núi, rồi còn phải đi qua một cái khe núi lớn, cái khe núi này không có cầu, mà phải dùng một loại dây thừng to, cái giỏ tre để làm dụng cụ qua lại hai bờ, người ngồi trong cái giỏ tre, trên hai bờ đều có người kéo dây thừng qua lại cho khách. Thành cần qua khe núi này cũng không ngoại lệ, ngồi trong giỏ tre, mền bông và các thứ đồ v.v… đều để kế bên, đang lúc được kéo đến giữa khe thì bỗng nhiên dây thừng bị đứt, cả người và hành lý đều bị rớt xuống khe và bị nước cuốn đi, do vì khe rất sâu, nên nước trong khe chảy rất mạnh, người ở hai bên bờ đều đành bó tay, không có cách gì, chỉ có kêu lên “tội nghiệp” mà thôi!

Khi Thành rơi vào trong khe bị nước cuốn đi một đoạn, cũng tự lượng không sống được, nhưng kỳ tích lại phát sanh: Thành đang quẫy đạp trong nước, mạng sống như ngàn cân treo sợi tóc, bỗng ở trong khe phát hiện một đám cỏ nước, tức thời đưa tay nắm chặt đám cỏ nước đó, chuyển mình một cái liền đứng lại trong nước, sau đó bò dần lên trên bờ, còn tất cả những hành lý v.v… đã bị nước cuốn trôi mất, đơn độc một thân, rốt cuộc được bình an vô sự về đến nhà”.

Trên đây là câu chuyện không thể nghĩ bàn như thế, do bà lão đó kể lại. Nhờ mẹ già nhứt tâm niệm Phật mà cảm ứng được người con tiêu tai thoát nạn nguy hiểm hai lần.

Ngủ nghỉ được an ổn

Lưu Trọng Tuệ sống vào đời Tống, quê ở Trường Hưng, Hồ Châu. Ông bị bệnh, ban đêm ngủ thường thấy ác mộng. Có người chỉ cho ông niệm Phật, ông nghe theo, chí thành niệm Phật lớn tiếng 108 câu, rồi mới ngủ, suốt đêm ấy tinh thần được an ổn. Từ đó, ông niệm Phật mãi không ngớt.

Ghi chú

Người xưa dụ việc ngủ mê như là chết phân nửa, lời nói này thật là hay. Bởi vì điên đảo, mộng mị tựa như sự mê muội của sinh tử thì làm sao giấc ngủ an ổn được. Lúc sắp mạng chung, nếu mong được một chút tự do thì phải vâng theo lời đại sư Thiện Đạo dạy mọi người trước khi sắp ngủ phải niệm Phật!

******

Ngoài mười việc lợi ích vừa kể trên còn những lợi ích khác nữa, như niệm Phật sẽ có hiệu lực trừ được vọng tâm, hễ mỗi khi tâm mình khởi vọng tưởng bất lành thì nhớ niệm Phật ngay, tức khắc trừ được vọng tưởng ấy. Những vọng tưởng tà khúc được dứt sạch, thì tâm mình trở lại thanh tịnh, ngọn đèn trí huệ sáng lên, khiến cho sự thấy biết của mình không còn bị mê lầm sai suyển, khỏi phải đắm vào những tội lỗi nữa. Kế đó là khi hột giống niệm Phật của mình được muồi mẫn, chẳng những phần mình được siêu hóa về Tịnh độ, lại còn được cứu vớt tổ tiên cha mẹ bảy đời thoát khỏi cảnh đọa lạc hồng trần, được vãng sanh Cực Lạc như mình vậy.

Bởi niệm Phật có công đức, phước lợi vô lượng vô biên như thế, nên trong kinh có nói: “Sanh tử hải trung, niệm Phật đệ nhứt”: trong biển sanh tử chỉ có pháp niệm Phật là trên hết. Lại trong kinh còn nói: “Dư môn học đạo như nghị tử đăng ư cao sơn, niệm Phật vãng sanh như phong phàm du thuận thủy”: Hành trì các pháp môn tu khác, y như con kiến bò từ chơn núi lên đến chót, còn tu pháp môn niệm Phật cầu vãng sanh về Cực Lạc, chẳng khác nào thuyền đi nước xuôi, buồm gặp gió thuận, tất sẽ đi mau đến nơi đến chốn.

*Vào triều nhà Đường, có một Phật tử tên Trần Phòng Chữ. Ông rất thành kính phụng sự Tam Bảo, tu hành rất tinh tấn. Một hôm không hề bệnh hoạn gì bỗng nhiên bị bạo tử, xuống Minh phủ yết kiến Diêm Vương. Diêm Vương tiếp đãi rất sùng hậu. Ngài phán rằng: “Căn cứ trong bộ sổ ghi tội phước thì Trẫm thấy khanh có một việc công đức rất lớn, là khuyên một người cao niên niệm Phật. Người ấy đã vãng sanh Tây Phương Cực Lạc, khanh nương nhờ công đức ấy cũng chắc chắn được vãng sanh. Nên Trẫm mời khanh đến đây để được gặp nhau lần cuối cùng, và cũng có vài lời tán thán công đức vĩ đại ấy, vì khanh đã làm cho một người sẽ thành Phật, độ vô lượng hằng sa chúng sanh”.

Phòng Chữ sau khi nghe Diêm Vương ân cần tán dương công đức mình, anh nói một cách quả quyết rằng: “Kính tâu Diêm Chúa, con chân thành vạn tạ ơn Ngài đã chiếu cố gọi con đến đây, và có những lời dạy bảo quý hóa ấy. Con vô cùng cảm kích! Nhưng tâu Diêm Chúa, trước kia con có phát hai điều thiện nguyện: Một là trì tụng một vạn quyển Kinh Kim Cang, hai là đi Ngũ Đài Sơn chiêm bái Đức Đại Bi Quán Âm Đại Sĩ, vì vậy nên con chưa muốn vãng sanh Cực Lạc trong lúc này”.

“Khanh phát hai điều thiện nguyện ấy thì rất quý hóa! Nhưng khanh nên biết với hai thiện nguyện ấy hoàn toàn không bằng sớm được vãng sanh Tây Phương Cực Lạc. Vì được về cõi nước của Đức A Di Đà, chẳng những khỏi hẳn tất cả khổ thống trong sanh tử, mà sự tu hành đủ thắng duyên hơn ở cõi Ta Bà đến vạn ức lần. Hơn nữa, được diện kiến Đức Giáo Chủ cõi Cực Lạc, và hai Đại Thánh Quán Âm, Đại Thế Chí luôn hầu cạnh bên. Lúc bấy giờ khanh chẳng những được yết kiến lễ bái Phật A Di Đà mà lại được lễ bái Quán Âm, Đại Thế Chí lại được làm bạn với chư Thượng Thiện Nhân ở Lạc Bang. Nếu khanh ở lại cõi này đi chiêm bái, chẳng qua chỉ là Thánh tích của Quán Âm Đại Sĩ mà thôi. Những lời trên vừa tỏ bày và khuyến tấn đối với khanh đều là y theo Thánh giáo chứ không phải từ nơi ý kiến riêng của Trẫm, mong khanh nên nghĩ kỹ!”.

Diêm Vương đã cạn lời huấn dụ như vậy mà ông cũng không vâng theo, nên Ngài cũng tùy thuận mà bảo Ngục tốt dẫn trở về dương thế.

Vua Diêm Vương khuyên bà lão tuổi đã 70 niệm Phật.

Ở tại xã Châu Lâm, huyện Kim Đàn, xứ Trân Giang. Bà này chết xuống âm phủ, nhưng chưa hết số phải trở về lại nhân gian. Trước khi bái biệt Diêm Vương để trở về chỗ cũ, Diêm Vương khuyên bà lão: “Bà đã cao niên rồi, khi trở về dương thế lo tu phước đức sẽ được sanh đến cảnh giới an vui”.

Ngài lại hỏi: “Bà tụng Kinh được không?”

Bà đáp: “Thưa Đại Vương! Con không biết chữ, nên tụng không được”.

Diêm Vương bảo: “Không sao! Bà tụng Kinh không được, chỉ thành tâm niệm Phật A Di Đà cho nhiều, đến kỳ mãn số sẽ về Tây phương Cực Lạc, không còn trở lại chốn này”.
Sau khi bà lão sống lại, bà thường nói với những người quen biết rằng: “Tôi từ nào vô phước không ai chỉ dạy tu hành tụng Kinh niệm Phật. Hôm nay nhân chết xuống âm phủ, vua Diêm Vương dạy tôi niệm Phật, do đó tôi biết đạo Phật không gì hơn. Đức Diêm Vương mà còn khuyên tôi niệm Phật, thì đâu nghi ngờ gì nữa. Từ nay tôi nguyện gác bỏ tất cả mọi việc, đói no không quản đến, con cháu nó có thương cho bữa đói bữa no gì cũng được”.

Bà từ đấy chuyên tâm niệm Phật, lại sống đến 120 tuổi mới mãn phần. Khi bà sắp qua đời không bệnh khổ gì lắm, chỉ mệt không đi đứng được nhiều như ngày thường, rồi bà niệm Phật an tường mà vãng sanh.

*Đào Hoành Phong ở huyện Kim Lăng có vợ là Tống Thị. Bà thờ Quán Âm Bồ tát rất thành kính, hằng ngày đều trì tụng kinh chú rất chí thành.

Vào năm 81 tuổi, Hoành Phong bị bệnh nặng nên ông nói với bà vợ rằng: “Tôi nhớ trước kia có một thầy tướng số cho biết tuổi thọ của tôi ngang chừng đây. Hôm nay bệnh tôi trầm trọng thập tử nhất sinh như vầy thì lời ấy chắc đúng.”

Bà vừa nghe xong thì hai dòng lệ tuôn trào, khóc nức nở. Đêm ấy, bà đến trước Thánh tượng Đại Sĩ dâng hương lễ bái cúng dường cầu đảo, nguyện bớt tuổi thọ của mình để chồng được sống thêm, sau đó lại cắt thịt cánh tay, chưng làm thuốc để dâng cho chồng. Ông dùng thuốc ấy qua ngày sau thì bệnh hoàn toàn thuyên giảm. Bà vô cùng cảm động đức từ bi của Bồ Tát minh gia nên từ đó bà phát nguyện trì trai và sự tu hành ngày càng chí thành. Ông sống thêm 12 năm thì tạ thế.

Sau khi ông qua đời, trong tất cả các thời niệm Phật tụng kinh, bà luôn cảm thấy như có thần minh tả hữu. Sớm mai thức dậy, dù bận rộn thế nào bà cũng đều trì 108 biến chú, không hề biếng nhác.

Đến năm 70 tuổi, gặp nhằm lúc tại Giang Nam, bệnh dịch lan tràn, bà cũng bị nhiễm bệnh rất nguy kịch. Trong lúc bệnh nặng đang hôn mê thì bà mộng thấy mình đi từ nhà ra cửa gặp một người áo mão chỉnh tề bảo rằng: “Trong thời gian này, ngươi không nên ở nơi đây, Ta sẽ dắt đến Đại Sĩ cầu Ngài cứu hộ.” Dứt lời thì người ấy dẫn bà đến một cung điện nguy nga. Khi mới đến, bà không thấy Bồ Tát, chỉ thấy có hai vị phục sức áo mão như thời xưa ngồi ở trên.

Bà phủ phục trước bàn án hơn một giờ thì vị ngồi phía tả nói: “Người đàn bà này trong thời gian này không nên ở nơi ấy.”

Vị phía hữu gật đầu, lập tức bảo người dẫn bà ra. Người dẫn đường nói: “Bà đã khỏi bệnh rồi, tôi xin đưa bà trở lại dương thế”.

Khi bà vào cửa thì bị té, liền giật mình tỉnh lại, toàn thân toát mồ hôi như tắm, bệnh liền lành.

Đến năm 80 tuổi, bà bị bệnh đau xương cổ, sức già yếu, suốt ngày đầu cúi xuống đất thì vô cùng đau nhức. Bà thường nói với mọi người: “Xương cổ tôi thế này, theo thế tục thì triệu chứng này là tôi sắp chết rồi.”

Vào một đêm, bà nhìn thấy có một bà già dắt một đồng tử bước vào nhà và mang theo một chén nước trà trao cho bà rồi nói rằng: “Tôi vâng lệnh Quán Âm Bồ Tát đến đây để chữa cho xương cổ của bà được thẳng. Bà chỉ cần uống chén nước trà này sẽ lành.”

Bà kính cẩn nhận chén nước trà, khi nhìn vào trong ấy thì thấy có những lá xanh nho nhỏ nổi lên giống như lá hoắc hương. Khi bà uống thì cảm nhận được mùi thơm, vị ngon ngọt. Uống xong chén trà thì không còn cảm thấy đau nhức nữa, khi dùng gương soi thì thấy xương cổ đã ngay. Lúc ấy bà giật mình tỉnh giấc thì thấy quả nhiên xương cổ đã thẳng lại, chứng đau cổ cũng hết hẳn.

Bà sống đến 85 tuổi, đến giờ phút cuối cùng thì thân không bệnh khổ, bà gọi đứa con là Tầm Sơn đến dạy bảo:

– Hôm nay Mẹ về Tây Phương, con ở lại, đối với Tam Bảo phải có tâm thâm tín, xa lìa các điều ác, cố gắng tu tập pháp lành, hàng ngày theo gương của mẹ nên tinh tấn trì chú niệm Phật!

Dứt lời thì bà an nhiên niệm Phật mà vãng sanh, lúc ấy hương thơm bay khắp nhà. Tầm Sơn vâng theo lời mẹ, hàng ngày chiêm bái cúng dường Đại Sĩ và trì chú niệm Phật không hề giải đãi.

*Triều nhà Thanh, vào niên hiệu Khang Hy, năm thứ 33, lúc tháng giêng, có một người họ Lý ở xã An Đông, huyện An Tước, bỗng nhiên mắc bệnh điên, luôn nói mê sảng. Tất cả việc mình làm lúc bình sanh đều nói ra, có khi tự mình nói, có khi thần nhân nói.

Trên giữa không trung người ta nghe có tiếng nói rất rõ, mọi người hỏi thì Lý đáp: “Đó là người xem sổ bộ án.” Trong sổ bộ ấy thuật lại một việc là con gái họ Vương được gả cho một người nhưng vì thấy hai vợ chồng bất hòa nên họ Lý xúi giục ly dị để giới thiệu gả cho người ở Tây Hoa. Người con gái họ Vương nghe tin ấy liền bỏ nhà trốn đi, nhưng sợ người hàng xóm biết nên cô cải trang xen lẫn trong nam tử, đi lang thang không nơi nương tựa, phần thì buồn rầu lo sợ không yên nên sanh bệnh, trải qua chín ngày thì lìa đời.

Đọc sổ bộ án xong thì nghe có tiếng người hỏi:

– Họ Lý có việc lành gì đáng ghi không?

Tiếng ở không trung đáp lại:

– Ngày ấy, tháng ấy, năm ấy nó có tu bổ điện thờ Đức Quán Âm Đại Sĩ.

Lại nghe tiếng Minh Quan nói:

– Tội nhân này đáng lẽ bị trời tru lục, nhưng do chút phước lành ấy nên cho nó hồi dương và bảo phải đem việc Minh phủ tuyên truyền cho người thế gian biết.

Sau khi họ Lý tỉnh lại, thì đi khắp mọi nơi kể lại rằng: “Dưới Minh phủ không giống dương gian, mọi việc có không được thẩm xét rõ ràng không sai một mảy may, nên người đã tạo tội không cách gì lẩn trốn.” Rồi cật lực tuyên truyền khắp trong thế nhân, khuyên người cố gắng bỏ dữ làm lành, dù chỉ là một ác niệm cũng không nên móng khởi vì chư Thần mỗi mỗi đều thấy rõ và ghi chép lại.

Từ đây, họ Lý hoàn toàn tỉnh ngộ, quày đầu, phát tâm tín kính Tam Bảo, ăn chay, siêng năng lễ sám, tụng kinh, niệm Phật cho đến lúc tuổi già vẫn khỏe mạnh.
Đến ngày cuối đời, không bệnh khổ, an nhiên niệm Phật mà vãng sanh.

Châu Thị

Nhà lan thanh vắng, giậu cúc lơ thơ, trời thu phân cảnh vật tiêu sơ, người liên nữ bền lòng tín nguyện! Đó là gia cảnh của Châu thị, và bà đang theo thời khóa thành tâm niệm Phật.

Từ trẻ bà đã biết thờ kính Quán Thế Âm đại sĩ, tin sâu nhân quả, từ hòa hiếu thuận và ưa thích điều lành. Đến sáu mươi tám tuổi, Châu thị mới được nghe biết sự lợi ích của pháp môn Tịnh Độ, liền trường trai niệm Phật ra tiếng một muôn câu, ngoài số ấy đều tùy thời tùy cảnh niệm thầm. Công phu hành trì như thế đã trải hơn mười năm. Mấy năm sau cùng vì tránh sự phiền nhiễu, Châu thị thường tĩnh tọa nơi gian nhà riêng, sự tu trì càng thêm mật thiết. Có đôi lúc bà ngồi yên nhắm mắt hướng về Tây, luôn hai ba ngày không ăn uống nơi cổ tay mạch không còn nhảy; duy có nét mặt sáng tươi, toàn thân nóng ấm. Sau khi ấy, người nhà hỏi về tình trạng lúc đương thời, bà đáp: “Ta thấy mình ngồi niệm Phật trên tòa sen to đẹp, quên hẳn thời khắc, lòng rất sáng nhẹ an vui!”.

Đến năm 1931, vào khoảng tháng sáu, Châu thị bỗng cảm bịnh. Đứa con trai suất lãnh người nhà luân phiên trợ niệm. Vài hôm trước khi mãn phần, bà nói với gia thuộc rằng: “Ta còn lưu trụ hai ngày nữa, các con nên tạm nghỉ ngơi. Hãy chuẩn bị nấu nước thơm cho ta tắm gội, và y phục giày dép đều phải đổi thứ mới sạch!”.

Hai hôm sau, vào giờ Tỵ, bà ngồi ngay thẳng hướng về Tây, nhắm mắt không nói năng chi cả. Con trai thấy thế, lại gọi người nhà vây quanh, đồng cao tiếng niệm Phật. Độ vài mươi phút kế đó, Châu thị ngồi yên ổn mà tắt hơi gương mặt lộ nét tươi vui hòa nhã. Hơn hai giờ sau, đảnh đầu của bà hãy còn nóng.

Có điều đáng kỳ diệu là đang lúc làm lễ nhập liệm, đứa cháu nội gái của bà, vì quá thương khóc nên ngã xuống hôn mê. Mẹ đứa bé này tức là dâu của Châu thị, cũng đã niệm Phật vãng sanh từ mấy năm về trước. Khi được người nhà vực tỉnh dậy, bé gái nói: “Con thấy từ phương Tây phóng tới ánh sáng to rộng rực rỡ. Đức Quán Thế Âm thân tướng nghiêm đẹp, tay cầm cành dương liễu, theo sau có vô số Bồ Tát nương giữa hư không bay đến. Trong giây phút mẹ cùng bà nội thân tướng cao lớn tươi tốt hơn lúc bình thường, theo sau chư Bồ Tát bay về phương Tây. Ngoài ra lại còn có vô số hoa lạ, tràng phan bảo cái hiện giữa hư không, tất cả cảnh vật đều trang nghiêm rực rỡ khác thường. Trông thấy cảnh ấy lòng con chợt an vui, quên hẳn sự xót xa thương khóc. Bây giờ con không còn lo buồn nữa, vì biết rõ mẹ và bà nội đã về cảnh Phật!”.

*Triều nhà Thanh có bà lão họ Nghê, pháp danh là Hiếu Chơn là người ăn chay niệm Phật đã nhiều năm. Nhà của bà nghèo, chật hẹp nên không có nơi thờ Phật nhưng ở một nhà trong thôn có thờ Thánh tượng Quán Âm nên mai chiều bà đều đến nơi ấy, xin cho được đảnh lễ Bồ tát và chí thành xưng niệm Thánh hiệu Bồ Tát.

Thời gian sau, bà thường mộng thấy Thánh tượng Bồ tát mà mình chiêm bái lễ tụng hàng ngày.

