Tuyết Lư Lão Nhân Tịnh Độ Tuyển Tập

Cư Sĩ Lý Bỉnh Nam
Trích dịch: Bửu Quang Tự đệ tử Như Hòa

Ngay lúc này đây, quý vị chẳng khởi tham, sân, si, không giết, trộm, dâm v.v… rất tốt, nhưng một khi bước ra khỏi cửa này, xong Phật thất là quên ngay. Ở đây niệm Phật dăm ba ngày là chuyện hay, tiếc là quá ít. Kinh Di Ðà dạy: “Chẳng thể dùng chút thiện căn, phước đức nhân duyên mà được sanh về cõi ấy”. Thiện căn tức là công phu chánh, phước đức chính là trợ duyên. Tu ít thì chẳng thể thành tựu, vì vậy cần phải tu nhiều.

KHAI THỊ LẦN THỨ NHẤT TẠI PHẬT THẤT CHÙA LINH SƠN NĂM GIÁP DẦN

Thưa các vị lão sư, các vị đồng tu

Từ khi Linh Sơn tự có Phật thất đến nay đã là hai mươi lăm năm, có thể duy trì lâu dài liên tục, chẳng gián đoạn như thế thật chẳng phải là chuyện dễ. Phật thất mỗi năm, học nhân (lời cụ Lý Bỉnh Nam tự xưng) đều đến tham gia, chẳng dám bảo là khai thị, mà chỉ là đem phương pháp niệm Phật và yếu nghĩa của nó sách tấn, khuyên lơn các vị mà thôi.

Trong hai mươi lăm năm, những điều cần nói đã nói qua cả rồi. Gần đây học nhân bận rộn lắm việc, trong thời gian tổ chức Phật thất, chỉ có thể đến hai lần. Những điều nói ra đều là những câu lấy trong kinh, hoặc từ ngữ lục của chư Tổ Sư. Học nhân vô học vô đức, ngoài những lời kinh, lời Tổ dạy thì không còn gì để nói, những điều muốn nói cũng phát xuất từ khuôn phép của tiền nhân. Những điều tôi nói trong quá khứ, chưa chắc quý vị đã nhớ hết, hoặc đã quên sạch, nên hôm nay nhắc lại thì cũng như mới nói. 

Lần này học nhân thay đổi phương thức, in dàn bài tặng quý vị tham khảo. Bởi vì xem dàn bài nghe giảng, ấn tượng càng khắc sâu, dễ hiểu rõ trọn vẹn, nghe xong có thể đem về nghiên cứu kỹ càng. Nếu như quý vị nhờ đó mà đạt được cảnh giới tốt thì cố nhiên là rất tốt. Nếu như thấy không tiến bộ gì thì xem đọc lại nhiều lần, cốt sao đúng pháp thực hành, lâu ngày chầy tháng nhất định sẽ được lợi ích.

Chúng ta tu pháp môn Tịnh Ðộ mục đích là tương lai chứng đắc Phật quả. Tu các pháp môn khác mà muốn chứng Phật quả thì phải trải qua ba đại A Tăng Kỳ kiếp; trong trăm vạn người khó có một người thành tựu. Phật Quả tuy tốt, nhưng ai có thể chứng được? Trong pháp môn Tịnh Ðộ thì chỉ cần tại thế giới Sa Bà này, trong vòng mấy mươi năm ngắn ngủi, một câu A Di Ðà Phật niệm đến Nhất Tâm Bất Loạn thì liền được vãng sanh. Sau khi vãng sanh, trong một thời gian ngắn thành địa vị bổ xứ Bồ Tát, thành Phật rất dễ. Vì vậy, pháp môn này dễ tu, đáng gọi là “độ khắp ba căn, gồm thâu lợi, độn”. Thượng căn được lợi mà bọn độn căn chúng ta cũng có thể được lợi. Ai ai cũng tu được, đều có thể thành tựu.

Hễ ai tu Tịnh Ðộ đều biết những câu “vạn nhân tu vạn nhân khứ” (vạn người tu, vạn người vãng sanh), “đới nghiệp vãng sanh”, “Nhất Tâm Bất Loạn”, nhưng mọi người đều chẳng muốn hiểu kỹ ba câu này. Tôi đã từng giảng qua, nhưng ai nấy đều hiểu lầm ý nghĩa của chúng, vẫn chưa thể hiểu sâu, hiểu đúng, hiểu tỉ mỉ, cho nên chưa thể thành công được.

