Tướng Trạng Tái Sinh

Trích lục Đại Tạng

 

I. TƯỚNG TRẠNG TIÊN TRIỆU:

Báo trước cho biết kẽ Lâm chung ấy sẽ bị đọa vào nơi “ÁC ÐẠO”.

 

A. Ðọa vào loài “SÚC VẬT” (SÚC SANH).
Kẻ ấy khi Lâm chung có các “Tiên triệu” (báo trước) sau đây:
  1. Thân mang bệnh nặng, tâm trí mê mờ, tán loạn, như ở trong mây mù,
  2. Sợ nghe các danh hiệu PHẬT, không chịu nghe ai khuyên bảo điều lành.
  3. Ưa thích mùi Cá, Thịt.
  4. Quyến luyến Vợ, Con, đắm đuối không bỏ.
  5. Các ngón tay và chân đều co quắp lại.
  6. Cả mình toát ra mồ hôi.
  7. Khóe miệng chảy nước.
  8. Tiếng nói khò khè, rít róng rất khó nghe.
  9. Miệng thường ngậm đồ ăn.

Người nào khi Lâm chung mà có đủ 9 triệu chứng (Tiên triệu) như trên, quyết định sẽ bị “đọa” vào trong loài “SÚC VẬT”.

B. Ðọa vào loài “Quỷ đói”:

(Người đó) trước khi Lâm chung sẽ có các triệu chứng (Tiên triệu) báo trước như sau:

  1. Thân mình nóng như lửa,
  2. Lưỡi luôn luôn liếm môi.
  3. Thường cảm thấy đói khát, ưa nói đến các việc ăn uống.
  4. Miệng hả ra không ngậm lại.
  5. Tham tiếc tiền của, dây dưa khó chết, làm khổ gia quyến.
  6. Mắt thường mở trướng lên chớ không nhắm lại.
  7. Ðôi mắt khô khan như mắt chim gỗ.
  8. Không có tiểu tiện, nhưng đại tiện thì nhiều,
  9. Ðầu gối bên mặt lạnh trước.
  10. Tay bên mặt thường nắm lại, tiêu biểu cho lòng tham lam, bỏn sẻn.
  11. Lúc tắt hơi, hai mắt vẫn mở.

Người nào khi Lâm chung mà có “11 triệu chứng” (Tiên triệu) như trên, quyết định sẽ phải bị đọa vào trong loài QUỶ đói (tức là NGẠ QUỶ) không sao thoát được.

C. Ðọa vào “ÐỊA NGỤC”:

(Người đó) trước khi Lâm chung có các “triệu chứng” (Tiên triệu) báo trước như sau:

  1. Nhìn ngó thân quyến bằng con mắt giận ghét.
  2. Hai tay đưa lên quờ quạng trong chốn hư không.
  3. Ði đại, tiểu tiện trên chỗ nằm mà không tự hay biết.
  4. Thân thường có mùi hôi hám.
  5. Nằm úp xuống hoặc che giấu mặt mày.
  6. Hai mắt đỏ ngầu.
  7. Nằm co quắp và nghiêng về bên trái.
  8. Các lóng xương đau nhức.
  9. Thiện Tri thức dù có chỉ bảo, “Họ” cũng không tùy thuận (tức là không nghe, không làm).
  10. Ðôi mắt nhắm nghiền không mở.
  11. Mắt bên trái hay động đậy.
  12. Sống mũi xiên xẹo.
  13. Gót chân, đầu gối luôn luôn run rẫy.
  14. Thấy ác tướng hiện ra, vẻ mặt sợ sệt không nói được, thảng thốt kêu la lớn lên là có ma quỷ hiện.
  15. Tâm hồn rối loạn.
  16. Cả mình lạnh giá, hai tay nắm lại, thân thể cứng đơ.

Người nào trước khi Lâm chung mà có “16 triệu chứng” (Tiên triệu) nầy, quyết định là sẽ bị đọa vào nơi địa ngục.

Trên đây là 3 trường hợp bị đọa vào nơi “tam đồ, ác đạo”.

