VĂN KHUYẾN TU (I)

Vóc bào ảnh lắm người yêu tiếc,
Yêu tiếc thân cho thiệt vì thân,
Cuộc vui những ước vô ngần,
Nào hay vui vẫn là nhân chác sầu !
Kiếp phù thế bóng câu cửa sổ,
Chất huyễn hư giọt lộ lồng hoa,
Ðôi mươi trẻ, chín mươi già,
Số phần yểu thọ khó qua vô thường.
Dép dưới giường, lên giường vội biệt,
Sống ngày nay, dễ biết ngày mai?
Mạng người hô hấp kinh thay !
Nghĩ cơn vĩnh biệt tuyền đài mà đau.
Xót duyên kiếp vì sao ngắn ngủi?
Chấp thân chi để tủi cho thân,
Da bao những thịt xương gân,
Xác nầy dường thể đống phân sạch gì ?
Tóc, răng, móng khác chi đất bợn,
Mũi, dãi, đàm nên tởm xiết bao !
Bên ngoài rệp đút muỗi đeo,
Bên trong sán, lãi lẫn vào nhớp chưa ?
Nỗi nóng bức ngày trưa tiết hạ,
Cơn lạnh lùng, đêm giá trời đông,
Xét thân nhơ khổ vô cùng,
Dứt lòng tham luyến, khởi lòng thoát ly.
Trách người thế mê chi lắm nhẽ,
Sánh phong lưu phô vẻ y quan,
Kẻ khờ cũng học đài trang,
Ðể lòng điên đảo theo đàng sắc thanh.
Ðầu xương sọ cài trâm thắt lụa,
Ðãy da hôi ướp xạ xông hương,
Khéo đòi nhung gấm phô trương,
Chỉ tuồng che lớp vô thường hôi tanh.
Những mảng tưởng ngày xanh muôn tuổi,
Lắm cơ mưu đeo đuổi yên hoa,
Ngờ đâu tai điếc, mắt lòa,
Diêm Vương sắp rước đến tòa U minh.
Làn tóc bạc đưa tin quỉ sứ,
Gốc răng long điềm chỉ qui âm,
Càng tài, càng sắc, càng dâm,
Càng thêm đọa lạc càng lầm mà thôi.
Cuộc hành lạc một thời thương tiếc,
Nẻo luân hồi muôn kiếp đắng cay,
Ðến khi sắp xuống diêm đài,
Thịt xương đau nhức, chân tay rụng rời.
Vợ lưu luyến đầy vơi giọt lệ,
Con thảm thương kể lể khóc than,
Dù cho quyến thuộc trăm ngàn,
Có ai thay thế cho chàng được chăng ?
Kẻ sống ở nặng quằn gánh tủi,
Người chết đi dong ruổi phách hồn,
Ðường âm mờ tựa đêm hôm,
Trông ra quạnh quẽ bồn chồn thảm thê.
Nại hà đến lạnh tê gió lốc,
Quỉ môn sang ghê gốc tiếng thương,
Bảy ngày lìa quá cõi dương,
Âm ty đã trải trăm đường hỏi tra.
Tòa quan xử thét la chẳng vị,
Ngục tốt hờm tay chủy, tay xoa,
Ðài gương nghiệp cảnh sáng lòa.
Soi tường thiện ác chối qua được nào.
Người nhân đức cho vào cửa phước,
Kẻ hung hoang giải trước hình ty,
Ðọa đày khổ sở xiết chi,
Mới hay nhân quả mấy khi sai lầm.
Rừng đao kiếm bao năm hết tội,
Kiếp sừng lông nhiều nỗi đa mang,
Trả đền cho dứt nghiệp oan,
Mới mong thoát khỏi con đàng long đong.
Dù ai có to lòng, lớn mật,
Mặc chàng hay báng Phật khinh Tăng,
Chẳng qua đối trước Diêm quân,
Cúi đầu co gối chịu phần xử tra.
Hồn phách đã xa chơi âm giới,
Thi hài còn ở cõi dương gian,
Có tiền mua lớp áo quan,
Không tiền vùi chốn núi hoang lạnh lùng.
Chất da thịt sẽ cùng tan rã.
Tấm hình hài lần hóa tanh hôi,
Chỉ trong chầy sớm mà thôi,
Chầy năm bảy tháng sớm thời ít hôm.
Nét kiều diễm chập chờn xuân mộng,
Kiếp tài hoa hình bóng bạch vân,
Khi xưa tài sắc mười phân,
Mà nay một nắm cô phần lạnh tanh.
Thời oanh liệt hùng anh đâu tá,
Cuộc ái ân hư giả còn chi,
Phất phơ cành liễu xanh rì,
Giấy tiền treo đó dường ghi mối sầu.
Bóng chiều rũ xuống mầu cỏ biếc,
Bia mồ trơ một chiếc vắng không,
Nghĩ thôi rơi lệ chạnh lòng,
Ðời người đến thế là xong một đời !
Ví chẳng biết tìm nơi giải thoát,
Nương về ngôi Chánh giác qui y,
Luân hồi hẳn dứt có khi,
Bên trời Bát Nhã còn chi lo phiền.
Lối ma quỉ đừng riêng mưu sống,
Ðất từ bi gieo giống hoa Ðàm,
Giữ lòng thiện, dứt lòng tham,
Gái, trai, Tăng, tục đều kham tu hành.
Rõ cảnh mộng chớ quanh đường mộng,
Biết miền chơn, kíp chóng tu chơn,
Dần dà tính thiệt so hơn,
Tuổi xuân qua mất để hờn về sau.
Sáu chữ Phật cùng nhau gắng niệm,
Chín phẩm đài sen chiếm ngôi vinh,
Chớ nên mình phụ lấy mình,
Trách sao Diêm lão vô tình chẳng dung.
Bỏ điều ác xin làm theo thiện,
Chừa lỗi xưa tu tiến đường sau,
Lại vì quyến thuộc bảo nhau,
Cùng khuyên già trẻ sớm mau tu trì.
Khiến mỗi kẻ đồng qui bến giác,
Cho mọi người đều thoát sông mê,
Dù trong lao khổ dám nề,
Ðài sen đốt mảnh hương thề nguyền xin…
Nguyền xin dốc tưởng tin lời Thánh.
Dám để cho rỗi rảnh ưu du,
Kiếp nầy chẳng gắng chuyên tu,
Còn e kiếp khác công phu lỡ làng.

– Trích “kinh Nhựt Tụng Sen Vàng” ấn bản – Chùa Ấn Quang 1968. Ðối chiếu “Liên Hoàn Sám nguyện” Sa Môn Thích Thiện Tâm – Sa Ðéc 1961.


VĂN KHUYẾN TU (II)

Từ vô thỉ một màu thanh tịnh,
Vẫn bao la chẳng bến chẳng bờ,
Không, không, dơ sạch, sạch dơ,
Không tăng, không giảm hư vô không bằng.
Lạc một bước sa chân mang hổ,
Phải vô minh lắm độ truân chuyên,
Vào ra lục đạo triền miên,
Làm thân tứ loại thảm phiền biết bao.
Gây tội ác càng cao càng nặng,
Núi Thiết vi khó đặng thoát ra,
Ở trong khắp hết Ta bà,
Mang thân thọ khổ kể mà sao xong.
Thế có kẻ theo dòng bể khổ,
Cho rằng vui mà nỡ đắm say,
Một mai thân đã đến ngày,
Ôi thôi ! Hồn biết giờ nầy đi đâu ?
Hoặc địa ngục, hoặc đầu thai thú,
A tu la, ngạ quỉ chăng là,
Ngục hình thọ khổ kêu la,
Súc sanh đày đọa, Tu la ưu phiền.
Lũ ngạ quỉ huyên thuyên vô số,
Chịu đói hoài lửa đỏ tứ tung,
Xung quanh những cảnh não nùng,
Lâm ly thống thiết khôn cùng xót xa.
May gặp lúc người ta để bước,
Chốn trần gian mà lướt chông gai,
Kẻ mê đắm đuối hướt hài,
Mãn rồi thế cuộc hình hài ra tro.
Còn kẻ trí tò mò xét nghĩ,
Cái thân nầy có tí nào vui,
Trải qua một cuộc tới lui,
Lưng còm gối mỏi xa trời gần hang.
Ðể mắt ngó gò hoang nghĩa địa,
Cỏ xanh rì mai mỉa người đời,
Kẻ giàu người khó khác thôi,
Mãn phần rồi cũng về nơi chốn nầy.
Kẻ sang trọng với người hèn hạ,
Ba tấc hơi mồ mả chung đây,
Người già người trẻ bằng nay,
Cũng đồng gởi xác ra ngoài gò hoang.
Kìa phụ nữ nọ chàng nam tử,
Lúc chung qui đều ngự cỏ xanh,
Kẻ đui người điếc lưu manh,
Hồn qui dị lộ gởi mình hang sâu.
Kẻ vương bá công hầu tể tướng;
Lâm trận đồ cũng mượn gò kia,
Ai ôi ! Nghĩ kỹ ai bi !
Cái thân không thiệt, hồn đi nơi nào ?
Sực tỉnh lại mau mau tu tập,
Kíp qui y Phật, Pháp cùng Tăng,
Hôm mai giới luật ân cần,
Chuyên câu niệm Phật độ thân cho rồi.
Kìa Cực lạc là nơi an dưỡng,
Ðất lưu ly vô lượng khiết tinh,
Có ao thất bảo quang minh,
Có sen chín phẩm lớn kình bánh xe.
Lại thất bảo ngỏa nguê đẹp đẽ,
Nước bát công sạch sẽ tinh vi,
Bảy hàng cây báu lưu ly,
Lan can bảy lớp ma ni sáng ngời.
Chim nói pháp hôm mai êm dịu,
Hoa trên không nhiêu nhiểu khắp cùng,
Khắp trong một sát độ trung,
Dị hương thanh nhạc vui mừng thảnh thơi.
Nơi bảo tọa một tòa vương pháp,
A Di Ðà nói pháp thuyết kinh,
Trang nghiêm vô lượng quang minh,
Hào quang sáng chói ba thành mười phương.
Ðại Thế Chí pháp vương chi tử,
Tọa liên đài một chữ tiếp sanh,
Tay cầm sen trắng thanh thanh,
Bước đi thế giới rung rinh ba ngàn.
Quan Thế Âm nghiêm trang tự tại,
Chấp tịnh bình tay sái cam lồ,
Hóa thân khắp cõi hư vô,
Ðộ loài tam giới tam đồ vãng sanh.
Kẻ học Phật hiểu rành chơn lý,
Phật tức tâm lý sự tỏ tường,
Tâm là tịnh, khó nghĩ lường,
Di Ðà Cực lạc tìm phương độ rồi.
Khá suy xét ngộ rồi sẽ thấy,
Rán công phu chớ cậy tài cao,
Phải hành lục độ dồi trau,
Nhứt tâm trì niệm rồi sau đắc thành.
Tín, hạnh, nguyện thi hành hằng bữa,
Gắng ghi luôn trau thửa tấc lòng,
Bồ đề nảy nhánh đơm bông.
Lên thuyền Bát nhã hội đồng pháp thân.
Khá ghi lời thuyết chánh chân !