Đến lúc già, bà bị bệnh nhẹ rồi gọi đứa con trai đến nói rằng: “Mẹ thấy Bồ Tát đến gọi mẹ, bảo đi, vậy là thời điểm vãng sanh của mẹ đã đến. Con ở lại mạnh khỏe, cố gắng làm lành, siêng năng tu hành, chí thành niệm Phật.”

Đứa con thưa: “Thưa mẹ! Nếu Bồ tát đã giáng lâm, con xin đi chợ mua ít trái cây để cúng dường Ngài và mẹ.”

Bà liền nói: “Con có ý ấy cũng tốt nhưng mẹ sợ là không kịp.”

Đứa con nói xong, liền vội vã chạy đi mua trái cây nhưng khi về đến nơi thì bà đã vãng sanh trong tư thế ngồi kiết già.

Ni sư Linh Tông ở Tư Châu

Ni sư Linh Tông họ Mãn, người làng Kim, xứ Cao Hồ. Thuở nhỏ, cô có lòng tin trong sạch, nên được xóm làng khen ngợi. Gặp thời loạn lạc, gia đình ly tán, nên cô bị giặc bắt, nhưng vẫn chí thành tha thiết niệm Phật, Pháp, Tăng và tụng phẩm Phổ Môn. Một hôm, cô nhổ hết lông mày, dối nói là bị bệnh hủi và khẩn khoản xin được thả về.

Men theo con đường đi về phía nam để đến Ký Châu, cô lại bị bọn giặc đuổi theo. Lập tức, cô leo lên cây, chí thành niệm Phật. Bọn giặc chỉ ngó phía trước mà không nhìn lên trên, lục lạo tìm kiếm một hồi không được, chúng đành bỏ đi. Cô trèo xuống và đi tiếp, không dám xin ăn mà vẫn không hề thấy đói. Chiều tối thì đến sông Mạnh Tân nhưng không có thuyền để qua sông, cô lo sợ thấp thỏm nên khẩn thiết chí thành niệm Phật.

Trong chốc lát, bỗng cô nhìn thấy có một con nai trắng không biết từ đâu xuất hiện, chậm rãi bơi đến bờ sông. Nhìn thấy nai hiền bơi đến chỗ mình, cô mừng rỡ leo lên lưng nó, và cúi đầu mọp sát lưng nai thì nai liền chở qua sông. Đến bờ bên kia, cô leo xuống thì toàn thân không hề bị ướt và trở về nhà an ổn vô sự.

Ngay đó, cô xuất gia học đạo, nghiên cứu Phật pháp, tinh tiến tu hành, thông suốt giáo nghĩa và lĩnh hội được yếu chỉ.

Nghe tin này, Hiếu Vũ đế đời Tấn sai người mang thư đến hỏi thăm. Về sau, nhân dân trong nước bị bệnh dịch, nhiều người đói khát, khốn khổ. Ni sư dốc hết tiền của để ban phát cho tất cả những người đến xin. Không ngại xa xôi, gian khó, hễ ai đến xin, ni sư đều cung cấp đầy đủ theo nhu cầu của họ. Số người đến nương nhờ ngày càng đông làm cho ni sư phải chịu đói, vất vả, hình hài tiều tụy.

Năm bảy mươi lăm tuổi, vào một sáng nọ, ni sư gọi các đệ tử vào và kể lại giấc mộng hồi hôm. Ni sư nói:

– Tối qua, thầy mộng thấy một ngọn núi lớn tên là Tu-di, cao lớn sừng sững chọc trời, được trang trí bằng nhiều vật báu, chiếu sáng rực rỡ như ánh mặt trời. Lại có tiếng trống pháp vang rền, khói hương phảng phất, có tiếng nói văng vẳng bên tai khiến thầy ngạc nhiên, thức dậy. Ngay lúc đó, trong người thầy bỗng cảm thấy khác thường, tuy không đau đớn mà như bị hơi choáng váng mặt mày một chút.

Nghe vậy, sư cô Đạo Tân nói:

– Đó chính là cõi Cực Lạc!

Trò chuyện chưa xong, ni sư bỗng nhiên an tường vãng sanh.

Nhờ trì kinh Kim Cang giải được oán kết cho cha

Xứ Giang Lăng có nàng họ Lý, con ông Lý Ngươn Tôn, mới lên tám tuổi mẹ đã lìa trần. Nhờ thân phụ giáo dưỡng nghiêm minh, nên nàng luôn ôn hòa nhu nhuận. Tuổi còn nhỏ 13 tuổi mà đã biết hiếu thảo với cha, biết kính trên nhường dưới, ai ai cũng hết lời khen ngợi.

Một đêm nọ, nàng bỗng nằm mộng thấy một vị Phạm Tăng nói với nàng rằng: “Con có căn lành, sao chẳng ra công mà tụng kinh Kim Cang. Phàm người trong đời, nếu mỗi ngày trì tụng được một quyển kinh Kim Cang, lúc ở dương gian đã không bệnh hoạn lại thêm tuổi sống lâu, đến lúc lâm chung được sanh về cõi an lành. Còn nếu thể hội được lý “Thật Tướng Bát Nhã”, thì sẽ chứng đắc Niết Bàn. Hay như tụng kinh ấy mà chưa rõ biết ý nghĩa đi nữa, thì cũng có thể thoát tai ách, đến lúc mạng chung được hưởng thiện báo”.

Từ đó, nàng càng đem lòng tín ngưỡng Phật pháp, mỗi đêm đều tụng ba quyển kinh Kim cang, chẳng khi nào xao lãng.

Đến năm 24 tuổi, nàng đã tỏ lẽ chân thường, chán duyên trần thế nên chẳng để ý đến mọi điều gia thất. Một bữa nọ, đột nhiên bị cảm thương hàn mà ngưng thở, hồn lạc cõi u minh. Diêm Vương thấy nàng thì phán rằng: “Vì ngươi bình sanh có công đức Bát Nhã nên ta tha về. Còn phụ thân ngươi ở dương thế thường tạo ác nghiệp nên phải giảm thọ hết hai kỷ (tức 24 năm), vì cha ngươi ưa bắt cá sống giết làm gỏi nên đã có hơn 7 ngàn thủy tộc đến đây kêu oan đòi mạng. Vậy ngươi về hỏi lại thân phụ ngươi coi có phải mỗi đêm đều nằm chiêm bao thấy sa vào lưới, còn ban ngày ưa bị nhức đầu. Đó là sự oan báo bắt cá làm gỏi”.

Người nhà đang sắm sửa tẩn liệm thì nàng đột nhiên tỉnh lại, ít ngày nàng bình phục, khi ấy nàng mới thuật lại chuyện cho cha rõ. Ông Lý Ngươn Tôn nghe con nói đúng sự thật thì thất kinh, lật đật sắm đồ trai lễ đến chùa Thiên Minh thỉnh một trăm vị Tăng lập đàn cầu siêu cho những chúng sanh thủy tộc đã bị ông giết hại. Từ ấy, ông dứt hẳn rượu thịt, và còn tự chép 49 quyển kinh Kim Cang để cúng dường cho người trì tụng.

Một đêm, ông nằm mộng thấy rất nhiều thanh y đồng tử, vui mừng đến bái tạ ông rằng: “Chúng tôi chịu hàm oan đã lâu, nay cũng nhờ công đức chép kinh Kim Cang của ông mà được lìa đường khổ thú, sanh về cõi trời. Chính ông cũng giải kết được oan vong mà hưởng thọ lâu dài”.
Tỉnh dậy, ông Lý tự quyết không đổi dời tín tâm, cứ chăm lòng niệm Phật và tụng kinh Kim Cang, sớm hôm công phu không xao lãng, đến 120 tuổi chẳng bệnh tật chi vào ngày rằm tháng giêng, ông tắm gội sạch sẽ xong ngồi niệm Phật mà tịch.

Còn Lý thị, sau khi cha vãng sanh, nàng cất một cái am tại triền núi Tung Sơn, sớm khuya tụng niệm, dưa muối trai lòng, “Chỉ quán song tu” cho thấu đáo lẽ chân thường và cầu được quả vô vi tịch diệt “Niết Bàn”. Đến năm 80 tuổi, Lý thị ngồi kiết già niệm Phật mà vãng sanh.

*Lí Bỉnh

Cư sĩ Lí Bỉnh, thời nhà Tống, làm Trung quan ở Thiệu Hưng, quản lý Viện Ngự Dược.

Lúc đầu, ông học thiền với ngài Tịnh Từ Huy, có chút tỉnh ngộ. Khi tuổi già, tình cờ ông đọc được bộ Long Thư Tịnh Độ Văn, từ đó phát tâm mỗi ngày niệm danh hiệu Phật A Di Đà. Ông cùng các vị như: Trường Nguyên, Mỹ Điện Trường, Lâm Sư Văn v.v… khoảng vài chục người lập hội tu Tịnh Độ tại chùa Truyền Pháp.

Bỗng một hôm ông bệnh, nằm mộng thấy Đức Phật A Di Đà đem vòng hào quang màu vàng ròng đội lên đầu ông. Bảy ngày sau, ông lại thấy hoa vàng khắp phòng. Rồi ông dặn dò, từ biệt người thân và ngồi ngay thẳng kiết ấn mà qua đời.

* Quận thú Tiền Tượng Tổ

Tiền Tượng Tổ, người thời nhà Tống, lúc trấn giữ ở Kim Lăng, lấy việc tu Tịnh Độ làm tâm niệm. Ở quê nhà, ông từng xây dựng mười nơi tiếp đãi khách đều đặt tên Tịnh Độ Cực Lạc, đồng thời xây liêu phòng Chỉ Am Cao Tăng để mời các vị tăng đến đàm đạo.

Từ khi từ bãi chức Tả thừa tướng trở về, ông siêng năng tu tịnh nghiệp.

Đến tháng 2 niên hiệu Gia Định thứ tư, ông bị bệnh nhẹ, có viết bài kệ:

Hoa sen thơm từ cõi Phật đến,
Trên đất lưu ly màu trong suốt.
Tâm ta thanh tịnh hơn như thế,
Hôm nay xa thấy hoa sen nở.

Ba ngày sau, có vị tăng đến thăm bệnh, ông nói: “Tôi không tham sống, không sợ chết, không sinh lên trời, không sinh làm người, chỉ cầu sinh về Tịnh Độ”.
Nói xong, ông ngồi kiết già mà qua đời. Sau đó, có người nằm mộng nghe trên không trung có tiếng nói rằng: “Tiền thừa tướng đã vãng sinh Tây Phương. Trong hoa sen với danh hiệu là Bồ Tát Từ Tế.”

* Trịnh Mục Khanh

Trịnh Mục Khanh người ở Vinh Dương, cả nhà đều tu niệm Phật. Khoảng niên hiệu Khai Nguyên, thời nhà Đường, ông bị bệnh nặng, có người khuyên nên ăn cá thịt cho mau khỏe, nhưng ông kiên quyết từ chối.

Biết mình không sống nữa, ông đốt hương cầu vãng sinh thì bỗng có hương thơm lạ xông lên ngào ngạt, ông an nhiên qua đời.

Cậu ông là thượng thư Tô Đĩnh nằm mộng thấy trong ao báu có hoa sen nở và thấy Trịnh Mục Khanh ngồi trên đó.

* Đời Tống, Phạm Nghiễm

Ông là người cư ngụ tại Nhân Hòa, không màng đến việc thế gian. Con của ông không gánh vác nổi chuyện gia đình, nhưng ông vẫn không quan tâm đến mà chỉ nói: “Từ nay ta chỉ là khách trong gia đình này mà thôi!”

Hằng ngày, ông tụng kinh Pháp Hoa, niệm Phật A Di Đà không chút xao lãng. Bỗng một hôm, ông nằm mộng thấy Bồ Tát Phổ Hiền cỡi voi trắng sáu ngà phóng ánh sáng màu vàng đến và bảo ông rằng: “Sáng mai vào giờ Mão, ông sẽ mạng chung!”

Sáng hôm sau, Phật và Bồ Tát đến rước, ông ngồi ngay thẳng chắp tay qua đời.

Người xưa chân thật phát nguyện cầu sanh Tây Phương khẩn thiết nên việc gì cũng có thể buông bỏ, buông một cách trụi lũi. Than ôi! Người đời nay ham thích ôm đồm, thích quản lý, thích khống chế kẻ khác, đến đổi khả năng gánh vác gia nghiệp của con cháu khéo giỏi hơn mình nữa… vậy mà cũng chưa chịu giao phó. Thật đáng xót thương!!!

* Đời Tống, Kế Công

Ông là một thợ rèn ở Đào Nguyên, thuộc Tứ Minh. Năm bảy mươi tuổi thì hai mắt ông bị mù. Bấy giờ, trong làng có ông Học dụ Quỷ Định Quốc ấn thí những bản “Niệm Phật đồ” để khuyên người niệm Phật.

Lúc đầu, Kế Công nhận được một bản, ông niệm ba trăm sáu chục ngàn câu. Khi niệm đến tấm thứ tư thì hai mắt sáng tỏ trở lại. Từ đó niềm tin của ông vào công đức của câu Phật hiệu vô cùng kiên định!

Ông niệm suốt ba năm được mười bảy bản. Một hôm, ông đang niệm Phật thì đột ngột qua đời. Trải qua nửa ngày, ông sống lại và nói: “Đức Phật dạy chia sáu bản cho Học dụ Quỷ Định Quốc là người đầu tiên khuyến đạo. Một tấm biếu cho ông Lý Nhị là người in ấn”. Ông dặn con thay mình đến cám ơn họ. Nói xong, ông tắm rửa, thay y phục xoay mặt về hướng tây mà qua đời.

* Liên Hoa Thái Công

Ông sống vào đời Minh, người đất Việt, suốt đời sống chơn chất, mộc mạc, ngày đêm kiên trì niệm Phật hiệu không ngừng.

Sau khi ông mất, trên nắp quan tài bỗng hóa sinh một cành hoa sen. Thân quyến cùng dân làng đều hết sức kinh ngạc xưng tán, do đó biết chắc rằng ông đã được vãng sinh.

*Vào đời Tống, sư Tư Chiếu hằng ngày tụng kinh Pháp Hoa, kiêm trì danh hiệu Phật. Một hôm, bảo đệ tử: “Hồi đêm thầy thấy Phật, Bồ Tát cùng đến tiếp dẫn”.

Có một vị đệ tử hỏi: “Thưa Thầy! Sợ là ma thử thì làm sao?”
Ngài bèn đáp: “Sau này hãy nhìn vào ngực ta để xét nghiệm!”.

Sau khi thiêu hóa, trên ngực sư có nét vằn đỏ tươi như hoa sen.

*Vào đời Thanh, con gái nhà họ Vương là người xứ Thường Thục, chuyên trì chú Bạch Y và niệm thánh hiệu Quán Âm. Cô ta mắc bệnh lao. Hôm nọ, cô thưa với mẹ: “Đáng lẽ ra, giữa tháng tám con sẽ qua đời. Do con bệnh khổ, cầu Bồ Tát, Ngài đã hứa đến đón con trước một tháng”. Bà mẹ không tin.

Đến rằm tháng bảy là tới kỳ hạn, cô bảo: “Bồ Tát đến rồi!”

Bà mẹ nghi là yêu quái, vung dao dọa. Cô đoạt dao, bảo: “Ôi chao! Bồ Tát đấy mà, hãy mau lễ bái để khỏi bị mắc tội!”.

Bà mẹ lễ xuống, vừa đứng lên thì con gái đã qua đời.

Chủ nhân vẽ hình lễ bái

Đời nhà Thanh, vào niên hiệu Thuận Trị năm thứ nhất, vùng An Huy, huyện Thanh Dương, nhà Ngô Lục Phòng có người giúp tên là Ngô Mao. Ngô Mao nguyên là đứa ở cùng họ Ngô với người chủ, nên được mọi người xung quanh gọi là ông Tiểu Ngô.

Bình thời, Tiểu Ngô giữ Năm giới, ăn chay trường niệm Phật làm lành, và rất trung thành với chủ. Lúc làm công việc miệng cũng lăm răm niệm Phật không dứt.

Khi binh của Tả Lương Ngọc qua sông Trường Giang đến Thanh Dương, cả nhà Ngô Lục Phòng đều bỏ trốn đi lánh nạn, chỉ để một mình Tiểu Ngô ở lại thay chủ giữ nhà,. Binh giặc đến nơi cướp bóc lục soát, bắt Tiểu Ngô tra hỏi, rồi đâm bảy nhát thương, Tiểu Ngô lăn ra chết.

Lúc giặc kéo đi hết chủ nhà trở về, thấy Tiểu Ngô bị đâm chết, cho mời người anh lại để làm bằng chứng.

Khi người anh đến, Ngô Mao bỗng chợt tỉnh lại nói với anh rằng: “Em vì ác nghiệp đời trước, đáng lẽ phải chuyển kiếp làm heo bảy lần. Nhưng nhờ đời này biết trai giới niệm Phật, nên chỉ chịu bảy thương để trả xong bảy kiếp làm heo. Hiện thời. Phật A Di Đà đang đứng chờ ở giữa hư không để tiếp dẫn em về thế giới Tây Phương Cực Lạc”

Nói xong, chắp tay nhắm mắt mà vãng sanh.

Về sau, người chủ là Ngô Lục Phòng có lần hốt nhiên nhìn thấy Ngô Mao trên đường thẳng đến, phía trước sau đều có cờ xí trang nghiêm che rợp. Ngô Mao đến trước Ngô Lục Phòng thi lễ rồi nói rằng: “Tôi là Ngô Mao, nhân có việc phải đến cõi trời, tình cờ ngang qua đây”. Nói xong thì biến mất.

Ngô Lục Phòng liền cho người vẽ lại hình tượng Ngô Mao, mỗi ngày đều cung kính lễ bái.

Lời bàn:

Chịu 7 nhát dao đâm thay đổi được 7 kiếp làm thân lợn, đó gọi là nghiệp báo nặng mà thọ báo nhẹ, dứt được tội đời trước. Nhờ công đức niệm Phật mà được vãng sinh, đó gọi là chuyển đổi thân phàm phu nhập vào dòng thánh, do nền tảng tu tập chân chánh mà được hưởng quả siêu việt.

Cứ theo việc của Ngô Mao, kẻ không biết cho là tu hành mang họa. Nhưng chỉ chịu bảy vết thương trả xong bảy kiếp làm heo, để rồi được sanh về Cực Lạc; nếu so lại thì việc tu hành đâu phải luống uổng, và công đức niệm Phật chính thật không thể nghĩ bàn! Nhưng tu hành không phải mỗi người đều bị chuyển báo, nếu kẻ có căn lành từ kiếp trước thì càng tu càng được an vui. Hành giả đừng in trí theo một phương diện trên mà sanh lòng e ngại.

*Thang Sính ở sông Lật Thủy, khi còn là thư sinh thì sống trong gia đình rất nghèo nàn thiếu trước hụt sau nhưng đối với mẫu thân thì chí hiếu không ai sánh bằng.

Một ngày nọ ông bị bệnh chết, sau đó thấy vài quỉ tốt đến ông bắt đi. Trên đường đi bỗng gặp Quán Âm Đại Sĩ, ông vui mừng khôn xiết bèn chạy đến bạch với Đại Sĩ, trình bày hoàn cảnh mẹ già đơn chiếc không ai phụng dưỡng, và tỏ bày việc mong muốn được sống lại để làm tròn bổn phận hiếu đạo.

Đại Sĩ bèn nói với hai quỉ tốt: “Người này là một người con chí hiếu, các ngươi không được tự do bắt. Hơn nữa trước đây người này có một lần đi thuyền đến Nhu Cao thì trên thuyền có một thiếu nữ tuyệt đẹp, nhưng tâm tính thích gần đàn ông nên ra vẻ cười cợt, và cố tâm lại gần quyến rũ người này trên thuyền. Nhưng người này đã nghiêm sắc mặt quở trách. Các ngươi phải biết chỉ một việc ấy thôi đã là một tiền trình để đạt được những điều lớn, nên mau mau hoàn hồn người này về dương thế!”

Quỉ tốt bèn thưa: “Kính bạch Đại Sĩ! Y ta chết đã nhiều ngày, tử thi đã phân rã, bây giờ mà hồi dương thì làm sao được nữa?”