Mấy năm gần đây, thấy công phu các vị thụt lùi lớn. Nhớ năm năm đầu lúc mới mở Phật thất ở Ðài Trung còn khá, chứ năm năm sau đó đã kém hẳn, năm năm kế tiếp đó càng tệ hơn nữa. Công phu đã chẳng tiến, trái lại còn lui sụt. Ðã thế niệm Phật đều chẳng phấn khởi tinh thần. Ðây là lời thực, học nhân đến đây chỉ mong quý vị đạt được lợi ích chân thật. Bởi thế, chẳng thể khen ngợi quý vị được. Tâng bốc quý vị thì chẳng những chẳng được vãng sanh mà trái lại còn làm hại mọi người. Nay đem ý nghĩa chân thật của ba câu ấy nói ra, quý vị sẽ liền biết rõ công phu của mình như thế nào.  

* “Vạn nhân tu vạn nhân khứ”          

Ðây chính là lời của Tổ Sư, hoàn toàn chẳng sai lầm, dưới đây sẽ nêu bốn điều để chân chánh giảng pháp, khiến cho quý vị chẳng còn hiểu lầm ý nghĩa câu này nữa.  

a. Tu phải nhận thức rõ Chánh Trợ Song Tu :         

Tu tức là chiếu theo pháp môn Tịnh Ðộ mà tu, phải nhận thức rõ Chánh Trợ Song Tu. Chánh tức là công phu căn bản, chỉ niệm sáu chữ hồng danh “Nam Mô A Di Ðà Phật”. Ðây là công phu chánh, ai cũng biết niệm. Chẳng học Phật cũng biết niệm, nhưng không hiểu nghĩa. Nay tôi giải thích đại lược:

    1) Một câu “Nam Mô A Di Ðà Phật” là Pháp Giới Tạng Thân, bao gồm cả thập phương tam thế chư Phật.

    2) Một câu “Nam Mô A Di Ðà Phật” bao trùm cả mười hai bộ loại kinh điển trong Tam Tạng, tức là chữ A đã bao gồm toàn bộ giáo pháp của Tam Tạng.

    3) Sáu chữ hồng danh là vua của các chú, sáu chữ “Nam Mô A Di Ðà Phật” là chữ bí mật, chẳng phiên dịch. Cả sáu chữ đều chẳng phải là tiếng Tàu. Pháp này cao tột, thù thắng hơn trì tụng bất cứ chú ngữ nào khác.

    4) Học Phật phải tu Ðịnh. “Hoa Nghiêm đại định” chính là Di Ðà đại định. Nhất Tâm Bất Loạn chính là định, đạt được Nhất Tâm là thành công. Ðấy chính là chỗ mầu nhiệm của pháp môn Tịnh Ðộ.

Hai mươi năm trước đây, ngoại trừ những lúc có Phật thất, mỗi Chủ Nhật, học nhân đều đến đây giảng kinh, phần lớn các kinh đã giảng qua, nhưng học nhân thường nói: Giảng kinh chẳng thể liễu thoát sanh tử, chỉ là để kết duyên nhằm khiến chúng sanh hiểu rõ ý kinh, cải biến tâm lý, thực tiễn tu hành. Dù cho có giảng kinh trăm năm, hằng ngày giảng kinh cũng chẳng thể liễu sanh tử. Chẳng bằng kẻ chẳng hiểu giáo lý nhưng biết niệm sáu chữ hồng danh, niệm đến Nhất Tâm Bất Loạn thì được lợi ích rất lớn.

Niệm Phật là công phu chánh, có thể hiển lộ bổn tánh Chân Như. Niệm đến Nhất Tâm thì tâm minh, tánh hiển, đấy là thành công. Nếu chỉ đàm huyền luận diệu thì tu bao nhiêu năm cũng chẳng thể giải ngộ tâm tánh. Xin quý vị nghe kỹ: Sáu chữ hồng danh “Nam Mô A Di Ðà Phật” chính là bổn tánh của quý vị, bổn tánh chính là tâm của quý vị.

Thiền Tông chê Tịnh Tông rằng: “Ngu nhân cầu Phật bất cầu tâm, trí nhân cầu tâm bất cầu Phật” (kẻ ngu cầu Phật chẳng cầu tâm, người trí cầu tâm chẳng cầu Phật). Quý vị cầu tâm hay cầu Phật? Nếu cầu Phật thì là người ngu vì chẳng biết tâm quý vị chính là Phật, Phật chính là tâm quý vị. Tâm và Phật vốn là một, vì vô minh ngăn che nên Phật là Phật, tâm là tâm, tâm và Phật bị chia thành hai, đều là do quý vị tạo ra. Nay quý vị niệm Phật chính là hiển lộ bổn tánh của mình: “Mười phương tam thế Phật, cùng chung một Pháp Thân”. Phật quá khứ có Pháp Thân, Phật vị lai cũng có Pháp Thân. Phật vị lai chính là chúng ta. Pháp thân của chúng ta với Pháp Thân của Phật Thích Ca, Phật Di Ðà là một không phải hai. Niệm Phật là khai hiển bổn tánh, là công phu chánh. Quý vị tu không thành công pháp môn này thì có thể nói đoan chắc là quý vị tu các pháp môn khác cũng không thể thành tựu được. Nếu bỏ pháp môn này mà quý vị có thể thành tựu được thì tôi chính là kẻ đại vọng ngữ, sẽ đọa địa ngục.