– Trích đối chiếu bổ sung từ ba bản :
* Kinh Nhựt Tụng Sen Vàng – Chùa Ấn Quang 1968.
* Tam Bảo Tôn Kinh – Thích Ca Tự Sàigon 1967.
* Liên Hoàn Sám nguyện – Sa Ðéc 1961.


ÐƯỜNG VỀ TỊNH ÐỘ
(Khuyến tu III)

Dật dờ trong cảnh phong ba,
Canh già vừa trổi, tỉnh ra giấc nồng,
Chợt nhìn Nam, Bắc, Tây, Ðông,
Ngẩn ngơ cuộc thế, đau lòng thiết tha,
Nguyện cùng Phật tử chúng ta,
Kết tình liên lạc thuận hòa với nhau,
Muốn cho đoàn thể thanh cao,
Một lòng thù tạc, trước sau trọn niềm.
Thôi đừng đem dạ kỵ hiềm,
Chớ phân giai cấp, để tìm đường chơn,
Cũng đừng tính thiệt so hơn,
Giúp nhau tận lực trong cơn tai nàn.
Như là tuần tự, khổ tang,
Cùng là bịnh hoạn, thuốc thang nuôi giùm.
Ðó là như mở gông cùm,
Trên đời chưa có cái giùm nào hơn.
Tùy theo phương tiện làm ơn,
Chẳng nên thái quá, e lờn mối tâm,
Chẳng cần tiền chục bạc trăm,
Chị em dư dả đậu năm ba tiền,
Nghèo thì công cán thay phiên,
Giúp nhau giữa lúc cảnh duyên âu sầu.
Tu hành lấy đó làm đầu,
Muốn lên đường cả, bước đầu từ đây,
Giàu nghèo đừng vị đừng tây,
Tập lòng bình đẳng sớm chầy phải nên,
Biết nhau đạo lý đừng quên,
Con đường chánh đại dẫn lên một lần,
Công tâm một mực phải cần,
Ðừng riêng tâm niệm kẻ gần, người xa.
Chị em tỷ ở trong nhà,
Nhìn nhau như một mẹ cha đó mà,
Thương nhau như tấm ruột rà,
Buông lòng chấp nhứt dung tha lỗi lầm.
Ðừng xen cái nét tư tâm,
Tránh đường tam độc, để tầm cửa không.
Quét lần lòng sạch bụi hồng,
Sát con ma nghiệp, nuôi lòng từ bi,
Quày đầu tỉnh giấc vô tri,
Mới hay thế sự cái gì cũng sai,
Lẽ thì nuôi sống qua ngày,
Của tiền thân thể đoái hòa làm chi?
Biết rằng : “Sanh ký tử qui”,
Cái thân hưởng tạm thác thì phủi trơn,
Bình sanh luống tính thiệt hơn,
Mãn danh rồi lợi, quên cơn đọa đày,
Tội căn có trả bởi vay,
Lòng thương tự nghĩ, để xoay vần hoài.
Từ đời vô thỉ đến nay,
Tâm hồn mê lạc, đắm say lờ đờ,
Như con chích mẹ bơ vơ,
Lạc căn mất bổn thẩn thơ cõi trần,
Cũng vì mê chấp căn thân,
Quên nơi bổn tánh lần lần tới nay,
Không hay đây cảnh đọa đày,
Chim lồng cá chậu có ai biết là,
Tưởng cho thong thả Ta bà,
Nay hay bị khép dưới đà hỏa khanh,
Luống theo ả lợi chàng danh,
Làm cho chìm nổi lẫn quanh sáu đường.
Than ôi ! nhiều kiếp khôn lường,
Thay hình đổi xác trong trường tử sanh.
Khiến nên vùi lấp căn lành,
Hết chìm rồi nổi đã đành lội bơi,
Trông nhìn biển khổ vơi vơi,
Ngán ôi cái bước của đời trần hiêu.
Chừng nào tội nghiệp được tiêu,
Thấy trong cảnh vật lắm điều bi ai,
Có chi gái sắc trai tài,
Ðến ngày rồi cũng ra ngoài gò hoang,
Anh hùng tài trí khôn ngoan,
Vô thường đến dắt khó gàn khó ngăn,
Trâm cài lượt giắt lăng xăng,
Hết ba hơi thở cũng phăng xuống mồ.
Áo quần thân thể điểm tô,
Khuất ba tấc đất thấy mồ cỏ xanh,
Lời khôn tiếng khéo dẫu lanh,
Dứt rồi hơi nóng chẳng thành là ai.
Huyễn thân giả dối không sai,
Tang điền thương hải, mấy ai xét cùng,
Từ đây nghe trống đại hùng,
Trời Nam inh ỏi tiếng thùng dội vang.
Chúng ta tỉnh giấc mơ màng,
Thấy đường Tịnh độ rõ ràng bổn nguyên,
Cùng nhau muốn trổ bông duyên,
Mau gieo trái phước cho liền hôm nay,
Vun bồi căn tánh tháng ngày,
Dưỡng lòng thanh tịnh, dẹp loài vọng ma.
Dốc lòng niệm Phật Di Ðà,
Pháp môn Tịnh độ Thích Ca chỉ rành,
Các loài muốn được vãng sanh,
A Di Ðà Phật niệm rành đừng xao,
Người đời vô hạn thấp cao,
Bực nào niệm Phật trước sau cũng thành.
Miễn là cải dữ theo lành,
Lấp ngơ miệng thế, thả quanh tiếng phàm.
Hỉ, nộ, ái, ố đừng cam,
Chánh, tà phải xét, thánh, phàm phân minh,
Dư công lễ Phật tụng kinh,
Lập bàn thờ Phật, kỉnh tin mỗi nhà,
Bằng không cứ niệm Di Ðà,
Nằm, ngồi, đi, đứng, miễn là đừng phai.
Bao nhiêu tội nghiệp từ ngày,
Hội này cứ niệm Phật hoài phải tiêu;
Lập công bồi đức ít nhiều,
Tùy theo phương tiện phải chìu sức nhau,
Lòng thành ý tịnh một màu,
A DI ÐÀ PHẬT làu làu trong tâm,
Pháp môn Tịnh độ thậm thâm,
Tín tâm phải liệu, đừng lầm không nên.
Liên đài cửu phẩm muốn lên,
Bao nhiêu Phật dạy lòng bền thì xong.
Ðừng nghe nhiều phái nhiều tông,
Rày đây mai đó, khó mong đến bờ.
Nếu là còn bước sơ cơ,
Cứ nương thiện hữu, trước lờ sau minh,
Một đường chánh niệm thinh thinh,
Con ma nghiệp chướng khó rình bên ta.
Dày công niệm Phật Di Ðà,
Ðến ngày rồi sẽ liên hoa hóa hình,
Vậy thì lớn nhỏ bạn mình,
Ðem thân cầu đạo, mặc tình thị phi.
Cùng nhau thủ phận tam qui,
Thế gian mặc kẻ chẳng bì nữa chi,
Ðể mình nương bóng A Di,
Xuống thuyền đại nguyện kịp thì bạn ta.
Tu hành giữ đạo tại gia,
Uống ăn đạm bạc, miễn qua tháng ngày,
Che thân quần áo bề ngoài,
Miễn cho lành lẽ, sơ xài cũng xong.
Ðể mà cầu đạo ở trong,
Ngoài thân ngoài cảnh đèo bồng lắm chi,
Gát ngoài hai chữ thị phi,
Nhuộm tâm đạo đức cho y một màu,
Xét trước rồi lại xem sau,
Lỡ nhau lầm lạc hồi nào thì thôi,
Biết mình cải ác đã rồi.
Hễ là tùng thiện cứ bồi đạo tâm,
Ðạo tâm muốn giữ cho nhằm,
Giàu nghèo tự lẽ, đừng tham leo chuyền,
Yên tâm thủ phận tùy duyên,
Nhơn nào quả nấy, tiền khiên tự mình,
Phải cần tham học cho minh,
Ðừng vì nghèo khó bất bình không nên.
Còn như giàu có bực trên,
Cũng đừng vì đó mà quên đạo hằng.
Một lòng như sợi chỉ giăng,
Tánh trong như nước, thâu trăng rạng ngời,
Thương nhau dìu dắt đừng rời,
Theo ra cho khỏi cửa đời thế gian,
Sau rồi đến cảnh Lạc bang,
Chị em lớn nhỏ bạn vàng đủ nhau.
Nam mô Liên Trì Hải Hội Phật Bồ Tát.