Đại Sĩ lập tức bảo Thiện Tài Đồng Tử đi đến Tây Thiên lấy bùn Mâu Ni đem về. Nhìn thấy vậy, hai quỉ tốt nói với ông rằng: “Vì Bồ Tát thấy ông gặp sắc mà không động tâm nên Ngài đến đây để cứu độ ông, vậy ông nên từ đây phát tâm thâm tín Phật pháp, siêng làm thiện sự. Ông nên biết nhân tâm ngày nay hiểm độc quá nhiều, quỉ thần dò xét rất nghiêm, mỗi mỗi đều ghi vào sổ bộ.

Thế nhân ít có người hồi tâm hướng thiện, ai ai cũng đều chạy theo phú quí công danh, nhưng ông phải biết con người mới sanh ra mọi việc đều đã sẵn định số, những sổ bộ ghi chép các điều thiện ác của chư Thần nếu mau thì chỉ trong một tháng đã thọ báo, khỏi cần đợi đến kiếp sau mới có báo ứng.”

Khi Thiện Tài đồng tử đi đến Tây Thiên đem bùn Mâu Ni về, màu sắc bùn ấy như màu gỗ chiên đàn, mùi hương thơm ngào ngạt. Bồ Tát bảo Thiện Tài cùng ông về nhà thì quả nhiên tử thi đã mục rã. Lúc ấy ông nhìn thấy mẹ già bên cạnh, mắt đang đầm đìa tuôn lệ khóc than thảm thiết, vì gia cảnh quá ư khốn đốn nên ông chết đã bảy ngày nhưng không biết lấy gì để tẩn liệm.

Thiện Tài đồng tử liền đến bên cạnh tử thi, dùng bùn Mâu Ni trét vào ba lớp, mùi hôi thối chẳng mấy chốc dần dần bay mất, tử thi bắt đầu có sanh khí như người sống. Thiện Tài đồng tử bèn bảo ông, đi từ nơi miệng mà vào, tức thì tử thi bỗng sống lại, cựa động tay chân. Mẫu thân của ông thấy xác chết đột nhiên nhúc nhích di chuyển thì kinh hồn khiếp vía, la hét như người cuồng.

Láng giềng nghe tiếng kêu la thất thanh nên vội vàng chạy đến thì thấy ông đã ngồi dậy, quì gối bên mẹ mà thưa: “Con được sống lại. Xin mẹ đừng sợ!”

Nói xong thì thuật lại duyên cớ cầu xin Bồ Tát gia hộ, cho sống lại để báo đáp thâm ân của mẹ già và nhờ Quán Âm Bồ Tát cứu độ mà được hồi sanh. Ông còn thuật lại những lời Đại Sĩ dạy bảo phải trì các giới, không tham lam, không dâm dật, không sát hại sanh mạng, không ăn mặn, không uống rượu và bảo rằng tương lai sẽ có công danh.

Ông sau khi sống lại thì vâng theo lời dạy của Bồ Tát nghiêm ngặt gìn giữ các giới và thực hành các thiện sự.

Về sau quả nhiên vào niên hiệu Thuận Trị nhà Thanh, năm Mậu Ngũ, ông thi đậu Tiến Sĩ nhưng với sắc tài, danh lợi ông xem như nước lã, không hề quan tâm. Mẹ con vẫn ở trong túp lều tranh, tùy duyên làm mướn để nuôi mẹ qua ngày, suốt đời trường chay lễ Phật niệm Phật rất tinh tấn chuyên cần.

Đến lúc mẹ ông mãn phần thì có vị quan ở tỉnh đem chuyện hiếu hạnh của ông tâu lên triều đình, nhà vua nghe xong thì hết lòng khen ngợi và hạ lệnh cho ông đến Chơn Đình làm tri huyện. Ông không dám trái mệnh nên bất đắc dĩ phải vâng lời đi nhậm chức, ngày thì lo việc quan đến chiều tối thì tụng kinh lễ Phật, sống độc thân đến lúc tuổi già.

Ngày cuối đời, ông vẫn ở nơi huyện đường, an nhiên niệm Phật mà vãng sanh

Người ăn mày biết học cách tạo mạng

Có một gã ăn mày tên là Kỷ Đại Phúc thường lui tới chòi rơm lễ bái Hòa thượng Tuyên Hóa. Hôm nọ, ông thỉnh vấn Hòa thượng:

– Thưa Hòa thượng! Tại sao đời này con lại bần cùng như vậy?

Ngài giải thích đạo lý nhân quả ba đời, và dạy:

…Do nhân gì mà đời này ông chịu cảnh nghèo hèn? Là bởi đời trước keo kiệt, không muốn cứu tế người nghèo.

Kỷ Đại Phúc nói:

– Con thường tự nghĩ, đời này con đã không làm chuyện gì thiếu lương tâm, mà giờ đây chịu cảnh cùng khốn…, vậy chắc là do đời trước con đã keo kiệt, bủn xỉn, không biết bố thí. Ngài có biện pháp nào cứu vãn cho đời sau này của con hay không?.

Hòa thượng đáp:

– Bậc quân tử học cách tạo mạng, chỉ cần ông bắt đầu từ đây, nỗ lực làm việc thiện, quảng tích âm đức, tức ông có thể tự tạo cho mình một vận mạng mới, vậy có phúc nào mà cầu không được?

Rồi Hòa thượng đem pháp môn Tịnh Độ niệm Phật cầu vãng sanh sơ lược giới thiệu cho ông. Ông nghe xong rất đỗi vui mừng, phát nguyện… thỉnh cầu quy y Tam Bảo.

Từ đó về sau, lúc đi ăn xin, miệng ông niệm “Nam Mô A Di Đà Phật” không gián đoạn. Khi xin được tiền, gạo ông đem đến trại tế bần để giúp người. Qua nhiều năm tháng tinh tấn, vào mùa đông năm Dân Quốc thứ 29 (1940), ông biết trước ngày giờ vãng sinh, an tường qua đời trong tiếng niệm Phật.

Như vậy, ông đã thay đổi tận gốc rễ số mạng (cho dù kiếp sau có được làm vua hay thành tiên cũng không thể sánh với cõi Cực Lạc được).

*Khuyên cha mẹ tu pháp môn Niệm Phật để vãng sanh Tịnh Ðộ là đại hiếu nhất trong những sự Đại Hiếu

Cư sĩ Lưu Lý Cúc thời Dân Quốc là người ở thành phố Ðài Trung. Từ bé đã thông minh, dĩnh ngộ, khéo hiểu ý người khác. Ðến lớn, kết hôn với ông Lưu A Vượng, thờ cha mẹ chồng rất hiếu thuận, hòa mục đối với xóm giềng, sanh được năm trai, sáu gái. Bà giúp chồng dạy con, tánh tình ôn nhu, hiền thục, tâm địa thiện lương, tùy duyên giúp đỡ người nghèo, ai nấy đều kính trọng.

Năm 1979 chồng mất, bà thường sầu muộn vì nỗi khổ “ái biệt ly” (yêu thương mà phải xa lìa), may có cháu gái là cư sĩ Lưu Mạnh Chơn do nghe lão sư Lý Bỉnh Nam khai thị pháp môn Tịnh Ðộ, liền khuyên bà niệm Phật. Bà liền vui vẻ tin nhận, quy y Tam Bảo, sáng tối niệm Phật cầu sanh Tây Phương. Lại còn tùy duyên cúng dường Tam Bảo, bố thí, phóng sanh. Sau đó, bà lại phát nguyện ăn chay trường, mỗi ngày công khóa niệm Phật chẳng gián đoạn. Tịnh nghiệp tinh tấn đến nỗi trong mộng cũng thường niệm Phật.

Hai năm trước khi bà được vãng sanh, bà chiếu theo lời khai thị Lâm Chung Tam Ðại Yếu (ba điều trọng yếu lúc lâm chung) của Tổ Sư Ấn Quang:

1. Khéo léo khai thị, an ủi khiến sanh chánh tín.
2. Cả nhà luân phiên niệm Phật để trợ giúp tịnh niệm.
3. Cẩn thận tránh xao động, khóc lóc khiến cho người chết bị lỡ làng.

Ðể dặn dò toàn thể dâu, con, lại còn ghi âm làm chứng để mong con cháu trước và sau lúc bà vãng sanh sẽ khéo tuân hành theo, ngõ hầu lúc lâm chung chẳng bị chướng ngại, quyết được vãng sanh Tây Phương. Tuy tuổi đã ngoại bát tuần, thân thể bà vẫn khang kiện.

Ðến giữa trưa ngày hai mươi hai tháng Chạp năm Dân Quốc 78 (1989), bà tắm gội thay áo, tụng niệm thời khóa tối xong, bà hơi hôn mê, chẳng nói năng gì nữa. Con cháu hơn năm mươi người liền tuân theo di chúc, luân phiên niệm Phật. Liên hữu nghe tin cũng đến trợ niệm. Sau khi niệm Phật được hơn mười hai giờ một chút, bà chợt tỉnh táo, tay lần xâu chuỗi, tự nhìn tượng Phật, miệng lầm rầm niệm Phật. Giữa tiếng trợ niệm của toàn thể con cháu và các liên hữu, bà liên tục niệm Phật chẳng gián đoạn. Ðến trưa ngày hai mươi tám, bà chánh niệm phân minh, an tường mỉm cười vãng sanh, thọ tám mươi ba tuổi.

Lúc ấy, mùi hương lạ tràn ngập cả nhà, ai ngửi thấy đều khen ngợi. Mọi người tiếp tục trợ niệm. Ðến ngày hôm sau, lúc tắm rửa, thay áo, thân bà vẫn mềm mại, tướng mạo hệt như lúc còn sống.

Lúc nhập liệm lại ngửi thấy mùi hương lạ tràn ngập cả nhà, hồi lâu chẳng tan. Con cháu cảm động, liền suốt ngày đêm niệm Phật đủ bảy ngày. Lúc trà tỳ, thu được rất nhiều xá lợi.

Nhận định:

Ðại Sư Liên Trì nói: “Làm con đối với cha mẹ hầu hạ, phụng dưỡng cho được an ổn là hiếu, lập thân hành đạo để rạng rỡ mẹ cha là đại hiếu. Nhưng khuyên cha mẹ dùng pháp môn Niệm Phật để vãng sanh Tịnh Ðộ là đại hiếu nhất trong những sự đại hiếu!”

Vị nữ cư sĩ này tuy trước đã sẵn đủ thiện căn, nhưng lúc tuổi già khổ sở vì chồng chết, được cháu gái khuyên niệm Phật liền tín nguyện tận lực hành trì, nhưng lâm chung bị hôn mê, phải nhờ đến con cháu chia phiên trợ niệm mới tỉnh lại để niệm Phật, mỉm cười vãng sanh. Mùi hương lạ tràn ngập cả nhà, tướng lành hiển nhiên. Nguyện những kẻ làm con cháu trong thế gian thấy điều lành hãy gắng làm theo mới đúng là đại hiếu nhất trong những người đại hiếu!

Niệm Phật làm lành chánh trợ song tu lâm chung vãng sanh Thượng Phẩm

Cư sĩ Tử Bình Trần Tự Quân thời Dân Quốc, là người huyện Ðịnh Hải, tỉnh Triết Giang. Lúc chưa tốt nghiệp đại học Pháp Chánh ở Thượng Hải, bố vợ ông đã mở sẵn xưởng dệt Thiên Nhất ở Tân Long Hoa, Thượng Hải, giao cho ông làm đổng sự trưởng.

Năm 1922, tốt nghiệp xong, ông vừa đúng hai mươi ba tuổi. Do nghiên cứu kinh luận Tịnh Ðộ, ông liền quyết tâm bỏ thuốc lá, rượu chè, cờ bạc, đồ mặn để trường trai lễ Phật. Năm hai mươi bảy tuổi, ông quy y với lão pháp sư Hưng Từ ở núi Thiên Thai, cầu truyền ngũ giới. Mỗi ngày ông lo kinh doanh, tối đến tụng kinh, niệm Phật cầu sanh Tịnh Ðộ. Thương những người nghèo bị bịnh, không đủ sức trị bịnh, ông liền cùng chú lập ra Bảo Khang Trai để thí thuốc và chữa bịnh rộng rãi. Ông còn phát động việc thành lập Thượng Hải Bần Bịnh Cứu Tế Hội, thay mặt gia đình đưa người bịnh vào bệnh viện chữa trị để những người bịnh đều được lành.

Năm 1932, quê ông bị đại hạn, ông liền cùng những đồng hương lo vận chuyển lương thực chẩn tế những người đói nghèo. Năm sau, gặp phải tai nạn bão lốc, nhiều căn nhà bị sụp đổ, ông liền xin hội Cứu Tế phát gạo chống đói.

Năm 1949, ông ngầm rời khỏi Ðại Lục, trốn sang Hương Cảng rồi sang Ðài Loan. Năm 1953, ông quy y đại sư Ðạo An, được đặt pháp danh là Trí Thặng. Ông liền chọn mua đất, xây dựng chùa Tùng Sơn, thỉnh ngài Ðạo An làm trụ trì, tự mình làm giám viện. Ðến năm 1966, đại điện lạc thành; thỉnh pháp sư Linh Căn tiếp nhận chức Giám Viện kiêm phó trụ trì, ông tiếp tục xây dựng điện đường hai bên và liêu phòng để tạo thành chốn tùng lâm vĩnh viễn cho mười phương.

Ông lại chắt mót tiền xây dựng biệt thự Tịnh Liên ở sau chánh điện, thỉnh những vị cư sĩ như Mao Dịch Viên… gồm chín người cùng ở để cộng tu. Ông thường lãnh đạo Tinh Tấn Phật Thất để cầu sanh Cực Lạc. Ðể tiếp độ rộng rãi những người sơ cơ, ông Mao soạn thuật cuốn Niệm Phật Tam Yếu. Ông liền đứng ra in đến 12 ngàn cuốn, gởi tặng khắp nơi trong ngoài nước để quảng kết tịnh duyên.

Ðể mình lẫn người đều được lợi, ông Mao lại biên soạn, kết tập bộ Tịnh Ðộ Tùng Thư; Ông liền phát động các vị đại đức, các chùa miếu, các nhà xuất bản lớn trong ngoài nước hoan hỷ hỗ trợ ấn loát hoặc kết ước hỗ trợ. Sách in ra và số tiền dành cho ấn loát còn dư, ông bèn giao cho Ðài Loan Ấn Kinh Xứ lưu thông và tục bản để tác phẩm ấy được hoằng dương rộng rãi.

Tháng Tư năm 1973, ông phát tâm bế quan ba năm để chuyên tu Tịnh nghiệp. Ðến khi mãn kỳ bế quan, ông lại càng thêm tinh tấn. Ngày mồng Bốn tháng Chạp năm 1982, đột nhiên ông thị hiện mắc bịnh nhẹ. Mới vào bịnh viện được một tuần, ông đã trở về biệt thự tịnh dưỡng, ăn uống như thường. Ðến ngày mồng Bốn tháng Giêng năm 1983, ông chợt bỏ không ăn sáng, há to miệng niệm Phật. Ông Mao liền hối đại chúng trợ niệm. Ðến một giờ trưa, miệng ông mới dần khép lại, mặt hiện vẻ tươi cười, an tường về Tây, thọ tám mươi bốn tuổi.

Mọi người tiếp tục thay phiên trợ niệm cho đến khi toàn thân lạnh hết nhưng đảnh đầu vẫn còn ấm. Ðến giữa trưa ngày hôm sau làm lễ đại liệm, toàn thân vẫn mềm mại. Ngày mồng Mười lúc làm lễ công tế (đại chúng cùng tụ lại cúng tế để tiễn biệt), da dẻ ông trông còn tươi tắn mịn hơn lúc còn sống. Trà tỳ thu được rất nhiều xá lợi.

Nhận định:

Cả một đời lấy Tín – Nguyện – Hạnh làm chánh hạnh, lấy việc làm lành, dựng chùa làm trợ hạnh. Ông đã tích tụ nhân duyên phước đức thiện căn rất nhiều. Xả báo an tường, vẻ mặt tươi vui thì ắt phải được trông thấy Phật đến tiếp dẫn. Ðảnh đầu ấm, thân mềm mại, tươi tắn hơn lúc còn sống, xá lợi rất nhiều thì ắt phải là Thượng Phẩm Thượng Sanh, thật đáng nên noi gương!

Đứng chắp tay mỉm cười vãng sanh Tây Phương

Việc đau xót thống khổ nhất trong đời không gì hơn cái chết, không ai là không biết cũng không ai có thể tránh khỏi. Do đây Đức Thế Tôn với tâm từ bi vô hạn, không hỏi mà tự nói, giới thiệu ra pháp môn Tịnh Độ, dạy người tin sâu, nguyện thiết, chuyên cần niệm Phật cầu sanh Tây Phương. Nên biết việc vãng sanh Tây Phương cần phải ở nơi một niệm cuối cùng của tự bản thân là chủ yếu, đồng thời cũng phải cần các liên hữu trợ niệm đúng pháp, nhưng mà lục thân quyến thuộc, thường không biết trợ giúp niệm Phật để đưa thần thức của người mất vãng sanh Tây Phương Cực lạc thế giới, hưởng thọ sự an lạc mãi mãi, mà ngược lại đau xót khóc lóc kêu la, đẩy thần thức của người mất rơi xuống ba đường ác: địa ngục, ngạ quỷ, súc sanh, chịu sự khổ sở lâu dài, vô cùng đau thương, thật đáng xót xa!

Cư sĩ Lại Luyện Lương từng kể lại một kỳ tích vãng sanh.

Ông nói gần nhà của mình có một vị sư tỷ tên Ấu đã 68 tuổi. Bà bình thường không biết chữ, chỉ chuyên tâm niệm Phật, bà có một cô con gái duy nhất nên gả con bắt rể. Phật thất hai mùa Xuân, Thu của chùa Linh Sơn bà đều tham gia chưa hề vắng mặt lần nào, thấy các bạn đồng tu nam nữ đều mặc áo tràng trang nghiêm tề chỉnh, bà thích lắm.

Một hôm, bà nói với chàng rể rằng: “Chiếc nhẫn vàng này của má, con đem đi bán dùm cho má đi!”.

Chàng rể hỏi: “Má ơi! Má lớn tuổi rồi, má bán chiếc nhẫn để làm cái gì, vậy má?”.

Bà liền đáp rằng: “Má rất mong có một cái áo tràng! Kỳ tu Phật thất sắp đến rồi, má cần chiếc áo tràng để tham gia Phật thất”.

Chàng rể liền hỏi: “Áo tràng cần bao nhiêu tiền, con may cho má, hoặc mua là được rồi, không cần bán chiếc nhẫn này đâu!”.

Bà nói: “Cần khoảng 200 đồng”.

Thế là chàng rể tức tốc chạy lo sắm sửa cho bà liền ngay sau đó.

Sáng sớm ngày thứ nhất của kỳ Phật thất, bà tắm rửa xong, mặc chiếc áo tràng mới may, chuẩn bị tới chùa để tham gia cộng tu, trước thắp hương, đốt đèn lạy Phật ở nhà, rồi mới đến chùa Linh

Sơn đả Phật thất.

Lúc ấy, gần nhà có một vị liên hữu tên A Tam Muội, dậy sớm, liền đến hẹn với bà cùng đi đả thất. Bà nói: “A Tam Muội, cô đi đằng đẳng trước đi, tôi phải lạy Phật ở nhà rồi sẽ tới đó liền!”.

Sau khi A Tam Muội đi, bà vô cùng vui vẻ, quỳ xuống lạy Phật ba lạy, xong ngẩng đầu lên chiêm ngưỡng Thánh tượng, thì thấy tượng Tam Thánh chuyển động vòng tròn, đồng thời khói hương trong lò hương cũng chuyển động, trong lòng càng nghĩ càng cảm thấy kỳ lạ, mà càng nhìn thì càng chuyển động.

Bà nghĩ không ra tại sao có hiện tượng kỳ lạ này, nên mặc nguyên áo tràng đến mấy nhà liên hữu ở gần, mời họ đến xem tại sao tượng Tây Phương Tam Thánh và lư hương đều quay vòng?