Tu chính là vì tâm tánh của chúng ta bị vô minh ngăn che. Vô minh chẳng dễ nhận biết. Nói cách khác, vô minh chính là những hành vi giết, trộm, dâm, tham, sân, si v.v… hằng ngày của chúng ta. Tu chính là trừ khử những vô minh ấy, chẳng tạo nghiệp giết, trộm, dâm, chẳng khởi tham, sân, si, khiến cho bổn tánh tỏ lộ quang minh, đó tức là Tu.

Nhưng ai có thể biết được đạo lý này? Ai chịu thực hành? Mọi người vừa niệm Phật vừa nhiễm vô minh thì làm sao minh tâm kiến tánh cho được? Vì thế phải dùng trợ lực để tiêu trừ giết, trộm, dâm, tham, sân, si. Trợ tu như thế nào? Tuy chẳng hiểu rõ Phật lý, nhưng cốt sao có thể phân biệt thiện ác, hiểu rõ hai câu sau đây là được: Hễ là điều gì bại hoại thì đừng làm, đó chính là “chư ác mạc tác”. Nhẫn chưa được thì cắn chặt răng đừng làm. Làm việc lành, dù lúc ban đầu chỉ miễn cưỡng làm. Ðấy chính là “chúng thiện phụng hành”. Hành thiện dứt ác, giữ tâm lành, nói lời hay, làm việc tốt, đấy chính là phương pháp hỗ trợ công phu chánh, trừ khử vô minh. Vì thế gọi là “trợ hạnh”.

Nói rộng ra, trợ hạnh là tu sáu Ba La Mật, nhưng khó hiểu, nên chẳng cần phải nói đến. Phàm là điều ác thì dù có tặng quý vị khối kim cương nặng mười vạn bảng (pounds), quý vị cũng chẳng chịu làm. Ðối với việc lành thì dù phải chịu trở ngại nào cũng cứ làm. Hai điều này chính là “tùy duyên tiêu cựu nghiệp, cánh bất tạo tân ương” (tùy duyên tiêu nghiệp cũ, chẳng tạo họa mới nữa). Lúc bình thường gặp thiện thì làm, gặp ác thì bỏ. Khi niệm Phật thì buông bỏ vạn duyên, một ác niệm vừa khởi lên thì liền dùng ngay một câu “nam mô A Di Ðà Phật” để áp chế nó. Thâu tóm ba nghiệp thân, khẩu, ý, theo đó mà hành lâu ngày sẽ được thành công. Vì thế bảo là “vạn nhân tu, vạn nhân khứ”.  

b. “Bất chiếu tu bất năng khứ” (chẳng tu đúng theo đó thì chẳng được vãng sanh) :

Tuy là “vạn nhân tu, vạn nhân khứ”, nhưng nếu chẳng tu đúng thì chẳng thể vãng sanh được. Ai cũng biết có Phật, có Ma. Ma chính là tham, sân, si, giết, trộm, dâm. Niệm một câu A Di Ðà Phật là Phật lực khởi. Khởi tham, sân, si, giết, trộm dâm là Ma lực khởi. Ma lực và Phật lực ngang nhau. Phật, ma đấu nhau gọi là “đạo cao một thước, ma cao một trượng”. Phật hay Ma đều là tâm của quý vị. Niệm Phật vẫn tạo nghiệp, khởi tham, sân, si, Phật và Ma hỗn tạp, tâm sao thanh tịnh được, sao sanh Tịnh Ðộ được? Sao có thể minh tâm kiến tánh cho được? Ðã niệm Phật lại còn niệm Ma thì chẳng phải là tu vậy. Nếu chẳng mau sửa đổi cõi lòng, chẳng trừ khử tham, sân, si, thì dù có niệm đến tám vạn bốn ngàn đại kiếp cũng chẳng được vãng sanh. Ðây là lời chân thật. Vì thế quý vị phải mau thay đổi tâm mình.  

c. Thiểu tu công bất thành tựu (công tu ít thì chẳng thành tựu)  :