– Trích từ “Liên Hoàn Sám Nguyện” – Sa môn Thích Thiện Tâm sưu tầm – Sa đéc 1961.


SÁM TU LÀ CỘI PHÚC
(Khuyến tu IV)

Chữ rằng công đức vô lường,
Thập phương chư Phật thường thường độ sanh,
Ai ơi gắng chí tu hành,
Ðể sau đến bực vô sanh mà nhờ,
Người đời sớm biết tri cơ,
Gương lu vì bụi, trăng lờ vì mây,
Chở che nhờ đức cao dày,
Dẫu tu cho mấy chẳng tày tu tâm.
Ðường mê xin chớ bước lầm,
Não phiền cũng bởi thân tâm của mình
Chớ nên hại vật sát sanh,
Tu nhơn tích đức mới thành phẩm cao,
Cuộc đời như giấc chiêm bao,
Công danh phú quý khác nào lửa diêm,
Phật Tiên xưa cũng người phàm,
Tỉnh thời làm Phật, mê làm chúng sanh,
Nhớ xưa Vương Khải, Thạch Sùng,
Dẫu cho ngàn tứ muôn chung một thời,
Của đời trả lại cho đời,
Giàu sang mà khỏi luân hồi đặng chăng ?
Ðổi thay máy tạo không ngừng,
Bức tranh vân cẩu mấy từng xa xa,
Khuyên đừng trách lẫn trời già,
Ðáo đầu thiện ác chánh tà khác nhau,
Quả nhơn chẳng trước thời sau,
Gẫm cơn báo ứng chậm mau mấy hồi,
Người đời nghĩ đó mà coi,
Giờ không toan liệu sau rồi làm sao ?
Khuyên đừng nại chút công lao,
Nhắm chừng bờ giác tầm vào tận nơi,
Tâm minh vốn đã sẵn rồi,
Ở trong mình có, há ngoài đâu xa.
Trừ nghiệp chướng giải oan gia,
Trì trai niệm Phật ấy là công phu,
Tháng ngày thấm thoát phù du,
Bóng qua cửa sổ dễ hầu trở lui.
Thiện căn trước đã tài bồi,
Ðèn khêu mới sáng, ngọc dồi mới xinh,
Tránh vòng lục dục thất tình,
Ấy là khỏi lưới vô minh vướng nhầm.
Rõ ràng phước tội tại tâm,
Mình là mình chịu không lầm mảy may,
Máu tham tràn khắp xưa nay,
Lợi danh biết mấy cho đầy lòng ai,
Chớ ham chen lấn đua bơi,
Cũng đừng ỷ sức cậy tài là xong,
Dương trần biết mến trăng trong,
Người sa vào chốn bụi hồng làm chi ?
Hãy theo chánh lý mà suy,
Xét cho thấu đáo vô vi đạo thường.
Tu hành sớm tối lo lường,
Ðừng ham những cảnh vô thường thế gian,
Cho hay hoa nở cũng tàn,
Pháo mà kêu lớn càng tan xác nhiều.
Chi bằng tìm chốn tiêu diêu,
Nương theo cõi Phật khỏi điều thị phi,
Gìn lòng hai chữ từ bi,
Sớm trừ vọng niệm hiểu kỳ tử sanh,
A Di Ðà Phật chứng minh,
Chí tâm quy mạng phù sanh chẳng cầu.
Căn lành phước huệ trồng sâu,
Rõ thông mùi đạo nhiệm mầu lắm thay.
Hoa sen thượng phẩm cao dầy,
Tây phương Tịnh độ định ngày vãng sanh,
Ai ơi gắng chí tu hành,
Cho mau kết quả quốc thành thẳng qua,
Chúng con phát nguyện thiết tha,
Cầu về Cực lạc Di Ðà phóng quang.

– Trích đối chiếu bổ sung, sửa chữa từ ba bản :
– 39 bài sám nghĩa.
– Tam Bảo Tôn Kinh.
– Kinh Nhựt Tụng chùa Ðại Giác (sđd).
– Có thay đổi hẳn một câu so với bản in trước của Tuyển tập, căn cứ theo bản của Tam Bảo Tôn Kinh : “Gìn lòng hai chữ Từ Bi”.
Khác với trước là : “Dồn lòng niệm Phật A Di”. Bởi vì câu sau tiếp theo đã có ý như trên : “A Di Ðà Phật chứng minh”. Ðây là sửa lại theo một bản đã có, không phải soạn lại (người soạn.).


PHẬT TỬ TẠI GIA
(Khuyến tu V)

Quý thay Phật tử tại gia,
Nam xưng Bà tắc, nữ là Bà di,
Dốc lòng tin quy y Tam Bảo,
Chí thành theo chính đạo Từ bi,
Tham lam, hờn giận, ngu si,
Ba thứ độc ấy tránh đi chớ gần.
Giữ trọn vẹn hiếu nhân sau trước,
Ðể báo đền công đức tứ ân,
Ơn cha mẹ muôn phần trọng đại,
Ơn nước nhà rộng rãi bao la,
Ơn quần chúng giúp đỡ ta,
Ơn thầy ơn bạn đều là cao sâu.
Trong gia đình cùng nhau thực hiện,
Cha mẹ hiền con cháu hiếu trung,
Anh em thân thích vợ chồng,
Như nước với sữa vui chung thuận hòa,
Từ ý nghĩ cùng là lời nói,
Việc làm nên xét lại hai ba,
Những điều độc ác phải xa,
Chuyên tu phúc tuệ để mà độ thân.
Bao điều hay ân cần khuyên nhủ,
Cho mọi người theo đó cùng tu,
Mong sao khắp cả hoàn cầu,
Không còn người ác chẳng đâu lo phiền.
Khỏi nghe tiếng kêu rên thảm khốc,
Hết hẳn người than khóc đau thương,
Tội kia phúc nọ đôi đường,
Dở hay tốt xấu như gương soi mình.
Hơi trông thấy tâm mình tự rõ,
Ðau khổ thì nhăn nhó hiện ra,
Khi vui vẻ lúc an hòa,
Mặt như hoa nở trăng đà tròn xoe.
Nhân đã tạo quả kia tất kết,
Tự tâm mình suy xét hiểu ngay,
Dở hay, hay dở, dở hay,
Dở hay bao cũng tâm này mà ra,
Muốn khỏi tội phải xa lánh ác,
Cầu phúc cần bồi đắp thiện căn,
Muốn ăn quả phải trồng nhân,
Nhân nào quả ấy chẳng phần nào sai.
Người sinh ở đời này hưởng thụ,
Phúc tội mình gây đủ từ xưa,
Mỗi người mỗi cảnh khác xa,
Nhìn xem nét mặt đúng là không sai.
Suy gẫm khắp đông tây kim cổ,
Không người nào giống cả như nhau,
Chính vì ngay lúc ban đầu,
Không ai nghĩ đúng như nhau một chiều.
Gây thiện ác mọi điều không giống,
Hưởng thụ nay thành cũng khác nhau,
Người không suy trước nghĩ sau,
Qua trăm năm dễ tìm đâu ra mình,
Bao của cải cũng đành vất bỏ,
Bao người thân còn có ai nhìn,
Riêng mình theo với nghiệp duyên,
Vào sinh ra tử trong miền trầm luân.
Nay may đã được gần Phật pháp,
Quy y rồi cận phát tâm tu,
Tháng ngày cố gắng công phu,
Mở mang phúc tuệ sao cho vẹn toàn,
Suốt đời đời cần chuyên ra sức,
Dốc lòng thành tích đức tu nhân,
Làm ăn chân chính kiệm cần.

– Trích trong “Gia đình Giáo dục” Sa môn Trí Hải soạn – Chùa Quán Sứ Hà Nội ấn hành 1956.
– Bài do Tổ Trí Hải trước tác. Ðược dùng làm Già kể hạnh ở các khi đi hội lễ hằng năm.


SÁM NIỆM PHẬT
QUYẾT ÐỊNH VÃNG SINH
(Sám khuyến tu 6)

Sân lan trời ngả bóng chiều,
Cảm thân phù thế ít nhiều ngẫn ngơ,
Tranh đời dệt mộng vẫn vơ,
Say đua danh lợi mê mờ sắc thanh.
Cánh bèo vỗ sóng bập bềnh,
Tại ai hay cũng gây nên bởi mình?
Bể trần là mấy phù sinh,
Thị phi ghen ghét trong tình quẩn quanh,
Mà trông chiếc lá lìa cành,
Doanh hư cõi tạm trong vành đó thôi !
Mà trong ngọn nước chảy trôi,
Mênh mang sáu nẽo biết rồi về đâu ?
Kiếp người nào có bao lÂu,
Nắng mưa thôi cũng dãi dầu cỏ hoa !
Lầu sương nhạt ánh trăng tà,
Hoàng lương một giấc tỉnh ra ngỡ ngàng!
Chi bằng về cõi Liên bang,
Sen khoe sắc ngọc, gió đàn pháp âm,
Trời giải thoát, cảnh thậm thâm,
An vui muôn kiếp tuyệt lầm lỗi xưa.
Chỉ câu niệm Phật đừng thưa,
Chỉ bền tín nguyện Tam thừa bước lên,
Ðài vàng đã sẵn ghi tên,
Cơ duyên sẵn đợi một lần đạo tâm.

– Bài do TT. Thích Thanh Khoát, chùa Phuù Cốc-Thường Tín soạn, chùa Hải Ninh- Ðồng Thiện tàng bản, Hài Phòng, 1996.