Bốn, năm vị liên hữu theo bà đến xem, mọi người đều nói là không thấy gì cả.

Lúc các vị liên hữu cùng nhau đồng nói như thế, nhưng không thấy bà trả lời, quay lại nhìn, thì thấy bà đứng yên không nhúc nhích, hai tay chắp lại mỉm cười quy Tây rồi, các vị liên hữu tức thời đúng như pháp, trợ niệm cho bà và bảo người nhà không được khóc lóc, mà cùng trợ niệm, lại kêu chàng rể đến chùa Linh Sơn mời A Tam Muội đồng về trợ niệm.

Lúc chàng rể đến chùa gặp được A Tam Muội nói với cô: “Má tôi đã vãng sanh Tây Phương, mời cô về trợ niệm”, thì A Tam Muội làm sao chịu tin, do vì cô ta sáng nay còn gặp bà, lại còn hẹn với bà đồng lên chùa Linh Sơn tham gia Phật thất mà!

Truyện kỳ tích vãng sanh Tây Phương này quả thật bất khả tư nghì!

Ngồi vãng sanh sau ba tuần thân vẫn tỏa hương sen

Vào thời đại Nam Bắc triều có Ngài Đàm Giám, họ Triệu, người Hạ Bác, Ký Châu. Từ thuở nhỏ, sư đã chán cuộc sống thế tục, đến cầu Trúc Đạo Tổ làm thầy, học tập kinh điển, nghiên cứu các luận, giữ giới hạnh rất tinh khổ. Trong luận có nhiều chỗ sư không hiểu, mới than:

– Không có Thánh nhân ra đời, ta biết nương tựa vào đâu?

Sau đó, nghe tin ngài La-thập đến Quan Trung, sư đến yết kiến để giải quyết những nghi vấn trong lòng. Sư thường đến nơi Ngài La-thập nhiều lần, đến khi Ngài qua đời, sư nói:

– Thật không may Ngài La-thập đã viên tịch rồi! Muốn giải tỏa điều khúc mắc biết hỏi ai đây?

Sau đó, sư liền đến Sơn tự ở Giang Lăng. Tuổi xế chiều, sư tu tập tinh nghiêm, thường nguyện sinh Tịnh độ, nguyện được gặp Phật A-di-đà, cho nên dù làm được chút phúc thiện, sư đều hồi hướng vãng sinh. Một hôm, đang trong định, Sư thấy Phật A-di-đà tay cầm bình vàng, rưới nước vào mặt sư và nói:

– Rửa sạch trần cấu cho ông, khiến thân, khẩu, ý của ông được thanh tịnh.

Rồi Phật lấy trong bình một hoa sen trao cho. Sư xuất định, bảo đệ tử Tuệ Nghiêm:

– Ông có nhân duyên đối với Tịnh độ, nên ta không giấu giếm!

Sư kể lại việc ấy cho Tuệ Nghiêm.

Ba ngày sau, đệ tử là Đạo Tề từ biệt Sư đến chùa Thượng Minh. Sư dạy:

– Ông chưa thể vãng sinh An Dưỡng, thoát Ta-bà, bôn ba Nam Bắc rốt cục rồi sẽ thế nào?

Lát sau lại nói:

– Ông hãy vâng theo lời của ta, đến ngày nào đó, cũng giống như ta ngày nay vậy. Nếu không như thế, thì sẽ lưu chuyển theo nghiệp!

Đêm ấy, sư đàm luận những việc đã qua, tỏ bày sự sống chết vô thường cùng với tăng chúng, cũng hé lộ cho biết ý là sư sắp vãng sinh, người nghe không ai hiểu ý. Đêm đã khuya, có sa di

Tăng Nguyện hầu bên cạnh. Sư quay sang hỏi sa di:

– Đêm đã tàn, sao con còn ở đây?
Sa di về phòng. Sư một mình bước thong thả, niệm A-di-đà Phật, đến trời gần rạng sáng, tiếng niệm Phật càng khẩn thiết mạnh mẽ hơn.

Mỗi sáng, Tuệ Nghiêm và mọi người như thường lệ đến vấn an sư, thì thấy sư ngồi kết già mà miệng không nói. Đến gần mới biết sư đã viên tịch, thọ bảy mươi tuổi. Tuệ Nghiêm và mọi người không đặt sư vào quan tài. Trải qua ba tuần, thân thể của sư vẫn mềm mại, tươi nhuận và tựa như có hương hoa sen từ nhục thân tỏa ra.

Đương thời đó, các ngài như Thích Đạo Hải ở Giang Lăng, Thích Đàm Hoằng ở Hoài Nam, Thích Đạo Quảng ở Đông Viên, Thích Đạo Quang ở Hoằng Nông đều phát nguyện sinh về An Dưỡng. Đến lúc sắp lâm chung của các ngài, mọi người đều chính mắt nhìn thấy có đài vàng, lưới báu, và có chim ca-lăng-tần-già, hiện đến trước mặt, gây nên rất nhiều tín tâm cho hàng đạo tục.

*Tăng Nhu

Sư họ Đào, người Đơn Dương.

Sư bẩm tính tài hoa, học với cha từ năm lên 9 tuổi, được những bậc tri thức lớn tuổi trong làng khen ngợi là có tài trí hơn người.

Sau, sư xin xuất gia với pháp sư Hoằng Xứng, rất nổi tiếng lúc bấy giờ, người học đương thời đều đua nhau đến học. Một hôm, Sư hầu bên cạnh thì chợt bừng ngộ, những điều đã học như kinh Phương đẳng v.v… đều được thông suốt cả.

Về sau, sư đến chùa Linh Thứu ở núi Diệm Bạch, chúng tăng trong chùa đêm đó nằm mộng thấy mọi người tụ họp lại, tay cầm búa, rìu, cờ, lọng…. rất đông đảo, làm tắc nghẽn cả núi rừng. Có vị tăng hỏi, mọi người trả lời:

-Pháp sư Tăng Nhu đến, chúng con ra nghinh đón!

Đến sáng, quả nhiên có Sư đến, chúng tăng kể lại việc vi diệu này. Sư nói:

-Tôi bị quỷ thần thấy, đâu có gì hay!

Các vị đế vương như Tề Thái Tổ, Thế Tổ Văn Tuyên đều biết danh tiếng của Sư, nhiều lần ban chiếu thỉnh đến Nghiệp Hạ, đặc biệt ân sủng, nhưng Sư không thích thân cận thế tục, chẳng màng lợi danh, tâm không lay động bởi các việc thịnh suy, chỉ một lòng hướng về Tịnh độ. Mỗi lần đi về hướng tây, sư đều trang nghiêm chính niệm cầu nguyện vãng sinh.

Đến lúc lâm chung, Sư thấy có trăm nghìn vị hóa Phật, lại nghe có hương lạ ở khắp trong ngoài thất. Sư nói:

“Hương thơm xông ướp áo thầy
Thánh hiền tiếp rước, phương Tây sắp về!”

Sư bảo trải chiếu, rồi kính cẩn quay mặt về hướng tây đảnh lễ, ngay lúc đang đảnh lễ thì sư viên tịch.

Sư thọ sáu mươi bốn tuổi. Nhục thân được an táng ở phía nam núi Diệm Bạch. Sa môn Tăng Hựu là bạn rất thân với sư, khắc lại toàn bộ tiểu sử của sư trên đá.

*Cư sĩ Vương Điền, người đời Tống, quê ở Minh Châu, huyện Từ Khê. Ông rất thông tuệ, sức học tinh thâm sâu rộng, nhưng thi tiến sĩ hai lần đều không đỗ. Từ đó, tâm danh lợi như tro tàn, ăn chay mặc áo vải, nơi nào có giảng kinh đều đến tham học. Lúc lớn tuổi, ông chuyên tu Niệm Phật Tam Muội, có trứ tác quyển Tịnh Độ Tự Tính Lục, tự làm lời tựa rằng:

“Chỗ nhiệm mầu đặc biệt về pháp môn Tịnh Độ, mà Đức Thế Tôn đã chỉ dạy, có thể dùng một lời để tổng quát là: ‘Đưa chúng sanh từ địa vị phàm phu, vượt tắt lên ngôi Bất thối chuyển!’.

Tại sao thế?

Cõi này tu hành khi chứng bậc Sơ Tín của Viên Giáo, hoặc ngôi Sơ Quả của Tiểu Thừa, thì tà kiến là tam độc mới vĩnh viễn không sanh khởi. Đó là cảnh giới Đoạn hoặc phát ngộ (tức Nghiệp mê lầm tiêu dứt, phát sanh sự tỉnh sáng), thẳng vào dòng thánh, dù chuyển kiếp cũng không mê lạc chỗ sở chứng. Địa vị này siêu khỏi bốn ác thú: Địa ngục, Ngạ quỉ, Súc sanh, Tu la, chẳng mất thân Trời, Người. Còn tất cả hàng phàm phu, dù là bậc Sơ tâm Bồ Tát tu đến địa vị Phục hoặc phát ngộ (tức Nghiệp mê lầm chìm lắng xuống Tàng thức, phát sanh sự tỉnh sáng), một phen trải qua cảnh biến chuyển phi thường của sự sống chết, liền quên mất chỗ sở tu sở chứng. Cho nên hạng người này, gặp cảnh duyên có thể bị thối chuyển và đọa lạc tam đồ.

Riêng cõi Phàm Thánh Đồng Cư Tịnh Độ ở cõi Cực Lạc, tuy cũng đủ giai tầng của tam giới, song chỉ có hàng Nhơn, Thiên. Thế nên tất cả loài hàm thức sanh về đó, đều xa lìa hẳn bốn thú, thoát khỏi luân hồi. Lại thêm trợ duyên đầy đủ, thọ số vô cùng, nên dù là kẻ độn căn, một kiếp tu hành, đều thành Thánh quả. Thế thì làm sao lại có sự thối chuyển được? Bản ý khuyên, khen của chư Phật, chẳng qua cũng chỉ như thế. Nếu bậc thượng căn phát tâm chuyên niệm Phật, đó là Tịnh Nghiệp tối thượng, sẽ dự vào phẩm cao. Như hàng tối dốt quê mùa, nếu biết chí thành niệm Phật phát nguyện, thì không ai chẳng được vãng sanh cả.

Than ôi! Xét nghĩ qua pháp môn Tịnh Độ, thì biết Phật không bỏ xót một chúng sanh nào! Những hạng giữ cái Không mờ mịt si mê, bắt chước hạnh vô ngại, rồi tự cao tự đại muốn ngăn dứt sự niệm Phật của kẻ khác, há chẳng đáng thương xót lắm ư?”.

Vào đầu đêm ngày Đinh Mão, tháng tư, năm Thiệu Hưng thứ mười sáu, hương lạ bỗng lan đầy nhà. Cư sĩ nhìn hàng học pháp là sa môn Tư Tề, bảo rằng: “Đây là Tịnh Nghiệp của lão phu chiêu cảm vậy!”. Nói xong, tắm gội thay y phục, ngồi ngay hướng về Tây chắp tay mà vãng sanh.
Khi làm lễ thiêu hóa, được một trăm lẻ tám viên xá lợi bằng hột lúa!

Sa môn Thích Liễu Nhiên ở chùa Bạch Liên thuộc Đài Châu

Ngài Liễu Nhiên, hiệu là Chí Dũng. Sư xuất gia tại chùa Bạch Liên trong quận, diễn giảng Thiên Thai Giáo Quán hơn 20 năm, sư tinh cần khuyên răn hàng hậu học, thầm tu Tịnh nghiệp, mỗi ngày chỉ ăn một bữa, suốt đêm ngồi niệm Phật tới sáng.

Hôm nọ, sư nằm mộng thấy hai con rồng đùa giỡn với nhau trong mây giữa không trung, bỗng nhiên hóa thành Thần Nhân. Rồi Thần Nhân ấy từ giữa hư không mà đi xuống bái kiến sư, lại lấy từ trong tay áo ra một phong thư, thưa rằng: “Bảy ngày sau, Ngài sẽ trở về phương Tây!”

Đến lúc thức giấc, sư biết đó là điềm ứng vãng sanh, liền báo đệ tử đánh trống nhóm chúng, sư bèn thăng tòa thuyết giảng Phật pháp. Sau thời pháp, sư giao phó mọi việc hậu sự. Rồi viết kệ khuyên răn rằng:

“Tôi nhờ niệm Phật,
Được sanh Tây Phương.
Quý vị hãy gắng,
Khá khéo lo lường!”

Rồi liền bảo tắm gội thay y phục, dạy chúng đồng thanh tụng kinh Di Đà, nhưng tụng chưa được mấy đoạn, thì sư đã an nhiên vãng sanh. Tất cả đại chúng đều nghe âm vang nhạc trời khắp cùng giữa hư không, ánh sáng tốt lành tỏa chiếu cả bầu trời.

Sa môn Thích Liễu Tuyên ở chùa Bảo Lâm thuộc Minh Châu.

Thích Liễu Tuyên, người ở xứ Tứ Minh, tập học ở Bảo Lâm. Nhân kính mến sự hưng thạnh của Nam hồ nên Sư bèn đến đó. Sư tinh cần nghiên cứu yếu nghĩa Tam Quán, Thập thừa, xem đọc Đại tạng kinh giáo, không gì chẳng biết về đại nghĩa.

Sư hành trì Pháp Hoa Sám Pháp hơn hai mươi năm, cùng kết bạn với ngài Thích Thiện Vinh, đồng chí nguyện hành thiện. Về sự tu tiến thảy đều đồng nhau. Ngài Thiện Vinh thường viết chữ vàng các bộ kinh Pháp Hoa, Lăng Nghiêm, Tịnh Danh, Viên Giác, v.v… sư cũng trợ giúp. Hoặc gặp Tây Tư Hội thì sư ra sức họa vẽ thủy mặc tôn tượng Bồ Tát Quán Thế Âm. Hai người đồng kết thệ nguyện vãng sanh. Mỗi khi thuyết giảng Phật pháp thì sư chăm chăm khuyên thính chúng cầu sanh về cõi An Dưỡng. Do đó những người tu theo pháp môn niệm Phật rất đông.

Một hôm, sư đến thất của ngài Thiện Vinh, ngồi im lặng. Ngài Thiện Vinh dò hỏi duyên cớ. Sư đáp: “Tôi đã đến lúc về Tây Phương, khó quên nghĩa tình đồng đạo! Thôi thì, xin hẹn cùng nhau gặp tại Tịnh Độ”.

Ngài Thiện Vinh bảo: “Đó chính là chỗ mong ước của chúng ta vậy!”.

Khi trở về chùa, sư liền nhóm họp đại chúng lại để từ biệt, bảo đại chúng tụng kinh, xưng niệm danh hiệu Phật. Sư ngồi thẳng, viết kệ lưu lại. Viết xong vẫn trong tư thế ngồi đoan nghiêm, sư chấp tay mà vãng sanh.

Bấy giờ, đang tiết trời nắng nóng, an trí nhục thân của sư trong khám trải qua bảy ngày mà nhan sắc vẫn hồng hào tươi nhuận, ở khóe miệng có nhiễu ít nước dãi, những người đến chiêm ngưỡng dùng khăn bọc lại thì có mùi thơm khác lạ phun vào người. Các hàng sĩ thứ khắp cả thành đều đem khăn theo để bọc xin nước ấy, mùi thơm càng thơm hơn, nước dãi lại càng nhiễu ra nhiều hơn. Sau khi trà tỳ thâu nhặt được vô số xá lợi.

Sư viên tịch được ba năm, bỗng nhiên, một hôm ngài Thiện Vinh đem các thứ kinh tượng chia cho những người thân quen xưa cũ, rồi trì tụng Phổ Hiền Hạnh Nguyện Phẩm, kinh A Di Đà, đồng thời bảo đại chúng đồng giúp xưng niệm danh hiệu Phật. Sư ngồi kiết già, nói rằng: “Ta đã đến thời hạn ước hẹn với ngài Liễu Tuyên!”

Nói xong, sư an nhiên thị tịch.

Gặp Kinh Tịnh Độ, một vị sư nổ lực quy hướng về tây 9 tháng sau được vãng sanh

Sư Thích Tăng Hiển, họ Phó, ở Nam Thành, Lâm Châu. Nhiều đời tổ tiên của Sư làm quan ở quận Đại, do đó mà nhà cũng ở đây. Từ thuở nhỏ, Sư đã xa lìa thế tục, phẩm hạnh thanh khiết, cần khổ, không xen vào việc đời, những sự thay đổi của thịnh suy giả huyễn chẳng làm Sư động tâm, có lúc Sư thiền định trải qua nhiều ngày.

Vào cuối đời Tây Tấn, Lưu Diệu nổi loạn ở Lạc Dương, Sư phải ẩn cư ở Giang Đông. Lòng Sư thích chốn núi rừng, dù là hang sâu núi hiểm, không một bóng người, Sư cũng nhất định đến đó.

Một hôm, vào buổi chiều ở trên núi, Sư được bản kinh mới được dịch xong của vị Phạm tăng từ Ấn Độ sang. Kinh văn có nói đủ ba phúc lành làm nhân nguyện vãng sinh Tịnh độ, cho đến thứ bậc Cửu phẩm vãng sinh. Sư vô cùng vui mừng nói:

– Thân ta ở trong đời ngũ trược, bị các khổ trói buộc, nay được bản kinh này như thoát được chốn bùn lầy nhơ bẩn, như chim tung cánh bay lượn trên bầu trời. Từ nay trở về sau, tâm ta có chỗ hướng về.

Từ đó, Sư hết lòng hướng về phương Tây, trong suốt chín tháng không lười biếng dù một mảy may. Một đêm, Sư bệnh nằm trên giường, chợt thấy Phật Vô Lượng Thọ trên hư không đi xuống, trên bầu trời ánh sáng của trăm loại châu báu lần lượt chiếu vào thân Sư. Đêm đó, Sư ngồi dậy tắm rửa, kể lại cho chúng tăng và người chăm sóc bệnh nghe, rồi răn dạy nhân quả, khuyến khích người chưa tỉnh ngộ. Sau đó Sư thị tịch. Ngôi chùa gần bên, có người thấy đài sắc vàng từ hướng tây hạ xuống, có người nghe mùi thơm ở khắp phòng, mọi người đều lấy làm lạ.

Ghi chú:

Khi có bệnh thì nói: “Sức tôi suy yếu, đợi bình phục lại, sau đó mới niệm Phật”, mà không biết niệm Phật chính là vượt qua sự già, bệnh. Có bệnh mà chuyên tâm niệm Phật chính là lúc thích hợp để thấy rằng nhờ sức niệm Phật, không những hết bệnh mà còn được vãng sinh.

Lành thay!

Sa môn Tất Tài chùa Diễn Phước ở Hàng Châu.

Ngài Tất Tài, họ Khuất, người ở xứ Lâm Hải thuộc Đài Châu. Cha của sư là người Minh Triết, là một nhà Nho đỗ đạt. Mẹ của sư họ Triệu, ưa thích điều lành, kính mến Phật pháp, rất mực cung kính. Bà mang thai sư đến mười tháng, một đêm bà nằm mộng thấy vị Phạm Tăng chống tích trượng bước vào phòng, tỉnh giấc thì sanh ra Sư.

Vừa mới mười hai tuổi, sư cầu xin xuất gia. Năm mười sáu tuổi, sư đi tham học các nơi.

Đến niên hiệu Chí Chánh thứ hai, Sư đổi sang chùa Hưng Phước ở Hàng Châu. Năm sau, sư sang phụ giúp trùng tu chùa Diễn Phước. Trước kia, chùa đó bị binh lửa hủy hoại hết, sư lần lượt xây dựng mới lại, tạo lập lầu Vạn Phật, cao hơn 43 mét, sư là người trầm mặc, tinh chuyên quán hạnh, chăm chăm tấn tu, không phút giây trễ nãi. Sư dùng đức từ để tiếp người, hướng dẫn chỉ dạy hàng đạo tục không tỏ vẻ mỏi mệt. Đệ tử nương tựa dưới pháp tòa có đến trăm người. Vua Thuận Đế đời Nguyên đặc biệt ban tặng sư danh hiệu “Phật Giám Viên Chiếu”.