II. TƯỚNG TRẠNG Tiên triệu:

Cho biết “Kẽ Lâm chung” đó sẽ đáo sanh trở lại cõi “NGƯỜI” thì có những “triệu chứng” (Tiên triệu) báo trước như sau:

  1. Thân không bệnh nặng,
  2. Khởi niệm lành, sanh lòng hòa diệu, tâm vui vẻ, vô tư, ưa việc phước đức.
  3. Ít sự nói phô, nghĩ đến Cha mẹ, Vợ, Con.
  4. Ðối với các việc lành hay dữ, Tâm (vẫn) phân biệt rõ ràng không lầm lẫn.
  5. Sanh lòng tịnh tín, thỉnh TAM BẢO đến đối diện, QUY Y.
  6. Con trai, con gái, cháu, chắt…đều đem lòng thương mến và gần gũi xem như việc thường.
  7. Tai muốn nghe tên họ của anh, chị, em và bạn bè.
  8. TÂM chánh trực không dua nịnh.
  9. Rõ biết bạn bè giúp đỡ mình, khi thấy bà con đến săn sóc thời sanh lòng vui mừng.
  10. Dặn dò, phó thác lại các công việc cho thân quyến rồi từ biệt mà đi.

Nếu Người nào mà có đầy đủ 10 điều “Tiên triệu” như trên thì sau khi chết 49 ngày, thân trung ấm (tức là thần thức) của người chết đó sẽ đáo sanh trở lại cõi người (tức là thân HẬU ẤM), hưởng các sự tôn quý.

III. Sanh lên cõi TRỜI:

Người nào khi sắp Lâm chung sẽ được sanh lên cõi TRỜI thì có những Tiên triệu (báo trước) sau đây:

  1. Sanh lòng thương xót.
  2. Phát khởi tâm lành.
  3. Lòng thường vui vẻ.
  4. CHÁNH NIỆM hiện ra.
  5. Ðối với tiền của, Vợ con….không còn tham luyến.
  6. Ðôi mắt có vẻ sáng sạch.
  7. Ngước mắt nhìn lên không trung mỉm cười, hoặc tai nghe tiếng thiên nhạc, mắt trông thấy tiên đồng.
  8. Thân không hôi hám.
  9. Sống mũi ngay thẳng, không xiên xẹo.
  10. Lòng không giận dữ.

Nếu có được những Tiên triệu như thế, thì “thần thức” của Người chết ấy quyết định sẽ được sanh lên cõi Trời.

IV. Vãng sanh về “CỰC LẠC Tịnh Ðộ”:

Có 2 trường hợp sanh về Tịnh Ðộ (cõi PHẬT):

Sanh về “nghi thành” ở ngoài biên phương (tức là cõi biên thành, biên địa) của CỰC LẠC Tịnh độ.

Sanh về “Chánh quốc” (thuộc vào 9 phẩm sen).

Sanh về biên phương (nghi thành Tịnh độ):

Như Người nào bình thường giữ giới, cũng có NIỆM PHẬT nhưng không được tính tấn và tin tưởng cho lắm, khi Lâm chung không có tướng lành, dữ chi cả, nhắm mắt đi xuôi tựa như người ngủ, vì kẻ ấy “nghi tình” chưa dứt (tức là tuy có NIỆM PHẬT mà lòng không tin tưởng tuyệt đối) nên không được sanh thẳng vào nơi chánh quốc mà chỉ trụ vào một nơi ở ngoài biên phương Tịnh độ mà thôi.

Chỗ đó tên gọi là NGHI THÀNH (hay là BIÊN ÐỊA).

Người sanh về cõi nầy có thọ số (tuổi thọ) là 500 năm (một ngày nơi cõi đó bằng 100 năm ở cõi người). Mãn kiếp nơi đó xong thời sẽ bị đáo sanh trở lại trong sáu nẻo luân hồi.

Sanh về Chánh quốc (Tịnh độ):

Người nào bình thường niệm Phật tinh tấn, một lòng thành tín không lui sụt, khi Lâm chung biết trước ngày giờ, CHÁNH NIỆM rõ ràng, tự mình tắm gội, thay y phục, hoặc được quang minh của Phật chiếu đến thân, hoặc thấy tướng hảo của chư Phật cùng chư thánh chúng hiện thân ra giữa không trung hay đi kinh hành trước mặt, các điềm lành hiển hiện rõ ràng, kẻ ấy trong một sát na liền được sanh thẳng về nơi Tịnh độ, gần gũi chư thượng thiện nhơn (BỒ TÁT) được dự vào một trong 9 phẩm sen nơi chốn Liên trì, hằng nghe được pháp âm của chư Phật, rốt ráo thành tựu được chánh quả (BỒ TÁT quả, PHẬT quả)