KỆ KHUYÊN ÐỪNG SÁT SANH
(Văn khuyến tu 7)

Muôn loài nào khác chi ta
Cũng tìm sự sống lánh xa tai nàn
Có cha mẹ, có họ hàng
Kết bè sinh hoạt, hiệp đoàn tương siêng năng
Ta đừng giết nó mà ăn
Cũng đừng bắt nó trối trăng giam cầm
Bẫy câu, chước độc, mưu ngầm
Làm cho chúng nó âm thầm đớn đau
Lạc bầy dớn dác xôn xao
Lại e cái nạn thớt, dao hầu gần
Mình có thân, nó cũng có thân
Nuôi mình, giết nó trái cân công bằng
Lâm mình cảnh ấy khổ chăng?
Giả như có kẻ bắt phăng chúng mình
Mẹ cha cô bác thảm tình
Xót xa đã lắm, bất bình biết bao
Ruột rà ai cắt chẳng đau
Thương tình ai dứt, chẳng đau gan vàng
Nếu ta suy nghĩ kỹ càng
Tình này, cảnh ấy rõ ràng tương thân
Làm người ta có lòng nhân
Hãy khơi tánh Phật, lần lần sáng ra
Người cùng muôn vật một nhà
Ta là anh chị, chúng là đàn em
Khôn hơn ta phải xét xem
Trông nom giúp đỡ đàn em dại khờ
Khi lâm nạn chúng bơ vơ
Mau tay tiếp cứu chớ ngơ mắt nhìn
Thấy ai giết thác sanh linh
Lấy lời khuyên giải, dụng tình cản ngăn
Thú kia nó cũng là thân
Cũng xương cũng thịt cũng phần như ta
Ðánh đau chúng nó kêu la
Tiếng rên đứt ruột, tiếng la xé lòng
Tánh linh người vật cũng đồng
Xuống tay bao nỡ, cầm lòng sao đang
Thân ta thì muốn cho an
Mà thân kẻ khác lại toan xéo giày
Lòng ta muốn tránh nạn tai
Sao cùng kẻ yếu ra oai dữ dằn
Nếu ta biết lẽ công bằng
Biết câu phước tội, biết căn luân hồi
Chớ nên giết nó đành rồi
Cũng đừng hành hạ, tỏ lời dễ khinh
Chớ cho chúng khổ vì mình
Mở lòng thương xót tấm hình hài kia
Ðừng làm chúng nó chia lìa
Con nầy xa mẹ, con kia cách chồng
Ðừng bày cắt cổ, nhổ lông
Việc làm cũng phải dự phòng về sau
Dây oan ai lại buộc vào
Kiếp nầy gây nợ, kiếp nào trả xong
Muốn cho mình được thong dong
Ðừng làm kẻ khác khổ lòng làm chi
Chớ vì một chút sân si
Mà bao oan trái kéo trì cuốn lôi
Muốn ra khỏi biển luân hồi
Quả kia phải hái cho rồi đừng gieo
Dừng chân là bóng chẳng theo
Nhơn tay thì nghiệp chẳng đeo bên mình
Ai ơi! Nên khá giữ gìn.

– Trích Kinh Nhật tụng – Tịnh xá Trung Tâm – Sàigòn 1974.


SÁM VĂN SỰ TÍCH HI THỊ, CHÍ CÔNG
(Văn khuyên tu 8)

Tích xưa nhân quả một đường
Có Bà Hi thị, xà vương biến hình
Bởi gieo nhân dữ sát sanh
Khiến cho Tam bảo điêu linh một thời,
Mới hay oan báo chẳng rời
Nếu không cắt đứt đời đời tiếng chê
Xem gương Hi thị gớm ghê
Phá Tăng hủy Phật nặng nề oan khiên
Sát sanh mất hết phước duyên
Làm bánh nhưn thịt cúng liền Chí Công
Nào hay ngài đã tỏ thông
Tráo bánh nhưn đậu ăn không tội gì
Tánh tình Hi thị ngu si
Xé kinh, đập tượng mắng thì chúng Tăng
Bởi vì nghiệp báo tiền căn
Hại người, người hại lẽ hằng xưa nay
Tu hành giữ giới trì trai
Bốn giờ Lương gáy dậy mà tụng kinh
Cớ nào đem dạ bất bình
Hòa thượng đi khỏi tự mình giết Lương
Cho nên sái đạo chơn thường
Khiến ra Hi thị nhiều đường tai ương
Mãng xà thân rắn thảm thương
Ở ngoài rừng nội tuyết sương lạnh lùng
Hi thị nhớ nghĩ hãi hùng
Xảo ta sao chẳng chịu dùng tu thân
Ðể làm chi việc sát nhân
Nay ta phải bị khổ thân chốn nầy
Phổ Môn thuyền báu là đây
Tỏ thông nghĩa lý nhờ Thầy giải phân
Quan Âm xưa cũng thường nhân
Phát lòng thệ nguyện chí chơn tu hành
Hôm nay Ngài đã viên thành
Tầm thinh cứu khổ chúng sanh đời đời
Hi thị bà mới mở lời
Phát tâm thiện niệm vậy thời Nam mô
Quan Âm Bồ Tát Như Lai
Từ bi cứu khổ muôn loài chúng sanh
Con nay thệ nguyện tu hành
Giải thoát thân rắn vãng sanh thiên đường
Quan Âm cảm động lòng thương
Phóng quang hiện tướng tỏ tường kim thân
Chói lòa khắp hết hồng trần
Quan Âm bèn dụng phép thần phóng ra
Ma ni châu bửu đây mà
Ðể vô trong miệng nói ra tiếng người
Cầu Lương Võ Ðế giúp ngươi
Rước Thầy sám hối đàn trời tụng kinh
Mãng xà Hi thị chớ khinh
Trở về cung viện sự tình tỏ phân
Nhắc qua Võ Ðế lâm trào
Chúa tôi Ngài mới bước vào Ngân An
Nhìn xem thấy rắn kinh hoàng
Mãng xà cất tiếng vang kêu nài
Thiếp là Hi thị về đây
Cầu xin Thánh thượng rước Thầy sám văn
Bởi vì tại kiếp tiền căn
Phá hủy kinh tượng đánh Tăng đốt chùa
Nhân xưa đâu phải chuyện đùa
Quả nay làm rắn bốn mùa tuyết sương
Cúi xin Thánh thượng lòng thương
Trai đàn thiết lập cúng dường chư Tăng
Từ nay thiếp nguyện ăn năn
Giải thoát thân rắn siêu thăng thiên đường
Chí Công Hòa thượng đoái thương
Nhập định cầu khắp mười phương Thánh hiền
Ðêm ngày lễ sám kiền thiền
Bốn mươi chín buổi tự nhiên an hòa
Hi thị cổi lốt mãng xà
Hiện thân tiên nữ đứng mà trên mây
Cúi đầu làm lễ lạy Thầy
Giã từ Võ Ðế cõi tây đặng về
Thiện ác nhân quả bảng đề
Làm lành đặng phước chớ hề bỏ qua
Xem gương Võ Ðế vậy mà
Làm dữ mắc họa như bà chánh cung
Ai ai nghe đến cũng run
Tránh xa sát nghiệp thung dung tu hành
Kíp mau bỏ dữ làm lành
Ngày sau mới đặng vãng sanh liên tòa
Lương hoàng bửu sám tụng qua
Ngày đêm lễ lạy Phật Ðà mười phương
Chí Công Hòa thượng lòng thương
Soạn ra Bửu sám làm gương tu hiền
Bao nhiêu tội nặng dứt liền
Tạ ơn sám chủ đàn tiền chứng tri.
Nguyện trì ngũ giới tam quy
Nguyện tu thiện nghiệp nguyện ly luân hồi.

– Trích soạn theo bài “Nguyên Thông Học tập Tam Quy Ngũ Giới ” Của Thiền sư Thích Chơn Thường – Trường Quang Tự Mỹ Tho 1952.
– Chiêu Ðề trích soạn – Xắ lợi tự – TPHCM 1997.


TIÊU TỰ THẦN CHUNG
(Chuông sớm chùa Tiêu)
(Văn khuyên tu 9)

Khách chùa Tiêu ân cần Phật sự
Ðêm đêm hằng phân thứ âm dương
Giấc hòe hồn bướm mơ màng
Lầu quân, trống đã điểm sang năm dùi
Nỗi buồn vui, mặc lòng nhộn nhã
Gối chưa êm chưa hả sự lòng
Gió đưa mấy tiếng thần chung
Lóng tai nghe lọt, bên lòng vơi vơi
Dọi hòa trời, sao bay lẻ tẻ
Vén nhành dương, he hé bóng câu
Chày kình thánh thót đêm thâu
Tin nghe thì một, tin sầu thì trăm
Kẻ chẳng nằm, ngồi chăm đạo vị
Niệm cầu kinh, xử trí hằng đua
Dầu không lộc nước quyền vua
Cầu xoa lỗ kiến, cầu dùa chòm ong
Tiếng lạnh lùng, vận vòng sầu thiết
Khách tha phương sầu biết mấy mươi
Phủi buồn lập chí thảnh thơi
Ðã ôm sự nước, lại bươi sự nhà
Chạnh lòng già, riêng buồn chích gối
Một tiếng nghe bằng suối nước trong
Thuyền ai dặt dựa trên sông
Riêng than mấy tiếng não nùng nửa đêm
Kẻ lòng êm càng nhiều phổ tế
Ngộ thiền cơ làm lễ Y vương
Phong đô khi nổi hỏa thang
Dạ còn mơ tưởng mở mang từ đồ
Ánh vầng ô vén mù dương cốc
Tuệ nhãn xem trần tục cũng thanh
Ðường thiền khéo dắt bóng quanh
Cũng tay tinh trí tu hành rất sâu
Khách ngao du hứng tình vì cảnh
Bộ nguyên đề, phủ chánh tay cao
Rừng thiền sít sát án ngoài tào
Chuông gióng chùa Tiêu tiếng tiếng cao
Chày thỏ bạt vang muôn khóm sóng
Oai kình tan tác mấy cung sao
Não phiền kẻ nấu sôi như vạc
Trí tuệ người mài sắc tựa dao
Mờ mịt gẫm đường say mới tỉnh
Phù sinh trong một giấc chiêm bao.