Một hôm, đột nhiên sư cảm thấy đầu mắt sa sầm, liền bảo với đại chúng rằng: “Nhân duyên tôi đã đến lúc hết”.

Bèn đốt hương, ngồi xoay mặt về hướng Tây, lớn tiếng xưng niệm danh hiệu Phật A-di-đà, trải qua một ngày một đêm, sư lại bảo đại chúng rằng: “Các ông chớ cho rằng tu hành không ứng nghiệm. Tôi đối với nhân duyên Tịnh Độ đã chín muồi, Chánh Định đang hiện tiền!”.

Rồi, sư đòi nước tắm gội thay y phục, viết thư từ biệt mọi người quen biết. Xong xuôi, sư bèn chắp tay thị tịch.

Đại chúng đón rước nhục thân sư an trí vào trong khám để trà tỳ, bỗng nhiên có ánh sáng năm màu từ trong khám phát ra. Sau khi lửa tắt còn lại hai thứ không cháy đó là chiếc lưỡi đỏ thắm như sen hồng và chiếc răng ngà như ngọc kha bối. Xá lợi khắp cùng dưới đất, mọi người tranh nhau lượm nhặt, trong chốc lát đều hết, có người đến sau cùng, bèn đào bới dưới đất sâu đến cả thước tìm cầu vẫn còn có được. Sư thọ sáu mươi tám tuổi. Tháp thờ sư được xây dựng ở phía nam của chùa.

*Cư sĩ Lộ Khôn, người đời nhà Thanh, quê ở Giang Ninh. Ông tánh tình thiện lương từ hòa, rất kính tin ngôi Tam Bảo. Ông có người em làm quan, mỗi lần đến viếng thăm ở lại chơi, thấy trong nhà bếp hàng ngày đều sát sanh rất nhiều. Ông thương xót, thường đem lý nhân quả tội phước ra khuyên em, song nói mãi vẫn vô hiệu. Thấy thế, ông liền phát nguyện trường chay, rồi ở ngay trong dinh thự của em, chích máu nơi lưỡi chép kinh A Di Đà, cầu sanh Tịnh Độ.

Sau đó, ông từ giã trở về nhà, hàng ngày đọc sách dạy con, lấy đạo làm vui. Khi con đã lớn khôn, ông bảo nó dạy học để tự nuôi sống. Từ đó cư sĩ chẳng hỏi đến việc nhà, một lòng niệm Phật, dù tiết trời lạnh nóng, hay lúc đau bệnh thời khóa tu niệm chưa hề biếng trễ.

Ông giao hảo với liên hữu Châu Quang, thường đem sự niệm Phật cầu vãng sanh để sách tấn lẫn nhau. Lúc lớn tuổi hình tướng khô gầy, nhưng thời khóa tụng niệm càng tăng, tất cả công đức việc lành đều hồi hướng cầu sanh Tịnh Độ.
Ông rất thích tụng kinh Kim Cang, mỗi ngày đều quỳ tụng trước bàn Phật, tuy lúc mệt mỏi khốn đốn, tụng chưa xong quyển quyết không đứng dậy.

Có một độ ông bệnh nặng nguy ngập sắp chết, người nhà đều dự bị sẳn đồ tẩn liệm. Trong cơn mê man, ông thấy tám vị tăng Ấn Độ thân hình đều to lớn, cao hơn 3 mét, bước vào nhà lập đàn tràng vì mình mà làm Phật sự. Ông thấy mình cùng các vị ấy tụng kinh A Di Đà, bỗng nhiên chợt tỉnh giấc, mà âm thanh trì tụng vẫn còn văng vẳng rành rõ nơi tai. Sau đó bệnh tình dường như mất hẳn. Không bao lâu, ông chẳng đau yếu chi, niệm Phật mà vãng sanh.

*Cư sĩ Ngô Doãn Thăng, người huyện Hấp ở Huy Châu. Lúc tuổi trẻ ông thường đi lại mua bán nơi vùng Tô Châu và Hàng Châu. Trong cuộc du ngoạn chùa núi Hổ Khâu, một vị tăng tình cờ gặp mặt ông nhìn kỹ đoạn bảo: “Ngươi cũng có căn lành, song tiếc vì lúc hai mươi chín tuổi bị nạn chết đắm, biết làm sao?”.

Ông nghe nói sợ hãi, cầu thỉnh phương pháp giải cứu.

Vị tăng trầm ngâm giây lát rồi dạy: “Từ nay trở đi, ngươi phải giới sát phóng sanh. Mỗi ngày đều nên chí thành trì chú Đại Bi và niệm Phật, may ra có thể thoát khỏi!”.

Ông tin nhận thật hành, lại thường đem điều này khuyên người.

Đến năm hai mươi chín tuổi, ông từ Hàng Châu nương thuyền trở lại quê nhà. Bạn đồng hành được tất cả mười bảy người. Khi thuyền trương buồm ra đi độ vài chục cây số, ngọn thủy triều chợt ầm ầm xô đến, sóng to nổi dậy thế rất nguy cấp. Ông chợt nhớ lời vị tăng nói khi trước, vội chấp tay niệm Phật. Giây phút thuyền lật úp, ông và tất cả hành khách đều bị cuốn lôi theo sóng nước. Trong cơn hoảng hốt mơ màng, bỗng nghe tiếng nói: “Ngô Doãn Thăng khuyên người niệm Phật có công, được thoát khỏi nạn này!”.

Ông vội mở mắt nhìn xung quanh thì thân đã nằm trên bờ, bên mình có những người chài lưới đang vực tỉnh. Kiểm điểm lại, mũ giày hành lý đều bị nước tuôn mất hết, duy có xâu chuỗi mười tám hạt bình nhật thường trì niệm hãy còn nắm chắc nơi tay, còn mười sáu người kia đều bị trôi chìm không thấy tung tích. Từ đó ông càng tin công đức niệm Phật chẳng thể nghĩ bàn! Ông không trở về quê, ở lại mở ngôi quán xem tướng, mượn nhân duyên này để nói lý nhân quả, khuyên người tu niệm.

Sau cơn hoạn nạn, ông hành trì càng tinh tấn. Ông đốt liều hương nơi cánh tay thành bốn chữ “Cầu sanh Tây phương” để nêu rõ hạnh nguyện của mình.

Người ở Hàng Châu theo di phong của Tổ Liên Trì, phần nhiều đều tín hướng pháp môn niệm Phật. Song những kẻ thật hành, lại là người già cả, không có hạng thiếu niên. Mỗi tháng họ tập họp lại chùa niệm Phật, gọi là Lão Nhi Hội. Sự tập hợp cũng không dám đi đông nhiều, vì sợ bị hiềm nghi là dị giáo mưu đồ chánh trị.

Ông khẳng khái tuyên bố với mọi người: “Môn niệm Phật không phân biệt nam nữ già trẻ sang hèn. Đạo Phật là chánh giáo được triều đình mến ưa công nhận, tại sao lại phải e sợ?”.

Lúc ấy Diên Kiểm Điền, một quan chức quyền quý, đang chủ duyệt kiểm tra về thuế muối ở Hàng Châu, cùng cư sĩ có tình cựu hảo. Nhân cơ hội, ông mở cuộc lạc quyên, trước tiên đến Diên công được ngài góp vào hai trăm lượng vàng để làm thủ xướng. Với số tiền quyên được, ông đặt thành quỹ phương tiện thâu lợi tức nhẹ mở mang hội niệm Phật tại chùa Bảo Thành ở núi Tử Dương và làm các việc từ thiện. Mỗi khi gặp ngày hội kỳ, ông vì quần chúng giảng giải Phật pháp, nói lý nhân quả. Kẻ chưa phát tâm khuyên tinh tấn tu niệm. Ông lại mở thêm chi hội nơi chùa Tiên Lâm ở trong thành cùng các chỗ khác để khuyến hóa. Kẻ tin tưởng niệm Phật ngày càng đông có đến số ngàn. Mỗi khi tập hợp, tất cả đều nghiêm trang kính cẩn, không buông lung rộn ràng huyên náo.

Tượng Tam Thánh cao gần 6 mét nơi điện Tây Phương tại chùa Tiên Lâm, cũng do người trong hội kiến tạo. Một buổi sáng đang lúc tập hợp niệm Phật, đại chúng thấy từ trong mũi tượng Đại Thế Chí Bồ Tát phóng ra một luồng ánh sáng màu trắng bay vòng quanh nơi điện đình hơn vài mươi phút mới tan mất.

Từ đó ở thành Hàng Châu phong thái niệm Phật thạnh hành. Các vùng xung quanh cũng được ảnh hưởng cảm hóa, trẻ già trai gái tay cầm tràng, miệng niệm Phật là chuyện thông thường không còn xa lạ. Tên tuổi của ông đàn bà con trẻ đều biết. Mỗi kỳ hội, các nơi thay phiên nhau thỉnh ông đến diễn giảng.

Tây Hồ có chùa Linh Phong, nguyên là di tích của Phục Hổ thiền sư, hư phế đã lâu. Trong niên hiệu Đạo Quang năm đầu, ông phát nguyện trùng hưng, tu tạo vài năm mới lạc thành.
Ông mãn phần lúc 66 tuổi. Khi lâm chung ông giữ chánh niệm phân minh, tự nói: “Tôi thấy vô số Bồ Tát đi kinh hành ở trước mặt!”. Rồi ngồi ngay lặng lẽ mà hóa. Bấy giờ nhằm ngày mùng một tháng năm, niên hiệu Đạo Quang thứ chín.

Lời Bình: Lộ Khôn niệm Phật vốn cầu vãng sanh, mà kiêm thoát được bịnh khổ trong hiện tại. Doãn Thăng niệm Phật chỉ mong khỏi nạn, nhưng lại cảm điềm lành tốt lúc lâm chung. Thế thì ai bảo: “Công đức niệm Phật duy có lợi ích sau khi mãn phần ư?”. Xem gương trên, hai vị đều gắng sức thật tu, tin chắc không đổi. Người đời nay đem công phu chút ít, cầu lợi ích quá phần, đến khi thấy vô hiệu, trở lại cho rằng Phật pháp không linh nghiệm, rồi bỏ hết việc tu hành há chẳng đáng ngậm ngùi thương tiếc lắm ư!?

Hiện bốn tướng lành, nhất định vãng sanh Tây Phương

“Người không tin Phật, không sanh vào nhà ta”. Lữ Mông Chánh đời Tống, ông là một vị Phật tử thuần thành. Mỗi ngày vào sáng sớm, khi lạy Phật lạy Tổ đều lấy hai câu này, làm câu cầu nguyện sau cùng của thời khóa hàng ngày. Hai câu nguyện này được người đời sau khen ngợi ông Lữ dạy con có phương pháp, tứ đại đồng đường (4 thế hệ: ông bà cố, ông bà nội, bố mẹ, con cái cùng ở chung trong một gia đình) đều là đệ tử Tam Bảo, hưởng vinh hoa phú quý làm quan đến chức Tể Tướng.

Lời tục ngữ nói rất hay: “Gia đình muốn hưng thạnh, hãy nhìn xem con cháu”. Mỗi gia đình đều có con cái, đều mong ước chúng trở thành hữu dụng. Nhưng hiện nay đang là thời mạt pháp, có thể có được mấy người giống như ông Lữ dạy dỗ cháu con học Phật để được nhờ lợi ích của Phật pháp? Thật có thể nói là ít thấy như lông chim phụng, sừng kỳ lân. Mặc dầu là ít có, khó được, nhưng rốt cuộc đã thấy được một vị, ông ta chính là cư sĩ Lâm Thanh Giang mới vãng sanh gần đây, tuy không có tài hoa như ông Lữ, nhưng sự dạy dỗ con cháu học Phật, giúp đỡ cho ông vãng sanh lúc mạng chung, hiện được tướng lành không thể nghĩ bàn, thật đáng quý, khó thể có được, sự thật như sau:

Lão cư sĩ Lâm Thanh Giang, quê của ông ở Ngô Thê, một làng bên bờ biển, hiện đang cư ngụ số 15 đường Đại Trí, thành phố Đài Trung.

Ông tự kể lại khi mới vừa chào đời, liền đã chịu một tai nạn lớn. Do vì nhà ông ở bên bờ biển, ông mới sanh hai mươi ngày bị trời mưa lâu, nước biển dâng lên, có mấy làng đã bị nước biển dâng lên cuốn đi, biến thành biển cả mênh mông, nhìn không thấy bờ mé! Cả nhà ông vội vã dùng chiếc bè tre đánh cá, chất hết người cả nhà và lương thực lên trên chiếc bè tre đó, mặc cho nước cuốn trôi, trong đó có một người sản phụ bồng một đứa trẻ chưa đầy tháng tuổi, đó là Lâm Thanh Giang.

Ở trên chiếc bè tre trôi nổi trải qua suốt 20 ngày, thật là chín phần chết, một phần sống. Vượt qua lần tai nạn này có người nói: “Nạn lớn mà không chết, ắt có phúc về sau”. Cái hạnh phúc đó của Lâm lão cư sĩ chính là về già được sự lợi ích do học Phật nghe pháp.

Tư chất ông thông minh tự nhiên, tuổi thiếu niên đi học trí nhớ rất dai, phần lớn những sách đọc qua rồi thì không quên, cho nên những thứ như: địa lý, y học, số mạng, bốc thuật, tướng thuật và thơ văn… ông thảy thảy đều giỏi, có thể cùng với mọi người nói chuyện trên trời dưới đất gì cũng được. Mặc dù nghề nghiệp của ông là buôn bán, nhưng nếu có thời gian rảnh, ông liền khám bệnh bốc thuốc cho người bất kể là trị những chứng bệnh khó khăn gì, phần nhiều là thuốc đến thì hết bệnh, cho nên những bệnh nhơn được trị khỏi khắp nơi rất nhiều, hết thảy đều miễn phí kết duyên, không bao giờ nhận tiền thù lao, cho nên cả làng, những bà con bạn bè đều khen ông là: “Đệ nhất thiện nhơn”.

Do bởi nhân duyên làm lành mà vốn dĩ y theo ngày tháng năm sanh của ông, tự coi số thì thọ mạng của ông tối đa là năm mươi bốn tuổi, so với lúc ông vãng sanh là bảy mươi chín tuổi, tính ra thọ thêm được hai mươi lăm năm, nếu như không thọ thêm thì cũng đã sớm giống như những người thường, đi vào luân hồi lục đạo rồi!

Cơ duyên học Phật của ông là vào lúc dời nhà, đến định cư ở đường Dân Tộc, thành phố Đài Trung làm hàng xóm với cư sĩ Giang Ấn Thủy. Giang cư sĩ mới rủ ông đi nghe kinh, niệm Phật, rồi thọ giới Bồ Tát. Từ đó hai thời khóa sáng tối không gián đoạn, đều là cùng ông bạn già đồng ra vào cùng nhau tu trì. Ông chẳng những tự tinh tấn tu hành, đối với việc dạy dỗ con cái, ông cũng rất chăm chỉ, tạo thành một gia đình Phật tử thuần thành, nhất là đối với đứa cháu nội Diệu Đường càng chú trọng, đặc biệt mỗi sáng chủ nhựt vào tuần lễ Đức dục Nhi đồng của Liên Xã, ông đều bảo cháu nội Diệu Đường đến tham gia niệm Phật, nghe kể chuyện. Về sau lại khích lệ cháu nội gia nhập lớp bổ túc Quốc văn, sau khi học xong lớp bổ túc Quốc văn lại tham gia đại hội diễn giảng của thanh niên Tân Xuân ở Liên Xã. Diệu Đường trước sau đã có bốn lần kinh nghiệm, đây đều là do sự hun đúc của ông nội, Diệu Đường chẳng những ăn nói lanh lợi mà còn do cội gốc gia đình có ăn học được gien truyền thừa những sở đắc của ông nội, chí nguyện sau này cũng muốn hành nghề y để chữa bệnh làm việc nghĩa giúp đời, cứu giúp những người bệnh tật.

Lúc ông 79 tuổi, sức khỏe bỗng suy yếu, tứ đại không điều hòa, nằm bệnh triền miên sáu tháng, nhưng lúc ông đau đớn vì bệnh, chỉ cần có người ở trước mặt niệm Phật cho ông nghe thì ông không than đau gì cả, về sau các thành viên trong nhà bèn chia ban ra niệm Phật suốt ngày đêm không ngớt, và thỉnh lão cư sĩ Lý Bỉnh Nam đến khai thị cho ông, dạy cho ông buông bỏ vạn duyên, nhứt tâm niệm Phật.

Đến ngày 22 tháng chạp lúc nửa khuya, Diệu Đường nhắm mắt niệm Phật bên ông nội, đột nhiên nhìn thấy một đám người muốn xông vào cửa lớn, nhưng hai bên cửa lớn: phía bên trái có Bồ Tát Già Lam Thánh chúng đứng, tay cầm đại đao, phía bên phải có Hộ pháp Vi Đà Tôn Thiên Bồ Tát đứng, tay cầm cây chày hàng ma. Hai vị Bồ Tát này dùng đại đao và chày kim cang chận đứng đám người đó lại rồi đuổi đi; nhưng không bao lâu lại có một đám người khác kéo đến nữa, liên tiếp ba lần đều như thế, Diệu Đường nhìn thấy cảnh này rất rõ ràng, liền biết là oan nghiệp đời trước đến đòi nợ bị thần hộ pháp chặn đứng đuổi đi… Sáng sớm lão cư sĩ nói với con dâu rằng: “Tối nay cha sẽ vãng sanh Tây phương”.

Diệu Đường liền chạy đến Liên xã thỉnh các vị liên hữu trợ niệm, có ban trưởng Ban Vũ Đức là Hoàng Thái Vân và một số người đến trợ niệm cho ông, từ sáng sớm ngày đó bắt đầu, niệm đến hơn 10 giờ tối. Sau khi các vị trong ban hộ niệm ra về, thì cả nhà do Diệu Đường hướng dẫn niệm Phật, không bao lâu, bỗng một đạo hào quang từ cửa xẹt thẳng vào tượng Phật A Di Đà, liên tiếp ba lần phóng ánh sáng như thế, khi ấy trên mặt ông lộ vẻ khoan thai vui vẻ, miệng mỉm cười vãng sanh Tây phương, lúc ấy đúng 11 giờ đêm. Đồng thời, bỗng có một làn hương lạ thơm ngát lan tỏa khắp gian phòng, không phải mùi của nhan thơm, cũng không phải là mùi thơm của các loài hoa!

Vì phải sắp đặt bàn linh đang lúc Diệu Đường đi mua đèn cầy, thì thấy hào quang rực rỡ trên hư không từ phương Tây chiếu thẳng vào nhà, bởi nhà của ông cửa cái hướng về Tây.

Cả nhà đều chuyên tâm nhứt ý niệm Phật mãi đến trời sáng không dứt đoạn. Đã trợ niệm được tám giờ, lúc đó bà nội của Diệu Đường muốn đến bên người bạn đời đã từ giã cõi trần, khó tránh khỏi buồn thương liền nhè nhẹ vén cái mền đang đắp ra thì bỗng nhiên phát ra một mùi thơm lạ sực nức mũi! Con cháu, mọi người ai cũng đều khen ngợi Phật pháp vô biên không thể nghĩ bàn!

Do bốn tướng lành ở trên, suy ra thì biết ông chắc chắn vãng sanh Tây phương không còn nghi ngờ gì nữa. Con dâu của ông càng khen ngợi may nhờ Phật, Bồ Tát gia bị nên vãng sanh vào ban đêm, trợ niệm tròn đủ tám giờ, không có động đến thân thể ông, cũng không có ai khóc, được sự thuận lợi cho việc trợ niệm vãng sanh, nếu không thì lục thân quyến thuộc mấy chục người thân thiết nhưng họ chưa từng biết niệm Phật nghe pháp, vừa nghe người thân qua đời, chắc chắn chen chúc mà đến, làm sao có thể ngăn được họ không gào khóc om sòm. Đây cũng là phước báo thù thắng của ông lúc lâm chung vãng sanh Tây Phương không có chướng ngại.

