thiền tông nghệ thuật

Phật Quang Đại Từ Điển

(禪宗藝術) Nền nghệ thuật của Phật giáo Thiền tông.Phật giáo truyền sang phươngĐông, đối với các phương diện văn hóa, tư tưởng, văn nghệ… của Trung quốc và Nhật bản có ảnh hưởng rất lớn, trong đó, đặc sắc nổi bật nhất là ảnh hưởng của Thiền tông đối với nền nghệ thuật của 2 nước này. 1. Trung quốc: Tư tưởng hàm súc, ngắn gọn, sắc bén, siêu nhiên độc lập của Thiền tông, đã mở ra cho nền hội họa của Trung quốc 1 thứ họa phong Thiền với những nét chấm phá có khí vận đặc biệt. Trong khoảng thời gian 500 năm từ đời Đông Hán đến đời Lục triều, có các họa sĩ Trương tăng diêu, Cố khải chi, Lục thám vi, Tông thiếu văn… là những người mở đường cho Mặc hí, Họa thiền. Thiền họa chính thức bắt đầu vào đời Đường, có Nam tông và Bắc tông khác nhau. Bắc tông có cha con Lí tư huấn đứng đầu, nét vẽ tề chỉnh, tinh tế, màu sắc đậm đà, vừa trang nghiêm vừa diễm lệ. Còn Nam tông thì tôn Thi Phật Vương duy làm Thủy tổ, Vương duy là người đầu tiên khai sáng trường phái Bát mặc sơn thủy. Kế thừa trường phái này có các họa sĩ Trương tảo và Vương mặc. Người đời phê bình về sự khác nhau giữa 2 trường phái là: Phái Lí tư huấn thì nét vẽ mộc mạc, tinh tế; còn phái Vương duy thì nét vẽ tịch mịch, nửa hư nửa thực. Đến đời Tống thì Thiền họalại đạt đến cảnh giới hư linh rỗng rang, tâm vật hợp làm một, phong cách vẽ siêu nhiên tượng ngoại, vận dụng những khoảng trống, diễn đạt cảnh giới giác ngộ linh diệu, vắng lặng rỗng rang. Thời kì này có các họa sĩ tiêu biểu như: Kinh hạo, Quan đồng, Đổng nguyên, Cự nhiên, cha con Mễ phất… tất cả đều thừa kế họa phong của Nam tông. Ngoài ra còn có Phạm khoan, Giang tham, Quách trung thứ… cũng là những kiện tướng của Nam tông. Trong đó, cha con Mễ phất sáng tạo cách vẽ Vô căn thụ Mông hồng vân, là nổi bật nhất. Lại có Mã viễn với cách vẽ từ một góc cái cây, có ảnh hưởng sâu đậmđốivới nghệ thuật Nhật bản. Đến thời này thì Bắc tông dần dần suy vi. Sang đời Nguyên thì Thiền họa lấy nét tiêu sơ phóng khoáng làm thời thượng. Không nhữngtronglãnh vực hội họa và kĩ xảo hội họa đầy đủ hơn, mà còn kiến lập lí luận hội họa có tính cách hệ thống hơn. Đến đời Minh, Thanh thì Phật giáo suy đồi, họa đàn hứng khởi phong cách phỏng cổ, thiếu hẳn tinh thần sáng tạo, nhưng về mặt nghiên cứu lí luận thì có phần sâu xa bao quát hơn. Đại biểu cho thời kì này có Hòa thượng Thạch đào sống vào đầu đời Thanh. Thời gần đây Thiền tông không chấn hưng lên được, cho nên họa đàn cũng dần dần vắng vẻ. 2. Nhật Bản: Nói một cách đại khái, nghệ thuật Nhật bản chịu ảnh hưởng của Thiền tông sâu rộng hơn so với Trung quốc, tất cả mọi lãnh vực như hội họa, hát tuồng, nghề làm vườn, trà đạo, kiến trúc, kịch nghệ, kiếm đạo, nghề bắn tên… đều thấy ảnh hưởng của Thiền. Văn hóa Thiền tông theo các tác phẩm nghệ thuật Trung quốc được truyền đến Nhật bản vào giữa đời Liêm thương(ngang với thời Tống, Nguyên ở Trung quốc), đồng thời dung hợp với tư tưởng Vũ gia Nhật bản, được quảng đại quần chúng tiếp nhận. Nền mĩ thuật cuối thời Liêm thương đến đầu thời Thất đinh thì lấy hội họa làm chính. Mĩ thuật Thiền tông ở thời kì đầu, lấy chân dung các Tổ sư, những nhân vật tông giáo và Đính tướng họa(vẽ hình tượng các vị cao tăng Thiền tông) làm chủ yếu. Từ thời Liêm thương về sau, 1 loại Thiền cơ họa dần dần thịnh hành, tức đem cáiThiền cơ mà mình đã thể ngộ được vẽ lên bức tranh để tạo hình hóa và cụ thể hóa cái tinh thần của Thiền; đồng thời, từ trong tự nhiên quan và sinh hoạt của Thiền tông dần dần diễn dịch thành 1 loại tranh sơn thủy mới, tức sử dụng màu mực và đường nét đơn giản và dùng kĩ xảo không bạch(khoảng trống) để ngụ ý cảnh của Thiền trong bức tranh mộc mạc, đơn sơ. Lại vì chịu ảnh hưởng cách vẽ một góc của nhà hội họa Mã viễn đời Nam Tống, Trung quốc, nên đã hình thành đặc trưng của 1 loại hội họa so le không đều, không câu nê hình thức mà về sau cũngđãtrở thành dòng chính của nghệ thuật Thiền tông Nhật bản. Nhưng nếu nhìn vào lịch trình phát triển hệ thống hội họa của các danh gia như Như chuyết, Minh triệu, Chu văn, Tuyết chu… thì ta có thể hiểu rõ thời kì này đã do mô phỏng phong cách hội họa của Trung quốc mà dần dần diễn biến thành Thiền họa riêng của Nhật bản. Ngoài ra, trà đạo của Nhật bản đã được dung nhập với tinh thần Thiền mà trở thành đạo sinh hoạt tự nhiên. Trong nghệ thuật kịch nói truyền thống thì những lời đối thoại ngắn gọn, trong sáng, sân khấu và bối cảnh đơn thuần cũng đều ngầm bao hàm triết lí Thiền. Đối với văn học hát bộ nổi tiếng lại càng có ảnh hưởng sâu xa của Thiền, đại biểu là tác phẩm của Ba tiêu, một thi nhân vĩ đại sống vào thế kỉ XVII. Ngoài ra như kiếm đạo, kiến trúc, nghệ thuật bắn tên…cũng thế, hễ nghệ thuật nào được sự khơi mở của Thiền thì đều do đặc tính của chính nghệ thuật ấy mà biểu hiện sự sống động và hoạt bát.