– Bài do Mạc Thiên Tích trước tác – Ðây là bài thứ III trong mười bài được trích ra từ “Hà Tiên Quốc Âm Thập Vịnh” của Sĩ Lân Mạc Thiên Tích (1715-1780)
– Bản thảo do Giác Ðạo – Dương Kinh Thành cung cấp – tủ sách Giác Ðạo – Như Tâm TPHCM 1996.


VĂN KHUYẾN TU THIỆN NGHIỆP
(Văn khyến tu 10)
Chơn Thường Thiền Sư

Ðôi dòng bút ký thiên thu,
Dụng tâm khuyên giáo sĩ phu ít lời.
Quy y Tam bảo đời đời,
Tự tâm tỏ ngộ nay thời gắng tu.
Thọ trì trai giới công phu,
Tinh thông học tập vân du Ta bà.
Nhìn xem khắp cõi hằng sa,
Hư không thế giới lòng ta nguyện hoài.

Nguyện lên chín phẩm Liên đài,
Niết bàn tịch tịnh thiệt rày cao thâm.
Pháp môn Tịnh độ tịnh tâm,
Quy y theo Phật nhiều năm mới thành.
Giữ lòng chẳng dám vọng sanh,
Quy y theo Pháp xem rành luật, kinh.
Giữ lòng chớ có dễ khinh,
Quy y Tăng, học tự mình sửa tâm.
Giữ lòng chừa sát đạo dâm,
Ðêm ngày xem xét chơn tâm làu làu.
Chiếu soi thiện ác lẽ nào,
Kiếp xưa Võ Ðế ngài vào rừng xanh.
Nón đội Phật đá phước lành,
Sao còn giết khỉ, để dành miếng ăn.
Khiến nên chết đói Ðài thành,
Tiền nhân hậu quả đành rành nào sai.
Lập chùa, bố thí, trì trai,
Tạo lành hưởng phước khuyên ai gắng làm.
Nghiệp dữ mắc họa chớ ham,
Sát sanh hại vật lại cam làm gì.
Khuyến người xem xét nghĩ suy,
Võ Ðế, Hy Thị còn gì than ôi!
Hầu Kiển, Võ Ðế trả rồi,
Thấy gương nhân quả nghĩ thôi lạnh lùng.
Ai ai nghe thấy cũng run,
Tránh xa sát nghiệp ung dung tu hành.
Kíp nhau bỏ dữ làm lành,
Ngày sau mới đặng vãng sanh Thiên đường.
Nói qua “nghiệp đạo” thêm thương,
Tại vì đói lạnh, tuyết sương chẳng nài.
Rình mò lặn lội chông gai,
Rủi thời bị bắt ai ai cũng cười.
Nhân xưa ăn ở biếng lười,
Quả nay đói lạnh, của người tóm thâu.
Làm cho kẻ khóc người rầu,
Trộm cướp bắt đặng đâu đâu cũng mừng.
Ðem ra pháp luật phạt trừng,
Khuyên bỏ “nghiệp đạo” mau vâng theo lời.
Làm người thân ở trong trời,
Ăn ngay ở thẳng vậy thời người thương.
Ðừng làm theo thói bất lương,
Ngày sau mắc đọa nhiều đường khổ thân.
Nghĩ cho cuộc thế xoay vần,
Giàu sang xưa cũng kiệm cần mới nên.
Sửa lòng tập tánh cho bền,
Bán mua tiết kiệm mới nên sang giàu.
Xét xem cải đổi mau mau,
Tránh xa “nghiệp đạo” dồi trau phước điền.
Nghĩ cho “dâm nghiệp” không hiền,
Tham tài đắm sắc bỏ liền chẳng tu.
Vương hầu cho đến sĩ phu,
Say mê vì sắc thiên thu chê cười!
Xưa nay xét lại nhiều người,
Sa di Tư Hổ, thế cười lạ thay!
Long Ðĩnh tửu sắc nằm ngay,
Kiệt, Trụ tiếng để ai ai giựt mình.
Kìa như Lữ Bố bất minh,
Tham dâm chi quá dứt tình cha con.
Cuộc đời nghĩ lại héo hon,
Tránh xa “dâm nghiệp” chồng con an hòa.
Bốn điều “vọng ngữ” kể ra,
Nói dối, nói láo rất là tội thay!
Nói thêm, nói bớt, nói sai,
Ðòn xóc, hai lưỡi ai ai cũng rầy.
Nói lời hung dữ, nói trây,
Rủa chưởi, mắng nhiếc, van vầy gớm ghê.
Vọng ngữ tội ác đời chê,
Nói cho thất đức chẳng hề có sai.
Nói lời chắc thiệt, khuyên ai,
Ngay thẳng, hòa hiệp ngày nay sum vầy.
Phát nguyện về cõi phương Tây,
Hiền lành, nhơn đức thuở này mới nên.
Ðọc tụng kinh, sám cho bền,
Hiểu thông nghĩa lý, cứu trên cửu huyền.
Chưa thông, học hỏi thầy hiền,
Dứt trừ tửu, nhục, thấy liền chơn tâm.
Như Lai vô thượng thâm thâm,
Theo thầy học tập nhiều năm mới thành.
Nếu còn tửu, nhục sự sanh,
Tham sân si ái, cạnh tranh luân hồi.
Say rượu các việc đều thôi,
Lành dữ, tội phước, than ôi kể gì!
Ngày đêm say rượu li bì,
Công ơn cha mẹ còn gì nữa đâu.
Vợ con thấy vậy thêm sầu,
Nhân xưa say rượu, lọt cầu sông mê.
Quả này, đọa ngục Nê Lê,
Thúi hôi khổ sở bộn bề gớm ghê!

Tham dâm tửu sắc đời chê,
Sân hận tội ác đọa về Tu La.
Si mê trôi dạt ái hà,
Kêu người tỉnh lại về nhà quang minh.
Lánh xa tửu nhục sắc thinh,
Quy y Tam Bảo kệ kinh tu hành.
– Trích soạn theo bài “Khuyến tu Thập Thiện” của Thiền Sư Thích Chơn Thường – Chùa Trường Quang Mỹ Tho – Ðăng trong “Học Phật Vấn Ðáp” – Châu Ðốc năm Tân Mão, 1951.

– Ðồng Bổn soạn lại, có lược bớt trọn phần sự tích “Hy Thị thọ thân mãng xà” và hiệu đính một số câu văn cho phù hợp lưu hành.


SẮC KHÔNG TỈNH THẾ
(Văn khuyến tu 11)
Ðàm Tuệ

Kiếp nhân sinh hỏi dài hay ngắn,
Thân phù du sống đặng bao lâu?
Kể chi khanh tướng công hầu,
Cũng như hạt cát giữa bầu bao la.
Hỡi nhân thế! Sao đà chưa tỉnh?
Ðem sức người toan tính mà sao,
Chi bằng giữ đạo thanh cao,
Ðèn trăng, quạt gió, màn sao, phên giường.
Bước vân du rộng đường thiên lý,
Ngó trần hoàn bé tí con con,
Xương đồng chân cứng đá mềm,
Ấy kho vô tận há còn ai tranh.
Vượt ra ngoài sắc thanh hình tướng,
Riêng lắng lòng duyên tưởng “thể chân”,
Cũng không nghĩ ngợi phân vân,
Không xanh không đỏ không gần không xa.

Không tất cả nước da nòi giống,
Không vuông tròn hẹp rộng trước sau,
Không tâm tìm kiếm mong cầu,
Không sanh già chết ốm đau như người.
Không tất cả muôn loài vạn vật,
Không trong ngoài, chân thật, đảo điên,
Ðạo huyền, huyền lại càng huyền,
Có không, không có, vô biên, vô lường.
Có tất cả mười phương nòi giống,
Có vuông tròn, hẹp rộng, trước sau,
Có tâm tìm kiếm mong cầu,
Có sanh, già, chết, ốm đau như người.

Có tất cả muôn loài vạn vật,
Có trong ngoài chân thật đảo điên,
Nói càng lầm lỗi, tạc xuyên,
“Hằng sa thế giới ở liền mảy lông.”
Còn ham cảnh lầu hồng, cõi tục,
Chốn Quảng Hàn say khúc Thường Nghê,
Dao Trì hôm sớm đi về,
Ðào tiên, rượu cúc quen lề tỉnh say!

Thời hãy gắng đêm ngày định tỉnh,
Mười điều lành lo tính cần chuyên,
Là Trời, là Phật, là Tiên,
Là “Chân Như Tính” ấy miền tiêu dao.

– Bài do cố Sư Bà Ðàm Tuệ – Chùa Hòa Bình soạn, có tên là “Bước Quan Hoài.” Người soạn xin sửa lại tựa để hợp với Sám Văn. Bài được soạn năm Quý Mão, 1964. In trong Thi tập kỷ niệm tuần chung thất, Tp, HCM, 1997.