Một luồng hào quang tiếp dẫn người vãng sanh

Cư sĩ Lý Thanh Nguyên là ban trưởng ban niệm Phật Trung Chánh ở cơ sở hoằng pháp tại Vụ Phong, làm tài xế ở cục công lộ, vợ là sư tỷ Hạc. Sư tỷ Hạc từ sau năm 48 tuổi đã biết học Phật, tin sâu niệm Phật, đối với đời người nhiều tai nạn, nhiều nghịch cảnh, thường hay khuyên chồng niệm A Di Đà Phật, nhất là lúc tai nạn nguy cấp càng phải cố sức niệm A Di Đà Phật có thể gặp dữ hóa lành.

Thuở ấy, ông mặc dù nghe vợ nói thoáng qua không hiểu chi cho lắm, nhưng có lần nọ, lái xe ban đêm trên đường núi từ Bộ Lý về Đài Trung, tại một cua quẹo, xe bỗng dưng bị hư, nhưng kiểm tra thế nào cũng không tìm ra được là hư cái gì. Sau một hồi lâu chờ đợi, những khách ngồi trên xe lăng xăng xuống đi bộ tìm điện thoại kêu taxi lại, rồi lần lượt kéo nhau đi hết.

Chị quản lý xe cũng phải đi thông báo cho cục công lộ phái xe đến chở về, còn lại một mình ông, ngồi trên ghế sau tay lái, trên đường núi trong đêm tối lại không có một ai, trước mặt là màn đen dầy đặc, lông tóc trên người muốn dựng đứng, trời không lạnh mà muốn run lên! Nghĩ tới nghĩ lui bỗng nhớ lại việc bà vợ đã từng căn dặn mình niệm Phật, tức thời to tiếng niệm lớn: “Nam mô A Di Đà Phật”, niệm được mấy chục tiếng, bỗng nhiên chiếc xe có thể chạy lại được rồi, bèn lái xe chạy thẳng đến Đài Trung an nhiên vô sự.

Còn có một lần nữa từ đầm Nhựt Nguyệt về cũng xảy ra tình trạng giống như thế, nhờ niệm Phật mà thoát được nguy nàn.

Nhưng mạng người vô thường! Lý Thanh Nguyên tiên sinh, lúc bình thường coi rất là phước tướng, nhưng mắc phải chứng cao huyết áp. Năm nọ, vào đầu tuần tháng tư, do bởi huyết áp quá cao nên nằm triền miên trong nhà hơn một năm, thuốc thang không thấy công hiệu, trong thời gian này ông niệm Phật đến mức tâm chẳng rời Phật, Phật chẳng rời tâm.

Lúc ông sắp lâm chung, bà liền đến Bố giáo sở mời mấy vị đồng tu đến nhà trợ niệm. Các vị liên hữu từ sáng sớm luân phiên niệm mãi đến 12 giờ đêm, chỉ thấy người bệnh còn thở thoi thóp có khả năng kéo dài đến sáng mai, bèn ai về nhà nấy nghỉ ngơi, ước hẹn ngày mai lại đến tiếp tục trợ niệm, chỉ có sư tỷ Tú cùng các con và người nhà của ông, tổng cộng khoảng năm, sáu người tiếp tục duy trì trợ niệm.

Đến hơn 2 giờ khuya, bỗng có một thanh niên quân nhân ở trong tỉnh cùng xin đến trợ niệm, vị thanh niên này âm thanh rất tốt, lại thành khẩn, cùng với mọi người phấn khởi tinh thần, chánh niệm đến mức có thể nói là “nhứt tâm bất loạn”.

Đột nhiên mọi người nhìn thấy một vầng sáng tròn trắng, giống như mặt trời từ ngoài cửa lớn bay vào trong nhà. Do vì nhà ông tọa ở hướng Đông quay cửa sang hướng Tây, cho nên anh thanh niên kia chạy ra xem, cho rằng xe nào mà đậu ngay trước cửa? Nhưng vào lúc nửa đêm nửa hôm, bốn bề vắng lặng, một màn đen dầy đặc, chỉ thấy một đường ánh sáng từ hư không hướng Tây phóng thẳng vào trong cửa. Anh thanh niên kia vừa thấy cảnh giới không thể nghĩ bàn như thế, không hiểu ra sao, lại quay vào trong xem vừa đúng ngay khoảnh khắc đó, người sắp mạng chung diện mạo tươi vui, thở ra một hơi mạnh bèn cùng với vầng ánh sáng như mặt trời kia đồng thời biến mất, trong nhà tức thời sáng sủa trở lại như thường.

Tất cả mọi người đều nhìn thấy kỳ tích Phật A Di Đà phóng quang tiếp dẫn này, vô cùng vui mừng do đó mà tiếng niệm Phật cứ y nhiên không dứt, càng niệm càng phấn khởi tinh thần, cứ niệm mãi tới trời sáng.

Những bạn đạo như Trương Thẩm, Bảo Vân… ở Bố giáo sở qua ngày hôm sau hay tin, đến tư gia cùng mọi người niệm thêm 8 giờ đồng hồ nữa, tiếng niệm Phật mới dứt. Ai cũng xúm lại xem tướng lành của người mất, thật là trang nghiêm tươi đẹp, các khớp xương mềm mại như bông.

Các vị liên hữu buổi tối trợ niệm ra về, khi sáng trở lại nghe nói sự việc người mất lúc lâm chung nhờ Phật phóng quang tiếp dẫn, mọi người đều không khỏi một phen đại thất vọng, luôn miệng nói xấu hổ, chưa có thể chính mắt nhìn thấy quang minh của Phật.

Phàm việc gì đều có nhân duyên quả báo, cho nên nhà Phật nói nhân quả là xác thật không sai một mảy nào cả. Chúng ta phải biết sư tỷ A Tú suốt đêm trợ niệm cho ông ta vốn là vị liên hữu trung thành của Bố giáo sở, nhưng phát tâm niệm Phật cho ông ta như thế cũng không phải không có nhân duyên.

Khi còn sanh tiền, ông làm tài xế xe, mỗi sáng sớm lúc đi ngang Thảo Hồ, đều có một đám học sinh trèo lên xe để đến Đài Trung, ông thường dừng xe lại cho chúng leo lên quá giang. Tâm địa của ông tốt lành như thế đó là nhân, đến lúc ông mắc bệnh hết chữa, các con của sư tỷ A Tú nghe nói chú Lý sắp lìa đời, cần người niệm Phật trợ giúp, liền nhớ lại cảnh xưa kia đi học vội vội vàng vàng lên xe và chú Lý thì dừng xe lại, hiện rõ ở trong đầu, thế là liền thúc giục mẹ: “Mẹ à! Nhanh lên đi trợ niệm cho chú Lý. Chú Lý đối với chúng con rất tốt, mình nhất định phải niệm đến lúc chú vãng sanh Tây Phương mới thôi”.

Nếu như không có sư tỷ A Tú trợ niệm suốt đêm không ngủ đến 2 giờ khuya, thì làm sao cảm ứng đến một anh lính đến trợ niệm nữa? Nói đến vị thiện nam này cũng là một nhân duyên thù thắng không thể nghĩ bàn. Anh vốn đứng gác ca gác nửa đêm ở trại lính gần đó, trong đêm tối yên tĩnh, bên tai bỗng nhiên nghe văng vẳng âm vang của câu Phật hiệu, trong miệng tự nhiên cũng theo đó niệm “A Di Đà Phật” không ngớt.

Khi thay ca, anh này muốn xem thử là người chân tu nào có được sự dụng công như thế, liền dò theo phương hướng của tiếng niệm Phật đi thẳng đến nhà ông. Tới nơi thấy cửa mở, có rất nhiều người đang niệm Phật, anh ta liền tự động bước vào tham gia trợ niệm. Anh thanh niên này nhất định có căn lành rất lớn, nếu không thì trợ niệm hơn một tiếng đồng hồ làm sao có thể thấy được quang minh của Phật?

Đức Di Đà tiếp dẫn, cả nhà ánh hào quang kim sắc

Cư sĩ Lý A Minh vào năm 1963, ông 48 tuổi, cư ngụ tại thôn Bắc Cấu, làng Vụ Phong, nhà có mẹ già, một vợ, năm con trai, bốn con gái. Anh là đoàn trưởng đoàn niệm Phật của cơ sở hoằng pháp Vụ Phong Liên Xã Đài Trung, mọi người đều quen gọi anh là “huynh A Minh”. Những khi lão cư sĩ Lý Bỉnh Nam thuyết giảng, mỗi ngày thứ tư hàng tuần anh đều đi nghe kinh dầu cho có mưa gió thế nào đi nữa, anh vẫn chạy chiếc xe đạp đến. Do đó có thể thấy tinh thần cầu pháp nhiệt tâm của anh, thật là khiến cho người ta khâm phục.

Nhưng mà mạng sống vô thường, vạn pháp vô thường, anh bỗng nhiên mắc chứng bệnh bất trị, tự biết bệnh nặng hết phương cứu chữa nên một tháng trước khi qua đời, anh đã kêu vợ lại dặn dò hậu sự: phải hiếu thuận với mẹ, dạy dỗ con cái; những việc lớn nhỏ v.v… đã dặn dò xong, tự mình lên trên núi ở Bắc Cấu, ở nhờ nhà người chị để dưỡng bệnh.

Người chị và hai người cháu gái: cô Chơn và cô Phụng đều là tín đồ thuần thành của cơ sở hoằng pháp, cho nên hầu hạ cho cậu mình các việc ăn uống thuốc thang, săn sóc bệnh… thật là chu đáo, từng ly, từng tí cũng như chính bản thân không khác. Mỗi ngày ngoài thời khóa công phu sớm tối ra, đều chí tâm niệm Phật hồi hướng cho người cậu của mình, được tiêu trừ những tội nghiệp trong các đời trước. Nhưng mà lý do anh ở dưỡng bệnh ở nhà của chị là vì để có thể buông bỏ vạn duyên, nhứt tâm niệm Phật cầu sanh Tây Phương, bởi lẽ, ở nhà thì e rằng trong khoảnh khắc lúc sắp lâm chung nào là mẹ già, rồi vợ, rồi các con gào khóc kêu la thảm thiết sẽ làm nhiễu loạn, mất đi chánh niệm, thì không thể vãng sanh Tây phương, cho nên mới lên trên núi, nhờ cậy vào sự trợ lực của hai đứa cháu hiền. Khi lâm chung cũng như bãi chiến trường đang giao tranh khốc liệt, người nuôi bệnh vừa hơi không cẩn thận thì bệnh nhân liền có khả năng bị ma dắt đi.

Anh bốn ngày trước khi vãng sanh, bệnh trạng biến đổi rất xấu, thần trí hôn trầm, tay chân múa máy lung tung. Cô Chơn thấy cảnh giới không bình thường, liền ở bên giường to tiếng niệm Thánh hiệu A Di Đà Phật và nói với cậu mình rằng: “Nếu Đức Phật A Di Đà đến tiếp dẫn, mới có thể đi theo Ngài, ngoài Phật A Di Đà ra, bất cứ người nào đến cậu đều không thể đi theo họ”, tiếp theo lại niệm Phật hai giờ nữa, anh liền tỉnh táo trở lại, không còn hôn mê nữa, qua ngày sau, bà mẹ già tám mươi tuổi đột nhiên thuê một chiếc kiệu lên núi thăm anh.

Mới đầu bà dùng lời ngon tiếng ngọt khuyên, muốn con mình ngồi kiệu về nhà, nhưng anh không chịu, bà liền khóc lóc thảm thiết, anh cũng không chịu về! Cuối cùng bà dùng những tiếng ác ngữ để cưỡng bức, anh liền nói: “Má à! Má tự ngồi kiệu về nhà đi, con ba ngày nữa bệnh sẽ khỏi, con không cần ngồi kiệu đâu, tự con biết về nhà được mà!”.

Mẹ anh ta không còn cách nào, đành một mình quay về nhà. Xem ra điểm này cũng hình như là ma quỷ xui khiến mẹ anh ta đến ép anh ta về nhà.

Chánh niệm của anh thật phân minh, có thể nói là đã chiến thắng được ma, lại có thể biết trước thời khắc đến, qua tiếp ba ngày nữa chính là mùng 7 tháng 6, sáng hôm đó cư sĩ Hoàng Hỏa Triều và cư sĩ Triệu Đàm Thuyên từ Đài Trung lên núi thăm bệnh, an ủi các thứ, lúc đó anh rất là vui, nói chuyện cả một tiếng đồng hồ, lúc chia tay còn nói là muốn tiễn khách xuống núi.

Đến giữa trưa anh nói với người chị rằng: “Tại sao trời đất tối đen, giống như sắp mưa vậy?”.

Cô Chơn cùng mẹ và em gái ở bên giường bắt đầu trợ niệm, niệm khoảng hơn hai giờ, cô Chơn liền hỏi: “Cậu à! Bây giờ cậu có còn thấy trời đất tối đen nữa hay không?”.

Ông liền đáp: “Bây giờ trời đất không còn tối đen nữa rồi, chỉ thấy ánh sáng rực rỡ!”.

Cô Chơn liền hiểu rõ Phật lực không thể nghĩ bàn, tiếp tục trợ niệm không gián đoạn, các vị liên hữu trong cơ sở hoằng pháp đều nhanh chóng đến tham gia trợ niệm.

Niệm đến 3 giờ rưỡi chiều bỗng nhiên một đạo hào quang ánh vàng rực rỡ chiếu xuống, trong khoảnh khắc đầy nhà ánh sáng vàng sáng rỡ. Lúc đó cô Chơn gọi lớn: “Cậu à! Đức Phật A Di Đà đến tiếp dẫn cậu đấy, cậu nhanh chóng đi theo Ngài đi!”.

Huynh A Minh thở gấp một hơi, liền nương hào quang của Phật tiếp dẫn, an tường mà vãng sanh. Từ đây biển khổ Ta Bà bớt đi một chúng sanh phiền não, ao báu ở Cực Lạc tăng thêm một vị hành giả thanh tịnh.

*Liên hữu Dương Thị Thu sinh năm 1948, cư ngụ ấp Bình Phú, xã Hòa An, huyện Chợ Mới, tỉnh An Giang. Thân phụ là cụ ông Dương Văn Đốc, thân mẫu là cụ bà Nguyễn Thị Cảnh. Cô có cả thảy là mười một anh chị em và cô đứng thứ Chín trong gia đình.

Cô phát tâm ăn chay lúc 15 tuổi. Khi đó, trong nhà đã có vài người trường chay trước rồi. Nhằm lúc phong trào chấn hưng Phật Giáo tại Miền Nam rầm rộ, cô cũng có tham gia học lớp Giáo Lý do Bùi Văn Ưởng đảm nhiệm, đồng thời sau đó, cô làm công quả Ban Hậu Cần cho các khóa học tiếp theo ở nhiều nơi.

Khi đến tuổi hoa xuân, cha mẹ cô định bề gia thất như bao nhiêu cô gái khác, cô ngỏ ý chối từ nhưng song thân vẫn nhất quyết vì đã lỡ hứa với đàng trai rồi. Vả lại, cha của cô vốn xuất thân từ nhà giáo, luôn giữ chữ tín làm đầu.

Sau ngày lễ hỏi, cô mang đồ nữ trang đến tận gia đình bên nam, nói rõ chí nguyện của mình là khao khát được chuyên tu. Bởi vì cõi đời là bể khổ, có gì bền chắc đâu mà phải nhận chịu trầm luân, khổ đau vĩnh viễn. Cơ hội gặp được Phật Pháp là ngàn năm một thuở. Do không muốn để cho dây oan ràng buộc, hầu rảnh rỗi tâm tư tiện bề tu tiến. Nên hôm nay, cô xin trả lại các món nữ trang để được tu hành.

Thấy thế, cha mẹ cô vừa mừng vừa lo lẫn lộn, bởi hai ông bà đã am tường Phật Pháp và cũng là Phật tử thuần thành. Vì biết:

“Tu là cội phúc tình là dây oan.
Sợ e chỉ được giữa đàng,
Nếu như gánh gãy họ hàng xót xa!”

Từ đó, cô thường nghiên cứu kinh sách nhất là quyển Khuyến Thiện và vài phẩm trong bộ Hiển Đạo. Những câu cô thường tâm đắc là:

“Rán tu đắc đạo cứu cửu huyền,
Thoát chốn mê đồ đến cảnh Tiên.”

Và:

“Mau thức tỉnh tu thân kẻo trễ,
Đến tội rồi mới hối muộn màng.
Chi cho bằng ta sớm lo toan,
Gìn giới luật nghe kinh trọng Phật.
Đến lâm chung quả lành đâu mất,
Cõi Tây Phương chư Phật đợi chờ.
Việc tu thân thiện tín hẫng hờ,
Chừng họa đến e cho khó tránh.
Môn Tịnh Độ là phương cứu cánh,
Rán phụng hành kẻo phụ Phật xưa.”

Hoặc là:

“Sâu duyên Phật khiến kiếp này tu được,
Rán tu đừng bỏ cuộc Nữ Nam ơi!
Tu một đời giải khổ cả muôn đời,
Đã chịu khổ nhiều rồi đừng chịu nữa.
Mau tìm chỗ an vui chư Phật ở,
Chớ chìm luôn trong biển khổ trần gian,
Nếu kiếp này bến Giác chẳng tìm sang,
Thì kiếp tới còn mang nhiều nghiệp báo.”

Bẩm tính của cô chất phác, vui vẻ, từ hòa. Nghề nghiệp chính của gia đình là ruộng rẫy.

Sau khi song thân mất, các anh chị lớn đều kết hôn và ra riêng, còn lại cô và người anh thứ Tám (Chú Tám Vuông) và mấy người em sống chung, cùng hai cô con gái của người anh thứ Ba (Ba Ngay) để lại. Kinh tế gia đình, dường như cô thủ vai chính yếu nhờ thể lực tốt và tinh thần trách nhiệm cao, lại hay nhẫn nại cần cù. Hằng ngày, chăm sóc năm công ruộng và năm công rẫy. Đôi lúc, phải đem sản phẩm ra tận chợ Long Xuyên hoặc Cần Thơ để bán, nên khả năng điều khiển các phương tiện giao thông như: xe honđa, ghe, tàu… đối với cô chẳng mấy khó khăn gì. Vóc dáng “liễu yếu, bồ đào” dường như biến mất, cô nghiễm nhiên trở thành một trang “trượng phu hảo hán” thì đúng hơn ! Thỉnh thoảng, cô cũng thường kết duyên với bà con lối xóm bằng cái nghề nấu món chay trong những dịp đám tiệc tại tư gia, thậm chí các cô con gái của anh chàng rể hụt năm xưa, đến nài nỉ cô nấu giùm nhân ngày lễ xuất giá, cô cũng vui vẻ hứa nhận.

Đến đầu năm 1995 cô ngã bệnh. Ban sơ không nặng lắm nên điều trị thuốc Nam lây lất qua ngày. Vài tháng sau nhiều hơn nên chuyển ra Bệnh Viện Chợ Rẫy, nhưng không phát hiện được rõ rệt là bệnh gì. Thế là về nhà cô dùng thuốc Nam tiếp tục. Kế đó, vào nằm Bệnh Viện Đa Khoa An Giang một tháng rồi cô lại ra Chợ Rẫy. Lần thứ hai, nơi đây chụp hình và làm một số cận lâm sàng mới phát hiện khối u ở phổi, bác sĩ đành bó tay vì ở thời kỳ cuối nên cho cô xuất viện ra về.

Lúc này bệnh khá nặng, toàn thân cô sưng lớn lên, y phục cũ không còn thích hợp nữa, phải may y phục mới toàn bộ. Đồng thời, mời ông lương y tên là Sáu Câu ở Mỹ Luông đến xem mạch, hốt thuốc Bắc, cứ hai, ba ngày đi rước một lần. Nhờ vậy bệnh được cầm cự cho đến khi cô mãn phần là hơn một năm trời.

Về phần công phu hành trì thì từ trước đến giờ, cô chỉ dừng lại ở làm lành lánh dữ, tu nhân xử thế mà thôi. Thời khóa sớm tối cũng đều đặn nhưng ngắn, sau lễ Phật cầu nguyện thì cô ngồi niệm Phật nửa tiếng. Đọc kinh sách hay nghe băng giảng cũng ít vì thời gian lo làm kiếm tiền và xã giao nhiều hơn. Có lúc, cô làm thêm nghề buôn bán: đường, đậu… để tăng thêm thu nhập, được vài năm đến chừng phát bệnh mới ngừng lại.