Ngay lúc này đây, quý vị chẳng khởi tham, sân, si, không giết, trộm, dâm v.v… rất tốt, nhưng một khi bước ra khỏi cửa này, xong Phật thất là quên ngay. Ở đây niệm Phật dăm ba ngày là chuyện hay, tiếc là quá ít. Kinh Di Ðà dạy: “Chẳng thể dùng chút thiện căn, phước đức nhân duyên mà được sanh về cõi ấy”. Thiện căn tức là công phu chánh, phước đức chính là trợ duyên. Tu ít thì chẳng thể thành tựu, vì vậy cần phải tu nhiều.  

d. Ða tu thị thường bất đoạn (tu nhiều là thường tu chẳng gián đoạn)  :

“Tu nhiều” là tu thường, luôn luôn tu chẳng gián đoạn. “Thường” là vĩnh viễn như thế, “bất đoạn” là thời thời, khắc khắc nghĩ đến chẳng gián đoạn. Xong Phật thất rồi, tâm vẫn chẳng biến đổi, chẳng khởi những tâm giết, trộm, dâm, tham, sân, si, hại người… Dù là nông, công, thương, công chức, bác sĩ ai nấy cứ giữ nghề mình, chẳng trở ngại chi đến tâm quý vị cả. Ngoài xã hội, học nhân suốt ngày làm việc, trong hai mươi lăm năm, lo liệu đạo tràng tuy bị nhạo báng cũng chẳng tranh biện với ai. Ðây chính là hành Nhẫn Ðộ trong Lục Ðộ. Người ta mắng chửi cũng chẳng sanh lòng giận. Huống nữa, lửa vô minh nổi dậy, rừng công đức sẽ cháy tiêu. Xin nghĩ xem: Sân tâm nổi lên, người khác chẳng suy xuyển gì, trái lại mình lại bị hại. Vì thế, học nhẫn nhục chính là để đạt đại tiện nghi vậy.

Tổ sư nói: “Tu đạo chẳng ngại lo liệu công việc, cốt sao chẳng tổn người thì làm nghề gì cũng được”, đều là vì tu hành nhưng phải lo kiếm sống, nương vào Tục để tu Chân. Nếu không như thế thì công phu chẳng thành, chẳng thể vãng sanh. Thân người khó được, nay đã được thân người, nay quý vị tu hành chính là cơ hội để liễu sanh tử. Nếu không liễu sanh tử thì tu hành ích chi?

“Bất đoạn” tức là trong từng thời, khắc chẳng quên. Ta chưa đạt được “tịnh niệm liên tục” nói trong chương Ðại Thế Chí Bồ Tát Niệm Phật Viên Thông, nhưng cứ tiếp tục tu chẳng gián đoạn. Tâm chẳng đoạn thì sẽ làm được chuyện ấy. Niệm chẳng phải là miệng niệm xuông mà phải chú tâm vào đó, tức là tâm đặt nơi Tây Phương, tâm hướng về Phật. Phải có ý niệm bất đoạn như thế mới được. Hết thảy hành động đều vì sanh về Tây mà làm, không gì là không làm như thế. Cho nên ăn cơm, mặc áo là để sanh về Tây, mưu sanh nuôi thân là để sanh về Tây, đều vì tu hành, biến cải tâm lý mới nên. Như học nhân làm việc công, dạy học, lại vì những học sinh sáng dạ tuyên dương Phật pháp. Vì thế học nhân nhận tiền công, chẳng nhận tiền của thương thiên hại lý, nên chẳng trở ngại gì đến việc tu hành. 

“Thường” là bất biến, sống trăm năm cũng chẳng thay đổi. “Bất đoạn” là thời thời, khắc khắc nghĩ đến gì thì chú tâm vào đó. Tâm đặt nơi Phật thì tâm chính là Phật. Nếu tâm chẳng đặt nơi Phật thì tâm liền biến thành Ma, thành bại hoại vậy.

Hôm nay, học nhân đến đây bàn về pháp môn Tịnh Ðộ là nói chuyện gì? Nói chuyện Chánh Trợ Song Tu. Quý vị niệm Phật chính là Chánh Công Phu. Học nhân đến giảng là giúp quý vị hiểu đạo, đó là Trợ Công Phu. Vì thế, với bất cứ việc gì tâm cũng đặt tại Chánh Trợ Song Tu là được.

Từ trên đến đây toàn là nói về câu “vạn nhân tu vạn nhân khứ, bất tu bất năng khứ”. Những câu khác ngày mai sẽ bàn.

Này quý vị!

Buông xuống vạn duyên, đề khởi chánh niệm.
Một câu Di Ðà, thẳng đường mà niệm.