THẬP NHỊ THI TỤNG DIỄN ÂM
(Văn khuyến tu 12)

Xưa Quốc Triều ở phường Phú Sĩ,
Mười hai giờ thành ý tụng kinh,
Chữ Nho xem cũng khó rành,
Diễn Nôm ra để cho minh những lời.
Giờ Dần ấy, khi trời vừa sáng,
Dạ thường thì lúc sớm nên chăm,
Tụng giờ mười lượt thanh âm,
Hay siêu sanh tử thoát trầm luân sâu.
Phép hiếm có nhiệm mầu khôn nói,
Lấy lòng tin làm lối vãng sanh,
Tai nghe bụng chẳng nghi tình,
Ấy người thọ ký là mình lọ ai?
Ðến giờ Mão mặt trời mới mọc,
Xương chóng khô, người tục chóng già.
Thực nên ta nghĩ bạn ta,
Biết bao trước mắt cỏ hoa trên mồ.
Phải ngoảnh lại mà tu cho chóng,
Tấc quang âm báu trọng bao la,
Lúc nhàn chẳng niệm Di Ðà,
Ðến khi thác xuống xót-xa não nùng.
Giờ Thìn đã bóng hồng cao lói,
Người thiện cư chọn hỏi nơi hiền,
Chẳng cần phúc báo Nhân Thiên,
Chết đi cũng khó khỏi miền trầm luân.
Lên Ðao Lợi dự phần luân chuyển,
Lúc tạm thời câu chuyện chửa hay,
Khuyên người niệm Phật phương Tây,
Làm người tự tại đêm ngày tiêu dao.
Giờ Tỵ mặt trời cao gần giữa,
Các nơi đều nấu bữa cơm trưa,
Cơm ăn no bụng muối dưa,
Muốn qua sanh tử bây giờ phải tu.
Trẻ nhớ mẹ, mẹ âu nhớ trẻ,
Ấy công phu đáo để tự mình,
Xả tấm thân thấy Phật sinh,
Xa mười muôn dặm gần hình gang tay.
Bóng chiều Nam đã xoay giờ Ngọ,
Phật trên không mắt ngó chẳng hay,
Ít người đi ở đường ngay,
Sô đường dậm chịu đắng cay bao chừng.
Chẳng đạm thiền, chẳng hưng khởi đạo,
Phải chủ trương niệm tấu Di Ðà,
Tuy thân ở cõi Ta bà,
Tinh thần đã ở trên tòa hoa sen.
Giờ Mùi đã hơi thiên bóng ngấn,
Cảnh một nhà sáu giắn ghê thay!
Diêm phù ai gặp cảnh này,
Ðã sinh lại chẳng chia bày đục trong.
Mau ngoảnh lại rửa lòng trần lụy,
Mệnh vô thường bất úy là đây,
Ðem treo chữ Tử ngang mày,
Mới tường tư vị phương Tây lạ lùng.
Ðến giờ Thân vừng hồng gần tối,
Than thân người như lối xe lăn,
Kiếp này nếu chẳng độ thân,
Thân này muốn độ, chờ luân kiếp nào?
Chớ qua quýt tiêu hao lần lữa,
Kìa bao loài vảy chứa sừng đeo,
Phật thương chẳng cứu được nào,
Biết bao kiếp số mắc vào trầm luân.
Tới giờ Dậu về phần trời tối,
Bóng dư quang khuất núi chẳng lâu,
Nực cười lũ dại đua nhau,
Tử sinh, sự lớn người hầu biết chưa?
Ham tiền của say sưa chè rượu,
Lừa phàm phu dong dẻo trọn ngày,
Chẳng rồi niệm đức Như Lai,
Ðến ngày đến tháng bó tay chịu đành.
Ðến giờ Tuất, sơ canh buổi tối,
Một ngọn đèn lòi lọi nhà đêm,
Rút giày, giường đã nằm êm,
Hồn đương đêm tối, lại thêm mơ màng.
Than thân mình, dễ nhường sai lối,
Niệm Phật đi mới khỏi luân hồi,
Tội kia tiêu hết một thời,
Phật soi ngàn bóng, mặt trời trên không.
Tới giờ Hợi, nhân công đã định,
Bỏ giàu sang, chẳng sính công danh,
U ơ trên gối đêm thanh,
Lòng si còn vẫn lo mình ngàn năm!
Cứ lần lữa nên tâm trễ nải,
Tắt thở thời luống mãi ăn năn,
Phụ tình Phật tổ cứu dân,
Khôn đem nước bể, ví ân đức Ngài.
Ðến giờ Tí đêm thời vừa nửa,
Bụng thanh ô, chan chứa chia đôi,
Cõi trần nếu chẳng khổ rồi,
Tử sinh ai đã khứng ngui bụng thường.
Ðã chán phải biết đường chung thủy,
Ðất hoàn kim khôn ví cảnh vui,
Nhãn tiền phước báu vì ai?
Chỉ là dục chúng quy hồi Tây phương.
Tới giờ Sửu gà đương gáy giục,
Muốn vãng sinh ai thúc tay mình,
Trong phiền não cố tu hành,
Phải luôn niệm Phật miệng dành như tâm.
Ai khen vụng chê thầm cũng mặc,
Cứ tùy duyên chẳng nhác lòng mình,
Hoa sen tuy chửa nẩy sinh,
Bản căn đã hết ngó sanh trong bùn.
Ấy là phép thiền môn trì tụng,
Cốt sao cho trong bụng kính thành,
Những lời Phật dạy phân minh,
Phải tường nghĩa lý xét mình để tu.
Ai mà cố công phu như vậy,
Báo sau này hẳn thấy chẳng sai,
Nam mô Tam Bảo Như Lai.
– Trích Tâm Pháp Kinh Thiết Yếu, trong tạp chí Từ Quang. Số 86, ra tháng 3/1959, chùa Xá Lợi, Sài Gòn, 1969


HẠ THỪA BÁT NHÃ
NGỘ ÐẠO QUỐC ÂM
(Văn khuyến tu 13)
Toàn Nhật Thiền Sư

Sinh gặp dòng Bát Nhã,
Thì noi quả Bồ đề.
Học từ bi chẳng dạ sát sinh,
Noi cổ thánh không lòng hại vật.
Xưa tam giáo tâm truyền dĩ thất,
Nay trung dung – nhứt quán hãy còn.
Trước Ðường, Nghiêu chẳng dụng đến con,
Sau hậu học nài chi câu vô hậu. (1)
Ấy là đời Cổ Tẩu, (2)
Mới sinh đặng một con,
Sau Bắc Ngụy Tào Man, (3)
Sinh ra con bất tiếu.
Mấy ai cho đặng hiếu,
Mà trả thảo mẹ cha.
Chi cho bằng niệm chữ Di Ðà,
Sau cũng đặng siêu sanh Tịnh Ðộ.
Sao chẳng nhớ chữ “tam niên nhủ bộ”,
Ðành quên câu“thập nguyệt hoài thai”.
Lập xung thiên nong nả chí trai,
Chịu tân khổ đền ơn cúc dục.
Ðã có câu “học túc”, (4)
Sao chẳng biết phá ngu.
Hễ là học đặng chữ tu,
Thì mới cứu cửu huyền thất tổ.
Ðạt chí cả đền ngày nhủ bộ,
Làm nên thì trả đặng ơn dày,
Vui Phật môn giữ dạ trì trai,
Thì cũng đặng thoát nơi khổ hải.
Thiên sanh vật, thiên chi sở ái, (5)
Trách đời sao nói “vật dưỡng nhân”,
Nếu vậy thì mãnh hổ ở Lam Sơn,
Thì trời cũng sanh nhơn mà dưỡng vật.
Nói câu sách nửa còn nửa mất,
Chẳng nhớ câu “nhân vật dữ đồng”,
Thánh nhân xưa lập đức hành công, (6)
Tùng thọ nghiệp tam thiên đồ đệ.
Phút tuyệt lương tự Vệ phản Lỗ,
Chính vương hóa mà tác Xuân Thu,
Ðạo vị minh tính mạng công phu, (7)
Giữa đường lại gặp thầy Hạng Thác.(8)
Ðời Thượng cổ nhiều người thông đạt,
Còn mang câu “hữu sở bất tri”,(9)
Xưa nhiều người xuống bút thành thi,
Còn phải học vô vi chi đạo.
Lộ bất hành bất đáo,
Sự bất trác bất tri, (10)
Nay Phật gia khai đạo “vô vi”,
Người bao nỡ tiến nan thối dị.(11)
Tham nữ sắc chẳng nhớ gương Ðắc Kỷ,
Bởi vì nàng bại Trụ hưng Châu,
Sách vẽ dễ nhằm câu,
Nhân tham tài tắc tử.
Ðời Tam quốc có chàng họ Lữ,
Cũng vì câu “dĩ ngã vi thù”, (12)
Phụ tử nãi tương tra, (13)
Bị Ðiêu Thuyền sinh kế hại.
Nhớ tích xưa nhắc lại,
Kim cổ diệc hà nhân?(14)
Sao không học kẻ đăng sơn,
Như ông Hàn Tương Tử,(15)
Ấy là người viễn lự,
Sau mới đặng yên thân.
Ðừng học thói vua Tần,(16)
Mà mang câu thất đức.
Sao cho nhất đức,(17)
Tiên trị nhất tâm,
Phép cổ thánh thị thâm thâm,
Lẽ tiên thiên chân diệu diệu.
Mới biết cơ trời là chí yếu,
Sao chẳng thấy đời Nghiêu,
Phút ban mai cày cuốc cùng nhau,
Buổi chiều lại vắng hiu nội dã.
Sao chẳng nhớ câu chân giả,
Mà học thói Tây phong?
Thi thượng báo tứ ân,
Nãi hạ trừ đồ khổ.
Sao chẳng nghe đồ dỗ,
Sao chẳng biết tỉnh mê,
Thấy thiên thời bất chánh mà ghê,
Xem nhân sự vô tâm mà ngán!
Người văn chương hay đoán,
Sao chẳng luận “khảm ly”,
Vậy mới thật “trí tri”,
Mới gọi rằng “cách vật”.