Khi bệnh tiến triển nặng, mình mẩy sưng phù lên, hành hạ cô bằng những cơn đau nhức khó kham nhẫn, cô tự nghĩ: từ nào tới giờ, mình lo tu hiền, đâu có làm cái gì ác đâu mà mang chứng bệnh khổ như vầy!

Người anh thứ Tám của cô tức là chú Tám Vuông, biết được nỗi lòng của em gái mình, liền giảng giải về lý nhân quả thông suốt cả ba đời: quá khứ, hiện tại và vị lai cho cô nghe, còn dẫn chứng lời Cổ Đức:

“Hiền mà khốn đốn vì hiền mới đây.
Hung được sướng vì gây phước trước,
Phước hết rồi não nuột bá ban.
Chớ rằng hung được nhàn an,
Còn hiền khốn đốn trách than Luật Trời.
Thần minh khắp mọi nơi đều có,
Sự dữ lành lớn nhỏ thấy qua.
Không riêng những việc làm ra,
Trong lòng mới tính cũng là hiểu thông.”

Nhờ vậy mà cô tỉnh ra, chí thành sám hối, dứt hết nghi lự hoang mang.

Nhân đó, chú còn khai thị sâu thêm về pháp môn Tịnh Độ, khuyên cô nên buông bỏ muôn duyên, chuyên lo trì danh cầu sanh Cực Lạc. Bởi vì, xác thân này là tứ đại: đất, nước, gió, lửa giả hợp tạm có chứ không thật. Cuối cùng rồi ai cũng phải bỏ lại hết: cát bụi sẽ trở về cát bụi, chỉ có cách ráng niệm Phật để Phật rước linh hồn… Nghe xong cô vui vẻ làm theo. Mầm móng Bồ- đề khởi sắc từ đây!.

******

Nhờ cả đời chân thật tu hiền, luôn sống vị tha, tận hết bổn phận, hy sinh gánh vác gia đình, chẳng than phiền giận hờn hoặc so đo tính toán nên hoàn cảnh bệnh là tăng thượng duyên thù thắng, giúp cô buông xả mọi thứ dễ dàng, tín nguyện mỗi lúc một sâu chắc và khẩn thiết, công phu hành trì miên mật, tinh thuần rất nhanh chóng. Cô có ý định ngưng uống thuốc để chuyên niệm Phật cầu vãng sanh nhưng gia đình và bè bạn khuyên ngăn, do vì tốn kém không nhiều lắm, cô cũng hoan hỷ thuận theo nên gác lại dự định đó.

Mãi đến giữa tháng 7 năm 1996 cô yếu nhiều, mỗi tối thân quyến và đồng đạo đều đến trợ niệm cho cô. Trưa ngày 24 thấy cô mệt nhiều, mấy mươi người xúm lại hộ niệm cho cô, được một lúc, bỗng nhiên cô khỏe khoắn trở lại, cô cho biết là Đức Quán Thế Âm hiện thân bảo rằng: bốn ngày nữa cô sẽ xả bỏ báo thân.

Ngày 26 cô bị mệt trở lại, cuộc hộ niệm tiếp tục diễn ra từ chiều cho đến 10 giờ tối, bỗng dưng cô khỏe hẳn lại như người bình thường. Chú Tám hỏi trong lúc mệt nằm li bì đó em có nhớ niệm Phật không, cô đáp là cô niệm Phật tha thiết, thì thấy Đức Phật hiện ra, và tường thuật lại rằng:

– “Đức Phật rầy tôi, thời gian qua công phu tu của tôi hơi giải đãi. Ngài còn cho biết, thời gian bệnh của tôi đó là lúc phải trả nghiệp nhiều đời. Đức Phật cũng khiển trách chung tất cả chúng sanh ở đời này tuy phát tâm tu thì đông nhưng thật tâm giác ngộ, quyết rứt danh – lợi – tình để trở lại nội tâm thì quá ít. Đức Phật dạy nên về nói lại cho mọi người được biết: Hãy cố gắng tu hành theo chánh pháp mà Phật và Thầy Tổ đã chỉ dạy để được giải thoát an vui!…”.

Cô còn cho biết:

“Hai ngày nữa tôi sẽ được Phật rước!”
Có một người thân là cô Tý hỏi:

“Chị Chín! Bây giờ, người ta múc kênh rạch, làm cầu đường, kéo điện dẫn nước, đời sống văn minh tiến bộ quá sung sướng. Sao chị không xin Đức Phật để được sống thêm?”

Cô đáp:
“Thôi! Phật rước giờ nào đi giờ nấy, sống thêm có biết mình giữ được lập trường tinh tấn mãi không. Vả lại, cõi đời là giả tạm thì có cái vui nào được vĩnh viễn trường tồn, chỉ có cõi Cực Lạc mới là nơi An Dưỡng. Nay được Ngài thọ ký, lẽ nào lại xin ở lại cõi khổ này làm chi!”

Thời gian cô nói chuyện kéo dài hơn 30 phút, chú Tám vô cùng kinh ngạc. Xưa nay, sống chung trong nhà mà… em gái mình đâu có khả năng diễn thuyết hay ho quá mức… như thế này!!!. Có thể nói là trí tuệ của cô hiện giờ là hơn gấp mười lần so với lúc bình thường. Cho nên chú liền chạy lấy máy casset ghi âm, đến chừng mở lại, thì không có tiếng gì cả. Chú ngỡ là máy bị hư, cấp tốc chạy mượn máy thứ hai, nhờ cô lặp lại y như lần trước. Xong xuôi, mở nghe thì không có tiếng của cô, những câu hỏi của chú và cô Sáu Tý thì có. Chú cũng ngỡ là máy trục trặc bèn chạy mượn cái máy thứ ba về thì cô cho biết rằng, Phật không cho nói, rồi cô nằm im lặng.

Sáng ngày 27, triệu chứng sưng phù biến mất, những bộ bà ba cũ mặc vào rất vừa vặn. Từ đó, lúc nào cô cũng vui tươi niệm Phật.

Đến chiều ngày 28, khoảng 4 giờ, cô bắt đầu lên cơn mệt. Chú Tám bèn thỉnh nước cúng trên bàn Phật xuống đưa cho cô, cô đón lấy và nguyện lớn:

– “Nam Mô A Di Đà Phật.

Nhờ ân trên Đức Phật, từ bi gia hộ cho con uống ly nước này được tĩnh tâm trong giờ phút lâm chung!”.

Sau đó cô nhờ người nhà dìu mình lên giường. Vì bệnh phổi khó thở nên bấy lâu cô thường xuyên nằm trên võng có phủ trùm mùng lớn bên ngoài.

Do có thông báo trước nên chư liên hữu đến hộ niệm khá đông. Hộ niệm tới 5 giờ 55 phút chiều thì cô nhẹ nhàng trút hơi thở cuối cùng, tay vẫn còn chấp nơi ngực, gương mặt tươi sáng vui đẹp lạ thường. Nhằm ngày 28 tháng 7 năm 1996, cô hưởng dương 48 tuổi.

Trước đó cô có gởi cho ông Sáu Câu (lương y trị bệnh cho cô) một lá thư và dặn ông sau khi cô bỏ xác thì mở ra xem.

Thấy cô đã mất, ông Sáu liền giở thư ra đọc, thì thấy cô cho biết ngày giờ cô vãng sanh và còn chúc ông vui khỏe.

(Thuật theo lời chú Tám Vuông anh của cô, và cô Bé Hai cháu của cô)

*Cô Lương Thị Mọn sinh năm 1950, cư ngụ ấp Thạnh Lợi I, xã Trung An, huyện Thốt Nốt, tỉnh Cần Thơ. Cha tên là Lương Văn Ứng, mẹ là Nguyễn Thị Lũy.

Cô mồ côi mẹ từ thuở lên 10 tuổi, ít năm sau, cha tục huyền nên cô phải sống chung với người dì ruột.

Tính tình của cô chân thật và nhẫn nhường.

Đến năm 16 tuổi, được người dì bảo trợ cho học nghề may; hai năm sau, cô thành tài nhưng cô chưa có dịp làm ra tiền. Sáu năm sau nữa, mới mở tiệm may ở nhà người cậu, tại chợ xã Trung

An vào năm 1974, lúc ấy cô 24 tuổi.

Nhận thấy gia đình hay xảy ra nhiều chuyện buồn, nên ngày 30 tháng 4 năm 1975, cô phát tâm ăn chay với ý nguyện cầu cho gia đình vui vẻ trong thời gian chay lạt.

Từ đó, cô bắt đầu đọc kinh sách, kệ giảng, nhiều lúc cô tỏ ra rất thích pháp môn Tịnh Độ như quyển “Con Đường Tu Tắt”. Vì vậy cô dùng trường chay luôn.

Đến khoảng tháng 6 năm 1978 cô phát bệnh, sức khỏe yếu nhiều nên không dạy học trò may nữa. Thời gian này, cô được người cậu láng giềng là liên hữu Trần Công Danh giảng giải về Tịnh

Độ và đem kinh sách trao cho cô xem.

Kể từ giờ phút ấy, cô bắt đầu tinh chuyên nỗ lực niệm Phật không xao lãng và tha thiết nguyện sanh về thế giới Cực Lạc của Đức Từ Phụ A Di Đà.

Đến ngày 4 tháng 8, bệnh lần chuyển nặng bác Bảy nhà bên cạnh cũng rất lo ngại nên thường qua nhắc cô ráng nhớ niệm Phật.

Cô nói với các dì rằng:

– “Lúc này con cần được yên tịnh để niệm Phật, các dì đừng chở đi đâu cho thêm cực nhọc và tốn kém. Con biết bệnh của con không thể hết được vì đây là quả báo con phải đền trả cho sạch trước khi về Tây Phương”.

Tuy nghe thế nhưng các dì nóng lòng vẫn chở cô đi chạy chữa, hết Đông y tới Tây y, bệnh vẫn không thuyên giảm chút nào.

Trong người cô đột nhiên nổi mụt độc, hành cô đau nhức dữ dội. Có người chỉ đâm con còng sống hòa với thuốc uống vô chắc chắn sẽ hết, có kẻ bảo phải cúng “tam tai” thì bệnh mới lành.

Cô nói:
“Tôi đã nguyện trường chay niệm Phật nên thà chịu chết chứ không làm hại mạng khác để dưỡng mạng sống của mình. Còn cúng “tam tai” là dị đoan mê tín!”
Thế nên cô nhất quyết không làm theo. Trong lúc cơ thể đau đớn cùng cực mà cô vẫn đủ nghị lực để kiên định tín tâm, quả thật ít ai có được. Cổ Đức từng khuyên:
“Quyết tu sẽ có ngày đắc quả,
Đúng như câu vạn sự do tâm.
Học Phật đừng quên chữ thậm thâm,
Người bền chí sẽ tầm được Đạo.
Lấy nhẫn nhục chịu khi khảo đảo,
Đem giới răn để bảo vệ lòng.
Việc khó khăn và lúc gai chông,
Đủ nghị lực với lòng tin tưởng.
Cảnh xung quanh có nhiều ảnh hưởng,
Đừng để cho ép uổng được mình.
Trí huệ đem xem xét tận tình,
Thiền định lấy ra bình tâm địa.
Bao nhiêu đó biết lo trau trỉa,
Thì đường tu không ngã nửa chừng.
Chỉ một đời đủ chứng Phật Thần,
Đâu cần phải xả thân nhiều kiếp.”

Thấy tình hình nguy ngập, các dì đưa cô đến Bệnh Viện Đa Khoa Cần Thơ. Bác sĩ chẩn đoán là bị “Ung thư tử cung” cần phải phẫu thuật, cô nói với các dì:

“Con muốn yên tĩnh để niệm Phật chớ không muốn tâm trí mình bỗng nhiên mờ mịt vì bị chích thuốc mê như kẻ không hồn, làm sao còn nhớ niệm Phật được, xin các dì đưa con về!”

Cuối cùng, các dì phải chấp thuận đưa cô về.

Đến ngày mùng 8 tháng 8, bệnh trở nên trầm trọng, cô mệt nhiều, khi đi phải có người dìu. Khuya cô ngủ thiếp đi, mộng thấy Đức Phật A Di Đà hiện đến bảo rằng:

“Số con đến bây giờ đã hết nợ ở thế gian, con ráng trì tâm niệm Phật trong vòng 3 ngày nữa, Ta sẽ đến rước!”

Cô mừng quá, lạy Phật rồi giựt mình thức dậy, sức khỏe cô tự dưng bình phục lại như thường. Cô lau mình, rồi đi dâng hương lễ bái, lòng tràn đầy hoan hỉ, câu Phật hiệu chẳng rời.

Sáng ra, cô kể lại với các dì về điềm mộng đã gặp vừa qua.

Cô tin chắc Phật sẽ rước mình, nên cô dặn các dì lúc hộ niệm đừng khóc lóc, đừng tỏ ra bịn rịn trong khi cô bỏ xác và còn nhiều điều thuộc phạm vi gia đình như: bố thí, phân tán của cải riêng của cô và việc chôn cất…

Bà con hàng xóm nghe tin cô sắp được vãng sanh, rủ nhau đến hộ niệm và cầu an càng lúc càng đông. Họ ở hết đêm này đến đêm khác để quyết lòng thấy cho được giờ phút vãng sanh của cô.

Thế rồi trong đêm thứ ba, sau khi cầu an xong, cô trở nên tỉnh táo lạ thường, cô ngồi dậy cảm ơn hết mọi người. Vì thế có một số đông anh chị em nghi là cô chưa vãng sanh nên lần lượt ra về, chỉ còn mấy người dì túc trực mà thôi.

Khoảng 12 giờ khuya, bác Bảy nhà cạnh bên có qua thăm thì thấy cô nằm nghiêng bên phải, hơi thở đều đều, ngỡ là cô đang ngủ nên trở về nhà.

Kế đó, em cô vì mỏi mệt nên định vào thăm lần nữa rồi đi ngủ. Nhưng khi hé mùng thì thấy cô nằm ngay thẳng, hai tay chấp vào ngực, mắt nhắm, vẻ mặt vui tươi, bèn sinh nghi nên rờ thử thì mạch đã hết nhảy, nhưng toàn thân hãy còn ấm, không dám động đậy nhiều, liền báo tin cho Bác Bảy hay để hộ niệm. Lúc ấy 0 giờ 25 phút ngày mùng 10 tháng 8 năm 1978, vì có chuẩn bị trước nên ai cũng lo niệm Phật chứ không khóc lóc thở than.

Trong lúc đó, trên hư không có đạo hào quang sáng rực xẹt xuống nhà cô, bà Hấn và rất nhiều người ở xóm xem thấy, bà rất đỗi ngạc nhiên và bà quả quyết chắc chắn rằng:

“Cô Mọn chắc được Phật rước!”

Vì vào mùa nước nổi, có rất nhiều người đang giăng câu, giăng lưới ở ngoài đồng nhìn thấy ánh sáng, ánh sáng lớn quá nên họ ngỡ là nhà cháy.

Mọi người hộ niệm đến 6 giờ sáng, bác Bảy mới khám nghiệm thì các nơi trong cơ thể đều lạnh hết duy có đảnh đầu hãy còn nóng. Cô hưởng dương được 28 tuổi. Sau khi chứng kiến sự vãng sanh của cô, bà con nam nữ quanh vùng đã rầm rộ phát tâm ăn chay niệm Phật tu hành.

(Thuật theo lời của liên hữu Thiện Hảo, Bác Bảy Biệp và chư đồng đạo)

* Ông Nguyễn Văn Bơi sinh năm 1930, cư ngụ tại ấp Bình Hòa, xã Bình Phú, huyện Châu Thành, tỉnh An Giang. Thân phụ là cụ ông Nguyễn Văn Nhị, thân mẫu là cụ bà Nguyễn Thị Hằng. Ông là con thứ sáu trong gia đình có tám anh em.

Thuở nhỏ khi 7 tuổi bỗng dưng ông không ăn thịt cá gì được, chỉ ăn cơm với muối tiêu và chuối suốt 14 năm trường. Cha ông nài ép ăn mặn mãi, cũng vì lòng hiếu thảo ông đã cầu nguyện với

Trời Phật cho ông ăn được con cá, sau đó ông ăn cá không còn bị ói nữa.

Năm 24 tuổi ông kết hôn với bà Lê Thị Mới sinh được bốn trai sáu gái, gia đình sinh sống bằng nghề làm ruộng và nuôi cá.

Tính tình của ông chân thật, không thích hào nhoáng hình thức bề ngoài, thương người mến vật, cần kiệm. Tất cả mọi công tác từ thiện xã hội ông đều tích cực tham gia, như: bắc cầu, làm đường, sửa chữa chùa – đình, giúp người nghèo về mọi phương diện cơm – áo – gạo – tiền, cất nhà tình thương, hòm rương khi tống táng… Ông rất hăng say làm các việc này và xem đây là niềm vui trong cuộc sống, ngẫu nhiên tương ưng với nền tảng căn bản của sự tu tập, mặc dù ở thời điểm này ông chưa biết nhiều về chuyện Phật pháp tu hành. Vô hình trung khế hợp với lời khai thị:

“Được đi đến chốn Liên Hoa,
Ấy do tâm của người ta tốt lành.
Tốt lành nếu tâm mình có được,
Sẽ khiến cho huệ phước sanh ra;
Giải xong kiếp khổ người ta,
Do lòng lành tốt ấy mà tiến lên.
Nhà muốn cất phải nền móng trước,
Người muốn tu phải tốt lành tâm;
Tốt lành tâm chẳng chịu cầm,
Như nhà muốn cất mà mầm móng không.
Thích Ca cũng do lòng lành có.
Mới động tâm trước khổ của người,
Muốn người hết khổ được vui,
Nên hy sinh cả cuộc đời lo tu.
Lòng lành có Đạo Mầu sẽ có,
Có lòng lành tuy khó rán trau;
Lành tâm lành sự càng cao,
Tình người với Phật càng mau nối liền.
Tâm lành ấy nên khuyên nhau tạo,
Đời được vui và đạo được siêu;
Pháp tu thì có rất nhiều,
Nhưng môn nào cũng chỉ điều thiện tâm.
Có tâm thiện mới làm việc thiện,
Có lòng lành mới khiến tưởng lành;
Có nhân thiện niệm thiện hành,
Tất nhiên có quả tốt lành mai sau.
Nói việc thiện người nào cũng biết,
Nhưng mấy ai làm việc thiện đâu;
Thường ngày việc ác cứ bâu,
Thế nên kết quả thảm sầu nhiều hơn.
Quả tốt xấu do nhân thiện ác,
Giống dữ không thể gặt quả lành;
Ác mà muốn được phước sanh,
Khác nào nấu cát mong thành được cơm.
Muốn làm Phật chớ ôm tánh ác,
Tánh ác còn, còn các nguy nan;
Sống trong cảnh sống bất an,
Chết trong cảnh chết kinh hoàng sợ lo.
Khởi tâm thiện để cho đời thiện,
Các nghiệp qua cũng khiến tiêu tan;
Đời không thêm những báo oan,
Kiếp đày cũng chẳng còn mang sau này!”

Năm ông 65 tuổi thì phát bệnh, điều trị rất nhiều nơi: Bệnh Viện Chợ Rẫy, Bệnh Viện Phạm Ngọc Thạch và các bệnh viện ở An Giang, mỗi chỗ ông nằm viện một vài tuần, nhưng dây dưa như thế suốt ba năm trường mà tình trạng sức khỏe vẫn không hồi phục. Bác sĩ các nơi đều chẩn đoán ông bị: “suy tim”, “nám phổi” và “chai gan”, đồng thời khuyên gia đình nên để ông ở bệnh viện gần nhà vì ông tuổi đã già, để chăm sóc được phần dễ dàng thuận tiện hơn.

Ông có người con gái thứ Năm sống độc thân tu hạnh xuất gia, thường theo nuôi bệnh cho ông. Hằng đêm cô âm thầm khấn nguyện Ân Trên gia hộ sao cho cha mẹ mình sớm được tỉnh giác quy y Tam Bảo, trường trai tu niệm, để giải thoát khổ đau sinh tử luân hồi.

