Vô Môn Quan

Từ Điển Đạo Uyển

無門關; C: wúmén-goān; J: mumonkan; nghĩa là “Ải không cửa vào”;
Tên của một tập Công án do Thiền sư Vô Môn Huệ Khai biên soạn. Cùng với Bích nham lục, đây là hai tập công án lừng danh nhất của Thiền tông.
Vô môn quan ghi lại 48 công án, mỗi công án được bổ sung thêm một lời bình và một bài kệ. Những bài kệ tụng trong đây là những kiệt tác của văn chương Phật giáo tại Trung Quốc.
Vô môn quan ra đời khoảng một thế kỉ sau Bích nham lục. Cấu trúc của tập này đơn giản hơn nhiều so với Bích nham lục, chứng tỏ rằng sư Huệ Khai chú trọng đến việc sử dụng những tắc công án trong đây làm phương tiện thực hành, tu tập. Sư xem nó là những “viên gạch gõ cửa tâm” của các thiền sinh và viết như sau trong lời tựa:
“Phật dạy tâm là tông chỉ, cửa Không là cửa pháp. Ðã không cửa, thì sao qua? Há chẳng nghe ›từ cửa mà vào thì không phải là của báu trong nhà, nhờ duyên mà thành đạt tất phải có thành hoại.‹ Nói như vậy thật chẳng khác chi khi không dậy sóng, thịt da đang lành đem ra mổ mụt. Huống chi chấp vào văn tự để tìm mong lí giải, vác gậy quơ trăng, gãi ngứa ngoài giày, có dính líu gì đến sự thật đâu!…
大道無門。千差有路
透得此關。乾坤獨步
Ðại đạo vô môn, thiên sai hữu lộ
Thấu đắc thử quan, càn khôn độc bộ.
*Ðại đạo không cửa, có nghìn nẻo vào
Qua được cửa này, càn khôn lẻ bước”.
Mỗi công án bao gồm ba phần: 1. Công án, nói về một sự kiện, lời nói, dạy của các vị Tổ; 2. Lời bình của sư Huệ Khai và 3. Kệ tụng. Mặc dù nguồn tài liệu của những tập công án danh tiếng đều như nhau nhưng trong tập Vô môn quan, người ta có thể thấy một dấu ấn đặc biệt của sư Vô Môn Huệ Khai, những nét đặc sắc, thật dụng chỉ có ở riêng đây và có lẽ vì thế, Vô môn quan được ưa chuộng và phổ biến rộng rãi đến ngày nay.