– Bài này của thiền sư Toàn Nhật, được hiệu in Hiển Nam Ðường cho khắc in vào tháng 9 năm 1919 (Khải Ðịnh thứ tư) do ông Ðặng Quang Diệu đứng ra thực hiện.
– Trích từ “Bát Nhã Ngộ Ðạo Quốc Âm Vãn.” In lại trong “Sử Phật Giáo Ðàng Trong” – Nguyễn Hiền Ðức – NXB Thành Phố Hồ Chí Minh XB, 1994.
1) Vua Nghiêu không truyền ngôi cho con mà cho người hiền tài là Thuấn. Câu “bất hiếu hữu tam”, vô hậu vi đại của Mạnh Tử.
2) Cổ Tẩu là người không hiền mà lại sanh được con hiền là vua Thuấn.
4) Học đủ.
5) Trời sanh vật là cho yêu thương của trời.
6) Là ý nói Khổng Tử có 3000 học trò, sau bỏ Lỗ qua Vệ 10 tháng, vua Vệ không dùng, định đến Trần mới đến đất Khuôn bị tưởng lầm là Dương Hổ nên vây đánh và cắt lương thực 90 ngày. Sau cùng Khổng Tử về Lỗ lúc 68 tuổi, giúp vua sửa sang chính trị và viết sách “Xuân Thu”.
7) Ðạo chưa sáng vì thiên mạng và công phu chưa đủ.
8) Hạng Thác mới 7 tuổi mà làm thầy Khổng Tử. (Lời Cam La)
9) Có chỗ không biết.
10) Ðường không đi thì không đến; việc không làm không biết.
11) Tiến khó thoái dễ.
12) Tôi, anh là thù.
13) Cha con giết nhau.
14) Xưa nay ta là người nào?
15) Là cháu của Hàn Dũ, lìa bỏ công danh theo học đạo tiên với Lữ Ðồng Tân và trở thành một trong tám vị tiên (Bát Tiên).
16) Tức Tần Thủy Hoàng.
17) Một ân đức, một tấm lòng.


TRUNG THỪA BÁT NHÃ
NGỘ ÐẠO QUỐC ÂM
(Văn khuyến tu 14)
Toàn Nhật Thiền Sư

Xưa nay sách học đã nhàm,
Trung dung, đại học, học làm nghêu ngao.
Ai mà thông đặng mới cao,
Duy tính duy nhứt cũng đều minh tâm.

Cho thông “nhứt quán” là thần,
Ăn chay niệm Phật lánh trần mà chơi!
Cho hay chay mặn cũng người,
Ðố ai có biết ai ngoài càn khôn?

Biết thì chí quí chí tôn,
Không thì như kẻ lạc hồn biết chi?
Nghĩ ra sự quí lạ kỳ,
Ai mà tỉnh ngộ tức thì mới nên.

Kinh luận đã sẵn một bên,
Giở ra thì thấy nẻo lên Niết bàn.(1)
Phật xưa lời dạy rõ ràng,(2)
Thiên ư một điểm ngàn vàng khó mua.
Sự đời chớ khá hơn thua,
Không không có có đắn đo cũng phiền.
Chi bằng vui thú Phật Tiên,
Ðãy cơm bầu nước đôi miền tiêu dao.
Thạch Sùng của biết bao nhiêu,
Cũng chưa hưởng đặng cái giàu ngàn năm.
Thuở xưa Hàn Tín mưu thâm,
Chưa nên mười mặt cơ cầm được đâu?(3)
Tước quyền hưởng được bao lâu,
Ví như áo gấm mặc hầu mấy năm.
Như trăng tỏ đặng bữa rằm,
Khi tròn khi khuyết ai cầm cho đang.
Cuộc đời ai cũng lăng xăng,
Bởi chưa tỏ đặng, vì chưng sắc tài.
Thế gian nhiều kẻ anh tài,
Văn chương đã sẵn, dùi mài thì nên.
Trí tài hai chữ ở trên,
Làm sao cho khỏi xuống đền Diêm quan?
Chi bằng xả khước cái thân,
Ví như dép rách vang danh trên đời.
Trường trai thì đặng thảnh thơi,
Thiên hoàng quải bảng khỏi nơi âm trì.(4)
Muốn cho biết nẻo ẩn vi,(5)
Phải toan tìm kiếm Minh sư mà đầu.
Tương rau cũng chẳng bao lâu,
Cửa thiền đã sẵn ta hầu bước vô.
Bước vô thì thấy cơ đồ,
Tiêu dao khoái lạc sự mô cho bằng.
Cửu huyền thất tổ siêu thăng,
Ðộ tôn bạt tộc, đồng đăng thuở này.
Máy thiên đã sẵn ở đây,
Quí nào cho lại quí này vô song.
Sự tu đã quyết một lòng,
Ðừng tham vào chốn bụi hồng làm chi!
Rõ ràng kinh điển nhất thời,
Tu hành thì biết có khi liễu kỳ.
Dám khuyên già trẻ chớ nghi,
Mình làm mình biết tức thì mới hay.
Nối trao đã đến bên tay,
Ai mà nắm đặng ví tày thần tiên.
Chọn người trí tuệ mới truyền,
Mốc mây vén sạch thanh thiên chói lòa.
Chông gai phải tránh cho xa,
Quyết tìm đại đạo mới là chí trai.
Làm lành há dễ một ai,
Muốn cho trăm họ Phật đài đều lên.

– Bài này của Thiền sư Toàn Nhật, hiệu in Hiển Nam Ðường cho khắc in vào tháng 9 năm 1919 (Khải Ðịnh thứ tư) do ông Ðặng Quang Diệu đứng ra thực hiện.
1) Nguyên bản là: … nẻo lên thiên đàng.
2) Nguyên bản là: Phật Trời lời dạy …
3) Từ ý câu thơ “Thạch Sùng bất hưởng thiên niên phú, Hàn Tín không thành thập diện mưu.”
4) Vua Trời treo bảng để khỏi rơi vào âm phủ.
5) Ẩn mình, thu nhỏ, khó thấy.