Lần nọ ông đang nhập viện ở An Giang, gần 20 ngày không ăn cơm cháo gì được. Mười ngày đầu còn ăn được bánh trái chút đỉnh, 10 ngày kế tất cả mọi thứ đưa vào miệng ông đều ói ra hết, ngay cả sữa cũng không uống được, chỉ thuần uống được nước trắng mà thôi.

Một đêm cô Năm mộng thấy có một người đến nói với cô rằng:

– Hãy bảo cha con phát nguyện trường trai quy y Tam Bảo, lo tu hành thì sẽ hết bệnh!

Sáng ra cô thuật lại điềm chiêm bao cho ông nghe. Nghe xong, ông nói:

– Ngày xưa ba đã cầu xin Trời Phật cho ba ăn con cá, thì ba ăn con cá chớ không ăn chay được!

Thấy ba mình không chịu ăn chay nên cô đi chợ mua cá lóc về nấu cháo. Khi dọn ra ông dùng được mới vài muỗng gì đó thì bỗng dưng phải mửa ra hết. Ông bèn nói:

– Sao kỳ quá con ơi! Hồi nảy ba nằm chiêm bao, ba thấy ba nướng cá. Tự nhiên con cá hóa thành ông già đầu trọc, ông già đó nói với ba rằng: Tao là ông nội mầy, sao mầy nướng tao? Rồi ba giật mình thức dậy!

Kế đó xuất viện, về an dưỡng nơi tịnh thất của cô Năm. Cô thường theo bên cạnh khuyên ông phát tâm ăn chay. Ông nói:

– Ba biết con thương ba lắm! Tu hiền thì cái gì ba tu cũng được, còn ăn chay, thì ba ăn chưa được con ơi! Hơn nữa ba còn bệnh mà!

Trải qua thêm 10 ngày nữa cũng không ăn uống thứ gì được hết. Thấy thể lực của ông suy sụp quá đỗi, gia đình bèn dự định đưa đi bệnh viện ở Sài Gòn. Sau khi đã chuẩn bị xong đồ đạc sắp sửa lên đường, cô Năm nghe trong người hơi mệt, khó chịu, bèn ngã lưng trên chiếc võng ngủ thiếp đi. Cô thấy có một đồng đạo mặc bộ đồ lam từ bên ngoài bước vào cửa nói với cô rằng:

– Cô phải phát nguyện quy y cho ông cụ, và cho ông cụ trường trai luôn thì hết bệnh. Nếu đưa đi Thành Phố thì ông cụ sẽ bỏ xác ngoài đó!

Khi giật mình thức dậy thì ông cũng nằm gần bên, liền lên tiếng hỏi cô:

– Nãy giờ ngủ ngon quá hả con?

Cô bèn thuật lại giấc mộng vừa mới gặp. Rồi hỏi ông:

– Vậy thì ba tính sao?

Ông nghe xong im lặng trầm ngâm suy tư vài phút, rồi đáp:

– Thôi thì con đỡ ba lên đi! Rồi thắp nhang phát nguyện cho ba quy y đi; nếu ba ăn chay được thì ba ăn chay cho tới ngày bỏ xác luôn.

Cô bèn cùng cô Út Giềng (một bạn đồng tu cùng ở chung thất với cô) dìu ông lên gác nơi thờ ngôi Tam Bảo, thắp hương làm lễ phát nguyện quy y và trường trai cho ông. Xong rồi, khi dìu ông trở xuống, vừa đúng lúc có vài vị khách mới đến, bà vợ của ông đang dọn cơm để đãi. Trên mâm mắm chay kho cà khói bay tua tủa… gỏi gém đủ màu, cải rau đủ loại,… hương xông ngào ngạt, thơm ngát cả vùng! Ông chợt nghe trong lòng thèm và muốn ăn, nên nói với cô Năm:

– Ba thấy ba ăn được đó con! Con cho ba ăn đi!

Khi dìu tới nơi, đỡ ông ngồi xuống để dùng cơm chung với mọi người. Cô Năm rất lo lắng, tha thiết khẩn xin:

– Thôi, ba ăn một chút xíu thôi, thưa ba!

Ông mạnh dạn trả lời:

– Ba ăn được mà!

Thế là ông ăn luôn một mạch ba chén cơm đầy, mắm cà rau gỏi chi cũng chả cần phải kiêng kỵ gì cả, trong khi đó cô Năm nín thở mất hồn dõi mắt nhìn theo mà lòng vô lượng phập phồng, vô biên lo sợ. Dùng cơm xong, ông phấn khởi tinh thần hô to:

– Vậy là được rồi! Tui ăn được rồi… Vậy là tôi ăn chay cho tới chết luôn… Phật Pháp quá nhiệm mầu rồi… Bây giờ tôi nguyện tôi ăn chay cho tới ngày bỏ xác luôn!

Nói vừa dứt câu, ông đứng phắt dậy gọn hơ khỏi cần ai đỡ, thấy bên cạnh có treo một buồng chuối già cui chín, ông bèn rứt một trái, ăn xong thấy vô cùng ngon miệng liền rứt thêm một trái nữa.

Kế lại thấy trên bàn có ly nước đá chanh, ông nhẹ nhàng bước sang mở lòng từ duỗi tay độ tận!

***

Theo cơ chế sinh lý của hệ thống tiêu hóa, thông thường sau khi ngưng ăn hoàn toàn từ năm đến bảy ngày trở lên, trước khi ăn uống thức ăn trở lại, phải tuân thủ nguyên tắc: từ lỏng tới đặc, từ mềm đến cứng. Nghĩa là phải theo thứ tự: uống nước gạo rang, nước cơm, nước cháo, ăn cháo lỏng, ăn cháo đặc, ăn cơm nhão, cuối cùng mới ăn uống bình thường.

Trường hợp của ông đã 20 ngày ngưng ăn hoàn toàn, thì thời gian tuân thủ nguyên tắc này phải mất ít nhất là năm ngày trở lên. Nếu không, thì hậu quả chắc chắn phải cho vào hòm rồi khiêng ra nghĩa địa. Mạnh mẽ khẳng định một câu thẳng thừng như đinh đóng cột rằng là:“ Không có con đường thứ hai!” Vậy mà trường hợp của ông quả là “chuyện lạ- khó hiểu” nhưng mà… “có thật” trên cõi đời này!

Sáng hôm sau ông phóng lên chiếc xe đạp, ra ngoài đường nhanh chân phi nước đại. Khung cảnh làng quê hôm nay, trông sao thân thương vui đẹp quá! Lòng trào dâng niềm khoan khoái, niềm vui thích vô bờ. Như chim sổ lồng về tổ cũ, tung đôi cánh bay giữa trời cao, hùng hổ lao về phía trước, bỏ lại sau lưng gánh nặng bao nỗi ưu phiền của những chuỗi ngày dài đầy khổ đau và bệnh tật! Trời xanh hơn, mây trắng hơn, ông nghe trong ông mùa xuân thuở xa xưa sống lại nơi hồn! Miệng luôn thì thầm: “Phật Pháp… quả thật… quá… nhiệm mầu!”

***

Được hơn hai năm vào khoảng tháng 5 năm 2000, bữa nọ ông đi đẩy tiếp chiếc ghe cho người lối xóm, vì vận động quá mạnh nên ruột bị thòng. Các con đưa ông đến Bệnh Viện Hạnh Phúc ở An Giang để phẫu thuật bẹn đem ruột lên. Bác sĩ nói:

– Ông ăn mặn tui mới mổ cho ông, bệnh mới mau hết, sức khỏe ông hiện giờ kém lắm. Ông ăn chay tui không dám trị cho ông!

Ông bèn quay sang bảo cô Năm:

– Thôi về con ơi! Cuốn quần áo về! Kệ nó, chết thì chết, mình cũng trọn đạo. Chớ bây giờ không có ăn mặn, không có… gì hết! Ba nhất định ăn chay!

Bác sĩ cười nói:

– Thôi, ông quyết định mạnh mẽ quá! Vậy thôi, ở lại con trị cho ông, ông ơi! Từ đó tới giờ con mới gặp ông lần thứ nhất. Mà thấy thương quá, để con trị thuốc thang cho ông. Tại con nói vậy chớ ông không chịu ăn mặn thì thôi!

Kể từ khi trường trai ông chuyên cần niệm Phật cầu sanh Tây Phương Cực Lạc. Xưa nay ông cũng niệm Phật nhưng cầu vãng sanh thì rất hời hợt yếu ớt, thường lo làm việc phước thiện nhiều hơn. Ông có tật nghiện thuốc lá rất nặng, nhưng rồi ông mạnh mẽ dứt bỏ gọn gàng. Bao nhiêu tiền do con cháu cho, ông đều đem đi bố thí hết, không hề cất chứa. Ông thường ở tu nơi tịnh thất của cô Năm, ít khi về ở nhà, bởi vì nơi đây yên tĩnh rất dễ nhiếp tâm khi lễ bái trì niệm. Công khóa thường ngày của ông là ba thời, sau lễ lạy thì ngồi niệm Phật khoảng một giờ. Sự hành trì cứ đều đặn như thế, chưa từng trễ sót. Ông thường tâm đắc và nhắc nhở con cháu:

“Tu hành nào đợi mùi hương,
Miễn tâm thành kính tòa chương cũng gần.”

Chữ “chương” có nghĩa là sáng sủa, rực rỡ, chói lọi. “Tòa chương” theo nghĩa hẹp là chỉ cho tòa sen nơi cõi Cực Lạc do vô lượng chất báu làm thành; còn nghĩa rộng là chỉ cho Phật quả cứu cánh viên mãn. Ý nghĩa đại khái của hai câu trên là: Sự tu quí ở thực chất, chứ không phải ở hình thức bề ngoài. Hành giả niệm Phật cầu sanh về Tây phương thì chú trọng ở tâm “chí thành cung kính”. Dùng tâm “chí thành” cùng “cung kính” mà lễ Phật, niệm Phật thì chuyện vãng sanh không khó khăn, không xa xôi gì cả!

Đến tháng 11 năm 2004 bệnh tái phát, các con đưa ông vào bệnh viện ở An giang. Ông hỏi bác sĩ:

– Bác sĩ ơi! Bệnh của tôi chắc không qua khỏi hả, bác sĩ?

Bác sĩ đáp:

– Bệnh của ông không sao đâu!

Ông nói:

– Thôi bác sĩ đừng có nói không sao! Tôi biết rồi. Tôi biết cái bệnh của tôi là không có qua khỏi đâu! Bác sĩ nhắm thấy trị cho tôi được thì tôi ở đây trị; còn không thì tôi về để yên tĩnh, tôi niệm Phật!

Bác sĩ trả lời:

– Bây giờ ông muốn về thì về. Kiếm thuốc Nam thuốc Bắc uống thêm. Chớ cái gan của ông chai hết rồi!

Ông nói với cô Năm:

– Vậy thôi mình về con ơi! Phật cho mình sống ngày nào thì mình lo niệm Phật ngày nấy. Còn ba có ra đi thì ba cũng về với Đức Phật A-di-đà, ba tu thêm… chừng nào hoàn toàn ba sẽ trở lại cứu vớt chúng sanh!

Xuất viện về nhà là ngày 12 tháng 11 năm 2004. Về nhà ông uống thuốc Nam và chích thuốc, nhưng bệnh mỗi lúc một trầm trọng, hành hạ ông bằng những cơn đau kịch liệt, các con cháu luân phiên hộ niệm. Ông thường nói:

– Nó quậy ba dữ lắm con ơi! Nó đứt từng khúc ruột. Mà có điều là ba rán cố gắng lên. Nó đau bụng quặn khúc, đứt khúc ở trỏng, mà ba cố gắng lên, ba lo niệm Phật… Chớ không cố gắng niệm Phật là ba la làng đó con!

Cô Năm cũng thường nhắc:

– Ba à! Con lúc nào cũng mong mỏi ba hướng về Đức Phật A-di-đà… cho nên dù có mệt có đau đớn cách mấy, ba cũng rán niệm Phật cho con thấy đặng con yên tâm nghen ba!

Hơn một tuần vật vã dữ dội trôi qua, đến ngày 20 thì ông không chịu uống thuốc, chích thuốc, ăn uống gì cả, chỉ uống nước cúng Phật. Cơn đau nhức cũng tan mất dần.

Sáng ngày 22 gương mặt của ông bỗng nhiên hồng hào, sáng chói, môi đỏ, luôn lộ nét tươi tắn hoan hỷ (trước đó thì xanh lè xanh lét, đôi mắt thụt sâu). Các con ông ngỡ rằng bệnh tình của cha mình chắc đã hồi phục. Cô Năm chẩn mạch thì mạch đã hết nhảy rồi.

Khoảng 6 giờ sáng ông nhờ gia quyến đỡ ngồi dậy, ngã mình tựa vào người thân, rồi ông hỏi cô Năm:

– Hôm nay là ngày mấy rồi con?

Cô đáp:

– Hôm nay là 22!

Rồi cô hỏi lại:

– Thôi con chích thuốc khỏe cho ba nghen?

Ông nói:

– Thôi! Ba hết bệnh rồi. Đừng có chích thuốc gì hết. Chiều nay ba đi!

Cô Năm sợ ông nói sảng, bèn hỏi:

– Ba đi đâu, thưa ba?

Ông trả lời:

– Ba về với Phật! Sáu giờ chiều nay là ba đi!

Cô vừa cười vừa nói:

– Thường thường đi về Phật, là đi giờ trưa chứ đâu có ai đi giờ chiều. Giờ chiều đâu có về với Phật được!

Ông nói:

– Về Phật lúc nào cũng về được, do cái tâm của mình đó!… Chừng nào ba đi thì con biết liền!

Cô đề nghị:

– Nếu mà lúc nào cũng về được thì ba về sáng này đi!

Ông liền mỉm cười chứ không đáp. Kế đó ông cho họp các con cháu lại, bèn nói:

– Các con ở lại rán lo tu hành. Nhứt là má nó rán lo tu mới gặp tui nghen!… Tui về Cực Lạc rồi, bà không tu là bà không có gặp tui đâu. Bây giờ tui về với Phật A-di-đà rồi!

Rồi ông dặn riêng từng người con, khuyên tất cả rán lo tu hiền, rán lo niệm Phật…

– Các con ở lại rán lo tu,… rồi chăm sóc mẹ, cũng như chăm sóc ba vậy đó!… rồi khuyên mẹ rán lo niệm Phật … lo tu nghen con!

Dặn dò xong, ngước mắt nhìn lên bàn Phật, ông nói với cô Năm:

– Chiều nay ba về Phật rồi, con gom hết bông trên bàn Phật, mua bông khác thay vô. Rồi lấy bông đó nấu nước cho ba tắm. Để ba sạch sẽ ba ra đi!

***

Khi đã tắm gội thay y phục xong, ông nằm im nhiếp tâm niệm Phật, con cháu vây quanh cùng niệm Phật tiễn đưa.

Kế đó đồng đạo các nơi cũng được mời đến tham gia trợ niệm rất đông. Gần đền 6 giờ chiều, đôi ba phen ông chắp hai tay lại nơi ngực, cuối cùng ông tự sửa tay chân xuôi thẳng, rồi nhẹ nhàng trút hơi thở cuối cùng trong âm thanh Phật hiệu vang dội của mọi người. Trước khi giã từ trần thế đầy sầu thương dâu bể để về Phật cảnh an vui, ông thở ra một hơi dài môi vẫn nhép niệm Phật để cho con mình an tâm, vì thường ngày cô Năm hay thỉnh cầu như thế! Lúc đó đúng 6 giờ chiều, ngày 22 – 11 – 2004, ông hưởng thọ 74 tuổi.

***

Trong khi mọi người đang tiếp tục trợ niệm được hai, ba mươi phút gì đó, thì có một chiếc xe chở quan tài tới nhà, ai cũng chưng hửng ngỡ ngàng! Hỏi ra mới biết cái hòm này ông đã đặt trước cả năm rồi, và mới đây (hơn một tháng) ông đã chạy xe đạp đến tiệm trả tiền, và còn dặn dò đi dặn dò lại với chủ tiệm rằng:

– Tui biết… tui mất rồi. Con tui… tụi nó… không có xài hàng này đâu! Nên khi tui mất, anh chở vô liền cho tui nghen! Để không thôi nó mua hàng khác là anh chở vô không được với tụi nó đó!

***

Nhiều ngày trôi qua, cô Năm thường nghĩ: Ba mình ra đi như vậy mà… chẳng biết chắc chắn có được vãng sanh hay không? Đúng ngày tuần thất thứ bảy vừa hoàn mãn, đêm đó cô nằm mộng thấy một người to lớn, dung mạo phương phi, cao hơn ba mét, gương mặt trắng trẻo hồng hào, trái tai dài hơn một gang, mặc áo tràng màu nâu bước vô nhà. Cô giật mình không biết là ai. Khi nghe âm thanh cô mới nhận ra là ba của mình. Ông nói:

– Con à! Ba được về Tây Phương gặp Phật học đạo rồi. Con đừng có lo lắng nghĩ ngợi gì nữa! Con rán lo buông bỏ hết các chuyện bên ngoài, con mới vào chánh định được… Con mới về với Phật được nghen con!

(Thuật theo lời cô Năm Ngời, con gái của ông)

Cõi Cực Lạc lắm điều thanh nhã,
Khổ buồn rầu lo sợ chẳng còn.
Chốn Ta bà tim lụn dầu mòn,
Thân tứ đại của người cũng thế.
Mau thức tỉnh tu thân kẻo trễ,
Đến tội rồi mới hối muộn màng.
Chi cho bằng ta sớm lo toan,
Gìn giới luật nghe kinh trọng Phật.
Đến lâm chung quả lành đâu mất,
Cõi Tây Phương chư Phật đợi chờ.

Tóm lại, lợi ích của niệm Phật không thể kể hết, ngoài kết quả có công đức trí huệ vô lượng vô biên, còn được các Phật mười phương hết lời khen ngợi, các vị Quan Âm, Thế Chí, chư Bồ Tát, chư Thiên Thần ở các cõi, ngày đêm ẩn mình ủng hộ, dù gặp tai nạn to lớn cũng được khỏi.

Và dù cho người căn cơ có ngu độn cách mấy mà biết thành tâm niệm Phật cũng được chứng đắc đạo quả, nhứt là được vãng sanh Cực Lạc. Tổ tiên cha mẹ quyến thuộc nhiều đời số đông không lường, cũng được ảnh hưởng vào công đức niệm Phật của mình mà đồng được sanh qua cõi Tịnh Độ. Vì lý do ấy, chúng ta ngày cũng như đêm, giờ trước như giờ sau, năm này như năm khác nơi lòng luôn luôn cố gắng niệm Phật.

Chỉ một niệm cầm lòng đi tới,
Phật Tây Phương sẽ gọi đến tên.
Chốn liên trì sen báu nở lên,
Khi mãn kiếp ngồi trên chín phẩm.

-Hết-

Tài liệu tham khảo:

Thiện Đạo Đại Sư Pháp ngữ
Hành Sách Đại Sư Pháp ngữ
Thật Hiền Đại Sư Pháp ngữ
Ấn Quang Đại Sư Pháp ngữ
Châu Lâm Pháp Uyển (tập 3 & 4)
Vãng Sanh Truyện (Liên Trì Đại Sư)
Đường Về Cực Lạc (HT Thích Trí Tịnh)
Mấy Điệu Sen Thanh (HT Thích Thiền Tâm)
Quan Âm Bổn Tích
Tân Biên Quán Âm Linh Cảm Lục
Tam Bảo Cảm Ứng Yếu Lược Lục
Địa Tạng Bồ Tát Linh Cảm Lục
Tịnh Không pháp sư Pháp ngữ
Giáo trình huấn luyện Đạo Đức của Ban Hoằng Pháp ngôi Tây An Cổ Tự
Hiển Đạo – TS
Tự Truyện Một Người Tu (P.10 – Người tu và Danh vọng – Thích Hạnh Nguyện)
Niệm Phật Cảm Ứng Tai Nghe Mắt Thấy
Báo ứng hiện đời (Hạnh Đoan dịch)
Và những pháp ngữ của chư Tổ cũng như các bậc cao đức của Tịnh Độ tông cùng nhiều kinh sách khác.