THƯỢNG THỪA BÁT NHÃ
NGỘ ÐẠO QUỐC ÂM
(Văn khuyến tu 15)
Toàn Nhật Thiền Sư

Từ mở mang trời đất đến nay,
Cũng lắm cuộc tang thương canh cải,
Nguyên ba nguyên tuần hoàn dẫn lại,
Hội mười hai cho đủ mới bằng.(1)
Cõi hồng trần còn hãy lăng xăng,
Người lành phải chịu điều cay đắng,
Chữ “Tam” đạt thì công khá gắng,(2)
Muốn lên bờ phải thoát bốn mê.
Học Phật gia, niệm chữ từ bi,
Tu tiên đạo, giữ câu cảm ứng,
Trung thứ nơi Nho làm bằng chứng,
Phật, Thánh, Tiên ba giáo một lòng.
Dọn chông gai đường cả mới thông,
Chịu tân khổ gọi là thượng trí,
Người quân tử phải gìn Tam Quý,(3)
Ðấng anh hùng đừng bỏ cửu tư.(4)
Ðạo tiên thiên lập đỉnh an lô, (5)
Hẳn cũng có trong hư mà thật,
Tánh tùng bá phải in một tiết,
Ai lay dời thì đọa khổ luân.
Dặn với ai quy giới phải tuân,(6)
Một phen khổ muôn đời thong thả,
Nợ tiền khiên bữa này phải trả,
Nợ trả rồi vật ngoại thảnh thơi.
Mặc dù trong trời đất vui chơi,
Năm hồ rộng thần tiên thú lạ,(7)
Muốn nên mình phải bền chí cả,
Công cho dày thì quả mới cao.
Dốc lòng nhớ chín chữ cù lao,(8)
Hành đại đạo dương danh hậu thế,
Ấy vậy mới tứ ân bất phế,(9)
Hễ đạo người giữ lấy nghĩa nhân.
Làm sao cho biết thủy biết sơn,
Như Hàm Cốc cùng ông Tương Tử,(10)
Trong danh lợi thì mình phải xử,
Cuộc phù hoa nhắm mắt cũng cheo leo.
Tần Thủy Hoàng tiếng hãy còn nêu,
Thâu lục quốc, phần thư, khanh sĩ,
Núi Thú Dương, Di–Tề danh để,
Thà một lòng tiết nghĩa mà thôi.
Làm chi cho Tần Ngụy cao ngôi,
Thanh sử tạc muôn đời cho tệ,
Ðâu Yên Sơn ngũ chi đan quế,(11)
Bởi vì chàng cải quá tự tân.
Người ở đời lấy đức mà tu nhân,
Ðừng học thói vua Tần,
Mà mang câu bất nghĩa,
Trắc ẩn chi tâm tuần thiên lý,(12)
Nỡ lòng nào giết vật cho đành.
Người thì úy tử,Vật cũng tham sanh,
Gẫm người vật máu xương không khác,
Thấy sống chẳng thà thấy thác,
Lời thánh xưa sách để rạch ròi,
Xin hiền lương xét lại mà coi,
Sao là phải sao là chẳng phải?
Sách có câu “quá nhi năng cải”,(13)
Tử Lộ xưa nghe lỗi thì mừng,
Vũ Vương làm thiên hạ chi quân,
Còn phải văn thiện ngôn tắc bái.(14)
Nói ra thì tai nghe cũng trái,
Bởi vì nhân sự cách thiên cơ,
Việc thị phi tai phải làm ngơ,
Học Nhan Tử dâng cơm hầu nước.
Ðạo muốn gần tỏ tường sau trước,
Cách chỉ mành nào có xa đâu?
Cõi Nam đà mở rộng cửa lầu,
Ðèn trí tuệ hào quang chói lọi.
Thuyền Bát nhã nghênh ngang bốn cõi,
Nước Ma ha rửa sạch ba lòng,
Rượu Quỳnh Hà mời khách Tây Ðông,
Ngựa không bóng rước người Nam Bắc.
Mới sau lưng xảy bày trước mặt,
Nửa miếng mồi nấu khắp non sông,(15)
Muốn cho thấy đặng “chủ nhân ông”,
Non vô ảnh âu tìm mới hãn.(16)
Trong hang thần đừng cho gián đoạn,
Ðộc Mộc kiều có ả Quỳnh Nương,
Hỏi nơi phàm mua rượu Quỳnh tương,
Ðặng một chén uống thì bất lão.
Việc tu hành phải say mùi đạo,
Nếu ơ hờ quả vị khó trông,
Tiếng đàn thì nghe lóng cho thông,
Chân như thể giai không ngũ uẩn.
Thập tam ma khuyên đừng lập lựng,
Gươm huệ mài trừ nó mới yên,
Giảng cho thông tứ cú Kim Cang,
Thì mới thấy “bản lai diện mục”.
Tuy sắc thân hãy còn ở tục,
Lòng cho riêng mới gọi là thần,
Ai còn mang thói tham sân,
E khó khỏi luân hồi lục đạo.
Họa phước vô môn nhân tự tạo,
Muốn hy hiền phải liễu phàm tâm,(17)
Ðạo Như Lai vô thượng thậm thâm,
Biển cho lặng minh châu mới hiện.
Ngọc cửu khúc gắng công giồi luyện,(18)
Tìm thư hùng hái thuốc non Nam,
Thập nhị thời huyền hộ phải tham,(19)
Thiên giao thái pháp luân thường chuyển.(20)
Rồng trên non, hùm kia xuống biển,(21)
Ðầy ba xe chứa nhẫn vàng ròng, (22)
Làm sao rằng thôi phục thiên phong,(23)
Buông sáu hiệp thu vào lại kín.(24)
Thuốc tam phẩm công phu luyện chín,(25)
Muốn đan thành văn võ phải toan,
Dốc một lòng lên núi Linh Sơn,
Ðóng sáu cửa cho bền then khóa.(26)
Cửu cửu ma thí lòng vàng đá, (27)
Ấy mới rằng biết giả biết chơn,
Thầy Huyền Trang thiệp thủy đăng sơn,(28)
Trải tám mốt Lôi Âm mới đến.
Lòng Bồ đề không dời không đổi,
Tình yêu ma còn gió dục phòng,
Bởi vì trong quy giới chưa xong,
Oan duyên nặng, năm đầy khó dứt.(29)
Ðạo muốn cao phải bồi chí đức,
Ðạo đức toàn quỷ phục thần khâm,
Trời đâu mà có phụ đạo tâm,
Nghiệm kim cổ người lành mắc nạn.
Việc tu hành phải soi cho sáng,
Nếu vô minh ắt chẳng đốc hành,(30)
Tu pháp Phật có chí thì thành,(31)
Người bao nỡ thì cần chung đãi.
Nương pháp thuyền mà qua khổ hải,
Sóng muôn trùng còn đoái làm chi,
Bền một lòng niệm chữ A Di,
Sau cũng đặng thảnh thơi muôn kiếp.
Máy quang âm lướt thôi hôn nhiếp,
Người trăm năm chẳng khác chiêm bao,
Cõi bờ này sóng bủa lao xao,
Các danh lợi gẫm như bọt nước.
Ðọc kinh sách chẳng như người đời trước,
Ông Thạch Sùng giàu có muôn xe,
Qua đời này tiếng hãy còn nghe,
Chưa thấy mặt trường sanh thọ hưởng
Hàn Tín là người mưu thần chi tướng
Cũng chưa nên mười mặt cho đáng.
Người ở đời lấy đó mà răn,
Kim như thị, cổ hà như thị,
Xử thế phải biết liêm biết sỉ,
Tu thân thì vô lự, vô tư.
Yên một lòng mao ốc thảo lư, (32)
Ðừng học thói triêu Tần mộ Sở,(33)
Ðường hoàng đạo trời đà rộng mở,
Khách Tây du sớm hãy quay đầu.
Kiếp diên khương sáu vạn dư thu,(34)
Vâng thiên mạng khắp truyền y bát,
Sông ái hà khuyên người kíp thoát,
Khỏi lưới trần Cực lạc cũng xinh..
Chốn Diêm phù nhiều nỗi nhục vinh,
Không lại có, sang hèn dời đổi,
Thú thanh tao, màu thiền quen dõi,
Ðất Bồ đề sớm tối xênh xang.
Chữ danh lợi sao bằng chữ nhàn,
Cửa Bát Nhã vào ra thong thả,
Trống đại hùng đà thu ý mã,
Chuông Linh Sơn hãy tỏa tâm viên.
Ngọc ma ni há dễ khinh truyền,
Kinh bạch tự dám đâu vọng tiết,(35)
Ðịch không lỗ, có duyên mới biết,(36)
Ðàn không dây, vô phước khó nghe.
Rượu đề hồ trữ đãy đầy ve,
Say một tiệc phất tri nhân sự,(37)
Ngâm “chỉ huyền” say cùng đức Lữ,(38)
Ðọc “tỉnh mê” say với ông La.(39)
Vô thùy tháp buồn xem tạo hóa,(40)
Ngó Nam lĩnh vui màu tùng bá,
Nhìn Bắc hà cá lội vẩn vơ,
Chốn đơn phòng bày tỏ huyền cơ,
Mặc dầu kẻ ngộ cùng không ngộ.
Có duyên, trở ba kỳ phổ độ,(41)
Muôn đời còn tử phủ nên danh,(42)
Ba ngàn công quả đặng viên thành,
Ðan thơ chiếu hiển vinh Thiên tước.(43)
Chín phẩm sen vàng soi thấy Phật,
Cửu huyền thất Tổ đặng tiêu diêu.

Thiền Sư Toàn Nhựt
1754-1832

– Bài này được hiệu in Hiển Nam Ðường cho khắc in vào tháng 9 năm 1919 (Khải Ðịnh thứ tư), do ông Ðặng Quang Diệu đứng ra thực hiện.
1) Ba thời kỳ. 12 hội là nói đến 12 chi (Hội Tý sinh ra Trời; Hội Sửu sinh ra Ðất; Hội Dần sinh ra Người…).
2) Nhân, Trí, Dũng đạt.
3) Sợ trời, sợ đại nhân, sợ thánh nhân.
4) Là 9 suy nghĩ: Nghĩ nhìn rõ, nghe nghĩ thông, sắc mặt nhu hòa, dáng vẻ cung kính, lời nói trung tín, phụng sự tôn kính, nghi ngờ phải đả thông, oan ức phải tự xem xét, luôn nghĩ đến việc nghĩa
5) Ðược khẳng định.
6) Tam Quy, Ngũ Giới.
7) Năm hồ: Phiên Dương, Thạch Thảo, Ðoan Dương, Thái Hồ và Ðộng Ðình.
8) Sanh, nuôi, bồng bế, bú mớm, chăm sóc, lo lắng, trông mong, nhớ thương, dạy dỗ.
9) Không bỏ.
10) Chỉ Lão Tử sau khi từ quan nhà Châu cỡi trâu đi qua cửa Hàm Cốc, Hàn Tương Tử tu tiên.
11) 5 cành quế của Ðâu Yên Sơn (lớn tuổi nhưng không con, đi chùa Diên Thọ lượm được 30 lượng vàng, 100 lượng bạc. Sáng hôm sau đem đến chùa trả lại cho người bị mất. Sau sanh được năm người con danh tiếng).
12) Lòng trắc ẩn là thuận theo lẽ trời.
13) Có lỗi thì sửa lỗi.
14) Vua Vũ Vương nhà Hạ khi nghe điều lành liền lạy.
15) Ý nói là trầm hương.
16) Ứng Khâu trả lời câu hỏi của Ðường Ðại Tôn về “cái thấy của quốc sư Huệ Trung”: Nam Sông Tương, Bắc Sông Ðàm, trong có vàng ròng đầy một nước. Dưới sông vô ảnh hội cùng thuyền, trên điện lưu ly không hay biết?
17) Hy vọng thành Thánh Hiền.
18) Ngọc quý ở tỉnh Hà Nam.
19) 12 giờ ngày đêm – Tam huyền của phái Thiền Lâm Tế.
20) Bánh xe pháp luân thường chuyển đâu thì nơi đó trời đất thái hòa.
21) Pháp môn hành thiền: Thanh Long – Bạch Hổ.
22) Thanh văn, Duyên giác, Bồ tát (xe dê, xe hươu, xe trâu).
23) Quẻ dịch Lôi Phục – Thiên Long.
24) Sáu hiệp: Gồm Ðông, Tây, Nam, Bắc và Trên, Dưới.
25) Tam phẩm là thượng, trung, hạ.
26) Bế sáu căn (phép tu thiền).
27) 81 thứ ma cột chặt con người do 10 Kiết Sử tạo ra.
28) Vượt sông leo núi.
29) Năm phiền não: Tham, Sân, Si, Mạn, Nghi.
30) Dạy làm, bảo làm.
31) Nguyên bản là: Ðạo Phật Tiên có chí…
32) Lều cỏ – nhà tranh.
33) Sáng ở đất Tần, chiều về nước Sở.
34) Kiếp diên khương: kiếp sống dài lâu và sung sướng.
35) Kinh bạch tự là tâm truyền của Thiền – vọng tiết là tiết lộ sai.
36) Ống địch, cùng dạng như ống tiêu thổi đứng, không có lỗ.
37) Phất tri nhân sự: không biết việc đời người nữa.
38) 19 bài thơ “chi huyền” của Lữ Ðồng Tân.
39) Ông La Hồng có bài thơ “Tỉnh mê” rất hay, đúng với sự đời.
40) Vô thùy pháp: được hiểu theo nghĩa là một hòn đá tròn, không có tầng cấp. Câu này ra đời nhân Quốc sư Tuệ Trung sắp tịch, Ðường Ðại Tôn hỏi phải xây tháp cho Ngài như thế nào? Tuệ Trung mới bảo: Tháp không tầng cấp.
41) Hội Long Hoa của Di Lặc Phật.
42) Tử Phủ là Phủ Tía (Phủ Ðỏ), là cung điện của Lão Giáo.
43) Ðan thơ là sách trời (sách đỏ), Thiên tước là tước lộc của trời ban.